Friday, November 27, 2015

Mô hình kibbutz của Israel sụp đổ từ những năm 80 của thế kỷ trước

Hiện nay ở Việt Nam người ta có khuynh hướng ca tụng mô hình kibbutz của Israel là mô hình của chủ nghĩa cộng sản với những ưu điểm đáng mơ ước. Mặc dù vậy, mô hình kibbutz thường xuyên bị khủng hoảng và phải được chính quyền Israel cứu trợ. Sau một trăm năm tồn tại mô hình kibbutz đã hoàn toàn thay đổi, vào năm 2010 tờ Haaretz của Israel đã đưa tin như sau:  
Chỉ một phần tư số kibbutz là vẫn tiếp tục hoạt động như là hợp tác xã bình đẳng, trong khi phần còn lại đã bắt đầu trả lương cho các thành viên, một nghiên cứu của Viện Nghiên Cứu Về Kibbutz và Hợp Tác Xã của Đại học Haifa đã cho thấy điều đó. Ngay cả Deganya Aleph, kibbutz đầu tiên của Israel hiện giờ cũng hoạt động theo mô hình tư nhân hóa.
Một khảo sát khác trong năm nay đã cho thấy 70% số thành viên của kibbutz nhận lương tháng ít hơn 7.000 NIS, trong khi 11% nhận lương cao hơn 12.000 NIS. 188 kibbutz (72%) đang được vận hành theo mô hình tư nhân hóa “kibbutz mới”, tức là có các mức lương khác nhau cho các thành viên; 65 kibbutz (25%) do cộng đồng điều hành; 9 kibbutz (3%) được điều hành theo kiểu “tích hợp”. 
  
Đây là điều hiếm được nhắc đến ở Việt Nam, do ở Việt Nam người ta chỉ biết đến  mô hình kibbutz cộng đồng kiểu cũ và không biết gì về khủng hoảng cũng như sự thay đổi của mô hình kibbutz từ những năm 80 của thế kỷ trước.

Cuộc khủng hoảng dẫn đến sự sụp đổ của mô hình kibbutz là vào năm 1985, từ đó đến nay mô hình kibbutz có vẻ như không hồi phục được nữa và bắt đầu đi vào con đường tư bản hóa (tức là thuê lao động). Để hiểu thêm về quá trình sụp đổ của kibbutz xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch chương 6 "Sự sụp đổ năm 1985" trong cuốn sách "The Kibbutz: Awakening From Utopia" (Kibbutz: Thức Dậy Từ Sự Không Tưởng) của Daniel Gavron do nhà xuất bản Rowman&Littlefield phát hành năm 2000. 

Sự sụp đổ năm 1985

Khi Aharon Yadlin, cựu bộ trưởng giáo dục, được kibbutz Hatzerim giải phóng vào tháng 6 năm 1985 để tái hội nhập vào đời sống công cộng trong vai trò tổng thư ký của Liên Minh Kibbutz Thống Nhất (UKM), những người tiền nhiệm cho ông biết rằng đang nắm giữ doanh nghiệp mạnh nhất của nhà nước Israel. UKM là liên minh của kibbutz Meuhab và Ihud, được thành lập vào năm 1980. Với 167 khu định cư, đại diện cho 2/3 số kibbutz của quốc gia. Họ đảm bảo với ông đây là công việc lớn hơn, tốt hơn và ổn định hơn bất cứ công việc nào khác, kể cả so với các ngân hàng.

Mười ngày sau, những người quản lý ngân khố của Liên Minh đến chỗ ông trong hoảng loạn, thốt ra những lời định mệnh “Balas không thể trả lại tiền của chúng ta.” Họ nói tới David Balas, một cố vấn đầu tư, “Quỹ UKM” đã ủy thác cho người này 100 triệu dollar. Đó là thời kỳ lạm phát bùng nổ và những người phụ trách tài chính của UKM cảm thấy có nghĩa vụ phải đảm bảo an toàn cho các quỹ của họ khỏi sự tổn thất giá trị, nhưng họ đã đi quá xa. Một mặt, đó là chuyện bảo vệ tiền trước lạm phát. Mặt khác đó là chuyện tìm kiếm các lợi nhuận phi lý ở những kẻ hở của pháp luật, trong những cái được gọi là “thị trường xám”. Ban đầu các khoản đầu tư chỉ ở quy mô nhỏ, nhưng sau đó khi thu nhập kỳ vọng quay về, quy mô đầu tư được gia tăng. 

Người tiền nhiệm Eli Zamir của ông ở Maagan Michael (một kibbutz liên quan tới Hatzerim mà chúng ta sẽ đề cập tới trong bài này) hồi tưởng lại rất khác.

“Có thể là mười ngày trước khi Aharon biết về Balas,” ông nói.

“Mọi thứ kéo dài sáu tháng và chúng tôi đã kêu đến cảnh sát. Đằng nào cũng vậy, chúng tôi thực tế đã thu hồi được 80% số tiền ủy thác cho Balas.”

Rất đáng phải hỏi rằng tại sao UKM vay một số tiền lớn như vậy. Zamir giải thích rằng vấn đề này liên quan đến việc phe Likud cánh hữu lên nắm quyền vào năm 1977. Sự tiến triển đó là đỉnh điểm trong sự thay đổi đáng chú ý của giá trị và ưu tiên quốc gia, ông tin rằng, mặc dù vậy các lãnh đạo của kibbutz đã không nhận ra vào lúc đó. Họ cho rằng chiến thắng trong bầu cử của Likud là một sự ngẫu nhiên lịch sử và sẽ không kéo dài. Cùng lúc đó, các kibbutz đã lớn lên và phát triển, vì vậy họ cần đến tiền. Quỹ phát triển của UKM đã bắt đầu vay tiền trên quy mô ngoài dự tính. Mặc dù tiền thường được chuyển cho các kibbutz cũng như các hợp tác xã và nhà máy của kibbutz địa phương, đôi khi các khoản vay cũng được đảm bảo, nhưng sự đầu tư thực sự vẫn chưa được cần đến.

Zamir cho biết về việc UKM không biết cách bảo vệ tiền trước lạm phát. Không có ngân hàng nào hữu ích, ngay cả ngân hàng Hapoalim (ngân hàng Công Nhân, lúc đó thuộc về Liên Đoàn Lao Động Histadrut) cũng chỉ cung cấp các biện đảm bảo tiền chống lại lạm phát nhưng không chống lại sự mất giá. Các lãnh đạo UKM viện tới Balas trong sự tuyệt vọng, hy vọng rằng ông ta sẽ là cứu cánh của họ trong cả việc chống lại lạm phát cũng như chống mất giá tiền.

Chỉ hai năm trước khi Liên Minh Kibbutz mất tiền vì khờ dại và đầu cơ vô đạo đức, một số kibbutz và các thiết chế tài chính của họ đã tổn thất lớn khi cổ phiếu tại các ngân hàng chủ chốt của Israel, vốn bị thổi giá, bị mất giá mạnh. Vào lúc đó, chính quyền đã giải cứu họ, cũng như đã cứu thoát hàng ngàn cá nhân người Israel, bằng cách nắm quyền sở hữu các ngân hàng đang gặp rắc rối. 

Vào lúc ấy thì không có nhiều thất bại trong đầu tư bị lên án nhưng sự thật là các kibbutz đều đã đầu tư trên thị trường chứng khoán. Nguyên nhân bổ sung cho sự quan ngại này là những người quản lý tiền của kibbutz đã tiến hành đầu tư mà không được ủy quyền thích hợp. Giờ đây, với “vụ Balas”, rõ ràng là các viên chức tài chính đã không học được gì mà vẫn tiếp tục hoạt động đáng ngờ của họ.

Mặc dù nhiều thành viên kibbutz bị sốc khi họ biết điều gì xảy ra, vụ Balas và tổn thất cổ phiếu ngân hàng chỉ là phần nổi của tảng băng. Nếu chỉ có tiền tổn thất trong đầu tư thì điều đó có thể xử lý tương đối dễ dàng. Tuy vậy, sự mạo hiểm đó là triệu chứng của thứ gì đó nghiêm trọng hơn: Liên Minh Kibbutz - Kibbutz Artzi cũng như UKM và nhiều kibbutz đơn lẻ khác – đã vay tiền trên quy mô lớn mà không có gì đảm bảo là họ có thể trả lại. 

Ban đầu các khoản vay của kibbutz và sự hợp tác của họ như quỹ UKM không kết nối với nhau và khi tỷ lệ lạm phát gia tăng thì họ dễ dàng trả lại chúng. Mặc dù vậy, thói quen đã trở thành sự nghiện ngập và khi ngay cả các khoản vay gắn với chi phí sinh hoạt thì các kibbutz, quỹ của họ, các nhà máy địa phương và hợp tác xã bắt cũng vay mượn. Không có sai lầm nghiêm trọng trong chuyện vay mượn, nếu họ đầu tư vào các chi nhánh nông nghiệp mới, đó sẽ là hành vi hoàn toàn chấp nhận được. Không may mắn là đa số tiền được đầu tư vào các biện pháp để cải thiện mức sống của các thành viên kibbutz. Vào những năm 1970, nhiều kibbutz đã mang con cái về nhà ngủ, một phần lớn số tiền vay mượn được chi ra để mở rộng các căn hộ cá nhân nhằm đáp ứng sự thay đổi này. Các khoản chi tiêu khác là nhà ăn, bể bơi, phòng tập thể thao, nhà hát, sân bóng đá và thư viện.

Vào đầu những năm 1980, lạm phát ở Israel vượt qua mức 400% và có nguy cơ tăng cao hơn. Vào năm 1985, chính quyền giải quyết lạm phát bằng các biện pháp quyết liệt và đưa nó vào tầm kiểm soát. Điều này đạt được bằng cách áp dụng một lần việc giảm giá 15% đồng tiền của Israel và cố định tiền lương cũng như giá cả, trong khi thả nổi lãi suất rất cao. Mặc dù chiến thuật có hiệu quả và tỷ lệ lạm phát giảm nhanh nhưng hàng trăm doanh nghiệp đã phá sản.

Phản ứng đầu tiên của Liên Minh Kibbutz chứa đựng sai lầm cơ bản: Họ yêu cầu ngân hàng giãn nợ. Yêu cầu này sẽ có ý nghĩa nếu như họ có phương tiện để trả nợ trong thời gian dài hơn, nhưng đa phần là họ không có những phương tiện đó. Hơn nữa, khi lãi suất tăng vọt, khoản nợ của kibbutz cộng đồng nhanh chóng tăng lên 5 và 6 tỷ dollar. Họ không có cách nào trả nợ.

Không chỉ có kibbutz trong tình trạng này. Các làng hợp tác xã moshav và nông dân cá thể cũng đối mặt với vấn đề tương tự, cùng với hàng trăm doanh nghiệp nhỏ khắp đất nước, nhưng kibbutz đặc biệt dễ tổn thương, khi họ lạm dụng vốn và không có tài sản thế chấp. Toàn bộ các doanh nghiệp kibbutz đều dựa trên tín dụng. Nhiều doanh nghiệp tư nhân có thể thoát khỏi khủng hoảng do việc đóng băng tiền lương là biện pháp cắt giảm chi tiêu hiệu quả, nhưng kibbutz không trả lương theo nghĩa thông thường. Sự mất giá của tiền đã gia tăng chi phí sinh hoạt của các thành viên, có nghĩa là mức sống của nhiều kibbutz đã giảm mạnh.

Liên Minh Kibbutz có hai thứ thuận lợi: chính quyền không muốn sự sụp đổ hàng loạt của các kibbutz (hay moshavim và các nông dân cá thể), ngân hàng không thu được gì khi tịch biên các tài sản không sinh lợi. Ngân hàng sẽ làm gì với việc thu hoạch sữa thua lỗ, một nhà ăn đang xây dở, hay một nhà máy đang gặp khó khăn? Hơn nữa, ngân hàng cũng có trách nhiệm về những gì đã xảy ra. Nếu như các kibbutz đã hành động cực kỳ ngu ngốc thì sự ngu ngốc đó đã được ngân hàng dung túng. Các kibbutz không trả nợ; ngân hàng đã tiếp tục gia hạn cho họ. Do vậy, con đường duy nhất để thoát khỏi sự điên rồ này là thỏa thuận ba bên giữa chính quyền, ngân hàng và kibbutz.

Tiến sĩ Shimon Ravid, hiện nay là giám đốc điều hành hỗn hợp của ngân hàng Hapoalim, ngân hàng lớn nhất của Israel, từng là giám đốc tài chính của Cục Do Thái, chịu trách nhiệm về định cư nông nghiệp ở Israel, khi quy mô của cuộc khủng hoảng kibbutz (cũng như các khu định cư khác) trở nên rõ rệt. Shimon Peres là thủ tướng của Israel, lãnh đạo của chính quyền thống nhất quốc gia, đã áp đặt gói giải pháp kinh tế chống lạm phát, ông ta bổ nhiệm Ravid làm cố vấn đặc biệt về chương trình khôi phục lĩnh vực nông nghiệp.

Vào năm 1986, cuộc khủng hoảng vẫn còn trong trứng nước và chỉ có các hợp tác xã moshav và 36 kibbutz đối mặt với nợ nần không thể thanh toán.

Ravid đưa ra một gói giải pháp kết hợp giữa xóa nợ có cân nhắc và giãn nợ. Theo các điều khoản của “Kế Hoạch Ravid”, chính quyền sẽ cung cấp cho ngân hàng khoản tín dụng cần thiết nhưng không bao hàm một nghĩa vụ tài chính trực tiếp. Vào lúc mà Ravid trình bày đề xuất, một cuộc bầu cử đã diễn ra, Yizhak Shamir của đảng Likud cánh hữu trở thành thủ tướng, nhưng ông ta và bộ trưởng bộ tài chính vẫn ủng hộ kế hoạch. Không may mắn cho các kibbutz là một số lượng lớn đảng viên của Likud thì không. 

Mặc dù chính quyền, ngân hàng và kibbutz cũng như moshav đồng ý với gói giải pháp, một nhóm thành viên Likud của Knesset, quốc hội Israel, đã bác bỏ Kế Hoạch Ravid tại Ủy Ban Tài Chính của Knesset. Bất chấp sự chấp thuận của chính phủ, một số thành viên ủy ban đã nói thẳng với Ravid rằng họ không quan tâm tới việc bảo lãnh cho các khu định cư, họ vốn coi đó là một phần thiết chế của đảng Lao Động. Do vậy, Kế Hoạch Ravid trở thành dĩ vãng, một kế hoạch giải cứu tham vọng hơn vào ba năm sau được đặt ra. Ravid vẫn tiếp tục thuyết phục mọi người rằng kế hoạch của ông ta sẽ có hiệu quả và chi phí vào lúc đó sẽ là tương đối thấp. Ông khẳng định rằng kế hoạch đã bị bác bỏ vì những lý do chính trị nhỏ bé. Khi kế hoạch giải cứu được triển khai, nó khiến đất nước tiêu tốn rất nhiều tiền. 

Tiến sĩ Ariel Halperin, người chịu trách nhiệm chính về kế hoạch khôi phục, Thỏa Thuận Kibbutz 1989, có quan điểm triết lý hơn. Cần phải ghi nhận rằng Thỏa Thuận đã được bổ sung hai lần – vào năm 1996 và năm 1999 – ông cho rằng cuộc khủng hoảng lớn và phức tạp lớn tới mức chính quyền, ngân hàng và kibbutz cần thời gian để hiểu rõ các khuynh hướng của nó. Theo ý kiến của ông ta, đó là vấn đề phải giải quyết theo nhiều bước.

Trong khi đó vấn đề nợ nần của moshav được giải quyết bằng lập pháp, nhưng nợ của kibbutz thì vừa lớn hơn lại vừa phức tạp hơn. Vấn đề này được giải quyết (như Ravid trước đây đã đề xuất) bằng thỏa thuận tự nguyện giữa chính quyền, ngân hàng và các kibbutz. Tuy vậy, cho đến lúc đó vấn đề vẫn quá phức tạp để xử lý. Nợ tập thể đã gia tăng mạnh và nhiều kibbutz bị ảnh hưởng.

Một ủy ban thỏa thuận kibbutz độc lập được chính quyền, ngân hàng và kibbutz thiết lập để giám sát thỏa thuận, được một doanh nghiệp phi lợi nhuận hỗ trợ, với một nhóm các nhà kinh tế, kế toán và luật sư. Đó là nhóm đã tạo ra Thỏa Thuận Kibbutz năm 1989, hiện giờ tất cả các kibbutz của quốc gia đều tham gia – không chỉ 36 kibbutz trước kia. Thỏa Thuận Kibbutz là một khuôn khổ cho hàng trăm thỏa thuận khác. Ủy ban chịu trách nhiệm về các đầu vào kinh tế, nhiều giao dịch tài chính cũng như các chương trình khôi phục riêng lẻ của các kibbutz khác nhau. Ủy ban cũng đóng vai trò là trọng tài khi mâu thuẫn xuất hiện giữa ba bên. 

Cả Ravid và Halperin đều nhấn mạnh rằng sự phức tạp của vấn đề là kết quả của hệ thống đảm bảo qua lại không được định trước, hệ thống chi phối các hoạt động kinh tế của kibbutz. Hệ thống bắt nguồn từ những năm 1920 và 1930, khi kinh tế Do Thái được xây dựng chủ yếu bởi phong trào lao động ở Palestine.

Vào năm 1920, Liên đoàn Lao động Do Thái Histadrut được các nhóm và đảng lao động tồn tại hồi đó thành lập, bao gồm cả các đại diện của kibbutz, để thiết lập một “Cộng Đồng Công Nhân Do Thái” ở Palestine. Ban đầu nó là một tổ chức điều phối của các hội đồng công nhân và công đoàn, sau đó nhanh chóng vươn ra với phong trào thanh niên, câu lạc bộ thể thao, chi nhánh tiếp nhận người nhập cư và trao đổi lao động. Trước khi Histadrut tham gia vào an sinh xã hội rất lâu, họ đã có quỹ ốm đau Kupat Holim, do các công nhân nông nghiệp thành lập, cũng như các quỹ hưu trí, thất nghiệp, tàn tật, góa bụa và mồ côi.

Tại đại hội thứ hai vào năm 1923, Histadrut thiết lập Hevrat Ovdim (Doanh Nghiệp Công Nhân) để tổ chức các hoạt động kinh tế của cộng đồng công nhân dựa trên sự hỗ trợ qua lại và trách nhiệm. Mọi thành viên của Histadrut cũng là thành viên của Hevrat Ovdim, sở hữu toàn bộ các thể chế hợp tác và tài chính của Histadrut.

Trong số các doanh nghiệp của Histadrut có ngân hàng Hapoalim (Ngân Hàng Công Nhân); công ty xây dựng Solely Boneh, thành lập Koor Industries cho các nhà máy của họ; công ty nhà ở Shikun Ovdim; công ty bảo hiểm Sneh; hiệp hội marketing Tnuva; hợp tác xã mua sắm Hamashbir. Vận tải công cộng được các hợp tác xã xe bus Dan, Egged và Mekasher đảm nhiệm.

Tất cả các công nhân nông nghiệp tham gia công đoàn, bao gồm cả các thành viên kibbutz, là thành viên của chi nhánh Hevrat Ovdim, Nir Shitufi, vốn hướng tới mục đích khuyến khích nông nghiệp hợp tác, hiện đại hóa nông nghiệp, đào tạo công nhân mới cũng như mở rộng hỗ trợ tài chính cho nông dân. Trong quá trình phát triển, Nir Shituri trở thành công ty mẹ, đại diện cho kibbutz và moshavim trong việc cho thuê đất và vay nợ, tránh các thỏa thuận đơn lẻ. Trong nhiều năm, Histadrut và các doanh nghiệp của nó đã trở thành sức mạnh kinh tế thống trị ở nhà nước Do Thái đang trỗi dậy. 

Tuy vậy, những cánh tay tài chính của phong trào Zionist – Cục Do Thái cho Palestine, Quỹ Quốc Gia Do Thái, Quỹ Foundation – không phải là một phần của Histadrut, chúng hợp tác với nhau và dần dần được điều hành bởi cùng một đội ngũ nhân sự. Tổng thư ký của Histadrut, David Ben-Gurion, từng được bầu làm chủ tịch của Cục Do Thái và trở thành thủ tướng đầu tiên của Israel. Do vậy, Cục Do Thái và Histadrut là những phôi thai gắn kết chặt chẽ với nhau, mà từ đó nhà nước sinh ra, mặc dù chúng tiếp tục tồn tại sau khi nhà nước được thiết lập. Do vậy, liên minh do đảng Lao Động Mapai của Ben-Gurion lãnh đạo đã điều hành Israel trong suốt ba thập kỷ đầu tiên.

Đất nước Israel bị một nền kinh tế lao động thống trị, với khuynh hướng hợp tác xã mạnh mẽ. Mặc dù các kibbutz luôn chỉ là thiểu số trong xã hội, hầu hết chỉ chiếm 3% dân số, song chúng hoạt động trong môi trường cực kỳ thuận lợi. Vì lý do đó chúng đã thịnh vượng; vì lý do đó chúng được hỗ trợ bất cứ khi nào có vấn đề xuất hiện; vì lý do đó mà cuộc bầu cử năm 1977 là một cú sốc đối với Liên Minh Kibbutz. 

Cũng phải nói một cách công bằng rằng năm 1977 đã trở thành đỉnh cao của một quá trình trong xã hội Israel, xác nhận sự thay đổi các quan niệm và giá trị về kinh tế và xã hội của Israel. Quá trình này được đảng Lao Động khởi đầu vào những năm 1960, khi họ thúc đẩy công nghiệp hóa và khuyến khích đầu tư tư nhân. Khi đảng Lao Động quay lại nắm quyền sau đó, bất kể là dưới dạng liên minh thống nhất quốc gia hay tự bản thân họ, họ là đảng theo đuổi “thị trường tự do” và chỉ sẵn sàng hỗ trợ kibbutz hơn đảng Likud. Từ lâu, hợp tác xã không còn là điều tốt đẹp. Kibbutz không thể kêu gọi tình cảm từ lý tưởng và Ủy Ban Thỏa Thuận Kibbutz xử lý cuộc khủng hoảng đúng theo khái niệm kinh doanh. 

Ưu tiên thứ nhất của ủy ban là đối đầu với hệ thống bảo lãnh qua lại, vốn không thích hợp vào những năm 1980 và theo nhiều cách bắt nguồn từ những năm 1930. Tất các các kibbutz của Liên Minh Kibbutz Thống Nhất đều là thành viên của Quỹ UKM. liên Minh Kibbutz Artzi có quỹ riêng. Bên cạnh đó còn có các doanh nghiệp kibbutz địa phương, bao gồm các nhà máy, lò mổ, nhà máy đông lạnh, doanh nghiệp chế biến thực phẩm và các kho hàng. Các doanh nghiệp địa phương và quốc gia kết nối với nhau và với từng kibbutz riêng biệt bằng một hệ thống bảo lãnh qua lại, có nghĩa là bên cạnh khoản nọ của bản thân, mọi kibbutz đều có nghĩa vụ thanh toán khoản nợ tập thể khổng lồ. 

Ủy ban tìm cách chặn “con bạch tuộc” này lại, cho phép mỗi kibbutz tự xử lý vấn đề kinh tế của bản thân. Sau một thời gian, điều đó thành công, rõ ràng là thỏa thuận năm 1989 có thể không được triển khai. 130 kibbutz – hơn một nửa – đã không thể trả các khoản nợ đã được giãn. Vào năm 1996, một Thỏa Thuận Kibbutz bổ sung được đàm phán và vào năm 1999 một điều khoản bổ sung đã được thông qua.

Thỏa thuận sau này đã đặt ra vấn đề về đất đai trong thỏa thuận, khai thác thực tế là 55 kibbutz đang nắm giữ những vùng đất có giá trị ở trung tâm của đất nước. Nó cho phép sự xóa nợ cho các kibbutz nằm ở khu vực hẻo lánh, giãn nợ cho các kibbutz nằm ở khu vực trung tâm để “bán lại” một phần đất đai của họ cho chính quyền, đất đai đó sẽ dùng để bù đắp cho các ngân hàng.

Thỏa thuận về đất đai đã gây ra xung đột đáng kể ở Israel, do hầu hết các kibbutz thuê đất đai quốc gia và thỏa thuận thuê đất của họ quy định rằng nếu họ không cần đất đai cho nông nghiệp hay công nghiệp thì họ phải trả lại đất đai cho quốc gia. 

Nhiều tin tức xuất hiện trên truyền thông về việc “cướp bóc đất đai quốc gia”. Mặc dù vậy, ủy ban phủ nhận rằng đề xuất của họ là quá ưu ái đối với các kibbutz. Ủy ban đã quyết định công nhận quyền của các kibbutz, chiếm hữu đất đai trong thời hạn từ 40 đến 60 năm và đưa ra một nhượng bộ. Đáng chú ý là vấn đề có thể được đưa ra tòa án để xem xét xem việc chiếm hữu của kibbutz có được coi là trao quyền cho họ không, nhưng không có bất cứ người cáo buộc nào thử làm như vậy. Cũng cần phải chỉ ra rằng một số kibbutz và moshav – trong đó có Givat Brenner mà chúng ta đã nhắc tới – mua đất bằng tiền của họ trước khi quốc gia Israel được thành lập và sau đó đã hiến đất cho Quỹ Quốc Gia Do Thái. Số đất đai đó trở thành đất đai của nhà nước. Trong trường hợp của Givat Brenner thì dĩ nhiên là từ cướp bóc trở thành lố bịch. 

Mặc dù còn quá sớm để nói rằng cuộc khủng hoảng nợ của kibbutz đã qua đi, song chúng ta có thể nói rằng sau các thỏa thuận 1989, 1996 và 1999, nó đã được kiểm soát. Một số kibbutz vẫn tiếp tục có vấn đề tài chính nghiêm trọng, nhưng rõ ràng là chúng sẽ được xử lý cùng với thời gian. Tuy vậy, vết thương đã tàn phá lối sống kibbutz trong hơn 15 năm qua có thể không hàn gắn được. Ở nhiều kibbutz, sự tin tưởng giữa kibbutz và các thành viên riêng lẻ hầu như đã đổ vỡ. Ngay cả khi không có cuộc khủng hoảng, kibbutz chắc chắn cũng nằm trong một quá trình thay đổi, nhưng cuộc khủng hoảng đã mang tới một động lực lớn cho quá trình đó, khiến cho kibbutz mất kiểm soát và gây ra những hoài nghi chết chóc về sự sống sót của kibbutz trong vai trò một thể chế.

Ở các kibbutz và quy mô quốc gia, một cuộc tranh luận gay gắt đã nổ ra. Có nhiều người tin rằng kibbutz là nạn nhân của các vấn đề kinh tế của Israel. Họ lập luận rằng những chính sách khắc nghiệt được áp dụng để kìm hãm lạm phát năm 1980 đã phá vỡ các kibbutz. Có nhiều người coi cuộc khủng hoảng nợ của kibbutz là “giả tưởng” xuất phát từ sự phi điều tiết ngân hàng đối với lãi suất cao bất hợp pháp. Đây là điều không thể chứng minh được và thậm chí những sự cáo buộc đó có chút ít sự thật nào thì kibbutz phải chịu trách nhiệm về việc không nhận thức được tình hình lúc đó. Ít nhất thì họ cũng phải chịu trách nhiệm về công việc kế toán cẩu thả.

Đối với Aharon Yadlin, cựu chủ nhiệm văn phòng chính phủ và là thành viên của một kibbutz thịnh vượng, câu trả lời rất đơn giản: Người quản lý tiền của kibbutz phải bị lên án vì đã đưa đa số các kibbutz đến bờ vực sụp đổ. Mặc dù Yadlin không có ý định trở thành chuyên gia kinh tế, ông ta đã trích dẫn ví dụ về kibbutz của mình, Hatzerim, vẫn tiếp tục đầy tin tưởng vào các nguyên tắc bình đẳng, không bao giờ vay nợ, không bao giờ thuê lao động từ bên ngoài và mong đợi các thành viên làm việc chăm chỉ. Ông ta khẳng định Hartzerim là bằng chứng tích cực cho thấy hệ thống kibbutz có hiệu quả. 

Một ví dụ cực đoan khác là Israel Oz, quan chức cao cấp của bộ tài chính thời đó, người đã tham gia soạn thảo Thỏa Thuận Kibbutz theo lệnh của chính quyền. Oz coi kibbutz là “một sự hoang tưởng về kinh tế” chỉ có thể sống sót chừng nào còn được hỗ trợ. Ông ta khẳng định, ngay khi kibbutz xuất hiện trong thế giới thực thì 80 đến 90% số chúng không thể chi trả cho lối sống của chúng. Ông ta khinh rẻ những người tin tưởng như Yadlin, những người cho rằng kibbutz truyền thống có thể sống sót và thịnh vượng.

“Có bao nhiêu Hatzerim ở đây?” ông ta hỏi. “Thậm chí không đến một tá!” Hệ thống dựa trên sự phụ thuộc, Oz tuyên bố. Các thành viên của kibbutz hoàn toàn phụ thuộc vào kibbutz. Họ thậm chí không trông nom con cái. Họ không chịu trách nhiệm về đời sống hàng ngày và ra quyết định giống như mọi người khác. Mọi thứ đều được các thể chế của kibbutz làm cho họ. Mặc dù Oz thừa nhận mọi xã hội đều phải trợ cấp cho nông nghiệp song ông ta phân biệt giữa hỗ trợ một nông dân cá thể với “chi trả cho một nhà trẻ em và nhà ăn tập thể, thứ tiêu tốn một khoản tiền khủng khiếp chỉ để sưởi ấm trong mùa đông hay chạy máy điều hòa nhiệt độ vào mùa hè.”

Kibbutz là công cụ hữu hiệu để thử nghiệm, thiết lập biên giới và xây dựng một quốc gia mới, Oz nói, nhưng nó không bao giờ là lối sống khả thi trong các điều kiện bình thường. Ông ta hiện là nhà tư vấn, cố vấn cho các kibbutz về sự thay đổi lớn trong cấu trúc kinh tế của họ, về vấn đề phân bổ tài sản cho các thành viên và cấu trúc tiền lương theo nguyên lý “tặng thưởng cho nỗ lực”.

Thực tế cho thấy cả Yadlin và Oz đều quá trớn. Trong khi chỉ có rất ít kibbutz là giàu có như Hatzerim, khoảng 50 kibbutz thành công cho thấy hệ thống có hiệu quả. Cùng lúc đó, hơn hai trăm kibbutz ở nhiều cấp độ khủng hoảng khác nhau cho thấy có sai lầm nghiêm trọng. Hầu hết các thành viên kibbutz chín chắn đều thừa nhận rằng kibbutz, đã tồn tại trong một thời đại khác, phải thay đổi một cách thích hợp nếu như chúng muốn sống sót trong thế giới hiện đại. 

Chủ ngân hàng Shimon Ravid không chuẩn bị để xóa sổ kibbutz trong vai trò hệ thống tổ chức kinh tế. Ông đồng ý rằng ý tưởng ban đầu của kibbutz Hameuhad vào những năm 1920 về việc tạo ra quốc gia Do Thái mới như là một kibbutz lớn là phi thực tế, do lối sống kibbutz không phù hợp với đa số. Ông cho rằng, điều này không có nghĩa là các đơn vị thiểu số dựa trên nguyên tắc cộng đồng không thể tồn tại. Các kibbutz đã tồn tại suốt hơn một nửa thế kỷ. Đó là khu vực nông nghiệp hiệu quả nhất của Israel và cũng hoạt động hiệu quả hơn trung bình trong công nghiệp.

Theo quan điểm của Ravid, cấu trúc kibbutz rất phù hợp với công nghệ cao, nhưng các liên minh đã không may mắt khi đạt đến đỉnh cao trong “thời đại plastic” vào những năm 1960. Khi thời kỳ công nghệ cao đến vào những năm 1980, hầu hết các kibbutz không còn năng lượng và tài nguyên để chiếm lĩnh công nghệ cao nữa. Cuộc khủng hoảng của những năm 1980s khiến cho các thành viên của kibbutz không hài lòng và phá hủy những thứ cho đến nay trở thành các năng lực đáng giá đối với sự thích nghi. Ravid đồng ý rằng sự thay đổi nghiêm túc trong hệ thống sẽ rất cần thiết, nhưng nếu không có khủng hoảng kinh tế, chúng sẽ được triển khai theo một cách có trật tự hơn.

Trả lời những cáo buộc rằng kibbutz luôn được các tổ chức định cư và chính quyền hỗ trợ, Ravid ghi nhận rằng mọi quốc gia đều phải trợ cấp cho khu vực nông thôn: Hoa Kỳ chi hàng tỷ dollar trợ cấp cho nông nghiệp; Chính quyền Na-uy đổ tiền vào các khu vực miền bắc; Người Đức hỗ trợ cho các vườn nho dọc bên bờ sông Rhein, ngay cả khi chúng không bao giờ trở nên cạnh tranh. 

Ravid nói, “Câu hỏi căn bản là có phải anh muốn chỉ có các thành phố với vùng ngoại vi bị bỏ mặc, hay anh muốn duy trì một vùng nông thôn lành mạnh có thể mang lại cho chúng ta cuộc sống tốt hơn?” Nếu các kibbutz không sống sót dưới một số dạng, điều đó sẽ khiến kho bạc quốc gia tổn thất nhiều hơn trong dài hạn và toàn bộ xã hội Israel cũng sẽ phải gánh chịu thiệt hại. Ravid nói. 

Ariel Halperin đã đắm chìm trong vấn đề kể từ khi ông trở thành chủ tịch của Ủy Ban Thỏa Thuận Kibbutz vào năm 1992. Ban đầu Halperin, người được sinh ra và lớn lên trong một kibbutz, bị thuyết phục rằng với các điều chỉnh tương đối nhỏ và kế hoạch khôi phục kinh tế tinh tế, lối sống kibbutz có thể tồn tại nguyên vẹn. Sau đó ông nhận ra rằng vấn đề nghiêm trọng hơn và cần phải có những sự thay đổi căn bản. 

Halperin chỉ ra một số cách mà theo đó hầu hết các kibbutz đang suy sụp, ngay cả khi vấn đề nợ nần của họ được giải quyết. Về mặt tổng thể, kinh tế của kibbutz đang trì trệ và điều này diễn ra ngay cả trong các thời kỳ mà kinh tế Israel tăng trưởng khá nhanh. Năng suất tính theo đầu người của các thành viên kibbutz thấp hơn trung bình, dẫn đến mức sống thấp. Dân số kibbutz đã giảm theo khía cạnh tuyệt đối kể từ cuối những năm 1980, Trên hết, hệ thống việc làm đã sụp đổ.

Như chúng ta đã thấy, các kibbutz đã sử dụng công nhân bên ngoài trong nhiều năm, nhưng cho đến gần đây thực tế này mới chủ yếu giới hạn trong các nhà máy. Nguyên lý tự lao động chủ yếu được duy trì trong các dịch vụ và nhiều nhánh nông nghiệp. Mặc dù vậy, ngày nay công nhân được thuê có thể thấy ở mọi nhánh của kibbutz, họ thay thế các thành viên thích làm công việc bên ngoài. Người ngoài làm việc ở nhà trẻ em, trường mẫu giáo và trường học, nhà bếp, chuồng bò, chuồng gà, vườn cây và cánh đồng. Đáng chú ý là họ thường xuyên phục vụ như là các quản lý cấp cao trong các nhà máy của kibbutz, đôi khi nhận được phần tiền lương rất lớn. Chúng ta đã thấy ví dụ này ở Givat Brenner, với các giám đốc điều hành được thuê. 

Mặc dù những sự phát triển này có thể khiến cho những người sáng lập kibbutz bật dậy khỏi mộ song chúng không hoàn toàn là gây hại.

Một trong những ý tưởng của kibbutz mà Yehuda Harel đưa ra là làm cho kibbutz trở nên hấp dẫn hơn bằng cách cho phép cách thành viên tự do lựa chọn công việc. Việc buộc các thành viên chịu trách nhiệm về khoản thu nhập đảm bảo cho cuộc sống của họ có thể gia tăng năng suất lao động, như chúng ta đã thấy trong trường hợp của Hasolelim. Nhưng Halperin cũng thấy rằng hiện nay về tổng thể thì các thành viên làm việc ở ngoài kiếm được ít hơn so với phí tổn mà kibbutz dùng để thay thế họ. Bản kết toán là âm. Các quản lý cấp cao kiếm được khoảng 100.000 dollar mỗi năm từ kibbutz mà họ làm việc; rất ít thành viên kibbutz kiếm được chừng đó tiền.

Halperin tin rằng công việc quan trọng nhất mà các kibbutz phải thực hiện là tìm ra cơ chế khôi phục sự tin cậy giữa các thành viên kibbutz và kibbutz của họ. Sự biến đổi này cần đến một sự thay đổi cấu trúc căn bản bởi vì thành viên ở kibbutz truyền thống không có gì ngoài lời hứa là kibbutz sẽ luôn luôn chăm sóc họ và gia đình. Mặt khác, mặc dù các thành viên được kỳ vọng làm việc ở nơi mà cộng đồng quyết định là họ nên làm việc, nhưng không có cách nào bắt buộc họ làm vậy. Công đồng không có quyền lực thực tế đối với thành viên hay lên án pháp lý đối với họ.

Toàn bộ hệ thống dựa trên sự tin cậy và nó hoạt động bởi vì cả hai phía giữ lời hứa. Với rất ít ngoại lệ, các thành viên thực hiện bất cứ công việc nào kibbutz giao cho họ; kibbutz chăm sóc mọi mặt trong cuộc sống của thành viên từ khi họ sinh ra cho tới khi họ xuống mộ. Kibbutz lại được các Liên Minh Kibbutz hỗ trợ, các Liên Minh Kibbutz nhận được sự hỗ trợ từ Cục Định Cư Do Thái, vốn được chính quyền Israel hỗ trợ, trong một bầu không khí xã hội nhìn chung thuận lợi.

Vì lý do này, trong những cuộc khủng hoảng kinh tế trước đây một số người luôn sẵn sàng thanh toán các khoản nợ. Cuộc khủng hoảng đầu tiền vào những năm 1920. Các cuộc khủng hoảng tiếp theo vào những năm 1930, 1950 và 1960, nhưng phong trào vẫn luôn được “hệ thống” giải cứu bởi vì các khu định cư – cả kibbutz và moshav – được coi là sống còn đối với sự thành công của doanh nghiệp Zionist.

Tại sao lĩnh vực nông nghiệp trong cộng đồng Do Thái thời tiền quốc gia ở Palestine và sau đó là ở quốc gia Israel cần được giải cứu thường xuyên? Một phần của câu trả lời, như Ravid đã chỉ ra, là khu vực nông thôn ở mọi quốc gia đều phải được trợ cấp, nhưng những người khác cũng ghi nhận những thất bại nghiêm trọng trong năng suất của kibbutz. Như tiến sĩ Amir Helman đã ghi nhận, đáng ngạc nhiên là trái ngược với những gì mà các nhà kinh tế chuyên nghiệp dự đoán.

Helman sinh ra tại kibbutz Afikim ở thung lũng Jordan. Ông dạy kinh tế học và quản lý – bao gồm cả “kinh tế học thay thế” – tại trường đại học Ruppin trong 21 năm qua. Ông cũng giảng dạy tại một số trường đại học, tham gia nhiều ủy ban và thực hiện nhiều nghiên cứu ở Israel cũng như quốc tế. Ông ghi nhận rằng vào những năm 1920, các nhà kinh tế học chuyên nghiệp quả quyết rằng nếu không có các phần thưởng vật chất thông thường thì các thành viên kibbutz sẽ sản xuất ít hơn và tiêu dùng nhiều hơn người ở các doanh nghiệp tư nhân. Họ đã sai: các thành viên kibbutz siêng năng và tự nguyện – thậm chí là cạnh tranh – cho những công việc khó khăn nhất mà không có phần thưởng vật chất. Điều này là đúng, như chúng ta đã thấy, vào nững ngày đầu lý tưởng của Degania, khi những người tiên phong thấy thỏa mãn trong việc tạo ra thứ gì đó mới và phục vụ cho các thành viên theo họ, mà không cần có phần thưởng cá nhân. 

Một sự tiến triển đáng chú ý khác, trái ngược với các dự báo của chuyên gia kinh tế, quan ngại về sự đầu tư quá mức, như chúng ta đã thấy trong trường hợp của Givat Brenner, vào đầu những năm 1930. Các nhà kinh tế học cho rằng cấu trúc tập thể sẽ dẫn đến sự thiếu nỗ lực và thiếu sáng kiến. Trên thực tế, mọi thứ ngược lại: kibbutz là xã hội năng suất, trong đó đầu tư rất cao. Các quản lý của kibbutz nói chung rất có tinh thần kinh doanh, bởi vì mục tiêu tổng thể của chủ nghĩa Zion là mở rộng và tăng trưởng và bởi vì hệ thống bảo lãnh qua lại ngăn chặn mọi rủi ro thực tế. Một vấn đề khác là hệ thống quản lý luân phiên dân chủ của kibbutz, có nghĩa là giống như các chính khách hay các quan chức dân cử, họ muốn chứng tỏ bản thân càng nhanh càng tốt. Đồng thời, cấu trúc của kibbutz có nghĩa là người quản lý không phải giải trình trước ban giám đốc. Anh ta thực sự chịu trách nhiệm trước đại hội của kibbutz, nhưng đó không phải là cơ quan chuyên môn và các quản lý không phải chịu trách nhiệm cá nhân khi anh ta thất bại. Vị trí thành viên của anh ta trong kibbutz được đảm bảo, ngay cả khi sự phục vụ của anh ta đối với kibbutz là thất bại. Nếu chúng ta bổ sung thêm thực tế là mọi kibbutz đều được Liên Minh Kibbutz, Cục Do Thái và chính quyền hỗ trợ thì rõ ràng là hệ thống đã thúc đẩy doanh nghiệp đến điểm phi lý.

Cấu trúc của kibbutz có một yếu điểm nội tại, có thể tóm tắt bằng một từ: nhân đôi. Đây là sự thật khó chịu trong lời lên án của Israel Oz về việc nhà ăn tập thể, nhà trẻ em, giặt là và cửa hàng quần áo – chưa nói đến bể bơi, nhà hát và phòng tập thể thao – là hoang phí. Mặc dù nhà ăn tập thể đặc trưng cho lối sống kibbutz, nhưng nó ít có ý nghĩa khi mỗi căn nhà đều có bếp và phòng ăn, các thành viên có thể ăn thỏa thích ở nhà. Nhà trẻ em lớn một cách không cần thiết khi mà trẻ em của kibbutz ngủ ơ nhà. Cũng giống như vậy, giặt là tập thể (trừ khi nó trở thành dịch vụ thương mại) là điều xa xỉ khi mỗi căn nhà đều có máy giặt.

Bên cạnh đó, nhiều thành viên kibbutz tiếp tục tận hưởng mức sống trung lưu trong thi tham gia vào tổ chức của giai cấp lao động. Chính xác về mặt tư tưởng thì điều này không có ý nghĩa về kinh tế. Rất thường xuyên có các thành viên kibbutz sống ở mức đỉnh cao của xã hội Israel, trong khi nhận lương ở mức thấp. Hơn nữa, Helman đã chỉ ra, mức sống ở mọi kibbutz của Israel là tương đồng, bất kể sức khỏe kinh tế thực tế của kibbutz ra sao. Do đó, trong khi các kibbutz giàu có có thể tiết kiệm và đầu tư, các kibbutz nghèo ngày càng lún sâu vào nợ nần. Hệ thống kibbutz có tác dụng đối với một số này nhưng không có tác dụng đối với một số khác.

Tình hình kỳ quái này đã ngự trị cho đến những năm 1980 bởi vì chính quyền, Cục Do Thái và Liên Minh Kibbutz coi kibbutz là sự quan trọng sống còn và cung cấp sự hỗ trợ khi cần thiết, như chúng ta đã thấy. Mặc dù vậy, khi cuộc khủng hoảng năm 1985 nổ ra, hệ thống sụp đổ. Các vòng bảo vệ của chính quyền, Cục Do Thái, Liên Minh Kibbutz và kibbutz riêng lẻ đã sụp đổ đối với các thành viên kibbutz bất hạnh. Vào lúc này, chính quyền không chuẩn bị để bảo lãnh cho các khu định cư; Cục Do Thái không sẵn sàng hỗ trợ họ; Liên Minh Kibbutz từ lâu không còn nguồn lực; kibbutz riêng lẻ nhiều khi không thực hiện được lời hứa. 

Đột nhiên các thành viên của kibbutz khám phá ra rằng trên thực tế họ không có gì mặc dù họ tự coi mình là đối tác của một doanh nghiệp thịnh vượng. Họ không có bảo hiểm hưu trí, không có an sinh xã hội, không có nhà, không có bất cứ tài sản gì, không có quyền trao thừa kế - và hầu như chẳng có gì để lại. Các thành viên kibbutz, vốn cảm thấy là những người được đảm bảo nhất trên hành tinh, đột nhiên thấy mình bị bỏ rơi, trần trụi và bị xô đậy giữa một bộ tộc dã man. Sự tổn thương rất sâu sắc: mất sự tin cậy, méo mó. 

Halperin tin rằng với phương pháp đúng đắn thì tình hình có thể được giải quyết. Ông theo đuổi một sự thay đổi căn bản trong hệ thống để thay thế niềm tin của các thành viên riêng lẻ đối với kibbutz. Kibbutz phải thừa nhận về mặt pháp lý quyền của các thành viên đối với tài nguyên. Các nhà máy của kibbutz và các chi nhánh nông nghiệp phải tài trợ cho bảo hiểm y tế, hưu trí và trợ cấp xã hội của các thành viên. Họ phải trả cho việc giáo dục trẻ em. Các thành viên phải sở hữu căn nhà của họ và được trao quyền di chúc phần của họ trong tài sản của kibbutz cho người kế tục.

Mỗi kibbutz sẽ áp dụng mô hình riêng, Halperin đề xuất, nhưng sự phân bổ tài sản cho các thành viên, được đảm bảo bằng luật pháp, là nền tảng của mọi kế hoạch tái tổ chức. Câu hỏi về các khoản thanh toán khác nhau, phần thưởng cho nỗ lực, thanh toán cho làm việc thêm giờ và tư nhân hóa ngân sách đều là bổ sung. Khi niềm tin căn bản được khôi phục và các thành viên phục hồi cảm giác an toàn, phần còn lại sẽ được triển khai. 

Bất kể là Halperin đúng hay không, chỉ có thời gian mới có thể trả lời. Như chúng ta đã thấy trong những chương trước, 5 kibbutz đã nỗ lực thích nghi với tình hình mới. Sau này chúng ta sẽ tìm hiểu một nhóm định cư khác cho thấy các lựa chọn thay thế của tương lai, trong đó có các giải pháp phù hợp với những đề xuất của Halperin.

Mặc dù vậy, trước khi đi tiếp, sẽ rất hữu ích khi quay trở lại xem xét toàn bộ hệ thống giáo dục của kibbutz. Chúng ta phải xem xét cả lý do bên ngoài cũng như bên trong của sự sụp đổ kinh tế vào năm 1985. Có thể là không công bằng khi bỏ qua toàn bộ kết án tiêu cực về những người quản lý tiền của kibbutz, giống như nhiều doanh nghiệp thất bại khác, đặc biệt là trong thời gian khủng hoảng kinh tế chung, nhưng thủ quỹ và kế toán của kibbutz không chỉ hành động thiếu thận trọng theo quan điểm kinh doanh; họ cũng hành động không phù hợp với các giá trị của kibbutz.

Tại sao giáo dục của kibbutz không truyền tải được những giá trị đó? Cảm giác chung về trách nhiệm, vốn mạnh mẽ trong thế hệ sáng lập của kibbutz, được truyền tải cho thế hệ thứ hai, nhưng với thế hệ thứ ba và thứ tư của kibbutz, mệnh đề gốc của các nhà kinh tế đã đúng. Nhiều thành viên luôn không đóng góp năng lực tốt nhất của họ; kibbutz cảm thấy không thể thỏa mãn được nhu cầu của các thành viên.

Sự thật là kibbutz đã sống sót qua bảy thập kỷ, nhưng dường như nó là một ảo giác. Ở mức độ vật chất, hệ thống không phải luôn hoạt động, mặc dù thất bại kinh tế của nhiều kibbutz đã được che dấu. Về mặt lý tưởng cũng vậy, tất cả đều có vẻ như vậy: mặc dù thế hệ thứ ba và thứ tư vẫn tuân theo học thuyết, niềm tin của họ bị giới hạn và họ trở nên hoài nghi. Khi hệ thống đối mặt với khủng hoảng thực sự đầu tiên, một sự sụp đổ kinh tế đã khiến nó phải đối mặt với thế giới, nó hầu như đã sụp đổ và sự sống sót của nó là không chắc chắn.

Vào những ngày đầu của Degania, Yosef Bussel viết, trong một đoạn đã được trích dẫn của cuốn sách này: 
Đối con người, để suy nghĩ và cảm thấy rằng họ phải sống hoàn toàn bình đẳng và hoàn toàn hợp tác, họ phải được sinh ra trong điều đó và để điều đó diễn ra thì phải trải qua nhiều thế hệ. Nhiều điều chúng ta không thể đạt được hôm nay thì các đồng chí lớn lên trong môi trường kvutza mới sẽ đạt được. 
Sau Bussel, các nhà tư tưởng và giáo dục kibbutz đã công khai tuyên bố ý định tạo dựng “con người mới”, một con người được giải phóng khỏi các giá trị tư sản của khát vọng cá nhân và chủ nghĩa vật chất. Trong 70 năm, kibbutz là thể chế có ảnh hưởng lớn lao đối với các thành viên. Không có chế độ toàn trị nào từng thực hiện được sự kiểm soát tuyệt đối đối với các công dân như là kibbutz tự do, tự nguyện, dân chủ đã làm được đối với thành viên của nó. Israel Oz đã đúng khi chỉ ra rằng kibbutz tổ chức mọi mặt đời sống của thành viên: ăn ở, công việc, sức khỏe, giải trí, văn hóa, thực phẩm, quần áo, nghỉ ngơi, sở thích và trên hết là giáo dục và nuôi dưỡng con cái.

Bất chấp những điều kiện tối ưu, dự báo của Bussel đã sai. “Các đồng chí lớn lên trong môi trường kvutza mới” không thấm nhuần các giá trị cộng đồng và bình đẳng. Chương tiếp theo chúng ta sẽ cố gắng khám phá lý do của việc đó.

Thursday, November 19, 2015

Chuyện luật sư và nỗi oan hai bao cao su

Một luật sư nọ, sau khi xúi dân oan đi kiện cáo tập thể lung tung khắp nơi để đòi bồi thường đất giá cao, kiếm được kha khá tiền bèn nhậu một bữa linh đình. Chân nam đá chân xiêu, đi loanh quanh thế nào luật sư nọ lạc vào một chỗ có ông Bụt.

Ông Bụt nói: Ngươi gặp được ta là có số may mắn rồi, ta sẽ ban cho ngươi ba điều ước.

Luật sư nọ liền ước: Con muốn trở nên giàu có.

Bụt búng tay một cái. Luật sư thấy mình đang ở trong một phòng ngủ rất sang trọng.

Luật sư nọ ước tiếp: Con muốn nổi tiếng.

Bụt lại búng tay một cái. Màn hình ti vi trong phòng bật lên chiếu cảnh luật sư nọ đang chém gió ào ào trên một show truyền hình danh tiếng.

Luật sư ước tiếp: Con muốn có bạn gái thật xinh đẹp.

Bụt lại búng tay. Một cô gái xinh đẹp hiện ra. Bụt biến mất.

Một lúc sau cô gái nói: Nào giờ thì để em tháo hai cái bao cao su cho anh nhé.

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí, nhưng không nhất thiết khác với sự thật)

Sự khác nhau giữa nhà hát và quốc hội

Nhà hát và quốc hội khác nhau ở điểm nào?

Ở nhà hát thì diễn viên giỏi thường được trả lương thấp.

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí, nhưng không nhất thiết khác với sự thật)

TPP và chính quyền mới của doanh nghiệp toàn cầu

Jack Rasmus trong bài "The TPP and the New Global Corporate Government" đã đặt ra câu hỏi về tính dân chủ của TPP. Ông cho rằng TPP sẽ chôn vùi nền dân chủ vốn có của các quốc gia hiện nay, khi nó tạo ra một thể chế chính trị siêu quốc gia của doanh nghiệp. Song điểm mấu chốt là nền dân chủ mà tác giả nhắc tới là nền dân chủ của giai cấp tư sản, doanh nghiệp trên hết cũng là một thể chế của giai cấp tư sản, không có gì là khó hiểu khi giai cấp tư sản vứt bỏ hình thức tổ chức nhà nước đã lỗi thời để xây dựng một hình thức mới phù hợp với họ. Hy vọng giai cấp tư sản sẽ bảo vệ nền dân chủ cũ để chống lại hệ thống nhà nước toàn cầu mới sẽ chẳng bao giờ đi đến đâu. 

TPP và chính quyền mới của doanh nghiệp toàn cầu

Hiệp định TPP vừa mới được công bố là một tài liệu bao gồm 5.554 trang. Hiệp định có 30 chương riêng biệt, chưa tính tới các “phụ lục” đặc biệt và các danh mục. Hiệp định còn có một tài liệu “hướng dẫn bí mật”, nhưng vẫn chưa được công bố, thậm chí các thượng nghị sĩ Hoa Kỳ cũng chưa được xem, theo lời thượng nghị sĩ Jeff Sessions của Hoa Kỳ. 

Dĩ nhiên, chính quyền cũng công bố một bản tóm tắt của tài liệu 5.554 trang, do Cục Đại Diện Thương Mại Hoa Kỳ soạn thảo, cũng như các tuyên bố của tổng thống Obama. Nhưng độc giả sẽ không thể tìm thấy bản chất của TPP trong những tài liệu đó, vốn được thiết kế để “bán rao” TPP cho công chúng. Trên thực tế, những lời tâng bốc “dành cho sự tiêu thụ của công chúng” đó được thay thế bằng sự xuyên tạc, thêu dệt và dối trá trắng trợn. 

Mặc dù vậy, một tuyên bố của Obama là chính xác. Ông ta gọi TPP là “một loại hiệp định thương mại mới”. Nó chính xác là một loại mới.

TPP không chỉ đơn giản là một văn kiện về kinh tế, về trao đổi hàng hóa, dịch vụ, tiền của nhà đầu tư hay dòng chảy của vốn. TPP trước hết và trên hết là một văn kiện chính trị. TPP là loạt đạn mới nhất do doanh nghiệp toàn cầu khai hỏa vào chủ quyền quốc gia và nhân dân, cũng như vào nền dân chủ. Mấu chốt để hiểu rằng TPP là kế hoạch thiết lập chính quyền toàn cầu của doanh nghiệp toàn cầu nằm ở chương 27 và 28.

Trong chương 27, TPP cung cấp một cơ quan lập pháp mới, có các quyết định sẽ chiếm đoạt chức năng của chính quyền địa phương và quốc gia, cũng như nền dân chủ đại diện – vốn đã bị tiền và sáng kiến của doanh nghiệp tấn công khốc liệt ở khắp mọi nơi. Trong chương 28, TPP cung cấp một loại hệ thống tòa án doanh nghiệp toàn cầu mới, do các luật sư ủng hộ doanh nghiệp và những người được thuê để điều hành, phán quyết của họ không thể được đánh giá, kháng cáo hay bác bỏ bằng hệ thống tòa án hiện tại của bất cứ quốc gia thành viên TPP nào. “Tòa án” của TPP sẽ đứng trên các hệ thống tòa án quốc gia của Hoa Kỳ và các nước khác, vốn đang bị các thế lực doanh nghiệp tấn công dữ dội để thúc đẩy sự áp đặt như là cách thức để lách qua hệ thống tư pháp truyền thống ở Hòa Kỳ. 

“Ủy ban” TPP đóng vai trò thể chế lập pháp-hành pháp toàn cầu của doanh nghiệp 

Chương 27 thiết lập một ủy ban TPP, tạo thành từ các bộ trưởng hoặc quan chức giám sát việc triển khai TPP cũng như sự tiến hóa trong tương lai của nó. TPP được gọi là một “hiệp định sống”, có nghĩa là nó sẽ thay đổi khi có thành viên mới. Mặc dù vậy, điều chưa được giải thích là nếu như nó được Quốc Hội phê chuẩn, liệu các nghị sĩ sẽ lại “phê chuẩn” mỗi khi nó thay đổi? Hay chỉ một lần ban đầu, sau đó cho phép luật sư của doanh nghiệp, CEO và giới quan liêu sở hữu doanh nghiệp được thay đổi theo cách mà họ muốn? 

Theo TPP, các thành viên ủy ban hoạt động như một dạng “Bộ Chính Trị” của doanh nghiệp toàn cầu, một ủy ban lập pháp của doanh nghiệp đa quốc gia của các nước thành viên TPP, với quyền lực hành pháp kèm theo chưa được xác định. Không có sự phân chia quyền lực ở đây. 

Quan trọng hơn, TPP hoàn toàn im lặng trước câu hỏi về cách thức lựa chọn ủy ban. Nhiệm kỳ của các thành viên là bao nhiêu? Ai chọn họ và chọn bằng cách nào? Họ có thể bị cách chức, khi đó ai sẽ cách chức họ và theo quy trình nào? Họ chịu trách nhiệm với ai? Họ có thể họp bí mật không? Đâu là quy định về việc ra quyết định mà họ phải tuân thủ? TPP im lặng hoàn toàn trước những câu hỏi này. Thật dễ chịu làm sao. Dĩ nhiên một số thứ cho thấy những câu hỏi này tồn tại trong “tài liệu hướng dẫn” huyền bí mà vẫn chưa ai được xem. Nhưng đừng kỳ vọng vào điều đó. 

Quan trọng nhất, có vẻ quyết định của ủy ban là không thể bị Quốc Hội hay bất cứ cơ quan lập pháp nào của chính quyền đánh giá hay đảo ngược. Theo hồ sơ ngày 10 tháng 11 năm 2015 của Quốc Hội Hoa Kỳ, ít nhất một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đã đưa ra cảnh báo rằng “chúng ta đang trao quyền thành lập một loại Quốc Hội mới cho các quốc gia TPP” và ủy ban siêu quốc gia “sẽ không phải giải trình với cử tri ở bất cứ đâu.”

Các tòa án Kangaroo của TPP* 

Nhưng TPP không chỉ vô hiệu hóa nhánh lập pháp và chức năng hành pháp của chính quyền hiện tại. Nó thậm chí còn tấn công trực tiếp và các thể chế và chức năng tư pháp. Chương 28 thiết lập một hệ thống tòa án độc lập, hay tòa án hòa giải, sẽ đưa ra các phán quyết mà hệ thống tư pháp quốc gia hiện tại không thể đánh giá hoặc bác bỏ. Các tòa án này được gọi chính thức là các nhóm ISDS, “Hệ thống tranh chấp nhà đầu tư-nhà nước”, mỗi tòa án được tạo thành từ ba đại diện và chuyên gia “thương mại”. Nhưng một lần nữa, giống như trường hợp của ủy ban nêu trên, đại diện nhà đầu tư-doanh nghiệp được ai lựa chọn? Như thế nào? Nhiệm kỳ bao lâu? Đại diện cho lợi ích của ai? Vân vân.

Hãy gọi chúng là “Tòa án Kangaroo của doanh nghiệp” (KKK), chúng sẽ thực hiện phần lớn công việc trong bí mật. Quy định của TPP cho phép chúng thực hiện các cuộc thẩm vấn công khai trước công chúng, nhưng cũng cho phép chúng lựa chọn việc thẩm vấn bí mật hoàn toàn. Hãy đoán xem chúng sẽ thích điều gì? TPP quy định KKK có thể “xem xét” các yêu cầu của công chúng để cung cấp các biên bản – nhưng xem xét không có nghĩa là “bắt buộc”. Cũng có thể thấy rằng báo cáo chung cuộc sẽ được công khai cho công chúng – nhưng chỉ là sau khi phán quyết chung cuộc đã được đưa ra. Hơn nữa, “báo cáo ban đầu sẽ là bí mật”, trong khi báo cáo chung cuộc cho công chúng thì “mọi thông tin bí mật trong báo cáo được bảo vệ”. Thứ cuối cùng được cung cấp cho công chúng chắc chắn sẽ trông giống như một mớ “bôi đen” đặc trưng theo yêu cầu của Luật Tự Do Thông Tin Hoa Kỳ.

Đây còn một vấn đề khác: Tòa án ISDS-KKK cho phép doanh nghiệp và nhà đầu tư kiện chính quyền quốc gia – cụ thể là các cơ quan lập pháp hay hành pháp – những bên có thể thông qua các đạo luật hay thiết lập các quy định bảo vệ công nhân, môi trường, hay bất cứ thứ gì mà nhà đầu tư và doanh nghiệp coi là cản trở khả năng tạo lợi nhuận của họ theo TPP. Vụ kiện TPP sẽ cáo buộc chính quyền Hoa Kỳ vi phạm hiệp định TPP, ngay cả khi doanh nghiệp-nhà đầu tư có tranh chấp liên quan đến kinh doanh với chính quyền trung ương hay địa phương. 

Điều này về mặt kỹ thuật có nghĩa là một doanh nghiệp sở hữu trang trại ở California có thể kiện chính quyền vì áp đặt khẩu phần nước trong thời kỳ hạn hán. Khẩu phần đó tất nhiên sẽ cản trở việc tạo lợi nhuận theo TPP. Hoặc một người nước ngoài sở hữu chuỗi nhà hàng ở Los Angeles có thể bỏ qua quy định tiền lương tối thiểu 15 dollar/giờ của thành phố? Hơn nữa, theo TPP thì cả bang California lẫn Los Angeles đều sẽ không phải là bên bị đơn trực tiếp trong vụ kiện TPP, do tranh chấp trong TPP chỉ giới hạn giữa doanh nghiệp-nhà đầu tư và chính quyền trung ương. Thế là quá đủ cho dân chủ địa phương theo TPP.

“Quyền lực kép” của doanh nghiệp đối đầu với Dân Chủ 

Tất cả mọi chính quyền thực thi các chức năng lập pháp, tư pháp và hành pháp. Trên hết, TPP được thiết lập theo mệnh lệnh của các tập đoàn toàn cầu. Nhưng TPP tạo ra các chức năng trực tiếp phá hủy các thiết chế chính quyền hiện tại, chủ quyền nhân dân, cũng như ý tưởng về dân chủ đại diện. Ủy ban TPP thiết lập một cơ quan lập pháp toàn cầu cho doanh nghiệp bằng một ủy ban doanh nghiệp với quyền lực thực thi không rõ ràng. KKK của TPP rõ ràng vi phạm điều 3 của Hiến Pháp Hoa Kỳ về việc thiết lập tư pháp độc lập

Việc ký kết hiệp định TPP ở Atlanta, Georgia, vào ngày 4 tháng 10 năm 2015, cho thấy về bản chất là thiết lập “Hiệp Ước Hiến Pháp” của chính quyền doanh nghiệp toàn cầu. Loại Hình Kinh Tế rõ ràng đã “đè bẹp” Các Loại Hình Chính Quyền chính trị, vốn đã cùng tồn tại trong hai thế kỷ qua.

Người ta nói rằng mọi loại hình cách mạng đều diễn ra dựa trên sự trỗi dậy của “quyền lực kép” và các gói thể chế mới cố gắng thay thế gói thể chế cũ. Chương 27 và 28 của TPP đã cho thấy hạt giống của quyền lực kép đang trỗi dậy của doanh nghiệp. Đây có thể là lúc mà một số loại hình “quyền lực kép” mới của nhân dân sẽ ngăn chặn doanh nghiệp.

Jack Rasmus is the author of ‘Systemic Fragility in the Global Economy’, Clarity Press, 2015. He blogs at jackrasmus.com. His website iswww.kyklosproductions.com and twitter handle, @drjackrasmus.

Chú thích của người dịch:

*Chỗ này có lẽ tác giả chơi chữ, dùng 3 chữ K trong cụm từ đó để khi viết tắt sẽ thành KKK, tương tự như tổ chức phân biệt chủng tộc KKK chuyên hoạt động bí mật trước đây của Hoa Kỳ.

Tuesday, November 17, 2015

Tấn công khủng bố ở Paris: Thảm kịch có thể mang đến sự thay đổi?

Diana Johnstone trong bài viết "Terrorist Attacks in Paris: Can Tragedy Bring Change?" đã nhấn mạnh các vụ khủng bố ở Pháp bắt nguồn từ hai nguyên nhân là tình trạng đói nghèo ở Pháp và chính sách đối ngoại thân Mỹ và Israel của Pháp. Chính nước Pháp đang theo chân Mỹ và Israel nuôi dưỡng chủ nghĩa cuồng tín Hồi Giáo để phá hủy các nhà nước hiện đại ở Trung Đông. Do vậy, nước Pháp sau vụ khủng bố ở Paris đột nhiên rơi vào tình trạng không biết phải chiến tranh với ai. Họ buộc phải lựa chọn, hoặc là tiếp tục theo chân Mỹ và Israel để gián tiếp trợ giúp những kẻ đã khủng bố nước Pháp hoặc quay lưng với Mỹ và đồng minh để chống lại những kẻ khủng bố. Sự thay đổi mà tác giả đề cập không chỉ đơn giản là sự lựa chọn của nước Pháp, nó báo hiệu sự thay đổi của trật tự thế giới.

Tấn công khủng bố ở Paris: Thảm kịch có thể mang đến sự thay đổi?

Paris.

Hỗn loạn đang lan từ Trung Đông sang Châu Âu. Một dòng người tị nạn và nhập cư hỗn tạp bất tận xuyên qua Balkan đổ vào miền đất hứa Đức và Thụy Điển. Các trận đánh lộn giữa các nhóm quốc gia xảy ra ở trại tị nạn. Cả người nhập cư tụ tập ở gần Calais để vượt biên vào Anh lẫn các công dân của Calais đều mất bình tĩnh và giận dữ. Các lãnh đạo quốc gia, với tầm nhìn Châu Âu thống nhất hạnh phúc trong đầu, theo đuổi cũng như bảo vệ ý tưởng về biên giới mở và chủ nghĩa đa văn hóa, đang nhận ra rằng họ thiếu khả năng đương đầu. Giờ thì Paris phải gánh chịu những tấn công tương tự với Beirut hay Nga. 

Đúng vậy, như Chris Floyd đã viết, phương tây đang phải nhận hậu quả từ sự ủng hộ của họ đối với bạo lực của chủ nghĩa cực đoan. Nhưng đây không phải là lúc nói với nạn nhân rằng họ bị lên án, nhất là khi mục tiêu tấn công ở Paris là những thanh niên đang xả hơi vào một tối thứ sáu, quá trẻ để gánh chịu trách nhiệm về những chính sách tai họa của phương tây, những chính sách đã nuôi dưỡng sự điên loạn ở Trung Đông trong nhiều thập kỷ.

Vụ ám sát các thành viên của Charlie Hebdo vào tháng giêng vừa qua mang đến khẩu hiệu về sự đoàn kết, “Tất cả chúng ta là Charlie.” Khẩu hiệu đó trở thành một sự thật không mấy dễ chịu: đúng vậy, hiện giờ tất cả chúng ta là Charlie. Bất cứ ai đang tham dự một bữa ăn giá mềm ở nhà hàng Campuchia hiện đại nhất của quận 10 không xa hoa cũng có thể bị bắn hạ không nương tay, giống hệt như vậy. Hung thủ không theo đuổi một biểu tượng quyền lực, chúng theo đuổi bất cứ ai và tất cả mọi người. Mục tiêu tấn công của chúng là khu vực dân cư không thu hút khách du lịch, chỉ là các quán café bình thường được thanh niên Paris ưa thích. Mục tiêu đã được những người biết rõ địa hình lựa chọn.

Câu hỏi lớn là: Điều gì tiếp theo? Nỗi sợ hãi này sẽ khiến người dân nhận thấy hiện thực và suy nghĩ rõ ràng? 

Tổng thống François Hollande tức tốc lên truyền hình và cố gắng làm chủ tình hình. Nhưng ông ta đã không làm chủ được bản thân. Bằng cách tuyên bố rằng hiện giờ chúng ta “trong chiến tranh”, tổng tống Hollande dường như lặp lại phản ứng đối với vụ 11/9 của Hoa Kỳ. Nhưng chính xác là trong chiến tranh với ai? Pháp là người ủng hộ cứng rắn cho quan điểm “Assad phải ra đi”. Liệu Pháp có cần phải thay đổi các cuộc chiến? Phải vậy, có thể vậy, có thể thay đổi chính sách đối ngoại?

Tổng thống Obama lên truyền hình với tuyên bố đoàn kết trong khi cuộc tấn công vẫn đang tiếp diễn. Những tuyên bố đó đương nhiên được truyền thông khai thác với mong muốn sử dụng các cuộc tấn công này để củng cố sự thống trị của Hoa Kỳ đối với chính sách đối ngoại của Pháp.

Lời chia buồn của Israel nhanh chóng được các nhà bình luận thông thường sử dụng để thể hiện rằng Israel thấu hiểu chúng ta và đứng về phía chúng ta, bởi vì Israel là một nạn nhân thường xuyên của các cuộc tấn công khủng bố, những với “các vụ tấn công bằng dao găm….” trong ngày.

Không, những cuộc tấn công của người Palestine vô vọng không cùng mức độ như vụ thảm sát ở Paris. Khẳng định là tương tự: Do vụ 11 tháng 9, giờ là vụ 13 tháng 11, tất cả chúng ta đều cùng chung chiến tuyến với Israel, chống lại cùng một kẻ thù. Nhưng trên hết, kẻ thù nào? Kẻ thù của Israel là Hezbollah, đang gánh chịu một cuộc tấn công dữ dội ở Beirut từ những chính những kẻ đã thảm sát người dân Paris. Kẻ thù của Israel là Iran, đang chiến đấu chống lại Daech. Trên hết, ai là kẻ thù và ai là bạn của chúng ta?

Ngày càng có nhiều người không ngần ngại nói: Truyền thông Pháp hoàn toàn bị Zionist [chủ nghĩa phục quốc Do Thái] hóa. Ảnh hưởng của Israel đối với truyền thông ở Pháp dường như mạnh hơn bất cứ nơi nào trên trái đất – dĩ nhiên là hơn cả ở Israel, nơi đó còn có một tạp chí phê phán, tờ Haaretz, đăng những thứ mà không một tờ tạp chí Pháp nào dám đăng.

Không có nhà bình luận truyền thông nào nhận thấy rằng các vụ tấn công ở Paris rất tương đồng với các vụ tấn công khủng bố đã diễn ra ở Nga. Sự cảm thông với những nạn nhân của vụ rơi máy bay ở Sinai đang ở đâu? Còn những trẻ em bị sát hại ở Beslan vào năm 2006? Ở Moscow, những người Nga đồng cảm đã mang hoa đến đại sứ quán Pháp song truyền thông Pháp không đưa tin.

Truyền thông bám chặt lấy câu chuyện của họ về Putin xấu xa và Assad xấu xa. Họ không thể dễ dàng thay đổi câu chuyện và thừa nhận rằng tất cả đã lạc hậu. Nhưng những sự kiện có thể buộc họ phải thừa nhận hiện thực.

Câu hỏi lớn là: Pháp sẽ phản ứng ra sao?

Đặc biệt là ở Hoa Kỳ, họ nhanh chóng kết luận rằng chính quyền Pháp sẽ phản ứng hiếu chiến và cuồng loạn như chính quyền Hoa Kỳ sau vụ 11 tháng 9, khai thác các sự kiện kinh hoàng để tước đoạt tự do của công dân và tiến hành các cuộc chiến với nước ngoài. Nhưng cũng có lý do để hy vọng rằng ở Pháp những cái đầu lạnh hơn sẽ kiểm soát tình hình. Phản ứng tình cảm đối với số phận bi thảm của nạn nhân là không khác biệt. Nhưng cảm xúc không cần thiết phải ngăn cản con người tư duy rõ ràng, mặc dù nó thường làm vậy. Người ta có thể than khóc và vẫn duy lý. 

Đây sẽ là các phản ứng nội địa và phản ứng về chính sách đối ngoại, liên quan chặt chẽ với nhau.

Phản ứng đối nội 

Phản ứng chính thức đầu tiên, tuyên bố của Hollande rằng “chúng ta đang trong chiến tranh”, được kèm theo mệnh lệnh cho phép quân đội tuần tra trên đường phố Paris, không phải là thứ mang nhiều hứa hẹn. Binh lính trên đường phố rõ ràng là nhằm trấn an công chúng (mặc dù không phải tất cả mọi người đều cảm thấy an tâm với sự hiện diện của các loại vũ khí nóng), nhưng họ không thể ngăn chặn các cuộc tấn công tự sát hay có thể xử lý cốt lõi của vấn đề. Dường như bất cứ ai kém may mắn khi “trông giống” như những kẻ mà cảnh sát cho là giống khủng bố cũng sẽ bị chặn lại trên đường phố hay bến tàu và bị yêu cầu xuất trình giấy tờ. Điều này có thể không dễ chịu nhưng không phải là thảm kịch nếu chỉ dừng lại ở đó.

Tồi tệ hơn một chút là yêu cầu bãi bỏ các quy định giới hạn về việc sử dụng vũ khí nóng của cảnh sát. Ở Pháp, cảnh sát không thể thoát khỏi các hậu quả pháp lý của việc giết người khi họ hành động như ở Hoa Kỳ, hy vọng rằng mọi việc vẫn sẽ như cũ.

Trong dân chúng, một phản ứng được báo trước là sự thù địch bài Hồi Giáo hay thậm chí là bài Arab có thể nổ ra dưới hình thức các vụ tấn công vào nhà thờ Hồi Giáo hay các cá nhân. Nhưng sự e ngại về phản ứng này, cũng như các biện pháp để ngăn chặn chúng, đều đã được phổ biến. Trái ngược với ấn tượng thường được các bản tin truyền thông Hoa Kỳ mang đến, các cá nhân Arab tử tế hay giáo phái Hồi Giáo không bị cô lập trong các khu ghetto nghèo nàn vùng ngoại ô. Họ là một phần của xã hội Pháp, cộng đồng của họ cũng có nhiều nạn nhân trong vụ thảm sát ngày 13 tháng 11. Bất chấp những sai lầm vốn có, truyền thông Pháp cùng với trường học đang ngăn chặn sự gia tăng một cách nguy hiểm của chứng sợ Hồi Giáo. Rõ ràng rằng sự đối xử bất công với người Hồi Giáo sẽ là quà tặng tốt nhất cho những kẻ cực đoan. Như một vấn đề thực tiễn, các nhà điều tra Pháp sẽ cần tới sự trợ giúp của dân cư Hồi Giáo trung thành để phá vỡ các cuộc tấn công khủng bố.

Công việc sau này là tuyệt đối cần thiết. Nó đòi hỏi các nỗ lực thấu hiểu những gì nằm phía sau hiện tượng – không có nghĩa là biện minh cho chúng. Một khuynh hướng cánh tả nhất định đồng cảm với mọi sự nổi loạn tiềm tàng, bất kể là động cơ hay mục đích, để coi nó là phản ứng hợp lý đối với sự áp bức, là không có cơ sở, kết luận đạo đức là không phù hợp. 



Ngay cả khi những kẻ khủng bố Paris đã tự sát theo công bố (vẫn còn nghi vấn), có nhiều cách để phản ứng đối với tình trạng xã hội nội địa hơn là các vụ thảm sát ngẫu nhiên không phân biệt. Người Mĩ gốc Phi đã chứng kiến điều đó, sự đàn áp đối với họ còn tồi tệ hơn sự phân biệt (bất hợp pháp) đối với người Pháp Hồi Giáo. Thất nghiệp, một phần lớn là do chính sách kinh tế mà Liên Minh Châu Âu áp đặt, đã ảnh hưởng tới toàn bộ thanh niên, nhưng đặc biệt là các cá nhân ít được đào tạo và không có các mối liên hệ. Sự thiếu vắng các cơ hội nghề nghiệp tử tế làm gia tăng các tội phạm vặt, nhiều phần tử cực đoan Hồi Giáo đã được cải đạo trong tù. Đó là những tệ nạn xã hội cần phải được xử lý bằng cách thực sự quay trở lại với chính sách xã hội, vốn bị chính quyền “xã hội chủ nghĩa” hiện tại phá hủy một cách có hệ thống.

Ngay cả khi đó, so sánh với nhiều thời kỳ khó khăn khác nhau có thể cho thấy rõ rằng sự bùng phát của bạo lực Hồi Giáo cực đoan không chỉ đơn giản là do các yếu tố kinh tế. Nguồn gốc của vụ thảm sát ngày 13 tháng 11 là từ Trung Đông. Daech, hay còn gọi là Nhà Nước Hồi Giáo, tùy bạn muốn gọi là gì, hành động như là sự hấp dẫn đối với thanh niên, nhiều người trong số họ đã vượt qua ranh giới của tội phạm hình sự, cần một sự biện minh cho cuộc sống và một kênh cho cảm xúc của họ. Sự biện minh được đem lại bằng hình ảnh những người dân mà họ có thể thấy tương đồng: người Palestine ở Gaza, các gia đình bị bom Mỹ xóa sổ trong một đám cưới, những quốc gia bị người phương tây ngạo mạn hạ nhục. Tham gia Jihad chống lại “Chiến Binh Thập Tự Chinh Phương Tây” để trở thành “Caliphate” [quan tòa] mới trở thành vòng hào quang che chở cho cả điều tốt lẫn cái xấu ở những người dễ tổn thương nhất định. 

Những người được coi là tội phạm và đang thi hành án tù có thể cảm thấy khuây khỏa với ảo tưởng đổ lỗi cho những thế lực siêu nhiên. Cũng như thiên đường của Allah đang kêu gọi, xã hội phương tây đương đại – dựa trên sự đại diện thương mại hơn là thực tại, mà người dân khó có thể biết được – có thể xuất hiện như là một bể tội lỗi. Lý tưởng của những thành phần Jihad là chủ nghĩa thanh giáo cuồng tín: họ có thể sát hại thanh niên ở quán café hay nhà hát bởi vì họ áp dụng một hệ tư tưởng coi những người kia là “những kẻ tội lỗi” chống lại đấng Allah toàn năng.

Ảo tưởng này không chỉ giới hạn trong phần bên lề của xã hội Pháp. Nước Pháp, với truyền thống thế tục và khai sáng, phải được chuẩn bị tốt để chống lại sự điên cuồng này với lý lẽ và lập luận. Trái lại, khuynh hướng hiện tại là áp dụng hành vi của người Mỹ theo kiểu “không lập luận về tôn giáo”, thậm chí là trong lớp học khi các sinh viên Hồi Giáo phủ nhận sự tiến hóa vì mâu thuẫn với kinh Koran. Đúng như vậy, Pháp được ghi nhận về những nỗ lực ngăn cản các phong tục Hồi Giáo cụ thể, nhưng lại để mặc lý tưởng. Lý tưởng về chủ nghĩa đa văn hóa đã trở thành kẻ thù của lý trí. Họ đã quên mất rằng tranh luận về lý tưởng của cá nhân không phải là tấn công cá nhân. Chủ nghĩa tương đối trí tuệ, nhằm mục đích nuôi dưỡng tình anh em, đã để ngỏ cánh cửa cho chủ nghĩa cuồng tín. Một số thứ là sự thật và một số thứ khác là sai, khái niệm hậu hiện đại về việc mỗi các nhân có “sự thật của riêng mình” có nghĩa là cuối cùng không phải là lý trí mà là sức mạnh sẽ thống trị.

Nhưng một lần nữa, nguồn gốc của lý tưởng giết chóc phía sau các vụ tấn công khủng bố nằm ở Trung Đông và những bi kịch đã làm rung chuyển khu vực trong nhiều thập kỷ.

Phản ứng đối ngoại

Chuỗi phản ứng của Pháp trên phương diện chính sách đối ngoại đối với sự kiện 13 tháng 11 là chưa rõ ràng. Bất chấp sự thể hiện mang tính nhất thời về “sự thống nhất quốc gia”, sự chia rẽ sắc nét hiện rõ trong giới lãnh đạo chính trị. 

Tổng thống Hollande là ví dụ điển hình về lãnh đạo Châu Âu hiện tại, từ lâu đã từ bỏ các nỗ lực tư duy chiến lược thực tiễn, chỉ thiết tha với nỗi sầu muộn ngân sách và nỗi ám ảnh “xây dựng Châu Âu”, có nghĩa là, Liên Minh Châu Âu. Các vấn đề quốc tế đã bị phó mặc cho Người Bảo Trợ Vĩ Đại (Hãy nhớ D-Day [Ngày quân đồng minh đổ bộ ở Normandy]), Hoa Kỳ, người được kỳ vọng là sẽ bảo vệ chúng ta khỏi mọi hỗn loạn mà họ tạo ra. Giờ là lúc thức giấc.

Tình hình rất phức tạp, nhưng không phải tất cả mọi thứ đều không thể hiểu được, ngay cả khi điều đó vô nghĩa.

Hỗn loạn bắt đầu ở hai nơi: Israel xâm lược Palestine và Hoa Kỳ khai thác chủ nghĩa cuồng tín Hồi Giáo ở Afghanistan để phá hủy Liên Bang Soviet. Để chống lại chủ nghĩa quốc gia Arab, cân nhắc tới kẻ thù chủ chốt tại khu vực, Israel đã chào đón sự trỗi dậy của Hồi Giáo chính trị như là một lực lượng để phá hủy chủ nghĩa quốc gia Arab, các nhà nước hiện đại của Iraq, Lybia và Syria đang trên con đường đó. Hoa Kỳ đã thực hiện sự phá hủy các nhà nước đó, sử dụng lý do “nhân đạo”, với sự thúc giục của những người ủng hộ Israel trong bộ máy chính trị của Hoa Kỳ, những người đó đã rao bán chính quyền trên truyền thông với quan niệm rằng kẻ thù của Israel là kẻ thù của Hoa Kỳ. Vai trò của Israel trong những thảm họa này là rất rõ ràng đối với mọi người bên ngoài Hoa Kỳ. Khi được khai thác cho mục đích của Hoa Kỳ hoặc Israel, các khuynh hướng cực đoan đã được thúc đẩy bằng chiến thắng, trở nên mạnh mẽ và trở thành đại diện cho con đường thích hợp để hạ bệ phương Tây trong con mắt của nhiều người. 

Để làm cho vấn đề tồi tệ hơn, Saudi Arabia đã tham gia vào cuộc xung đột, sử dụng nguồn tiền thặng dư khổng lồ của họ để xây dựng các nhà thờ Hồi Giáo và phát tán lý tưởng Wahhabi từ Balkan cho tới Nigeria. Tiền của Saudi đã hỗ trợ nhiều nhóm cuồng tín Sunni với mục tiêu phá hủy Hồi Giáo Shi’ite và làm suy yếu đối thủ Iran. Kể từ khi Israel coi Iran là kẻ thù chính trong khu vực, Saudi Arabia và Israel đã trở thành đồng minh khu vực trên thực tế, cả hai cùng nhận được sự hỗ trợ của Hoa Kỳ.

Pháp bị ràng buộc với Israel bằng “nhận thức tồi”, vốn được truyền thông nuôi dưỡng và thúc đẩy, các cá nhân và chính khách dưới sự ảnh hưởng của những tổ chức như CRIF (Hội Đồng Đại Diện Các Tổ Chức Do Thái Pháp). Họ cũng bị ràng buộc với Saudi Arabia không chỉ bởi dầu mỏ mà còn bởi vì công nghiệp quân sự Pháp cần thị trường Arabia 

Để tóm tắt câu chuyện, hệ thống liên minh giữa các phe đối lập đã dẫn tình trạng mà “phương tây”, có nghĩa là Hoa Kỳ, Anh và Pháp, đang trong chiến tranh với cả hai phe tham chiến ở Syria. Ít nhất, họ cũng giả bộ ném bom những kẻ cuồng tín Hồi Giáo đang muốn phá hủy nhà nước Syria. Đồng thời họ cũng cố gắng phá hủy nhà nước Syria bằng tuyên bố “Assad phải ra đi”. Dường như họ cho rằng nếu Assad ra đi, Syria sẽ vẫn còn đó. Nhưng thực tế, trên hết Assad là biểu tượng và là yếu tố liên kết trong nhà nước Syria hiện nay, quân đội của họ vẫn chiến đấu chống lại các lực lượng vũ trang được nước ngoài hậu thuẫn trong suốt bốn năm bất chấp những thất bại nặng nề và vẫn sẽ tiếp tục thực hiện chức trách của mình. Assad nhận được sự tôn trọng và tuân phục của quân đội cũng như đa số công dân vẫn còn lại trên đất nước bị bao vây. Chiến tranh ở Syria chỉ là cuộc chiến mới nhất trong chuỗi những cuộc chiến đã phá hủy các kẻ thù của Israel và Saudi Arabia, nhờ sự hỗ trợ của Hoa Kỳ. Kêu gọi Assad “ra đi” có nghĩa là kêu gọi chia cắt Syria.

Ai sẽ nhặt nhạnh những mảnh của Syria?

Dĩ nhiên là ba kẻ thù láng giềng của quốc gia này: Thổ Nhĩ Kỳ chiếm miền Bắc, Israel sẽ chiếm cao nguyên Golan (vĩnh viễn) và dĩ nhiên là nhiều hơn nữa, trong khi những tay sai cuồng tín của Saudi Arabia sẽ chiếm phần còn lại, giống như cuộc xung đột đang diễn ra ở Yemen và những nơi khác.

Chỉ có Nga là hành động rõ ràng và hợp lý. Họ đã can thiệp hợp pháp theo yêu cầu của chính quyền Syria. Nga đang cố gắng cứu vớt nhà nước hiện tại và ngăn chặn sự bành trường của những kẻ cuồng tín Hồi Giáo, những kẻ cũng đang đe dọa nước Nga.

Lãnh đạo Hoa Kỳ và Israel đang cấp tốc vỗ về Pháp với “tình đoàn kết” để ngăn không cho quốc gia bị sốc này thoát khỏi sự ràng buộc của liên minh phá hoại. Nhưng đôi khi một thảm họa có thể báo hiệu điểm chuyển đổi.

Điều gì tiếp theo? Pháp vốn đã tham chiến ở Syria, nhưng cuộc chiến nào? Sau khi kêu gọi tổng thống Hollande thể hiện “sự thống nhất quốc gia”, cựu tổng thống Nicolas Sarkozy đã kêu gọi liên minh với Nga để chống lại Daech. “Không thể có hai liên minh ở Syria”, ông ta nói. Giống như Marine LePen, Sarkozy đã tới thăm Moscow và kêu gọi một liên minh tốt hơn với Vladimir Putin. Điều này có nghĩa là quan hệ với NATO và Hoa Kỳ là không rõ ràng vào lúc này.

Liên Minh Châu Âu cũng bị rung chuyển bởi sự phát tán hỗn loạn từ Trung Đông. Cuộc tấn công của kẻ khủng bố Paris rõ ràng đã phá vỡ mọi sự đồng cảm đối với đám đông người nhập cư hỗn tạp từ Trung Đông. Giống như Hungary và Áo, Pháp đã đóng cửa biên giới. Shengen (hiệp định của Liên Minh Châu Âu về biên giới) đã hỏng. Làm gì với người tị nạn là câu hỏi không có câu trả lời. 

Trong tình trạng hiện thời, cánh tả Pháp đang hấp hối trên giường bệnh. Quá nhiều sự dựa dẫm giáo điều vào EU và đồng euro, quá nhiều lừa dối đối với giai cấp công nhân, quá nhiều ảnh hưởng thân Israel, quá nhiều tuân phục Washington, quá nhiều bùa chú trống rỗng về “chủ nghĩa đa văn hóa”, quá nhiều kiểm duyệt đối với tranh luận và câm lặng về mâu thuẫn, quá nhiều tự hài lòng về đức hạnh của bản thân. 

Sự ngạo mạn và thiếu trung thực của cánh tả chắc chắn sẽ đẩy nước Pháp sang cánh hữu. Nhưng hãy chú ý: Cánh hữu Pháp vẫn quá tả so với cánh hữu Hoa Kỳ và thậm chí là quá nhiều cánh tả Hoa Kỳ trên nhiều phương diện chủ chốt. Người Mỹ quan ngại về hòa bình thế giới sẽ không phán xét một quốc gia cuối cùng cũng ở trên bờ vực của việc chống lại chính sách đối ngoại “được chế tạo ở Hoa Kỳ” của họ.

Diana Johnstone’s Queen of Chaos: the Misadventures of Hillary Clinton is available in both paperback and digital format directly from CounterPunch.

Monday, November 16, 2015

Sắc màu của thảm kịch: Paris và truyền thông

Nhà báo nữ Tamara Pearson trong bài viết "The Colors of Tragedy: Paris and the Media" mổ xẻ sự thiên lệch của truyền thông trong sự kiện thảm sát ở Paris. Màu cờ nước Pháp tràn ngập thế giới sau vụ thảm sát ở Paris, còn khi phương tây thảm sát hàng triệu người ở đâu đó trên thế giới thì không có lá cờ nào được vẫy lên. Thảm kịch được tầm thường hóa, chỉ được đưa tin nhằm mục đích câu khách, đồng thời lảng tránh sự thật. 

Sắc màu của thảm kịch: Paris và truyền thông

Khi Paris run rẩy đối mặt với vụ tấn công kinh hoàng vào thứ sau, Beirut cũng vậy sau vụ đánh bom kép vào thứ năm và Palestin cũng vậy hàng ngày. Nhưng nhà hát Opera Sydney chỉ đổi màu vì Pháp và cho nước Pháp – lặp lại sự phản ứng đối với sự kiện Hebdo – các tổng thống phương tây phát biểu trong sự bàng hoàng và truyền thông tư nhân tường thuật trực tiếp, các slide show và các trang đăng video.

Ưu tiên về thảm kịch của truyền thông phản ánh và duy trì ưu tiên về chính trị, theo đó cuộc sống của một số người được coi là quan trọng hơn. Hơn nữa, bằng cách sử dụng thảm kịch có lựa chọn, biến thảm kịch thành giật gân để câu khách và do đó tầm thường hóa thảm kịch, thâm chí bỏ qua việc đưa tin số người chết bởi vì họ không thật sự hiểu. 

Truyền thông đã cực kỳ hấp tấp. Cho dù là truyền hình về tổn thất và đau khổ của địa phương cho sự tò mò tọc mạch của khán giả phương tây mà không cần quan tâm nhiều đến câu chuyện ở phía sau – như trong trường hợp động đất ở Nepal – hay cá nhân hóa các nạn nhân ở Paris, bao quát dòng thời gian của bạo lực theo chi tiết từng phút nhưng dàn xếp để duy trì sự thờ ơ bất chấp sự kiện.

Truyền thông không chỉ tác động tới cái mà khán giả biết, mà còn là cách họ suy nghĩ và điều mà họ quan tâm. Truyền thông không đưa tin về bốn năm biến Syria thành đống hoang tàn, theo cách chi tiết. Truyền thông đã lãng quên Nepal, những dòng tít tuyệt vời nhất đã biến mất và các phân tích về khôi phục và xây dựng dường như quá khó để theo dõi. Người tị nạn chỉ hiện ra trên truyền thông khi họ đặt chân lên đất của thế giới thứ nhất. Truyền thông có có vai trò trong nhận thức phê phán về các cấu trúc kinh tế cũng như xã hội phía sau thảm kịch, nhưng trong thực tế, do chủ sở hữu của truyền thông và động cơ lợi nhuận, nó sẽ không làm vậy. Không chỉ là về bán hàng, truyền thông là sức mạnh phục vụ cho một phe.

Gói tin tức mà truyền thông giới thiệu – những thảm kịch mà chúng trình bày cũng như những thảm kịch mà chúng bỏ qua củng cố một sự bất bình đẳng xã hội nghiêm trọng. Bất cứ đứa trẻ nào cũng biết, điều quan trọng là ai và cái gì phải được chú ý. Thảm kịch của nghèo đói và sự cô lập xã hội quy mô lớn bị truyền thông hạ thấp trong khi máy bay rơi và các vụ nổ súng chiếm vị trí trung tâm. Không phải là chúng phải như vậy mà thực ra là kém may mắn, những thảm kịch lớn nhất diễn là hàng ngày, chúng là dài hạn, tuần hoàn, chúng có nguyên nhân, nhưng đó là những con người sai lầm và thiếu những tiêu đề hấp dẫn, do vậy chúng bị kiểm duyệt bằng sự chung chung, cam chịu, im lặng. Điều đó có nghĩa là chúng được bình thường hóa và chấp nhận.

Các thảm kịch bị hạ thấp 

Những vụ thảm sát hàng triệu người mỗi năm cho tới các dịch bệnh có thể ngăn chặn được không được thừa nhận.

Sự xô đẩy tán loạn trong im lặng của những công nhân quá mệt mỏi bị trả lương thấp không được nhận thấy. Biến trí tuệ sâu sắc thành tư duy tầm thường, sự thể hiện chết cứng, bởi vì giáo dục cao đắt đỏ hơn truyền hình và điện thoại. Sự sáng tạo, nếu nó còn sống sót, được bán cho người đặt giá cao hơn.

Giới hạn với tình dục, giới tính và tồn tại. Có nghĩa là truy tố sự đa dạng và sản xuất có hệ thống ra sự cô độc.

Đầu độc hành tinh, cuộc sống trở thành bốc dầu hỏa và hận thù chờ bùng cháy.

Sự miễn tố của cảnh sát đối với tội sát nhân và sự miễn tố các quốc gia đối với bom đạn.

Ở trường học, lịch sử được dạy theo một chuỗi sự kiện, từ sự kiện này đến sự kiện khác, như là những anh hùng ngẫu nhiên và cá nhân, hơn là một quá trình. Đối với truyền thông ngày nay cũng vậy, Paris là một chuỗi sự kiện, không phải là một chủ đề phức tạp. Nếu có hành động nào xảy ra, điều đó sẽ đơn giản – trừng phạt kẻ thù, cho phép kẻ thù trở thành người dân, bỏ qua bối cảnh, câu hỏi và hậu quả. Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đã tràn ngập các mạng xã hội sau khi Paris được mổ xẻ bằng phân tích nguyên nhân-kết quả - hiện nay đa số bản tin của truyền thông thiếu sự toàn diện . Đâu là các lực lượng và quyền lực tham gia? Đâu là bạo lực xâm lược, cô lập toàn bộ người dân, chuyện đó có liên quan đến chuyện này không? Tạo sao một số vụ bạo lực đối với một số dạng người được chấp nhận, còn đối với những người khác thì không? Đó có phải là một thảm kịch tự sát không?

Tamara Pearson is a long time journalist based in Latin America, and author ofThe Butterfly Prison. Her writings can be found at her blog.

Phản công ở Hàn Quốc

Gregory Elich trong bài "Fightback in Korea" đã chỉ ra mấu chốt của cuộc biểu tình lớn ở Hàn Quốc. Chính quyền và doanh nghiệp Hàn Quốc đang tìm cách tước bỏ quyền lợi của công nhân bằng kế hoạch cải cách lao động. Hàn Quốc đang đi theo con đường của chủ nghĩa tân tự do, tuy có chậm hơn so với Hoa Kỳ và Châu Âu. Tiền lương và phúc lợi của công nhân sẽ bị cắt giảm để doanh nghiệp có thêm lợi nhuận. Đây là nỗ lực kéo doanh nghiệp trở lại Hàn Quốc đầu tư, sau khi các tập đoàn lớn của Hàn Quốc đã chuyển sang đầu tư ở các nước có nhân công giá rẻ hơn. Hiện tượng phổ biến này cho thấy rõ rằng công nhân không thể đấu tranh đơn lẻ ở một quốc gia mà cần đến một phong trào công nhân quốc tế.

Phản công ở Hàn Quốc

Trong bầu không khí gia tăng đàn áp, chính quyền Park Geun-hye ở Hàn Quốc tiến hành loạt tấn công mới nhất vào người dân lao động. Một kế hoạch cải cách lao động tồi tệ đang được triển khai, nhằm mục đích giảm lương và phá vỡ sự ổn định của công ăn việc làm. Công nhân và nông dân đã tham gia đấu tranh trên đường phố, đây là sự phản kháng rộng rãi và quyết định đối với kế hoạch này.

Cải cách lao động được triển khai với một danh sách các biện pháp đáng mơ ước mà chủ doanh nghiệp theo đuổi, họ hy vọng thấy lợi nhuận tăng vọt. “Từ phía cầu, chúng ta phải cắt giảm gánh nặng của doanh nghiệp có thuê nhân công bằng cách làm cho thị trường linh hoạt hơn,” bộ trưởng bộ tài chính Choi Kyung-hwan khẳng định. (1) “Sự linh hoạt” tưởng tượng, không có gì ngạc nhiên, được coi là chỉ phụ thuộc vào công nhân.

Một trong những mục tiêu chủ chốt của kế hoạch là phổ biến việc sử dụng lao động thời vụ. Trong số các quốc gia của Tổ Chức Hợp Tác Kinh Tế và Phát Triển (OECD), Hàn Quốc đã xếp hạng cao nhất về mức độ sử dụng lao động thời vụ, chiếm 1/5 lực lượng lao động. (2) Công nhân thời vụ đặc trưng nhận được ít hoặc không có phúc lợi, lương của họ chỉ bằng 2/3 lương của lao động cố định. Đối với công nhân bán thời gian, tình hình còn tồi tệ hơn, lương chỉ hơn chút xíu so với một nửa lương của lao động cố định. (3) Vì những lý do rõ ràng, doanh nghiệp muốn áp dụng sự sắp xếp này cho một bộ phận lớn hơn của lực lượng lao động.

Cải cách lao động gia tăng gấp đôi thời gian một công nhân được thuê theo thời vụ, kéo dài tới 4 năm. Phạm vi của cách ngành sử dụng công nhân thời vụ cũng được mở rộng. Khi hợp đồng thuê lao động hết hạn, không có gì ngăn cản doanh nghiệp thuê lại chính công nhân đó trong thời gian 4 năm tiếp theo, cũng với mức lương thấp như cũ.

Một biện pháp sẽ phá hủy sự bảo vệ đối với công ăn việc làm ổn định là cho phép các doanh nghiệp đơn phương sa thải công nhân, dựa trên các yếu tố khách quan. Cải cách lao động cũng tạo cho doanh nghiệp quyền được đơn phương thay đổi quy định về nơi làm việc. Nhóm doanh nghiệp dẫn chứng luật hợp đồng lao động năm 2007 làm hình mẫu, luật này cho phép các doanh nghiệp “điều chỉnh quy định về lao động mà không cần sự đồng thuận của người lao động… nhằm giúp doanh nghiệp thích ứng linh hoạt với sự thay đổi của môi trường kinh doanh.” Theo quan điểm của doanh nghiệp, tỷ lệ công đoàn thấp của Hàn Quốc vẫn là quá cao và “việc sử dụng công nhân thay thế phải được phép để đáp lại các yêu cầu vô lý thông qua bãi công của công đoàn.” (4)

Điều gây tranh cãi nhất trong cải cách lao động là việc áp dụng hệ thống lương tối đa, theo đó doanh nghiệp không chỉ được phép mà còn được khuyến khích cắt giảm lương của công nhân khi họ đến tuổi 55. Chính quyền đang bán rao quy định này như là một giải pháp đối với tỷ lệ thất nghiệp cao của thanh niên. Lập luận được đưa ra là tiền mà doanh nghiệp tiết kiệm được bằng cách giảm lương của công nhân có kinh nghiệm sẽ giúp họ thuê nhiều lao động trẻ tuổi hơn. Logic này thật kỳ quặc. Một doanh nghiệp thuê số lao động mà nó cảm thấy cần. Cắt giảm lương của một bộ phận nhân công không tự động tạo ra các vị trí mới. Mặt khác, theo quan điểm của doanh nghiệp, lợi thế chủ yếu của việc thuê lao động trẻ tuổi là họ có thể trả mức lương khởi điểm thấp. Nếu cắt giảm thu nhập của công nhân có kinh nghiệm thì doanh nghiệp lại càng có ít động lực để thuê lao động trẻ tuổi. 

Doanh nghiệp bị tiền mặt hấp dẫn nhưng họ lại ngại ngần về chi tiêu. Chính quyền đã giảm thuế doanh nghiệp ba điểm phần trăm, một nỗ lực thất bại để thúc đẩy đầu tư. Trái lại, khuynh hướng của doanh nghiệp là tích lũy tiền mặt. (5) 1.835 doanh nghiệp đăng ký tại Sở Giao Dịch Hàn Quốc sở hữu dự trữ tiền mặt lên tới 845 nghìn tỷ won – tương đương với 730 tỷ dollar. Hiện tượng này đã gia tăng 159% so với năm 2008. (6) Hơn nữa, trong bốn thập kỷ qua, doanh nghiệp Hàn Quốc đã tăng gấp ba lần lượng tiền mặt họ cất giữ trong các tài khoản quốc tế. (7) Không có lý do gì để tin rằng việc quẳng thêm tiền vào núi tiền mặt của doanh nghiệp sẽ khuyến khích doanh nghiệp thuê thêm lao động trẻ. 

Trong khi đó, chính quyền thông báo ý định gia hạn tuổi nhận khoản lương hưu và phúc lợi nghèo nàn lên 70 tuổi. Gần một nửa công dân già sống dưới mức nghèo khổ, con số này sẽ gia tăng với kế hoạch của chính quyền. Những người đủ may mắn để giữ được việc làm sẽ bị buộc phải làm việc với mức lương thấp trong khi những người còn lại phải dựa vào con cái để sinh sống. Với độ tuổi nghỉ hưu mới, công nhân già hơn sẽ giữ việc làm trong thời gian dài hơn, chính quyền được cho là không muốn giải phóng những chỗ làm đó cho công nhân trẻ.

Sự quan tâm giả tạo đối với thanh niên là bình phong che đậy cho những người thực sự hưởng lợi từ cải cách lao động. Doanh nghiệp thu được lợi nhuận khổng lồ từ việc cắt giảm lương của công nhân lớn tuổi cũng như gia tăng sử dụng lao động thời vụ. Nỗ lực đẩy người trẻ đối đầu với người già là mánh lừa gạt trong cẩm nang tân tự do cũ kỹ, nhằm mục đích đánh lạc hướng công nhân ra khỏi các đầu mối chính trị. Kế hoạch được doanh nghiệp ủng hộ chỉ là tạo thêm công việc thời vụ cho thanh niên và lời hứa hão.

Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của thanh niên, bộ trưởng bộ tài chính Choi có một tầm nhìn cho tương lai của giáo dục. Ông ta thông báo rằng một sự tiến bộ đã được tạo ra cho cải cách lao động, chính quyền dự định tái cấu trúc hệ thống giáo dục. “Đại học phải có khả năng cung cấp các tài năng mà công nghiệp muốn,” ông ta khẳng định. Đây lại là một lập luận khác từ cẩm nang lừa gạt tân tự do cũ kỹ, theo đó khái niệm về giáo dục tạo ra các công dân được có hiểu biết và hoàn thiện được ném qua cửa sổ. Thay vào đó, vai trò cao quý của giáo dục chẳng là gì ngoài việc đào tạo nghề. Trên hết, đâu là sự tốt đẹp của kiến thức không trực tiếp phục vụ cho lợi nhuận của doanh nghiệp? 

Nhiều sinh viên hoài nghi về lập trường của chính quyền. Một nhóm sinh viên có tên là Misfits đã gửi thư cho Choi, nói rằng: “Chúng tôi không bất bình vì những công nhân bình thường được bảo vệ quá mức. Chúng tôi bất bình vì các công nhân thời vụ không được đảm bảo các phúc lợi như công nhân bình thường.” (8)

Doanh nghiệp cần phải cắt giảm lương của công nhân lớn tuổi, chính phủ của Park Geun-hye khẳng định, bởi vì công nhân già có năng suất kém hơn khi cao tuổi. Cũng với lý do tương tự, doanh nghiệp phải được tự do sa thải công nhân khi họ thấy giá trị giảm đi. Đâu là cơ sở của khẳng định này? Không có bằng chứng nào ủng hộ định kiến này, thực sự là những công nhân già nói chung tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong vị trí của họ.

Chính quyền và doanh nghiệp khẳng định rằng năng suất trì trệ là do công nhân được bảo vệ quá mức. Mặc dù vậy, vào thời kỳ 2007-2012, tiền lương thực tế giảm 2,3% trong khi năng suất lao động tăng gần 10%. (9) Ai thiệt hại? Năng suất lao động gia tăng không đi cùng với tăng lương để gia tăng bóc lột công nhân. Mối lo ngại thực tế của lãnh đạo doanh nghiệp là tỷ suất bóc lột không tăng đủ nhanh để thỏa mãn họ.

Cải cách lao động của chính quyền sẽ không được áp dụng đơn lẻ. Chính quyền đã cấm công đoàn giáo viên và nhân viên chính quyền, cũng như đảng Tiến Bộ Thống Nhất dựa trên các bản án vu cáo. Cảnh sát đã thường xuyên đột kích các văn phòng công đoàn, thu giữ hồ sơ và bắt giữ các cán bộ công đoàn. Theo khuynh hướng không khoan nhượng, doanh nghiệp kiện công nhân ra tòa vì “tổn thất lợi nhuận” khi công nhân đình công và tòa án thường xuyên phán xét có lợi cho doanh nghiệp. Trong một vụ kiện mới đây, điển hình cho khuynh hướng này, tòa Thượng Thẩm Seoul đã yêu cầu 139 công nhân trả tổng cộng 2,8 triệu dollar cho công ty Ssangyong Motor vì tổ chức bãi công “bất hợp pháp”. (10) Điều đó có nghĩa là mỗi công nhân phải trả hơn 20.000 dollar.

Những người nắm quyền lực “đã khiến công nhân sợ hãi rằng đấu tranh có thể dẫn đến mất tất cả,” Han Sang-kyun, chủ tịch của Tổng Liên Đoàn Công Đoàn Hàn Quốc (KCTU), giải thích. “Khoản tiền phạt khổng lồ và tịch thu tài sản cho những cái được gọi là thiệt hại, lệnh bắt giam, sa thải, giải tán các công đoàn dân chủ - đó là những hình thức trừng phạt đối với những người dám đấu tranh. Một sân chơi không công bằng, trong đó chính quyền nhất quán đứng về phía tư bản, đã phá hủy nghiêm trọng các quyền của công nhân.”

Han kể về kinh nghiệm của ông, đã bị bỏ tù ba năm vì vai trò trong cuộc đình công ngồi ở nhà máy sản xuất của công ty Ssangyong Motor. Hiện nay, ông không thể đi ra khỏi văn phòng, bị hàng trăm cảnh sát bao vây, chờ để bắt giữ ông ngay khi ông ra khỏi tòa nhà.

Trong một nỗ lực đe dọa KCTU, vào ngày 6 tháng 11, khoảng 200 cảnh sát đã đột kích trụ sở của một thành viên Tổng Liên Đoàn, Công Đoàn Công Nhân Vận Tải và Dịch Vụ Công Cộng. Cảnh sát đã tịch thu hồ sơ và ổ cứng máy tính, sau đó thâm nhập và tìm kiếm các văn phòng chi nhánh của công đoàn. Lệnh bắt giữ mười hai thành viên của công đoàn đã được phát ra.

Công nhân bị đàn áp dữ dội, nhưng vẫn chưa đủ để xoa dịu doanh nghiệp. Doanh nghiệp Hàn Quốc coi cải cách lao động chỉ là một bước trong việc tước đoạt lợi ích của công nhân. Một thông cáo được Tổng Liên Đoàn Lao Động Hàn Quốc, phòng Thương Mại và Công Nghiệp Hàn Quốc, cũng như ba nhóm doanh nghiệp khác ký tên nêu rõ rằng kế hoạch cải cách lao động “không đủ để làm cho thị trường lao động linh hoạt hơn,” và “thậm chí là chưa tiến đến gần với cải cách lao động mà xã hội của chúng ta cần.” Công nhân có thể sẽ phải nhận nhiều cuộc tấn công hơn. “Doanh nghiệp sẽ không ngừng thúc đẩy nỗ lực làm cho thị trường lao động linh hoạt hơn,” bản thông cáo cảnh báo. (11)

Phản kháng đang gia tăng, một cuộc tuần hành quy mô lớn ở Seoul được tổ chức vào ngày 14 tháng 11 nhằm lôi kéo khoảng 100.000 người biểu tình. Năm mươi ba tổ chức đã liên kết để tổ chức hành động, trong đó có KCTU, Liên Minh Nông Dân Hàn Quốc và Liên Minh Phụ Nữ Quốc Gia. Các cuộc tuần hành đơn lẻ cũng được tổ chức tại khắp các nơi ở Seoul, sau đó tất cả các nhóm tập hợp lại thành một cuộc biểu tình lớn ở Gwanghwamun Plaza.

Trong khi động cơ tức thời của cuộc biểu tình là kế hoạch cải cách lao động thì những bất bình đối với chính quyền bảo thủ lại có rất nhiều. Liên minh đã cho thấy phạm vi các yêu cầu trải rộng xung quanh mục tiêu được cuộc biểu tình hướng tới, khung cảnh chung là kêu gọi chấm dứt đàn áp cũng như tiến tới một xã hội hướng tới người dân nhiều hơn. (12)

Nông dân được cho là biểu dương sức mạnh, thể hiện sự bất bình đối với việc ký kết hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương, mà bộ nông nghiệp Hoa Kỳ đã chỉ ra rằng sẽ “phá vỡ các rào cản thị trường đối với nhà xuất khẩu Hoa Kỳ.” (13) Điều đó sẽ khiến nhiều nông dân Hàn Quốc bị thiệt hại, nhiều người trong số họ có thể sẽ phá sản. Kim Yeong-ho, chủ tịch của Liên Minh Nông Dân Hàn Quốc, lên án chính phủ Park Geun-hye về việc “tạo ra một cấu trúc bóc lột thường xuyên.” Ông nói thêm: “Họ đang cố gắng tước đoạt dân chủ…. Đó là lý do chúng tôi biểu tình vào ngày 14 tháng 11 – cho công nhân, nông dân, thanh niên và sinh viên để thể hiện những gì đang diễn ra và báo động.”

KCTU đã “ném mọi thứ vào cuộc chiến này,” chủ tịch Han Sang-kyun của KCTU nói. Nếu chính quyền tiếp tục triển khai cải cách lao động, “chúng tôi đã chuẩn bị tiến hành tổng bãi công. Lần này sẽ không phải là bãi công một ngày. Chúng tôi nói về việc ngừng sản xuất, xe tải chở hàng hóa ngừng chạy, công nhân đường sắt và tàu điện ngầm bãi công bất hợp pháp, làm tê liệt đất nước đến mức chính quyền sẽ cảm thấy thiếu công nhân. Đấy là điều mà chúng tôi chuẩn bị.” 

Đấu tranh đang trở nên nóng bỏng ở Hàn Quốc, một nước mà truyền thông doanh nghiệp phương Tây chắc chắn là sẽ bỏ qua. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta phải đi theo con đường lảng tránh của họ. Người dân Hàn Quốc đang mong đợi sự đoàn kết của chúng ta đúng vào lúc mà họ cần tới. 

Notes.

1) “Rethinking Labor Reform,” Korea Times, August 17, 2015

2) Choonsik Yoo, “In South Korea, Park’s Revamp of Rigid Labor Laws Faces Opposition,” Reuters, September 23, 2015.

3) Kim Bok-soon, “Comparison of Wages and Working Conditions by Size of Enterprise,” Issue Paper, Labor News, No. 160, Korea Labor Institute, August 25, 2015.

4) Statement, “Business Stance on the Labor Reform,” The Korea Employers Federation, The Korea Chamber of Commerce and Industry, The Federation of Korean Industries, The Korean Federation of Small and Medium Business, The Korea International Trade Association, August 31, 2015.

5) “S. Korean Firms’ Cash Reserves Hit Record High,” Korea Herald, February 16, 2015.

6) Samsung, Hyundai Motor Groups Pare Cash Reserves in H1,” Yonhap, September 13, 2015.

7) Michael Herh, “Korean Companies’ Offshore Balances Tripled Over Last 4 Years,” Business Korea, October 1, 2015.

8) Kahyun Yang, “With Jobs Scarce, South Korean Students Remain on Campus,” Reuters, January 5, 2015.

9) Wol-san Liem, “Overview of the Korean Labor Movement: the Current Moment,” Korean Public Service and Transport Workers’ Union.

10) “Ssangyong Labor Union Ordered to Pay Compensation for Strikes,” Yonhap, September 16, 2015.

11) Statement, “Business Stance on the Tripartite Agreement,” The Federation of Korean Industries, The Korean Chamber of Commerce and Industry, The Korea Federation of Small and Medium Business, The Korea International Trade Association, the Korea Employers Federation, September 15, 2015.

12) A sampling of demands: Employment and Labor (Stop Retrogressive Labor Market Reform); Agriculture (Stop rice imports, Oppose the TPP); People’s Livelihood/Urban Poor (Abolish the disability ranking system, Stop crackdowns on street vendors); Youth/Students (Open the safes of chaebols to create meaningful jobs for youth); Democracy (Stop state repression, Abolish the National Security Law, Free all prisoners of conscience); Human Rights (Stop government/municipality violation of human rights); Peace and Self-determination (Oppose THAAD deployment om the Korean Peninsula, Improve North-South relations); Sewol (Carry out the salvaging of the Sewol ferry); Environment (Abandon plans for cable car construction in national parks); Public Service (Stop privatization of healthcare, railroad, gas, and water); Chaebol Responsibility (Reclaim chaebol reserve assets to implement a minimum wage of 10,000 won).

13) “Why Trade Promotion Authority is Essential for U.S. Agriculture and the Trans-Pacific Partnership,” U.S. Department of Agriculture, April 2014.

Gregory Elich is on the Board of Directors of the Jasenovac Research Institute and the Advisory Board of the Korea Policy Institute. He is a columnist for Voice of the People, and one of the co-authors of Killing Democracy: CIA and Pentagon Operations in the Post-Soviet Period, published in the Russian language.