Showing posts with label Liên Hiệp Quốc. Show all posts
Showing posts with label Liên Hiệp Quốc. Show all posts

Monday, June 15, 2015

Quýt làm cam chịu: Mỹ tra tấn, Ba Lan bồi thường

Người Ba Lan có thể tức giận vì họ phải bồi thường cho các nạn nhân bị Mỹ tra tấn tại nhà tù bí mật của CIA ở Ba Lan, nhưng khi họ cho Mỹ đặt nhà tù bí mật ở trên đất nước mình thì họ cũng nên lường trước hậu quả. Một bài học đáng nhớ cho các đồng minh thân cận và những nước muốn làm đồng minh của Hoa Kỳ. Dưới đây là bản dịch bài viết "Poland pays for America's crimes" của Nat Perry đăng trên tạp chí ColdType số 99 tháng 6 năm 2015.

Ba Lan bồi thường cho tội ác của Hoa Kỳ 

Một trong những điều nực cười nhất của cuộc chiến chống khủng bố của Hoa Kỳ và quan hệ xuyên Đại Tây Dương là trách nhiệm dân chủ và bảo vệ nhân quyền của họ ở các nước cựu Liên Bang Soviet có vẻ mạnh mẽ hơn là ở chính quê nhà của họ vào lúc này. Bài học này được đưa về nhà một lần nữa vào tháng trước khi Ba Lan thanh toán ¼ triệu dollar cho hai nghi phạm khủng bố bị CIA tra tấn tại nhà tù bí mật trên lãnh thổ Ba Lan từ năm 2002 đến 2003. 

Với phán quyết của Tòa Án Nhân Quyền Châu Âu (ECHR), bản án đã gây ra sự phẫn nộ của nhiều người Ba Lan, họ cảm thấy không công bằng khi bị trừng phạt bởi những sai trái của Hoa Kỳ. “Chúng tôi phải trả tiền bồi thường mặc dù người của chúng tôi không làm gì sai,” cựu ngoại trưởng Ba Lan Radoslaw Sikorski nói. Sikorski cho biết Ba Lan là nước duy nhất đã nhận trách nhiệm về việc các quan chức cấp cao của họ cho phép CIA vi phạm nhân quyền trên lãnh thổ của họ. 

Hoa Kỳ vẫn tiếp tục thiếu trách nhiệm, họ không điều tra hay xét xử các quan chức cấp cao cho phép vi phạm nhân quyền tại các nhà tù bí mật của CIA ở Ba Lan hay bất cứ đâu trên thế giới.

Trong số 119 tù nhân bị giam giữ tại các nhà tù bí mật của CIA từ năm 2001 đến năm 2006, có ít nhất 39 người bị thành viên của CIA tra tấn, theo báo cáo của Ủy Ban Tình Báo Thượng Viện về tra tấn được công báo vào tháng 12 vừa qua. Hai cá nhân bị tra tấn ở Ba Lan, Abu Zabaydah và Abd al-Rahim al-Nashiri, đã được chuyển tới vịnh Guantanamo, họ ở đó cho tới năm 2006.

Trong khi al-Nashiri mới bị xét xử vì tổ chức đánh bom chiến hạm USS Cole vào năm 2000 thì Abu Zubayah được coi là một trong số những “tù nhân vĩnh viễn” của Guantanamo mà không có bản án hay phiên tòa nào được dự định, cũng chưa có một quy định sơ bộ nào cho trường hợp của anh này trong gần bảy năm. Vào ngày 12 tháng 5 năm 2015, tờ ProPublica cho biết anh này đã bị giam “2.477 ngày và vẫn tiếp tục”. Một trong các luật sư của anh, Hellen Duffy, viết cho tờ Guardian và tháng 12 vừa qua, sau khi bản tóm tắt báo cáo bị trì hoãn dài ngày của thượng viện được công bố, “hiện giờ Abu Zubaydah có thể được coi là tang vật loại A” trong chương trình giam giữ và tra tấn của CIA. 

“Anh ấy có sự khác biệt đáng tiếc là nạn nhân đầu tiên của chương trình tra tấn của CIA, như báo cáo đã làm rõ, nhiều kỹ thuật tra tấn (hay “thẩm vấn nâng cao”) đã được phát triển và chỉ có tù nhân biết rõ rằng họ là đối tượng của chúng,” Duffy viết.

Báo cáo của thượng viện có khoảng 1.000 dẫn chiếu đến trường hợp Abu Zubaydah, xác nhận các phát hiện của ECHR liên quan đến kỹ thuật thẩm vấn mà anh ta phải chịu đựng.

Trong đó có “walling” (liên tục bị đẩy sát vào tường), cấm ngủ tới 180 giờ (thường xuyên khỏa thân trong tư thế căng thẳng) và nhấn nước. Việc nhấn nước Abu Zubaydah, anh ta bị nhấn nước 83 lần trong 1 tháng, được cấp cao nhất của chính quyền Hoa Kỳ cho phép. Anh ta cũng bị giam giữ tàn nhẫn. “Trong 20 ngày liên tục của “giai đoạn thẩm vấn quyết định”, AbuZubayah bị giam tổng cộng 266 giờ (11 ngày, 2 giờ) trong một chiếc hộp giam giữ có kích thước bằng chiếc quan tài và 22 giờ trong hộp giam nhỏ với chiều rộng 53,34 cm, chiều sâu 0,77m và chiều cao 0,77m,” theo báo cáo của thượng viện. “Nhân viên thẩm vấn của CIA nói với Abu Zubaydah rằng cách duy nhất anh ta có thể ra khỏi nhà tù là trong một chiếc hộp giam hình quan tài.”

Duffy cho biết ngoài vụ tra tấn Aby Zubaydah, báo cáo của thượng viện cũng tiết lộ về số lượng thông tin sai lệch đã được tạo ra để biện minh cho việc giam giữ anh ta không giới hạn. Một số khẳng định của CIA, trong một số trường hợp đã lặp lại ngay cả khi họ biết chúng là sai, đã bị bác bỏ hết điểm này đến điểm khác trong báo cáo.

Ví dụ, trái với những khẳng định lặp đi lặp lại rằng Abu Zabaydah là “người thứ ba hay thứ tư của al-Qaida,” báo cáo cho biết “sau đó CIA đã kết luận rằng Abu Zubaydah không phải là thành viên của al-Quaida.” Báo cáo cũng phủ nhận khẳng định của chính quyền về việc anh ta can dự vào vụ 11 tháng 9, rằng đội thẩm vấn “chắc chắn anh ta che giấu thông tin” và khẳng định rằng việc tra tấn anh ta mang lại các thông tin tình báo quý giá.

Vụ việc của Abu Zubaydah cũng dẫn đến vụ xét xử duy nhất được ấn định ở Hoa Kỳ liên quan đến chương trình tra tấn của CIA – mặc dù không phải là đối với những người tra tấn anh ta mà là đối với một người tiết lộ của CIA, người đầu tiên tiết lộ vụ việc.

Phiên tòa bỏ túi

Trong cuộc phỏng vấn với ABC News, cựu sĩ quan CIA John Kiriakou mô tả việc nhấn nước Abu Zubaydah và sau đó bị tình nghi cung cấp cho nhà báo tên của điệp viên bí mật trong Trung Tâm Chống Khủng Bố trực thuộc CIA, là người đã tham gia vào chiến dịch bắt giữ và thẩm vấn Abu Zubaydah. Vì sự vi phạm này, Kiriakou bị kết án theo Luật Do Thám 1917 và chấp nhận thỏa thuận nhận tội để lĩnh án 2 năm tù.

Vụ xét xử Kiriakou hồi đó bị một số bộ phận của cộng đồng quốc tế chỉ trích. Ví dụ, Hội đồng Nghị Viện của Tổ Chức Anh Ninh và Hợp Tác Châu Âu trong một nghị quyết năm 2012 “đã lên án nhà cầm quyền Hoa Kỳ về việc chống lại cựu điệp viên CIA John Kiriakou, người bị cáo buộc cung cấp cho nhà báo các chi tiết liên quan đến việc bắt giữ Abu Zubaydah, một nghi phạm al-Qaeda được cho là bị tra tấn tại nhà tù bí mật của CIA ở Ba Lan và là một trong hai “nạn nhân được bảo vệ” của công tố ở Warsaw.”

Cựu nghị sĩ quốc hội Hoa Kỳ Jim Moran (D-VA) phát biểu tại hạ viện vào ngày 17 tháng 11 năm 2012 rằng việc chính quyền kết án Kiriakou là một “phiên tòa bỏ túi”. Ông yêu cầu tổng thống Obama xin lỗi Kiriakou và gọi cựu sĩ quan có 15 năm hoạt động của CIA là “người hùng Hoa Kỳ”. 

Kiriakou đã ra khỏi tù sau khi mãn hạn nhưng các nạn nhân bị tra tấn của CIA vẫn tiếp tục bị giam giữ không biết đến ngày ra ở Gitmo, Ba Lan không chỉ đối mặt với thiệt hại chính trị vì chính sách này mà còn các những khó khăn thực tế trong việc thực hiện quyết định của ECHR liên quan đến việc vận chuyển các cá nhân được bồi thường, những người đã bị giam giữ - một người Palestine và một người Arabian Saudi. Mặc dù vậy, “Ba Lan thi hành các quyết định của ECHR,” người phát ngôn bộ ngoại giao Marcin Wojciechowski nói, “Trường hợp thứ nhất, tiền được trả vào tài khoản do luật sư của anh ta chỉ định, trong trường hợp còn lại, do bị trừng phạt quốc tế, chúng tôi yêu cầu thiết lập một khoản ký quỹ pháp lý,” ông nói thêm. 

Theo quy định của ECHR, Ba Lan cũng phải yêu cầu Hoa Kỳ bãi bỏ án tử hình đối với hai người đàn ông cho phù hợp với việc bãi bỏ án tử hình trên toàn EU, Wojciechowski nói với AFP.

Sự phủ nhận hợp lý

Nhiều người Ba Lan phiền lòng khi thấy đất nước họ đối mặt với những hậu quả pháp lý của nhà tù bí mật và chương trình giam giữ mà CIA thực hiện dưới thời George W. Bush ở một số quốc gia trên thế giới sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9. Ở Ba Lan, câu chuyện một quốc gia cựu cộng sản sẽ dung túng cho nhà tù bí mật của CIA và trong đó tra tấn được thực hiện nhiều năm đã bị nhiều chính khách, nhà báo và công chúng của quốc gia cười nhạo, coi như là một lý thuyết âm mưu tầm thường. Các quan chức Ba Lan đã thường xuyên phủ nhận sự tồn tại của các nhà tù đó.

Nhưng một chuỗi các tiết lộ và tuyên bố chính trị của các lãnh đạo Ba Lan đã thừa nhận lần đầu tiên rằng Hoa Kỳ thực sự điều hành một sơ sở thẩm vấn bí mật đối với các nghi phạm khủng bố vào năm 2002 và 2003 ở khu vực hẻo lánh của đất nước. Vào tháng 9 năm 2014, cựu tổng thống Ba Lan Aleksander Kwasniewski chính thức thừa nhận sự tồn tại của nhà tù bí mật của CIA ở căn cứ không quân, tại đó các nghi phạm khủng bố được thẩm vấn, nhưng ông ta khẳng định rằng Warsaw không biết về sự tra tấn ở nhà tù này.

Giờ đây có vẻ như sự phủ nhận liên quan đến tra tấn có thể là cố ý bỏ qua hay sự phủ nhận hợp lý để đổi lấy hàng triệu dollar tiền mặt. Báo cáo tra tấn của thượng viện cho biết, trái ngược với những đe dọa ban đầu về việc chấm dứt chuyển giao nghi phạm khủng bố cho nhà tù bí mật 11 năm trước đây, chính quyền đã trở nên “linh hoạt” hơn sau khi CIA chi ra một khoản tiền lớn. Theo như báo cáo, CIA đã trả cho quan chức Ba Lan khoảng 50 triệu dollar để họ làm ngơ.

Nhưng theo Radoslaw Sikorski, cựu ngoại trưởng Ba Lan và giờ là chủ tịch hạ viện, nhà tù được thiết lập dựa trên tình hữu nghị với Hoa Kỳ. Giờ đây, ông ta phàn nàn rằng mặc dù vậy quan hệ bí mật đã gây ra thiệt hại cho Ba Lan.

“Chúng tôi bị bối rối bởi chuyện này, nhưng ngay cả như vậy chúng tôi cũng không lấy làm tiếc vì có quan hệ an ninh và tình báo cực kỳ gần gũi với Hoa Kỳ,” ông nói. “Chúng tôi có thể phải trả tiền bồi thường ngay cả khi nhân viên của chúng tôi không làm gì sai. Anh có thể tưởng tượng xem người dân Ba Lan cảm thấy chuyện này thế nào.”

“Chuyện này làm chúng tôi mang tiếng xấu,” người sáng lập ra think tank Hiệp Hội Châu Âu-Đại Tây Dương ở Warsaw, Tadeusz Chabiera nói. “Chúng tôi là một quốc gia nhỏ bị một quyền lực lớn đối xử tồi tệ.”

Sự hối tiếc và cảm giác bị lừa dối được thể hiện ở Ba Lan sau một kịch bản đã có từ lâu, ít nhất là một thập kỷ trước đây. Dấu hiệu về sự cay đắng nổi lên lần đầu tiên vào năm 2014 khi Hoa Kỳ xâm lược Iraq và Ba Lan đóng góp 2.400 quân.

Vào đỉnh điểm của cuộc chiến tranh Iraq, David Ost tường thuật trên tạp chí The Nation vào ngày 16 tháng 12 năm 2004, “George W. Bush đã chuẩn bị để làm cái điều mà 45 năm chế độ cộng sản không thể: hủy hoại hình ảnh về bản chất tốt đẹp của người Mỹ, thứ vốn đã luôn là con bài chủ chốt của Hoa Kỳ.” 

Hình ảnh bị hủy hoại của Hoa Kỳ

Ở Ba Lan, cũng giống như ở nhiều quốc gia khác trên thế giới, hầu hết hình ảnh tích cực đã được khôi phục sau khi Barack Obama thắng cử năm 2008 và lời hứa về sự thay đổi mà ông ta có vẻ như là đại diện. Nhưng theo như Trung Tâm Nghiên Cứ Pew đưa tin vào năm 2013, “tình cảm thân Mỹ đã sụp đổ.” 

“Sự suy giảm không thể so sánh với sự sụp đổ của danh tiếng Hoa Kỳ trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ này,” theo Pew, họ cho biết rằng vào thời điểm của nghiên cứu toàn cầu năm 2013, hơn 6/10 ở Ba Lan, Pháp, Italy và Tây Ban Nha đã có quan điểm tích cực về Hoa Kỳ “nhưng sự nổi bật của Obama” trên phạm vi toàn cầu mà Hoa Kỳ đã trải qua vào năm 2009 rõ ràng là chuyện quá khứ.”

Vẫn cần phải chờ xem những sự tiến triển mới đây về việc tra tấn của CIA có đóng vai trò đáng kể nào trong việc tiếp tục hủy hoại hình ảnh của Hoa Kỳ hay không, nhưng sự phi lý của việc một quốc gia nhỏ như Ba Lan phải gánh chịu trách nhiệm nặng nề về chính sách phi pháp trong khi không ai ở Hoa Kỳ trả lời họ sẽ không dễ quên đối với các đồng minh khác của Hoa Kỳ. 

Tại một số quốc gia hợp tác với chương trình giam giữ của Hoa Kỳ, bánh xe công lý vẫn đang quay, mặc dù chậm dãi. Một cuộc điều tra hình sự đang được tiến hành ở Lithuania, tại đó các công tố viên đang tập trung vào các hoạt động bất hợp pháp xuyên biên giới liên quan đến tù nhân Mustafa al-Hawsawi của CIA, người này có thể đã bị tra tấn nhà tù bí mật có mật danh là Violet của Lithuania.

Cùng lúc đó, những lời kêu gọi nhà cầm quyền áp thực hiện các điều tra toàn diện về sự tồn tại của nhà tù bí mật của CIA ở Romania, cựu tổng thống Romania Ion Iliescu cho biết vào tháng trước rằng ông đã chấp thuận yêu cầu thiết lập ít nhất một nhà tù bí mật của CIA, tại đó các tù nhận bị tra tấn. Iliescu nói rằng ông rất tiếc về quyết định đó.

Những lời kêu gọi tiếp tục đòi hỏi Hoa Kỳ tiến hành những cuộc điều tra đáng tin cậy về vai trò của họ và bồi thường cho nạn nhân của chương trình giam giữ và tra tấn. Trùng hợp là bản án của ECHR đối với Ba Lan được đưa ra cùng tuần với việc Liên Hiệp Quốc thúc giục Hoa Kỳ bồi thường tài chính cho các nạn nhân của chương trình tra tấn và truy tố thủ phạm của các vụ tra tấn này.

Theo một báo cáo của nhóm hành động của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc về Kiểm Định Phổ Quát Định Kỳ, xuất bản ngày 15 tháng 5, Hoa Kỳ phải “đảm bảo rằng tất cả các nạn nhân bị tra tấn và ngược đãi - bất kể là đang bị giam giữ tại Hoa Kỳ hay không – nhận được bồi thường và có quyền khả thi về bồi thường công bằng và hợp lý cũng như phục hồi hoàn toàn, bao gồm trợ giúp về y tế và tâm lý học.”

Hơn nữa, Hoa Kỳ phải “đảm bảo điều tra minh bạch và xác đáng cũng như xét xử các cá nhân chịu trách nhiệm về các cáo buộc tra tấn, ngược đãi, bao gồm những người bị nêu tên trong kết luận công khai của thượng viện về hoạt động của CIA được xuất bản vào năm 2014 và bồi thường cho các nạn nhân.” Với thời hạn vào tháng 12 để phản hồi các khuyến nghị của Liên Hiệp Quốc, chính quyền Obama sẽ phải chứng tỏ cho thế giới thấy bằng cách quyết định xem khuyến nghị nào sẽ được chấp nhận và khuyến nghị nào sẽ bị từ chối.

Khi đề cập tới việc truy tố tra tấn và bồi thường, tốt hơn cả là nói rằng thế giới sẽ theo dõi.

Thursday, November 6, 2014

Phía sau nghị quyết của Liên Hiệp Quốc về Uranium nghèo

Mới đây, Liên Hiệp Quốc đã thông qua một nghị quyết về vũ khí chứa Uranium nghèo mà Hoa Kỳ và đồng minh đã sử dụng ở nhiều nơi trên thế giới, xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Inside the UN Resolution on Depleted Uranium" của tác giả John Laforge để biết thêm chi tiết.

Phía sau nghị quyết của Liên Hiệp Quốc về Uranium nghèo

Vào ngày 31 tháng 10, một nghị quyết mới của Ủy Ban Thứ Nhất Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc về vũ khí chứa uranium nghèo được thông qua với đa số tuyệt đối. Có 143 quốc gia ủng hộ, 4 chống và 26 bỏ phiếu trắng. Biện pháp này kêu gọi các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc hỗ trợ các quốc gia bị nhiễm bẩn do các loại vũ khí đó. Nghị quyết cũng ghi nhận sự cần thiết phải nghiên cứu trên góc độ môi trường và sức khỏe về vũ khí chứa uranium nghèo trong các tình huống xung đột. 

Đây là nghị thứ năm của Liên Hiệp Quốc về vấn đề bị bốn quốc gia sử dụng vũ khí chứa uranium nghèo phản đối dữ dội – đó là Anh, Hoa Kỳ, Pháp và Israel – những nước duy nhất bỏ phiếu chống. Hai mươi sáu quốc gia bỏ phiếu trắng được cho là muốn tránh gây tổn thương quan hệ thương mại với bốn quốc gia kia.

Uranium-238 – hay còn được gọi là Uranium nghèo (DU) – là phế thải tồn lại với khối lượng khổng lồ của các tổ hợp vũ khí hạt nhân. Chúng được sử dụng trong các đầu đạn xuyên giáp cỡ lớn và trong các tấm giáp của xe tăng. Chất độc, bụi phóng xạ và mảnh vụn được phát tán khi hạt DU bốc cháy trong mục tiêu, hơi kim loại và bụi của nó đầu độc nguồn nước, đất canh tác và chuỗi thức ăn. DU có liên quan tới các hiệu ứng tổn hại sức khỏe như Hội Chứng Vùng Vịnh của binh lính Hoa Kỳ và đồng minh, và tỷ lệ dị dạng sơ sinh trong dân cư ở các khu vực bị ném bom. Phế thải DU gây ra nhiễm xạ nhiều phần lãnh thổ lớn ở Iraq, Bosnia, Kosovo và dĩ nhiên là Afghanistan. 

Biện pháp này giải thích rằng vũ khí chứa DU được chế tạo bằng một “kim loại nặng độc hại về hóa học và phóng xạ” [uranium-238], “các mảnh vỡ, và vỏ bao hay vỏ bọc sau khi sử dụng có để trên mặt đất hay chôn thật sâu, phần Uranium nghèo còn lại dẫn đến nhiễm độc tiềm tàng không khí, đất canh tác, nước và thực vật”. 

Sự công kích chủ yếu trong nghị quyết mới nhất của Liên Hiệp Quốc, “Khuyến khích các quốc gia thành viên sẵn sàng cung cấp hỗ trợ cho các quốc gia bị ảnh hưởng bởi việc sử dụng vũ khí và đầu đạn chứa Uranium nghèo, đặc biệt là xác định và quản lý các khu vực cũng như vật liệu nhiễm độc”. Yêu cầu này là một sự ám chỉ ngầm cho thấy sự thật là các điều tra viên đã bị ngăn cản trong việc nghiên cứu nhiễm độc Uranium ở Iraq, do Lầu Năm Góc từ chối cung cấp bản đồ của tất cả các vị trí bị tấn công bằng DU.

Trong giới hạn ngoại giao của nghị quyết Liên Hiệp Quốc, các quốc gia không bị nêu tên cụ thể. Mặc dù vậy, thế giới biết rằng gần 700 tấn đầu đạn DU được quân đội Hoa Kỳ trút xuống Iraq và Kuwait vào năm 1991, và các chiến đấu cơ Hoa Kỳ đã nã 3 tấn đạn DU khác vào Bosnia trong năm 1994 và 1995; 10 tấn vào Kosovo trong năm 1999, và khoảng 170 tấn vào Iraq trong năm 2003. 

Liên Minh Quốc Tế Cấm Vũ Khí Uranium (ICBW.org) ở Manchester, Anh và đại diện cho 160 tổ chức xã hội dân sự trên thế giới, đóng vai trò chủ chốt trong việc theo dõi cả 5 nghị quyết của Liên Hiệp Quốc được triển khai và vận động một hiệp ước coi loại đầu đạn này là bất hợp pháp. Vào tháng 10, ICBUW đưa tin rằng quân đội Hoa Kỳ sẽ tiếp tục sử dụng vũ khí DU ở Iraq và trong các cuộc tấn công quân ISIS “nếu điều đó là cần thiết”. Sự thừa nhận xuất hiện bất chấp lời kêu gọi mới đây vào mùa hè 2014 ở Iraq về việc cấm vũ khí loại này và hỗ trợ làm sạch các nhiễm độc còn tồn dư từ các cuộc ném bom năm 1991 và 2003.

Nghị quyết mới của Liên Hiệp Quốc dựa trên Chương Trình Môi Trường Liên Hiệp Quốc (UNEP), do họ đã thực hiện các khảo sát về phóng xạ tại các mục tiêu ném bom của NATO ở Balkan và Kosovo. Nghiên cứu của UNEP năm 2001 đã buộc Lầu Năm Góc thừa nhận rằng DU có trộn lẫn Plutonium. (Associated Press, Capital Times, Feb. 3, 2001: “ Nhưng hiện giờ Lầu Năm Góc tuyên bố rằng các đầu đạn được sử dụng trong cuộc xung đột ở Kosovo năm 1999 bị nhiễm một lượng nhỏ Plutonium, Netunium và Amercium – phụ phẩm của các lò phản ứng hạt nhân phát xạ lớn hơn Uranium nghèo.”)

Đoạn thứ tư đáng chú ý của nghị quyết ghi nhận một phần “… sự thiếu chắc chắn chủ yếu về mặt khoa học phản đối các tác động môi trường dài hạn của Uranium nghèo, đặc biệt là liên quan đến nhiễm độc nước mặt dài hạn. Do những sự thiếu chắc chắn về khoa học này mà Liên Hiệp Quốc kêu gọi một phương thức tiếp cận mang tính phòng ngừa đối với việc sử dụng Uranium nghèo, và khuyến nghị các hoạt động dọn sạch cũng như giải độc cho các khu vực ô nhiễm. Nghị quyết cũng kêu gọi gia tăng nhận thức của cư dân địa phương và sự theo dõi trong tương lai.”

“Nguyên tắc phòng ngừa” có nghĩa là các hoạt động hay chất liệu rủi ro phải được tránh xa và được ngăn cản trừ khi chúng được chứng minh là an toàn. Dĩ nhiên, thay vì áp dụng nguyên tắc phòng ngừa, Lầu Năm Góc phủ nhận việc DU có liên quan tới các vấn đề sức khỏe.

John LaForge làm việc cho tổ chức Nukewatch và sống tại Plowshares Land Trust ở gần Luck, Wisc.