Showing posts with label Trí thức. Show all posts
Showing posts with label Trí thức. Show all posts

Saturday, May 18, 2019

Tư duy biện chứng để làm gì?

Dạo nhà thờ Đức Bà Paris bị cháy trụi, bên cạnh đám me Tây khóc than ầm ĩ cho nước Pháp thực dân thì cũng có một số người nhân dịp ấy mới nói rằng:
- Ngày xưa nước Pháp đi xâm lược thuộc địa, cướp bóc đốt phá không biết bao nhiêu chùa chiền miếu mạo, giờ là quả báo thôi, có gì mà phải than khóc. Pháp cũng đốt bảo nhiêu chùa chiền ở Việt Nam mà có đứa me Tây nào chịu khóc đâu.

Một hôm nọ, có vị giáo sư khoa Triết học mới dạy dỗ quần chúng ngu lâu mãi không chịu hiểu rằng:
- Họ nói vậy là sai, sai vì họ không có tư duy biện chứng. Thứ nhất, cái nhà thờ ấy là tài sản nhân loại, không phải chỉ riêng của người Pháp. Thứ hai, chúng ta có thù với chính quyền thực dân Pháp chứ không phải người dân Pháp. Thế nên khi cái nhà thờ ấy cháy thì ta phải tỏ lòng thương tiếc, không được tỏ thái độ vui mừng như vậy.

Phải tư duy biện chứng theo kiểu như vậy thì khác gì khổ dâm?


Bây giờ cứ thử hỏi vị giáo sư khoa Triết học ấy rằng nếu cái nhà thờ ấy là cái chùa to nhất Việt Nam và vị giáo sư của chúng ta là người Pháp thì đức ngài tôn quý ấy sẽ nói sao?  Chắc chắn đức ngài biện chứng của chúng ta sẽ hét lên sung sướng rằng: Đúng rồi, hãy đốt ra tro đám tà đạo đó đi, hãy dựng lên nhà thờ mới của Đức Chúa Trời Gô Loa! 

Nghe chuyện đến đây chắc hẳn sẽ có người bỉ bôi cái thằng tôi rằng: Thật là loại ếch ngồi đáy giếng, biết gì về 'Hai nguyên lý, ba quy luật và sáu cặp phạm trù mà chê ngài giáo sư triết học?

Đã chót thì phải chét vậy, tôi đành mổ xẻ cái xảo thuật của món Triết học này cho rõ. Vốn là giáo sư của chúng ta khi đả phá quan niệm bị coi là sai trái kia thì ngài ấy không nghiên cứu nó đến nơi đến chốn, tìm hiểu cơ sở xã hội của nó mà dùng phép logic hình thức để phủ nhận. Bởi vì bắt đầu bằng một quan niệm trừu tượng, không gắn liền với cơ sở xã hội đã sinh ra nó nên giáo sư khoa của chúng ta buộc phải sử dụng đến 'bù nhìn rơm', đây là một xảo thuật phổ biến trong tranh biện. 'Bù nhìn rơm' ở đây là 'tài sản nhân loại', bằng từ 'tài sản nhân loại' thì ngài đã gán cho người Pháp, người Việt và đủ các loại người nói chung quyền lợi và trách nhiệm với cái nhà thờ ấy, đáng lẽ ngài phải chứng minh điều này, nhưng chứng minh cái này thì ngài sẽ hớ nặng, vì không có thứ quyền lợi và trách nhiệm nào như vậy tồn tại cả. Nếu có me Tây nào đó ở Việt Nam vì hết lòng với nước mẹ tuyên bố cái nhà thờ là tài sản nhân loại và me Tây sẽ có quyền bán vé kiếm tiền ở đó thì nước mẹ Đại Pháp sẽ vả cho me Tây ấy không còn cái răng nào. Vậy nên câu thứ nhất của giáo sư là vô nghĩa hoàn toàn, đó là lối nói trùng lắp để khẳng định cái mà ngài đã giả định. Câu thứ hai của giáo sư cũng tiếp tục với xảo thuật ấy, nhân dân cũng là một cái bù nhìn rơm, theo truyền thống chính trị học phương tây người ta thường dùng nhân dân để nhét đủ thứ phi lý thậm chí mâu thuẫn nhau vào đó. Ở đây ngài giáo sư của chúng ta giả định là nhân dân Pháp đang đau buồn vì cái nhà thờ đó bị cháy rụi, mặc dù về mặt triết học đó chính là điều mà ngài phải chứng minh. Nhân dân Pháp có bao gồm đám vui sướng hay thờ ơ vì cái nhà thờ đó cháy không? Ngài giáo sư của chúng ta sẽ tuyên bố rằng đám người Pháp đó không phải là nhân dân Pháp. Thế là một mặt ngài giáo sư bắt toàn bộ dân Pháp phải khóc than cho cái nhà thờ bị cháy và mặt kia bắt dân Việt Nam phải khóc than theo vì dân Pháp đang khóc.

Những chuyện tào lao kiểu này giờ đầy rẫy trên mạng xã hội, người ta nói xuôi hay nói ngược cũng được. Ai cũng tỏ ra là mình đúng, mình là chân lý.

Vậy thì tư duy biện chứng hay không là ở cách người ta chỉ ra cái khuôn khổ xã hội đã sinh ra những quan niệm phủ nhận nhau mà chả ảnh hưởng gì đến nhau, chứ không phải ở chỗ dùng quan niệm này bác bỏ quan niệm kia. Sở dĩ những quan niệm phủ nhận nhau cùng tồn tại được trên truyền thông, va chạm nhau chan chát mà không ai bị sứt mẻ tí gì là bởi vì truyền thông đã trở nên độc lập với tương đối với xã hội.

Kinh tế thị trường là sự tách rời giữa chức năng chính trị và chức năng kinh tế. Truyền thông không còn là chính trị nữa, nó hướng vào việc đưa tin và kiếm tiền từ quảng cáo cho doanh nghiệp. Vậy nên nó phải đưa càng nhiều tin càng tốt, thứ hút được càng nhiều người theo dõi càng tốt. Điều đó làm cho truyền thông mất đi sự cấp tiến và đặc tính chính trị, bị tách rời khỏi bộ máy chính trị. Một mặt, nó chỉ đóng vai trò truyền tải tin tức, ai đó sẽ lựa chọn và làm việc cần phải làm. Mặt khác, do kinh tế thị trường dựa trên các cá nhân đơn lẻ tự do cạnh tranh với nhau trong việc mua bán hàng hóa, điều đó phản ánh vào truyền thông thành các quan niệm xung đột, có khuynh hướng phủ nhận lẫn nhau, nhưng truyền thông không thể từ bỏ cái cơ sở kinh tế ấy được, nó buộc phải tạo ra một cơ chế cho các quan niệm phủ nhận lẫn nhau ấy cùng tồn tại. Từ đó, trên truyền thông hình thành một lớp người chuyên đại diện cho các quan niệm xung đột nhau, họ đánh trận giả với nhau, thu hút sự chú ý của công chúng và giải trí cho công chúng bằng cách dùng các xảo thuật để tấn công nhau, không ngừng tạo ra các làn sóng công luận theo hướng này hoặc hướng kia.

Đấy là cách mà truyền thông tạo ra công luận, tạo ra những quan niệm phủ nhận lẫn nhau. Ngài giáo sư của chúng ta là một sản phẩm của hệ thống ấy, ngài tưởng rằng mình đang dạy dỗ công chúng về tư duy biện chứng nhưng thực ra chỉ lải nhải lặp đi lặp lại những gì mà truyền thông muốn. Nếu gặp may, ngài giáo sư sẽ tạo thành một làn sóng công luận, ngài sẽ kiếm được nhiều con nhang, đệ tử, tiền bạc và danh tiếng. Nếu không thì ngài cũng chẳng tốn gì ngoài mớ nước bọt giá rẻ, việc đầu tư cho phép biện chứng của ngài cũng chẳng tốn kém gì nhiều hơn trong khi chờ đợi những đợt sóng công luận khác.

Những người cộng sản hay những cộng đồng có tính cộng sản nguyên thủy xưa kia họ xử lý những sự xung đột này thế nào? Rất đơn giản, họ tập hợp những người đại diện cho những quan điểm phủ nhận nhau lại, mời các quý ngài trình bày, tranh luận thoải mái, cuối cùng tất cả cộng đồng biểu quyết để chốt lại một cái, tất cả sẽ phải tuân thủ theo quan điểm đã được lựa chọn ấy, bất kể trước đó theo quan điểm nào. Ai còn nói khác thì xử phạt nghiêm khắc. Thế nhưng đó lại là điều không bao giờ ngài giáo sư của chúng ta muốn, nhân danh phép biện chứng, triệu lần không, bởi vì đặc quyền tư duy biện chứng của ngài sẽ trở thành món đồ cổ mất giá thảm hại khi đám dân đen ngu dốt thất học được quyền quyết định cái gì là đúng và cái gì là sai.

Sunday, May 5, 2019

Ảo mộng nhà nước phúc lợi

Một dạo ở Việt Nam người ta hết lời ca ngợi mấy nước tư bản ở Bắc Âu (Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan, Đan Mạch), gọi đó là thiên đường nhân văn vì nhà nước đứng ra chăm lo bao cấp hết các dịch vụ cơ bản cho người dân. Thậm chí cách đây hai năm, khi Phần Lan thử nghiệm việc cấp thẳng tiền trợ cấp cho người thất nghiệp thì một làn sóng dư luận như lên đồng, gọi đó là chủ nghĩa xã hội, mà kỳ thực Phần Lan làm điều đó để giảm thâm hụt ngân sách nhưng không thành công và đã lặng lẽ chấm dứt vào đầu năm 2019, tất nhiên lúc này thì hầu hết người ta đã quên mình nói gì hai năm trước.

Mô hình nhà nước phúc lợi thành công nhất ở Châu Âu không phải là các nước Bắc Âu mà là nước Đức. Đức không chỉ là nước tiên phong trong mô hình nhà nước phúc lợi mà còn thành công hơn hẳn các nước Bắc Âu, trở thành nền kinh tế lớn nhất Châu Âu và là một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới hiện nay. Các nước Bắc Âu đều chịu ảnh hưởng và áp dụng mô hình nhà nước phúc lợi kiểu Đức, họ chỉ phát triển mạnh lên vào khoảng 30 năm sau Đại Chiến Thế Giới II, khi nước Đức đã thua trận, nhưng sau đó họ bị cuộc khủng hoảng dầu lửa những năm 1970 đánh gục, nền kinh tế của họ chìm đắm trong trì trệ. Sở dĩ người ta lờ tịt nước Đức đi vì Đức đã cho thấy đỉnh cao của nhà nước phúc lợi là chế độ phát xít. Sau khi bại trận thì sự khôn ngoan, tính kỷ luật vẫn được cả tụng của người Đức không cứu được nước Đức, sự thần kỳ đến từ một tầng lớp nô lệ lao động mới, đó là Gastarbeiter, công nhân nhập cư nhưng không có quyền công dân.

Tôi thường nghe thấy một câu hỏi từ tầng lớp công nhân cổ trắng có thu nhập cao: Tại sao nước ta không áp dụng việc đánh thuế thu nhập thật cao và lấy tiền ấy chi trả cao hơn cho bảo hiểm thất nghiệp, an sinh xã hội như mấy nước Châu Âu? Nói một cách ngắn gọn, tầng lớp công nhân cổ trắng mong muốn mô hình đó, họ sợ phải thất nghiệp, sợ phải sống đời sống bấp bênh khi không có khoản thu nhập cố định.

Mọi việc đơn giản, chỉ cần muốn là làm được liền, chẳng qua là chế độ này toàn lũ tham quan vô lại đốt nát, chỉ muốn ăn không muốn làm nên không chịu làm thôi, nhiều người sẽ nói vậy.

Tốt thôi, chúng ta sẽ bắt tay vào việc. Đầu tiên, anh bị thất nghiệp và muốn có bảo hiểm thất nghiệp, vậy chúng tôi phải chắc chắn là anh thất nghiệp thật sự và không có nguồn thu nhập nào khác để sinh sống. Chúng tôi sẽ tổ chức một bộ máy nhà nước khổng lồ để thu thập và theo dõi thu nhập của anh, của bố mẹ, anh em, cũng như vợ con anh, để đảm bảo rằng anh thực sự không có nguồn thu nhập nào khác. Sau nữa, anh không có thu nhập nhưng vẫn cần chỗ ở, cần được chăm sóc y tế. Chúng tôi đều sẽ chỉ trả cho những thứ đó và để đảm bảo rằng tiền ngân sách không bị lãng phí thì chúng tôi sẽ cần một bộ máy nhà nước khổng lồ khác để thẩm định, đặt hàng và trực tiếp thanh toán luôn, chúng tôi cho rằng nguy cơ không chỉ có anh sẽ phung phí khoản tiền ngân sách ít ỏi mà các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cũng sẽ tìm cách moi tiền từ túi anh, vậy tốt hơn hết là chúng tôi sẽ kiểm soát chặt chẽ tất cả. Còn việc của anh là hãy tuân thủ tốt mọi luật lệ, hãy cho chúng tôi thấy rằng anh là đối tượng phù hợp.

Nhà nước phúc lợi trước hết là một bộ máy hành chính quan liêu khổng lồ, giám sát toàn bộ đời sống của dân chúng. Nếu như ngân sách chi cho người dân một đồng thì sẽ phải chi đến chín đồng cho bộ máy quan liêu ấy. 'Lũ tham quan vô lại đốt nát' của xứ ta hóa ra lại có ích không ngờ, chúng không biết cách làm cho bộ máy hành chính phình ra khủng khiếp để mà kiếm chác.

Tiếp đó, vì anh phải đóng thuế thu nhập cao, nên khi đi làm anh sẽ có xu hướng đòi lương cao, để sau khi trừ thuế thu nhập rồi anh còn cầm tay được một khoản kha khá, mà các anh đâu có làm việc đó một mình, các anh tập hợp nhau thành công đoàn để mặc cả với giới chủ. Nếu để các anh tùy ý hành động thì tiền lương cao sẽ làm giảm lợi nhuận của giới chủ và tư bản sẽ trốn biệt khỏi xứ này. Do vậy, chúng tôi cũng sẽ phải kiểm soát các công đoàn, khống chế mức lương ở mức đảm bảo cho giới chủ có lợi nhuận hấp dẫn.

Nhà nước phúc lợi buộc phải nắm lấy công đoàn, khi đó công đoàn cũng bị quan liêu hóa. Lãnh đạo công đoàn trở thành một phần của giai cấp tư sản, phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản thay vì công nhân.

Tiếp nữa, không một quốc gia nào đủ sức nuôi sống một đạo quân thất nghiệp khổng lồ, do vậy nhà nước cần phải khuyến khích và can thiệp để cho doanh nghiệp làm ăn có lãi cũng như không ngừng mở rộng đầu tư vào những lĩnh vực sử dụng nhiều lao động, nhằm giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp. Tức là doanh nghiệp sẽ được hưởng thuế thu nhập doanh nghiệp thấp, các ông chủ doanh nghiệp mặc dù cũng bị đánh thuế thu nhập cá nhân cao như người lao động nhưng điều đó chẳng mảy may đụng chạm đến họ nhiều vì các khoản thu nhập của họ đều nằm dưới dạng phúc lợi do công ty thanh toán, được hạch toán vào chi phí của doanh nghiệp và không bị đánh thuế, hơn nữa các khoản lợi nhuận được đem tái đầu tư cũng hoàn toàn không bị đánh thuế. Một bộ máy nhà nước khổng lồ được dựng lên để phung phí ngân sách, công khai tài trợ cho chủ doanh nghiệp trực tiếp cũng như gián tiếp mà hiệu quả của chúng không bao giờ minh bạch theo những tiêu chuẩn mà giới dân chủ giả cầy vẫn khấn vái mỗi ngày. 'Đám tham nhũng vô lại dốt nát' của xứ ta hóa ra chỉ là học trò so với các quý ngài được giải Nobel Hòa Bình trong nghề chia chác tiền chùa.

Phúc lợi cho nhân dân thực ra nên được hiểu là phúc lợi cho tư bản.

Chưa hết, anh không thể cứ ngồi không ăn trợ cấp thất nghiệp mãi được, anh là một gánh nặng nhà nước cần phải thoát khỏi càng nhanh càng tốt. Do đó, chúng tôi tổ chức một bộ máy đào tạo và môi giới việc làm khổng lồ để giúp anh có việc làm mới. Chúng tôi sẽ kiểm tra sự tích cực trong công cuộc tìm kiếm việc làm của anh, nếu như trường học phàn nàn rằng anh chểnh mảng học nghề, hay chủ doanh nghiệp kêu rằng anh lười biếng trong giai đoạn thử việc, tức là anh làm biếng để tiếp tục ăn trợ cấp thất nghiệp, thì chúng tôi sẽ trừng phạt anh. Vì nhân đạo nên chúng tôi không thể bỏ tù anh, mà việc đó cũng tốn tiền, thế nên chúng tôi sẽ có những trò hành hạ tinh thần khác để giúp anh hăng hái đi kiếm việc làm.

Nhà nước phúc lợi, trên thực tế là một bộ máy hành chính quan liêu phi nhân tính hành hạ tinh thần người lao động hàng ngày dưới cái vỏ phúc lợi. Bạn có biết nước Đức 'văn minh' nghĩ ra trò gì để buộc những người nhận trợ cấp xã hội phải đi kiếm việc làm không? Đó là 1-Euro-Job. Sở Lao Động sẽ bắt người nhận trợ cấp, bất kể trẻ già gái trai, ra công viên quét lá cây đủ 8 tiếng mỗi ngày và nhận 1 Euro cho mỗi giờ làm việc, họ làm nhục con người như vậy và gọi đó là văn minh. Có một gia đình nọ, con cái đi làm thu nhập thấp không đủ nuôi mẹ già nên phải để mẹ già 80 tuổi ăn trợ cấp xã hội, thành thử mỗi ngày anh còn trai đi làm ngang qua công viên đều phải nuốt nước mắt nhìn bà mẹ 80 tuổi đứng phơi nắng nhặt lá cây. Đến một kẻ thù ghét loài người nhất ở Việt Nam cũng sẽ cảm thấy ngượng mồm khi phải đề xuất cái việc hạ nhục con người đó, nhưng ở những xứ 'văn minh' điều đó là bình thường. Bạn đừng hỏi tại sao ở những nước phát triển ấy lắm người phát điên hơn ở xứ ta.

Trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay thì doanh nghiệp dễ dàng chuyển nhà máy sang các nước có nhân công giá rẻ và điều kiện thuận lợi hơn. Bên cạnh cuộc khủng hoảng dầu lửa thì đây chính là yếu tố thứ hai khiến các nhà nước phúc lợi ở Châu Âu suy tàn. Ở đâu có lợi nhuận cao thì đó là tổ quốc của tư bản. Vào những năm 1980, khi các quốc gia Đông Âu và Châu Á mở cửa, các doanh nghiệp sử dụng nhiều nhân công ở Tây Âu đã nhanh chóng chuyển cơ sở sản xuất sang thiên đường mới. Các nhà nước phúc lợi Châu Âu phải đối mặt với tỷ lệ thất nghiệp cao, thâm hụt ngân sách lớn, kinh tế trì trệ kéo dài.

Song chưa phải là hết, chế độ an sinh xã hội tốt và trợ cấp thất nghiệp cao ở các nước này đã ngăn cản người lao động làm các công việc lương thấp. Khi một bộ phận lớn tư bản chạy ra nước ngoài, tư bản trong nước bị buộc phải đầu tư vào các lĩnh vực sử dụng lao động giá rẻ hơn để cạnh tranh thì đối mặt với tình trạng thiếu lao động. Nhà nước phúc lợi buộc phải nhập khẩu lao động từ các nước khác. Lao động nhập cư thường làm các công việc bẩn thỉu, nặng nhọc và có mức lương thấp, họ không có công đoàn bảo trợ, không có phúc lợi xã hội, không có quyền công dân. Điều này là cần thiết để có tiền tiếp tục nuôi dưỡng các công dân của nhà nước phúc lợi. Để ngăn cản những người nhập cư tổ chức nhau lại và đòi quyền công dân thì các đảng phát xít mới ra đời. Đảng phát xít mới tập hợp đám thanh niên thất nghiệp học đòi thuyết chủng tộc thượng đẳng, bị nhồi sọ là lao động nhập cư cướp công ăn việc làm của người thượng đẳng, hãm hiếp chị em gái của họ, ăn cắp trợ cấp xã hội của họ... Đảng phát xít mới thường xuyên tấn công một cách có tổ chức vào người lao động nhập cư, mặc dù thành viên của chúng sống nhờ vào lao động của công nhân nhập cư. Vụ thảm sát 68 người của gã phát xít mới Breivik ở Na Uy không phải là tình cờ. Người nhập cư phải bị kiểm soát như tội phạm, người nhập cư không được phép có quyền công dân, người nhập cư phải làm các công việc bẩn thỉu, lương thấp, đó là mục đích tối thượng của các đảng phát xít mới. Tất nhiên người nhập cư không thể chịu đựng điều đó mãi nên các đảng phát xít sẽ là ngòi nổ thường trực của nhà nước phúc lợi.

Nhà nước phúc lợi có thành công không? Câu trả lời là: Có, trong một giai đoạn ngắn ngủi của lịch sử. Đó là sự kết hợp giữa nhà nước chuyên chế tiền tư bản với giai cấp tư sản, giai cấp tư sản cần đến điều đó để tránh phải đối đầu trực diện với giai cấp công nhân và gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế khi phải đối mặt với tư bản của các nước đã tư bản hóa trước họ từ lâu. Song sự thần kỳ ấy cũng nhanh chóng chấm dứt khi mô hình ấy đạt đến đỉnh cao của nó, chế độ phát xít. Hiện nay, các nước theo mô hình nhà nước phúc lợi hầu hết đã thất bại và chuyển dần sang một dạng hỗn hợp, kết hợp với thị trường tự do.

Không chỉ có giới công nhân cổ trắng lo sợ trước thảm cảnh thất nghiệp, giới trí thức 'giả cầy' ở nước ta đặc biệt ca ngợi mô hình nhà nước phúc lợi. Thậm chí họ còn công khai tuyên bố đó là con đường thứ ba, không phải chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản, để Việt Nam theo đuổi. Chúng ta đều hiểu rằng mô hình nhà nước phúc lợi không khả thi ở Việt Nam bởi chúng đã lỗi thời và các điều kiện kinh tế hiện nay hoàn toàn không phù hợp. Vậy thì thực chất giới trí thức 'giả cầy' thực sự muốn gì? Họ muốn ở đó hai thứ.

Thứ nhất là sự phình ra của bộ máy hành chính quan liêu. Đó là cái nguồn béo bở để các trí thức 'giả cầy' nuôi dưỡng tầng lớp của họ, tạo công ăn việc làm cho con cháu họ với khẩu hiệu 'chế độ tài năng trị'. Họ không thể nai lưng làm thuê và bị bóc lột như công nhân được. Họ phải làm những công việc cao quý, cần đến đầu óc và tài năng, tốt hơn cả là các công việc nhà nước, mà xã hội trong trí tưởng tượng của đám trí thức này thì lúc nào cũng rối ren và cần đến một bộ máy nhà nước ngày càng lớn hơn.

Thứ hai, khi đối mặt với những xung đột đến từ nhiều hướng của một xã hội đang phát triển như Việt Nam hiện nay, họ bất lực trong việc hiểu những xung đột đó, nên họ hy vọng rằng việc kiểm soát toàn diện đời sống của người lao động, buộc người lao động phải phục tùng nhà nước, dưới sự lãnh đạo 'sáng láng' của giới trí thức, sẽ là giải pháp cho mọi rối ren. Điều này tất nhiên phù hợp với nhu cầu của giai cấp tư sản đang phất lên ở Việt Nam, nhưng công nhân thì không. 

Đấy chính là cách các trí thức 'giả cầy' của chúng ta kiếm phúc lợi cho bản thân dưới danh nghĩa phúc lợi cho nhân dân. Đấy chính là cách họ tạo ra chế độ phát xít dưới danh nghĩa xây dựng chế độ dân chủ.

Thursday, July 19, 2018

Doanh nghiệp tặng sách để làm gì?


Kiến thức hay soi cầu lô đề?

Nhân có việc một anh chủ doanh nghiệp dùng chương trình tặng sách để quảng bá thương hiệu, khẩu hiệu thì hoành tráng lắm, nào là “Lập Chí Vĩ Đại”, “Khởi Nghiệp Kiến Quốc”, nghe cứ tưởng như đọc hết mớ sách ấy thì xứ Nam ta sẽ hóa Rồng hóa Hổ liền, một người bạn mới hỏi tôi rằng: Cớ sao tụi nó hay làm màu vậy bác?

Ba cái chương trình tặng sách đó thế giới người ta làm đầy quanh năm suốt tháng, mà có thấy ai hóa Rồng hóa Hổ chi đâu. Cái ngày tôi còn ở xứ Hitler, cuối tuần nào cũng có lũ lượt các hội đoàn đến tặng các loại Kinh Thánh để dụ vào đạo, cũng may là xứ ấy người ta cấm tiệt cuốn Mein Kampf (sách của Hitler) không thì chắc giờ tôi cũng thành tín đồ Nazis đòi thanh tẩy lũ An Nam mọi rợ để làm trong sạch nòi giống Aryan thượng đẳng không biết chừng.

Nếu bạn google thì sẽ thấy hàng mớ các cái chương trình tặng sách kiểu như bạn tặng bất kỳ ai đó một cuốn sách thì sẽ nhận được 20 cuốn sách từ những người khác tặng lại.

Nói chung ba cái vụ tặng sách ruồi bu vậy thường chả có tác dụng chi hết, có chăng là thêm mớ giấy lộn rác nhà vì giờ giấy vệ sinh được bán rất rẻ mà lại mềm mại hơn.

Có người sẽ cãi rằng: Ấy tôi đọc cuốn “Khuyến học” thấy hay lắm, cuốn ấy đầy cảm hứng quốc gia dân tộc, khuyên ta thoát Á, gây dựng sự độc lập tự cường, học sách ấy theo ắt xứ ta sẽ giống Nhật Bản. Cái mà người ta thấy hay thấy đúng đâu có nghĩa là nó đúng nhỉ?

Lại có người nói: Sách cũng có chút kiến thức, cho người ta đọc sách biết đâu người ta thoát nghèo, đổi đời thì cũng tốt. Cái biết đâu ấy liệu có xác suất cao bằng trúng đề hay trúng Vietlott? Nếu không bằng thì phát cho người ta 10 ngàn đi chơi Vietlott cho nhanh.

Thực ra ba cái trò này đều dùng cái mẹo của đám soi cầu lô đề để lừa người cả. Mẹo ấy ra sao? Nếu xác suất trúng đề là 1/100 thì mấy gã thầy bà chỉ cần dụ được 100 tín đồ, mỗi ngày ban cho mỗi đứa một số khác nhau thế là ngày nào cũng có đứa cảm ơn gã vì trúng đề. Nếu gã cao tay dụ được 10.000 đứa tin theo thì mỗi ngày sẽ có 100 đứa ca tụng, đốt vàng mã cho gã vì được ăn đậm. Lúc ấy, lúc ấy người ta đều sẽ mê muội, nói gì cũng không tin nữa, bằng chứng người thực việc thực ra đó, mỗi ngày có cả trăm đứa đổi đời nhờ lộc thánh, liệu ai không tin cho được? Đứa nào dại miệng nói tau theo hầu thánh mãi chưa ăn phát nào thì sẽ được nghe trả lời là mày chưa đủ đức tin. Đứa nào xấu miệng nói rằng ăn đề hay không chả liên quan gì đến thánh sẽ gom đủ gạch xây biệt thự to hơn cả trung tâm thương mại Vincom.

Mà kỳ thực người ta thấy hay, thấy có kết quả đâu có liên quan gì đến việc soi cầu, thế nhưng kẻ chơi lô đề tất phải soi cầu, để có hy vọng mà chơi.

Mấy anh doanh nghiệp vốn thạo cái trò quảng cáo kiểu này nên thường gom mấy cuốn sách nổi tiếng nhưng vô thưởng vô phạt, đọc xong hiểu thế nào cũng được, lại của mấy tác giả ngoại quốc để đỡ bị soi mói rồi đem tặng linh tinh, phát không càng nhiều sách thì càng dễ có mấy câu ca tụng kiểu hôm nay nhờ đọc sách của anh mà em ăn Vietlott.

Tại sao lại vậy?

Sở dĩ có chuyện đó là vì kinh tế thị trường một mặt tạo ra sự giàu có, nhưng sự giàu có đó chống lại con người, nó chỉ phục vụ cho tư bản, bỏ mặc đa số con người sống trong thất bại, nghèo đói, tuyệt vọng. Vì vậy con người cần có một thứ gì đó để nuôi hy vọng, để có thể tiếp tục tồn tại. Rất nhiều sách viết cho mục đích đó, nó được gọi là truyền cảm hứng, đọc nó xong thì người ta thấy mình thay đổi, thấy có động lực làm việc này việc kia. Song cái mà người ta không hiểu được là sự thay đổi của người ta có hay không cũng chả liên quan gì đến ba cái cuốn sách ấy. Một thứ không thể tự nhiên xuất hiện nếu nó không tồn tại sẵn ở đâu đó. Cái khát vọng thay đổi nó vốn đã ẩn náu trong bản thân người ta, chỉ chờ cơ hội thích hợp là bùng lên. Cuốn sách truyền cảm hứng kia vốn cũng như trò soi cầu lô đề, nó trở nên có giá trị vì gặp được người muốn thay đổi và có thể thay đổi vào đúng thời điểm đọc nó, chính người đó khiến nó có giá trị chứ không phải ngược lại.

Hàng sa số những người đọc cuốn sách đó mà không thay đổi gì sẽ bị lãng quên.

Hàng sa số những người không cần đọc cuốn sách đó mà có sự thay đổi sẽ chẳng bao giờ được biết đến.

Nếu cuốn sách đó thực sự có tác dụng thần kỳ như người ta quảng cáo thì sau vài ngày không ai cần phải đọc nó nữa. Mọi người đọc nó và trở nên giàu có cả rồi. Sự tồn tại của nó chứng minh rằng nó chẳng có tác dụng gì hết.

Nó đơn giản là một liều thuốc phiện để người ta tiếp tục mơ màng với đời và an ủi cho những thất bại của đời mình.

Kết luận là gì?

Thông thường mấy cuộc tranh luận triền miên lặp đi lặp lại về các cuốn sách truyền cảm hứng hay tạo động lực là vô nghĩa, như chính bản thân chúng. Người ta sẽ luôn mang kinh nghiệm ra chứng minh nó đúng, mặc dù kinh nghiệm không phải là bằng chứng.

Mánh lái buôn của Lã Bất Vi

Lã Bất Vi là lái buôn rất giàu, nhưng ông ta còn giàu hơn nhiều khi buôn vua.

Quay lại với anh chàng chủ doanh nghiệp, việc đầu tiên cần nhớ rằng anh ta kinh doanh và phải kiếm lợi. Bất kể mục tiêu hoành tráng đến đâu thì cuối cùng nó phải được hiện thực hóa bằng tiền, nếu không anh ta sẽ phá sản và đi ăn mày, bất chấp mớ sách vĩ đại, có giá trị như vàng của anh ta, mặc dù bán giấy cân thì cũng sẽ có đồng nát gom. Việc tặng sách chỉ là quảng cáo, mục đích chính của anh ta là kinh doanh cái khác.

Vậy việc tặng sách sẽ hỗ trợ việc kinh doanh của anh ta ra sao? Đó mới là câu hỏi đúng.

Thứ nhất, khi anh ta tặng một số lượng sách rất lớn thì các nhà xuất bản và giới trí thức, vốn làm công việc môi giới kiến thức, sẽ rất vui mừng, vì điều đó tạo công ăn việc làm cho họ. Tức là họ sẽ ủng hộ anh ta hết mình.

Thứ hai, những cuốn sách anh ta tặng đều là là sách phương Tây, con đẻ tinh thần của chủ nghĩa tư bản, bàn chuyện làm ăn kiếm lợi. Tức là anh ta sẽ được lòng giới trí thức thân phương Tây.

Thứ ba, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam vốn bị phân mảnh bởi sự phân mảnh của hệ thống chính trị, tạo ra vô số những rào cản về chính sách, thủ tục giữa các chính quyền địa phương, giữa chính quyền địa phương và chính quyền trung ương. Do vậy, một doanh nghiệp muốn làm ăn lớn thì phải có khả năng đàm phán về chính sách với cả chính quyền trung ương lẫn địa phương. Giới trí thức thân phương Tây đang dần dần trở nên có thế lực trong việc tham mưu chính sách cả ở chính quyền trung ương lẫn địa phương, khi nhận được sự ủng hộ của họ thì doanh nghiệp sẽ có khả năng đàm phán chính sách. Lối làm ăn này thể hiện sự phân mảnh của hệ thống chính trị, nó có thể tạo ra những doanh nghiệp cực lớn ở ngay những nơi nghèo khó lạc hậu nhất, vì nó có khả năng tập trung nguồn giá trị thặng dư mà không một nền kinh tế tư bản nào sánh được.

Nhiều năm quy ẩn trong rừng cuối cùng cũng khiến anh chủ doanh nghiệp ngộ ra chân lý thời đại.

Thế nên anh ấy có mang siêu xe với người mẫu để đi tặng sách cho mấy cháu dân tộc miền núi cởi truồng, một chữ bẻ đôi đọc còn chưa nổi thì bạn cũng đừng vội chê cười. Anh ta vốn hiểu rõ việc mình làm, ấy là tạo dựng mối quan hệ với trí thức địa phương.

Mạng lưới trí thức rộng lớn ủng hộ anh ta từ những vùng quê đói nghèo đến những thành thị xa hoa, đấy là cái anh ta muốn và cần để kiếm tiền.

Thế nên anh ta tuyên bố sẽ phung phí hàng tỷ đồng tiền Mỹ để tặng sách thì các bạn cũng đừng nghĩ đó là tiền cho người nghèo để đổi đời, kỳ thực anh ta mua sự ủng hộ của giới trí thức trong công cuộc làm giàu của bản thân.

Chân lý của thời đại tư bản chỉ có vậy. Thời đại tư bản chỉ biết đến một thứ minh triết duy nhất, đó là minh triết của đồng tiền. Hoặc là bạn hiểu nó hoặc là bạn bị nó nghiền nát.

Friday, June 26, 2015

Sách giáo khoa lịch sử của Hoa Kỳ lảng tránh chủ đề chiến tranh xâm lược Việt Nam

Mỗi khi bàn đến chuyện học và dạy môn lịch sử là báo chí lại đua nhau đăng bài ca ngợi cách dạy và học môn lịch sử của Mỹ để làm gương cho Việt Nam. Họ đăng hình ảnh của một buổi học và thực hành có phụ huynh tham dự để thấy sự sinh động, hay phê phán:...ở Việt Nam vẫn chưa vượt qua những bài giảng mang nặng tính ý thức hệ và duy ý chí. Nhưng James W. Loewen, trong cuốn sách "Lies My Teacher Told Me" do nhà xuất bản Touchstone phát hành năm 2007, lại tiết lộ những bí mật kinh khủng khác trong việc dạy và học lịch sử ở Mỹ như lảng tránh sự thật, cắt xén lịch sử, áp đặt quan điểm chính thống... đặc biệt là người Mỹ lẩn tránh chủ đề chiến tranh Việt Nam, không có báo chí hay sách vở nào ở Việt Nam nói về điều này. 

Dưới đây là bản dịch chương 9 "Down the Memory Hole: The Disappearance of Recent Past" của cuốn sách.

Nếu chúng ta không nói về chúng, những người khác chắn sẽ viết lại đề cương. Mỗi túi xác, mỗi ngôi mộ tập thể sẽ được mở ra và nội dung của chúng sẽ được phù phép thành nguyên nhân cao quý.
George Swiers, Cựu chiến binh Việt Nam1

Khi thông tin có vẻ như thuộc về công chúng bị những người có quyền lực kiểm soát một cách có hệ thống, người dân sớm trở thành ngu ngốc về công việc của họ, thiếu tin tưởng những người cai quản họ và – thậm chí – không có khả năng quyết định vận mệnh của họ.
Richard M. Nixon2

Mục tiêu của nhà sử học là biết những thành phần của hiện tại thông qua việc hiểu biết những gì đi từ quá khứ đến hiện tại, do hiện tại chỉ là quá khứ phát triển lên…. Mục tiêu của nhà sử học là hiện tại sống động.
Frederick Jackson Turner3

Chúng ta nhìn mọi thứ không phải như chúng tồn tại mà như chúng ta tồn tại.
—Anai's Nin

Chìm trong quên lãng: Sự biến mất của quá khứ gần

Nhiều xã hội Châu Phi phân chia con người thành ba loại: những người còn sống trên trái đất, sasha và zamani. Những người mới chết có thời gian trên trái đất chồng lên thời gian của những người còn sống là sasha, xác sống. Họ chưa chết hoàn toàn, họ vẫn còn tồn tại trong ký ức của người sống, những người có thể nhắc tới họ trong ý nghĩ, tạo ra hình ảnh của họ trong nghệ thuật và mang họ trở lại đời sống bằng giai thoại. Loại còn lại là tổ tiên đã chết, đã rời bỏ sasha để trở thành zamani, người chết. Khi tổ tiên được khái quát hóa, zamani không bị quên lãng mà được tôn kính. Nhiều người như George Washington hay Clara Barton có thể được nhắc tên. Nhưng họ không phải là xác sống. Đây là sự khác biệt. 4

Do chúng ta thiếu những khái niệm Kiswahili nên chúng ta hiếm khi nghĩ về sự khác biệt này một cách có hệ thống, nhưng chúng ta cũng vẫn làm điều đó. Xét xét cách thức chúng ta đọc mô tả về một sự kiện đã trải qua, đặc biệt là khi chúng ta tham gia vào đó, bất kể là sự kiện thể thao hay Chiến Tranh Vùng Vịnh, chúng ta đọc với tinh thần phê phán, đánh giá sai lầm hay đồng ý hoặc học những điều đúng đắn của tác giả. Khi chúng ta nghiên cứu quá khứ xa hơn, chúng ta có thể cũng đọc một cách phê phán, nhưng chúng ta chỉ có ít cơ sở về nó và để phê phán những gì chúng ta đọc.

Các tác giả của sách giáo khoa lịch sử Hoa Kỳ dường như quá rõ về sasha – sự thật là giáo viên, cha mẹ và các thành viên của ủy ban chấp nhận sách giáo khoa đều đã từng trải qua quá khứ gần đây. Họ dường như không cảm thấy dễ chịu với điều đó. Tôn kính zamani  - tổ tiên chung – hợp với phong cách của họ hơn. Theo định nghĩa, thế giới của sasha là mâu thuẫn, bởi vì độc giả đưa vào đó kiến thức và hiểu biết của bản thân, có thể không đồng thuận với những gì được viết, do đó, càng nói ít về quá khứ gần thì càng tốt. Tôi đã nghiên cứu cách thức mà mười bài tường thuật lịch sử Hoa Kỳ trong mẫu trình bày về lịch sử trong năm thập kỷ cho tới những năm 1980. (Tôi loại trừ những năm 1980 bởi vì một số sách giáo khoa xuất hiện vào thập kỷ này, nên chúng không thể tường thuật đầy đủ được.) Tính trung bình sách giáo khoa dùng 47 trang cho những năm 1930, 43,6 trang cho những năm 1940 và dưới 35 trang cho mỗi thập kỷ tiếp theo. Ngay cả thập kỷ 1960 đầy xáo trộn – trong đó có phong trào dân quyền, phần lớn cuộc chiến tranh Việt Nam và vụ sát hại Martin Luther King, Jr., Medgar Evers, Malcom X, John và Robert Kennedy – cũng có ít hơn 35 trang.   
Tôi sử dụng khái niệm tường thuật giới hạn trong những đoạn trước bởi vì nghiên cứu cho thấy một sự khác biệt rõ ràng giữa sách giáo khoa tìm hiểu và sách giáo khoa tường thuật. Hai cuốn sách Khám Phá Lịch Sử Hoa Kỳ và Cuộc Phiêu Lưu Hoa Kỳ, có rất nhiều bản đồ, hình ảnh minh họa và trích dẫn từ các nguồn sơ cấp, không thể hiện sasha. Sự chú ý của họ đối với quá khứ gần chỉ cho thấy ý đồ làm cho lịch sử phù hợp với các sự kiện và chủ đề hiện tại của tác giả. Thậm chí những chương đầu của hai cuốn sách giáo khoa này còn kêu gọi học sinh áp dụng những điều học được cho hiện tại. Do đó, bất chấp việc cả hai cuốn sách đã được xuất bản trước khi những năm 1970 kết thúc, chúng giành nhiều không gian hơn cho những năm 1960 và 1970 so với mười cuốn sách giáo khoa tường thuật còn lại, không có cuốn sách giáo khoa tìm hiểu nào trên thị trường. Việc chúng thiếu sức sống trên thị trường có thể đoán rằng trong quá khứ gần đây các nhà xuất bản sách giáo khoa tường thuật đã đáp ứng được nhu cầu. Có vẻ như là nhu cầu tránh sự xung đột.

Lảng tránh sasha chắc chắn không đáp ứng được nhu cầu của sinh viên. Tác giả sách giáo khoa có thể làm việc dựa theo giả định rằng tường thuật về các sự kiện mới qua là không cần thiết vì sinh viên đã biết về chúng. Mặc dù vậy, khi tác giả sách giáo khoa có khuynh hướng lớn tuổi, sasha của họ là zamani của học sinh.
  
Khi giáo sư đại học chúng ta trở nên già hơn, chúng ta sẽ ngạc nhiên hơn về những điều mà sinh viên không biết trong quá khứ gần. Tôi nhận ra hiện tượng này lần đầu tiên khi những năm 1970 biến thành những năm 1980. Khi giảng dạy về chiến tranh Việt Nam, tôi nhận được nhiều hơn những cái nhìn ngơ ngác. Một phần tư, sau đó là một nửa và vào những năm 1990, 4/5 số sinh viên năm thứ nhất không biết gì về ý nghĩa của từ có bốn chữ cái hawk (diều hâu) và dove (bồ câu). Vào ngày đầu tiên của khóa học năm 1989, tôi đưa ra cho sinh viên một câu đố từ có câu hỏi mở, “Ai đã chiến đấu trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam?” Gần một phần tư sinh viên của tôi trả lời là binh lính Bắc và Nam Triều Tiên! Tôi đã sững sờ - đối với tôi điều này tương tự như câu trả lời  “1957” cho câu hỏi “Cuộc chiến tranh 1812 diễn ra vào năm nào?” Trên thực tế, nhiều học sinh mới tốt nghiệp trung học biết về chiến tranh 1812 hơn chiến tranh Việt Nam.5 Điều đó chẳng có nghĩa gì nhiều và không đáng để lên án học sinh. Đó khó có thể là lỗi của chúng. Nếu hồi ức công dân của chúng ta bắt đầu khi chúng ta mười tuổi thì sinh viên cuối cùng có chút hồi ức về chiến tranh Việt Nam đã tốt nghiệp trung học vào năm 1983. Chiến tranh là lĩnh vực bỏ trống đối với sinh viên hiện nay, họ chưa ra đời khi nó kết thúc. Phong trào phụ nữ, vụ Watergate, và nhiệm kỳ của tổng thống Carter cũng tương tự như vậy. Phim ảnh, tiểu thuyết, ca khúc và các phương tiện văn hóa đại chúng khác cũng đề cập quá khứ gần, nhưng trộn lẫn giữa sự thật và hư cấu, nhưng mọi người hâm mộ phim Rambo có thể làm chứng.6 Sinh viên cần thông tin về quá khứ gần từ các khóa học lịch sử ở trường trung học. Trên hết, quá khứ gần là lịch sử có tác động hầu như tức thì đối với đời sống hàng ngày của chúng ta.

Quan niệm rằng khóa học lịch sử nên hạ thấp sasha so với zamani ở xa thật là ngoan cố. So sánh tường thuật của sách giáo khoa về chiến tranh Việt Nam và chiến tranh 1812 sẽ minh họa cho sự ngoan cố này. Cuộc chiến tranh 1812 diễn ra gần hai thế kỷ trước đã giết chết khoảng 2 ngàn người Mỹ. Tuy nhiên, sách giáo khoa lịch sử trung học Hoa Kỳ giành cho nó số trang tương tự với cuộc chiến tranh Việt Nam – 9 trang. Người ta có thể lập luận, tôi nghĩ vậy, rằng chiến tranh 1812 quan trọng hơn chiến tranh Việt Nam và cần phải có nhiều không gian. Sách giáo khoa lịch sử của chúng ta không khẳng định như vậy: hầu hết tác giả sách giáo khoa lịch sử không biết gì về chiến tranh 1812 và không khẳng định gì về sự quan trọng của nó.

Mặc dù cuộc chiến tranh 1812 chỉ dài bằng nửa chiến tranh Việt Nam, nhưng các tác giả xem xét nó chi tiết hơn. Họ kể một cách xa hoa về các trận đánh đơn lẻ và anh hùng trong 1812. Ví dụ cuốn Miền Đất Hứa giành ba đoạn cho trận hải chiến ven đảo Put-in-Bay trên hồ Erie, tức là mỗi đoạn cho một giờ của trận đánh! Việt Nam không được chi tiết như vậy! Không gian hà tiện chỉ là một phần của vấn đề. Chín trang phân tích thú vị về chiến tranh Việt Nam có thể chứng minh hơn cả đầy đủ. 7 Chúng ta phải hỏi về loại tường thuật của sách giáo khoa, với hình ảnh mà chúng đưa ra. Các bức ảnh là một phẩn của tư liệu chiến tranh ở Hoa Kỳ kể từ khi có những bức ảnh nổi tiếng của Matthew Brady về Nội Chiến. Ở Việt Nam, hình ảnh truyền hình đã xuất hiện nhưng những bức ảnh vẫn ấn tượng đối với nhận thức và cảm xúc của người dân Mỹ. Hơn bất cứ cuộc chiến nào trong lịch sử của chúng ta, chiến tranh Việt Nam được đặc trưng bằng hàng loạt hình ảnh đóng dấu vào ý thức của công chúng. Tôi hỏi hàng tá người trưởng thành đủ lớn tuổi để sống qua thời chiến tranh về hình ảnh sống động mà họ còn nhớ; danh sách mà họ đưa ra cho thấy sự trùng khớp đáng chú ý. Một danh sách ngắn bao gồm 5 bức ảnh:

Một nhà sư ngồi ở khu vực công cộng của Sài Gòn, tự thiêu để phản đối chính quyền Nam Việt Nam;

Một bé gái trần truồng chạy trên đường quốc lộ, trốn khỏi trận bom na-pam;

Giám đốc cảnh sát quốc gia xử tử một người đàn ông đang sợ hãi, bị tình nghi là Việt Cộng, với một phát súng lục vào thái dương;

Những xác chết nằm trong mương sau vụ thảm sát Mỹ Lai;

Những người Mỹ di tản từ mái nhà ở Sài Gòn bằng trực thăng, trong khi những người Việt Nam hốt hoảng tìm cách trèo lên khoang.

Danh sách này cũng có thể bao gồm hai hình ảnh chung khác: Máy bay B-52 đang thả bom trên phần lãnh thổ thủng lỗ chỗ như bệnh đậu mùa của Việt Nam, một thành phố hoang tàn như Huế, chẳng còn gì ngoài gạch vụn, khi quân đội Hoa Kỳ và Nam Việt Nam tiến vào giành lại quyền kiểm soát sau đợt tấn công Tết.

Chỉ cần đọc phần mô tả ngắn là những người Mỹ già nhất nhớ lại chi tiết của hình ảnh. Cảm xúc đã đưa họ quay trở lại quá khứ một cách sống động. Dĩ nhiên, kể từ khi Hoa Kỳ can dự sâu vào cuộc chiến từ năm 1965 đến 1973, người Mỹ phải ít nhất là 30 tuổi vào năm 1993 để có hình ảnh này trong sasha của họ. Ngày nay, thanh niên hiếm có cơ hội nhìn thấy hay gợi nhắc đến những hình ảnh này trừ khi sách giáo khoa lịch sử cho họ biết. Chúng không làm vậy. Những bức ảnh này đã bì vùi sâu vào lãng quên, rơi tuột vào lò nung, nơi các sự thật khó chịu bị thiêu thành tro bụi trong tác phẩm 1984 của George Orwell. Cuốn sách duy nhất, Đám Rước Hoa Kỳ, có một trong những bức ảnh đã nêu; giám đốc cảnh sát bắn người đàn ông đang sợ hãi.10 Không có cuốn sách nào khác đăng bất cứ bức ảnh nào trong số những bức ảnh nêu trên. Cuộc Phiêu Lưu Mỹ có một bức ảnh chúng ta ném bom Việt Nam nhưng bức ảnh cho thấy máy bay B-52 và bom ở dưới không đem lai cảm giác về sự tàn phá đối với mặt đất.

Bảy bức ảnh được trích dẫn là các ví dụ quan trọng của tài liệu sơ cấp về chiến tranh Việt Nam. Phe diều hâu có thể tuyên bố rằng những bức ảnh này đã thổi phồng các khía cạnh chiến tranh mà chúng phản ánh. Mặc dù vậy, những bức ảnh này cũng có những khẳng định bổ sung đối với ý nghĩa lịch sử: chúng tạo ra lịch sử, do chúng tác động tới cách người Mỹ nghĩ về cuộc chiến. Một số trong những bức ảnh này tiếp tục “là những bức ảnh nổi tiếng nhất thế giới từng được biết cho đến nay [1991],” theo Patrick Hagopian. Việc loại chúng khỏi sách giáo khoa lịch sử đã làm thay đổi độc giả hiện nay. Khi sinh viên của tôi viết, “Việc đưa ra bức ảnh một bé gái trần truồng kêu khóc sau khi bị bỏng na-pam đã thay đổi toàn bộ ý nghĩa của cuộc chiến tranh này đối với học sinh trung học.” Ở Việt Nam, Hoa Kỳ đã ném số lượng bom gấp 3 lần số lượng bom được ném xuống tất cả các mặt trận trong chiến tranh Thế Giới thứ II, ngay cả khi cộng thêm bom nguyên tử mà chúng ta đã ném xuống Hiroshima và Nagasaki, thế nên tác giả sách giáo khoa có nhiều bức ảnh về sự tàn phá của bom để lựa chọn. Trên mặt đất, sau đợt tấn công Tết, Việt Cộng và quân đội Bắc Việt đã chiếm giữ nhiều thành phố và thị trấn ở miền Nam Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và miền Nam Việt Nam đã nã pháo Huế, Bến Tre, Quảng Trị và các thành phố khác trước khi chiếm lại chúng. Tuy vậy, không có sách giáo khoa nào tường thuật về những thiệt hại mà phe chúng ta gây ra.

Dĩ nhiên, tác giả và biên tập viên sách giáo khoa phải lựa chọn từ hàng ngàn bức ảnh về chiến tranh Việt Nam. Họ có thể lựa chọn khác đi và vẫn biện minh cho chiến tranh. Nhưng ít nhất họ cũng phải tường thuật sự tàn bạo đối với thường dân Việt Nam, những người này thường xuyên và bắt buộc phải đối mặt với chiến tranh mà không có giới tuyến, mà ở đó quân đội của chúng ta chỉ có khái niệm cực kỳ mơ hồ như đồng minh và đối thủ. Tấn công thường dân là chính sách của Hoa Kỳ, như tướng William C. Westmoreland đã mô tả về thiệt hại dân sự: “Đó có phải là tiêu diệt kẻ thù của dân chúng không?” Chúng ta đánh giá sự tiến bộ bằng cách đếm xác và vạch ra các khu vực bắn tự do, ở đó toàn bộ thường dân bị coi là kẻ thù. Chiến lược này không thể không dẫn đến các tội phạm chiến tranh. Do đó, Mỹ Lai không phải là sự kiện cá biệt, không đáng để đề cập trong lịch sử quốc gia mà thực sự quan trọng bởi vì sự đại diện cho những gì diễn ra trong toàn bộ chiến tranh ở Việt Nam. Mỹ Lai là ví dụ nổi tiếng nhất mà John Kerry, một Cựu Chiến Binh Việt Nam Chống Chiến Tranh, hiện giờ là thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, cho rằng “không phải là sự kiện đơn lẻ mà là tội ác thường ngày với sự nhận biết của sĩ quan và tất cả các cấp chỉ huy.” Xuất hiện trước Ủy Ban Quan Hệ Quốc Tế Thượng Viện vào tháng 4 năm 1971, Kerry nói, “Hơn 150 người xuất ngũ trong danh dự và nhiều cựu chiến binh được gắn huân chương cấp cao nhất đã làm chứng về tội ác chiến tranh ở Đông Nam Á.” Ông tiếp tục kể về cách quân đội Hoa Kỳ “đích thân cưỡng hiếp, cắt tai, cắt đầu, buộc dây điện từ máy điện đài vào bộ phận sinh dục và bật điện, cắt chân tay, nổ tung xác, bắn ngẫu nhiên vào thường dân, san bằng các ngôi làng theo kiểu Thành Cát Tư Hãn, bắn chết gia súc và chó cho vui, đầu độc thực phẩm dự trữ và tàn phá hoàn toàn miền nam Việt Nam. Tất cả những điều này là “thêm vào sự tàn phá thông thường của chiến tranh.”15 Những bức ảnh về việc lính Mỹ châm lửa đốt nhà của người Việt Nam, một hình ảnh thường thấy trong chiến tranh, sẽ nhấn mạnh điều này, nhưng không có bất cứ sách giáo khoa nào sử dụng bất cứ hình ảnh tội lỗi nào của người Mỹ. Không có sách giáo khoa nào có bất cứ bức ảnh nào về sự phá hủy, thậm chí các mục tiêu hợp lệ, mà phía chúng ta gây ra. Chỉ có cuốn sách Khám Phá Lịch Sử Hoa Kỳ, một cuốn sách giáo khoa tìm hiểu, mô tả vụ thảm sát Mỹ Lai là sự kiện đơn lẻ. Thêm vào đó, để cho học sinh dốt nát về lịch sử chiến tranh, sự im lặng của các cuốn sách giáo khoa khác về chủ đề này cũng làm cho phong trào phản chiến khó hiểu.

Hai tác giả sách giáo khoa, James West Daividson và Mark H. Lytle, thể hiện ở đâu đó là biết về tầm quan trọng của vụ thảm sát Mỹ Lai. “Chiến lược của Hoa Kỳ hàm chứa sự tàn bạo,” Lytle nói với tôi. Davidson và Lytle dùng gần hết một chương trong cuốn sách After the Fart để mô tả vụ thảm sát Mỹ Lai. Ở đó họ cho biết tin tức về vụ thảm sát đã làm Hoa Kỳ sửng sốt ra sao. “Một điều chắc chắn là sự đụng độ trở thành thời điểm xác định trong nhận thức của công chúng về chiến tranh,”16 họ viết. Mặc dù vậy, họ không cho rằng học sinh trung học cần biết về điều đó trong sách giáo khoa lịch sử của họ, Hoa Kỳ - Lịch Sử Nước Cộng Hòa, giống như bảy cuốn sách khác trong mẫu của tôi, không bao giờ đề cập tới Mỹ Lai.

Nếu sách giáo khoa che giấu tất cả những bức ảnh quan trọng về chiến tranh Việt Nam thì những bức ảnh nào họ sẽ đăng? Hầu như là những bức ảnh không gây tranh cãi – lính đi tuần, đi qua đầm lầy, hay nhảy xuống từ trực thăng. Bảy cuốn sách giáo khoa có ảnh người tị nạn hay thiệt hại do phe bên kia gây ra, nhưng những thiệt hại đó thường có quy mô rất nhỏ so với những gì bom đạn của chúng ta gây ra, những bức ảnh không thật sự ấn tượng.

Văn của họ thì sao? Đáng buồn, tác giả sách giáo khoa cũng loại bỏ tất cả những trích dẫn đáng nhớ của thời kỳ đó. Martin Luther King, Jr., lãnh đạo chủ chốt đầu tiên chống chiến tranh, phản đối nó bằng ngữ điệu riêng của ông: “Chúng ta phá hủy hai thể chế quan trọng nhất của họ: gia đình và làng. Chúng ta phá hủy đất đai và mùa màng của họ …. Chúng ta làm hư hỏng phụ nữ và trẻ em của họ, giết đàn ông của họ.”17 Không có sách giáo khoa nào trích dẫn King. Thậm chí về người bất đồng chính kiến nổi tiếng Muhammad Ali, sau này là nhà vô địch quyền anh hạng nặng thế giới cũng vậy. Ali từ chối tham gia quân ngũ, vì thế mà ông đã bị tước danh hiệu, và nói, “Không có Việt Cộng nào từng gọi tôi là “mọi đen”.” Tất cả mười hai cuốn sách giáo khoa đều không trích dẫn. Sau đợt tấn công Tết, một sĩ quan quân đội Hoa Kỳ tham gia vào việc tái chiếm Bến Tre nói, “Cần thiết phải phá hủy thành phố để bảo vệ nó.” Đối với bốn triệu người Mỹ, tuyên bố này đã tóm tắt tác động của Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Không sách giáo khoa nào trích dẫn điều này.18 Cũng không có sách giáo khoa nào trích dẫn lời khẩn cầu rút quân ngay lập tức của John Kerry: “Làm sao anh có thể yêu cầu ai đó sẽ là người cuối cùng chết cho sai lầm?” 19 Toàn bộ phong trào phản chiến trở thành không thể hiểu được bởi vì sách giáo khoa không cho phép nó thể hiện bản thân. Chúng loại bỏ các bài ca phản chiến, các biểu ngữ - “Khủng khiếp, Không; Chúng tôi không đi!” và “Này, LBJ, hôm nay ông sẽ giết bao nhiêu trẻ con?” – và trên hết là cảm xúc.20 Dường như chỉ có tổng thống Johnson và Nixon là được trích dẫn. Trong một đoạn đặc trưng của Đám Rước Hoa Kỳ, Nixon nói, “Nước Mỹ không thể - và sẽ không – phác thảo mọi kế hoạch, thiết kế mọi chương trình, thực hiện mọi quyết định và bảo vệ cho các quốc gia tự do trên thế giới.” Đoạn này không làm rõ chiến tranh hay phản đối nó. Thậm chí phần trích dẫn độc giả bổ sung của Đám Rước Hoa Kỳ chỉ trích dẫn Johnson và Nixon như là nguồn sơ cấp về chiến tranh Việt Nam – không một từ nào của những người tham chiến hay phản đối nó.    

Khi loại bỏ quan điểm, tiếng nói và cảm giác về thời kỳ Việt Nam, tác giả sách giáo khoa đã loại bỏ cả chủ đề. Frances FitzGerald trong phần bổ sung cho cuốn Sử Chữa Hoa Kỳ, viết cuốn Lửa Trong Hồ, một cuốn sách hay về Việt Nam, gọi các sách giáo khoa mà bà đánh giá vào năm 1979 là “chẳng phải diều hâu hay hay bồ câu về chiến tranh – họ chỉ lẩn tránh.” Bà tiếp tục nói, “Khi chúng thảo luận về chiến tranh một cách thực sự khó khăn và lảng tránh những vấn đề chủ chốt thì phần Việt Nam rất đáng đọc.”21 Ở một cấp độ nào đó, xác định chủ đề là vấn đề diễn giải và tôi sẽ không muốn chê trách sách giáo khoa về việc có sự diễn giải khác với tôi. Dĩ nhiên chúng ta có thể đồng ý rằng sự đối xử hợp lý về chiến tranh Việt Nam sẽ được thảo luận ít nhất là với sáu câu hỏi như sau:

Tại sao Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam?

Cuộc chiến tranh trước khi Hoa Kỳ tham chiến là gì? Chúng ta thay đổi điều đó ra sao?

Tại sao phong trào phản chiến lại mạnh như vậy ở Hoa Kỳ?

Những phê phán về chiến tranh ở Việt Nam là gì? Chúng có đúng không?

Tại sao Hoa Kỳ thua trận?

Bài học mà chúng ta rút ra từ kinh nghiệm này là gì?

Cách đơn giản để đặt ra những câu hỏi này là thừa nhận rằng mỗi câu đều vẫn đang mâu thuẫn. Lấy câu thứ nhất. Một số người vẫn lập luận rằng Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam để đảm bảo sự tiếp cận các nguồn tài nguyên quý giá của đất nước này. Một số khác tuyên bố rằng chúng ta tham chiến để mang đến dân chủ cho người Việt Nam. Dĩ nhiên, phổ biến hơn là các phân tích về chính sách đối nội của chúng ta: tổng thống Dân Chủ Kennedy và Johnson, đã chứng kiến phe Cộng Hòa khiển trách Truman về việc “mất” Trung Quốc, không muốn bị coi là “mất” Việt Nam. Một sự diễn giải khác đưa ra học thuyết domino: giờ đây chúng ta biết rằng cộng sản Việt Nam thù địch với Trung Quốc, trước đây chúng ta chưa biết, một số lãnh đạo tin rằng nếu Việt Nam “rơi” vào tay cộng sản thì Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippine sẽ cũng như vậy. Mặc dù vậy, quan điểm khác cho rằng Hoa Kỳ cảm thấy có thanh danh và không muốn bị đánh bại ở Việt Nam, vì sợ rằng hòa bình kiểu Mỹ sẽ bị đe dọa ở Châu Phi, Nam Mỹ và bất cứ đâu trên thế giới. Một số người theo thuyết âm mưu đi xa hơn, khẳng định rằng các doanh nghiệp lớn kích động cuộc chiến để hỗ trợ nền kinh tế. Một số nhà sử học có quan điểm rộng hơn, cho rằng sự can thiệp của chúng ta ở Việt Nam xuất phát từ hình mẫu văn hóa phát xít và đế quốc được bắt đầu từ cuộc chiến tranh da đỏ đầu tiên ở Virginia vào năm 1622, tiếp diễn trong thế kỷ 19 với “Tuyên Ngôn Định Mệnh”, và giờ là theo ngọn gió “Thế Kỷ Hoa Kỳ”. Họ chỉ ra rằng lính Mỹ ở Việt Nam thu thập và trưng bày tai của người Việt Nam giống như thực dân Anh ở Bắc Mỹ thu thập và trưng bày chỏm da đầu của người da đỏ.23 Quan điểm chung cuộc có thể là không có lý do rõ ràng và mục đích rõ ràng, rằng chúng ta bị lôi cuốn vào cuộc chiến bởi vì không có chính quyền kế tiếp nào đủ can đảm để vô hiệu hóa sai lầm chống lại các phong trào độc lập dân tộc của chúng ta vào năm 1946. Ngoại trưởng John Foster Dulles viết,  “Sai lầm căn bản liên quan đến Đông Dương được tạo ra sau năm 1945, khi chính quyền của chúng ta đồng ý cho Pháp và Anh khôi phục lại vị thế thực dân của Pháp ở Đông Dương.”24

Dĩ nhiên, mầm mống sự can thiệp bi kịch của Hoa Kỳ vào Việt Nam đã được ấp ủ ở Versailles vào năm 1918, khi đó Woodrow Wilson đã không nghe lời yêu cầu độc lập cho đất nước này của Hồ Chí Minh. Chúng nảy mầm khi chính sách của FDR không giúp Pháp tái thuộc đại hóa Đông Nam Á sau khi thế chiến thứ II kết thúc cùng với cái chết của ông ta. Kể từ đó sách giáo khoa hiếm khi đề xuất rằng những sự kiện của một thời kỳ này sẽ dẫn đến những sự kiện của thời kỳ tiếp theo, không mấy ngạc nhiên, không có cuốn sách giáo khoa nào mà tôi nghiên cứu quay trở lại trước những năm 1950 để giải thích chiến tranh Việt Nam.

Trong khoảng những năm 1950 và 1960, các bằng chứng lịch sử về những diễn giải mâu thuẫn yếu hơn thời kỳ khác, mặc dù vậy tôi không chọn phe ở đây.23 Tác giả sách giáo khoa cũng không cần phải chọn phe phái. Họ có thể trình bày một số diễn giải, cùng với một quan điểm ủng hộ về mặt lịch sử cho từng diễn giải và yêu cầu học sinh đưa kết luận của bản thân. Tuy vậy, những yêu cầu này không phải là phong cách của tác giả sách giáo khoa. Họ dường như bị bắt buộc trình bày câu trả lời “đúng” cho mọi câu hỏi, thậm chí cho cả các cuộc tranh luận không thể kết thúc.

Họ chọn cách diễn giải nào? Chẳng cách nào hết! Hầu hết sách giáo khoa lảng tránh chủ đề. Đây là phân tích đặc trưng, trong cuốn Cuộc Phiêu Lưu Hoa Kỳ: “Vào cuối những năm 1950, chiến tranh nổ ra ở miền Nam Việt Nam. Vào lúc này, Hoa Kỳ viện trợ cho người miền Nam Việt Nam.” “Chiến tranh nổ ra” – thật đơn giản làm sao! Cuốn Cuộc Phiêu Lưu Hoa Kỳ dùng 4 trang để trình bày lý do chúng ta tham gia vào cuộc chiến 1812, nhưng chỉ cần hai câu để trình bày lý do chúng ta tham chiến ở Việt Nam. Một trong những lý do khiến tác giả sách giáo khoa rón rén đi qua quá khứ gần đây, lảng tránh mọi chủ đề chính, có thể là họ cảm thấy không đủ chuyên môn để xử lý chúng. Không có ai trong số 45 tác giả của 12 cuốn sách giáo khoa trong mẫu của tôi là chuyên gia về quá khứ gần, như tôi có thể nói. Dĩ nhiên, sách giáo khoa được nhiều tác giả viết nên sẽ có nhiều chủ đề do các tác giả không phải là chuyên gia viết. Mặc dù vậy về các chủ đề trong zamani, tác giả sách giáo khoa có thể sử dụng quan điểm lịch sử làm lá chắn. Bằng cách viết theo giọng trí thức tẻ nhạt về những sự kiện trong zamani, các tác giả giả định rằng một sự thật lịch sử đơn lẻ tồn tại, các nhà sử học đã đồng ý về chúng và đó là thứ họ đang dạy cũng như học sinh cần phải ghi nhớ. Lối viết đó giả định rằng quan điểm lịch sử phát triển sẽ ngày càng đúng đắn hơn với một giai đoạn thời gian, che chở cho các tác giả sách giáo khoa ngày nay với sự tích lũy hiểu biết về lịch sử. Mặc dù vậy, họ không thể sử dụng quan điểm lịch sử để bảo vệ cho cách họ xử lý các sự kiện trong sasha. Khi không có quan điểm lịch sử, tác giả sách giáo khoa dường như trần trụi; không có phẩm chất đặc biệt nào cho phép họ có quyền tường thuật về các sự kiện mới qua với sự vô tư Olympia mà họ diễn thuyết hùng hồn về những sự kiện trong zamani.

Quan điểm lịch sử hoàn toàn biện minh cho sự thờ ơ đối với sasha. Các nhà sử học nói với chúng ta về việc họ gần gũi với bất kỳ sự kiện nào mới đây mà chúng ta cho rằng có thể quay trở lại và nhìn nó trong bối cảnh. Khi tài liệu mới xuất hiện trong tàng thư, họ tuyên bố, hoặc khi kết quả của hành động trở nên rõ ràng theo thời gian, chúng ta có thể đạt tới sự đánh giá “khách quan” hơn. Tuy vậy, khoảng thời gian không tự mình tạo ra quan điểm. Thông tin mất đi cũng như thu được cùng với thời gian.

Tại điểm này, chúng ta có thể nhắc lại một số thay đổi trong quan điểm được ghi nhận ở những chương trước. Hiện nay, Woodrow Wilson được xếp hạng tích cực hơn rất nhiều so với năm 1920. Sự cải thiện không xuất phát từ khám phá thông tin mới về chính quyền của ông ta mà là từ nhu cầu hệ tư tưởng của những năm 1940 và đầu những năm 1950. Trong những năm đó, các nhà sử học da trắng thường buộc tội Wilson về việc phân biệt chủng tộc ở chính quyền liên bang, bởi vì không có sự đồng thuận về việc coi sự phân biệt chủng tộc là sai. Vấn đề công cộng hàng đầu của thời hậu chiến không phải là quan hệ chủng tộc mà là bao vây chủ nghĩa cộng sản. Trong Chiến Tranh Lạnh, chính quyền của chúng ta hoạt động giống như dưới thời Wilson, với các cuộc chiến tranh bán công khai, lừa dối quốc hội và đàn áp phong trào tự do dân sự dưới danh nghĩa chống chủ nghĩa cộng sản. Chính sách của Wilson, mâu thuẫn và không được ủng hộ vào những năm 1920, trở thành bình thường vào những năm 1950. Quan chức và các nhà sử học vào những năm 1950 phủ nhận và tầm thường hóa chủ nghĩa biệt lập. Vụ lợi trong việc thúc ép Liên Hiệp Quốc, sau đó thông qua sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ, họ thừa nhận nỗ lực của Wilson theo mệnh lệnh của Liên Hiệp Quốc. N. Gordon Levin, Jr., thể hiện gọn gàng: “Cuối cùng, trong thời kỳ hậu chiến tranh Thế Giới thứ II, các giá trị của Wilson đã chiến thắng hoàn toàn trong sự đồng thuận lưỡng đảng của thời Chiến Tranh Lạnh.” Do vậy, sự đánh giá Wilson thay đổi trong sách giáo khoa hiện nay có thể cho thấy sự thật là nhu cầu hệ tư tưởng của những năm 1950, khi Wilson đã là zamani, khác với những năm 1920, khi ông ta mới là sasha.

Việc Tây Ban Nha ngược đãi và bắt cư dân da đỏ vùng Caribbe làm nô lệ được Bartolome de las Casas và nhiều người khác ghi nhận trong khi Columbus vẫn còn là sasha. Mặc dù vậy, sau đó Columbus được đề cao thành người can đảm của khoa học, bác bỏ khái niệm trái đất phẳng và mở ra chân trời mới cho sự tiến bộ. Columbus của thế kỷ 19 hấp dẫn một dân tộc đã tóm lược kết quả của 300 năm chiến tranh đánh bại các dân tộc da đỏ. Nhưng vào năm 1992, kẻ cướp bóc Columbus đã được chấp nhận ngang bằng với nhà thám hiểm Columbus, và nhiều cuộc kỷ niệm Columbus đã kéo theo phản đối, thường xuyên được người Mỹ bản địa tổ chức. Columbus “mới”, gần với Columbus của sasha, hấp dẫn một dân tộc khởi đầu với vài tá cựu thực dân, giờ là những dân tộc mới. Sự tương phản giữa kỷ niệm hành trình đầu tiên của Columbus vào năm 1892 và năm 1992 một lần nữa cho thấy tác động của những vị trí thuận lợi.

Huyền thoại của phe ly khai về Cải Cách lần đầu tiên xuất hiện tràn lan trong sách lịch sử vào lúc quan hệ chủng tộc tồi tệ nhất, từ năm 1890 đến năm 1920, và bám vào sách giáo khoa cho đến những năm 1960. Chính quyền Cải Cách được trình bày như là ví dụ về sự bất hợp pháp và tha hóa của “sự thống trị của người da đen”. Hiện nay, các nhà sử học quay lại quan điểm Cải Cách xuất hiện trong lịch sử cận đại, được viết khi các chính quyền cộng hòa vẫn cai trị các bang miền Nam. Eric Foner ca ngợi sự thay đổi là nhờ vào “học thuật khách quan và kinh nghiệm hiện đại,” một sự đổi pha gắn liền với hai nguyên nhân chủ chốt. Học thuật khách quan không tồn tại trong lịch sử, đó là lý do tại sao tôi mạo hiểm những từ ngữ như đúng và sai. Khoảng cách lịch sử không thúc đẩy sự mô tả chính xác hơn về Cải Cách. Bởi vì sự thật về Cải Cách không phù hợp với “kinh nghiệm hiện đại” về thời kỳ tăm tối, chúng nằm yên trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 20, bị hầu hết các nhà sử học nhìn lướt qua. Cho tới khi phong trào dân quyền thay đổi “kinh nghiệm hiện đại” thì sự thật mới nói với chúng ta.

Quan điểm lịch sử không phải là thành phẩm của một giai đoạn thời gian. Quan điểm chính xác hơn được rút ra từ lý thuyết mâu thuẫn về nhận thức của Leon Festinger, giả định rằng thực tiễn xã hội của một giai đoạn mà lịch sử được viết sẽ quết định quan điểm lịch sử về quá khứ.29 Học thuật khách quan phải kết nối với kinh nghiệm hiện đại cho phép chúng thắng thế. Tuyên bố quan điểm lịch sử không thích hợp với xã hội không phải là sự biện minh cho việc lảng tránh sasha. Các nhà sử học không có lý do nào ngoài sự hèn nhát để lảng tránh việc phơi bày hoàn toàn quá khứ gần đây của chúng ta.

Tác giả sách giáo khoa không phải là người duy nhất chịu trách nhiệm cho việc bỏ qua quá khứ gần trong các khóa học lịch sử trung học. Ngay cả khi sách giáo khoa giành không gian xứng đáng cho sasha, hầu hết học sinh sẽ phải tự đọc chúng, bởi vì hầu hết giáo viên không bao giờ đọc hết sách giáo khoa. Trong khóa học lịch sử Hoa Kỳ dài 1 năm, giáo viên lớp 5 Chris Zajac, đối tượng của Tracy Kidder trong cuốn sách Về Học Sinh, không bao giờ vượt qua Cải Cách! Thời gian không phải là vấn đề duy nhất. Giống như các nhà xuất bản, giáo viên không muốn có nguy cơ xúc phạm cha mẹ học sinh. Hơn nữa, theo Linda McNeil, hầu hết giáo viên đặc biệt không muốn dạy về Việt Nam. “Hồi ức của họ về thời kỳ chiến tranh Việt Nam khiến họ mong muốn lảng tránh chủ đề mà học sinh sẽ bất đồng với quan điểm của họ hoặc điều đó khiến học sinh “hoài nghi” các thể chế của Hoa Kỳ.” Do đó, trung bình giáo viên giành cho Chiến Tranh Việt Nam từ 0 đến 4,5 phút trong toàn bộ một năm học!29

Chiến Tranh Việt Nam gần như không gây bất đồng như một số chủ đề khác trong quá khứ gần; hiện nay hơn 2/3 người Mỹ trưởng thành coi chiến tranh là sai lầm về đạo đức cũng như vớ vẩn về mặt chiến thuật.30 Mâu thuẫn hơn là phong trào phụ nữ. Mọi trường học quận đều có các bậc cha mẹ ủng hộ mạnh mẽ vai trò giới tính truyền thống và các bậc cha mẹ khác không ủng hộ. Đồng tính là vấn đề cấm kỵ hơn trong thảo luận hay học tập. Đưa ra chủ đề về hành động khẳng định dẫn đến các tranh luận giận dữ. Một sự đánh giá tiêu cực về chính quyền Carter hay Reagan chắc chắn sẽ xúc phạm một số cha mẹ thuộc phe Dân Chủ hay Cộng Hòa, đáng chú ý là Mel và Norma Gabler, người tổ chức các thành viên cánh hữu để gây sức ép với nhà xuất bản, tìm cách thành lập công đoàn và Hội Đồng Nhà Thờ Quốc Gia cũng là những vấn đề quá xung đột để các tác giả và nhà xuất bản đề cập. Do các bậc cha mẹ có quan điểm về những sự kiện mà họ đã trải qua, giáo viên và tác giả có thể cảm thấy cần phải tiếp cận hầu hết các chủ đề trong sasha dưới điều kiện khắc nghiệt. Kết quả là lịch sử của quá khứ gần cũng giống như mẹ của Thumper khuyên bảo: “Nếu như mày không thể nói điều gì hay ho thì đừng nói gì hết.” Không có gì đáng ngạc nhiên, chỉ có 2 đến 4% sinh viên đại học nói rằng chúng có được những thứ cần thiết về Chiến Tranh Việt Nam ở trường trung học.31

Mặc dù vậy, khi sách giáo khoa trình bày về sasha, chúng gây khó khăn để học sinh không thể tạo dựng mối liên hệ giữa việc nghiên cứu quá khứ, cuộc sống của chúng hiện nay và những vấn đề mà chúng phải đối mặt trong tương lai. Các chính khách của các phe phái chính trị cầu khẩn “bài học Việt Nam” khi họ tranh luận về can thiệp ở Angolo, Lebanon, Kuwait, Somalia và Bosnia. Biểu ngữ của Bumper là “El Salvador là tên Tây Ban Nha của Việt Nam” để ngăn cản Hoa Kỳ đưa quân tới quốc gia này.32 “Bài học Việt Nam” cũng thường được sử dụng để thông tin hay tranh luận sai lầm về tình báo, báo chí, cách chính quyền liên bang điều hành và thậm chí là việc quân đội có tiếp nhận đồng tính nam hay không. Các vấn đề mà phong trào phụ nữ dấy lên vào những năm 1970 tiếp tục tác động đến xã hội Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến các thể chế từ gia đình đơn lẻ đến truyền thông. Học sinh tốt nghiệp trung học có quyền có đủ kiến thức về quá khứ gần để tham gia một cách thông minh vào những tranh luận này.

Quá khứ không bao giờ chết,” William Faulkner viết. “Nó thậm chí chưa qua đi.” Sasha là quá khứ quan trọng nhất của chúng ta, bởi vì nó đã chết nhưng là xác sống. Việc sách giáo khoa và giáo viên đánh cắp nó là tội ác học đường đáng nguyền rủa đối với học sinh trung học, lấy đi của chúng quan điểm về những vấn đề có tác động quan trọng đến chúng. Học sinh nửa nhớ nửa quên về trận chiến Put-in-Bay hay Silent Cal Coolidge chẳng mấy có ích cho việc hiểu thế giới mà chúng sẽ tham gia sau khi tốt nghiệp. Thế giới vẫn đặt ra vai trò của giới tính. Thế giới vẫn đầy những nước thuộc Thế Giới Thứ Ba có khả năng trở thành “Việt Nam mới”. Thế giới được đánh dấu bằng sự bất bình đẳng xã hội. Việc bỏ qua quá khứ gần đảm bảo rằng học sinh sẽ không học hỏi được nhiều để áp dụng vào thế giới từ các khóa học lịch sử

Công viên Thế Giới Disney ở Florida tổ chức buổi triển lãm có tên “Cuộc Phiêu Lưu Hoa Kỳ”, 29 phút về lịch sử Hoa Kỳ. Buổi triển lãm hoàn toàn bỏ qua Chiến Tranh Việt Nam, các vụ nổi loạn ghetto của những năm 1960 và 1990, mọi thứ gây rắc rối khác về quá khứ gần. Một mô tả cô đọng và nhạt nhẽo về quá khứ gần trong sách giáo khoa lịch sử Hoa Kỳ cho thấy sự suy sụp thần kinh tương tự của tác giả, nhà xuất bản và nhiều giáo viên. Học sinh trung học đáng được nhận những thứ tốt hơn lịch sử của Thế Giới Disney, nhất là khi sách giáo khoa của chúng không phải là phương tiện mua vui như công viên giải trí.

Chú thích:

Bản scan của cuốn sách mà tôi có bị lược bỏ phần chú thích nên tạm thời chưa thể dịch, khi tìm được phần chú thích thì tôi sẽ dịch và bổ sung sau.

Wednesday, November 12, 2014

Nghèo, da trắng và say khướt

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Poor, white and pissed" của tác giả Joe Bageant, một nhà báo tự do nổi tiếng chuyên viết về cuộc sống của những người dưới đáy xã hội Mỹ. Bài viết này đã có từ lâu nhưng cuộc sống của người lao động nghèo da trắng ở Mỹ trong đó vẫn mang những đặc trưng ít thay đổi. 

Nghèo, da trắng và say khướt

Nếu mày đang đọc những dòng này, rất có khả năng mày là một gã tự do, thậm chí đang kêu gào đầy phẫn nộ kiểu như hãy-đốt-trụi-đất-nước-cộng-sản-mắc-dịch-đi – trong trường hợp ấy tao sẽ nói, “Tới ngồi cạnh tao đi đồng chí!" (Nhất là khi mày là một cô nàng tóc vàng). Giống như hầu hết những đứa cánh tả, mày sẽ sống ở thành thị, hay chỗ nào đó có sự đa dạng văn hóa hợp lý. Hơn nữa mày được học hành và có thể đọc những dòng này mà không phải mấp máy môi. Có thể mày sống trong cộng đồng tự do tư duy kiểu như Nước Cộng Hòa Nhân Dân Berkeley, hay đang lăng xăng dưới ánh sáng đèn của Manhattan, chỗ mày có thể xem những bộ phim độc lập và mua tỏi tây và sữa đậu nành ở cửa hàng tạp hóa.

Mặc dù vậy, tao sống ở một thị trấn nhỏ, chỗ có thể dễ dàng kiếm được lòng lợn, bánh pudding và dưa chuột ngâm dấm hơn là tỏi tây trong cửa hàng tạp hóa … và ở đó phim “Smokey và Kẻ cướp” vẫn được chiếu trong các rạp lèn chặt người hết năm này qua năm khác. Thị trấn của tao nổi tiếng trong vụ cháy lốp xe của hãng “Rhinehart” vào năm 1983, 5 triệu lốp xe phế thải đã cháy suốt 9 tháng, được đăng trên trang nhất các bản tin ở Winchester, Virginia và tin tức quốc gia, cũng như trên dòng cập nhật trạng thái của siêu quỹ dọn dẹp EPA. Khói của vụ cháy có thể được nhìn thấy trên các bức ảnh vệ tinh, việc dọn dẹp kéo dài 18 năm và vụ cháy là sự kiện vĩ đại nhất tại thị trấn của tao trong thế kỷ 20. Về đời sống trí tuệ thì đây là một thị trấn có cực kỳ ít người từng nghe đến những cái tên như Susan Sontag [nhà văn nữ nổi tiếng người Mỹ], mặc dù các biên tập viên tạp chí địa phương đã đăng xã luận cáo phó về bà ta, bài ấy có tiêu đề là: Vĩnh biệt, đồ-cặn-bã-cộng-sản-Do-Thái-của New-York! 

Hầu hết mọi người đọc báo tại bàn ăn sáng trong thị trấn đều hỏi nhau, “Susan Sontag là đứa chết tiệt nào vậy?”. Họ sẽ hỏi tương tự về Daniel Barenboim hay Hunter S. Thompson bởi vì cả hai chưa bao giờ xuất hiện ở chương trình của Oprah. Bầu không khí chung bị một luật sư, từ Atlanta đến để ngó quanh thị trấn và được nhìn ngó, phá bĩnh bằng câu: “Đồ đần, tính tiền!” Đó là từ một gã thấy quanh mình toàn những kẻ da trắng nghèo khổ đần độn. Hãy cười nếu mày muốn, nhưng đó là trái tim của bang đỏ ở Hoa Kỳ mà mọi người đang nói đến trong những ngày này. 

Một người thuộc tầng lớp cao hơn của Hoa Kỳ có thể sống ở những nơi như Winchester, Virginia? Không hẳn. Chỉ có những gia đình thượng lưu tiểu thương cũ kỹ và những gã quản lý nhà máy lương cao bị thuyên chuyển đến đây là cảm thấy nơi này đáng sống – đám đầu tiên là vì địa vị xã hội và đám thứ hai là vì biết chắc rằng một ngày nào đó lại sẽ được thuyên chuyển đi nơi khác. 

Hầu hết phần còn lại trong đám chết dí ở Winchester là những kẻ thường được gọi là giai cấp lao động truyền thống. Giờ thì tất cả mọi người đều gọi bọn tao là Rác Trắng. Đó là những gã lao động nghèo khổ da trắng, những kẻ cùng lắm chỉ có cái bằng tốt nghiệp trung học. Trên quy mô cả nước thì bọn tao chiếm một phần tư số công nhân da trắng, tức là 35 triệu gã cả thảy theo như con số đã bị cắt xén của chính quyền. Không ai biết chắc điều gì ở một quốc gia gọi hàng triệu gã thợ sửa chữa lặt vặt với giá 7 dollar/giờ và những gã bên lề xã hội làm việc không có bảo hiểm hay trợ cấp là “cá nhân kinh doanh độc lập” và “doanh nhân”.

Những gã kinh doanh độc lập nhỏ, như bọn tao được nghe, là “xương sống của nền kinh tế Mỹ”. Nếu điều đó là thật, thì đó là điều đáng buồn vì bọn tao đang nói về những công dân kiếm được khoảng 25-30 ngàn dollar trước thuế mỗi năm. Với cả hai vợ chồng cùng đi làm. Tao nói với gã bạn là một thợ sửa chữa vặt tự do, tên là Gator, rằng hắn là xương sống của nền kinh tế Mỹ; hắn trả lời là hắn cảm thấy giống lỗ đít của nước Mỹ hơn.

Trong bất cứ hoàn cảnh nào thì những người ở chỗ tao không phải là những người ở phòng ngủ trưa cạnh chỗ mày tại nơi làm việc (nhưng họ có thể dọn vệ sinh vào ban đêm khi mày đang ngủ). Những người chỗ tao không phải là những kẻ phàn nàn về việc thanh toán nợ học phí, hay những kẻ nhận được chỗ đỗ xe tốt nhất ở khu tổ hợp văn phòng. Họ có những vấn đề hoàn toàn khác, hầu hết là khoản thanh toán lặt vặt. Hay những người giống như lão thợ cả Dany của dịch vụ cắt tỉa cây, sau khi xén mất một ngón tay trong lúc làm việc với cưa xích, lão gói nó lại với giấy gói bánh Mac-Donald và chạy bổ đến bệnh viện để gắn nó lại. Hoặc như hàng ngàn người khác trong thị trấn đang nghiền táo để làm nước sốt táo hay nấu chúng thành giấm ở công ty Sản Phẩm Trái Cây Quốc Gia, một công việc theo ca tẻ nhạt đến phát khùng hết năm này qua năm khác mà không có bất cứ cơ hội thăng chức nào, hay được chăm sóc y tế. Tất cả bọn họ đều bị giãn thợ theo mùa vụ khi toàn bộ táo đã bị nghiền và hàng triệu lít giấm đã được đóng chai – giai cấp lao động chẳng đi bất cứ đâu trong một thành phố bốc mùi dấm.

Một trong những vấn đề mà giai cấp lao động miền bắc gặp phải là những người Mỹ tiến bộ có giáo dục coi họ là một đám béo mập, những gã trộm cắp cực kỳ thính mũi có vũ trang. Vấn đề này cũng có một phần sự thật là nhiều người trong số bọn tao đúng như vậy. Hãy gọi chúng là hội chứng “Những-thằng-nghèo-da-trắng-đần-độn-tao-tính-tiền”. Nhưng sai lầm của đám tự do trong suy nghĩ về những gã công nhân có vũ trang và say khướt là ở chỗ họ không chỉ có nòi giống phương bắc. Bất kể là mày sống ở đâu trên đất nước này, mày cũng sẽ thấy bọn tao. Bọn tao là một dân tộc ở ngay trước mũi mày tại lối ra của Wal-Mart, xử lý vấn đề về dầu máy trong khi vẫn hút thuốc lá. Nhưng ngay cả ở những sự kiện dân chủ như mua sắm, sự va chạm sẽ bị giới hạn bởi vì tụi tao không mua bia loại sang và mày không mua đạn hay dầu máy. Nếu tụi mình không đứng cùng hàng chờ thanh toán thì có lẽ là tụi tao đang đợi mày thực hiện nhiệm vụ của một nhân viên bàn giấy. Trong chiếc áo chẽn màu đỏ sáng với thẻ ghi tên, tụi tao trông không đến nỗi nghèo nàn và tuyệt vọng. Nhưng hãy để tao kể về Roy, một gã lớn tuổi vui vẻ, thông minh với chiếc áo chẽn màu cam trong bộ phận hàn chì của cửa hàng Home Depot địa phương. Gã biết tất cả mọi thứ về hàn chì, và gã khập khiễng với cái đầu gối tồi tệ đã được ghép đĩa đệm hai lần trong đời công nhân xây dựng, nhưng gã chỉ có bảo hiểm y tế cho một bên. Không có bảo hiểm y tế của Home Depot, mày nghĩ coi – tất cả lương của gã phải dùng để thanh toán bảo hiểm y tế tư nhân nếu gã không muốn mất luôn căn nhà gỗ một tầng xập xệ mà hai vợ chồng gã mua sau chiến tranh Triều Tiên, cho những hóa đơn y tế kinh khủng. Căn nhà gỗ đó hiện giờ nằm ở khu dân cư tồi tệ, chỉ có chủ nhà chuyên cho thuê khu ổ chuột đang thống trị cái thị trấn này mới thèm mua, và cũng chẳng đáng gì. Roy sẽ mất nhà trong 25 năm, không có bất cứ khách hàng trung lưu rám nắng của vùng ngoại ô nào ở đây hay bất cứ đâu thèm ngó ngàng. 

Đây hoàn toàn là bang đỏ tân bảo thủ Virginia, nơi mọi người sẵn sàng giải thích cho tình trạng của Roy trong đời: như chủ quầy báo Jimbo nói, “Họ là những kẻ thất bại, những kẻ không thể loại bỏ khỏi xã hội vĩ đại nhất quả đất. Darwin đã đúng. Gandhi đã sai. Toàn là phân!” Jimbo cũng là gã đã khuyên tao rằng “Hãy luôn đạp những gã đã ngã; điều đó giúp gã ấy có động lực để đứng lên.” Đôi khi tao nghĩ rằng đó là điều khốn kiếp có ý nghĩa nhất mà những thị trấn lao động nhỏ nhoi của Hoa Kỳ như Winchester đã tạo ra.

Móng vuốt à, tao có mâu thuẫn không?

Nghèo và da trắng là một mâu thuẫn ở Hoa Kỳ. Da trắng, nhất là đàn ông, được kỳ vọng là sẽ có lợi thế mà họ bóc lột tàn nhẫn. Mặc dù vậy hầu hết người nghèo ở Hoa Kỳ là da trắng (51%), vượt xa da đen với tỷ lệ 2:1 và vượt xa các nhóm nghèo khổ thiểu số khác cộng gộp lại. Hoa Kỳ tràn ngập câu chuyện hoang đường về sự kết hợp giữa da trắng với sức mạnh, giáo dục cũng như cơ hội. Xã hội tư bản dạy tụi tao là tụi tao nhận được những gì đã đóng góp, thế nên nếu một gã da trắng không thành công thì đó chỉ là bởi vì gã lười biếng. Nhưng cũng giống như những gã cặn bã da đen và Latin trong các khu ổ chuột, lao động nghèo da trắng sống tận đáy xã hội chả có gì khác ngoài thất bại. Nếu ông bố bỏ dở trung học của mày vất vả với đồng lương rẻ mạt và không bao giờ đọc sách cũng như mẹ mày là công nhân dệt vải, thì mày sẽ không được Hội Đầu Lâu và Xương của Yale [Hội kín ở Đại học Yale có các thành viên trở thành tổng thống] tuyển mộ để trở thành tổng thống Hoa Kỳ sau này, bất chấp chuyện cổ tích quốc gia. Mày sẽ bị công việc làm ca 8-dollar-một-giờ ở đâu đó tóm cổ và sẽ phải cầu nguyện có đủ việc làm thêm giờ để thanh toán hóa đơn sưởi ấm. Mày là một công nhân.

Chính trị cánh tả từng là chỗ dựa cho những công nhân này, từng đứng vào hàng nhận đòn roi ở cửa nhà máy cùng với họ. Giờ đây khi đang thu mình dễ chịu trong tầng lớp trung lưu, cánh tả Hoa Kỳ coi công nhân da trắng là những kẻ khiêu chiến mù quáng, móng vuốt tâm phúc của đế quốc. Họ mô tả giai cấp lao động rẻ rúng và cầu xin câu trả lời cho việc làm thế nào mà họ lại đi con đường đó. Coi họ là nguồn gốc sâu xa của vấn đề chính trị quốc gia thì thật nực cười. Họ là triệu chứng của vấn đề, và họ có thể làm cho điều đó tồi tệ bởi vì họ dễ bị điều khiển, hoặc bởi vì họ không thể nói về ý tưởng chân thật của một gã say bia. Nhưng họ hoàn toàn không phải là nguyên nhân gốc rễ. Cánh tả nên nhận lấy tâm trạng của họ từ Malcom X, người hiểu rằng phải giáo dục và cung cấp thông tin cho toàn bộ xã hội Phi-Mỹ trước khi xử lý mục tiêu thống nhất. Đó là điều tương tự đối với người lao động nghèo da trắng. Không ai cho rằng việc đó đơn giản.

Đừng cười, mày là đứa kế tiếp! 

Đám tự do trung lưu, hay bảo thủ giàu có trong trường hợp này khó có thể thấu hiểu văn hóa của giai cấp lao động nghèo da trắng. Với khẩu súng, Chúa và khiếu thẩm mỹ ồn ào lỗ mãng (NASCAR và Shania Twain?), tụi tao trông giống loại hạ cấp, phái sinh bốc mùi bia. Sự thật là văn hóa của của giai cấp lao động nghèo da trắng không phái sinh từ bất cứ giai cấp nào khác ở Mỹ. Nó không nằm dưới tầng lớp trung lưu và thượng lưu, mà song song với chúng. Chỉ là có ít cách để thoát khỏi cũng như để gia nhập vào đó. Cư dân của nó được sinh ra ở đây. Cánh tả có giáo dục không thể dễ dàng thâm nhập. Khi họ tiếp cận, đám viện sĩ xã hội tự do giống như những con lạc đà diễu ngang qua cái nhìn mắt châm chọc, nhưng tao chưa bao giờ gặp ai thừa nhận điều đó, hay thậm chí biết rằng theo dõi không nhất thiết là phải hiểu. Hệ quả là tụi tao thấy rất nhiều sách/nghiên cứu tập trung vào nhóm dân tộc thiểu số, nhưng rất ít đáng tin cậy để bảo vệ những người bản địa lớn lên trong nghèo khó. Đối với tao, không thể thuyết phục và đáng tin, tao chỉ là một gã châm biếm lỗ mãng đầy định kiến từ Winchester, Virginia, hay gọi cách khác là “xóm cặc”

Mặc dù cái chỗ mà tao đang ngồi và viết về nó, có thể là hàng ngàn nơi khác trên khắp nước Mỹ. Một thế giới song song được hệ thống Hoa Kỳ tạo ra, nơi đẳng cấp và sự tự tin được đánh giá qua thứ mà một kẻ có thể tiêu dùng hay không thể tiêu dùng, giáo dục và dĩ nhiên là giai cấp mà từ đó hắn được sinh ra. Sự khác biệt giữa chúng ta được định sẵn từ bẩm sinh và những quy định tàn bạo. Ví dụ, rất ít người Mỹ trung lưu ngày nay bán tạp chí ở góc phố vào lúc 12 tuổi để kiếm tiền may đồng phục trường học hay vác than tới lò sưởi phòng khách bẩn thỉu vào mùa đông. Tao thì đã làm cả hai. Họ không bao giờ ngồi ăn bữa chính với café và buôn chuyện tào lao sau những giờ lạnh giá ở góc phố. Nếu điều này nghe giống như chuyện kể nức nở về thời kỳ Đại Suy Thoái, thì hãy để tao nói cho mà biết, đó là vào khoảng năm 1959-1962. Ngay bây giờ, tao có thể thấy hàng trăm người trong cộng đồng đang làm việc tương tự, hay một số đứa trẻ vẫn làm vậy (thường là đám trẻ Latin). 

Quan điểm của tao là luôn có rất nhiều đứa khốn kiếp không biết gì về con cái của giai cấp lao động, cho dù là những người Mỹ may mắn có thừa nhận nỗ lực của tụi tao hay không. Nhưng họ phải thừa nhận. Mày thấy đấy, nó kiểu như: Khi hệ thống nhẫn tâm của Hoa Kỳ đã biến hết tụi tao thành những xác sống nốc bia dãi nhớt lòng thòng trong các trại lao động khổ sai kiểu Mỹ thì mày sẽ là đứa kế tiếp. 

Tất cả đều yêu mến Đạt Lai Lạt Ma, nhưng không ai yêu mến cái thằng khốn khổ này! 

Không có gì đáng ngạc nhiên khi đám tự do không được tin cậy. Không có gì đáng ngạc nhiên khi một gã hề nghiện ma túy như Limbaugh có thể được gọi là thượng lưu tự do và dính chặt lấy họ. Theo quan điểm của tụi tao, nếu không ngập trong hóa đơn của bác sĩ đến đầu gối và phải cầu nguyện để nhà máy địa phương rẻ rách của Styrofoam không cắt ca làm việc thứ hai, thì mày là thượng lưu. Đám tự do trung lưu có giáo dục (và giáo dục là sự khác biệt chủ yếu giữa những gã da trắng bên lề xã hội với mày) không đến thăm những cộng đồng kiểu tụi tao, ngay cả khi cùng trong một thị trấn. Họ uống ở những quán bar đẹp hơn, đến nhà thờ đẹp hơn và hầu hết trong đời tụ tập trong những khu vực tách biệt của đất nước, chủ yếu là đô thị. Hệ quả là đám tự do gần gũi hơn với những vấn đề xã hội của người nhập cư, hay cảnh ngộ khốn khổ của Tây Tạng, hơn là vụ mùa bội thu của người lao động bản địa lớn lên ở nông thôn, những người đang tô điểm cho những thị trấn như Winchester. Người Mỹ tự do yêu mến Đạt Lai Lạt Ma nhưng ghê tởm cuộc sống ở miền quê của những gã ăn thùng uống chậu và những gã thợ hàn chì diễn trò. Không thể nói là tao trách mắng toàn bộ bọn họ, nhưng đó là lý do tại sao Chúa tạo ra bia. Để làm cho cuộc sống hấp dẫn hơn, hay ít nhất là có thể tiêu hóa được.

Bất kể trường hợp này ra sao, giúp đỡ người lao động nghèo không phải là việc viết một nghiên cứu khoa học được tài trợ bộn tiền khác về họ. Điều đó chỉ đơn giản là phục vụ một trường đại học tự đào tạo của tầng lớp trung lưu. Mặc dù đó là nguyên nhân tạo ra tầng lớp lao động nghèo da trắng khốn khổ mà những gã trung lưu có giáo dục lớn lên trên những bãi cỏ xanh rì ở khu ngoại ô nhắc tới. Tuy được học và có ý định tốt, nhưng họ không được trang bị để thấu hiểu hoàn toàn ý nghĩa của trại lao động khổ sai mới của Mỹ - hay quá già cho vấn đề đó. Họ không thể hiểu được một sự nghiệp chỉ biết đến việc moi ruột gà ở trại gia cầm địa phương trong cuộc đời của những người khác (Giả định là lò mổ đó không bị chuyển ra nước ngoài). Giai cấp lao động bẩm sinh mang những giá trị đạo đức tinh thần chỉ có thể hiểu được khi trải nghiệm chúng. Điều đó quay trở lại với sự tin cậy.

Cục thống kê dân số lưu giữ nhưng con số về người lao động nghèo. Các trường đại học nghiên cứu và các nhà kinh tế đọc liến thoắng những bản thống kê. Nếu chỉ cần nghiên cứu và con số là có thể giải quyết vấn đề người lao động nghèo khổ thì thanh toán séc ăn cắp sẽ không phải là ngành nhượng quyền nóng nhất nước và Manpower sẽ không phải là chủ lao động lớn nhất của chúng ta. Đúng như vậy, nếu những con ễnh ương có cánh thì chúng sẽ không bị ngã dập mông. Duy lý và khoa khọc xã hội không thể giải quyết nó, cũng như con số không thể mô tả linh hồn và cá tính của con người. Cũng giống như những gã bốc mùi gạt tàn thuốc lá trong hàng người chờ ở lối ra, đọc ngấu nghiến một thùng carton của Little Debbies ở chỗ ngồi và cầu Chúa Jesus về bất cứ thứ thường nhật nhỏ mọn đáng thương chết tiệt nào đó (Nếu phần cuối không đáng chú ý thì mày đã chứng minh quan điểm của tao về sự rạn nứt tự do thế tục.)

Một sự khởi đầu tốt để hàn gắn sự rạn nứt đó có thể là: lần tới khi ai đó ở cánh tả đụng mặt những gã có vẻ là tự kinh doanh, ngoan cố, bị ám ảnh bởi chúa, thì họ có thể khai mạc phiên phán xử, hiểu tình hình phức tạp của họ, bước tới và nói, “Người anh em, tôi có thể giúp anh một tay không?” Chắc chắn điều đó sẽ làm cho những bóng ma như như Joe Hill, Franklin Roosevelt hay Mohandas Gandhi mỉm cười.

Nhiều thứ tào lao hơn giá trị

Trước khi tao nhận được câu hỏi đặc biệt hơn, “Mày nghĩ đám tự do trung lưu phải làm quái quỷ gì?”. Tao sẽ trả lời nó. TỔ CHỨC! Chấm dứt bỏ phiếu cho một đám trời đánh thánh đâm có tên là Đảng Dân Chủ và TỔ CHỨC! – TỔ CHỨC! Chấm dứt đùa cợt bản thân là Đế Quốc sẽ bảo vệ mày một cách chuyên nghiệp cũng như bán chuyên nghiệp và TỔ CHỨC! Hãy dành thời gian cho ghế băng nhà thời Pentecostal hay tham gia một hội bia cổ xanh và TỔ CHỨC! Hãy gia nhập câu lạc bộ Elks và TỔ CHỨC! Hãy tỉnh ra rằng không có bất cứ đảng nào ở Hoa Kỳ đại diện cho bất cứ thứ gì ngoài lợi ích doanh nghiệp và TỔ CHỨC! Hãy khởi đầu trong cộng đồng da trắng yếu đuối lén lút của mày và TỔ CHỨC! Gõ những cánh cửa và TỔ CHỨC! Lay chuyển thiên đường, trái đất, trái tim, tinh thần và TỔ CHỨC! Nếu có đủ những người làm điều đó, đám thượng lưu chính trị và doanh nghiệp sẽ sợ đến tè ra quần và đánh gục mày luôn như chúng từng làm ở Miami và Seattle. Nhưng ít nhất mày sẽ được viết trong lịch sử như một kẻ cao quý. Ngay bây giờ. Tao loại nó khỏi hệ thống của tao. Hãy coi tất cả những câu nói hay những lời khốn khiếp về Hoa Kỳ ngày nay có ý nghĩa chính trị và phù hợp cuộc bầu cử xảo trá 2004, hãy nói về những giận dữ chính trị và “vấn đề giá trị” được thảo luận nhiều của giai cấp lao động tự kinh doanh cho đến nay vẫn chưa có mặt mũi gì. Hãy nói điều gì đó. Tao vừa cầu nguyện vừa tránh đánh cú chót với những người đó và tao KHÔNG xem những giận dữ được quảng cáo rùm beng về những giá trị thường được trích dẫn nhất, như kiểm soát súng, phá thai, hay hôn nhân đồng tính … Thật sự, đó là vấn đề mà những gã chuyên trích dẫn Kinh Thánh cứng nhắc và những lãnh đạo chính thống đã nhai đi nhai lại suốt nhiều thập kỷ. Các chính khách yêu thích chuyện tào lao đó. Có vẻ như đám truyền thông theo đuôi cũng vậy. Nhưng ở trung tâm đặc biệt này, tao tránh xa khỏi những gã chính thống, tao chỉ đơn giản không nhìn nỗi ám ảnh con người rộng như các thiết chế tự do tuyên bố. Khốn kiếp, tụi tao có ba gã đồng tính và ít nhất một nàng đồng tính hay tụ bạ ở quán rượu lỗ mãng, họ đều có quyền uống, khóc và tán nhảm như bất cứ ai khác. Khi bạn Pootie rậm lông nặng 120 kg của tao nói: “Đồ chết tiệt, tao có rất nhiều điểm chung với đồng tính nữ!” (Mặc dù vậy. tao thừa nhận rằng hôn nhân đồng tính là hơi quá nhiều để chấp nhận trong cuộc bầu cử năm 2004 đối với một số người lao động nghèo. Đó là sự nhìn nhận.). Những người lao động nghèo ở thị trấn của tao giận dữ, nhưng không đặc biệt giận dữ với Cái Nhìn Kỳ Quặc Đối Với Gã Bình Thường, hay những bào thai vô hình. Tao nghĩ sự giận dữ của người lao động ở cấp độ căn bản hơn và đó là về: đẳng cấp và trạng thái của công dân trong xã hội chúng ta. Tao nghĩ đó là về sự tổn thương hàng ngày mà chủ doanh nghiệp, chính quyền, quốc gia, bang và địa phương, cũng như những nghiên cứu sinh Mỹ có giáo dục hơn, các tiến sĩ, luật sư, nhà báo, học giả và những gã lặng lẽ khinh bỉ người lao động với cách hành xử thiếu văn hóa mà họ buộc giai cấp lao động phải gánh chịu. 

Tao nghĩ giai cấp lao động cũng giận dữ về những thứ khác nữa: 

Đó là về sự sỉ nhục mà các ông chủ và các quản lý bắt họ phải chịu đựng – họ đã bị tha hóa thành một đơn vị sản xuất không có mặt mũi gì trong nền kinh tế toàn cầu vinh quang của chúng ta. 

Đó là về việc những tầng lớp có học và những tầng lớp thượng lưu có chuyên môn tương tự khác, chính trị và kinh doanh lảng tránh rằng Hoa Kỳ không thừa nhận họ là thượng lưu. 

Đó là những ưu tiên của ai đó trở nên ít đáng kể và bình thường hơn của những người đầy quyền lực đang quyết định cuộc sống của chúng ta. 

Đó là về việc hàng ngày phải chịu đựng sự thiếu tôn trọng nhân bản của chính quyền, và những cơ quan thể chế khác, ngoại trừ nhà thờ. 

Đó là khi làm việc ở Wal-Mart hay Home Depot hoặc Arby phải đeo một thẻ ghi tên mà không có họ. Mày chỉ là Melanie hay Bobby, ở đó để bợ đít quản lý hoặc tìm kiếm một công việc tạm bợ khác. 

Đó là về nỗ lực sống cuộc đời theo cách duy nhất mày biết bởi vì mày được nuôi dạy theo cách đó. Nhưng đôi khi quy tắc thay đổi đối với mày. 

Đó là về nỗ lực duy trì thứ giống như phẩm giá bề ngoài, khi cả mày và hàng xóm đang sống từ ngày thanh toán này tới ngày thanh toán khác, tuy không ai thừa nhận cả. 

Đó là về những chuyện hoang đường của truyền thông mà mày không bao giờ thấy trong gia đình: quỹ đại học dành sẵn cho lũ trẻ, danh mục cổ phiếu, nhà nghỉ cuối tuần … 

Đó là sự căng thẳng không được thừa nhận của cả hai vợ chồng do làm việc nhiều hơn nhưng chỉ đủ trả tiền điện của năm 1976.

Phải, đó là về giá trị. Đó là về giá trị mà tụi tao đã từng bỏ rơi như một con người – như phẩm giá, giáo dục và cơ hội cho mọi người. Và đó là về sự giận dữ của giai cấp lao động bị đánh lạc hướng khỏi những gì ít nhất họ thấu hiểu. Mày. Và tao. Theo cách này, người lao động mà tao đang nói tới không hoàn toàn khổ sở với cuộc sống, chỉ là giận dữ (và buộc phải giận dữ hơn khi chính quyền Bush cuối cùng cũng đẩy kinh tế quốc gia xuống mép vực thẳm). Họ chỉ đơn giản phản kháng lại sự thay đổi bởi vì nhiều thập kỷ thay đổi đã luôn đem tới những thứ tồi tệ - ngày 11 tháng 9, khủng bố, thuê ngoài … luôn là những điều xấu, tiến thẳng về phía tồi tệ.

Tỉnh dậy, hỡi những kẻ tự do ương bướng!

Một bình luận khốn kiếp về giai cấp lao động Mỹ mà tao phải trả lời, viết về và thể hiện nói chung cho các nhóm tự do thấy sự tồn tại của 250 triệu người lao động Mỹ, có một chiếc xe hơi Mỹ cố định, lát đường phố của họ và ngồi chờ bên bàn ăn từng ngày. Như một biên tập viên sách tự do cao quý và tử tế Thành Phố New York đã nói với tao, “Nhìn từ đây thì người của mày trông giống một dạng ngoại lai, như thể tụi mày đến từ Yemen hay gì đó.” Ôi! 

Đây không phải là nhiếc móc người Mỹ tự do có giáo dục – tốt thôi, OK, một chút. Nhưng nếu người Mỹ tự do có gì đó quá tự mãn thì giai cấp lao động đồng đạo của tao đã hết sức dại dột ngu xuẩn để bị dắt mũi dễ dàng bởi những gã như Karl Rove và gã mộ đạo giả danh George Bush. (Pootie khốn kiếp, Saddam KHÔNG tấn công Trung Tâm Thương Mại Thế Giới!). Mặc dù vậy, đám tự do và giai cấp lao động không cần nhau để sống sót trước những gì chắc chắn sẽ tới, thứ được sẽ được mang đến cho chúng ta bởi chính quyền đã từng hứa hẹn với chúng ta là họ sẽ “điều hành đất nước này như một vụ kinh doanh”. Ôi khốn kiếp, phải, họ sẽ làm điều đó. Thế nên cánh tả phải thật sự suy nghĩ mặt đối mặt với những người Mỹ không thấy cần thiết phải chia sẻ mọi ưu tiên của tụi tao, nếu điều đó có thể lại thích hợp. 

Một khi tụi tao bắt đầu nhìn vào khuôn mặt của những phần đang thay đổi trong nước cộng hòa đang suy tàn này, trên hết là cử tri của giai cấp lao động độc lập không thể cắt nghĩa được này không phải không cắt nghĩa được. Chỉ riêng Chúa, đồng tính, súng thì không giải thích được sự ưa chuộng phe bảo thủ trong cuộc bầu cử năm 2004. Đám tự do có bằng đại học và công nhân cổ xanh cần phải bắt đầu phân tách các vấn đề chính sách trọng yếu từ một biểu tượng. Chiến đấu về thực chất, những vấn đề thực tế mà người lao động bình thường có thể cảm nhận và thấy – đưa ra những lời hứa về những thứ có thật. Giống như chăm sóc sức khỏe được đảm bảo chắc chắn và mức lương đủ sống tử tế. Nói và làm. 

Ai, ô hô! Mọi thứ không đơn giản, bởi vì người Mỹ lao động nghèo, cũng giống như phần còn lại trong số chúng ta, đã trở nên đầy sợ sệt, sùng bái quyền lực, dư thừa sự ngớ ngẩn để từ bỏ thứ heroin vô hồn về chủ nghĩa tiêu dùng rẻ tiền … cũng giống như mày … giống như tao. Họ sẽ không bao giờ đến với chúng ta, nên chúng ta phải đến với họ. Điều đó có nghĩa làm việc nhà thờ, việc ở xã và hồ chứa nước tưới, làm bánh nướng bữa sáng Kiwanis, chỗ làm việc của chúng ta và trông lạ chưa kìa! Ngay cả cái bụng dưới bốc mùi bia nhất của nước Mỹ … nơi tầng lớp trung lưu tự do tốt lành sẽ không cho lũ trẻ của họ tới vì sợ rằng điều đó sẽ làm hỏng điểm SAT quý giá nhỏ nhoi của chúng. Một lần nữa, không ai nói điều đó sẽ dễ dàng. Tình anh em. Tình đoàn kết. Lòng trắc ẩn. Quá lý tưởng? Phù phiếm? Có thể. Nhưng nếu những điều này không là mục tiêu đáng giá, thì chả có gì hết.

Đưa đến tất cả những điều đó theo kiểu hòa bình ngăn nắp sẽ là một con điếm. Sự thật khó nhằn đến nỗi tao không định tham gia mấy. Kệ đời. Tao muốn thoát và ngay lập tức có một cuộc khởi nghĩa vũ trang từ sau cuộc bầu cử tháng 11. Nhưng đó là vấn đề khác và gã đang lắng nghe ở Bộ An Ninh Nội Địa có thể ra một cú đòn chớp nhoáng. Viết thư cho tao ở Gitmo [nhà tù ở vịnh Guantanamo], tất cả tụi mày! Hãy đề địa chỉ người gửi là “Joe từ Yemen”.