Sunday, June 28, 2015

Gia đình thời thông đít

Khuyến cáo là chuyện cười này cực kỳ bậy và bẩn thỉu, ai đang ăn uống hoặc nhạy cảm thì không nên đọc. Tuy vậy không có thích hợp hơn để mô tả cái văn hóa thông đít mà đám LGBT và vô số kẻ ăn theo đang hò reo ầm ĩ sau khi nước Mỹ thông qua luật cho phép kết hôn đồng tính (mặc dù là nước thứ 21trên thế giới).

Gia đình thời thông đít

Mẹ đi vắng, bố ở nhà trông con. Đứa con gái lớn muốn đi xem phim với bạn gái liền xin phép ông bố.

Ông bố nói : Mày bú chim tao đi rồi tao cho đi. 

Đứa con gái không đồng ý, bỏ vào phòng riêng ngồi. Một lúc sau, bạn gái nó gọi điện bảo hôm nay rạp chiếu phim về đám lưỡng tính hay lắm, không xem thì quá uổng.

Đứa con gái lại ra chỗ ông bố nói đồng ý làm để được đi xem phim. Ông bố móc chim ra cho nó bú. 

Đứa con gái ngửi thấy chim có mùi cứt liền hỏi: Sao chim bố có mùi cứt vậy?

Ông bố trả lời: À, đó là bởi vì em trai mày cũng muốn đi coi phim.

(Truyện bịa, chỉ để giải trí, nhưng không nhất thiết phải khác với sự thật khi thiên hạ cứ tung hô thứ văn hóa thông đít nhau bệnh hoạn như hiện nay.)


Friday, June 26, 2015

Sách giáo khoa lịch sử của Hoa Kỳ lảng tránh chủ đề chiến tranh xâm lược Việt Nam

Mỗi khi bàn đến chuyện học và dạy môn lịch sử là báo chí lại đua nhau đăng bài ca ngợi cách dạy và học môn lịch sử của Mỹ để làm gương cho Việt Nam. Họ đăng hình ảnh của một buổi học và thực hành có phụ huynh tham dự để thấy sự sinh động, hay phê phán:...ở Việt Nam vẫn chưa vượt qua những bài giảng mang nặng tính ý thức hệ và duy ý chí. Nhưng James W. Loewen, trong cuốn sách "Lies My Teacher Told Me" do nhà xuất bản Touchstone phát hành năm 2007, lại tiết lộ những bí mật kinh khủng khác trong việc dạy và học lịch sử ở Mỹ như lảng tránh sự thật, cắt xén lịch sử, áp đặt quan điểm chính thống... đặc biệt là người Mỹ lẩn tránh chủ đề chiến tranh Việt Nam, không có báo chí hay sách vở nào ở Việt Nam nói về điều này. 

Dưới đây là bản dịch chương 9 "Down the Memory Hole: The Disappearance of Recent Past" của cuốn sách.

Nếu chúng ta không nói về chúng, những người khác chắn sẽ viết lại đề cương. Mỗi túi xác, mỗi ngôi mộ tập thể sẽ được mở ra và nội dung của chúng sẽ được phù phép thành nguyên nhân cao quý.
George Swiers, Cựu chiến binh Việt Nam1

Khi thông tin có vẻ như thuộc về công chúng bị những người có quyền lực kiểm soát một cách có hệ thống, người dân sớm trở thành ngu ngốc về công việc của họ, thiếu tin tưởng những người cai quản họ và – thậm chí – không có khả năng quyết định vận mệnh của họ.
Richard M. Nixon2

Mục tiêu của nhà sử học là biết những thành phần của hiện tại thông qua việc hiểu biết những gì đi từ quá khứ đến hiện tại, do hiện tại chỉ là quá khứ phát triển lên…. Mục tiêu của nhà sử học là hiện tại sống động.
Frederick Jackson Turner3

Chúng ta nhìn mọi thứ không phải như chúng tồn tại mà như chúng ta tồn tại.
—Anai's Nin

Chìm trong quên lãng: Sự biến mất của quá khứ gần

Nhiều xã hội Châu Phi phân chia con người thành ba loại: những người còn sống trên trái đất, sasha và zamani. Những người mới chết có thời gian trên trái đất chồng lên thời gian của những người còn sống là sasha, xác sống. Họ chưa chết hoàn toàn, họ vẫn còn tồn tại trong ký ức của người sống, những người có thể nhắc tới họ trong ý nghĩ, tạo ra hình ảnh của họ trong nghệ thuật và mang họ trở lại đời sống bằng giai thoại. Loại còn lại là tổ tiên đã chết, đã rời bỏ sasha để trở thành zamani, người chết. Khi tổ tiên được khái quát hóa, zamani không bị quên lãng mà được tôn kính. Nhiều người như George Washington hay Clara Barton có thể được nhắc tên. Nhưng họ không phải là xác sống. Đây là sự khác biệt. 4

Do chúng ta thiếu những khái niệm Kiswahili nên chúng ta hiếm khi nghĩ về sự khác biệt này một cách có hệ thống, nhưng chúng ta cũng vẫn làm điều đó. Xét xét cách thức chúng ta đọc mô tả về một sự kiện đã trải qua, đặc biệt là khi chúng ta tham gia vào đó, bất kể là sự kiện thể thao hay Chiến Tranh Vùng Vịnh, chúng ta đọc với tinh thần phê phán, đánh giá sai lầm hay đồng ý hoặc học những điều đúng đắn của tác giả. Khi chúng ta nghiên cứu quá khứ xa hơn, chúng ta có thể cũng đọc một cách phê phán, nhưng chúng ta chỉ có ít cơ sở về nó và để phê phán những gì chúng ta đọc.

Các tác giả của sách giáo khoa lịch sử Hoa Kỳ dường như quá rõ về sasha – sự thật là giáo viên, cha mẹ và các thành viên của ủy ban chấp nhận sách giáo khoa đều đã từng trải qua quá khứ gần đây. Họ dường như không cảm thấy dễ chịu với điều đó. Tôn kính zamani  - tổ tiên chung – hợp với phong cách của họ hơn. Theo định nghĩa, thế giới của sasha là mâu thuẫn, bởi vì độc giả đưa vào đó kiến thức và hiểu biết của bản thân, có thể không đồng thuận với những gì được viết, do đó, càng nói ít về quá khứ gần thì càng tốt. Tôi đã nghiên cứu cách thức mà mười bài tường thuật lịch sử Hoa Kỳ trong mẫu trình bày về lịch sử trong năm thập kỷ cho tới những năm 1980. (Tôi loại trừ những năm 1980 bởi vì một số sách giáo khoa xuất hiện vào thập kỷ này, nên chúng không thể tường thuật đầy đủ được.) Tính trung bình sách giáo khoa dùng 47 trang cho những năm 1930, 43,6 trang cho những năm 1940 và dưới 35 trang cho mỗi thập kỷ tiếp theo. Ngay cả thập kỷ 1960 đầy xáo trộn – trong đó có phong trào dân quyền, phần lớn cuộc chiến tranh Việt Nam và vụ sát hại Martin Luther King, Jr., Medgar Evers, Malcom X, John và Robert Kennedy – cũng có ít hơn 35 trang.   
Tôi sử dụng khái niệm tường thuật giới hạn trong những đoạn trước bởi vì nghiên cứu cho thấy một sự khác biệt rõ ràng giữa sách giáo khoa tìm hiểu và sách giáo khoa tường thuật. Hai cuốn sách Khám Phá Lịch Sử Hoa Kỳ và Cuộc Phiêu Lưu Hoa Kỳ, có rất nhiều bản đồ, hình ảnh minh họa và trích dẫn từ các nguồn sơ cấp, không thể hiện sasha. Sự chú ý của họ đối với quá khứ gần chỉ cho thấy ý đồ làm cho lịch sử phù hợp với các sự kiện và chủ đề hiện tại của tác giả. Thậm chí những chương đầu của hai cuốn sách giáo khoa này còn kêu gọi học sinh áp dụng những điều học được cho hiện tại. Do đó, bất chấp việc cả hai cuốn sách đã được xuất bản trước khi những năm 1970 kết thúc, chúng giành nhiều không gian hơn cho những năm 1960 và 1970 so với mười cuốn sách giáo khoa tường thuật còn lại, không có cuốn sách giáo khoa tìm hiểu nào trên thị trường. Việc chúng thiếu sức sống trên thị trường có thể đoán rằng trong quá khứ gần đây các nhà xuất bản sách giáo khoa tường thuật đã đáp ứng được nhu cầu. Có vẻ như là nhu cầu tránh sự xung đột.

Lảng tránh sasha chắc chắn không đáp ứng được nhu cầu của sinh viên. Tác giả sách giáo khoa có thể làm việc dựa theo giả định rằng tường thuật về các sự kiện mới qua là không cần thiết vì sinh viên đã biết về chúng. Mặc dù vậy, khi tác giả sách giáo khoa có khuynh hướng lớn tuổi, sasha của họ là zamani của học sinh.
  
Khi giáo sư đại học chúng ta trở nên già hơn, chúng ta sẽ ngạc nhiên hơn về những điều mà sinh viên không biết trong quá khứ gần. Tôi nhận ra hiện tượng này lần đầu tiên khi những năm 1970 biến thành những năm 1980. Khi giảng dạy về chiến tranh Việt Nam, tôi nhận được nhiều hơn những cái nhìn ngơ ngác. Một phần tư, sau đó là một nửa và vào những năm 1990, 4/5 số sinh viên năm thứ nhất không biết gì về ý nghĩa của từ có bốn chữ cái hawk (diều hâu) và dove (bồ câu). Vào ngày đầu tiên của khóa học năm 1989, tôi đưa ra cho sinh viên một câu đố từ có câu hỏi mở, “Ai đã chiến đấu trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam?” Gần một phần tư sinh viên của tôi trả lời là binh lính Bắc và Nam Triều Tiên! Tôi đã sững sờ - đối với tôi điều này tương tự như câu trả lời  “1957” cho câu hỏi “Cuộc chiến tranh 1812 diễn ra vào năm nào?” Trên thực tế, nhiều học sinh mới tốt nghiệp trung học biết về chiến tranh 1812 hơn chiến tranh Việt Nam.5 Điều đó chẳng có nghĩa gì nhiều và không đáng để lên án học sinh. Đó khó có thể là lỗi của chúng. Nếu hồi ức công dân của chúng ta bắt đầu khi chúng ta mười tuổi thì sinh viên cuối cùng có chút hồi ức về chiến tranh Việt Nam đã tốt nghiệp trung học vào năm 1983. Chiến tranh là lĩnh vực bỏ trống đối với sinh viên hiện nay, họ chưa ra đời khi nó kết thúc. Phong trào phụ nữ, vụ Watergate, và nhiệm kỳ của tổng thống Carter cũng tương tự như vậy. Phim ảnh, tiểu thuyết, ca khúc và các phương tiện văn hóa đại chúng khác cũng đề cập quá khứ gần, nhưng trộn lẫn giữa sự thật và hư cấu, nhưng mọi người hâm mộ phim Rambo có thể làm chứng.6 Sinh viên cần thông tin về quá khứ gần từ các khóa học lịch sử ở trường trung học. Trên hết, quá khứ gần là lịch sử có tác động hầu như tức thì đối với đời sống hàng ngày của chúng ta.

Quan niệm rằng khóa học lịch sử nên hạ thấp sasha so với zamani ở xa thật là ngoan cố. So sánh tường thuật của sách giáo khoa về chiến tranh Việt Nam và chiến tranh 1812 sẽ minh họa cho sự ngoan cố này. Cuộc chiến tranh 1812 diễn ra gần hai thế kỷ trước đã giết chết khoảng 2 ngàn người Mỹ. Tuy nhiên, sách giáo khoa lịch sử trung học Hoa Kỳ giành cho nó số trang tương tự với cuộc chiến tranh Việt Nam – 9 trang. Người ta có thể lập luận, tôi nghĩ vậy, rằng chiến tranh 1812 quan trọng hơn chiến tranh Việt Nam và cần phải có nhiều không gian. Sách giáo khoa lịch sử của chúng ta không khẳng định như vậy: hầu hết tác giả sách giáo khoa lịch sử không biết gì về chiến tranh 1812 và không khẳng định gì về sự quan trọng của nó.

Mặc dù cuộc chiến tranh 1812 chỉ dài bằng nửa chiến tranh Việt Nam, nhưng các tác giả xem xét nó chi tiết hơn. Họ kể một cách xa hoa về các trận đánh đơn lẻ và anh hùng trong 1812. Ví dụ cuốn Miền Đất Hứa giành ba đoạn cho trận hải chiến ven đảo Put-in-Bay trên hồ Erie, tức là mỗi đoạn cho một giờ của trận đánh! Việt Nam không được chi tiết như vậy! Không gian hà tiện chỉ là một phần của vấn đề. Chín trang phân tích thú vị về chiến tranh Việt Nam có thể chứng minh hơn cả đầy đủ. 7 Chúng ta phải hỏi về loại tường thuật của sách giáo khoa, với hình ảnh mà chúng đưa ra. Các bức ảnh là một phẩn của tư liệu chiến tranh ở Hoa Kỳ kể từ khi có những bức ảnh nổi tiếng của Matthew Brady về Nội Chiến. Ở Việt Nam, hình ảnh truyền hình đã xuất hiện nhưng những bức ảnh vẫn ấn tượng đối với nhận thức và cảm xúc của người dân Mỹ. Hơn bất cứ cuộc chiến nào trong lịch sử của chúng ta, chiến tranh Việt Nam được đặc trưng bằng hàng loạt hình ảnh đóng dấu vào ý thức của công chúng. Tôi hỏi hàng tá người trưởng thành đủ lớn tuổi để sống qua thời chiến tranh về hình ảnh sống động mà họ còn nhớ; danh sách mà họ đưa ra cho thấy sự trùng khớp đáng chú ý. Một danh sách ngắn bao gồm 5 bức ảnh:

Một nhà sư ngồi ở khu vực công cộng của Sài Gòn, tự thiêu để phản đối chính quyền Nam Việt Nam;

Một bé gái trần truồng chạy trên đường quốc lộ, trốn khỏi trận bom na-pam;

Giám đốc cảnh sát quốc gia xử tử một người đàn ông đang sợ hãi, bị tình nghi là Việt Cộng, với một phát súng lục vào thái dương;

Những xác chết nằm trong mương sau vụ thảm sát Mỹ Lai;

Những người Mỹ di tản từ mái nhà ở Sài Gòn bằng trực thăng, trong khi những người Việt Nam hốt hoảng tìm cách trèo lên khoang.

Danh sách này cũng có thể bao gồm hai hình ảnh chung khác: Máy bay B-52 đang thả bom trên phần lãnh thổ thủng lỗ chỗ như bệnh đậu mùa của Việt Nam, một thành phố hoang tàn như Huế, chẳng còn gì ngoài gạch vụn, khi quân đội Hoa Kỳ và Nam Việt Nam tiến vào giành lại quyền kiểm soát sau đợt tấn công Tết.

Chỉ cần đọc phần mô tả ngắn là những người Mỹ già nhất nhớ lại chi tiết của hình ảnh. Cảm xúc đã đưa họ quay trở lại quá khứ một cách sống động. Dĩ nhiên, kể từ khi Hoa Kỳ can dự sâu vào cuộc chiến từ năm 1965 đến 1973, người Mỹ phải ít nhất là 30 tuổi vào năm 1993 để có hình ảnh này trong sasha của họ. Ngày nay, thanh niên hiếm có cơ hội nhìn thấy hay gợi nhắc đến những hình ảnh này trừ khi sách giáo khoa lịch sử cho họ biết. Chúng không làm vậy. Những bức ảnh này đã bì vùi sâu vào lãng quên, rơi tuột vào lò nung, nơi các sự thật khó chịu bị thiêu thành tro bụi trong tác phẩm 1984 của George Orwell. Cuốn sách duy nhất, Đám Rước Hoa Kỳ, có một trong những bức ảnh đã nêu; giám đốc cảnh sát bắn người đàn ông đang sợ hãi.10 Không có cuốn sách nào khác đăng bất cứ bức ảnh nào trong số những bức ảnh nêu trên. Cuộc Phiêu Lưu Mỹ có một bức ảnh chúng ta ném bom Việt Nam nhưng bức ảnh cho thấy máy bay B-52 và bom ở dưới không đem lai cảm giác về sự tàn phá đối với mặt đất.

Bảy bức ảnh được trích dẫn là các ví dụ quan trọng của tài liệu sơ cấp về chiến tranh Việt Nam. Phe diều hâu có thể tuyên bố rằng những bức ảnh này đã thổi phồng các khía cạnh chiến tranh mà chúng phản ánh. Mặc dù vậy, những bức ảnh này cũng có những khẳng định bổ sung đối với ý nghĩa lịch sử: chúng tạo ra lịch sử, do chúng tác động tới cách người Mỹ nghĩ về cuộc chiến. Một số trong những bức ảnh này tiếp tục “là những bức ảnh nổi tiếng nhất thế giới từng được biết cho đến nay [1991],” theo Patrick Hagopian. Việc loại chúng khỏi sách giáo khoa lịch sử đã làm thay đổi độc giả hiện nay. Khi sinh viên của tôi viết, “Việc đưa ra bức ảnh một bé gái trần truồng kêu khóc sau khi bị bỏng na-pam đã thay đổi toàn bộ ý nghĩa của cuộc chiến tranh này đối với học sinh trung học.” Ở Việt Nam, Hoa Kỳ đã ném số lượng bom gấp 3 lần số lượng bom được ném xuống tất cả các mặt trận trong chiến tranh Thế Giới thứ II, ngay cả khi cộng thêm bom nguyên tử mà chúng ta đã ném xuống Hiroshima và Nagasaki, thế nên tác giả sách giáo khoa có nhiều bức ảnh về sự tàn phá của bom để lựa chọn. Trên mặt đất, sau đợt tấn công Tết, Việt Cộng và quân đội Bắc Việt đã chiếm giữ nhiều thành phố và thị trấn ở miền Nam Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và miền Nam Việt Nam đã nã pháo Huế, Bến Tre, Quảng Trị và các thành phố khác trước khi chiếm lại chúng. Tuy vậy, không có sách giáo khoa nào tường thuật về những thiệt hại mà phe chúng ta gây ra.

Dĩ nhiên, tác giả và biên tập viên sách giáo khoa phải lựa chọn từ hàng ngàn bức ảnh về chiến tranh Việt Nam. Họ có thể lựa chọn khác đi và vẫn biện minh cho chiến tranh. Nhưng ít nhất họ cũng phải tường thuật sự tàn bạo đối với thường dân Việt Nam, những người này thường xuyên và bắt buộc phải đối mặt với chiến tranh mà không có giới tuyến, mà ở đó quân đội của chúng ta chỉ có khái niệm cực kỳ mơ hồ như đồng minh và đối thủ. Tấn công thường dân là chính sách của Hoa Kỳ, như tướng William C. Westmoreland đã mô tả về thiệt hại dân sự: “Đó có phải là tiêu diệt kẻ thù của dân chúng không?” Chúng ta đánh giá sự tiến bộ bằng cách đếm xác và vạch ra các khu vực bắn tự do, ở đó toàn bộ thường dân bị coi là kẻ thù. Chiến lược này không thể không dẫn đến các tội phạm chiến tranh. Do đó, Mỹ Lai không phải là sự kiện cá biệt, không đáng để đề cập trong lịch sử quốc gia mà thực sự quan trọng bởi vì sự đại diện cho những gì diễn ra trong toàn bộ chiến tranh ở Việt Nam. Mỹ Lai là ví dụ nổi tiếng nhất mà John Kerry, một Cựu Chiến Binh Việt Nam Chống Chiến Tranh, hiện giờ là thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, cho rằng “không phải là sự kiện đơn lẻ mà là tội ác thường ngày với sự nhận biết của sĩ quan và tất cả các cấp chỉ huy.” Xuất hiện trước Ủy Ban Quan Hệ Quốc Tế Thượng Viện vào tháng 4 năm 1971, Kerry nói, “Hơn 150 người xuất ngũ trong danh dự và nhiều cựu chiến binh được gắn huân chương cấp cao nhất đã làm chứng về tội ác chiến tranh ở Đông Nam Á.” Ông tiếp tục kể về cách quân đội Hoa Kỳ “đích thân cưỡng hiếp, cắt tai, cắt đầu, buộc dây điện từ máy điện đài vào bộ phận sinh dục và bật điện, cắt chân tay, nổ tung xác, bắn ngẫu nhiên vào thường dân, san bằng các ngôi làng theo kiểu Thành Cát Tư Hãn, bắn chết gia súc và chó cho vui, đầu độc thực phẩm dự trữ và tàn phá hoàn toàn miền nam Việt Nam. Tất cả những điều này là “thêm vào sự tàn phá thông thường của chiến tranh.”15 Những bức ảnh về việc lính Mỹ châm lửa đốt nhà của người Việt Nam, một hình ảnh thường thấy trong chiến tranh, sẽ nhấn mạnh điều này, nhưng không có bất cứ sách giáo khoa nào sử dụng bất cứ hình ảnh tội lỗi nào của người Mỹ. Không có sách giáo khoa nào có bất cứ bức ảnh nào về sự phá hủy, thậm chí các mục tiêu hợp lệ, mà phía chúng ta gây ra. Chỉ có cuốn sách Khám Phá Lịch Sử Hoa Kỳ, một cuốn sách giáo khoa tìm hiểu, mô tả vụ thảm sát Mỹ Lai là sự kiện đơn lẻ. Thêm vào đó, để cho học sinh dốt nát về lịch sử chiến tranh, sự im lặng của các cuốn sách giáo khoa khác về chủ đề này cũng làm cho phong trào phản chiến khó hiểu.

Hai tác giả sách giáo khoa, James West Daividson và Mark H. Lytle, thể hiện ở đâu đó là biết về tầm quan trọng của vụ thảm sát Mỹ Lai. “Chiến lược của Hoa Kỳ hàm chứa sự tàn bạo,” Lytle nói với tôi. Davidson và Lytle dùng gần hết một chương trong cuốn sách After the Fart để mô tả vụ thảm sát Mỹ Lai. Ở đó họ cho biết tin tức về vụ thảm sát đã làm Hoa Kỳ sửng sốt ra sao. “Một điều chắc chắn là sự đụng độ trở thành thời điểm xác định trong nhận thức của công chúng về chiến tranh,”16 họ viết. Mặc dù vậy, họ không cho rằng học sinh trung học cần biết về điều đó trong sách giáo khoa lịch sử của họ, Hoa Kỳ - Lịch Sử Nước Cộng Hòa, giống như bảy cuốn sách khác trong mẫu của tôi, không bao giờ đề cập tới Mỹ Lai.

Nếu sách giáo khoa che giấu tất cả những bức ảnh quan trọng về chiến tranh Việt Nam thì những bức ảnh nào họ sẽ đăng? Hầu như là những bức ảnh không gây tranh cãi – lính đi tuần, đi qua đầm lầy, hay nhảy xuống từ trực thăng. Bảy cuốn sách giáo khoa có ảnh người tị nạn hay thiệt hại do phe bên kia gây ra, nhưng những thiệt hại đó thường có quy mô rất nhỏ so với những gì bom đạn của chúng ta gây ra, những bức ảnh không thật sự ấn tượng.

Văn của họ thì sao? Đáng buồn, tác giả sách giáo khoa cũng loại bỏ tất cả những trích dẫn đáng nhớ của thời kỳ đó. Martin Luther King, Jr., lãnh đạo chủ chốt đầu tiên chống chiến tranh, phản đối nó bằng ngữ điệu riêng của ông: “Chúng ta phá hủy hai thể chế quan trọng nhất của họ: gia đình và làng. Chúng ta phá hủy đất đai và mùa màng của họ …. Chúng ta làm hư hỏng phụ nữ và trẻ em của họ, giết đàn ông của họ.”17 Không có sách giáo khoa nào trích dẫn King. Thậm chí về người bất đồng chính kiến nổi tiếng Muhammad Ali, sau này là nhà vô địch quyền anh hạng nặng thế giới cũng vậy. Ali từ chối tham gia quân ngũ, vì thế mà ông đã bị tước danh hiệu, và nói, “Không có Việt Cộng nào từng gọi tôi là “mọi đen”.” Tất cả mười hai cuốn sách giáo khoa đều không trích dẫn. Sau đợt tấn công Tết, một sĩ quan quân đội Hoa Kỳ tham gia vào việc tái chiếm Bến Tre nói, “Cần thiết phải phá hủy thành phố để bảo vệ nó.” Đối với bốn triệu người Mỹ, tuyên bố này đã tóm tắt tác động của Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Không sách giáo khoa nào trích dẫn điều này.18 Cũng không có sách giáo khoa nào trích dẫn lời khẩn cầu rút quân ngay lập tức của John Kerry: “Làm sao anh có thể yêu cầu ai đó sẽ là người cuối cùng chết cho sai lầm?” 19 Toàn bộ phong trào phản chiến trở thành không thể hiểu được bởi vì sách giáo khoa không cho phép nó thể hiện bản thân. Chúng loại bỏ các bài ca phản chiến, các biểu ngữ - “Khủng khiếp, Không; Chúng tôi không đi!” và “Này, LBJ, hôm nay ông sẽ giết bao nhiêu trẻ con?” – và trên hết là cảm xúc.20 Dường như chỉ có tổng thống Johnson và Nixon là được trích dẫn. Trong một đoạn đặc trưng của Đám Rước Hoa Kỳ, Nixon nói, “Nước Mỹ không thể - và sẽ không – phác thảo mọi kế hoạch, thiết kế mọi chương trình, thực hiện mọi quyết định và bảo vệ cho các quốc gia tự do trên thế giới.” Đoạn này không làm rõ chiến tranh hay phản đối nó. Thậm chí phần trích dẫn độc giả bổ sung của Đám Rước Hoa Kỳ chỉ trích dẫn Johnson và Nixon như là nguồn sơ cấp về chiến tranh Việt Nam – không một từ nào của những người tham chiến hay phản đối nó.    

Khi loại bỏ quan điểm, tiếng nói và cảm giác về thời kỳ Việt Nam, tác giả sách giáo khoa đã loại bỏ cả chủ đề. Frances FitzGerald trong phần bổ sung cho cuốn Sử Chữa Hoa Kỳ, viết cuốn Lửa Trong Hồ, một cuốn sách hay về Việt Nam, gọi các sách giáo khoa mà bà đánh giá vào năm 1979 là “chẳng phải diều hâu hay hay bồ câu về chiến tranh – họ chỉ lẩn tránh.” Bà tiếp tục nói, “Khi chúng thảo luận về chiến tranh một cách thực sự khó khăn và lảng tránh những vấn đề chủ chốt thì phần Việt Nam rất đáng đọc.”21 Ở một cấp độ nào đó, xác định chủ đề là vấn đề diễn giải và tôi sẽ không muốn chê trách sách giáo khoa về việc có sự diễn giải khác với tôi. Dĩ nhiên chúng ta có thể đồng ý rằng sự đối xử hợp lý về chiến tranh Việt Nam sẽ được thảo luận ít nhất là với sáu câu hỏi như sau:

Tại sao Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam?

Cuộc chiến tranh trước khi Hoa Kỳ tham chiến là gì? Chúng ta thay đổi điều đó ra sao?

Tại sao phong trào phản chiến lại mạnh như vậy ở Hoa Kỳ?

Những phê phán về chiến tranh ở Việt Nam là gì? Chúng có đúng không?

Tại sao Hoa Kỳ thua trận?

Bài học mà chúng ta rút ra từ kinh nghiệm này là gì?

Cách đơn giản để đặt ra những câu hỏi này là thừa nhận rằng mỗi câu đều vẫn đang mâu thuẫn. Lấy câu thứ nhất. Một số người vẫn lập luận rằng Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam để đảm bảo sự tiếp cận các nguồn tài nguyên quý giá của đất nước này. Một số khác tuyên bố rằng chúng ta tham chiến để mang đến dân chủ cho người Việt Nam. Dĩ nhiên, phổ biến hơn là các phân tích về chính sách đối nội của chúng ta: tổng thống Dân Chủ Kennedy và Johnson, đã chứng kiến phe Cộng Hòa khiển trách Truman về việc “mất” Trung Quốc, không muốn bị coi là “mất” Việt Nam. Một sự diễn giải khác đưa ra học thuyết domino: giờ đây chúng ta biết rằng cộng sản Việt Nam thù địch với Trung Quốc, trước đây chúng ta chưa biết, một số lãnh đạo tin rằng nếu Việt Nam “rơi” vào tay cộng sản thì Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippine sẽ cũng như vậy. Mặc dù vậy, quan điểm khác cho rằng Hoa Kỳ cảm thấy có thanh danh và không muốn bị đánh bại ở Việt Nam, vì sợ rằng hòa bình kiểu Mỹ sẽ bị đe dọa ở Châu Phi, Nam Mỹ và bất cứ đâu trên thế giới. Một số người theo thuyết âm mưu đi xa hơn, khẳng định rằng các doanh nghiệp lớn kích động cuộc chiến để hỗ trợ nền kinh tế. Một số nhà sử học có quan điểm rộng hơn, cho rằng sự can thiệp của chúng ta ở Việt Nam xuất phát từ hình mẫu văn hóa phát xít và đế quốc được bắt đầu từ cuộc chiến tranh da đỏ đầu tiên ở Virginia vào năm 1622, tiếp diễn trong thế kỷ 19 với “Tuyên Ngôn Định Mệnh”, và giờ là theo ngọn gió “Thế Kỷ Hoa Kỳ”. Họ chỉ ra rằng lính Mỹ ở Việt Nam thu thập và trưng bày tai của người Việt Nam giống như thực dân Anh ở Bắc Mỹ thu thập và trưng bày chỏm da đầu của người da đỏ.23 Quan điểm chung cuộc có thể là không có lý do rõ ràng và mục đích rõ ràng, rằng chúng ta bị lôi cuốn vào cuộc chiến bởi vì không có chính quyền kế tiếp nào đủ can đảm để vô hiệu hóa sai lầm chống lại các phong trào độc lập dân tộc của chúng ta vào năm 1946. Ngoại trưởng John Foster Dulles viết,  “Sai lầm căn bản liên quan đến Đông Dương được tạo ra sau năm 1945, khi chính quyền của chúng ta đồng ý cho Pháp và Anh khôi phục lại vị thế thực dân của Pháp ở Đông Dương.”24

Dĩ nhiên, mầm mống sự can thiệp bi kịch của Hoa Kỳ vào Việt Nam đã được ấp ủ ở Versailles vào năm 1918, khi đó Woodrow Wilson đã không nghe lời yêu cầu độc lập cho đất nước này của Hồ Chí Minh. Chúng nảy mầm khi chính sách của FDR không giúp Pháp tái thuộc đại hóa Đông Nam Á sau khi thế chiến thứ II kết thúc cùng với cái chết của ông ta. Kể từ đó sách giáo khoa hiếm khi đề xuất rằng những sự kiện của một thời kỳ này sẽ dẫn đến những sự kiện của thời kỳ tiếp theo, không mấy ngạc nhiên, không có cuốn sách giáo khoa nào mà tôi nghiên cứu quay trở lại trước những năm 1950 để giải thích chiến tranh Việt Nam.

Trong khoảng những năm 1950 và 1960, các bằng chứng lịch sử về những diễn giải mâu thuẫn yếu hơn thời kỳ khác, mặc dù vậy tôi không chọn phe ở đây.23 Tác giả sách giáo khoa cũng không cần phải chọn phe phái. Họ có thể trình bày một số diễn giải, cùng với một quan điểm ủng hộ về mặt lịch sử cho từng diễn giải và yêu cầu học sinh đưa kết luận của bản thân. Tuy vậy, những yêu cầu này không phải là phong cách của tác giả sách giáo khoa. Họ dường như bị bắt buộc trình bày câu trả lời “đúng” cho mọi câu hỏi, thậm chí cho cả các cuộc tranh luận không thể kết thúc.

Họ chọn cách diễn giải nào? Chẳng cách nào hết! Hầu hết sách giáo khoa lảng tránh chủ đề. Đây là phân tích đặc trưng, trong cuốn Cuộc Phiêu Lưu Hoa Kỳ: “Vào cuối những năm 1950, chiến tranh nổ ra ở miền Nam Việt Nam. Vào lúc này, Hoa Kỳ viện trợ cho người miền Nam Việt Nam.” “Chiến tranh nổ ra” – thật đơn giản làm sao! Cuốn Cuộc Phiêu Lưu Hoa Kỳ dùng 4 trang để trình bày lý do chúng ta tham gia vào cuộc chiến 1812, nhưng chỉ cần hai câu để trình bày lý do chúng ta tham chiến ở Việt Nam. Một trong những lý do khiến tác giả sách giáo khoa rón rén đi qua quá khứ gần đây, lảng tránh mọi chủ đề chính, có thể là họ cảm thấy không đủ chuyên môn để xử lý chúng. Không có ai trong số 45 tác giả của 12 cuốn sách giáo khoa trong mẫu của tôi là chuyên gia về quá khứ gần, như tôi có thể nói. Dĩ nhiên, sách giáo khoa được nhiều tác giả viết nên sẽ có nhiều chủ đề do các tác giả không phải là chuyên gia viết. Mặc dù vậy về các chủ đề trong zamani, tác giả sách giáo khoa có thể sử dụng quan điểm lịch sử làm lá chắn. Bằng cách viết theo giọng trí thức tẻ nhạt về những sự kiện trong zamani, các tác giả giả định rằng một sự thật lịch sử đơn lẻ tồn tại, các nhà sử học đã đồng ý về chúng và đó là thứ họ đang dạy cũng như học sinh cần phải ghi nhớ. Lối viết đó giả định rằng quan điểm lịch sử phát triển sẽ ngày càng đúng đắn hơn với một giai đoạn thời gian, che chở cho các tác giả sách giáo khoa ngày nay với sự tích lũy hiểu biết về lịch sử. Mặc dù vậy, họ không thể sử dụng quan điểm lịch sử để bảo vệ cho cách họ xử lý các sự kiện trong sasha. Khi không có quan điểm lịch sử, tác giả sách giáo khoa dường như trần trụi; không có phẩm chất đặc biệt nào cho phép họ có quyền tường thuật về các sự kiện mới qua với sự vô tư Olympia mà họ diễn thuyết hùng hồn về những sự kiện trong zamani.

Quan điểm lịch sử hoàn toàn biện minh cho sự thờ ơ đối với sasha. Các nhà sử học nói với chúng ta về việc họ gần gũi với bất kỳ sự kiện nào mới đây mà chúng ta cho rằng có thể quay trở lại và nhìn nó trong bối cảnh. Khi tài liệu mới xuất hiện trong tàng thư, họ tuyên bố, hoặc khi kết quả của hành động trở nên rõ ràng theo thời gian, chúng ta có thể đạt tới sự đánh giá “khách quan” hơn. Tuy vậy, khoảng thời gian không tự mình tạo ra quan điểm. Thông tin mất đi cũng như thu được cùng với thời gian.

Tại điểm này, chúng ta có thể nhắc lại một số thay đổi trong quan điểm được ghi nhận ở những chương trước. Hiện nay, Woodrow Wilson được xếp hạng tích cực hơn rất nhiều so với năm 1920. Sự cải thiện không xuất phát từ khám phá thông tin mới về chính quyền của ông ta mà là từ nhu cầu hệ tư tưởng của những năm 1940 và đầu những năm 1950. Trong những năm đó, các nhà sử học da trắng thường buộc tội Wilson về việc phân biệt chủng tộc ở chính quyền liên bang, bởi vì không có sự đồng thuận về việc coi sự phân biệt chủng tộc là sai. Vấn đề công cộng hàng đầu của thời hậu chiến không phải là quan hệ chủng tộc mà là bao vây chủ nghĩa cộng sản. Trong Chiến Tranh Lạnh, chính quyền của chúng ta hoạt động giống như dưới thời Wilson, với các cuộc chiến tranh bán công khai, lừa dối quốc hội và đàn áp phong trào tự do dân sự dưới danh nghĩa chống chủ nghĩa cộng sản. Chính sách của Wilson, mâu thuẫn và không được ủng hộ vào những năm 1920, trở thành bình thường vào những năm 1950. Quan chức và các nhà sử học vào những năm 1950 phủ nhận và tầm thường hóa chủ nghĩa biệt lập. Vụ lợi trong việc thúc ép Liên Hiệp Quốc, sau đó thông qua sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ, họ thừa nhận nỗ lực của Wilson theo mệnh lệnh của Liên Hiệp Quốc. N. Gordon Levin, Jr., thể hiện gọn gàng: “Cuối cùng, trong thời kỳ hậu chiến tranh Thế Giới thứ II, các giá trị của Wilson đã chiến thắng hoàn toàn trong sự đồng thuận lưỡng đảng của thời Chiến Tranh Lạnh.” Do vậy, sự đánh giá Wilson thay đổi trong sách giáo khoa hiện nay có thể cho thấy sự thật là nhu cầu hệ tư tưởng của những năm 1950, khi Wilson đã là zamani, khác với những năm 1920, khi ông ta mới là sasha.

Việc Tây Ban Nha ngược đãi và bắt cư dân da đỏ vùng Caribbe làm nô lệ được Bartolome de las Casas và nhiều người khác ghi nhận trong khi Columbus vẫn còn là sasha. Mặc dù vậy, sau đó Columbus được đề cao thành người can đảm của khoa học, bác bỏ khái niệm trái đất phẳng và mở ra chân trời mới cho sự tiến bộ. Columbus của thế kỷ 19 hấp dẫn một dân tộc đã tóm lược kết quả của 300 năm chiến tranh đánh bại các dân tộc da đỏ. Nhưng vào năm 1992, kẻ cướp bóc Columbus đã được chấp nhận ngang bằng với nhà thám hiểm Columbus, và nhiều cuộc kỷ niệm Columbus đã kéo theo phản đối, thường xuyên được người Mỹ bản địa tổ chức. Columbus “mới”, gần với Columbus của sasha, hấp dẫn một dân tộc khởi đầu với vài tá cựu thực dân, giờ là những dân tộc mới. Sự tương phản giữa kỷ niệm hành trình đầu tiên của Columbus vào năm 1892 và năm 1992 một lần nữa cho thấy tác động của những vị trí thuận lợi.

Huyền thoại của phe ly khai về Cải Cách lần đầu tiên xuất hiện tràn lan trong sách lịch sử vào lúc quan hệ chủng tộc tồi tệ nhất, từ năm 1890 đến năm 1920, và bám vào sách giáo khoa cho đến những năm 1960. Chính quyền Cải Cách được trình bày như là ví dụ về sự bất hợp pháp và tha hóa của “sự thống trị của người da đen”. Hiện nay, các nhà sử học quay lại quan điểm Cải Cách xuất hiện trong lịch sử cận đại, được viết khi các chính quyền cộng hòa vẫn cai trị các bang miền Nam. Eric Foner ca ngợi sự thay đổi là nhờ vào “học thuật khách quan và kinh nghiệm hiện đại,” một sự đổi pha gắn liền với hai nguyên nhân chủ chốt. Học thuật khách quan không tồn tại trong lịch sử, đó là lý do tại sao tôi mạo hiểm những từ ngữ như đúng và sai. Khoảng cách lịch sử không thúc đẩy sự mô tả chính xác hơn về Cải Cách. Bởi vì sự thật về Cải Cách không phù hợp với “kinh nghiệm hiện đại” về thời kỳ tăm tối, chúng nằm yên trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 20, bị hầu hết các nhà sử học nhìn lướt qua. Cho tới khi phong trào dân quyền thay đổi “kinh nghiệm hiện đại” thì sự thật mới nói với chúng ta.

Quan điểm lịch sử không phải là thành phẩm của một giai đoạn thời gian. Quan điểm chính xác hơn được rút ra từ lý thuyết mâu thuẫn về nhận thức của Leon Festinger, giả định rằng thực tiễn xã hội của một giai đoạn mà lịch sử được viết sẽ quết định quan điểm lịch sử về quá khứ.29 Học thuật khách quan phải kết nối với kinh nghiệm hiện đại cho phép chúng thắng thế. Tuyên bố quan điểm lịch sử không thích hợp với xã hội không phải là sự biện minh cho việc lảng tránh sasha. Các nhà sử học không có lý do nào ngoài sự hèn nhát để lảng tránh việc phơi bày hoàn toàn quá khứ gần đây của chúng ta.

Tác giả sách giáo khoa không phải là người duy nhất chịu trách nhiệm cho việc bỏ qua quá khứ gần trong các khóa học lịch sử trung học. Ngay cả khi sách giáo khoa giành không gian xứng đáng cho sasha, hầu hết học sinh sẽ phải tự đọc chúng, bởi vì hầu hết giáo viên không bao giờ đọc hết sách giáo khoa. Trong khóa học lịch sử Hoa Kỳ dài 1 năm, giáo viên lớp 5 Chris Zajac, đối tượng của Tracy Kidder trong cuốn sách Về Học Sinh, không bao giờ vượt qua Cải Cách! Thời gian không phải là vấn đề duy nhất. Giống như các nhà xuất bản, giáo viên không muốn có nguy cơ xúc phạm cha mẹ học sinh. Hơn nữa, theo Linda McNeil, hầu hết giáo viên đặc biệt không muốn dạy về Việt Nam. “Hồi ức của họ về thời kỳ chiến tranh Việt Nam khiến họ mong muốn lảng tránh chủ đề mà học sinh sẽ bất đồng với quan điểm của họ hoặc điều đó khiến học sinh “hoài nghi” các thể chế của Hoa Kỳ.” Do đó, trung bình giáo viên giành cho Chiến Tranh Việt Nam từ 0 đến 4,5 phút trong toàn bộ một năm học!29

Chiến Tranh Việt Nam gần như không gây bất đồng như một số chủ đề khác trong quá khứ gần; hiện nay hơn 2/3 người Mỹ trưởng thành coi chiến tranh là sai lầm về đạo đức cũng như vớ vẩn về mặt chiến thuật.30 Mâu thuẫn hơn là phong trào phụ nữ. Mọi trường học quận đều có các bậc cha mẹ ủng hộ mạnh mẽ vai trò giới tính truyền thống và các bậc cha mẹ khác không ủng hộ. Đồng tính là vấn đề cấm kỵ hơn trong thảo luận hay học tập. Đưa ra chủ đề về hành động khẳng định dẫn đến các tranh luận giận dữ. Một sự đánh giá tiêu cực về chính quyền Carter hay Reagan chắc chắn sẽ xúc phạm một số cha mẹ thuộc phe Dân Chủ hay Cộng Hòa, đáng chú ý là Mel và Norma Gabler, người tổ chức các thành viên cánh hữu để gây sức ép với nhà xuất bản, tìm cách thành lập công đoàn và Hội Đồng Nhà Thờ Quốc Gia cũng là những vấn đề quá xung đột để các tác giả và nhà xuất bản đề cập. Do các bậc cha mẹ có quan điểm về những sự kiện mà họ đã trải qua, giáo viên và tác giả có thể cảm thấy cần phải tiếp cận hầu hết các chủ đề trong sasha dưới điều kiện khắc nghiệt. Kết quả là lịch sử của quá khứ gần cũng giống như mẹ của Thumper khuyên bảo: “Nếu như mày không thể nói điều gì hay ho thì đừng nói gì hết.” Không có gì đáng ngạc nhiên, chỉ có 2 đến 4% sinh viên đại học nói rằng chúng có được những thứ cần thiết về Chiến Tranh Việt Nam ở trường trung học.31

Mặc dù vậy, khi sách giáo khoa trình bày về sasha, chúng gây khó khăn để học sinh không thể tạo dựng mối liên hệ giữa việc nghiên cứu quá khứ, cuộc sống của chúng hiện nay và những vấn đề mà chúng phải đối mặt trong tương lai. Các chính khách của các phe phái chính trị cầu khẩn “bài học Việt Nam” khi họ tranh luận về can thiệp ở Angolo, Lebanon, Kuwait, Somalia và Bosnia. Biểu ngữ của Bumper là “El Salvador là tên Tây Ban Nha của Việt Nam” để ngăn cản Hoa Kỳ đưa quân tới quốc gia này.32 “Bài học Việt Nam” cũng thường được sử dụng để thông tin hay tranh luận sai lầm về tình báo, báo chí, cách chính quyền liên bang điều hành và thậm chí là việc quân đội có tiếp nhận đồng tính nam hay không. Các vấn đề mà phong trào phụ nữ dấy lên vào những năm 1970 tiếp tục tác động đến xã hội Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến các thể chế từ gia đình đơn lẻ đến truyền thông. Học sinh tốt nghiệp trung học có quyền có đủ kiến thức về quá khứ gần để tham gia một cách thông minh vào những tranh luận này.

Quá khứ không bao giờ chết,” William Faulkner viết. “Nó thậm chí chưa qua đi.” Sasha là quá khứ quan trọng nhất của chúng ta, bởi vì nó đã chết nhưng là xác sống. Việc sách giáo khoa và giáo viên đánh cắp nó là tội ác học đường đáng nguyền rủa đối với học sinh trung học, lấy đi của chúng quan điểm về những vấn đề có tác động quan trọng đến chúng. Học sinh nửa nhớ nửa quên về trận chiến Put-in-Bay hay Silent Cal Coolidge chẳng mấy có ích cho việc hiểu thế giới mà chúng sẽ tham gia sau khi tốt nghiệp. Thế giới vẫn đặt ra vai trò của giới tính. Thế giới vẫn đầy những nước thuộc Thế Giới Thứ Ba có khả năng trở thành “Việt Nam mới”. Thế giới được đánh dấu bằng sự bất bình đẳng xã hội. Việc bỏ qua quá khứ gần đảm bảo rằng học sinh sẽ không học hỏi được nhiều để áp dụng vào thế giới từ các khóa học lịch sử

Công viên Thế Giới Disney ở Florida tổ chức buổi triển lãm có tên “Cuộc Phiêu Lưu Hoa Kỳ”, 29 phút về lịch sử Hoa Kỳ. Buổi triển lãm hoàn toàn bỏ qua Chiến Tranh Việt Nam, các vụ nổi loạn ghetto của những năm 1960 và 1990, mọi thứ gây rắc rối khác về quá khứ gần. Một mô tả cô đọng và nhạt nhẽo về quá khứ gần trong sách giáo khoa lịch sử Hoa Kỳ cho thấy sự suy sụp thần kinh tương tự của tác giả, nhà xuất bản và nhiều giáo viên. Học sinh trung học đáng được nhận những thứ tốt hơn lịch sử của Thế Giới Disney, nhất là khi sách giáo khoa của chúng không phải là phương tiện mua vui như công viên giải trí.

Chú thích:

Bản scan của cuốn sách mà tôi có bị lược bỏ phần chú thích nên tạm thời chưa thể dịch, khi tìm được phần chú thích thì tôi sẽ dịch và bổ sung sau.

Thursday, June 25, 2015

Sách giáo khoa lịch sử ở Hoa Kỳ xuyên tạc về hệ thống giai cấp

Trong các cuộc tranh luận gần đây về sách giáo khoa lịch sử, những kẻ thuộc cánh tự xưng là dân chủ đã tuyên bố rằng chính quyền Việt Nam xuyên tạc lịch sử, bóp méo lịch sử để biện minh cho sự thống trị của bản thân và chỉ có những hình mẫu tự do như nước Mỹ mới có tiếng nói trung thực về lịch sử, chỉ ở đó mới có sự thật và không có nhồi sọ. Tất nhiên họ nói dối và thật không may cho họ là James W. Loewen, trong cuốn sách "Lies My Teacher Told Me" do nhà xuất bản Touchstone phát hành năm 2007, đã tố cáo điều mà họ nói là dối trá. Học sinh Mỹ ghét môn lịch sử, đó là môn học nhàm chán nhất trong số tất cả các môn học, tất cả các sách giáo khoa lịch sử dù là của tư nhân cũng đều bị kiểm duyệt chặt chẽ qua nhiều tầng nhiều lớp để nhồi vào đầu học sinh những tín điều của giai cấp thống trị bất chấp mọi sự thật. 

Giai cấp vô sản không bao giờ ngần ngại khi phải nói sự thật này: Sách giáo khoa lịch sử cũng như giáo dục lịch sử nói chung phải phục vụ giai cấp vô sản và chế độ của do những người vô sản lập lên, và chỉ có như vậy nó mới tiến bộ và phục vụ cho đa số dân chúng. Người vô sản không bao giờ cần đến những trò mị dân bịp bợm của chế độ tư bản. Người vô sản thừa nhận hệ thống giai cấp và đấu tranh để xóa bỏ hệ thống ấy, ngược lại giai cấp tư sản phủ nhận hệ thống giai cấp để duy trì hệ thống ấy, đó là sự khác biệt căn bản giữa quan điểm của hai giai cấp.

Dưới đây là bản dịch Chương 7 "Land of Opportunity" của cuốn sách nêu trên. 

Lao động có trước và độc lập với tư bản. Tư bản là chỉ là thành quả của lao động và không bao giờ có thể tồn tại nếu lao động không tồn tại trước. Lao động tốt hơn tư bản và đáng được quan tâm hơn.
—Abraham Lincoln1

Có lúc tôi đã tin rằng tất cả chúng ta là chủ nhân số phận của mình – rằng chúng ta có thể sống theo cách mà chúng ta thấy hài lòng …. Tôi đã vượt qua sự câm điếc và mù lòa để hạnh phúc và tôi cho rằng bất cứ ai cũng có thể đạt được vinh quang nếu như họ đấu tranh một cách quả quyết. Nhưng khi tôi càng biết nhiều hơn về đất nước này thì tôi hiểu rằng mình đã khẳng định thứ mà mình biết rất ít. … Tôi hiểu rằng quyền lực đang trỗi dậy trên thế giới này nằm ngoài tầm với của mọi người.
—Helen Keller2

Mười người ở nước ta có thể mua cả thế giới trong khi mười triệu người khác không đủ ăn.
—Will Rogers, 1931

Không may là lịch sử của một quốc gia quá dễ để viết như là lịch sử của giai cấp thống trị.
—Kwame Nkrumah3

Miền đất hứa

Học sinh trung học có mắt, tai và ti vi (quá nhiều người có ti vi riêng), thế nên chúng biết rất nhiều về đặc quyền tương đối ở Hoa Kỳ. Chúng so sánh vị thế xã hội của gia đình mình với gia đình khác, so sánh vị thế cộng đồng này với cộng đồng khác. Đặc biệt là học sinh của tầng lớp trung lưu biết chút ít về các thức vận hành của cấu trúc giai cấp ở Hoa Kỳ, nhưng không biết gì về việc chúng thay đổi ra sao theo thời gian. Học sinh không thể thoát khỏi sự lảng tránh của trường trung học về sự vận hành của cấu trúc giai cấp; chúng thể hiện như những nhà khoa học xã hội bàng hoàng “Tại sao người ta nghèo?” Tôi hỏi các sinh viên năm thứ nhất. Hay nếu vị thế giai cấp của họ là tương đối đặc quyền, “Tại sao gia đình em được trả lương cao?” Câu hỏi mà tôi nhận được, cho thấy sự độ lượng, thiếu chín chắn và ngây thơ của các em. Sinh viên cho rằng người nghèo đã không thành công.4 Họ không biết tại sao cơ hội không bình đẳng ở Hoa Kỳ và không có khái niệm về việc cấu trúc xã hội thúc đẩy người dân thường xuyên, tác động tới ý tưởng và cuộc sống của họ.

Sách lịch sử trung học có thể chịu một số trách nhiệm về tình trạng này. Một số sách trình bày những điểm mấu chốt của lịch sử lao động, như vụ đình công Pullman 1894 ở gần Chicago mà thống đốc Cleveland đã đàn áp bằng quân đội liên bang, hay vụ nổ súng Triangle Shirtwaist giết hại 146 phụ nữ ở thành phố New York vào năm 1911, nhưng sự kiện gần đây nhất được đề cập trong hầu hết các cuốn sách là Luật Taft-Hartley cách đây đã 50 năm. Không có cuốn sách nào đề cập tới vụ đình công của công nhân đóng gói thịt Hormel vào giữa những năm 1980 hay cuộc đình công của nhân viên kiểm soát không lưu mà tổng thống Reagan đã đàn áp. Không có sách giáo khoa nào mô tả về những vấn đề mà công nhân phải tiếp tục đối mặt, như sự tăng trưởng của các doanh nghiệp đa quốc gia và họ xuất khẩu công việc ra nước ngoài. Với điều bỏ sót đó, tác giả sách giáo khoa có thể xây dựng lịch sử lao động như những chuyện đã diễn ra từ lâu, như chiếm hữu nô lệ, chế độ chiếm hữu nô lệ đã được sửa chữa từ lâu. Như vậy suy diễn theo logic thì các công đoàn có vẻ như là chủ nghĩa vô chính phủ. Lý do cần thiết để công nhân có tiếng nói ở nơi làm việc bị lờ đi.

Sách giáo khoa mô tả các sự kiện trong lịch sử lao động không bao giờ ăn khớp với các nghiên cứu về giai cấp 5. Những thứ chỉ đáng đưa vào phần chú thích chứ không phải là bài giảng! Sáu trong số 12 cuốn sách giáo khoa lịch sử của Hoa Kỳ mà tôi kiểm tra không có từ khóa như “giai cấp”, “phân chia giai cấp”, “cấu trúc giai cấp”, “phân phối thu nhập”, “bất bình đẳng”, hay những từ dễ hiểu về chủ đề liên quan. Không sách nào liệt kê từ “giai cấp trên”, “giai cấp lao động”, hay “giai cấp dưới”. Hai sách giáo khoa liệt kê từ “giai cấp trung lưu”, nhưng chỉ để thuyết phục học sinh rằng Hoa Kỳ là quốc gia của giai cấp trung lưu, “Ngoại trừ nô lệ, hầu hết các thực dân là thành viên của “tầng lớp bậc trung””, cuốn Miền Đất Hứa viết, và nhấn mạnh vào luận điểm chúng ta là quốc gia của tầng lớp trung lưu bằng cách hỏi sinh viên “Mô tả ba giá trị của “tầng lớp trung lưu” đã thống nhất người Mỹ tự do của mọi giai cấp.” Một số sách giáo khoa đề cập sự bùng nổ của các khu ngoại ô trung lưu sau Thế Chiến thứ II. Mặc dù vậy, mô tả về tầng lớp trung lưu khó có thể tương đồng với việc bàn luận về phân chia giai cấp; trên thực tế, như Gregory Mantsios đã chỉ ra, “những tham chiếu này được chấp nhận hoàn toàn là bởi vì chúng loại bỏ sự khác biệt giai cấp.”6

Trình bày về việc chúng ta là giai cấp trung lưu ra sao hiện nay là vấn đề đặc biệt khó khăn, bởi vì tỷ lệ hộ gia đình có thu nhập từ 75% đến 125%  của thu nhập trung vị đã giảm xuống thường xuyên từ năm 1967. Các chính quyền Reagan-Bush đã gia tốc sự suy giảm của tầng lớp trung lưu và đa số hộ gia đình tụt xuống thay vì đi lên7. Đây là khuynh hướng lịch sử mà người ta cho rằng sách giáo khoa lịch sử sẽ coi là một vấn đề nghiêm trọng, nhưng chỉ có 4 trong số 12 cuốn sách đưa ra phân tích về phân chia giai cấp ở Hoa Kỳ. Mặc dù vậy phân tích về sự phân chia này chỉ tập trung chủ yếu vào thời kỳ thuộc địa. Miền Đất Hứa theo sát tiêu đề chắc chắn bằng cách bàn luận về “tiến bộ xã hội” của giai cấp. “Một trong những sự khác biệt lớn giữa xã hội thuộc địa và Châu Âu là người thuộc địa có “sự tiến bộ xã hội” lớn hơn, cuốn Truyền Thống Hoa Kỳ hưởng ứng. “Khác với Châu Âu cùng thời, Hoa Kỳ ở thế kỷ 18 là sự tỏa sáng về bình đẳng và cơ hội – với ngoại lệ xấu xa là chế độ nô lệ,” cuốn Lễ Hội Hoa Kỳ đồng thanh. Mặc dù cuốn Thách Thức của Tự Do mô tả ba giai cấp, trên, giữa và dưới – trong cộng đồng người da trắng của xã hội thuộc địa, so với Châu Âu “đó là sự tiến bộ xã hội lớn hơn”.

Không bao giờ sách giáo khoa đề cập tới những xung đột giai cấp đẫm máu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ - cuộc nổi loạn Bacon và cuộc nổi loạn của Shays – đã diễn ra trong và ngay sau thời thuộc địa. Sách giáo khoa vẫn sẽ nói rằng xã hội thuộc địa tương đối không giai cấp và đặc trưng bằng sự tiến lên. Mọi thứ trở nên lạc quan. Cuốn Thách Thức của Tự Do thuyết phục chúng ta “Vào năm 1815, hai giai cấp đã biến mất và Hoa Kỳ là quốc gia của những người trung lưu với mục tiêu của giai cấp trung lưu.” Cuốn sách này lặp lại, với khoảng thời gian 50 năm trước, về hoàn cảnh của cơ hội mở rộng ở Hoa Kỳ. “Vào những năm sau 1945, sự tiến bộ xã hội – sự biến đổi từ một giai cấp này sang một giai cấp khác – trở nên phổ biến ở Hoa Kỳ,” cuốn Thách Thức của Tự Do kết luận, “Điều này có nghĩa là mọi người có cơ hội tốt hơn để tiến lên trong xã hội. Sự khẳng định về tiến lên là mâu thuẫn. Cuốn sách giáo khoa đó không đề cập bất cứ điều gì về bất bình đẳng giai cấp hay rào cản đối với sự tiến bộ xã hội. “Đâu là điều kiện để những người nhập cư nghèo da trắng trở nên giàu có ở thuộc địa?” cuốn Miền Đất Hứa hỏi. Câu hỏi “Đâu là những điều kiện đã/đang cản trở điều đó?” lại không được đặt ra. Tác giả sách giáo khoa giới thiệu những người Mỹ, như những người thuyết giáo khoa trương của thế kỷ 19, có “nguồn gốc thấp kém” và “đạt được các vị trí cao nhất”.8

Giai cấp dường như là biến số quan trọng duy nhất trong xã hội. Từ trong trứng cho đến khi vào mộ, nó tương quan với hầu hết các đặc trưng xã hội của con người mà chúng ta có thể đo lường. Các bà mẹ sung túc có khả năng được chăm sóc thai sản, nhận được các tư vấn y khoa thường xuyên cũng như có sức khỏe, sự sung sức, dinh dưỡng nói chung. Nhiều bà mẹ thuộc tầng lớp nghèo và giai cấp lao động tiếp xúc với y tế lần đầu tiên vào tháng cuối, đôi khi là giờ cuối cùng của thai kỳ. Trẻ em giàu ra đời khỏe mạnh hơn và cân nặng hơn trẻ em nghèo. Trẻ sơ sinh về nhà với các tình trạng rất khác nhau. Trẻ em nghèo có mức độ bị nhiễm độc cao từ môi trường và trong cơ thể. Trẻ em giàu có nhiều thời gian và tương tác ngôn ngữ hơn với cha mẹ, cũng như chăm sóc chất lượng khi bố mẹ chúng đi vắng. Khi chúng đến nhà trẻ và cũng như 12 năm sau đó, trẻ em nghèo được lợi từ các trường học ngoại ô chi tiêu gấp 3 lần trên mỗi đầu học sinh so với các trường học trong nội đô hay các vùng nông thôn nghèo khổ. Trẻ em nghèo được dạy dỗ trong các lớp học lớn hơn 50% so với các lớp học của trẻ em giàu. Những sự khác biệt này giải thích tỷ lệ bỏ học cao hơn của trẻ em nghèo.

Ngay cả khi trẻ em nghèo đủ may mắn để tham gia cùng trường học với trẻ em giàu, chúng phải đối mặt với những giáo viên kỳ vọng chỉ trẻ em của gia đình giàu có biết câu trả lời đúng. Các nghiên cứu xã hội học cho thấy giáo viên thường xuyên ngạc nhiên và thậm chí là lo âu khi học sinh nghèo vượt trội. Giáo viên và các tư vấn viên tin rằng họ có thể dự đoán ai sẽ “học đại học”. Khi nhiều trẻ em của giai cấp lao động phát ra các dấu hiệu sai lầm, ngay cả ở lớp một, chúng kết thúc giai đoạn “giáo dục phổ thông” ở trường trung học* “Nếu anh là con của bố mẹ nghèo, cơ hội tốt mà anh nhận được là sự chú ý giới hạn và thường là vô tình của những người trưởng thành trong trường trung học,” theo Theodore Sizer trong nghiên cứu bán chạy nhất về trường trung học ở Hoa Kỳ, Thỏa Hiệp của Horace. “Nếu anh là con của bố mẹ có thu nhập cao và trung lưu, cơ hội tốt mà anh nhận được là sự chú ý cẩn trọng và cần thiết,” Researcher Reba Page đã cung cấp mô tả sống động về việc các khóa học lịch sử ở trường trung học Hoa Kỳ sử dụng việc học vẹt để vô hiệu hóa học sinh tầng lớp nghèo. Do vậy, trường học đưa vào thực hành khuyến nghị của Woodrow Wilson: “Chúng ta muốn một giai cấp các cá nhân được giáo dục tự do và chúng ta muốn một giai cấp các cá nhân khác, giai cấp cần thiết lớn trong mọi xã hội, từ bỏ những đặc quyền của giáo dục tự do và khép mình vào việc thực hiện những công việc chân tay đặc biệt khó khăn.”

Nếu như những sự bất bình đẳng trong đời sống gia đình và trường học này là chưa đủ, thiếu niên giàu được thu nhận vào Princeton Review hay các khóa đào tạo khác cho Kiểm Tra Dự Tuyển Học Đường (SAP). Ngay cả khi không có đào tạo, trẻ em giàu có lợi thế hơn bởi nền tảng của chúng tương tự với những người ra đề thi, chúng hợp/dễ chịu với vốn từ và những giả định văn hóa nhóm tinh vi của bài kiểm tra. Không có ai ngạc nhiên khi thấy giai cấp có mối tương quan chặt chẽ với điểm SAT. Đó là lý do khiến giai cấp dự báo tỷ lệ học đại học và loại đại học chính xác hơn so với các yếu tố khác, như năng lực trí tuệ. Sau đại học, phần lớn trẻ em giàu có nhận được công việc cổ cồn trắng, đa số trẻ em của giai cấp lao động nhận các công việc cổ cồn xanh và sự phân chia giai cấp tiếp tục. Những người trưởng thành giàu thường được thuê làm công tố viên hay thành viên của tổ chức chính thống làm gia tăng quyền lực dân sự của họ. Người nghèo phần lớn xem ti vi. Do những gia đình giàu có thể tiết kiệm tiền trong khi các gia đình nghèo phải chi tiêu hết những gì kiếm được nên sự cách biệt về của cải lớn hơn sự cách biệt về thu nhập 10 lần. Do những gia đình nghèo và giai cấp lao động không thể tích lũy đủ tiền mặt để mua nhà, họ bị mất khoản né thuế quan trọng nhất của chúng ta, xóa lãi suất cầm cố nhà. Cha mẹ thuộc giai cấp lao động không thể sống trong các nhóm thượng lưu hay thuê trông trẻ chất lượng cao, do vậy quá trình bất bình đẳng giáo dục lặp lại trong thế hệ kế tiếp. Cuối cùng, người Mỹ giàu cũng có tuổi thọ lâu hơn người thuộc giai cấp dưới và giai cấp lao động, chủ yếu là bởi vì học được chăm sóc y tế tốt hơn.13 Đó là khẳng định trong nghiên cứu của Helen Keller về mù lòa, nghiên cứu cho thấy chăm sóc y tế tồi không được phân phối ngẫu nhiên theo cấu trúc xã hội mà tập trung vào giai cấp dưới.

An sinh xã hội trở thành một hệ thống chuyển hóa khổng lồ, sử dụng tiền mà tất cả người Mỹ đóng góp để chi trả cho lợi ích không tương xứng của những người Mỹ giàu sống lâu hơn. Trên hết là giai cấp quyết định các thức mà người ta nghĩ về giai cấp. Khi được hỏi về việc sự nghèo khổ ở Hoa Kỳ là lỗi của người nghèo hay lỗi của hệ thống, 57% lãnh đạo doanh nghiệp đổ lỗi cho người nghèo; chỉ có 9% đổ lỗi cho hệ thống. Lãnh đạo lao động cho thấy sự tương phản rõ ràng trong lựa chọn ngược lại: chỉ có 15% cho rằng người nghèo có lỗi, trong khi 56% cho rằng hệ thống có lỗi. (Một số trả lời “không biết” hay chọn vị trí trung dung.) Sự khác biệt lớn nhất giữa hai đảng chính trị chủ chốt nằm ở cách thành viên của họ nghĩ về giai cấp: 55% đảng viên Cộng Hòa lên án người nghèo về sự nghèo khổ, trong khi chỉ có 13% lên án hệ thống; trái lại 68% đảng viên Dân Chủ lên án hệ thống, chỉ có 5% lên án người nghèo.14

Chỉ có ít những khẳng định nói trên là mới, tôi biết, đó là lý do tôi không mô tả chi tiết chúng, nhưng đa số học sinh trung học không biết hoặc không hiểu những ý tưởng này. Hơn nữa, quá trình đã thay đổi theo thời gian, cấu trúc giai cấp ngày nay ở Hoa Kỳ không giống với năm 1890, chưa nói tới Hoa Kỳ thuộc địa. Mặc dù vậy, cuốn Miền Đất Hứa không đề cập tới giai cấp sau năm 1670, đó là một ví dụ. Nhiều giáo viên làm vấn đề tồi tệ thêm bằng cách tránh nói về giai cấp. Phỏng vấn các giáo viên mới đây “cho thấy họ có kiến thức rộng hơn về kinh tế, cả về học thuật lẫn kinh nghiệm, so với những gì họ thừa nhận trong lớp học.” Giáo viên “thể hiện sự sợ hãi rằng học sinh có thể tìm ra sự bất công và bất bình đẳng trong các thể chế kinh tế và chính trị.”15 Bằng cách không bao giờ lên án hệ thống, khóa học lịch sử Hoa Kỳ do đó phản ánh “lịch sử của phe Cộng Hòa”. Về mặt lịch sử, giai cấp kết nối mọi dạng sự kiện và quá trình trong quá khứ của chúng ta. Hệ thống cai trị của chúng ta do những người giàu thiết lập, theo các học thuyết khẳng định rằng chính quyền là người bảo vệ giai cấp có của. Mặc dù bản thân giàu có nhưng James Madison lo ngại về sự bất bình đẳng và viết trong tập Người Liên Bang số 10 để trình bày cách thức chính quyền dự kiến không chịu ảnh hưởng của người giàu. Madison đã không hoàn toàn thành công, theo Edward Pessen, người nghiên cứu nền tảng giai cấp của các đời tổng thống Hoa Kỳ cho tới thời Reagan. Pessen đã phát hiện ra rằng hơn 40% xuất thân từ tầng lớp trên, hầu hết từ bộ phận cao nhất của nhóm thượng lưu, 15% xuất thân từ các gia đình nằm giữa tầng lớp trên và trung lưu. Hơn 25% đến từ nhóm trên của tầng lớp trung lưu, chỉ có 6 tổng thống, hay 15% đến từ tầng lớp trung lưu và nhóm dưới của tầng lớp trung lưu, chỉ có duy nhất Andrew Johnson đại diện cho tầng lớp dưới. Rất có lý do khi Pessen đặt tên cuốn sách là Ghi Chép, Huyền Thoại về Nội Các.111 Thật là đau buồn khi con tàu vĩ đại Titanic bị chìm, như một bài hát cổ lặp lại, đó là sự đau buồn lớn nhất cho tầng lớp dưới: về phụ nữ, chỉ có 4 trong số 143 hành khách hạng nhất bị chết, trong khi có 15 trong số 93 hành khách hạng hai bị chìm, cùng với 81 trong số 179 phụ nữ và thiếu nữ hành khách hạng ba chết. Thủy thủ yêu cầu hành khách hạng ba ở lại dưới hầm tàu, canh giữ một số người dưới đó bằng súng.17 Gần đây hơn, giai cấp đóng vai trò chủ chốt trong việc xác định ai sẽ tham chiến ở Việt Nam; con trai của gia đình giàu có nhận được hoãn thi hành nghĩa vụ quân sự vì lý do giáo dục và y tế trong suốt cuộc chiến.13 Sách giáo khoa và giáo viên lảng tránh tất cả những điều đó.  

Giáo viên có thể lảng tránh giai cấp để không gây tổn hại cho trách nhiệm của họ. Nếu như vậy, sự lo ngại của họ là sai lầm. Khi học sinh nghèo học về hệ thống giai cấp, họ tìm thấy kinh nghiệm giải phóng. Một khi họ thấy rõ những quá trình xã hội có thể khiến cho gia đình họ nghèo, họ có thể xóa bỏ hình ảnh tiêu cực về sự nghèo khổ của bản thân. Nếu hiểu biết là sự tha thứ thì đối với trẻ em của giai cấp lao động hiểu cách thức phân chia giai cấp diễn ra là tha thứ cho bản thân và gia đình chúng. Kiến thức về hệ thống giai cấp cũng giảm khuynh hướng lên án nạn nhân của sự nghèo khổ của giai cấp khác. Về mặt sư phạm, sự phân tầng tạo ra kinh nghiệm học tập thú vị. Học sinh ngạc nhiên khi khám phá ra các giai cấp trên giành được quyền lực lớn trong mọi vấn đề từ luật năng lượng của quốc hội cho đến quyết định được phân cấp ở các thị trấn nhỏ.

Xem xét trường hợp một học sinh da trắng lớp 9 học lịch sử Hoa Kỳ tại một thành phố mà giai cấp trung lưu thống trị ở Vermont. Cha cô buộc hàng ở Sheetrock, kiếm tiền vào mùa thấp điểm xây dựng cho gia đình tương đối nghèo. Mẹ cô lái xe bus trường học bán thời gian để phụ thêm thu nhập, thêm vào đó chăm sóc hai em gái của cô. Cô gái sống cùng gia đình trong một căn nhà nhỏ, căn nhà nghỉ mùa hè được gia cố cho mùa đông, trong khi hầu hết bạn cùng lớp của cô sống ở căn nhà ngoại ô lớn. Cô gái này hiểu gì về sự nghèo khổ của mình? Khi sách giáo khoa thể hiện quá khứ Hoa Kỳ là 390 năm tiến bộ và mô tả xã hội của chúng ta là miền đất hứa mà người dân được tưởng thưởng những gì họ xứng đáng nhận, sự thất bại không thể tránh khỏi của giai cấp lao động Hoa Kỳ trong việc thay đổi nguồn gốc giai cấp của họ đã đứng chờ trước cửa nhà.

Trong phạm vi cộng đồng giai cấp lao động da trắng, cô gái có vẻ như tìm được vài nguồn mới – giáo viên, giáo dân, thành viên gia đình – những người có thể nói với cô về anh hùng hay những cuộc đấu tranh của người dân cùng tầng lớp với cô, ngoại trừ những xung đột giai cấp đang tiếp diễn, giai cấp lao động thường xuyên quên lịch sử của bản thân. Hơn bất cứ nhóm nào khác, học sinh của giai cấp lao động da trắng tin rằng họ xứng đáng với tình trạng thấp kém. Văn hóa nhóm về kết quả đáng xấu hổ. Nhận thức tiêu cực này là điều đầu tiên trong số những thứ mà Richard Sennett và Jonathan Cobb đã gọi là “sự xúc phạm giấu mặt của giai cấp” Vài năm trước đây, hai học sinh của tôi đã thực hiện một thí nghiệm: họ lái xe quanh Burlington, Vermont, trong một chiếc xe Hoa Kỳ lớn màu đen sáng loáng, gần như mới (có lẽ là một chiếc kiểu như Lexus ngày nay) và sau đó là một chiếc xe ô tô nhỏ 10 năm tuổi móp méo. Với mỗi chiếc xe, khi họ đến đèn đỏ và nó chuyển sang xanh, họ đợi cho tới khi người khác phải bóp còi trước khi lái đi. Những người lái xe khác đợi trung bình ít hơn 7 giây để bóp còi giục họ khi họ lái chiếc xe nhỏ, nhưng với chiếc xe sang trọng thì họ phải đợi 13,2 giây cho tới khi có ai đó bóp còi. Bên cạnh việc đưa ra một lý do tốt cho việc mua xe hơi sang trọng, thí nghiệm này cũng cho thấy người Mỹ kính trọng một cách vô thức những người có giáo dục và thành công. Do những người lái xe ở mọi tầng lớp xã hội bóp còi giục chiếc xe hơi nhỏ thường xuyên hơn, lái xe thuộc giai cấp lao động đã không tôn trọng bản thân trong khi chiều ý những người giàu hơn. Lời châm biếm cay đắng “Nếu anh thông minh thì tại sao anh không giàu?” chuyển tải sự xúc phạm đối với sự tự nhận thức của người nghèo khi ý tưởng về một Hoa Kỳ có chế độ dựa trên tài năng là bất khả chiến bại ở trường học.

Một phần của vấn đề là sách giáo khoa lịch sử Hoa Kỳ mô tả giáo dục Hoa Kỳ như hệ thống tài năng trị. Một số lượng khổng lồ nghiên cứu xác nhận rằng giáo dục bị thống trị bởi cấu trúc giai cấp và vận hành để lặp lại cấu trúc này trong thế hệ tiếp theo. 20 Trong khi đó, sách giáo khoa lịch sử vô tình nói về sự hào phóng liên bang đối với giáo dục như Luật Giáo Dục Tiểu Học và Phổ Thông Cơ Sở, được thống qua dưới thời tổng thống Lyndon Johnson. Không sách giáo khoa nào cung cấp dữ liệu hay phân tích về bất bình đẳng trong phạm vi các thể chế giáo dục. Không sách giáo khoa nào đề cập về việc các trường cấp quận ở khu vực thu nhập thấp phải hoạt động với các điều kiện khắc nghiệt về tài chính kinh khủng tới mức Jonathan Kozol gọi chúng là “sự bất bình đẳng man rợ”.21 Không sách giáo khoa nào đề xuất rằng học sinh có thể nghiên cứu lịch sử của trường học và dân chúng mà trường học đó phục vụ. Chỉ có hai cuốn sách giáo khoa liên hệ giáo dục với hệ thống giai cấp để giảm nhẹ như đã thấy! Học tập “là chìa khóa của tiến bộ xã hội ở Hoa Kỳ thời kỳ hậu chiến,” theo lời của cuốn Sự Thách Thức của Tự Do 21

Khuynh hướng lảng tránh giai cấp của giáo viên và sách giáo khoa như thể đó là bí mật nhỏ bẩn thỉu chỉ củng cố thêm sự miễn cưỡng của gia đình giai cấp lao động khi nói về về chúng. Paul Cowan kể về việc phỏng vấn trẻ em của gia đình nhập cư Italia tham gia vào cuộc đình công nhà máy Lawrence nổi tiếng năm 1912, Massachusetts. Ông nói chuyện với con gái của một công nhân Lawrence, người làm chứng tại cuộc điều tra của quốc hội về vụ đình công. Người công nhân Camella Teoli, lúc đó 13 tuổi, bị cuốn tóc vào máy quay sợi ngay trước cuộc đình công và phải nằm viện nhiều tháng. Lời khai của bà “lên trang nhất của các tờ báo khắp nước Mỹ”. Nhưng con gái của Teoli, được phỏng vấn năm 1976 sau khi mẹ bà đã chết, không thể giúp gì cho Cowan. Mẹ của bà không nói gì về vụ tai nạn, không nói gì về chuyến đi tới Washington, không nói gì về sự ảnh hưởng của bà đối với lương tâm của người Mỹ - ngay cả khi hầu như hàng ngày, con gái “chải tóc cho mẹ để lộ ra những vết sẹo.” Một người có nguồn gốc giai cấp lao động kể với tôi câu chuyện tương tự về nỗi xấu hổ của ông chú “công nhân ngành thép”. Một sự phòng ngự được tạo ra trong văn hóa của giai cấp lao động; ngay cả những sự phản kháng thành công của giai cấp lao động, như vụ đình công Lawrence, cũng giả định tình trạng thấp kém và thu nhập thấp, do đó hàm chứa một sự thấp kém nhất định. Nếu  các cộng đồng lớn hơn tốt như sách giáo khoa nói với chúng ta, thì hoan nghênh hay chấp nhận hồi ức về xung đột là một kiểu không trung thành.

Sách giáo khoa không phản ánh lịch sử của người nhập cư. Khoảng cuối thế kỷ, người nhập cư thống trị giai cấp lao động đô thị Hoa Kỳ, ngay cả ở những thành phố cách xa bờ biển như Des Moines và Louisville. Khi hơn 70% dân số da trắng là người gốc bản xứ, dưới 10% giai cấp lao động đô thị là người bản xứ. Khi sách giáo khoa nói về lịch sử của người nhập cư, chúng nhấn mạnh vào Joseph Pulitzer, Andrew Carnegie và những người cùng hạng của họ - những người nhập cư đã tạo ra điều siêu tốt. Một số sách giáo khoa áp dụng câu “quấy đảo để giàu có hay miền đất hứa” cho kinh nghiệm của người nhập cư. Những thành công huyền thoại đã đạt được, chắc chắn như vậy, nhưng chúng chỉ là ngoại lệ, không phải là quy luật. 59% giám đốc điều hành và chủ ngân hàng ở Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ đến từ thành phần giai cấp trên hay nửa trên của giai cấp trung lưu. Dưới 3% bắt nguồn từ người nhập cư nghèo hay trẻ em nông thôn. Suốt thế kỷ 19, chỉ có 2% số nhà công nghiệp Hoa Kỳ có nguồn gốc từ giai cấp lao động.” Bằng cách tập trung vào những ngoại lệ đầy cảm hứng, sách giáo khoa trình bày lịch sử của người nhập cư như là một sự xác nhận đầy phấn khích về việc Hoa Kỳ là miền đất hứa tuyệt vời.

Sách giáo khoa nhấn mạnh lặp đi lặp lại về sự khác biệt giữa Hoa Kỳ và Châu Âu trong việc có ít sự phân chia giai cấp và có sự linh hoạt kinh tế và xã hội lớn hơn. Đây là một khía cạnh khác về nguyên mẫu của chủ nghĩa ngoại lệ Hoa Kỳ: xã hội của chúng ta công bằng một cách riêng biệt. Điều đó chưa từng có trong lịch sử ở Pháp hay Australia, để khẳng định rằng xã hội của chúng ta bình đẳng một cách ngoại lệ. Sự mô tả này về Hoa Kỳ có chuẩn bị cho học sinh về hiện thực? Chúng mô tả không chính xác đất nước chúng ta hiện nay. Các nhà khoa học xã hội đã nhiều lần so sánh mức độ bình đẳng kinh tế ở Hoa Kỳ với các quốc gia công nghiệp khác. Dựa theo các đo lường đã có, Hoa Kỳ xếp hạng 6/6, 7/7, 9/12 hay 14/14” Ở Hoa Kỳ, 1/5 dân số giàu nhất có thu nhập gấp 12 lần 1/5 dân số nghèo nhất, tỷ lệ cao nhất trong nhóm các nước công nghiệp: ở Anh tỷ lệ là 7:1, ở Nhật Bản chỉ là 4:1. 27 Ở Nhật Bản, một giám đốc điều hành trung bình của hãng chế tạo ô tô có thu nhập cao gấp 20 lần một công nhân trung bình trong nhà máy lắp ráp ô tô; ở Hoa Kỳ ông ta (và không phải là bà ta) có thu nhập gấp 192 lần. 28 Sự kiêu ngạo kiểu Jefferson về một quốc gia của nông dân độc lập và thương nhân đã biến mất từ lâu: chỉ có 1/13 người lao động Hoa Kỳ tự kinh doanh, so với 1/8 ở Tây Âu. 29 Do vậy, chúng ta không chỉ có ít hơn các nhà kinh doanh độc lập so với 200 năm trước đây, chúng ta còn có ít hơn so với Châu Âu hiện nay.

Khi mà sách giáo khoa khẳng định rằng Hoa Kỳ thuộc địa có ít sự phân chia giai cấp hơn Châu Âu thì chúng cũng phải trình bày cho độc giả khi nào sự bất bình đẳng xuất hiện. Chắc chắn đó không phải là sự phát triển mới đây. Vào năm 1910, 1% giàu nhất của dân chúng Hoa Kỳ chiếm hơn 1/3 tổng số thu nhập cá nhân, trong khi 1/5 nghèo nhất chỉ chiếm 1/8 tổng thu nhập cá nhân.50 Mức độ bất bình đẳng ngang với Đức hay Anh.31 Nếu sách giáo khoa thừa nhận sự bất bình đẳng, chúng có thể mô tả sự thay đổi trong cấu trúc giai cấp theo thời gian, sẽ dẫn dắt học sinh vào các tranh luận lịch sử hấp dẫn.32

Ví dụ, một số nhà sử học lập luận rằng sự giàu có ở xã hội thuộc địa được phân phối bình đẳng hơn hiện nay và sự bất bình đẳng kinh tế đã gia tăng dưới thời tổng thống Andrew Jackson – thời kỳ được nhận định một cách nực cười là thời đại của người bình thường. Những người khác tin rằng sự phát triển của doanh nghiệp lớn vào cuối thế kỷ 19 đã làm cho cấu trúc giai cấp cứng nhắc hơn. Walter Dean Burnham lập luận rằng chiến thắng bầu cử tổng thống của phe Cộng Hòa vào năm 1896 (McKinley đánh bại Bryan) mang tới một làn sóng tái liên kết chính trị biến “chế độ dân chủ công bằng thành một chế độ tài phiệt”, do đó vào những năm 1920 doanh nghiệp kiểm soát chính sách công. 35 Khoảng cách rõ ràng giữa giàu và nghèo, như khoảng cách giữa người da màu và da trắng, lớn hơn vào cuối Kỷ Nguyên Tiến Bộ vào năm 1920 so với khi bắt đầu vào năm 1890. Lịch sử không phải chỉ có sự gia tăng phân tầng, giữa suy thoái và cuối chiến tranh thế giới thứ II, thu nhập và của cải ở Hoa Kỳ đã trở lại bình đẳng hơn. Sự phân phối thu nhập được duy trì hợp lý cho tới khi tổng thống Reagan nhậm chức vào năm 1981, khi sự bất bình đẳng bắt đầu tăng lên. Vẫn có những học giả khác cho rằng chỉ có thay đổi nhỏ kể từ Cách Mạng. Ví dụ, Lee Sokow phát hiện ra “sự bất bình đẳng thu nhập và của cải đáng ngạc nhiên” ở Hoa Kỳ vào năm 1798. Ít nhất là đối với Boston, Stephan Thernstrom kết luận rằng sự bất bình đẳng trong cơ hội sống của hai giai cấp cho thấy sự tiếp diễn kỳ lạ. 36 Tất cả đều là một phần của lịch sử Hoa Kỳ, nhưng không phải là lịch sử Hoa Kỳ được dạy ở trường trung học.

Đối với các nhà khoa học xã hội, mức độ bất bình đẳng là điều quan trọng cần biết về xã hội. Khi chúng ta xếp hạng các quốc gia theo biến số này, chúng ta thấy các quốc gia vùng Scandinavia ở trên đỉnh, bình đẳng nhất, và các xã hội nông nghiệp như Colombia và Ấn Độ ở gần dưới cùng. Chính sách của chính quyền Reagan và Bush, công khai phục vụ cho người giàu, tiếp tay cho khuynh hướng sẵn có, gây ra sự gia tăng đáng kể của bất bình đẳng từ năm 1981 đến năm 1992. Đối với Hoa Kỳ thì việc tiến tới vị trí của Colombia về bất bình đẳng xã hội không phải là vấn đề nhỏ. Chắc chắn là học sinh trung học muốn được học về việc vào năm 1950 các nhà vật lý học có thu nhập gấp 2,5 lần công nhân công nghiệp tham gia nghiệp đoàn nhưng giờ thì sự chênh lệch là 6 lần. Chắc chắn chúng cần phải biết rằng quản lý cấp cao của các doanh nghiệp may mặc, thường có thu nhập gấp 50 lần người lao động Mỹ bình thường, hiện giờ có mức lương cao gấp 1.500 lần so với công nhân Malaysia của họ. Việc giáo viên và sách giáo khoa lịch sử của chúng ta che dấu thông tin lịch sử có thể thúc đẩy và nuôi dưỡng các tranh luận về những khuynh hướng đã nêu chắc chắn là sai lầm.

Tại sao họ làm điều ngớ ngẩn này? Trước tiên và trên hết là việc nhà xuất bản kiểm duyệt các tác giả sách giáo khoa. “Nếu anh nói về giai cấp thì sẽ luôn có rủi ro bị chụp mũ là Marxist,” biên tập viên nghiên cứu xã hội và lịch sử của một trong những nhà xuất bản lớn nhất nói với tôi. Biên tập viên này nói về điều cấm kỵ, chính thức hay phi chính thức đối với mọi tác giả hợp tác với cô và cô ngụ ý rằng hầu hết các biên tập viên khác cũng làm như vậy.

Sức ép của các nhà xuất bản cũng bắt nguồn từ các hội đồng và ủy bản chấp nhận sách giáo khoa ở bang và quận. Những đối tượng này lại chịu sức ép từ các nhóm có tổ chức và các cá nhân khác xuất hiện trước họ. Dĩ nhiên, sự vận động mạnh mẽ nhất là tổ chức Nhà Nghiên Cứu Phân Tích Giáo Dục do Mel Gabler lãnh đạo. Quan điểm phê phán cánh hữu kiên quyết của Gabler về việc một cuốn sách có nội dung phân tích giai cấp có sức tàn phá ghê ghớm. Như một tác giả đã viết, “Trình bày vấn đề với các khái niệm giai cấp là không thể chấp nhận được, thậm chí ngay cả với những gì không thuộc về nước Mỹ.” Nỗi lo sợ không được chấp nhận ở Texas là vấn đề lo ngại chủ yếu của nhà xuất bản và có thể giải thích tại sao cuốn sách Cuộc Sống và Tự Do mô tả Hoa Kỳ là “một xã hội bất công”, bất công đối với các nhóm kinh tế thấp hơn, không bao giờ được chấp nhận. Sức ép đó cũng mới xuất hiện. Cuốn sách Dẫn Nhập về Vấn Đề của Văn Hóa Mỹ và sách giáo khoa lịch sử nổi tiếng của Harold Rugg, được viết vào thời suy thoái, vẫn có một số phân tích giai cấp. Vào đầu những năm 1940, theo Frances FritzGerald, Hiệp Hội Các Nhà Chế Tạo Quốc Gia đã tấn công cuốn sách của Rugg, một phần vì vấn đề giai cấp và “đưa đến sự kết thúc” của phân tích xã hội và kinh tế trong sách giáo khoa lịch sử Hoa Kỳ.40

Ảnh hưởng của các giai cấp trên thường là không trực tiếp. Hình mẫu hợp lý cho đặc quyền giai cấp trong lịch sử Hoa Kỳ là chủ nghĩa Darwin về xã hội, một nguyên mẫu vẫn còn sức ảnh hưởng lớn trong văn hóa Hoa Kỳ. Khái niệm con người phát triển và thất bại chỉ là đấu tranh sinh tồn của những cá thể thích nghi nhất có thể không phù hợp với dữ liệu về sự biến đổi đa thế hệ ở Hoa Kỳ, nhưng khó có thể loại bỏ hình mẫu ấy khỏi giáo dục Hoa Kỳ, nhất là khỏi các lớp học lịch sử Hoa Kỳ. Sự thật không phù hợp với hình mẫu này, như toàn bộ bài giảng về phân chia giai cấp, đơn giản là bị bỏ qua.

Tác giả sách giáo khoa có thể không cần phải chịu sức ép từ nhà xuất bản, cánh hữu, giai cấp trên, hay các hình mẫu văn hóa để lảng tránh sự phân chia giai cấp. Trong quá trình anh hùng hóa, tác giả sách giáo khoa mô tả nước Mỹ như là một anh hùng, thực sự là một anh hùng trong sách của họ, nên họ phải loại bỏ các khuyết tật của nước Mỹ, họ khó có thể chấp nhận một lý thuyết công bằng xã hội giải thích lý do cho việc 1% dân số kiểm soát tới 40% của cải. Có khi nào 99% còn lại trong số chúng ta lười biếng hoặc không được tưởng thưởng xứng đáng? Để đề cập một số cơ chế - học tập không bình đẳng và tương tự - nhờ vào nó mà giai cấp trên tiếp tục thống trị rõ ràng là sẽ khơi dậy sự phê phán đối với đất nước đáng yêu của chúng ta. Vì bất kỳ lý do nào thì sách giáo khoa cũng tối thiểu hóa sự phân chia giai cấp.

Sau đó họ làm một điều rất khó hiểu: họ không giải thích lợi ích của doanh nghiệp tự do. Viết về các thế hệ sách giáo khoa trước đây, Frances FritzGerald đã chỉ ra rằng sách giáo khoa bỏ qua “đức hạnh cũng như sự đồi bại của hệ thống kinh tế của chúng ta.”42 Giáo viên có thể đề cập tới doanh nghiệp tự do với sự tôn trọng, nhưng hiếm khi từ ngữ vượt quá một khẩu hiệu.45 Sự chểnh mảng này rất kỳ lạ nhưng mang lại lợi thế cho chủ nghĩa tư bản. Ngôi sao bóng rổ Michael Jordan, giám đốc điều hành Lee Iacocca của Chrysler, nhà làm kem Ben và Jerry đều giàu có nhờ vào việc cung cấp hàng hóa mà con người thèm muốn. Chắc chắn là không thể đánh giá sự phân chia giai cấp ngắn gọn như vậy, bởi vì những người có lợi thế lạm dụng lạm dụng của cải và quyền lực để ngăn tiếng nói của những người không có lợi thế. Trong trật tự xã hội và kinh tế, hệ thống tư bản đưa ra nhiều thứ để chỉ trích cũng như nhiều thứ để tán dương. Nước Mỹ là miền đất hứa cho nhiều người. Trên hết là sự xuyên tạc mà chủ nghĩa tư bản áp đặt cho nó, dân chủ cũng có lợi ích từ việc tách biệt quyền lực giữa phạm vi công cộng và cá nhân. Sách giáo khoa lịch sử của chúng ta không bao giờ đả động đến những lợi ích này.

Các nhà xuất bản hay những người ảnh hưởng tới họ đã kết luận thẳng thắn rằng điều mà xã hội Hoa Kỳ cần phải dứt khoát là công dân tán thành cấu trúc xã hội và hệ thống kinh tế không cần suy nghĩ. Hệ quả là sách giáo khoa ngày nay bảo vệ hệ thống kinh tế của chúng ta vô điều kiện, với lòng trung thành không thể dung thứ về sự không phân chia giai cấp độc đáo; do vậy họ khiến cho học sinh khóa học lịch sử Hoa Kỳ không thể phê phán hay bảo vệ hệ thống phân chia giai cấp một cách thành thạo. Nhưng không phải là tốt khi tin rằng Hoa Kỳ bình đẳng sao? Có thể hình mẫu “miền đất hứa” là một huyền thoại được củng cố - có thể việc tin vào nó sẽ biến nó thành sự thật. Nếu như học sinh nghĩ rằng bầu trời là giới hạn, họ có thể chạm vào bầu trời, nếu họ không tin thì họ sẽ không làm.

Sự tương tự về giới tính cho thấy vấn đề với luồng tư duy này. Làm sao nữ sinh trung học hiểu vị trí của họ trong lịch sử Hoa Kỳ khi mà sách giáo khoa lịch sử nói với họ rằng, từ thời thuộc địa tới nay, phụ nữ có cơ hội bình đẳng để phát triển và tham gia vào chính trị? Nữ sinh có thể suy luận, dĩ nhiên là vô thức, rằng đó là sai lầm của giới tính, một kết luận khó có thể chấp nhận.

Sách giáo khoa phải trình bày về việc phụ nữ bị từ chối quyền bầu cử ở nhiều bang cho tới năm 1920 và đối mặt với nhiều rào cản phát triển. Sách giáo khoa cũng phải trình bày về những rào cản đối với các nhóm dân tộc thiểu số. Câu hỏi cuối cùng mà Miền Đất Hứa hỏi học sinh sau phần “Tiến Bộ Xã Hội” là “Đâu là rào cản ngăn người da đen, bản địa và phụ nữ cạnh tranh một cách bình đẳng với thực dân da trắng?” Sau đoạn tán dương tiến bộ của nó. Cuốn Thách Thức của Tự Do viết, “Mặc dù vậy, không phải tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng hay cơ hội bình đẳng để cải thiện cuộc sống của họ,” và tiếp tục mô tả các vấn đề về phân biệt giới tính và chủng tộc. Nhưng không khi nào và ở đâu cuốn Miền Đất Hứa hay Thách Thức của Tự Do (hay đa số các sách giáo khoa khác) gợi ý rằng cơ hội có thể không bình đẳng đối với người da trắng của giai cấp dưới và giai cấp lao động hiện nay.44 Dĩ nhiên, kết quả là ngay cả các lãnh đạo doanh nghiệp và phe Cộng Hòa, những người trả lời phỏng vấn khảo sát làm cái việc mà các nhà khoa học xã hội gọi là “lên án nạn nhân”, lên án hệ thống xã hội hơn là người Mỹ gốc Phi về sự nghèo khổ của người da màu và lên án hệ thống hơn là phụ nữ về những kết quả không bình đẳng ở nơi làm việc. Nói tóm lại, người Mỹ giàu, giống như sách giáo khoa của họ, sẵn sàng coi phân biệt chủng tộc là nguyên nhân của sự nghèo khổ của người da màu, bản địa và phân biệt giới tính là nguyên nhân của sự bất bình đẳng của phụ nữ nhưng không coi sự phân biệt giai cấp là nguyên nhân của sự nghèo khổ nói chung.45

Hơn nhiều so với toán hay khoa học tự nhiên, hơn cả văn học Hoa Kỳ, các khóa học lịch sử Hoa Kỳ hứa hẹn sẽ nói với học sinh trung học về cách thức họ, cha mẹ, cộng đồng và xã hội phát triển. Trừ một điều là sự bất bình đẳng bởi giai cấp. Mặc dù trẻ em giai cấp lao động và nghèo thường không thể xác định nguyên nhân sự tha hóa của chúng, lịch sử thường vô hiệu hóa điều đó bởi vì nó biện minh hơn là giải thích hiện tại. Khi học sinh phản ứng bằng cách bỏ học, về mặt trí tuệ hay thể chất, kết quả học tập nghèo nàn của chúng sẽ thuyết phục chúng cũng như những người cùng tuổi với chúng về một sự đánh giá nhanh chóng hơn rằng hệ thống là dựa trên tài năng và chúng thiếu tài năng. Cuối cùng, sự thiếu vắng phân tích giai cấp trong môn học lịch sử Hoa Kỳ là một cách để sắp đặt giáo dục ở Hoa Kỳ chống lại giai cấp lao động.

Chú thích:

Bản scan của cuốn sách mà tôi có bị lược bỏ phần chú thích nên tạm thời chưa thể dịch, khi tìm được phần chú thích thì tôi sẽ dịch và bổ sung sau.

Monday, June 15, 2015

Quýt làm cam chịu: Mỹ tra tấn, Ba Lan bồi thường

Người Ba Lan có thể tức giận vì họ phải bồi thường cho các nạn nhân bị Mỹ tra tấn tại nhà tù bí mật của CIA ở Ba Lan, nhưng khi họ cho Mỹ đặt nhà tù bí mật ở trên đất nước mình thì họ cũng nên lường trước hậu quả. Một bài học đáng nhớ cho các đồng minh thân cận và những nước muốn làm đồng minh của Hoa Kỳ. Dưới đây là bản dịch bài viết "Poland pays for America's crimes" của Nat Perry đăng trên tạp chí ColdType số 99 tháng 6 năm 2015.

Ba Lan bồi thường cho tội ác của Hoa Kỳ 

Một trong những điều nực cười nhất của cuộc chiến chống khủng bố của Hoa Kỳ và quan hệ xuyên Đại Tây Dương là trách nhiệm dân chủ và bảo vệ nhân quyền của họ ở các nước cựu Liên Bang Soviet có vẻ mạnh mẽ hơn là ở chính quê nhà của họ vào lúc này. Bài học này được đưa về nhà một lần nữa vào tháng trước khi Ba Lan thanh toán ¼ triệu dollar cho hai nghi phạm khủng bố bị CIA tra tấn tại nhà tù bí mật trên lãnh thổ Ba Lan từ năm 2002 đến 2003. 

Với phán quyết của Tòa Án Nhân Quyền Châu Âu (ECHR), bản án đã gây ra sự phẫn nộ của nhiều người Ba Lan, họ cảm thấy không công bằng khi bị trừng phạt bởi những sai trái của Hoa Kỳ. “Chúng tôi phải trả tiền bồi thường mặc dù người của chúng tôi không làm gì sai,” cựu ngoại trưởng Ba Lan Radoslaw Sikorski nói. Sikorski cho biết Ba Lan là nước duy nhất đã nhận trách nhiệm về việc các quan chức cấp cao của họ cho phép CIA vi phạm nhân quyền trên lãnh thổ của họ. 

Hoa Kỳ vẫn tiếp tục thiếu trách nhiệm, họ không điều tra hay xét xử các quan chức cấp cao cho phép vi phạm nhân quyền tại các nhà tù bí mật của CIA ở Ba Lan hay bất cứ đâu trên thế giới.

Trong số 119 tù nhân bị giam giữ tại các nhà tù bí mật của CIA từ năm 2001 đến năm 2006, có ít nhất 39 người bị thành viên của CIA tra tấn, theo báo cáo của Ủy Ban Tình Báo Thượng Viện về tra tấn được công báo vào tháng 12 vừa qua. Hai cá nhân bị tra tấn ở Ba Lan, Abu Zabaydah và Abd al-Rahim al-Nashiri, đã được chuyển tới vịnh Guantanamo, họ ở đó cho tới năm 2006.

Trong khi al-Nashiri mới bị xét xử vì tổ chức đánh bom chiến hạm USS Cole vào năm 2000 thì Abu Zubayah được coi là một trong số những “tù nhân vĩnh viễn” của Guantanamo mà không có bản án hay phiên tòa nào được dự định, cũng chưa có một quy định sơ bộ nào cho trường hợp của anh này trong gần bảy năm. Vào ngày 12 tháng 5 năm 2015, tờ ProPublica cho biết anh này đã bị giam “2.477 ngày và vẫn tiếp tục”. Một trong các luật sư của anh, Hellen Duffy, viết cho tờ Guardian và tháng 12 vừa qua, sau khi bản tóm tắt báo cáo bị trì hoãn dài ngày của thượng viện được công bố, “hiện giờ Abu Zubaydah có thể được coi là tang vật loại A” trong chương trình giam giữ và tra tấn của CIA. 

“Anh ấy có sự khác biệt đáng tiếc là nạn nhân đầu tiên của chương trình tra tấn của CIA, như báo cáo đã làm rõ, nhiều kỹ thuật tra tấn (hay “thẩm vấn nâng cao”) đã được phát triển và chỉ có tù nhân biết rõ rằng họ là đối tượng của chúng,” Duffy viết.

Báo cáo của thượng viện có khoảng 1.000 dẫn chiếu đến trường hợp Abu Zubaydah, xác nhận các phát hiện của ECHR liên quan đến kỹ thuật thẩm vấn mà anh ta phải chịu đựng.

Trong đó có “walling” (liên tục bị đẩy sát vào tường), cấm ngủ tới 180 giờ (thường xuyên khỏa thân trong tư thế căng thẳng) và nhấn nước. Việc nhấn nước Abu Zubaydah, anh ta bị nhấn nước 83 lần trong 1 tháng, được cấp cao nhất của chính quyền Hoa Kỳ cho phép. Anh ta cũng bị giam giữ tàn nhẫn. “Trong 20 ngày liên tục của “giai đoạn thẩm vấn quyết định”, AbuZubayah bị giam tổng cộng 266 giờ (11 ngày, 2 giờ) trong một chiếc hộp giam giữ có kích thước bằng chiếc quan tài và 22 giờ trong hộp giam nhỏ với chiều rộng 53,34 cm, chiều sâu 0,77m và chiều cao 0,77m,” theo báo cáo của thượng viện. “Nhân viên thẩm vấn của CIA nói với Abu Zubaydah rằng cách duy nhất anh ta có thể ra khỏi nhà tù là trong một chiếc hộp giam hình quan tài.”

Duffy cho biết ngoài vụ tra tấn Aby Zubaydah, báo cáo của thượng viện cũng tiết lộ về số lượng thông tin sai lệch đã được tạo ra để biện minh cho việc giam giữ anh ta không giới hạn. Một số khẳng định của CIA, trong một số trường hợp đã lặp lại ngay cả khi họ biết chúng là sai, đã bị bác bỏ hết điểm này đến điểm khác trong báo cáo.

Ví dụ, trái với những khẳng định lặp đi lặp lại rằng Abu Zabaydah là “người thứ ba hay thứ tư của al-Qaida,” báo cáo cho biết “sau đó CIA đã kết luận rằng Abu Zubaydah không phải là thành viên của al-Quaida.” Báo cáo cũng phủ nhận khẳng định của chính quyền về việc anh ta can dự vào vụ 11 tháng 9, rằng đội thẩm vấn “chắc chắn anh ta che giấu thông tin” và khẳng định rằng việc tra tấn anh ta mang lại các thông tin tình báo quý giá.

Vụ việc của Abu Zubaydah cũng dẫn đến vụ xét xử duy nhất được ấn định ở Hoa Kỳ liên quan đến chương trình tra tấn của CIA – mặc dù không phải là đối với những người tra tấn anh ta mà là đối với một người tiết lộ của CIA, người đầu tiên tiết lộ vụ việc.

Phiên tòa bỏ túi

Trong cuộc phỏng vấn với ABC News, cựu sĩ quan CIA John Kiriakou mô tả việc nhấn nước Abu Zubaydah và sau đó bị tình nghi cung cấp cho nhà báo tên của điệp viên bí mật trong Trung Tâm Chống Khủng Bố trực thuộc CIA, là người đã tham gia vào chiến dịch bắt giữ và thẩm vấn Abu Zubaydah. Vì sự vi phạm này, Kiriakou bị kết án theo Luật Do Thám 1917 và chấp nhận thỏa thuận nhận tội để lĩnh án 2 năm tù.

Vụ xét xử Kiriakou hồi đó bị một số bộ phận của cộng đồng quốc tế chỉ trích. Ví dụ, Hội đồng Nghị Viện của Tổ Chức Anh Ninh và Hợp Tác Châu Âu trong một nghị quyết năm 2012 “đã lên án nhà cầm quyền Hoa Kỳ về việc chống lại cựu điệp viên CIA John Kiriakou, người bị cáo buộc cung cấp cho nhà báo các chi tiết liên quan đến việc bắt giữ Abu Zubaydah, một nghi phạm al-Qaeda được cho là bị tra tấn tại nhà tù bí mật của CIA ở Ba Lan và là một trong hai “nạn nhân được bảo vệ” của công tố ở Warsaw.”

Cựu nghị sĩ quốc hội Hoa Kỳ Jim Moran (D-VA) phát biểu tại hạ viện vào ngày 17 tháng 11 năm 2012 rằng việc chính quyền kết án Kiriakou là một “phiên tòa bỏ túi”. Ông yêu cầu tổng thống Obama xin lỗi Kiriakou và gọi cựu sĩ quan có 15 năm hoạt động của CIA là “người hùng Hoa Kỳ”. 

Kiriakou đã ra khỏi tù sau khi mãn hạn nhưng các nạn nhân bị tra tấn của CIA vẫn tiếp tục bị giam giữ không biết đến ngày ra ở Gitmo, Ba Lan không chỉ đối mặt với thiệt hại chính trị vì chính sách này mà còn các những khó khăn thực tế trong việc thực hiện quyết định của ECHR liên quan đến việc vận chuyển các cá nhân được bồi thường, những người đã bị giam giữ - một người Palestine và một người Arabian Saudi. Mặc dù vậy, “Ba Lan thi hành các quyết định của ECHR,” người phát ngôn bộ ngoại giao Marcin Wojciechowski nói, “Trường hợp thứ nhất, tiền được trả vào tài khoản do luật sư của anh ta chỉ định, trong trường hợp còn lại, do bị trừng phạt quốc tế, chúng tôi yêu cầu thiết lập một khoản ký quỹ pháp lý,” ông nói thêm. 

Theo quy định của ECHR, Ba Lan cũng phải yêu cầu Hoa Kỳ bãi bỏ án tử hình đối với hai người đàn ông cho phù hợp với việc bãi bỏ án tử hình trên toàn EU, Wojciechowski nói với AFP.

Sự phủ nhận hợp lý

Nhiều người Ba Lan phiền lòng khi thấy đất nước họ đối mặt với những hậu quả pháp lý của nhà tù bí mật và chương trình giam giữ mà CIA thực hiện dưới thời George W. Bush ở một số quốc gia trên thế giới sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9. Ở Ba Lan, câu chuyện một quốc gia cựu cộng sản sẽ dung túng cho nhà tù bí mật của CIA và trong đó tra tấn được thực hiện nhiều năm đã bị nhiều chính khách, nhà báo và công chúng của quốc gia cười nhạo, coi như là một lý thuyết âm mưu tầm thường. Các quan chức Ba Lan đã thường xuyên phủ nhận sự tồn tại của các nhà tù đó.

Nhưng một chuỗi các tiết lộ và tuyên bố chính trị của các lãnh đạo Ba Lan đã thừa nhận lần đầu tiên rằng Hoa Kỳ thực sự điều hành một sơ sở thẩm vấn bí mật đối với các nghi phạm khủng bố vào năm 2002 và 2003 ở khu vực hẻo lánh của đất nước. Vào tháng 9 năm 2014, cựu tổng thống Ba Lan Aleksander Kwasniewski chính thức thừa nhận sự tồn tại của nhà tù bí mật của CIA ở căn cứ không quân, tại đó các nghi phạm khủng bố được thẩm vấn, nhưng ông ta khẳng định rằng Warsaw không biết về sự tra tấn ở nhà tù này.

Giờ đây có vẻ như sự phủ nhận liên quan đến tra tấn có thể là cố ý bỏ qua hay sự phủ nhận hợp lý để đổi lấy hàng triệu dollar tiền mặt. Báo cáo tra tấn của thượng viện cho biết, trái ngược với những đe dọa ban đầu về việc chấm dứt chuyển giao nghi phạm khủng bố cho nhà tù bí mật 11 năm trước đây, chính quyền đã trở nên “linh hoạt” hơn sau khi CIA chi ra một khoản tiền lớn. Theo như báo cáo, CIA đã trả cho quan chức Ba Lan khoảng 50 triệu dollar để họ làm ngơ.

Nhưng theo Radoslaw Sikorski, cựu ngoại trưởng Ba Lan và giờ là chủ tịch hạ viện, nhà tù được thiết lập dựa trên tình hữu nghị với Hoa Kỳ. Giờ đây, ông ta phàn nàn rằng mặc dù vậy quan hệ bí mật đã gây ra thiệt hại cho Ba Lan.

“Chúng tôi bị bối rối bởi chuyện này, nhưng ngay cả như vậy chúng tôi cũng không lấy làm tiếc vì có quan hệ an ninh và tình báo cực kỳ gần gũi với Hoa Kỳ,” ông nói. “Chúng tôi có thể phải trả tiền bồi thường ngay cả khi nhân viên của chúng tôi không làm gì sai. Anh có thể tưởng tượng xem người dân Ba Lan cảm thấy chuyện này thế nào.”

“Chuyện này làm chúng tôi mang tiếng xấu,” người sáng lập ra think tank Hiệp Hội Châu Âu-Đại Tây Dương ở Warsaw, Tadeusz Chabiera nói. “Chúng tôi là một quốc gia nhỏ bị một quyền lực lớn đối xử tồi tệ.”

Sự hối tiếc và cảm giác bị lừa dối được thể hiện ở Ba Lan sau một kịch bản đã có từ lâu, ít nhất là một thập kỷ trước đây. Dấu hiệu về sự cay đắng nổi lên lần đầu tiên vào năm 2014 khi Hoa Kỳ xâm lược Iraq và Ba Lan đóng góp 2.400 quân.

Vào đỉnh điểm của cuộc chiến tranh Iraq, David Ost tường thuật trên tạp chí The Nation vào ngày 16 tháng 12 năm 2004, “George W. Bush đã chuẩn bị để làm cái điều mà 45 năm chế độ cộng sản không thể: hủy hoại hình ảnh về bản chất tốt đẹp của người Mỹ, thứ vốn đã luôn là con bài chủ chốt của Hoa Kỳ.” 

Hình ảnh bị hủy hoại của Hoa Kỳ

Ở Ba Lan, cũng giống như ở nhiều quốc gia khác trên thế giới, hầu hết hình ảnh tích cực đã được khôi phục sau khi Barack Obama thắng cử năm 2008 và lời hứa về sự thay đổi mà ông ta có vẻ như là đại diện. Nhưng theo như Trung Tâm Nghiên Cứ Pew đưa tin vào năm 2013, “tình cảm thân Mỹ đã sụp đổ.” 

“Sự suy giảm không thể so sánh với sự sụp đổ của danh tiếng Hoa Kỳ trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ này,” theo Pew, họ cho biết rằng vào thời điểm của nghiên cứu toàn cầu năm 2013, hơn 6/10 ở Ba Lan, Pháp, Italy và Tây Ban Nha đã có quan điểm tích cực về Hoa Kỳ “nhưng sự nổi bật của Obama” trên phạm vi toàn cầu mà Hoa Kỳ đã trải qua vào năm 2009 rõ ràng là chuyện quá khứ.”

Vẫn cần phải chờ xem những sự tiến triển mới đây về việc tra tấn của CIA có đóng vai trò đáng kể nào trong việc tiếp tục hủy hoại hình ảnh của Hoa Kỳ hay không, nhưng sự phi lý của việc một quốc gia nhỏ như Ba Lan phải gánh chịu trách nhiệm nặng nề về chính sách phi pháp trong khi không ai ở Hoa Kỳ trả lời họ sẽ không dễ quên đối với các đồng minh khác của Hoa Kỳ. 

Tại một số quốc gia hợp tác với chương trình giam giữ của Hoa Kỳ, bánh xe công lý vẫn đang quay, mặc dù chậm dãi. Một cuộc điều tra hình sự đang được tiến hành ở Lithuania, tại đó các công tố viên đang tập trung vào các hoạt động bất hợp pháp xuyên biên giới liên quan đến tù nhân Mustafa al-Hawsawi của CIA, người này có thể đã bị tra tấn nhà tù bí mật có mật danh là Violet của Lithuania.

Cùng lúc đó, những lời kêu gọi nhà cầm quyền áp thực hiện các điều tra toàn diện về sự tồn tại của nhà tù bí mật của CIA ở Romania, cựu tổng thống Romania Ion Iliescu cho biết vào tháng trước rằng ông đã chấp thuận yêu cầu thiết lập ít nhất một nhà tù bí mật của CIA, tại đó các tù nhận bị tra tấn. Iliescu nói rằng ông rất tiếc về quyết định đó.

Những lời kêu gọi tiếp tục đòi hỏi Hoa Kỳ tiến hành những cuộc điều tra đáng tin cậy về vai trò của họ và bồi thường cho nạn nhân của chương trình giam giữ và tra tấn. Trùng hợp là bản án của ECHR đối với Ba Lan được đưa ra cùng tuần với việc Liên Hiệp Quốc thúc giục Hoa Kỳ bồi thường tài chính cho các nạn nhân của chương trình tra tấn và truy tố thủ phạm của các vụ tra tấn này.

Theo một báo cáo của nhóm hành động của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc về Kiểm Định Phổ Quát Định Kỳ, xuất bản ngày 15 tháng 5, Hoa Kỳ phải “đảm bảo rằng tất cả các nạn nhân bị tra tấn và ngược đãi - bất kể là đang bị giam giữ tại Hoa Kỳ hay không – nhận được bồi thường và có quyền khả thi về bồi thường công bằng và hợp lý cũng như phục hồi hoàn toàn, bao gồm trợ giúp về y tế và tâm lý học.”

Hơn nữa, Hoa Kỳ phải “đảm bảo điều tra minh bạch và xác đáng cũng như xét xử các cá nhân chịu trách nhiệm về các cáo buộc tra tấn, ngược đãi, bao gồm những người bị nêu tên trong kết luận công khai của thượng viện về hoạt động của CIA được xuất bản vào năm 2014 và bồi thường cho các nạn nhân.” Với thời hạn vào tháng 12 để phản hồi các khuyến nghị của Liên Hiệp Quốc, chính quyền Obama sẽ phải chứng tỏ cho thế giới thấy bằng cách quyết định xem khuyến nghị nào sẽ được chấp nhận và khuyến nghị nào sẽ bị từ chối.

Khi đề cập tới việc truy tố tra tấn và bồi thường, tốt hơn cả là nói rằng thế giới sẽ theo dõi.