Friday, May 2, 2014

Tám đề mục mà truyền thông Hoa Kỳ sẽ không phát hành

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Eight headlines the media won't print" của tác giả Paul Buccheit đăng trên tạp chí Coldtype số 85 tháng 5 năm 2014. Bài viết khái quát một số khía cạnh của nền kinh tế Hoa Kỳ hiện nay.

Dưới đây là tất cả những thông tin có thật, các câu chuyện thuộc thể loại “hard news” mà truyền thông có trách nhiệm đưa tin. Nhưng báo chí theo định hướng kinh doanh nhìn chung lảng tránh chúng.

1. Của cải của Hoa Kỳ tăng thêm 34 nghìn tỷ USD kể từ khủng hoảng kinh tế. 93% dân chúng không nhận được một xu nào trong đó 

Điều đó có nghĩa là trung bình 100,000 USD cho mỗi người dân Mỹ. Nhưng những người sở hữu phần lớn cổ phiếu đã lấy đi phần lớn số của cải tăng thêm. Đối với họ, thu hoạch trung bình lên tới hàng triệu USD – miễn thuế cho đến khi họ rút vốn.

2. Tám người Mỹ giàu có kiếm được nhiều tiền hơn 3,6 triệu người lao động với mức lương tối thiểu

Báo cáo mới đây cho biết không có bất cứ công nhân nào làm việc với mức lương tối thiểu có đủ tiền thuê một căn hộ một hay hai phòng ngủ với giá thị trường tự do. Có 3,6 triệu người lao động như vậy, tổng thu nhập của toàn bộ số công nhân đó năm 2013 ít hơn thu nhập từ cổ phiếu của tám người Mỹ, tất cả bọn họ lấy từ xã hội [một khoản] nhiều hơn số cổ phiếu của mình: bốn người nhà Walton, hai người nhà Koch, Bill Gates, và Warren Buffett.

3. Truyền thông phục vụ cho 5%

Không có gì ngạc nhiên khi đọc một xã luận trung thực: “Chúng tôi đánh giá cao khoảng 5-7% số độc giả, những người kiếm được nhiều tiền và tin rằng sự giàu có gia tăng của họ sẽ giúp những người khác”.

Trái lại, truyền thông kinh doanh dường như không thể phân biệt giữa 5% ở trên đỉnh với phần còn lại của xã hội. Tờ Wall Street Journal tuyên bố, “Tầng lớp trung lưu Mỹ có sức mua lớn hơn bao giờ hết”, và sau đó đi đến kết luận: “Khủng hoảng là gì?... Kinh tế đã hồi phục sau khủng hoảng, thất nghiệp giảm…”

Tờ Chicago Tribune có thể đi xa hơn một chút với các độc giả ít đặc quyền hơn, hỏi họ: “Số tiền lớn chảy vào các chiến dịch tranh cử thống có khủng khiếp không?”

4. Tin tức truyền hình làm đần độn khán giả Mỹ 

Một khảo sát năm 2009 của Truyền Thông Báo Chí Châu Âu so sánh giữa Hoa Kỳ và Đan Mạch, Phần Lan và Anh quốc về nắm bắt và tường thuật tin tức nội địa so với quốc tế, và “hard” news (chính trị, hành chính công, kinh tế, khoa học công nghệ) so với “soft” news (người nổi tiếng, sở thích, thể thao và giải trí).

Kết quả:

- Người Mỹ đặc biệt không được thông tin về quan hệ quốc tế.

- Khán giả Mỹ trả lời không tốt về các tin tức nội địa dạng hard news.

- Truyền hình Hoa Kỳ đưa ít tin quốc tế hơn truyền hình Phần Lan, Đan Mạch và Anh quốc.

- Mạng lưới tin tức của truyền hình Hoa Kỳ đưa ít tin dạng hard news hơn truyền hình Phần Lan và Đan Mạch

Đáng ngạc nhiên hơn nữa, bản báo cáo cho biết “các tạp chí Hoa Kỳ thiên về tin tức dạng hard news hơn so với các tạp chí cùng loại ở các quốc gia châu Âu”. Điều tệ là người Mỹ ít đọc tạp chí. 

5. Sự thật về những người đàn ông da trắng giàu có với hàng nghìn tỷ USD

Câu chuyện kỳ diệu về “người tự lập” là tưởng tượng. Trong đầu những năm 1970, đặc quyền dành cho những người da trắng tốt nghiệp đại học là công việc quản lý và tài chính, công nghệ là cách mới để kiếm tiền, thuế khóa giảm, và viễn cảnh về tiền thưởng và lợi nhuận nhảy múa trong đầu chúng ta. 

Trong khi chúng ta ở trường học, Bộ Quốc Phòng xây dựng mạng Internet cho Microsoft và Apple, Quỹ Khoa Học Quốc gia tài trợ cho nghiên cứu Khởi Đầu Thư Viện Số Hóa, thứ sẽ được áp dụng như mô hình của Google, và Viện Sức Khỏe Quốc gia làm thí nghiệm ban đầu cho các công ty như Merck và Pfizer. Các phòng thí nghiệm của chính phủ và trường đại học công đào tạo hàng ngàn chuyên gia hóa học, vật lý học, thiết kế chip, lập trình, kỹ sư, công nhân sản xuất dây chuyền, nhân viên phân tích thị trường, nhân viên kiểm nghiệm, nhân viên xử lý lỗi,…

Tất cả những gì chúng ta tự làm thật đáng tự hào, nói như Steve Jobs: “Chúng ta không phải xấu hổ khi ăn cắp những ý tưởng lớn”.

6. Ngân sách cho trường học và lương hưu giảm trong khi doanh nghiệp ngừng đóng thuế 

Ba nghiên cứu khác nhau đã cho thấy doanh nghiệp nộp thuế ít hơn so với yêu cầu của chính quyền tới một nửa, cho dù đó là nguồn ngân sách chủ yếu cho giáo dục mà một phần đáng kể của lương hưu. Mới đấy nhất, bản báo cáo “Sự biến mất của thuế doanh nghiệp” đã chỉ rằng phần trăm lợi nhuận được trích ra để nộp thuế đã giảm từ 7% vào năm 1980 xuống còn 3% như hiện nay.

7. Các công ty Hoa Kỳ nộp phần lớn thuế ở nước ngoài 

Citigroup có 43% doanh thu năm 2011-2013 ở Bắc Mỹ (phần lớn ở Hoa Kỳ) và thu được 32 tỷ USD lợi nhuận, nhưng được nợ thuế trong cả ba năm. Pfizer có 40% doanh thu năm 2011-2013 và gần một tổng nửa tài sản ở Hoa Kỳ, những tuyên bố thua lỗ 10 tỷ USD ở Hoa Kỳ và cùng với đó là kiếm được 50 tỷ USD lợi nhuận ở nước ngoài. 

Năm 2013 Exxon có khoảng 43% quản lý, 36% doanh số, 40% vốn đầu tư dài hạn và 70-90% các giếng dầu và khí đốt đang khai thác ở Hoa Kỳ, nhưng chỉ đóng 2% tổng thu nhập theo luật thuế thu nhập Hoa Kỳ, và phần lớn chúng là thuế “danh nghĩa”.

8. Thu nhập của phục vụ nhà hàng không hề tăng trong 30 năm

Một đánh giá của Michelle Chen cho thấy lương tối thiểu cho các nhân viên nhận tiền boa là khoảng 2 USD/h kể từ năm 1980. Bà cũng cho biết là 40% số công lao động đó là người da màu, khoảng 2/3 là phụ nữ.

Thursday, May 1, 2014

Một số hình ảnh kỷ niệm ngày lễ Lao Động trên thế giới

 1. Người biểu tình ở Bangladesh

2. Người biểu tình ở Campuchia

 3. Người biểu tình ở Đức

 4. Người biểu tình ở Indonesia

5. Người biểu tình ở Italia 

 6. Người biểu tình ở Philippine

7. Người biểu tình ở Singapore

8. Người biểu tình ở Thái Lan 

9. Người biểu tình ở Tây Ban Nha 

10. Người biểu tình ở Thổ Nhĩ Kỳ

Nguồn: Ảnh được tập hợp từ nhiều nguồn khác nhau trên mạng Internet.

Quân đội Đức đang làm gì ở Slavyansk?

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "What is the German army doing in Slavyansk?" của tác giả Peter Schwarz. Bài viết đã vạch trần sự dối trá của truyền thông phương Tây về cái gọi là quan sát viên quốc tế của OSCE. 

Tám thanh sát viên quân sự đã bị những người biểu tình thân Nga ở thành phố miền đông Ukraina Slavyansk bắt giữ từ ngày 25 tháng 4. Nhóm thanh sát viên bao gồm 3 sĩ quan quân đội Đức (Bundeswehr), một thông dịch viên Đức, và các thanh sát viên quân sự người Séc, Ba Lan, Đan Mạch, Thụy Điển. Người Thụy Điển đã được thả vì lý do sức khỏe.

Truyền thông Đức khẳng định những người bị bắt giữ là quan sát viên của Tổ Chức An Ninh và Hợp Tác Châu Âu (OSCE). Điều đó không đúng. Liên hệ duy nhất giữa OSCE và những người bị bắt giữ là sự xuất hiện của họ ở Ukraina được bào chữa bằng Văn Kiện Vienna mà 57 quốc gia thành viên OSCE ký kết năm 1992, kể từ đó văn kiện cũng đã được phục hồi sau một số gián đoạn.

Nhưng hoạt động của nhóm tại Ukraina không hề nhận được sự chấp thuận của OSCE, hay nằm dưới sự kiểm soát của OSCE. Trái lại, các thanh sát viên quân sự được chính phủ Kiev kêu gọi can thiệp vào Ukraina và chịu sự kiểm soát trực tiếp của bộ trưởng bộ quốc phòng ở mỗi nước. 

Điều này đã được phó giám đốc trung tâm ngăn chặn khủng hoảng của OSCE, Claus Neukirch xác nhận. Ông ta tuyên bố rằng nhóm tham gia vào một nhiệm vụ song phương, do quân đội lãnh đạo và theo lời mời của chính phủ Ukraina. Các thanh sát viên có thể được chấp thuận theo thỏa thuận riêng giữa các nước thành viên OSCE.

Đặc biệt là các quan sát viên quân sự bị bắt giữ không có liên quan gì đến nhiệm vụ quan sát của OSCE theo thỏa thuận của 21 nước thành viên, bao gồm cả Nga, vào ngày 21 tháng 3. Nhiệm vụ đó là cung cấp 500 quan sát viên dân sự, để theo dõi tình hình tại Ukraina trong sáu tháng tiếp theo và báo cáo trực tiếp cho OSCE. Mặc dù vậy mới chỉ có khoảng 100 người của nhóm quan sát có mặt tại Ukraina.

Hai sự dối trá đầy âm mưu ở phía sau những nhầm lẫn về nhiệm vụ của những người bị bắt giữ ở Slavyansk, thứ đã được truyền thông Đức tung ra có một cách có chủ ý. Thứ nhất, việc giam giữ các tù nhân được sử dụng để thúc đẩy sự hiếu chiến chống Nga. Bằng cách cáo buộc lực lượng thân Nga giam giữ các quan sát viên quốc tế, họ muốn cho thế giới thấy rằng Moscow đã vi phạm các hiệp ước và hiệp định quốc tế.

Thêm vào đó, viện dẫn Văn Kiện Vienna bị chính quyền Kiev và Berlin lợi dụng để chống lại cáo buộc nhóm này hoạt động do thám của những người biểu tình chống chính phủ ở Slavyansk.

Văn Kiện Vienna đề cập tới phương pháp xây dựng niềm tin. Chúng được thiết kế để các thành viên OSCE, đặc biệt là các quốc gia láng giềng, có cơ hội quan sát quân đội của quốc gia khác và giảm thiểu nguy cơ đối đầu quân sự. Văn kiện không cho phép quan sát quân đội đối phương trong xung đột quốc tế, và càng không cho phép nếu quốc gia yêu cầu nhiệm vụ có tham gia vào xung đột – như trường hợp của Ukraina. 

Trong một cuộc phỏng vấn của đài phát thanh Bavaria vào ngày 23 tháng 4, người đứng đầu nhóm bị bắt giữ, đại tá Axel Schneider, cho biết rằng nhóm của ông ta “muốn biết” tình trạng của “lực lượng quân sự quốc gia thông thường” ở Ukraina – tức là quân đội chính quy. Ông ta loại trừ mọi quan sát đối với những người nổi dậy chống chính quyền: “Chúng tôi tập trung vào lực lượng an ninh Ukraina”.

Mặc dù vậy, dựa trên thông tin đó thì cũng không thể giải thích được tại sao nhóm của ông ta lại đi tới Slavyansk, nơi đang nằm trong tay người nổi dậy và bị quân đội Ukraina bao vây. Điều đó giống như nhóm này được yêu cầu thu thập thông tin về những người nổi dậy đang bị chính phủ do phương Tây hậu thuẫn ở Kiev theo dõi. 

Ngay cả khi Schneider nói sự thật, tức là vai trò của nhóm là quan sát việc đàn áp của quân đội Ukraina, nhiều đơn vị đã từ chối bắn vào những người biểu tình thân Nga ở miền đông Ukraina. Trong trường hợp khác, điều đó phơi bày vai trò của quân đội Đức và châu Âu trong cuộc đàn áp của chính phủ Ukraina. Đại tá Schneider, người tham gia Trung Tâm Thẩm Tra của Quân Đội và là thuộc cấp của Bộ Quốc Phòng, đã trả lời trong cuộc phỏng vấn là ông ta hợp tác “rất chặt chẽ với Bộ Ngoại Giao”, do Franz-Walter Steinmeier đứng đầu, người đóng vai trò then chốt trong cuộc đảo chính ở Ukraina và hoàn toàn ủng hộ chính phủ Kiev.

Rất nhiều chi tiết trong sự kiện tại Slavyansk vẫn chưa sáng tỏ, nhưng có một điều có thể khẳng định: Quân đội Đức có nhiều hoạt động ở Ukraina hơn những gì họ công khai.

Wednesday, April 30, 2014

Các phương án quân sự nhằm đối phó với Trung Quốc của Hoa Kỳ

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Wall Street Journal outlines US military options against China" của Tom Peter. Bài viết bình luận về việc Hoa Kỳ gia tăng sức ép quân sự đối với Trung Quốc.

Một bài báo trên tờ Wall Street Journal vào chủ nhật vừa qua tiết lộ rằng Lầu Năm Góc đã lập ra các “phương án quân sự” để đối phó với Trung Quốc trong các vụ tranh chấp lãnh thổ trên biển Nam và Đông Trung Hoa. Các phương án, được mô tả là “mạnh mẽ” và “hấp dẫn”, bao gồm việc “gia tăng các hoạt động giám sát gần Trung Quốc”, triển khai các máy bay ném bom có thể mang vũ khí hạt nhân như B-2 và B-52, gửi tàu sân bay tới eo biển Đài Loan để đáp trả mọi “sự khiêu khích” của Trung Quốc.

Bài báo xuất hiện trong khi Tổng thống Obama đang đi thăm bốn nước châu Á, Nhật Bản được tổng thống Obama hứa hẹn là sẽ hỗ trợ trong bất cứ cuộc chiến nào với Trung Quốc, một thỏa thuận cho phép quân đội Hoa Kỳ tiếp cận dễ dàng hơn các căn cứ tại Philippines cũng đã được ký, và hợp tác quân sự với Hàn Quốc cũng được củng cố. Mục tiêu của chuyến đi là đảm bảo với các đồng minh của Hoa Kỳ rằng Washington tiếp tục triển khai “chuyển trục sang châu Á” – sự bao vây quân sự và sự chuẩn bị cho chiến tranh chống lại Trung Quốc.

Tại Philippine, Obama tuyên bố rằng “mục đích của chúng ta không phải là chống lại Trung Quốc”. Mặc dù vậy chính phủ của ông ta đã thúc đẩy Nhật Bản và Philippines tích cực hơn trong các tranh chấp lãnh thổ đối với Trung Quốc. Tháng 11 vừa qua, Washington lên án tuyên bố của Bắc Kinh về khu vực phòng thủ trên không bao trùm quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, vùng tranh chấp giữa Trung Quốc và Nhật Bản, sau đó các máy bay ném bom B-52 bất ngờ bay vào khu vực tranh chấp.

Các kế hoạch chiến tranh đối phó với Trung Quốc vẫn còn cần được hoàn thiện. Chiến lược của Lầu Năm Góc, được biết là Hải-Không Chiến, dự tính một cuộc tấn công quy mô lớn vào cơ sở hạ tầng quân sự của Trung Quốc, sử dụng tên lửa, chiến đấu cơ và tàu chiến, có thể dễ dàng mở rộng thành chiến tranh hạt nhân. Hoa Kỳ và Nhật Bản chuẩn bị cho chiến lược đó bằng việc xây dựng hệ thống tên lửa đánh chặn, viện cớ ngăn chặn “sự đe dọa” của Bắc Triều Tiên. Kế hoạch cũng bao gồm việc phong tỏa đường vận tải hàng hải đi qua Đông Nam Á của Trung Quốc.

Một bài báo được xuất bản vào ngày thứ hai trên tờ Financial Times (FT) với tiêu đề “Hoa Kỳ gia tăng sự hiện diện của quân đội ở Châu Á” cung cấp thông tin chi tiết hơn về sự leo thang quân sự của Hoa Kỳ tại châu Á nhằm đối phó với Trung Quốc. Sau khi trích dẫn thỏa thuận mới được ký cùng ngày giữa Hoa Kỳ và Philippine, bài báo cho biết các quan chức Lầu Năm Góc đã đề xuất “triển vọng về một số sự hiện diện tạm thời ở các quốc gia khác như Việt Nam, Indonesia và Malaysia”. Tờ FT cũng đưa tin các sân bay từ thế chiến thứ hai trên các quần đảo Thái Bình Dương như Tinian và Saipan được tân trang lại để chuẩn bị cho cuộc chiến với Trung Quốc. Thật ớn lạnh là bài báo cũng lưu ý rằng sân bay Tinian là nơi chiếc máy bay mang trái bom nguyên tử “Thằng Béo” ném xuống Hiroshima năm 1945 đã cất cánh, giờ sân bay đó lại được sử dụng trong cuộc chiến với Trung Quốc.

Tờ Wall Street Journal (WSJ) đưa tin “kế hoạch hành động” mới nhất của Lầu Năm Góc nhằm trấn an những “lo ngại” mà “các đồng minh thân cận nhất tại châu Á” của Washington bằng ý chí đối đầu với Bắc Kinh của chính quyền Obama. Tờ báo tường thuật những đồng minh này “đã trao đổi với đồng nhiệm Hoa Kỳ” rằng phản ứng đối với “cuộc xâm lược” Crimea của Nga “có vẻ như là phép thử cho thấy điều mà Washington sẽ làm nếu Trung Quốc định giành lấy quyền lực tương tự”. Tờ báo cũng cho biết về “mối lo ngại gia tăng” của các quan chức Hàn Quốc vào tháng 12 vừa qua sau quyết định vào phút chót của Obama về việc chấm dứt ném bom Syria – nhằm tránh đối đầu quân sự với Nga.

Thực tế, đế quốc Hoa Kỳ đã giành được quyền lực ở Ukraina, và gia tăng sức ép với Nga thông qua cuộc đảo chính bằng lực lượng phát xít để lật đổ chính phủ thân Nga của Victor Yanukovich. Washington cung cấp trang thiết bị quân sự và tài chính cho chính phủ tay sai mới ở Kiev, chính phủ này đã điều quân đội và lính phát xít Right Sector tới đàn áp người biểu tình chống chính phủ tại khu vực nói tiếng Nga ở miền đông Ukraina.

Tiếp tục can thiệp vào Ukraina và Syria, gia tăng hoạt động quân sự ở châu Á Thái Bình Dương, là các phần trong chiến lược overarching của tầng lớp cai trị Hoa Kỳ nhằm đối phó với suy thoái kinh tế, bằng cách củng cố sự thống trị trên toàn bộ các quốc gia Á-Âu.

Tờ WSJ, nhắc lại lời quan chức Hoa Kỳ, viết rằng “Các đồng minh châu Á muốn được biết cách thức mà Washington sẽ phản ứng lại các hành động xâm lược trong tương lai của Trung Quốc… [cần phải nhìn vào] các hoạt động của Lầu Năm Góc trong việc thuyết phục các đồng minh Đông Âu và các quốc gia Baltic kể từ khi Hoa Kỳ bị ràng buộc bởi các hiệp định bảo vệ họ”. Hoa Kỳ đã lợi dụng cuộc khủng hoảng ở Ukraina để triển khai quân đội ở Ba Lan, Estonia, Latvia và Lithuania, trong khi gửi các tàu chiến tới Biển Đen – các hành động có thể kích động một cuộc chiến với Nga.

Bài báo cho biết theo các văn kiện mới của Lầu Năm Góc, “bất cứ hành động mới nào… của Trung Quốc nhằm đòi hỏi các quyền lợi đơn phương đều sẽ gặp phải sự đối đầu bằng quân sự của Hoa Kỳ để buộc Bắc Kinh phải lùi bước”. Bài báo tuyên bố các hành động “khiêu khích” “có thể bị xử lý mà không dẫn đến nguy cơ bị phản công, các quan chức nói, trích dẫn tin tình báo ước tính về số lượng các sư đoàn quân đội Trung Quốc, để trả lời cho câu hỏi về cách thức phản ứng”. Hay nói cách khác, Hoa Kỳ khiêu khích và đe dọa chính phủ Trung Quốc bằng một cuộc tấn công quân sự, đặt cược rằng Bắc Kinh sẽ “lùi bước” và chấp nhận các yêu cầu của Hoa Kỳ.

Trong khi tờ WSJ dối trá rằng chiến lược quân sự của Lầu Năm Góc “được thiết kế để tránh chiến tranh, không đẩy Hoa Kỳ vào chiến tranh”, các hoạt động như triển khai tàu sân bay tới khu vực nhạy cảm như eo biển Đài Loan có thể dẫn đến những hậu quả không lường trước được.

Năm 1996, chính quyền của Tổng thống Bill Clinton gửi hai tàu sân bay tới eo biển Đài Loan trong một cuộc đối đầu giữa Đài Loan và Trung Quốc. Kể từ đó quân đội Trung Quốc đã phát triển hệ thống tên lửa tầm xa A2/AD, nhằm tiêu diệt bất cứ chiến hạm nào trên eo biển hay tại bất cứ nơi nào trong phạm vi bờ biển Trung Quốc. Năm ngoái, Bắc Kinh trả lời cuộc tập trận quân sự của Đài Loan trên quần đảo Penghu bằng cách tập trung hàng trăm ngàn quân cũng như hàng trăm chiến đấu cơ và 1,000 tên lửa đạn đạo chiến thuật dọc theo bờ biển.

Tờ WSJ đưa tin các lãnh đạo Trung Quốc phát biểu trong một cuộc viếng thăm phái đoàn Hoa Kỳ vào tháng hai rằng “họ không coi các cảnh báo của Hoa Kỳ là nghiêm trọng”. Một “cựu quan chức”, người đã tham gia vào phái đoàn nói với tờ báo: “Tôi không nghĩ là họ bị thuyết phục bởi sự mạnh mẽ của chúng ta… Nếu chúng ta nghĩ rằng đã sẵn sàng kéo cò súng nhưng họ không nghĩ vậy, đó là khi điều xấu xảy ra”.

Những bình luận trên muốn cảnh báo về nguy cơ chiến tranh được tạo ra từ sự leo thang quân sự của Washington và việc họ sẵn sàng “kéo cò súng” để chống lại Trung Quốc hay Nga.

Monday, April 28, 2014

Một bài báo ngu xuẩn của báo Lao Động

Đó là bài Có "tí" vậy mà từ chức, thưa ông Chung Hong-won!. Ngay khi đọc tiêu đề người ta cũng có thể dễ dàng nhận ra cái từ tí trong ngoặc kép được dùng để ám chỉ phát ngôn của ông cục trưởng cục đường sắt trong việc nâng giá gói thầu đường sắt trên cao vừa qua. Tất nhiên báo Lao Động không có khả năng mổ xẻ những khúc mắc phía sau vụ đó, nhưng họ thừa khả năng dựa vào đó để bới móc.

Tờ Lao Động viết: 

"Ông Chung Hong-won cúi đầu xin lỗi trong cuộc họp báo ngày 27.4. Một sự ra đi đầy tự trọng, một sự cúi đầu thể hiện nhân cách cao của một nhà lãnh đạo.

Vụ chìm phà đã xác định lỗi do tổ lái, trách nhiệm trực tiếp quá rõ ràng. Thế nhưng, người giữ chức vụ cao nhất của chính phủ, phải gián tiếp qua rất nhiều vị trí trung gian khác liên quan đến tai nạn, lại nói một câu rất trách nhiệm: “Tôi xin lỗi vì đã không thể ngăn chặn vụ tai nạn này và không xử lý thích hợp vụ việc sau đó".

Vâng, một sự ra đi tự trọng, một nhân cách cao cả, có lẽ báo Lao Động nên mời ông ấy về làm tổng biên tập biết đâu nhờ thế mà nhân cách và sự tự trọng của báo Lao Động cũng được tăng thêm vài "tí". 

Cần phải nói thẳng ra rằng, vụ từ chức của ông thủ tướng Hàn Quốc chỉ là một màn kịch chính trị, chức vụ thủ tướng không có thực quyền trong nội các đã được đem thí tốt để đánh lạc hướng dư luận về trách nhiệm của chính quyền Hàn Quốc trong thảm họa chìm phà Sewol.

Cần nói thêm là tờ Lao Động với khẩu hiệu "Lợi quyền của người lao động" đã ngay lập tức phản bội quyền lợi của người lao động khi kết luận trách nhiệm chìm phà thuộc về người lao động (tổ lái). Cho tới nay đã có tổng cộng 15 nhân viên phà Sewol bị bắt, họ bị cáo buộc là đã thoát thân bằng xuồng cứu hộ mà không trợ giúp hành khách, theo như bà tổng thống Hàn Quốc nói thì tương đương với tội giết người. Đó chỉ là luận điệu tuyên truyền nhằm giúp công ty sở hữu phà trốn tránh trách nhiệm và tờ Lao Động đã không ngần ngại nhai lại.

Mười hai nhân viên trên phà chỉ là lao động tạm thời, bao gồm cả thuyền trưởng, họ chỉ có hợp đồng lao động một năm. Tất cả các thủy thủ và thuyền trưởng đều không đủ điều kiện lái phà, không có bất cứ nhân viên nào được huấn luyện về các biện pháp an toàn nên không biết cách đối phó với tai nạn. Phà có 1 thuyền trưởng và hai thuyền phó, nhưng hai người thường xuyên bị sử dụng trong các chuyến đi dài, do đó chỉ có một người luôn ở trên đài chỉ huy, tai nạn đã xảy ra khi người kém kinh nghiệm điều khiển phà. Nếu ai làm nghề hàng hải thì hẳn sẽ kinh ngạc với điều kỳ diệu Hàn Quốc: Một phụ nữ 25 tuổi mới có 1 năm kinh nghiệm lái phà, được làm thuyền phó và điều khiển chiếc phà biển chở hơn 400 hành khách. Với việc sử dụng nhân công kiểu đó thì tai họa xảy ra không có gì là khó hiểu. Ai phải chịu trách nhiệm về việc sử dụng lao động đầy bất cẩn đó? Chính là công ty Chonghaejin Marine!

Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tai nạn là do phà Sewol bị hỏng hệ thống lái và công ty đã biết điều đó. Thuyền trưởng đã yêu cầu sửa chữa nhưng không được công ty đáp ứng. Phà Sewol được đăng kiểm lại sau khi được mua từ một công ty Nhật Bản vào năm 2012. Chiếc phà đã được gắn thêm tầng để có thể chở được nhiều hàng hóa và người hơn, chính điều đó đã làm nó mất ổn định trong nước. Theo nhà lập pháp đối lập Kim Yeong-rok, chiếc phà đã chở 3,608 tấn hàng hóa, gấp 3 lần tải trọng được phép. Ai đã tạo ra một chiếc phà chở gấp ba lần tải trọng hàng hóa được phép với hệ thống lái bị hỏng? Chính là công ty Chonghaejin Marine!

Ông thủ tướng chỉ chịu trách nhiệm gián tiếp ư? Câu hỏi là ai phải chịu trách nhiệm về sai phạm của công ty Chonghaejin Marine? Không ai khác chính là chính quyền Hàn Quốc và ông thủ tướng là người trực tiếp chịu trách nhiệm về những sai phạm có hệ thống của công ty Chonghaejin Marine.

Vụ chìm phà Sewol là thảm họa chìm phà lớn nhất trong lịch sử hiện đại của Hàn Quốc nhưng không phải là điều bất thường. Ba tuần trước đây, một chiếc phà khác của công ty Chonghaejin đã đụng vào phải một tàu đánh cá trên Biển Vàng. Trong những năm gần đây các phà của hãng Chonghaejin Marine đã nhiều lần gặp sự cố hỏng động cơ. Tại sao các sự cố của hãng Chonghaejin Marine bị lờ đi? Tại sao chính quyền không có biện pháp nào siết chặt lại an toàn?

Hãng Chonghaejin Marine do Yoo Byung-eun và hai con trai sở hữu, là một công ty thuộc Semo Marine, công ty con của Semo Group. Công ty Semo tuyên bố phá sản vào năm 1997 dẫn đến sự tan rã của tập đoàn. Yoo đã sử dụng quỹ Semo để lập ra công ty Chonghaejin. Sau nhiều năm, ông ta đã xây dựng được quan hệ thân cận với các quan chức chính quyền, như nhà cựu độc tài quân sự Chun Doo-hwan và cựu thị trưởng Seoul Oh Se-hoon, nhằm lách qua các quy định về vay nợ và kinh doanh. Yu hiện đang bị điều tra về thiếu trách nhiệm, tham ô, trốn thuế và hối lộ. Yoo bị cáo buộc hối lộ các quan chức Bộ Ngư Nghiệp và Hàng Hải cũng như Cục Cảnh Sát Biển Hàn Quốc để họ bỏ qua những vi phạm của công ty về tuyến đường và các tiêu chuẩn an toàn hàng hải.

Trách nhiệm của ông thủ tướng Chung Hong-won là đã không thi hành chính sách an toàn giao thông một cách tới nơi tới chốn và dung túng cho doanh nghiệp kiếm lợi bất chấp sự nguy hiểm đối với tính mạng con người. Ông ta từ chức chính là để không phải trả lời những câu hỏi đó, và tránh cho chính quyền phải trả lời những câu hỏi đó. Chưa kể đến câu hỏi về sự liên quan giữa vụ chìm phà với sự tham nhũng của quan chức chính quyền vẫn còn đang lơ lửng trên đầu họ. Nhưng chính quyền Hàn Quốc đã nhanh chóng đổ mọi trách nhiệm lên đầu những người lao động thấp cổ bé họng và phủi tay.

Thật kinh ngạc khi câu chuyện kinh tởm của một hệ thống bóc lột người lao động tồi tệ lại được một tờ báo tự xưng là bảo vệ quyền lợi của người lao động đem về để ca tụng. Tất cả những gì mà tờ Lao Động đăng chỉ là nhai lại tin tức của báo khác, không kiểm chứng, không làm rõ, không bằng chứng.

Dựa trên nhưng điều xuyên tạc đó tờ Lao Động đưa ra sự liên hệ với các vụ tai nạn ở Việt Nam. Đúng là hầu hết các vụ tai nạn ở Việt Nam đều không có ai đứng ra chịu trách nhiệm và không có ai từ chức. Nhưng tờ Lao Động hoàn toàn dối trá ở chỗ này, tuyên bố chịu trách nhiệm hay thậm chí từ chức không phải là cách duy nhất hay tốt nhất tỏ ra có trách nhiệm, thực tế cho thấy đó còn có thể là cách trốn tránh trách nhiệm, như trường hợp của ông thủ tướng Hàn Quốc Chung Hong-won. Vâng, tờ Lao Động muốn có những kẻ trốn trách trách nhiệm một cách cao cả để ca tụng và bằng cách đó tờ Lao Động chống lại người lao động. Chỉ mới có "tí" lao động thôi đấy!

Kẻ khờ, kẻ mị dân và cựu đại tá KGB

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "The fool, the demagogue and the former KGB colonel" đăng trên tạp chí Z của giáo sư kinh tế, nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế danh tiếng người Mỹ Edward S. Herman. Bài viết đã phân tích sâu sắc các lập luận so sánh trường hợp Kosovo với Crimea của tổng thống Hoa Kỳ Obama và tổng thống Nga Putin. 

Kẻ khờ là John Kerry, người tỏ ra tệ hại khi cấp tốc chạy qua lại giữa Washington và Tel Aviv để cố thu xếp một thỏa thuận “khung” giữa Israel và người Palestine nhằm cho thấy bước tiến trong những nỗ lực của người trung gian đáng mến, tấn công Nicolas Maduro của Venezuela về “chiến dịch khủng bố chống lại dân chúng”, và tất nhiên lên án Nga về “việc xâm lược” đối với chính phủ-đảo chính của Ukraina. Luận điểm của ông ta rằng “Trong thế kỷ 21 thì anh không thể hành xử theo kiểu thế kỷ 19, như việc xâm lược quốc gia khác với cái cớ hoàn toàn bịa đặt”, gợi nhớ đến chủ nghĩa Orwell cổ điển và có thể là điểm nhấn trong cuốn sách tương lai của ông ta. Điểm nhấn của ông ta đã trở thành đối tượng của nhiều câu chuyện chế giễu và trò cười trong truyền thông đối lập, nhưng truyền thông chính thống đã đưa tin một cách nghiêm chỉnh và không biến nó thành trò đùa hay dựa vào đó để làm mất mặt ông ta (cũng giống như đã không làm mất mặt Madeleine Albright về tuyên bố của bà ta trên truyền hình quốc gia rằng giết hại 500,000 trẻ em Iraq thông qua việc cấm vận trong những năm 1990 – bà ta trợ giúp cho kiến trúc sư trưởng của cuộc cấm vận – “là đáng”).

Dĩ nhiên, có thể Kerry thực sự tin rằng ông ta nói sự thật, khi tiếp thu định đề xuất phát từ “chủ nghĩa ngoại lệ” Hoa Kỳ, những từ ngữ như “xâm lấn”, “xâm lược” và “luật pháp quốc tế” không thể áp dụng cho cảnh sát thế giới như chúng ta; và “cái cớ hoàn toàn bịa đặt”, như khi được Nga đưa ra, sẽ chỉ là sơ suất hay sai lầm có thể tha thứ hay đánh giá nhầm trong trường hợp chúng ta phạm phải. Sau cùng, tờ New York Times nhanh chóng sử dụng từ “xâm lược” trong xã luận về sự kiện Crimea (“Cuộc xâm lược của Nga”, March 2, 2004), trong khi không bao giờ sử dụng từ đó để mô tả cuộc xâm lược - chiếm đóng ở Iraq, cũng như không bao giờ sử dụng các từ ngữ như “Hiến Chương Liên Hiệp Quốc” hay “luật pháp quốc tế” trong 70 bài xã luận về Iraq từ 11 tháng 12 năm 2011 đến 21 tháng 3 năm 2003 (Howard Friel and Richard Falk, The Record of the Paper)

Một chút tinh vi hơn, nhưng có tính toán, không trung thực, đạo đức giả, thường xuyên lố bịch, và mị dân hơn là ngôn từ của Tổng thống Barack Obama, phát biểu ở Bỉ, khi ông ta cố gắng chứng minh lời buộc tội đầy đạo đức giả rằng Tổng thống Nga Putin đã sai lầm khi đả kích sự lên án của phương Tây về việc bỏ phiếu độc lập của người Crimea và sau đó là Crimea sáp nhập vào Nga (“Remark by the Presiden in Address to European Youth”, Brussels, March 23, 2014). Thật thú vị khi xem cái cách kỳ quặc mà ông ta xuyên tạc lịch sử với các nhận định cá nhân. Theo Obama thì các cha lập quốc của chúng ta đã đưa ra trong “văn bản lập quốc” công thức tuyệt đẹp là “tất cả đàn ông – và – đàn bà đều được bình đẳng”. Dường như ông ta đã quên mất chế độ nô lệ cũng như 3/5 giá trị của mỗi nô lệ có thể đem thế chấp ở miền Nam và phụ nữ không có quyền bầu cử cho đến tận thế kỷ 20. Ông ta nói về lý tưởng “thông tin không bị kiểm duyệt” sẽ cho phép “các cá nhân tự đưa ra quyết định”, nhưng đây cũng là người đàn ông đã làm mọi cách để kiểm soát dòng chảy thông tin và bắt những người tiết lộ thông tin phải trả giá đắt khi phá vỡ bức tường bảo vệ sự bí mật của chính quyền.

Obama kinh ngạc với “niềm tin của một số người rằng các quốc gia lớn hơn có thể bắt nạt các quốc gia nhỏ hơn để đạt được điều họ muốn - câu châm ngôn bị phủ định đôi khi lại đúng”. Hoa Kỳ có ngân sách quân sự khổng lồ và hơn 800 căn cứ quân sự không phải để bắt nạt các quốc gia nhỏ hơn mà là bảo vệ an ninh quốc gia. Ông ta cũng nhấn mạnh rằng “những sự thật mâu thuẫn [của Nga] chỉ trong một vài tuần sau đó tự nó là bằng chứng cho… [bao gồm] các vấn đề luật pháp quốc tế”. Tuyên bố này thật trơ tráo khi các quan chức Hoa Kỳ (như Dean Acheson, Madeleine Albright) đã tuyên bố rằng họ không áp dụng luật pháp quốc tế một cách nghiêm chỉnh để sửa chữa chính sách của Hoa Kỳ; người tiền nhiệm của Obama là Gerge W. Bush đã lảng tránh bằng một câu đùa cợt: “Luật pháp quốc tế? Để tôi gọi luật sư đã; ông ta chưa cho tôi biết chuyện đó” – và chúng ta có thể quan sát hàng loạt các hoạt động thường xuyên, thậm chí gia tăng, vi phạm luật pháp quốc tế, bao gồm cả nhiều hoạt động được Obama tổ chức. Vi phạm luật pháp quốc tế là một chuyện hiển nhiên kiểu Hoa Kỳ.

Putin tất nhiên là liên hệ chuyện này tới Iraq, nhưng Obam trả lời Putin: “Hiện giờ, sự thật là cuộc chiến Iraq đã trở thành đối tượng tranh luận kịch liệt khắp thế giới, cũng như ở Hoa Kỳ. Tôi đã tham gia vào cuộc tranh luận và phản đối can thiệp quân sự. Nhưng ngay cả ở Iraq, Hoa Kỳ cũng phải hành động trong phạm vi hệ thống quốc tế. Chúng tôi không đòi hỏi hay sáp nhập lãnh thổ Iraq. Chúng tôi không khai thác tài nguyên của họ cho bản thân. Thay vào đó chúng tôi kết thúc cuộc chiến cũng như rút quân khỏi Iraq và nhà nước Iraq đầy đủ chủ quyền có thể đưa ra quyết định về tương lai của họ”.

Chúng ta có thể lưu ý tới cách lảng tránh nực cười về vấn đề “luật pháp quốc tế”, điều mà ông ta nói thực sự “vấn đề” trong hoạt động của Nga, nhưng lại lảng tránh trong trường hợp của Hoa Kỳ. Khái niệm “tranh luận kịch liệt” mà ông ta đề cập không chỉ không liên quan tới câu hỏi về vi phạm luật pháp, mà còn là dối trá, cũng như cần phải khẳng định rằng Bush và nhóm cố vấn nhỏ của ông ta đã quyết định tấn công Iraq từ rất lâu trước khi có bất cứ cuộc tranh luận công khai nào về chủ đề đó và họ dựa vào “vũ khí hủy diệt hàng loạt” để biện minh cho cuộc chiến. Đó là cuộc xâm lược dựa trên một lời dối trá và hoàn toàn là “cái cớ bịa đặt”. Về việc “hành động trong phạm vi hệ thống quốc tế”, Hiến Chương Liên Hiệp Quốc là nền tảng của hệ thống quốc tế và cuộc xâm lược là sự vi phạm trắng trợn những điều khoản chủ chốt của Hiến Chương. Ông ta lập luận rằng chúng ta không ăn cắp tài nguyên của họ và hiện tại đã rút quân. Ông ta không chỉ ra rằng chúng ta rút quân sau nhiều năm giết chóc và phá hủy, chính hành động của chúng ta đã tạo ra sự phản kháng, sự phản kháng ấy đã đủ mạnh để đẩy lùi chúng ta. Ông ta đã quên lưu ý rằng vi phạm luật pháp quốc tế chính yếu nhất của chúng ta ở Iraq là trách nhiệm về cái chết của một triệu người, về bốn triệu người tị nạn, về sự phá hoại khổng lồ đối với cơ sở vật chất. Trái lại, hành động khủng khiếp của Nga ở Crimea dường chỉ dẫn đến nửa tá xác chết.

Obam cũng không chỉ ra rằng Iraq ở rất xa Hoa Kỳ và việc Hoa Kỳ tấn công vào đó được coi là “cuộc chiến của sự lựa chọn”, hoàn toàn không có liên quan gì tới bảo vệ an ninh của Hoa Kỳ. Crimea, trái lại, rất gần gũi với Nga, dân chúng có ngôn ngữ và văn hóa gần với Nga, vùng đất của họ là căn cứ hải quân chủ chốt của Nga, và cuộc đảo chính ở Kiev, được tổ chức với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và các quyền lực NATO khác, tạo ra sự đe dọa đối với an ninh của Nga. Lãnh đạo của họ buộc phải hành động bởi cuộc đảo chính và mối nguy hiểm đối với căn cứ hải quân, hành động của họ có thể coi là phòng vệ và là “cuộc chiến của sự cấp thiết”.

Cuộc trưng cầu dân ý của Crimea, đã thu được đa số phiếu tuyệt đối cho phép Crimea tách khỏi Ukraina và sáp nhập vào Nga, là một thủ tục dân chủ và phù hợp với nguyên tắc tự quyết. Obama và những người cùng phe lại coi điều đó là xâm phạm chủ quyền của Ukraina và vi phạm luật pháp quốc tế. Chúng ta thấy ở đây có hai nguyên tắc không phù hợp với nhau, Hoa Kỳ và liên minh chọn nguyên tắc phục vụ cho lợi ích của họ, và Nga lại chọn nguyên tắc khác. Nhưng Putin chỉ ra rằng trong trường hợp Kosovo, một phần lãnh thổ của Serbia, liên quân NATO đã hỗ trợ cho sự ly khai dựa trên nguyên tắc tự quyết. Obama cố gắng phản bác Putin về trường hợp Kosovo bằng cách lập luận “Nhưng NATO chỉ can thiệp sau khi người dân Kosovo bị khủng bố và giết hại có hệ thống trong nhiều năm. Và Kosovo chỉ tách khỏi Serbia sau một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế, cũng như hợp tác chặt chẽ với Liên Hiệp Quốc và các quốc gia láng giềng. Không hề có những điều tương tự diễn ra ở Crimea”. Nhưng NATO không chỉ “can thiệp”, họ tổ chức ném bom với quy mô lớn, đó là hành động vi phạm Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và cả “luật pháp quốc tế” mà Obama viện dẫn. Obama lảng tránh sự thật là CIA đã huấn luyện lực lượng khủng bố KLA ở Kosovo một thời gian (và họ bị các quan chức Hoa Kỳ coi là “khủng bố”). Lực lượng KLA biết rằng những hành động khiêu khích sự trả thù của người Serbia sẽ đem tới cái cớ cho cuộc tấn công của NATO. Một ngày trước khi NATO ném bom, Bộ trưởng Bộ quốc phòng Anh quốc tuyên bố trước nghị viện rằng KLA đã giết hại nhiều thường dân ở Kosovo hơn quân đội Serbia.

Obam cũng nói dối về cuộc trưng cầu dân ý ở Kosovo. Không có cuộc trưng cầu dân ý nào hết. Vào ngày 17 tháng 2 năm 2008, nghị viện Kosovo với đa số là người Albania công bố Tuyên Ngôn Độc Lập, và điều đó là đủ đối với Hoa Kỳ và các đồng minh thân cận, giờ thì thật đáng căm phẫn về cuộc trưng cầu dân ý ở Crimea. Cuộc bỏ phiếu ở Kosovo diễn ra sau cuộc chiến của NATO và các hoạt động của người Albania ở Kosovo đã loại bỏ một số lượng lớn người Serbia và Rumania khỏi Kosovo.

Hoa Kỳ xây dựng một căn cứ quân sự khổng lồ ở Kosovo trong cuộc chiến và chiếm đóng Kosovo, mà không có sự đồng thuận của Serbia hay nhận được bất cứ phiếu bầu nào của người dân Kosovo cũng như Serbia. Nga có căn cứ hải quân ở Crimea theo một thỏa thuận dài hạn với chính phủ Ukraina. Họ không ném bom Ukraina để khai mạc trưng cầu dân ý và các lá phiếu cũng không bị các bất cứ cử tri địa phương nào bác bỏ hay không thừa nhận. Vậy nên, như Obama nói, không thể so sánh hai trường hợp đã nêu. Obama vẽ lên bức tranh tự do mà phương Tây yêu thích, với NATO là người lính canh nghiêm cẩn, với bóng tối và lực lượng của cái ác phía sau Bức Màn Thép bị đẩy lùi xuống các chiến hào.

“Hoa Kỳ và NATO không định tạo ra bất cứ xung đột nào với Nga… Kể từ khi kết thúc Chiến Tranh Lạnh, chúng ta đã hợp tác với Nga với nhiều nhiệm kỳ thành công trong việc tạo dựng quan hệ chặt chẽ về văn hóa, thương mại và cộng đồng quốc tế”. Nhưng ông ta nhắc nhở rằng Nga phải là một quyền lực “có trách nhiệm”. “Nga có một lịch sử lâu dài với Ukraina nhưng điều đó không có nghĩa là họ có thể quyết định tương lai của Ukraina. Theo những nguyên tắc nền tảng hiện đang bị đe dọa – các quốc gia và dân tộc có thể tự lựa chọn – không có gì có thể đi ngược lại. Hoa Kỳ không đưa người biểu tình tới Maidan – đó là người Ukraina. Không có lực lượng nước ngoài nào kêu gọi công dân ở Tunis và Tripoli nổi dậy - họ tự mình làm việc họ muốn”. Obama quên không kể rằng từ khi kết thúc Chiến Tranh Lạnh, NATO đã liên tục vi phạm cam kết của quan chức Hoa Kỳ là không tiến thêm “một inch” nào tới gần biên giới Nga, để bao vây Nga, gây sức ép lên biên giới của Nga, và hỗ trợ các lãnh đạo chính phủ vùng biên giới công khai thù địch với Nga. Việc phương Tây hỗ trợ chính phủ thù địch với Nga ở Ukraina được các quan chức Nga coi là các hành động thiếu thân thiện và đe dọa. Obama tuyên bố rằng chỉ có những người Ukraina biểu tình ở Maidan cho thấy bằng chứng, ngay cả khi một số trong đó bao gồm cả những thành phần bạo lực nhất nhận sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, và do đó tự mình “quyết định tương lai của Ukraina”. Điều hiển nhiên là thỏa hiệp về chính phủ lâm thời được đàm phán giữa các phe phái ở Ukraina, với sự hỗ trợ của Liên Minh Châu Âu, đã nhanh chóng bị người biểu tình bạo lực xé bỏ, trực tiếp dựng lên nội các đảo chính như sự lựa chọn số một của Victoria Nuland, và “Đ.m. EU” tiếp tục cố gắng dàn xếp cuộc xung đột một cách hòa bình. Chính phủ không được bầu cử sau đó đã bổ nhiệm các thành viên cánh hữu vào các vị trí chiến lược, thể hiện một chính quyền Ukraina không phải là “độc tài” Nga và đe dọa người Nga trong phạm vi Ukraina cũng như quốc gia Nga. Trong bối cảnh ấy, cuộc trưng cầu dân ý ở Crimea cho thấy một trường hợp quan trọng và công bằng khi nguyên tắc “người dân được tự lựa chọn” (Obama) được áp dụng.

Lập luận của phương Tây, và chủ yếu là của Hoa Kỳ rằng sự can thiệp và vai trò trong việc lật đổ chính quyền dân cử ở Ukraina là một dạng xâm lược được dùng để chống lại Nga, có thể cho thấy hành động của Nga chỉ là phản ứng lại sự xâm lược. Một phương thức hiện đại quan trọng trong các cuộc đảo chính được phương Tây tài trợ là thông qua sự khuyến khích, huấn luyện, cũng như hỗ trợ vật chất và tuyên truyền cho các nhóm đối lập để phá hoại và làm mất uy tín của chính phủ mục tiêu và đánh bật họ ra khỏi quyền lực. Chuyện đó được trưng ra dưới nhãn hiệu quan hệ công chúng “khuyến khích dân chủ”, nhưng thực tế là “phá hoại dân chủ”. Chuyện đó không chỉ diễn ra ở Bahrain hay Arab Saudi, mà còn cả ở Serbia, Ukraina và Venezuela. Chính phủ dân cử ở Ukraina đã bị lật đổ; chính phủ đảo chính thay thế họ không có bất cứ phiếu bầu nào. Trong phát biểu tại Brussels, Obama cho rằng “Các quốc gia Mỹ Latin từ bỏ chế độ độc tài và xây dựng các nền dân chủ mới”, nhưng ông ta quên không nói rằng những chế độ độc tài đó vốn được Hoa Kỳ tài trợ và trong khi ủng hộ chế độ chuyên chế ở Venezuela rất nhiều năm, Hoa Kỳ đã thù địch với nền dân chủ cánh tả Bolivia suốt hơn một thập kỷ; và trong khi Obama đang phát biểu ở Brussels thì chính phủ của ông ta đang thúc đẩy những người biểu tình bạo lực ở Caracas, lăng mạ Maduro, đe dọa trừng phạt, và hơn thế nữa theo mô hình “phá hoại dân chủ” truyền thống của Hoa Kỳ (See Kerry’s pugnacious statement of March 13, 2014 before the House Foreign Affairs Committee on “Advancing U.S. Interests Abroad: The FY 2015 Foreign Affairs Bud get.”)

So sánh phát biểu của Vladimir Putin trước toàn Liên Bang Nga vào ngày 18 tháng 3 năm 2014 về cuộc trưng cầu dân ý của Crimea với phát biểu về khủng hoảng của Obama vào ngày 23 tháng 3 tại Brussel là vô nghĩa – Putin đã thắng nốc ao. Điều này, tôi tin rằng, là kết quả của sự thật, Nga đang phải hứng chịu sự tấn công và sự đe dọa nghiêm trọng của Hoa Kỳ, họ bị buộc phải trở thành kẻ thù và chống cự khi Hoa Kỳ tiếp tục mở rộng đế chế và không dung thứ cho các đối thủ. Chủ yếu là Nga và Trung Quốc, và các hoạt động của Hoa Kỳ - NATO đã biến Nga từ vị thế khách hàng dưới thời Yeltsin thành kẻ thù và “kẻ xâm lược” hiện nay. Thật đáng ngạc nhiên khi chứng kiến truyền thông chính thống và giới trí thức tảng lờ nguy cơ an ninh mà cuộc đảo chính do phương Tây hậu thuẫn ở Kiev gây ra đối với Nga, cũng như sự gia tăng của nguy cơ đó khi NATO mở rộng tới biên giới Nga. Tiêu chuẩn kép về xâm lược và luật pháp quốc tế thật kinh khủng. Putin nói một cách mỉa mai, “Trước hết, ít nhất là họ cũng nhớ ra rằng có luật pháp quốc tế - muộn còn hơn không bao giờ”. Putin diễn đạt ý của mình rất thông minh. Obama không bao giờ vui vẻ ở Brussels, bản thuyết trình đầy sáo ngữ và lầm lẫn của ông ta chỉ mang lại đau khổ. Ông ta bảo vệ những thứ không thể bảo vệ được và đối thủ của ông ta hoàn toàn vượt trội, cả về trí tuệ lẫn đạo đức.

Nhưng Putin là kẻ thua cuộc đối với truyền thông chính thống Hoa Kỳ. Tổng thống Nga là nạn nhân của quá trình hủy hoại tiêu chuẩn mà truyền thông chính thống áp dụng cho các đối thủ hay mục tiêu của nhà nước đế quốc. Putin thường xuyên được giới thiệu là “cựu đại tá KGB” – bạn có thể hình dung truyền thông Hoa Kỳ giới thiệu George Bush 1 là “cựu giám đốc CIA”. Tất nhiên mọi vết nhơ trong sự nghiệp của ông ta đều là thật – Chechnya, quyền của người đồng tính, sự yếu kém của nền dân chủ Nga và quyền lực của đám tài phiệt (mà ông ta thừa kế từ tổng thống được Hoa Kỳ ủng hộ, Yeltsin) – những điều đó được đưa tin thường xuyên. Nhưng cũng cần phải nhắc tới sự thật là Putin đại diện cho quyền lợi quốc gia Nga, xung đột với thế giới bên ngoài và lợi ích của tầng lớp tinh hoa đế quốc Hoa Kỳ.

Một minh họa nhỏ cho sai lệch này, chúng ta có thể xem xét truyền thông đưa tin về nhóm Pussy Riot, bị bắt giam sau khi hành động trong một nhà thờ lớn ở Moscow và được biến thành các vị thánh trên truyền thông Hoa Kỳ. Họ cho thấy sự tồi tệ của Putin và nước Nga. Tờ New York Times có 23 bài báo về nhóm Pussy Riot trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 1 năm 2014 đến 31 tháng 3, nhiều bài có ảnh nhóm này đi thăm quan các địa danh tại New York. Họ được gặp gỡ ban biên tập tờ New York Times, được tổ chức Ân Xá Quốc Tế, Human Rights Watch và các tổ chức quốc tế khác vinh danh. Mặc dù họ không phải là ban nhạc hay và thường xuyên làm những việc khiến họ có thể bị tống vào tù ở Hoa Kỳ.

Một trong số họ, Maria Alyokhina, viết bài phản xã luận cho báo giấy (“Sochi Under Siege,” February 21). Hai sự tương phản đáng chú ý: John Mearsheimer, một nhà khoa học chính trị tại trường đại học Chicago và tác giả vài cuốn sách quan trọng về quan hệ quốc tế, viết trong mục phản xã luận “Getting Ukraine Wrong”, xuất bản vào ngày 14 tháng 3 trên tờ International New York Time, nhưng không phải là báo giấy. Thông điệp của ông ta quá sức chịu đựng NYT vì ông ta nói “Nguồn gốc của cuộc khủng hoảng hiện nay là sự mở rộng của NATO… và được thúc đẩy bởi những khẳng định về địa chính trị có ảnh hưởng tới mọi quyền lực lớn, bao gồm cả Hoa Kỳ”. Đó không phải là ý kiến và phân tích phù hợp với báo giấy.

Một sự so sánh đáng chú ý khác: Vào tháng hai năm 2014, trong khi phiên toà và quan điểm của Pussy Riot đang nóng bỏng, nữ tu sĩ 84 tuổi, Megan Rice, bị tuyên án 4 năm tù vì tham gia vào phong trào chống vũ khí hạt nhân và có các hoạt động mang tính biểu tượng. Tờ New York Times đưa tin này cực ngắn trong mục tin vắn quốc gia với tiêu đề “Tennessee. Nữ tu sĩ bị kết án vì biểu tình hòa bình”. Rice không được mời tới thăm ban biên tập tờ NYT hay viết bài phản xã luận. Bản án của bà chỉ là tin tức không quan trọng.

Saturday, April 26, 2014

Quyền tự do ngôn luận ở Mỹ: Bị bắt giam vì quay phim cảnh sát

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Light, Camera, Arrest" của tác giả John W. Whitehead đăng trên tạp chí Coldtype số 84, tháng 4 năm 2014. Bài viết cho biết về tình trạng cảnh sát xâm phạm quyền tự do ngôn luận của người dân Mỹ, và hiện nay người dân Mỹ chưa có cách nào để xử lý tình trạng đó một cách hiệu quả. Tiêu đề bài viết là do người dịch đặt.

Một lần nữa, chính quyền Hoa Kỳ lại cố trở thành cảnh sát của thế giới khi họ biến các nhân viên hành pháp thành cảnh sát. Chúng ta có chiến hạm tuần tiễu trên mặt Biển Đen, chiến đấu cơ phản lực tuần tra trên bầu trời Baltic, và các tàu khu trục mang tên lửa hành trình đang lùng sục chiếc máy bay mất tích của hãng hàng không Malaysia trên biển Nam Trung Hoa. Nhưng bất cứ khi nào, ở Hoa Kỳ các quyền hợp hiến của chúng ta bị xóa bỏ không thương tiếc, các chủ nhà bị đe dọa đuổi ra khỏi nhà vì sống theo kiểu không sử dụng các tiện nghi đô thị, phụ nữ lớn tuổi bị bỏ tù vì cho quạ ăn, và công dân mang điện thoại di dộng bị bắt vì đe dọa quay phim các hoạt động của cảnh sát.

Robin Speronis đang bị đe dọa đuổi khỏi nhà ở Florida, vì sống theo kiểu không sử dụng các tiện nghi đô thị như nước và điện. Thành phố chính thức khẳng định là các cư dân ở Cape Coral đã chọn cách sống vi phạm luật duy trì tài sản quốc gia và quy định của thành phố. Mary Musselman, cũng là công dân Florida, bị giam giữ không có lệnh của tòa vì đã “cho động vật hoang dã ăn”. Musselman đã 81 tuổi, bị quản thúc sau khi bị phạt vì cho gấu ăn ở gần nhà. Brandy Berning ở Florida bị giam một đêm trong tù vì ghi âm lại cuộc đối thoại giữa cô với nhân viên cảnh sát chặn xe của cô.

Xin chào mừng đến với sự nực cười được luật pháp và trật tự của Hoa Kỳ tạo ra hiện nay, tôi đã từng chỉ ra trong cuốn sách của mình, “Chính phủ của chó sói: Sự trỗi dậy của nhà nước cảnh sát Hoa Kỳ”, là mức độ tội phạm thấp, hoạt động cảnh sát được quân sự hóa gia tăng, và người Mỹ bị trừng phạt vì sống theo kiểu không sử dụng tiện nghi đô thị, cho động vật hoang dã ăn, tổ chức nghiên cứu kinh thánh ở sân sau, trồng rau ở sân trước, thu gom nước mưa, và quay phim cảnh sát.

Những chuyện tiếp theo sẽ khiến bạn ngạc nhiên. Giống như một sự mỉa mai: Chính quyền khẳng định họ có thể giám sát chúng ta dưới bất kỳ hình thức nào - nghe điện thoại, đọc trộm email và tin nhắn, theo dõi việc đi lại của chúng ta, chụp ảnh bằng lái xe, thậm chí xâm nhập vào thông tin sinh học của chúng ta trong ngân hàng DNA - nhưng nếu chúng ta định chống lại, dù chỉ là một chút ít thôi, chúng ta sẽ bị cảnh sát điều tra, bắt giam và phạt vì vi phạm những tội lặt vặt (thường là không đáng kể), và buộc phải khôi phục tình trạng ban đầu.

George Thompson ở Boston bị bắt sau khi anh ta sử dụng điện thoại di động quay phim một viên cảnh sát mà anh ta nói là “mất kiểm soát”. Sinh viên đại học Texas Abie Kyle Ikhinmwi bị bắt giữ sau khi cô dùng điện thoại di động quay lại một vụ bẫy tốc độ của cảnh sát. Thiếu niên ở bang Kansas Addison Mikelson bị bắt vì quay phim một chiếc xe tuần tra phóng nhanh và không bật đèn xin nhan khi rẽ.

Leon Rosby đang quay phim vụ đối đầu với cảnh sát vào tháng 6 năm 2013, một tay cầm điện thoại và tay kia giữ con chó, ba sĩ quan tiến đến chỗ anh ta. Cảm thấy có vấn đề, Rosby đặt con chó Rottweiler 2 tuổi tên là Max vào xe ô tô. Tờ LA Times đưa tin: “Khi các sĩ quan còng tay Rosby, con chó thoát qua cửa sổ mở, sủa và lao vào các sĩ quan. Một sĩ quan cố nắm lấy dây xích chó, sau đó chĩa súng và bắn bốn phát, giết chết Max. Video ghi lại sự cố được lan truyền trên YouTube, dẫn đến sự phẫn nộ của công chúng và thu hút người biểu tình tới trụ sở của Sở Cảnh Sát”. Rosby chuẩn bị hồ sơ vụ kiện nhân quyền chống lại thành phố và 3 sĩ quan cảnh sát. 

Và người đàn ông Baltimore bị cảnh sát đe dọa sau khi họ biết anh ta quay phim họ trong khi bắt giữ. Trạm CBS địa phương tường thuật về vụ đối đầu như sau:

“Tôi được phép làm vậy”, người đàn ông nói với viên sĩ quan.

“Đi khỏi đây ngay”, viên sĩ quan trả lời.

“Anh không có quyền”, viên sĩ quan nói.

Nhưng người đàn ông không ngừng quay phim và tiếp tục tiến đến.

“Anh có thấy cảnh sát hiện diện ở đây không? Anh có thấy chúng tôi không? Chúng tôi không [văng tục] đi dạo. Anh có hiểu không? Đừng có khing thường chúng tôi và đừng có không thèm nghe lời của chúng tôi”, sĩ quan nói. “Giờ thì đi đi và ngậm miệng lại [văng tục] hoặc anh sẽ vào tù, anh có hiểu không?”

Sau khi quay đi, viên sĩ quan quay lại chỗ người đàn ông lần thứ ba, cố tóm lấy anh ta.

“Tôi cho rằng tôi có quyền tự do ngôn luận”, người đàn ông nói.

“Anh không có, Anh vừa đánh mất nó rồi”, viên sĩ quan trả lời.

Và đó là bản tóm tắt lại những gì diễn ra khi các viên chức hành pháp - không chỉ cảnh sát, mà mọi nhân viên của chính quyền được giao nhiệm vụ thi hành pháp luật, từ tổng thống trở xuống - được phép bỏ qua luật lệ khi thuận tiện. Tại những nơi mà tiêu chuẩn kép được sử dụng thì chỉ có công dân mới phải tuân thủ pháp luật, những viên chức hành pháp thì không, “khế ước xã hội” mà John Locke hình dung là nền tảng của xã hội đã đổ vỡ. Chúng ta cho phép quan chức chính quyền hoạt động ngoài pháp luật càng nhiều thì luật pháp càng nhanh chóng trở thành công cụ để trả thù chúng ta, hơn là ràng buộc và kiểm soát chính quyền như mục tiêu ban đầu.

Điều này đưa tôi quay trở lại với vấn đề người Mỹ bị bắt vì quay phim cảnh sát. Cho đến nay, điều đó chủ yếu diễn ra với những nhà báo và phóng viên ảnh, những người cố gắng ghi lại các cuộc biểu tình chính trị và sự quấy rầy của cảnh sát. Mặc dù vậy, với ưu thế của điện thoại di động về thu âm và ghi hình, các cá nhân đe dọa ghi hình cảnh sát trong những hành động đáng ngờ hoặc lạm quyền tại nơi công cộng đang ngày càng trở thành đối tượng phải chịu sự đối xử thô bạo vì những tư liệu đó. Những video đó khi được phổ biến rộng rãi, có thể trở thành công cụ đầy sức mạnh để buộc cảnh sát phải hành động cẩn trọng và buộc họ phải tôn trọng những quyền mà họ phải bảo vệ.

Tất nhiên, các nhân viên cảnh sát và liên minh của họ tìm cách cấm những video đó. Cảnh sát Massachusett đã viện dẫn một luật giám sát bang cho phép trừng phạt các hành vi quay video của công nhân như là tội ác. Do luật giám sát bang yêu cầu sự đồng thuận của “hai phía”, nên phần lớn các kiểu quay phim công khai có thể coi là bất hợp pháp. Luật tương tự cũng xuất hiện ở California, Florida, Illinois, Michigan và Pennsylvania. Luật được ban hành để bảo vệ các công dân khỏi bị giám sát theo cách xâm phạm vào đời tư, nhưng cảnh sát lại khai thác chúng để ngăn cản quyền tự do ngôn luận nhằm ngụy trang hình ảnh của họ trước công chúng. Cảnh sát cho rằng quy định đó cho phép họ ngăn cản một cách hợp pháp việc quay phim của các công dân như Jeffrey Manzelli, một nhà báo đã ghi lại hình ảnh cảnh sát đe dọa người biểu tình tại mít-ting và đã bị bắt và phạt theo luật đã nêu trên. 

Do phải mang gánh nặng chi phí kiện tụng trong những vụ cảnh sát khủng bố công dân vì không muốn các hành động của họ bị ghi hình nên một số thành phố đã cố gắng áp dụng các chính sách bảo vệ các công dân ghi hình cảnh sát. Ở Troy, N. Y. viên chức cảnh sát thành phố phải đối mặt với án phạt tiền và ngồi tù nếu họ ngăn cản người dân chụp hình hoặc quay phim họ một cách hợp pháp. Nếu được áp dụng, sắc lệnh của Troy, có mức phạt tối đa 5,000 USD và án tù tới 15 ngày đối với các viên chức vi phạm, sẽ là luật đầu tiên của quốc gia này về việc cấm cảnh sát ngăn cản công dân quay phim hay chụp ảnh hoạt động của họ. Sau khi phải thanh toán 200,000 USD thì sở cảnh sát Indianapolis sẽ sớm phải nhắc nhở các viên chức của họ rằng công dân có quyền quay phim các nhân viên cảnh sát đang làm nhiệm vụ. Đó là trường hợp một công dân Indianapolis 66 tuổi bị quật ngã xuống đất, bắt giữ và phạt vì chống lại việc bắt giữ, gây rối trật tự và say rượu nơi công cộng (ông ấy được chứng minh không có tội này) sau khi sử dụng điện thoại di động ghi hình cảnh sát bắt giữ một thanh niên trên đường ô tô trong khu ông ấy ở.

Hiện nay đang có phong trào yêu cầu cảnh sát phải mang theo camera theo dõi của công sở để ghi lại những gì các viên chức cảnh sát nhìn thấy 

Tòa án ủng hộ quyền của những nhân chứng quay phim, mặc dù chính quyền muốn đặt những hành động đó ra ngoài pháp luật. Vào năm 2012, Tòa Tối Cao Hoa Kỳ từ chối xét xử vụ kháng án về luật nghe trộm của Illinois, luật đó trừng phạt việc quay phim các nhân viên hành pháp như tội ác cấp độ một [chú thích: ví dụ như tội giết người, hãm hiếp] với mức án có thể lên đến 15 năm tù.

Năm 2013, Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đưa ra báo cáo về vụ án Mannie Garcia v. hạt Montgomery, Md., tuyên bố rằng các cá nhân không chỉ có quyền quay phim các viên chức khi thi thành công vụ theo Tu Chính Án Thứ Nhất, mà theo Tu Chính Án Thứ Tư và Thứ Mười Bốn họ còn có quyền không bị bắt giữ mà không có lệnh của tòa án. Trường hợp của Garcia là một nhà báo bị bắt giữ và phạt tội gây rối trật tự vì quay phim cảnh sát bắt giữ hai người đàn ông. Theo hồ sơ vụ kiện, cảnh sát “ấn Garcia vào xe cảnh sát, còng tay anh ta, làm anh ta ngã ra sàn bằng cách đá văng chân của anh ta, chế nhạo anh ta và đe dọa sẽ bắt giữ vợ anh ta nếu cô ấy tới nhặt camera, thu giữ thẻ nhớ và không bao giờ trả lại.”

Vấn đề như tòa thượng thẩm Hoa Kỳ khu vực số 7 khẳng định vụ trong Payne v. Pauley là “nhân viên cảnh sát phải bị trừng phạt nặng hơn các thường dân và phải kiềm chế khi va chạm với công chúng” và “không được đưa ra bất kỳ sự đe dọa hay từ ngữ hoặc cử chỉ lăng mạ, hay ám hiệu gây rối nào”

Sự phức tạp mà chúng ta phải đối mặt là viên chức cảnh sát ngày càng chỉ bị trừng phạt nhẹ, ít kiềm chế hơn trong va chạm với công chúng, và sử dụng mọi loại từ ngữ, cử chỉ hay ám hiệu đe dọa. Trong thế giới lý tưởng, cảnh sát được coi là những đầy tớ của công chúng, họ là đối tượng bị ghi hình và giám sát khi thi hành công vụ. Nhưng thực tế hoàn toàn khác với thế giới lý tưởng. Vậy chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải tiếp tục bảo vệ quyền của mình, ghi hình cảnh sát khi có cơ hội, và nhắc nhở một cách lịch sự bất cứ viên chức đối đầu nào rằng họ là đầy tớ của công chúng, và hành vi của họ là đối tượng kiểm tra của công chúng. Nếu họ không đồng ý và ngăn cản chúng ta quay phim, chúng ta có thể viện dẫn Hiến Pháp Hoa Kỳ, thứ mà họ đã thề sẽ tuân thủ, thứ bảo vệ quyền được quay phim các sự kiện liên quan đến lợi ích công cộng. Và nếu họ tiếp tục chống lại bằng cách dọa tống người ta vào tù vì họ không thích sự minh bạch và trách nhiệm, họ có thể trả lời trước tòa án.

Mục tiêu là đi đến trạng thái mà chúng ta có thể giám sát quan chức chính quyền, thay vì bỏ qua. Như quan tòa Louis D. Brandeis đã nhận xét, “Ánh sáng mặt trời là có thể nói là chất tẩy uế tốt nhất; ánh sáng điện là nhân viên cảnh sát hiệu quả nhất.”