Showing posts with label Nhà tù. Show all posts
Showing posts with label Nhà tù. Show all posts

Sunday, August 26, 2018

Tin tức về một tay giặc lái

Ảnh: Bia John McCain ở hồ Trúc Bạch
Nguồn: Internet
Mục sư nói với người nhà của thượng nghị sĩ John McCain quá cố:
-Tôi có tin tốt lành cho các vị đây: McCain đang được bay lên thiên đường với đức Chúa Trời.
- Ông ấy đã tới nơi chưa, thưa cha? Một người hỏi.
Mục sư nói tiếp:
- Còn đây là tin xấu: Tụi Việt Cộng đã bắn rơi máy bay của ông ấy.

(Chuyện bịa, nhưng không nhất thiết phải khác với sự thật)

P/s: Nhiều năm nữa người ta sẽ quên John McCain, như đã quên Bill Clinton, nhưng tấm bia hồ Trúc Bạch sẽ luôn còn đó, nhắc nhở người Việt Nam về những gì họ đã phải làm để giành lấy độc lập, tự do và phẩm giá.

Monday, June 15, 2015

Quýt làm cam chịu: Mỹ tra tấn, Ba Lan bồi thường

Người Ba Lan có thể tức giận vì họ phải bồi thường cho các nạn nhân bị Mỹ tra tấn tại nhà tù bí mật của CIA ở Ba Lan, nhưng khi họ cho Mỹ đặt nhà tù bí mật ở trên đất nước mình thì họ cũng nên lường trước hậu quả. Một bài học đáng nhớ cho các đồng minh thân cận và những nước muốn làm đồng minh của Hoa Kỳ. Dưới đây là bản dịch bài viết "Poland pays for America's crimes" của Nat Perry đăng trên tạp chí ColdType số 99 tháng 6 năm 2015.

Ba Lan bồi thường cho tội ác của Hoa Kỳ 

Một trong những điều nực cười nhất của cuộc chiến chống khủng bố của Hoa Kỳ và quan hệ xuyên Đại Tây Dương là trách nhiệm dân chủ và bảo vệ nhân quyền của họ ở các nước cựu Liên Bang Soviet có vẻ mạnh mẽ hơn là ở chính quê nhà của họ vào lúc này. Bài học này được đưa về nhà một lần nữa vào tháng trước khi Ba Lan thanh toán ¼ triệu dollar cho hai nghi phạm khủng bố bị CIA tra tấn tại nhà tù bí mật trên lãnh thổ Ba Lan từ năm 2002 đến 2003. 

Với phán quyết của Tòa Án Nhân Quyền Châu Âu (ECHR), bản án đã gây ra sự phẫn nộ của nhiều người Ba Lan, họ cảm thấy không công bằng khi bị trừng phạt bởi những sai trái của Hoa Kỳ. “Chúng tôi phải trả tiền bồi thường mặc dù người của chúng tôi không làm gì sai,” cựu ngoại trưởng Ba Lan Radoslaw Sikorski nói. Sikorski cho biết Ba Lan là nước duy nhất đã nhận trách nhiệm về việc các quan chức cấp cao của họ cho phép CIA vi phạm nhân quyền trên lãnh thổ của họ. 

Hoa Kỳ vẫn tiếp tục thiếu trách nhiệm, họ không điều tra hay xét xử các quan chức cấp cao cho phép vi phạm nhân quyền tại các nhà tù bí mật của CIA ở Ba Lan hay bất cứ đâu trên thế giới.

Trong số 119 tù nhân bị giam giữ tại các nhà tù bí mật của CIA từ năm 2001 đến năm 2006, có ít nhất 39 người bị thành viên của CIA tra tấn, theo báo cáo của Ủy Ban Tình Báo Thượng Viện về tra tấn được công báo vào tháng 12 vừa qua. Hai cá nhân bị tra tấn ở Ba Lan, Abu Zabaydah và Abd al-Rahim al-Nashiri, đã được chuyển tới vịnh Guantanamo, họ ở đó cho tới năm 2006.

Trong khi al-Nashiri mới bị xét xử vì tổ chức đánh bom chiến hạm USS Cole vào năm 2000 thì Abu Zubayah được coi là một trong số những “tù nhân vĩnh viễn” của Guantanamo mà không có bản án hay phiên tòa nào được dự định, cũng chưa có một quy định sơ bộ nào cho trường hợp của anh này trong gần bảy năm. Vào ngày 12 tháng 5 năm 2015, tờ ProPublica cho biết anh này đã bị giam “2.477 ngày và vẫn tiếp tục”. Một trong các luật sư của anh, Hellen Duffy, viết cho tờ Guardian và tháng 12 vừa qua, sau khi bản tóm tắt báo cáo bị trì hoãn dài ngày của thượng viện được công bố, “hiện giờ Abu Zubaydah có thể được coi là tang vật loại A” trong chương trình giam giữ và tra tấn của CIA. 

“Anh ấy có sự khác biệt đáng tiếc là nạn nhân đầu tiên của chương trình tra tấn của CIA, như báo cáo đã làm rõ, nhiều kỹ thuật tra tấn (hay “thẩm vấn nâng cao”) đã được phát triển và chỉ có tù nhân biết rõ rằng họ là đối tượng của chúng,” Duffy viết.

Báo cáo của thượng viện có khoảng 1.000 dẫn chiếu đến trường hợp Abu Zubaydah, xác nhận các phát hiện của ECHR liên quan đến kỹ thuật thẩm vấn mà anh ta phải chịu đựng.

Trong đó có “walling” (liên tục bị đẩy sát vào tường), cấm ngủ tới 180 giờ (thường xuyên khỏa thân trong tư thế căng thẳng) và nhấn nước. Việc nhấn nước Abu Zubaydah, anh ta bị nhấn nước 83 lần trong 1 tháng, được cấp cao nhất của chính quyền Hoa Kỳ cho phép. Anh ta cũng bị giam giữ tàn nhẫn. “Trong 20 ngày liên tục của “giai đoạn thẩm vấn quyết định”, AbuZubayah bị giam tổng cộng 266 giờ (11 ngày, 2 giờ) trong một chiếc hộp giam giữ có kích thước bằng chiếc quan tài và 22 giờ trong hộp giam nhỏ với chiều rộng 53,34 cm, chiều sâu 0,77m và chiều cao 0,77m,” theo báo cáo của thượng viện. “Nhân viên thẩm vấn của CIA nói với Abu Zubaydah rằng cách duy nhất anh ta có thể ra khỏi nhà tù là trong một chiếc hộp giam hình quan tài.”

Duffy cho biết ngoài vụ tra tấn Aby Zubaydah, báo cáo của thượng viện cũng tiết lộ về số lượng thông tin sai lệch đã được tạo ra để biện minh cho việc giam giữ anh ta không giới hạn. Một số khẳng định của CIA, trong một số trường hợp đã lặp lại ngay cả khi họ biết chúng là sai, đã bị bác bỏ hết điểm này đến điểm khác trong báo cáo.

Ví dụ, trái với những khẳng định lặp đi lặp lại rằng Abu Zabaydah là “người thứ ba hay thứ tư của al-Qaida,” báo cáo cho biết “sau đó CIA đã kết luận rằng Abu Zubaydah không phải là thành viên của al-Quaida.” Báo cáo cũng phủ nhận khẳng định của chính quyền về việc anh ta can dự vào vụ 11 tháng 9, rằng đội thẩm vấn “chắc chắn anh ta che giấu thông tin” và khẳng định rằng việc tra tấn anh ta mang lại các thông tin tình báo quý giá.

Vụ việc của Abu Zubaydah cũng dẫn đến vụ xét xử duy nhất được ấn định ở Hoa Kỳ liên quan đến chương trình tra tấn của CIA – mặc dù không phải là đối với những người tra tấn anh ta mà là đối với một người tiết lộ của CIA, người đầu tiên tiết lộ vụ việc.

Phiên tòa bỏ túi

Trong cuộc phỏng vấn với ABC News, cựu sĩ quan CIA John Kiriakou mô tả việc nhấn nước Abu Zubaydah và sau đó bị tình nghi cung cấp cho nhà báo tên của điệp viên bí mật trong Trung Tâm Chống Khủng Bố trực thuộc CIA, là người đã tham gia vào chiến dịch bắt giữ và thẩm vấn Abu Zubaydah. Vì sự vi phạm này, Kiriakou bị kết án theo Luật Do Thám 1917 và chấp nhận thỏa thuận nhận tội để lĩnh án 2 năm tù.

Vụ xét xử Kiriakou hồi đó bị một số bộ phận của cộng đồng quốc tế chỉ trích. Ví dụ, Hội đồng Nghị Viện của Tổ Chức Anh Ninh và Hợp Tác Châu Âu trong một nghị quyết năm 2012 “đã lên án nhà cầm quyền Hoa Kỳ về việc chống lại cựu điệp viên CIA John Kiriakou, người bị cáo buộc cung cấp cho nhà báo các chi tiết liên quan đến việc bắt giữ Abu Zubaydah, một nghi phạm al-Qaeda được cho là bị tra tấn tại nhà tù bí mật của CIA ở Ba Lan và là một trong hai “nạn nhân được bảo vệ” của công tố ở Warsaw.”

Cựu nghị sĩ quốc hội Hoa Kỳ Jim Moran (D-VA) phát biểu tại hạ viện vào ngày 17 tháng 11 năm 2012 rằng việc chính quyền kết án Kiriakou là một “phiên tòa bỏ túi”. Ông yêu cầu tổng thống Obama xin lỗi Kiriakou và gọi cựu sĩ quan có 15 năm hoạt động của CIA là “người hùng Hoa Kỳ”. 

Kiriakou đã ra khỏi tù sau khi mãn hạn nhưng các nạn nhân bị tra tấn của CIA vẫn tiếp tục bị giam giữ không biết đến ngày ra ở Gitmo, Ba Lan không chỉ đối mặt với thiệt hại chính trị vì chính sách này mà còn các những khó khăn thực tế trong việc thực hiện quyết định của ECHR liên quan đến việc vận chuyển các cá nhân được bồi thường, những người đã bị giam giữ - một người Palestine và một người Arabian Saudi. Mặc dù vậy, “Ba Lan thi hành các quyết định của ECHR,” người phát ngôn bộ ngoại giao Marcin Wojciechowski nói, “Trường hợp thứ nhất, tiền được trả vào tài khoản do luật sư của anh ta chỉ định, trong trường hợp còn lại, do bị trừng phạt quốc tế, chúng tôi yêu cầu thiết lập một khoản ký quỹ pháp lý,” ông nói thêm. 

Theo quy định của ECHR, Ba Lan cũng phải yêu cầu Hoa Kỳ bãi bỏ án tử hình đối với hai người đàn ông cho phù hợp với việc bãi bỏ án tử hình trên toàn EU, Wojciechowski nói với AFP.

Sự phủ nhận hợp lý

Nhiều người Ba Lan phiền lòng khi thấy đất nước họ đối mặt với những hậu quả pháp lý của nhà tù bí mật và chương trình giam giữ mà CIA thực hiện dưới thời George W. Bush ở một số quốc gia trên thế giới sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9. Ở Ba Lan, câu chuyện một quốc gia cựu cộng sản sẽ dung túng cho nhà tù bí mật của CIA và trong đó tra tấn được thực hiện nhiều năm đã bị nhiều chính khách, nhà báo và công chúng của quốc gia cười nhạo, coi như là một lý thuyết âm mưu tầm thường. Các quan chức Ba Lan đã thường xuyên phủ nhận sự tồn tại của các nhà tù đó.

Nhưng một chuỗi các tiết lộ và tuyên bố chính trị của các lãnh đạo Ba Lan đã thừa nhận lần đầu tiên rằng Hoa Kỳ thực sự điều hành một sơ sở thẩm vấn bí mật đối với các nghi phạm khủng bố vào năm 2002 và 2003 ở khu vực hẻo lánh của đất nước. Vào tháng 9 năm 2014, cựu tổng thống Ba Lan Aleksander Kwasniewski chính thức thừa nhận sự tồn tại của nhà tù bí mật của CIA ở căn cứ không quân, tại đó các nghi phạm khủng bố được thẩm vấn, nhưng ông ta khẳng định rằng Warsaw không biết về sự tra tấn ở nhà tù này.

Giờ đây có vẻ như sự phủ nhận liên quan đến tra tấn có thể là cố ý bỏ qua hay sự phủ nhận hợp lý để đổi lấy hàng triệu dollar tiền mặt. Báo cáo tra tấn của thượng viện cho biết, trái ngược với những đe dọa ban đầu về việc chấm dứt chuyển giao nghi phạm khủng bố cho nhà tù bí mật 11 năm trước đây, chính quyền đã trở nên “linh hoạt” hơn sau khi CIA chi ra một khoản tiền lớn. Theo như báo cáo, CIA đã trả cho quan chức Ba Lan khoảng 50 triệu dollar để họ làm ngơ.

Nhưng theo Radoslaw Sikorski, cựu ngoại trưởng Ba Lan và giờ là chủ tịch hạ viện, nhà tù được thiết lập dựa trên tình hữu nghị với Hoa Kỳ. Giờ đây, ông ta phàn nàn rằng mặc dù vậy quan hệ bí mật đã gây ra thiệt hại cho Ba Lan.

“Chúng tôi bị bối rối bởi chuyện này, nhưng ngay cả như vậy chúng tôi cũng không lấy làm tiếc vì có quan hệ an ninh và tình báo cực kỳ gần gũi với Hoa Kỳ,” ông nói. “Chúng tôi có thể phải trả tiền bồi thường ngay cả khi nhân viên của chúng tôi không làm gì sai. Anh có thể tưởng tượng xem người dân Ba Lan cảm thấy chuyện này thế nào.”

“Chuyện này làm chúng tôi mang tiếng xấu,” người sáng lập ra think tank Hiệp Hội Châu Âu-Đại Tây Dương ở Warsaw, Tadeusz Chabiera nói. “Chúng tôi là một quốc gia nhỏ bị một quyền lực lớn đối xử tồi tệ.”

Sự hối tiếc và cảm giác bị lừa dối được thể hiện ở Ba Lan sau một kịch bản đã có từ lâu, ít nhất là một thập kỷ trước đây. Dấu hiệu về sự cay đắng nổi lên lần đầu tiên vào năm 2014 khi Hoa Kỳ xâm lược Iraq và Ba Lan đóng góp 2.400 quân.

Vào đỉnh điểm của cuộc chiến tranh Iraq, David Ost tường thuật trên tạp chí The Nation vào ngày 16 tháng 12 năm 2004, “George W. Bush đã chuẩn bị để làm cái điều mà 45 năm chế độ cộng sản không thể: hủy hoại hình ảnh về bản chất tốt đẹp của người Mỹ, thứ vốn đã luôn là con bài chủ chốt của Hoa Kỳ.” 

Hình ảnh bị hủy hoại của Hoa Kỳ

Ở Ba Lan, cũng giống như ở nhiều quốc gia khác trên thế giới, hầu hết hình ảnh tích cực đã được khôi phục sau khi Barack Obama thắng cử năm 2008 và lời hứa về sự thay đổi mà ông ta có vẻ như là đại diện. Nhưng theo như Trung Tâm Nghiên Cứ Pew đưa tin vào năm 2013, “tình cảm thân Mỹ đã sụp đổ.” 

“Sự suy giảm không thể so sánh với sự sụp đổ của danh tiếng Hoa Kỳ trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ này,” theo Pew, họ cho biết rằng vào thời điểm của nghiên cứu toàn cầu năm 2013, hơn 6/10 ở Ba Lan, Pháp, Italy và Tây Ban Nha đã có quan điểm tích cực về Hoa Kỳ “nhưng sự nổi bật của Obama” trên phạm vi toàn cầu mà Hoa Kỳ đã trải qua vào năm 2009 rõ ràng là chuyện quá khứ.”

Vẫn cần phải chờ xem những sự tiến triển mới đây về việc tra tấn của CIA có đóng vai trò đáng kể nào trong việc tiếp tục hủy hoại hình ảnh của Hoa Kỳ hay không, nhưng sự phi lý của việc một quốc gia nhỏ như Ba Lan phải gánh chịu trách nhiệm nặng nề về chính sách phi pháp trong khi không ai ở Hoa Kỳ trả lời họ sẽ không dễ quên đối với các đồng minh khác của Hoa Kỳ. 

Tại một số quốc gia hợp tác với chương trình giam giữ của Hoa Kỳ, bánh xe công lý vẫn đang quay, mặc dù chậm dãi. Một cuộc điều tra hình sự đang được tiến hành ở Lithuania, tại đó các công tố viên đang tập trung vào các hoạt động bất hợp pháp xuyên biên giới liên quan đến tù nhân Mustafa al-Hawsawi của CIA, người này có thể đã bị tra tấn nhà tù bí mật có mật danh là Violet của Lithuania.

Cùng lúc đó, những lời kêu gọi nhà cầm quyền áp thực hiện các điều tra toàn diện về sự tồn tại của nhà tù bí mật của CIA ở Romania, cựu tổng thống Romania Ion Iliescu cho biết vào tháng trước rằng ông đã chấp thuận yêu cầu thiết lập ít nhất một nhà tù bí mật của CIA, tại đó các tù nhận bị tra tấn. Iliescu nói rằng ông rất tiếc về quyết định đó.

Những lời kêu gọi tiếp tục đòi hỏi Hoa Kỳ tiến hành những cuộc điều tra đáng tin cậy về vai trò của họ và bồi thường cho nạn nhân của chương trình giam giữ và tra tấn. Trùng hợp là bản án của ECHR đối với Ba Lan được đưa ra cùng tuần với việc Liên Hiệp Quốc thúc giục Hoa Kỳ bồi thường tài chính cho các nạn nhân của chương trình tra tấn và truy tố thủ phạm của các vụ tra tấn này.

Theo một báo cáo của nhóm hành động của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc về Kiểm Định Phổ Quát Định Kỳ, xuất bản ngày 15 tháng 5, Hoa Kỳ phải “đảm bảo rằng tất cả các nạn nhân bị tra tấn và ngược đãi - bất kể là đang bị giam giữ tại Hoa Kỳ hay không – nhận được bồi thường và có quyền khả thi về bồi thường công bằng và hợp lý cũng như phục hồi hoàn toàn, bao gồm trợ giúp về y tế và tâm lý học.”

Hơn nữa, Hoa Kỳ phải “đảm bảo điều tra minh bạch và xác đáng cũng như xét xử các cá nhân chịu trách nhiệm về các cáo buộc tra tấn, ngược đãi, bao gồm những người bị nêu tên trong kết luận công khai của thượng viện về hoạt động của CIA được xuất bản vào năm 2014 và bồi thường cho các nạn nhân.” Với thời hạn vào tháng 12 để phản hồi các khuyến nghị của Liên Hiệp Quốc, chính quyền Obama sẽ phải chứng tỏ cho thế giới thấy bằng cách quyết định xem khuyến nghị nào sẽ được chấp nhận và khuyến nghị nào sẽ bị từ chối.

Khi đề cập tới việc truy tố tra tấn và bồi thường, tốt hơn cả là nói rằng thế giới sẽ theo dõi.

Tuesday, January 6, 2015

Nhà tù địa ngục và công viên giải trí

Nhà tù kinh khủng nhất nước Mỹ đã bị đóng cửa từ lâu và bị biến thành một công viên giải trí, nhưng những gì nó đã tạo ra và những di sản của nó trong hệ thống nhà tù hiện tại của nước Mỹ khó có thể bị lãng quên. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Alcatraz: Prison as Disneyland" của tác giả Chris Hedges để biết thêm chi tiết. Bài viết được đăng trên trang 3 của tạp chí Coldtype số 92 ra tháng 1 năm 2015. Tiêu đề do người dịch đặt lại.

Alcatraz: Nhà tù thành Disneyland

Tôi đi phà từ cầu tàu số 33 ở bến tàu San Francisco tới Alcatraz. Tôi bước lên hòn đảo từ cầu tàu, đi lên đồi tới lối vào nhà tù cũ và nhận được một đài hướng dẫn bỏ túi. Tôi đi suốt hai giờ qua những hành lang và phòng giam, nơi mà sự đau khổ kinh hoàng và những chấn thương nghiền nát con người. Alcatraz có tỷ lệ mất trí cao nhất trong số các trại cải tạo vào cùng thời.
Nhà tù Alcatraz nhìn từ trên cao
Nguồn: Internet
Tôi được tiêu khiển qua tai nghe với những câu chuyện về các tù nhân nổi tiếng của Alcatraz, trong đó có Al Capone, Robert Stroud “Người Chim” và George Kelly “Súng Máy”, các âm mưu vượt ngục, cuộc nổi dậy có vũ trang vào năm 1946 bị Hải Quân đập tan một cách tàn nhẫn, các đặc vụ gan dạ của FBI đã hạ gục những tên tội phạm xấu xa nhất của quốc gia và đưa chúng ra công lý. Trong hệ nhị phân này, bài tường thuật biếm họa về người tốt và kẻ xấu, về cảnh sát và gangster, ngay cả J. Edgar Hoover đáng ghê tởm cũng được hồi sinh thành một biểu tượng đoan chính của luật pháp và trật tự.

Kết thúc chuyến đi – 5.000 người mỗi ngày, khoảng 1,4 triệu người mỗi năm, đến thăm nhà tù – chúng tôi bị dồn vào cửa hàng bán đồ lưu niệm. Ở đó có thể mua áo phông, bản sao của áo tù màu xanh da trời, bản sao cốc sắt tây của nhà tù và các đồ lưu niệm Alcatraz khác. Chúng tôi được gợi ý mua những tấm thiệp trên một giá gỗ và gửi chúng tới cho các chính quyền nước ngoài theo yêu cầu của một số tù nhân lương tâm được lựa chọn. Thông điệp là rõ ràng: Ở Hoa Kỳ những ai ở tù thì đáng nhận được điều đó; ở nước ngoài thì họ bị bỏ tù một cách bất công. Biến Alcatraz thành công viên Disneyland tương tự như việc biến một trong những trại tù khổ sai của Stalin thành một công viên giải trí có khung cảnh nhà tù. Các nhà tù là cái ác được thể chế hóa. Thanh minh cho cái ác là một sự dị dạng về đạo đức.

Bài tường thuật về Alcatraz của Dịch Vụ Công Viên Quốc Gia đã lờ đi sự dã man và bất công của hệ thống nhà tù có quy mô khổng lồ của Hoa Kỳ, trong đó hiện có 25% số tù nhân trên toàn thế giới bị giam giữ cho dù dân số Hoa Kỳ chỉ chiếm 5% dân số toàn thế giới. Họ lờ đi việc tra tấn, cách ly và chấn thương biến tù nhân thành những người tâm thần đã kéo dài suốt nhiều thập kỷ. Họ lờ đi việc hầu hết tù nhân là nghèo khổ và không bao giờ có sự biện hộ luật pháp đầy đủ. Họ lờ đi rằng những người da màu ở khu vực đô thị “thuộc địa nội địa” chẳng đáng giá gì trên đường phố nhưng trong nhà giam thì mỗi người tạo ra từ 40.000 đến 50.000 dollar mỗi năm cho các doanh nghiệp. Họ lờ đi rằng tù nhân thường xuyên bị trừng phạt và chịu án tù lâu hơn không phải vì những tội mà họ gây ra khi tự do, mà là những sự vi phạm mơ hồ như “không tôn trọng” và “công khai chống đối” diễn ra trong nhà tù. Họ lờ đi rằng “tư pháp” một chiều của hệ thống nhà tù tước bỏ thẩm vấn công bằng đối với tù nhân. Họ lờ đi rằng lính gác là Chúa, chỉ có anh ta hay cô ta có thể tấn công bằng lời nói hay bằng vũ lực một tù nhân mà không có hậu quả. Họ lờ đi rằng nhà tù là một thái ấp chuyên chế. Họ lờ đi sự nhục mạ hàng ngày, thất vọng và đau đớn của những người bị cầm tù. Họ lờ đi rằng tù nhân mới bắt đầu tin vào hệ thống, những người cho rằng công lý tồn tại, thường là những người đầu tiên bị suy sụp tinh thần hoặc tự sát. Họ lờ đi – đây là tội ác lớn nhất – nhân tính sâu sắc của nhiều tù nhân, những người cũng chu đáo, thông minh và đáng yêu như những người bên ngoài nhà tù. Cuối cùng, họ lờ đi việc chúng ta là một dân tộc nhẫn tâm và tàn bạo đến mức nào và chúng ta đam mê những câu chuyện bạo lực cũng như hạ thấp con người ra sao. Sự nhộn nhịp và bài tường thuật hư cấu về thiện và ác, khiến chúng ta nhìn nhận tù nhân thấp kém hơn con người. Đó là một nghệ thuật mà Dịch Vụ Công Viên Quốc Gia và văn hóa đại chúng đã trình diễn hoàn hảo ở Alcatraz. Bất cứ ai thực sự hiểu những điều diễn ra ở Alcatraz cũng như tại các nhà tù trên khắp đất nước đều sẽ than khóc.

Khi tôi tránh khỏi đám du khách ồn ào và đứng một mình trong một phòng giam mở cửa, tôi nghĩ về những sinh viên mà tôi đã dạy trong tù. Họ đã phản ứng ra rao? Họ cảm thấy thế nào về những du khách đang hớp lấy những câu chuyện về tội ác và trừng phạt? Họ phải nếm trải những chấn thương và đau đớn nào khi một lần nữa bước vào phòng biệt giam? Sinh viên của tôi nghĩ họ giống như nô lệ - theo Tu Chính Án thứ 13, tù nhân bị buộc phải lao động không có thù lao hoặc rất ít, như một dollar mỗi ngày. Họ coi nhà tù như bản sao cấu trúc quyền lực của các đồn điền. Nghe các hướng dẫn tự động, đối với họ, giống như cựu nô lệ đi thăm quan đồn điền cũ của anh ta hay cô ta trong khi được cung cấp những chuyện cổ tích về “những gã Châu Phi” lười biếng và vụng về trên các cánh đồng bông và những chuyện dâm ô của người da trắng miền nam.

Đối với bất cứ ai làm việc hay đang ở trong tù, cấu trúc vật chất và tinh thần của Alcatraz – nơi không có bất cứ nỗ lực cải tạo nào và thường xuyên có một phần năm trong số 250 tù nhân được luân chuyển vào và ra khỏi các phòng biệt giam – đều lạnh lùng tương tự. Ngay khi tù nhân đến Alcatraz, họ bị buộc đi diễu và đứng trần truồng trước lính gác. Nghi lễ này, vốn được lặp lại thường xuyên hàng ngày trong các nhà tù trên khắp đất nước, về căn bản là một nghi lễ hạ nhục, là một cách để phủ nhận phẩm giá của tù nhân. Tù nhân phải bị bẻ gẫy. Cưỡng bức tù nhân đứng trần truồng trước lính gác khởi đầu quá trình. Những ai chống lại quyền lực ở Alcatraz – chống đối quyền lực thường có nghĩa chỉ là cãi lại một lính gác – bị ném vào phòng biệt giam, được biết đến với cái tên “Cái Hố”. Ngày nay chuyện đó vẫn diễn ra ở các nhà tù.

Tầng dưới cùng trong ba tầng của Khu D ở Alcatraz có bốn phòng biệt giam. Tôi bước vào một phòng. Đó là nơi người ta bị giam 19 ngày trong bóng tối hoàn toàn, không được tắm rửa cũng như thay quần áo. Chỗ vệ sinh trong một thời gian dài là một cái hố 20,32cm trên sàn. Nhà tù thường xuyên phản xạ lại tiếng la hét của những tù nhân bị lính gác đánh trong các phòng biệt giam tối tăm ở Khu D. Khi những người trong phòng biệt giam được thả ra, họ thường bị mất phương hướng và suy yếu tâm lý. Nhiều người, yếu và hầu như không thể bước đi, được đưa thẳng đến bệnh xá của nhà tù, đau đớn gấp nhiều lần bởi chứng viêm phổi khi phải ngủ hơn hai tuần trên sàn bê tông ẩm ướt. Có một số người không còn sống để ra khỏi Cái Hố.

Ở Alcatraz có một nơi còn tồi tệ hơn Cái Hố - ngục tối. Chỗ đó không nằm trong chương trình du lịch. Nếu tù nhân không bị bẻ gẫy trong biệt giam, họ sẽ bị lôi đi theo cầu thang ở phía trước Khu A dẫn xuống một cánh cửa thép nặng nề. Sau cánh cửa là những lỗ châu mai từ thời mà nhà tù còn là một pháo đài, và sau đó là nhà tù Quân Đội, nơi nhốt thành bầy những người Mỹ bản địa chống đối, và trong Thế Chiến Thứ Nhất là các tù nhân lương tâm. Tù nhân bị lột truồng vào trói vào tường của một trong hai căn phòng gần những lỗ châu mai cũ. Họ nhận được một cái xô dùng cho vệ sinh trong một tuần. Họ được cho ăn chủ yếu là bánh mì. Sự tàn phá về mặt tâm lý của tù nhân là phổ biến, cũng như trong các nhà tù ngày nay. Capone, người phải chịu đựng chứng mất trí do bệnh giang mai và sự ngược đãi, đã trở thành kẻ ngốc. Lính gác báo cáo tìm thấy ông ta sợ hãi núp trong một góc của phòng giam hoặc nằm trên giường khóc lóc. Vào thời gian cuối ở trong tù, ông ta thỉnh thoảng bập bẹ những âm thanh vô nghĩa và không thể kìm chế được. Ông ta sẽ ngồi trên giường nhiều giờ trong trạng thái gần như cứng đờ hay thức dậy vào ban đêm rồi mở ra và xếp lại điên cuồng những tờ tạp chí, thường xuyên mặc rồi cởi quần áo hoặc dọn đi dọn lại cái giường.

Một tù nhân khác, Rufe Persful, chịu đựng chứng ảo giác thường xuyên – ông ta tuyên bố rằng có một con cá sấu trong phòng giam của mình. Vài lần ông ta cố làm một chiếc thòng lọng bằng khăn trải giường. Ông ta đã bất ngờ lấy chiếc rìu khỏi thành xe cứu hỏa của nhà tù và thờ ơ chặt phăng bốn ngón tay của mình trước mặt lính gác. Ông ta cũng định chặt chân và bàn tay khác của mình, ông ta nói điều ấy với phó quản ngục sau đó, khi ở bệnh xá. Những người có thẩm quyền của nhà tù đã không tuyên bố ông ta mất trí.

Joe Bower, người cướp 16,33 dollar của một bưu cục và bị tuyên án 25 năm tù, tự cắt cổ họng mình với một mảnh kính từ kính mắt của ông ta nhưng đã sống sót. Ông ta thường đập đầu vào cửa phòng giam. Ông ta bị bắn chết khi leo lên một hàng rào trước mặt lính gác và phớt lờ các yêu cầu leo xuống.

Ed Wutke đã tự tử bằng cách dùng một lưỡi dao gọt bút chì để cắt đứt động mạch cổ của mình.

Dịch vụ công viên bỏ sót những câu chuyện đó, cũng như nhiều câu chuyện tương tự trong chuyến thăm quan.

Nếu tù nhân không có công việc trong tù ở Alcatraz, anh ta sẽ ở trong phòng giam 23 đến 24 giờ một ngày, chuyện thường trong hệ thống nhà tù Hoa Kỳ.

Ngay cả lính gác cũng biết về những tù nhân mà không bao giờ nên giam giữ. George H. Gregory, trong cuốn sách của ông “Nhân viên Alcatraz: Những năm tháng làm lính gác ở nhà tù xấu xa nhất nước Mỹ”, kể về một tù nhân mà ông ta gọi là Kevin.

“Kevin, một cậu bé da đen, đã tham gia vào một số vụ ẩu đả trong phòng thay đồ. Cậu ta vào tù vì cậu ta đáp ứng yêu cầu của một người mà cậu ta không biết. Kevin đã làm việc trong rạp hát ở một bang miền nam. Một người đàn ông tới, đưa cho cậu một gói nhỏ, yêu cầu cậu đưa cho một người sẽ đến và hỏi về nó. Kevin không biết có gì trong gói. Cậu bị bắt giữ và buộc tội buôn bán ma túy.

Những người đến thăm tù nhân phải chịu đựng chiếc găng tay khám người và sự quát mắng của lính gác. Nghi lễ này cũng tương tự đối với những người tới thăm tù nhân hàng ngày. Việc thăm tù nhân bị gây khó chịu đến mức nhiều thành viên gia đình không bao giờ quay trở lại, tình trạng đó không hề thay đối.

Tôi đứng ở phòng thăm viếng ở Alcatraz và nhìn vào những vòng tròn trên tường. Đó là những vòng tròn có đường kính 7,62 cm và được đục nhiều lỗ nhỏ. Cách duy nhất để được nghe thấy qua những cái lỗ đó là hét lên, có nghĩa là tất cả mọi người quanh bạn, trong đó có cả lính gác, có thể nghe thấy cuộc đàm thoại. Nếu tù nhân và khách viếng thăm muốn nhìn thấy nhau thì họ phải đứng và nhìn qua một ô kính hẹp và dầy, nhưng khi ở trong tình trạng đó thì họ không thể nói chuyện với nhau. Hệ thống được thiết kế có chủ định tạo ra sự thất vọng và bối rối tối đa. “Thực tế là có rất ít thăm nuôi trong tất cả những năm tôi ở Alcatraz,” Ernie Lopez thuật lại trong hồi ký, “Tới Alcatraz, Death Row và Back.” “Tôi không nhận được chuyến thăm nuôi nào cho tới khi tôi ở đó được 9 năm. Điều đó không phải là bất thường.” 

Thư từ bên ngoài được lính gác chép lại thành 3 hay 4 dòng khó hiểu, sau đó họ chuyển đoạn chép lại cho tù nhân và tiêu hủy lá thư. Một số tù nhân không bao giờ nhận được thư gửi cho họ. Bệnh xá thì nguyên sơ và được trang bị tồi tàn. Các tù nhân bị bệnh nặng nhưng được cho là có khả năng bỏ trốn được đưa đến để chết ở bệnh xá hơn là chuyển giao cho một bệnh viện nhà tù liên bang. Một nha sĩ đến đây ba tháng một lần. Các cựu tù nhân nói, thực phẩm đã bị ôi, mặc dù hướng dẫn của chuyến đi nói với người nghe rằng thực phẩm dồi dào và có chất lượng cao.

Nhiều thập kỷ trong tù biến các tù nhân thành những người tàn phế có đôi mắt vô hồn, họ nói chuyện với nhau và lê bước một cách mụ mẫm dọc theo các hành lang nhà tù. Những tù nhân trẻ hơn nhìn những bóng ma đó dạo quanh nhà tù và run sợ. Họ sợ rằng dó sẽ là số phận của họ. Robert Stroud, được biết đến với biệt danh “Người Chim”, ông ta tiếp nhận, chăm sóc chim và xuất bản những cuốn sách về chim chóc khi là tù nhân ở Leavenworth, đã kết thúc ở Alcatraz. Stroud, nổi tiếng quốc gia với những nghiên cứu về chim bị ốm, đã bị cấm tái tạo khu bảo tồn chim ở Viện California. Ông ta phải chịu án chung thân vì đâm chết một lính gác vào năm 1916 sau khi lính gác đó chế giễu ông và tước quyền được thăm nuôi của ông, điều đó có nghĩa là ông ta sẽ không thể thấy em trai. Ông ta bị chuyển đến Alcatraz vào năm 1942. Trong số 54 năm ông ta ngồi tù thì có 42 năm là biệt giam. 

“Tôi nhớ tới việc quan sát ông ấy qua cửa sổ khi ông ấy được đưa ra sân, tất cả do ông ấy, ông ấy được phép ra ngoài một giờ mỗi tuần,” Lopez viết. “Tôi sẽ nhìn ông ấy tự bước đi, một ông già đi tới đi lui trong khoảng sân nhỏ. Lúc đó ông ấy bị gù lưng, ông ấy sẽ đội một chiếc mũ lưỡi trai màu xanh lá cây mà những người đánh bạc thường đội. Ông ấy là một người rất thông minh, thông thạo 5 hay 6 ngôn ngữ. Ông ta đã hoàn thành tất cả với các khóa học qua thư của Đại Học Stanford.

Các nhà tù phơi bày trái tim đen tối của nước Mỹ. Chúng phơi bày sự dối trá của hệ thống tư pháp thiên vị. Chúng phơi bày sự cưỡng bức dưới dạng thô thiển, sự tra tấn cả về thể xác lẫn tinh thần mà chúng ta thiết chế hóa và điều khiển hầu như là để chống lại người nghèo. Những nhà tù là tính tàn bạo và sự phi nhân tính hóa được nhà nước phê chuẩn.

Đó là câu chuyện về Alcatraz. Đó là câu chuyện về tất cả những nhà tù ở Mỹ. Nhưng đó là câu chuyện mà nhà nước không muốn bạn nghe. Những thiết chế này đã và đang được thiết kế một cách có chủ định để làm méo mó và phá hủy các linh hồn. Sách Talmud nhắc nhở chúng ta, “bất cứ kẻ nào phá hủy một linh hồn thì coi như hắn phá hủy toàn bộ một thế giới.”

Chris Hedges, a Pulitzer Prize-winning reporter, writes a regular column for Truthdig every Monday. Hedges’ most recent book, written with Joe Sacco, is “Days of Destruction, Days of Revolt”