Showing posts with label Dầu mỏ. Show all posts
Showing posts with label Dầu mỏ. Show all posts

Wednesday, December 10, 2014

Chiến tranh băng giá của Washington chống lại Nga

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Washington’s Frozen War Against Russia" của tác giả Diana Johnstone về cuộc đối đầu giữa Hoa Kỳ và Nga hiện nay. Tác giả đã chỉ ra mục tiêu của Hoa Kỳ là thay đổi chế độ ở Nga, lật đổ tổng thống Putin.

Chiến Tranh Băng Giá của Washington chống lại Nga

Hơn một năm qua, Hoa Kỳ đã triển khai kịch bản được thiết kế để (1) tái lập sự kiểm soát của Hoa Kỳ đối với Châu Âu bằng cách ngăn chặn Châu Âu giao thương với Nga, (2) làm phá sản Nga, (3) lật đổ Vladimir Putin và thay thế ông ta bằng một tay sai của Hoa Kỳ, giống như kẻ say sưa Boris Yeltsin trước đây.

Những ngày qua đã cho thấy rất rõ sự phản bội kinh tế trong cuộc chiến của Hoa Kỳ chống lại Nga.

Tất cả bắt đầu ở hội nghị quốc tế cấp cao quan trọng về tương lai của Ukraina được tổ chức ở Yalta vào tháng 12 năm 2013, tại đó chủ đề chính là cuộc cách mạng khí đá phiến mà Hoa Kỳ hy vọng có thể sử dụng để làm suy yếu Nga. Cựu bộ trưởng năng lượng Hoa Kỳ Bill Richardson ở đó để tạo đà, được Bill và Hillary Clinton hoan nghênh. Washington hy vọng sử dụng kỹ thuật fracking để tạo ra nguồn năng lượng thay thế cho khí đốt tự nhiên, loại Nga ra khỏi thị trường. Khối lượng đó sẽ khiến cho Châu Âu mù quáng.

Nhưng cú lừa đó không thể hoàn thành dựa trên “thị trường” bất khả xâm phạm, do fracking tốn kém hơn việc chiết xuất khí đốt của Nga nhiều. Một cuộc khủng hoảng quan trọng là cần thiết để bóp méo thị trường với sức ép chính trị. Với cuộc đảo chính ngày 22 tháng 2, do Victoria Nulanad dàn xếp, Hoa Kỳ đã thành công trong việc giành quyền kiểm soát Ukraina, đưa tay chân “Yats” (Arseniy Yatsenyuk) lên nắm quyền, người này ủng hộ việc gia nhập NATO. Mối đe dọa trực tiếp đối với căn cứ hải quân của Nga ở Crimea đã dẫn tới cuộc trưng cầu dân ý sáp nhập một cách hòa bình bán đảo lịch sử của Nga trở lại Nga. Nhưng dàn đồng ca của Hoa Kỳ lên án việc sáp nhập hòa bình bán đảo Crimea là “cuộc xâm lược quân sự của Nga”. Động thái phòng vệ đó được NATO loan báo là bằng chứng của việc Putin có ý đồ xâm lược các quốc gia láng giềng của Nga ở Đông Âu bất kể lý do. 

Cùng lúc đó, kinh tế xâm lược của Hoa Kỳ đã lặng lẽ lan tỏa.

Ukraina là một trong những nguồn dự trữ khí đá phiến lớn nhất ở Châu Âu. Giống như các quốc gia Châu Âu khác, người Ukraina đã chống lại các tác động tổn hại môi trường của việc fracking trên quê hương của họ, nhưng không giống các quốc gia khác, Ukraina không có luật cấm. Chevron đã tham gia.

Vào tháng 5 vừa qua, R. Hunter Biden, con trai của phó tổng thống Hoa Kỳ, trở thành thành viên trong ban giám đốc của Burisma Holdings, nhà cung cấp khí đốt tư nhân lớn nhất của Ukraina. Biden trẻ chịu trách nhiệm về bộ phận pháp lý của Holdings và đóng góp vào “sự mở rộng quốc tế” của công ty.

Ukraina có đất canh tác màu mỡ cũng lớn như dự trữ dầu đá phiến. Người khổng lồ nông nghiệp Cargill của Hoa Kỳ đã đặc biệt tích cực ở Ukraina, đầu tư vào kho chứa ngũ cốc, thức ăn gia súc, nhà cung cấp trứng và hãng kinh doanh nông nghiệp chủ chốt, Ukr Land Farming, cũng như cảng tại Novorossiysk ở Biển Đen. Hội Đồng Kinh Doanh Hoa Kỳ-Ukraina cũng rất tích cực với sự có mặt của Monsanto, John Deere, nhà chế tạo nông cụ CNH Industrial, DuPont Pioneer, Eli Lilly và Công Ty. Monsanto dự định xây dựng một “nhà máy hạt giống ngũ cốc không biến đổi gen” trị giá 140 triệu dollar ở Ukraina, nhắm tới thị trường e ngại hạt giống biến đổi gen (GMO) của Châu Âu. Trong bài phát biểu tại hội nghị của Hội Đồng Kinh Doanh Hoa Kỳ-Nga do Chevron tài trợ một năm trước đây, Victoria đề cập tới việc Hoa Kỳ đã chi 5 tỷ dollar trong hai mươi năm qua để giành được Ukraina.

Vào ngày 2 tháng 12, tổng thống Poroshenko bổ nhiệm ba người ngoại quốc làm bộ trưởng trong nội các: một người Mỹ, một người Lít-va và một người Grudia. Ông ta cấp quốc tịch Ukraina cho họ chỉ vài phút trước buổi lễ bổ nhiệm. 

Người sinh ra ở Mỹ, Natalie Jaresko, là bộ trưởng tài chính mới của Ukraina. Với một nền tảng gia đình Ukraina cũng như bằng cấp của trường Harvard và DePaul, Jaresko chuyển từ Bộ Ngoại Giao tới Kiev để lãnh đạo phòng kinh tế của đại sứ quán Hoa Kỳ mới mở khi Ukraina tách ra khỏi Liên Bang Soviet. Ba năm sau, bà ta rời đại sứ quán Hoa Kỳ để lãnh đạo quỹ Western NIS Enterprise được Hoa Kỳ tài trợ. Vào năm 2004, bà ta thiết lập quỹ đầu tư cổ phiếu riêng. Với vai trò là người ủng hộ cuộc Cách Mạng Cam năm 2004, bà ta tham gia Hội Đồng Cố Vấn Nhà Đầu Tư Nước Ngoài của tổng thống “Cam” Viktor Yushenko. 

Chủ ngân hàng đầu tư Aivaras Abromavicius là bộ trưởng Kinh Tế mới, đặt chính sách kinh tế vào ảnh hưởng của Hoa Kỳ hơn là kiểm soát.

Bộ trưởng Y Tế mới, Aleksandr Kvitashvili từ Grudia, được đào tạo ở Hoa Kỳ và không nói tiếng Ukraina. Ông ta từng là bộ trưởng y tế tại quê hương Grudia dưới thời tổng thống tay sai của Hoa Kỳ Mikheil Saakashvili.

Hoa Kỳ đã hoàn tất việc kìm chặt kinh tế Ukraina. Bước kế tiếp là bắt đầu fracking, dĩ nhiên sẽ biến Hunter Biden thành nhà tài phiệt mới nhất của Ukraina.

Không ai đề cập tới điều này nhưng hiệp định thương mại gây tranh cãi giữa E.U. và Ukraina, đã bị trì hoãn khiến cho cuộc biểu tình Maidan dẫn tới cuộc đảo chính ngày 22 tháng 2 do Hoa Kỳ chỉ đạo, xóa bỏ các rào cản thương mại, cho phép tự do xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp do công ty Hoa Kỳ sản xuất ở Ukraina sang các quốc gia E.U. Chính quyền Ukraina chìm đắm trong nợ nần nhưng điều đó không ngăn cản các công ty Hoa Kỳ kiếm lợi nhuận khổng lồ từ đất nước màu mỡ, lương thấp và phi luật lệ. Các nhà sản xuất ngũ cốc Châu Âu, như Pháp, có thể bị thiệt hại lớn khi gặp cạnh tranh giá rẻ.

Cuộc tấn công của chính quyền Kiev bị ám ảnh bởi Nga ở Đông Nam Ukraina đã giết chết lĩnh vực công nghiệp vốn có thị trường ở Nga của quốc gia. Nhưng đối với những nhà cai trị Kiev từ miền tây Ukraina thì điều đó không quan trọng. Cái chết của công nghiệp cũ kỹ có thể giữ cho lương thấp và lợi nhuận cao.

Ngay sau khi người Mỹ giành quyền kiểm soát kinh tế Ukraina, Putin thông báo hủy bỏ dự án đường ống dẫn khí đốt Tuyến Phương Nam. Hợp đồng được ký vào năm 2007 giữa Gazprom và công ty hóa dầu ENI của Ý, nhằm đảm bảo nguồn cung cấp khí đốt của Nga cho vùng Ban-căng, Áo và Ý tránh đi qua Ukraina, một quốc gia trung gian không đáng tin cậy khi liên tục không thanh toán các khoản nợ và hút khí đốt chuyển cho Châu Âu để sử dụng. Công ty Đức Winterhall và công ty Pháp EDF cũng đầu tư vào Tuyến Phương Nam.

Trong những tháng gần đây, các đại diện của Hoa Kỳ gia tăng sức ép, buộc các quốc gia Châu Âu đã tham gia phải hủy bỏ dự án. Tuyến Phương Nam là phao cứu sinh đối với Serbia, vẫn đang khốn đốn bởi hậu quả từ những trận ném bom của NATO và tư hữu hóa các ngành công nghiệp để bán đổ bán tháo cho nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh nhu cầu về công ăn việc làm và an ninh năng lượng, Serbia cũng sẽ nhận được 500 triệu euro phí quá cảnh hàng năm. Belgrade phản đối cảnh báo rằng Serbia phải tuân thủ chính sách đối ngoại chống lại Nga của E.U. để đáp ứng các điều kiện làm ứng cử viên gia nhập E.U.

Điểm yếu là Bulgaria, nước này cũng nhận được những lợi ích tương tự khi chấp nhận cho đường ống đi qua lãnh thổ. Đại sứ Hoa Kỳ ở Sofia, Marcie Ries đã bắt đầu cảnh báo các doanh nhân Bulgari rằng họ có thể phải gánh chịu trừng phạt nếu hợp tác với các công ty Nga. Chủ tịch về hưu của Ủy Ban Châu Âu, José Manuel Barroso người Bồ Đào Nha, người được coi là “Maoist” khi “chủ nghĩa Mao” biện minh cho việc chống lại phong trào giải phóng được Soviet hậu thuẫn ở các thuộc địa Châu Phi của Bồ Đào Nha, đã đe dọa Bulgaria với việc khởi kiện bất tuân thủ Châu Âu trong hợp đồng Tuyến Phương Nam. Điều này dẫn chiếu tới quy định của E.U. chống lại việc cho phép cùng một công ty cung cấp và chuyển tiếp khí đốt. Nói ngắn gọn là E.U. đang cố gắng áp dụng quy định của bản thân theo kiểu hồi tố cho hợp đồng được ký kết với một quốc gia không thuộc E.U.

Cuối cùng, John McCain bay tới Sofia để hăm dọa thủ tướng Bulgaria, Plamen Oresharski, để hủy bỏ hợp đồng, khiến cho Tuyến Phương Nam nằm trên Biển Đen mà không có lối vào đất liền Ban-căng.

Tất cả những chuyện nực cười đó cho thấy hoàn cảnh cuộc chiến tuyên truyền hiện nay của Hoa Kỳ chống lại Nga, kiểu như Gazprom là một vũ khí nguy hiểm được Putin sử dụng để “ép buộc” và “bắt nạt” Châu Âu.

Bằng chứng duy nhất là Nga thường xuyên kêu gọi một cách vô ích Ukraina trả các khoản nợ khí đốt quá hạn.

Hủy bỏ Tuyến Phương Nam là một cú đánh đến muộn của NATO vào Serbia. Thủ tướng Serbia Aleksandar Vucic than vãn về tổn thất Tuyến Phương Nam: “Chúng ta đang trả giá cho xung đột giữa các cường quốc.”

Các đối tác người Ý trong hợp đồng cũng không vui vẻ với tổn thất lớn đó. Nhưng quan chức và truyền thông E.U. vẫn lên án Putin về mọi thứ như thường lệ.

Dĩ nhiên là khi bạn thường xuyên bị xúc phạm và cảm thấy không được chào đón thì bạn sẽ quay đi. Putin mang dự án đường ống dẫn dầu sang Thổ Nhĩ Kỳ và ngay lập tức bán cho thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Recep Erdogan. Điều đó có vẻ như là một hợp đồng tốt cho Nga, cho Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng toàn bộ sự việc vẫn chỉ là điềm báo.

Dầu của Nga là công cụ ép buộc? Nếu Putin có thể sử dụng Gazprom để buộc Erdogan thay đổi chính sách về Syria, và từ bỏ quyết định lật đổ Bachar al Assad, nhằm đánh bại Nhà Nước Hồi Giáo thần kỳ, thì đó sẽ là kết quả tuyệt vời. Nhưng hiện giờ vẫn chưa có dấu hiệu của một sự tiến triển như vậy.

Sự thay đổi từ Ban-căng sang Thổ Nhĩ Kỳ đào sâu ngăn cách giữa Nga và Tây Âu, mà trong dài hạn sẽ gây tổn thương cho cả hai phía. Nhưng điều đó cũng đào sâu bất bình đẳng kinh tế giữa phương Nam và phương Bắc Châu Âu. Đức vẫn nhận được khí đốt của Nga từ Tuyến Phương Bắc, dự án hợp tác của Gerhard Schroeder với Putin. Song các quốc gia phía Nam Châu Âu, vốn đang chìm trong khủng hoảng của đồng euro, thì bị bỏ mặc trong lạnh giá. Điều này có thể thúc đẩy nổi loạn chính trị đang lớn dần tại những quốc gia đó.

Khi những tiếng nói dấy lên ở Ý phàn nàn rằng trừng phạt Nga khiến Châu Âu bị tổn thương nhưng Hoa Kỳ thì vô sự, người Châu Âu có tự an ủi bằng diễn ngôn của người được giải Nobel Hòa Bình ở Nhà Trắng, người ca ngợi Liên Minh Châu Âu làm điều đúng đắn, ngay cả khi điều đó “là gay go đối với kinh tế Châu Âu”.

Trong bài phát biểu với các CEO hàng đầu vào ngày 3 tháng 12, Obama nói rằng sự trừng phạt nhằm mục tiêu thay đổi “nhận thức” của Putin, nhưng không nghĩ rằng điều đó sẽ thành công. Ông ta chờ đợi “chính trị trong nội bộ Nga” sẽ “bắt kịp với những gì diễn ra trong kinh tế, đó là lý do tại sao chúng ta tiếp tục duy trì sức ép.” Hay nói cách khác là ăn cắp thị trường khí đốt của Nga, ép buộc Châu Âu áp đặt trừng phát, và khiến những gã gốc mù quáng của Washington ở Arab Saudi hạ giá dầu bằng cách làm tràn ứ thị trường, đều chỉ nhằm mục đích khiến nhân dân Nga đủ ghét Putin để lật đổ ông ta. Nói một cách ngắn gọn là thay đổi chế độ.

Vào ngày 4 tháng 12, Hạ Viện Hoa Kỳ chính thức công bố động cơ của Hoa Kỳ phía sau thông điệp bằng cách đưa ra một thứ có thể coi là tồi tệ nhất mà khối lập pháp từng đưa ra: Nghị quyết 758. Nghị quyết là một bản tóm tắt tất cả những dối trá chống lại Vladimir Putin và Nga trong hơn một năm qua. Chưa bao giờ có nhiều lời dối trá được nhồi nhét trong một văn bản chính thức như vậy. Mặc dù vậy, cuộc chiến tuyên truyền được chứng thực bằng số phiếu thông qua 411 so với 10 phản đối. Nếu như điều này không dẫn đến chiến tranh giữa hai cường quốc hạt nhân, và vẫn còn những nhà sử học trong tương lai, thì họ sẽ đánh gia nghị quyết này là bằng chứng sự thất bại hoàn toàn của trí tuệ, trung thực, và tinh thần trách nhiệm của hệ thống chính trị mà Washington đang cố gắng áp đặt cho toàn thế giới.

Ron Paul đã viết một phân tích xuất sắc về tài liệu đáng xấu hổ đó ở đây và ở đây nữa

Bất kể người ta có nghĩ gì về chính sách đối nội của Paul, về đối ngoại thì ông ta đứng riêng một mình – rất riêng biệt – tiếng nói của lý trí. (Đúng như vậy, có cả Dennis Kucinich nữa, nhưng họ loại bỏ ông ta bằng cách xóa bỏ theo kiểu gian lận quận của ông ta khỏi bản đồ.)

Sau một danh sách dài những lời nói dối “Xét rằng”, gây tổn thương và đe dọa, chúng ta trở thành phe gây sự thô bỉ trong chiến dịch nguy hiểm này. Hạ Viện kêu gọi các quốc gia Châu Âu “làm suy yếu khả năng sử dụng nguồn khí đốt như là công cụ tạo sức ép chính trị và kinh tế đối với các quốc gia khác của Liên Bang Nga” và “thúc giục tổng thống xúc tiến phê chuẩn của Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ về việc xuất khẩu khí đốt hóa lỏng sang Ukraina và các quốc gia Châu Âu khác.” 

Quốc Hội đã sẵn sàng mạo hiểm và thậm chí là khuyến khích chiến tranh hạt nhân, nhưng họ đi từ “tuyến dưới”. Điều quan trọng là việc đánh cắp thị trường khí đốt của Nga bằng thứ mà cho đến nay vẫn là trò lừa gạt: khí đá phiến thu được từ fracking của Hoa Kỳ.

Tồi tệ hơn Chiến Tranh Lạnh

Phái tân bảo thủ đang điều khiển các chính khách thiếu trải đời của Hoa Kỳ sẽ đẩy chúng ta vào một cuộc Chiến Tranh Lạnh mới. Cuộc đối đầu dai dẳng với Liên Bang Soviet là “Lạnh” do Sự Phá Hủy Đảm Bảo Cho Đôi Bên (MAD). Cả Washington và Moscow đã hoàn toàn nhận thức được rằng chiến tranh “Nóng” có nghĩa là đụng độ vũ khí hạt nhân sẽ tiêu diệt tất cả mọi người.

Khi thời đó qua đi, Hoa Kỳ nghĩ rằng họ đã “thắng” trong Chiến Tranh Lạnh và dường như say sưa với sự tự thỏa mãn rằng họ có thể thắng một lần nữa. Sự nâng cấp vũ khí hạt nhân của họ và xây dựng “lá chắn hạt nhân” quanh biên giới Nga chỉ nhằm mục tiêu tạo cho Hoa Kỳ khả năng đánh phủ đầu – khả năng hạ gục bất cứ sự trả đũa nào của Nga đối với tấn công hạt nhân của Hoa Kỳ. Điều đó không thể có tác dụng, nhưng nó làm suy yếu sự ngăn chặn.

Nguy cơ của một cuộc chiến toàn diện giữa hai cường quốc hạt nhân thực sự lớn hơn dưới thời Chiến Tranh Lạnh. Hiện nay chúng ta đang ở trong một dạng Chiến Tranh Băng Giá, bởi vì tất cả những gì mà Nga làm hay nói đều không có bất cứ tác động nào. Phe tân bảo thủ đang tạo ra các chính sách của Hoa Kỳ ở phía hậu trường đã sáng tạo ra câu chuyện giả tưởng về “sự xâm lược” của Nga mà thổng thống của Hoa Kỳ, truyền thông và giờ là Quốc Hội phải chấp nhận và tán thành. Các nhà lãnh đạo Nga phản ứng với sự trung thực, sự chân thành và nhận thức chung, vẫn đang kiềm chế bất chấp những thóa mạ đối với họ. Điều đó không tạo ra bất cứ thứ gì tốt đẹp. Tình thế bị đóng băng. Khi lý trí thất bại, bạo lực sẽ tiếp bước. Sớm hay muộn.

Diana Johnstone is the author of Fools’ Crusade: Yugoslavia, NATO, and Western Delusions. Her new book, Queen of Chaos: the Foreign Policy of Hillary Clinton, will be published by CounterPunch in 2015. She can be reached at diana.johnstone@wanadoo.fr

Monday, November 24, 2014

VTV nhầm lẫn về lịch sử khai thác dầu mỏ

Mới đây VTV đưa tin:
Ngôi làng Bobrka nhỏ bé ở phía Nam Ba Lan sở hữu một di sản thế giới rất đặc biệt. Đó chính là giếng dầu cổ nhất thế giới đã có lịch sử từ năm 1860. Người có công phát hiện và khai thác mỏ dầu này là ông Ignacy Lukasewic với mục đích ban đầu chỉ là để cung cấp nhiên liệu cho những chiếc đèn dầu.
Dầu mỏ đã được khai thác từ rất lâu đời, theo trang RigsInternational thì người Trung Quốc vào khoảng thế kỷ thứ tư sau công nguyên đã biết khoan giếng để lấy khí đốt bằng mũi khoan gắn vào cọc tre, khí đốt được dùng để đun cho nước biển bay hơi nhằm thu lấy muối. Người Trung Quốc đã khoan được giếng sâu tới 243m để lấy khí đốt.

Khai thác dầu mỏ phát triển nhất là ở Baku, Azebaijan. Mặc dù đến thứ kỷ thứ 8, tức là sau người Trung Quốc khoảng 400 năm thì người Baku mới đốt đất thấm dầu để sưởi ấm, do thiếu củi. Chỉ trong vòng khoảng 100 năm sau đó, người Baku đã xuất khẩu dầu mỏ sang các nước Iran, Iraq và Ấn Độ do dầu mỏ của họ rất được các nước này ưa chuộng. Người Baku lúc đó chưa biết khoan dầu, các mỏ dầu lộ thiên của họ rất sẵn, họ chỉ việc múc dầu rỉ ra từ lòng đất và cho vào túi đựng, rồi dùng thú thồ hàng chở đi các nơi. Dầu mỏ không chỉ được sử dụng làm chất đốt mà còn được chế làm thuốc chữa bệnh.

Theo trang GeoHelp thì ở một khu vực khác của châu Âu vào khoảng những năm 1500 có mỏ dầu lộ thiên là vùng núi Carpathian, dầu thu được từ mỏ lộ thiên đã được dùng để thắp sáng ở thị trấn Krosno của Ba Lan ngày nay.

Khi dầu lộ thiên ngày càng khan hiếm thì người Baku bắt đầu đào giếng sâu xuống lòng đất, dùng vải thấm lấy dầu rồi đem lên mặt đất ép ra cho dầu chảy ra. Người ta phát hiện một bia đá đề năm 1594 tại một giếng dầu đào bằng tay sâu 35m ở Baku. Như vậy có thể thấy các giếng dầu ở Baku ít phải có từ năm 1594. Sau đó, dầu mỏ đã sử dụng nhiều trong chiến trận, các chiến thuyền được trang bị vòi để phun dầu sang thuyền của đối phương rồi đốt cháy, đó là một trong những vũ khí khủng khiếp đương thời. 

Suốt nhiều thế kỷ việc khai thác dầu đã đem lại sự giàu có cho các chủ mỏ dầu ở Baku. Do nhu cầu về dầu không ngừng tăng lên và điều kiện kỹ thuật cho phép, người Baku đã chuyển sang khai thác các mỏ dầu ngoài khơi. Vào năm 1803 họ đã có hai giếng dầu đào thủ công ở cách bờ biển 18m và 30m trên vịnh Bibi-Heybat, các mỏ dầu này đã tồn tại tới năm 1825 khi bị một cơn bão lớn phá hỏng.

Đến cuối thế kỷ 19, công nghiệp dầu mỏ ở Baku đã rất phát triển, các công nghệ hiện đại đã được áp dụng, họ xây dựng nhiều nhà máy chế xuất, hệ thống đường ống dẫn dầu tới các nhà máy nằm ở xa khu khai thác dầu, và thậm chí đóng cả các tàu chở dầu để chở dầu để mang dầu vượt biển sang các thị trường có nhu cầu lớn nhưng ở xa.

Kỹ thuật khoan dầu ban đầu đơn giản là khoan xoay, tức là dùng lực xoay mũi khoan để cắt xuyên qua đất đá, xuống đến túi dầu. Kỹ thuật khoan đó chỉ thích hợp với khu vực đất sét, cát và đá nhỏ. Còn túi chứa dầu nằm giữa các vỉa đá lớn thì không thể khoan được. Sau này người ta phát minh ra kỹ thuật khoan đập, tức là mũi khoan nặng có răng được thả rơi từ trên cao xuống để đập vỡ đá, thì các túi dầu nằm giữa vỉa đá mới được đưa vào khai thác. Khoan đập cũng như khoan xoay, ban đầu đều dùng sức người hoặc động vật kéo. Sau này khi các máy hơi nước được phát minh thì mới có máy khoan cơ giới.

Dựa trên tài liệu của các giáo sư người Azerbaijan thì vào năm 1846, theo đề xuất của một kỹ sư người Nga, người Baku đã tổ chức khoan thăm dò thành công lần đầu tiên trên thế giới với kỹ thuật khoan đập, giếng khoan có độ sâu 21m, đi trước người Mỹ 13 năm trong việc khoan dầu bằng kỹ thuật khoan đập. Vài năm sau, người Ba Lan ở vùng Krosno dùng kỹ thuật khoan đập đã tạo ra giếng dầu trên vỉa đá đầu tiên vào khoảng năm 1852-1854, theo trang RigsInternational và nhiều tài liệu khác.

Như vậy, VTV có ba cái nhầm lẫn. Thứ nhất là về năm người Ba Lan khai sinh ra giếng trên vỉa đá ở làng Bóbrka, thuộc thị trấn Krosno. Họ khoan cái giếng đó vào khoảng năm 1852-1854 (nhiều tài liệu cho là vào năm 1852, trong khi nhiều tài liệu khác ghi năm 1854) chứ không phải 1860 như VTV đã đưa tin. Hầu hết các tài liệu của Ba Lan đều tự hào là họ có giếng dầu hiện đại đầu tiên trên thế giới, không có tài liệu nào nói rằng họ có giếng dầu cổ nhất thế giới. Ba Lan có tranh chấp danh hiệu này với Mỹ bởi vì rất nhiều tài liệu của Mỹ luôn khẳng định rằng người Mỹ khoan giếng dầu hiện đại đầu tiên trên thế giới vào năm 1859. Cái nhầm thứ nhất của VTV quả là tai họa đối với niềm tự hào của người Ba Lan. Thứ hai là phóng viên của VTV đã không hiểu về kỹ thuật và lịch sử, giếng dầu ở Ba Lan chỉ là giếng khoan dầu trên vỉa đá đầu tiên của thế giới chứ không phải là giếng khoan dầu đầu tiên trên thế giới. Theo các bằng chứng hiện tại thì giếng khoan dầu cổ nhất là ở Baku, Azerbaijan, có từ năm 1594. Thứ ba là thật nhạo báng người Ba Lan khi nói họ khoan dầu chỉ để đốt đèn, Ignacy Łukasiewicz, người khai sinh ra giếng dầu vỉa đá ở Krosno, vốn nghiên cứu công nghệ chế xuất dầu, ông ta lập công ty khai thác và xưởng chế xuất dầu là để bán sản phẩm chế xuất cho công nghiệp đang lên của đế quốc Áo-Hung.

Mặc dù dầu mỏ đã được dùng để thắp sáng đường phố ở Krosno từ những năm 1500, nhưng đại công quốc Ba Lan-Lít va không biết làm gì để phát triển việc khai thác dầu mỏ. Thị trấn Krosno vào cuối thế kỷ 17 đã bị các đạo quân cướp bóc và dịch bệnh biến thành một xứ sở bị quên lãng. Sau khi đại công quốc Ba Lan-Lít va bị ba đế quốc Nga, Áo-Hung và Phổ phân chia, nước Ba Lan đã biến mất trên bản đồ thế giới, chỉ còn lại tỉnh Ba Lan thuộc Nga. Thị trấn Krosno thuộc về đế quốc Áo-Hung, dưới sự cai trị của vua Hung, ngành công nghiệp dầu mỏ của Krosno mới được hồi sinh và phát triển mạnh mẽ. Đế quốc Áo-Hung khi đó lên kế hoạch phát triển một hệ thống đường sắt khổng lồ, do vậy họ cần một lượng lớn các sản phẩm chế xuất từ dầu, ví dụ như mỡ bôi trơn, nhưng các sản phẩm chế xuất từ dầu lại đang bị đối thủ của họ là người Nga kiểm soát ở Baku, thế nên họ phải tìm cách khai thác các mỏ ở vùng Carpathian. Xưởng chế xuất dầu của Ignacy Łukasiewicz vào năm 1859 đã bán cho công ty đường sắt ở Vienna 50.000 kg mỡ bôi trơn.

Quay trở lại với bản tin của VTV, mặc dù họ không ghi nguồn, nhưng sau khi tìm kiếm bằng tiếng Anh, thì thấy có thể là VTV đã lược dịch bài báo của tờ New Strait Times trước đây đúng một tuần. Tờ NST cho thấy họ đăng lại tin của AFP, và đến đây thì mọi sự rõ ràng. AFP có một phóng sự  về mỏ dầu ở Krosno của Ba Lan vào ngày 12.11.2014. AFP khéo léo dùng bản tin này để bợ đỡ chính quyền Mỹ với việc ca ngợi một ông chủ mỏ dầu tốt bụng khiêm tốn, đã bỏ tiền ra xây dựng cơ sở hạ tầng và trường học địa phương, gợi ý về sự hợp tác tốt đẹp xưa kia giữa Mỹ và Ba Lan thông qua câu chuyện đồn thổi về Rockerfeler, có thể là tăng cường tình đoàn kết Mỹ-Ba Lan để chống lại trò đe dọa đóng van đường ống dẫn dầu của nước Nga, nhưng lại quên nói rằng các hãng dầu mỏ Mỹ từng làm ăn rất phát đạt với Nga ở Baku. Cũng có thể là AFP cố tìm cách an ủi người Ba Lan sau khi giấc mơ khí đá phiến đã tan tành và các ông lớn phương Tây đã chuồn sạch.

AFP cũng không quên gài những chi tiết bôi nhọ người Ba Lan và làm lợi cho người Mỹ, như xuyên tạc năm khai sinh của giếng dầu ở Ba Lan để cho nó ra đời sau cái giếng dầu ở Mỹ đúng một năm. AFP chắc chắn không thể nhầm lẫn về chi tiết này, bởi vì trang web của làng Bobrka viết rất rõ rằng giếng dầu của làng được khoan vào năm 1854 và có trước giếng dầu của Mỹ ở Pennsylvania 5 năm. Một chi tiết khác phải theo dõi bản tin tiếng Anh mới thấy. AFP đưa tin giếng dầu được đào và xây dựng bằng tay, sau đó trích dẫn lời người phụ trách bảo tàng mô tả rằng những người khoan dầu đầu tiên ở Krosno thực ra giống người đào giếng hơn, họ dùng các công cụ thô sơ như xẻng và búa để đào giếng dầu (có lẽ là người phụ trách bảo tàng nói về giai đoạn khai thác dầu lộ thiên ở Krosno). Điều đó làm người xem lầm tưởng là giếng dầu ở Krosno được đào bằng xẻng. Nếu người Ba Lan mà dại dột nhảy múa với bản tin của AFP thì người Mỹ có thể cười giễu người Ba Lan và tự hào với cái giếng dầu khoan xuyên vỉa đá đầu tiên trên thế giới vào năm 1859 của mình.

Người Việt Nam, hãy cảnh giác với những bản tin của AFP!