Hàng ngàn năm trong các xã hội phong kiến, mọi đất đai đều thuộc về nhà vua. Nông dân chưa bao giờ sở hữu đất đai và phổ biến là một nền nông nghiệp gia trưởng dựa trên lao động của gia đình. Việc canh tác cũng chỉ để nuôi sống gia đình chứ không phải để sản xuất hàng hóa. Do vậy, những cộng đồng nhỏ như làng trở thành phần vững chãi nhất của xã hội. Các triều đại có thể thay đổi, những kẻ xâm lược đến rồi đi, nhưng cái làng vẫn sẽ luôn tồn tại như nó đã tồn tại.
Khi người Pháp xâm lược Việt Nam thì họ chỉ thiết lập nên chế độ tư hữu ruộng đất hiện đại ở một phần rất nhỏ của thuộc địa, chủ yếu để phục vụ cho các nhà tư bản kinh doanh các loại nguyên vật liệu thô để cung cấp cho thị trường mẫu quốc. Phần lớn đất đai còn lại vẫn tiếp tục thuộc về nhà vua như cũ. Gần nửa thế kỷ sau mặc dù không còn tồn tại trên giấy tờ thì chế độ sở hữu phong kiến vẫn còn in đậm trong tập quán của người dân. Vào năm 1903, khi chính quyền thành phố Hà Nội quyết định thu hồi đất thuộc sở hữu tập thể, các phố trưởng đã xác thực giấy chứng nhận sở hữu các khu đất đó cho các chủ tư nhân khiến chính quyền không thể thu hồi được (1). Theo tập quán thì các phố trưởng xác nhận việc sử dụng chứ không phải việc sở hữu bởi vì không có ai sở hữu đất đai cả, nhưng chính quyền Pháp thường mặc nhiên coi đó là giấy chứng nhận sở hữu để dễ dàng trong giao dịch và các phố trưởng đã lợi dụng chính điều đó để chống lại họ.
Các nhà tư bản Pháp tới thuộc địa dễ dàng chiếm được những mảnh đất lớn nhưng họ không thể nào kiếm được đủ lao động làm thuê vì phần lớn nông dân bám chặt lấy mảnh đất canh tác nhỏ của gia đình. Chính quyền thuộc địa dưới sức ép phải đảm bảo quyền lợi cho các nhà tư bản Pháp đã thi hành hai chính sách nhằm tách người nông dân ra khỏi đất đai. Một mặt chính quyền thuộc địa đánh thuế rất cao đối với nông dân, một thống kê so sánh thuế giữa chế độ phong kiến với chế độ thực dân cuối năm 1874 cho thấy: thuế quan điền đã tăng hơn 2 lần trong khi diện tích đất canh tác không tăng, thuế thân tăng gấp 14 lần (2). Tất cả các khoản thuế này đều thu bằng tiền trong khi nông dân canh tác để nuôi sống gia đình mình chứ không bán nông sản lấy tiền. Thuế khóa nặng nề khiến cho phần lớn nông dân rơi vào tay đám cho vay nặng lãi và cuối cùng bị phá sản hoàn toàn. Mặt khác chính quyền thực dân dung túng cho các địa chủ cướp đất của nông dân một cách có hệ thống thông qua những nhập nhằng trong hệ thống pháp lý. Vụ án đồng Nọc Nạn nổi tiếng chính là kết quả của chính sách ấy, nực cười thay nó lại được dùng để ca ngợi tinh thần công minh của các quan tòa Pháp và cổ vũ cho chủ trương "Pháp-Việt đề huề" của tầng lớp tư sản bản địa. Chính sách của người Pháp đã tạo cơ hội cho những địa chủ rất lớn ở Nam Kỳ xuất hiện, như ông bố của công tử Bạc Liêu có tới 100 ngàn ha ruộng lúa và 50 ngàn ha ruộng muối. Tuy vậy, chưa bao giờ các địa chủ lớn lại phổ biến ở Việt Nam và lối kinh doanh của họ cũng không phải là lối kinh doanh dựa trên lao động làm thuê như ở nước Pháp. Tất cả các địa chủ đều giao đất cho tá điền canh tác và thu tô dưới dạng hiện vật.
Mặc dù người Pháp nỗ lực tìm cách khai thác thuộc địa nhưng trên thực tế không đem lại nhiều kết quả vì hai lý do chủ yếu. Thứ nhất là tập quán sản xuất tự cấp tự túc vẫn còn mạnh mẽ và năng suất lao động thấp nên người dân không mấy gắn bó với chế độ làm thuê, chỉ cần có dịp thuận tiện là họ lại bỏ về làng làm ruộng. Thứ hai là công nghiệp Pháp không cạnh tranh được với công nghiệp Đức nên thị trường xuất khẩu nguyên vật liệu thô của thuộc địa bị thu hẹp lại. Dần dần, người Pháp từ bỏ việc kinh doanh không đem lại nhiều lợi nhuận và trở thành một tầng lớp ăn bám, lợi dụng những quan hệ sản xuất phong kiến để trút cái gánh nặng tài chính cho cuộc sống xa hoa của mình lên người dân thuộc địa. Thay vì trở thành những người khai hóa văn minh cho thuộc địa thì chính họ lại bị phong kiến hóa và tụt xuống trạng thái xã hội trung cổ ngay trên những tiện nghi và quan hệ sản xuất hiện đại mà họ mang theo từ mẫu quốc.
Sau khi người Pháp thua trận tại Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc được giải phóng và chế độ công hữu về đất đai được thiết lập từng bước để đảm bảo nó phù hợp với tình hình thời chiến. Miền Nam rơi vào tay người Mỹ, chính quyền do người Mỹ dựng lên cố gắng tư hữu hóa đất đai theo hướng có lợi cho địa chủ và bắt nông dân phải gánh toàn bộ phí tổn. Chính quyền ấy xóa bỏ vương triều phong kiến song lại thực thi quy chế tá điền của thời phong kiến. Điều đó đã khiến nông dân chống lại họ, chính sách tư hữu hóa đất đai bị thất bại. Cuối cùng, người Mỹ thua trận và Việt Nam trở thành một quốc gia thống nhất, chế độ sở hữu đất đai ở miền Bắc được đem ra áp dụng cho toàn quốc cho tới nay.
Như vậy, do những quanh co của lịch sử mà chế độ sở hữu đất đai tư nhân hiện đại, tức là dựa trên lao động làm thuê, chưa bao giờ tồn tại ở Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
(1) Philippe Papin-Lịch sử Hà Nội; NXB Mỹ Thuật 2010; trang 255
(2) Trương Bá Cần-Hoạt động ngoại giao của nước Pháp nhằm củng cố cơ sở tại Nam Kỳ (1862-1874); NXB Thế Giới 2011; trang 447
Khi người Pháp xâm lược Việt Nam thì họ chỉ thiết lập nên chế độ tư hữu ruộng đất hiện đại ở một phần rất nhỏ của thuộc địa, chủ yếu để phục vụ cho các nhà tư bản kinh doanh các loại nguyên vật liệu thô để cung cấp cho thị trường mẫu quốc. Phần lớn đất đai còn lại vẫn tiếp tục thuộc về nhà vua như cũ. Gần nửa thế kỷ sau mặc dù không còn tồn tại trên giấy tờ thì chế độ sở hữu phong kiến vẫn còn in đậm trong tập quán của người dân. Vào năm 1903, khi chính quyền thành phố Hà Nội quyết định thu hồi đất thuộc sở hữu tập thể, các phố trưởng đã xác thực giấy chứng nhận sở hữu các khu đất đó cho các chủ tư nhân khiến chính quyền không thể thu hồi được (1). Theo tập quán thì các phố trưởng xác nhận việc sử dụng chứ không phải việc sở hữu bởi vì không có ai sở hữu đất đai cả, nhưng chính quyền Pháp thường mặc nhiên coi đó là giấy chứng nhận sở hữu để dễ dàng trong giao dịch và các phố trưởng đã lợi dụng chính điều đó để chống lại họ.
Các nhà tư bản Pháp tới thuộc địa dễ dàng chiếm được những mảnh đất lớn nhưng họ không thể nào kiếm được đủ lao động làm thuê vì phần lớn nông dân bám chặt lấy mảnh đất canh tác nhỏ của gia đình. Chính quyền thuộc địa dưới sức ép phải đảm bảo quyền lợi cho các nhà tư bản Pháp đã thi hành hai chính sách nhằm tách người nông dân ra khỏi đất đai. Một mặt chính quyền thuộc địa đánh thuế rất cao đối với nông dân, một thống kê so sánh thuế giữa chế độ phong kiến với chế độ thực dân cuối năm 1874 cho thấy: thuế quan điền đã tăng hơn 2 lần trong khi diện tích đất canh tác không tăng, thuế thân tăng gấp 14 lần (2). Tất cả các khoản thuế này đều thu bằng tiền trong khi nông dân canh tác để nuôi sống gia đình mình chứ không bán nông sản lấy tiền. Thuế khóa nặng nề khiến cho phần lớn nông dân rơi vào tay đám cho vay nặng lãi và cuối cùng bị phá sản hoàn toàn. Mặt khác chính quyền thực dân dung túng cho các địa chủ cướp đất của nông dân một cách có hệ thống thông qua những nhập nhằng trong hệ thống pháp lý. Vụ án đồng Nọc Nạn nổi tiếng chính là kết quả của chính sách ấy, nực cười thay nó lại được dùng để ca ngợi tinh thần công minh của các quan tòa Pháp và cổ vũ cho chủ trương "Pháp-Việt đề huề" của tầng lớp tư sản bản địa. Chính sách của người Pháp đã tạo cơ hội cho những địa chủ rất lớn ở Nam Kỳ xuất hiện, như ông bố của công tử Bạc Liêu có tới 100 ngàn ha ruộng lúa và 50 ngàn ha ruộng muối. Tuy vậy, chưa bao giờ các địa chủ lớn lại phổ biến ở Việt Nam và lối kinh doanh của họ cũng không phải là lối kinh doanh dựa trên lao động làm thuê như ở nước Pháp. Tất cả các địa chủ đều giao đất cho tá điền canh tác và thu tô dưới dạng hiện vật.
Mặc dù người Pháp nỗ lực tìm cách khai thác thuộc địa nhưng trên thực tế không đem lại nhiều kết quả vì hai lý do chủ yếu. Thứ nhất là tập quán sản xuất tự cấp tự túc vẫn còn mạnh mẽ và năng suất lao động thấp nên người dân không mấy gắn bó với chế độ làm thuê, chỉ cần có dịp thuận tiện là họ lại bỏ về làng làm ruộng. Thứ hai là công nghiệp Pháp không cạnh tranh được với công nghiệp Đức nên thị trường xuất khẩu nguyên vật liệu thô của thuộc địa bị thu hẹp lại. Dần dần, người Pháp từ bỏ việc kinh doanh không đem lại nhiều lợi nhuận và trở thành một tầng lớp ăn bám, lợi dụng những quan hệ sản xuất phong kiến để trút cái gánh nặng tài chính cho cuộc sống xa hoa của mình lên người dân thuộc địa. Thay vì trở thành những người khai hóa văn minh cho thuộc địa thì chính họ lại bị phong kiến hóa và tụt xuống trạng thái xã hội trung cổ ngay trên những tiện nghi và quan hệ sản xuất hiện đại mà họ mang theo từ mẫu quốc.
Sau khi người Pháp thua trận tại Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc được giải phóng và chế độ công hữu về đất đai được thiết lập từng bước để đảm bảo nó phù hợp với tình hình thời chiến. Miền Nam rơi vào tay người Mỹ, chính quyền do người Mỹ dựng lên cố gắng tư hữu hóa đất đai theo hướng có lợi cho địa chủ và bắt nông dân phải gánh toàn bộ phí tổn. Chính quyền ấy xóa bỏ vương triều phong kiến song lại thực thi quy chế tá điền của thời phong kiến. Điều đó đã khiến nông dân chống lại họ, chính sách tư hữu hóa đất đai bị thất bại. Cuối cùng, người Mỹ thua trận và Việt Nam trở thành một quốc gia thống nhất, chế độ sở hữu đất đai ở miền Bắc được đem ra áp dụng cho toàn quốc cho tới nay.
Như vậy, do những quanh co của lịch sử mà chế độ sở hữu đất đai tư nhân hiện đại, tức là dựa trên lao động làm thuê, chưa bao giờ tồn tại ở Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
(1) Philippe Papin-Lịch sử Hà Nội; NXB Mỹ Thuật 2010; trang 255
(2) Trương Bá Cần-Hoạt động ngoại giao của nước Pháp nhằm củng cố cơ sở tại Nam Kỳ (1862-1874); NXB Thế Giới 2011; trang 447