Criticism has torn up the imaginary flowers from the chain not so that man shall wear the unadorned, bleak chain but so that he will shake off the chain and pluck the living flower.
Showing posts with label Báo chí. Show all posts
Showing posts with label Báo chí. Show all posts
Sunday, September 23, 2018
Mại dâm và tư duy tư sản về mại dâm
Thông thường thì các nghiên cứu khoa học thực nghiệm về hành vi của động vật chỉ mang tính gợi mở, đại loại như loài này có hành vi như vậy, nhưng không có nghĩa là khái quát hành vi thành bản năng hay gán cho hành vi một tập tính xã hội.
Song bỏ qua vấn đế xuyên tạc khoa học, điều đáng ghê tởm trong bài báo này là việc ám chỉ bán dâm là bản năng động vật, con người vốn cũng là một động vật nên có bản năng đó, chứ bán dâm không phải là một hành vi xã hội. Kẻ khốn nạn viết bài báo trên đã có một phát kiến khủng khiếp. Thay vì chỉ lo việc hợp pháp hóa bán dâm cho người, người ta có thể nghĩ đến việc mở nhà thổ để người bán dâm cho tinh tinh hoặc ngược lại mở nhà thổ để tinh tinh bán dâm cho người, đằng nào cả hai cũng là động vật cả. Chủ nhà thổ có thể kiếm được cả đống tiền nhờ thị trường chưa từng được khai phá ấy.
Đấy là cái bệnh tật đáng ghê tởm của chủ nghĩa duy lý kiểu tư sản, mỗi khi bàn đến hành vi mua bán hay trao đổi thì nó đều quy con người về động vật, quy hành vi con người thành bản năng thú vật. Tức là để biện minh cho chế độ tư bản, nó sẵn sàng hạ cấp con người thành động vật, nhờ thế không chỉ hạ thấp con người theo cách khốn nạn nhất mà nó còn tuyên bố cái quan hệ mua bán là bản năng tự nhiên tồn tại vĩnh viễn. Hay nói cách khác, con người vĩnh viễn là động vật của tư bản.
Saturday, August 18, 2018
Ai lạc hậu? Ai văn minh?
Dân xứ Nam ta vẫn còn mông muội lắm, cứ phải Tây mới văn minh. Hà cớ chi các chú bày ra ba cái trò này để dân xứ Nam được dịp kiêu căng, nhận xằng mình văn minh nhỉ?
Người ta thường đem cái ảnh biển đề cấm ăn cắp hay cấm lấy đồ dư bằng tiếng Việt ở Nhật hay Thái Lan đăng lên để chứng minh dân Việt Nam ý thức kém, không cư xử văn minh. Cái truyền thống tự quản của làng xã từ xa xưa, ví như những quán nước đầu làng chả có ai trông coi, gia chủ bận đi làm đồng, ai vào uống nước hay mua gì thì tự tính tiền rồi để đó, thì không bao giờ được truyền thông ngày nay nhắc tới.
Quay lại cái quán có hình ở trên, tại sao chủ quán lại dám áp dụng mô hình tự quản ở một xứ mà ngày ngày truyền thông rao giảng không biết mệt mỏi về tệ nạn trộm cắp, cư xử kém văn minh?
Thứ nhất là ông chủ quán biết rõ truyền thông báo chí chỉ rặt nói láo, cũng có thể có người lấy nước không tự giác trả tiền, song số đó không đáng kể.
Thứ hai là mô hình kinh doanh của ông chủ quán khiến ông buộc phải làm vậy, ông bán buffet giá rất rẻ, muốn giá rẻ mà có lãi thì tất phải tiết kiệm chi phí phục vụ, có nghĩa là phải để khách hàng tự phục vụ tối đa. Khách vào quán này ăn nhiều tất sẽ quen với cách đó.
Ý thức không phải tự nhiên mà có, nó được sinh ra từ sinh hoạt hàng ngày, mà cái sinh hoạt đó, nhất là việc mua bán lại do mô hình kinh doanh quyết định, tức là do tư bản quyết định.
Ở những xứ tư bản phát triển thì họ áp dụng mô hình tự phục vụ, tự thanh toán nhiều để tiết kiệm chi phí, do vậy dân xứ họ buộc phải quen với những việc đó. Song điều đó không có nghĩa là không có nạn trộm cắp, gian lận.
Việc truyền thông hàng ngày hàng giờ bêu riếu những cái gọi là thói hư tật xấu, cư xử kém văn minh, mặc dù điều đó hoàn toàn là tào lao, không hẳn chỉ là để thu hút sự chú ý hay truyền bá văn minh phương Tây. Ngược lại đó là một sự đe dọa, một hình phạt bằng sự lên án thường trực của công luận để giúp cho các chủ doanh nghiệp mạnh dạn áp dụng các mô hình tự phục vụ, tự quản, nhằm tiết kiệm chi phí cho họ. Những khách hàng định gian lận sẽ luôn bị những bảng hiệu lên án trộm cắp bằng tiếng Việt ở Nhật Bản ám ảnh. Đây chính là bản chất của chế độ tư bản, chủ doanh nghiệp từ bỏ các nghĩa vụ và quyền lực công cộng để có quyền lực tuyệt đối trong việc kiếm lợi, ngược lại một bộ phận khác sẽ đảm nhiệm quyền lực công cộng đó để hỗ trợ cho chủ doanh nghiệp.
Người ta thường nói rằng truyền thông Việt Nam càng ngày càng thối nát, đưa tin xàm, nói láo câu view vô tội vạ, nhưng cái mà người ta không hiểu là truyền thông giờ đang chuyển sang phục vụ cho tư bản, lợi nhuận của tư bản mới là lợi ích tối cao mà nó phục vụ. Trên phương diện đó thì truyền thông lại là sức mạnh công cộng đáng kể mà doanh nghiệp nắm được, do vậy đối với chủ tư bản mà nói thì truyền thông không nát chút nào, nó đang làm đúng cái việc cần phải làm.
Bởi vậy mà nói, nếu lấy chế độ tư bản ra làm chuẩn mực cho cái gọi văn minh thì mọi chế độ khác đều sẽ kém văn minh. Hơn nữa, đó là một sự đề cao chế độ tư bản vì đã lấy chế độ tư bản làm giá trị phổ quát, thang đo cho mọi xã hội. Việt Nam đã xây dựng một chế độ xã hội khác, người Việt Nam trước hết phải bỏ qua cái thang đo lạc hậu ấy và tự tạo ra cho mình những chuẩn mực mới.
P/s: Cái ảnh này không phải ở thủ đô thanh lịch lại càng không phải ở đô thành hoài nhớ thời thuộc địa hoa lệ quằn quại dưới gót giày lính lê dương, mà là ở Rạch Giá, Kiên Giang.
Người ta thường đem cái ảnh biển đề cấm ăn cắp hay cấm lấy đồ dư bằng tiếng Việt ở Nhật hay Thái Lan đăng lên để chứng minh dân Việt Nam ý thức kém, không cư xử văn minh. Cái truyền thống tự quản của làng xã từ xa xưa, ví như những quán nước đầu làng chả có ai trông coi, gia chủ bận đi làm đồng, ai vào uống nước hay mua gì thì tự tính tiền rồi để đó, thì không bao giờ được truyền thông ngày nay nhắc tới.
Quay lại cái quán có hình ở trên, tại sao chủ quán lại dám áp dụng mô hình tự quản ở một xứ mà ngày ngày truyền thông rao giảng không biết mệt mỏi về tệ nạn trộm cắp, cư xử kém văn minh?
Thứ nhất là ông chủ quán biết rõ truyền thông báo chí chỉ rặt nói láo, cũng có thể có người lấy nước không tự giác trả tiền, song số đó không đáng kể.
Thứ hai là mô hình kinh doanh của ông chủ quán khiến ông buộc phải làm vậy, ông bán buffet giá rất rẻ, muốn giá rẻ mà có lãi thì tất phải tiết kiệm chi phí phục vụ, có nghĩa là phải để khách hàng tự phục vụ tối đa. Khách vào quán này ăn nhiều tất sẽ quen với cách đó.
Ý thức không phải tự nhiên mà có, nó được sinh ra từ sinh hoạt hàng ngày, mà cái sinh hoạt đó, nhất là việc mua bán lại do mô hình kinh doanh quyết định, tức là do tư bản quyết định.
Ở những xứ tư bản phát triển thì họ áp dụng mô hình tự phục vụ, tự thanh toán nhiều để tiết kiệm chi phí, do vậy dân xứ họ buộc phải quen với những việc đó. Song điều đó không có nghĩa là không có nạn trộm cắp, gian lận.
Việc truyền thông hàng ngày hàng giờ bêu riếu những cái gọi là thói hư tật xấu, cư xử kém văn minh, mặc dù điều đó hoàn toàn là tào lao, không hẳn chỉ là để thu hút sự chú ý hay truyền bá văn minh phương Tây. Ngược lại đó là một sự đe dọa, một hình phạt bằng sự lên án thường trực của công luận để giúp cho các chủ doanh nghiệp mạnh dạn áp dụng các mô hình tự phục vụ, tự quản, nhằm tiết kiệm chi phí cho họ. Những khách hàng định gian lận sẽ luôn bị những bảng hiệu lên án trộm cắp bằng tiếng Việt ở Nhật Bản ám ảnh. Đây chính là bản chất của chế độ tư bản, chủ doanh nghiệp từ bỏ các nghĩa vụ và quyền lực công cộng để có quyền lực tuyệt đối trong việc kiếm lợi, ngược lại một bộ phận khác sẽ đảm nhiệm quyền lực công cộng đó để hỗ trợ cho chủ doanh nghiệp.
Người ta thường nói rằng truyền thông Việt Nam càng ngày càng thối nát, đưa tin xàm, nói láo câu view vô tội vạ, nhưng cái mà người ta không hiểu là truyền thông giờ đang chuyển sang phục vụ cho tư bản, lợi nhuận của tư bản mới là lợi ích tối cao mà nó phục vụ. Trên phương diện đó thì truyền thông lại là sức mạnh công cộng đáng kể mà doanh nghiệp nắm được, do vậy đối với chủ tư bản mà nói thì truyền thông không nát chút nào, nó đang làm đúng cái việc cần phải làm.
Bởi vậy mà nói, nếu lấy chế độ tư bản ra làm chuẩn mực cho cái gọi văn minh thì mọi chế độ khác đều sẽ kém văn minh. Hơn nữa, đó là một sự đề cao chế độ tư bản vì đã lấy chế độ tư bản làm giá trị phổ quát, thang đo cho mọi xã hội. Việt Nam đã xây dựng một chế độ xã hội khác, người Việt Nam trước hết phải bỏ qua cái thang đo lạc hậu ấy và tự tạo ra cho mình những chuẩn mực mới.
P/s: Cái ảnh này không phải ở thủ đô thanh lịch lại càng không phải ở đô thành hoài nhớ thời thuộc địa hoa lệ quằn quại dưới gót giày lính lê dương, mà là ở Rạch Giá, Kiên Giang.
Labels:
Báo chí,
Kinh doanh,
Kinh Tế,
Thời Sự,
Tony Buổi Sáng,
Tư bản,
Văn hóa,
Văn minh,
Xã hội
Wednesday, August 31, 2016
Chính quyền Hoa Kỳ thế kỷ 19 được xây dựng dựa trên nạn tham nhũng tràn lan?
Bài viết của giáo sư khoa chính trị học Hoa Kỳ Peri E. Arnold cho rằng vào thế kỷ 19 thì chính quyền Hoa Kỳ đã được xây dựng dựa trên tham nhũng để phục vụ cho việc công nghiệp hóa. Sự tham
nhũng phổ biến đó đồng thời cũng dẫn đến sự khuyến khích dân chúng tham gia vào
chính trị, tức là mang đến một mức độ dân chủ cao. Trong trường hợp của Hoa Kỳ,
tham nhũng không phải là kẻ thù của dân chủ. Khi nạn tham nhũng được đẩy lùi
thì sự tham gia dân chủ cũng suy giảm.
Những cải cách nhằm chống
lại tham nhũng như thi tuyển công chức, chuyên nghiệp hóa hành chính công đã hạn
chế sự tham gia của dân chúng vào chính trị và chính quyền vì điều này loại bỏ
người dân ở tầng lớp thấp hơn ra khỏi công việc chính quyền và việc xóa bỏ chế
độ lại quả đã buộc các đảng phái dựa vào nguồn tài trợ của doanh nghiệp thay vì
sự ủng hộ của dân chúng.
Peri E. Arnold đã cho thấy
việc chống lại tham nhũng đã giúp giới thượng lưu kinh doanh loại bỏ sự tham dự
vào chính trị của các tầng lớp thấp hơn và buộc các đảng phái phải trực tiếp phục
vụ cho lợi ích của họ. Điều này khiến cho sự trong sạch về tham nhũng của Hoa Kỳ
là đáng hoài nghi, nhưng tình trạng tham nhũng có thể sẽ không còn là vấn đề đối
với giai cấp tư sản Hoa Kỳ, khi họ đã hoàn toàn kiểm soát được chính quyền và đảm
bảo rằng các giai cấp khác sẽ không thể dựa vào chính quyền để chống lại họ. Nếu
như sự hợp pháp hóa tham nhũng ở Hoa Kỳ đã giúp ích cho quá trình công nghiệp
hóa của họ thì việc Hoa Kỳ thông qua các tổ chức quốc tế chống lại tham nhũng ở
các quốc gia đang phát triển liệu có phải là chống lại quá trình công nghiệp
hóa ở các nước này hay không?
Dưới đây là bản dịch bài viết Democracy And Corruption in the 19th Century United States: parties, "spoils" and political participation (pp 197-211) trong cuốn The History of Corruption in Cetral Government của Seppo Tiihonnen do nhà xuất bản IOS phát hành năm 2003.
Dân
Chủ và Tham Nhũng ở Hoa Kỳ vào Thế Kỷ 19: Đảng Phái, “Bổng Lộc” và Sự Tham Gia
Chính Trị
Peri
E. Arnold*
Trên
khắp các nước phương tây dân chủ, sự tham nhũng hệ thống và phổ biến là dịch bệnh
của quá khứ. Tại các xã hội dân chủ tiến bộ phương tây, tham nhũng là đặc trưng
của chính quyền thời kỳ tiền dân chủ, khi đó sự tham gia bầu cử bị giới hạn và
công việc của chính quyền hầu như vô hình đối với công chúng. Tuy vậy, Hoa Kỳ
cho thấy một ngoại lệ kỳ lạ trong mối quan hệ giữa dân chủ hóa và tham nhũng.
Trong
sự phát triển chính trị của Hoa Kỳ có một sự liên hệ kỳ lạ giữa sự tham nhũng
phổ biến và mức độ tham gia dân chủ cao. Trong lịch sử chính trị Hoa Kỳ, tham
nhũng có sự tương quan tích cực với một số chỉ số tổng quan của sự tham gia dân
chủ. Sự tham gia suy giảm cùng với sự suy giảm thực tế của tham nhũng trong
chính quyền Hoa Kỳ. Hơn nữa, sự thay thế việc quản trị có thời hạn của công dân
thông qua sự bảo trợ bằng tầng lớp quản trị chuyên nghiệp là khuynh hướng thay
đổi mang tính hệ thống đi cùng với sự suy giảm của tham gia chính trị.
Trong
bài báo này, tôi sẽ giải thích cách thức tham nhũng diễn ra trong hành chính
công đi cùng với sự mở rộng tham gia dân chủ ở Hoa Kỳ vào thế kỷ 19. Sau đó,
tôi sẽ xem xét sự lên án thực tiễn tham nhũng trong quản trị và các cơ chế mà
thực tiễn tham nhũng nương tựa. Cuối cùng, tôi sẽ khẳng định rằng sự suy giảm tỷ
lệ cử tri tham gia bầu cử là một hệ quả không mong muốn của cải cách chính quyền
và hành chính quốc gia của Hoa Kỳ.
Suốt
phần lớn thế kỷ 19, tham nhũng đã ngự trị chính quyền Hoa Kỳ. Đồng thời, mức độ
tham gia bầu cử là rất cao vào những thập kỷ sau cuộc nội chiến – trung bình
khoảng 80% cử tri hợp lệ trong các cuộc bầu cử quốc gia. Các vị trí ở Quốc Hội
bị cạnh tranh khốc liệt và lợi ích của các vị trí trong Quốc Hội đem lại cũng rất
lớn. Bằng các luật lệ và thủ tục điều tra mới, sự tham nhũng đã suy giảm trong
chính quyền Hoa Kỳ vào thế kỷ 20. Đồng thời, tỷ lệ tham gia bầu cử cũng giảm
nhanh chóng, xuống còn khoảng một nửa số cử tri hợp lệ trong các cuộc bầu cử tổng
thống và một phần ba trong các cuộc bầu cử Quốc Hội vào những năm 1990. Các vị
trí lập pháp và hành chính trở thành nghề nghiệp chuyên môn thay vì là các vị
trí nhất thời như ở nước Mỹ vào thế kỷ 19. Các đảng phái chính trị quần chúng sống
động của thế kỷ 19 đã trở thành các nhà cung cấp dịch vụ hợp pháp chuyên nghiệp
cho các chính khách chuyên nghiệp trong một kỷ nguyên chính quyền trong sạch đã
được phát triển vào thế kỷ 20.
Mối
liên hệ tích cực giữa sự tham nhũng chính trị mang tính hệ thống và sự tham gia
bầu cử ở Hoa Kỳ có phải chỉ là trùng hợp? Hay chính là sự tham nhũng chính trị ở
Hoa Kỳ vào thế kỷ 19, theo cách nào đó, là phương tiện để mở rộng sự tham gia
dân chủ?
1.
Tham Nhũng và Quản Lý Nhà Nước
Tại
các nước dân chủ hiện nay, tham nhũng trong chính quyền là một sự nguyền rủa.
Nó bị săn đuổi ở bất cứ nơi nào nó xuất hiện và sự phòng ngừa nghiêm khắc đối với
nó xuất hiện trong quản trị công cũng như tư pháp, với một phạm vi hẹp hơn là
trong quy trình lập pháp cũng như tranh cử.
Về
tham nhũng, David Rosenbloom viết: Nó “có thể được định nghĩa là sự lừa dối niềm
tin của công chúng để phục vụ cho các lợi ích riêng” (Rosenbloom, p. 533). Hầu
hết những người tham nhũng là những người tìm kiếm sự giàu có cá nhân hoặc thỏa
mãn lợi ích của họ thông qua các hoạt động chính quyền. Ví dụ, trong vụ
“Whitewater”, tổng thống và bà Clinton bị cáo buộc đã thu lợi từ các giao dịch
bất hợp pháp được che dấu khỏi luật pháp trong khi ông Clinton còn là thống đốc
của bang Arkansas. Khi Clinton trở thành tổng thống, sự cáo buộc đó đã dẫn đến
việc bổ nhiệm một hội đồng đặc biệt độc lập để điều tra vai trò của Clinton
trong vụ “Whitewater”. Tuy vậy, tham nhũng được phân biệt với các hành vi làm
giàu cá nhân bất hợp pháp; nó có thể được hiểu rộng hơn như là hành vi bị phản
đối nói chung. Anechiarico và Jacob đã nhận thấy:
Tham
nhũng là cái tên mà chúng ta dùng cho một số sự trao đổi của một số người trong
một số bối cảnh tại một số thời điểm. Việc sử dụng phổ biến khái niệm này không
đòi hỏi rằng hành vi tham nhũng bị coi là bất hợp pháp; chỉ cần người nhắc đến
chúng cho rằng chúng phi luân lý hoặc vô đạo đức là đủ (p.3).
Tham
nhũng nói chung không cần phải giới hạn với các hành vi tư lợi hoặc trực tiếp
vi phạm pháp luật. Thay vì tìm kiếm lợi ích cá nhân thông qua sự tin tưởng của
công chúng, tham nhũng có thể bao gồm việc lạm dụng các quy trình công để đạt
được mục tiêu chính sách không thể chấp nhận mặc dù phương tiện đã được phê chuẩn.
Vụ
bê bối ở Hoa Kỳ vào giữa những năm 1980 được gọi là “Iran-Contra” đã minh họa sự
lạm dụng của chính quyền. Mục đích của tổng thống Ronald Reagan là mục đích
công và không phải là sự tư lợi – sự trở về của các con tin Hoa Kỳ bị giam giữ ở
Lebanon và vũ trang cho những kẻ nổi loạn chống cộng sản ở Trung Mỹ. Tuy vậy,
phương tiện mà người của tổng thống sử dụng là đặc biệt bất hợp pháp và nói
chung được coi là vi phạm đạo đức dân chủ. Cũng như trong vụ “Whitewater”, những
lời cáo buộc về vụ “Iran-Contra” dẫn đến việc bổ nhiệm một hội đồng đặc biệt độc
lập.
Trong khái niệm về tham nhũng, chính quyền Hoa Kỳ
cuối thế kỷ 20 không có gì khác biệt với các nước công nghiệp phát triển còn lại.
Thông qua nhiều cơ chế đa dạng, chính quyền liên bang Hoa Kỳ đã chống lại các
hoạt động tham nhũng của các cá nhân hoặc nhóm tìm cách phá hoại các quy trình
bình thường để thu lợi cá nhân hay đạt được các chính sách không thể chấp nhận.
Trong số các cơ chế đang hoạt động chống lại tham nhũng ở Hoa Kỳ, hội đồng độc
lập được coi là mấu chốt. Các nỗ lực chống tham nhũng khác bao gồm tổng thanh
tra trong các bộ của chính quyền, trách nhiệm kiểm toán và điều tra của Cục Kiểm
Toán, hệ thống bảo vệ của luật công vụ, luật bảo vệ “nhân chứng” và chức năng
điều tra “giám sát” của các ủy ban Quốc Hội. Từ bên ngoài chính quyền, báo chí
điều tra thường xuyên theo dõi chính quyền để phát hiện các tội lỗi và tìm kiếm
các câu chuyện.
2.
Tham Nhũng Trong Chính Quyền Hoa Kỳ Vào Thế Kỷ 19
Trong
thời kỳ sau cuộc nội chiến Mỹ (1861-65), một hệ thống thực tiễn chính trị phục
vụ cho chính trị và chính quyền quốc gia Hoa Kỳ đã bị lên án là tham nhũng. Một
cuộc chiến về tham nhũng kéo dài 50 năm đã thay đổi bản chất của chính quyền
Hoa Kỳ và tái định hình vai trò của các đảng chính trị trong chính trị Hoa Kỳ.
Từ
sau nội chiến đến đầu thế kỷ 20, thực tiễn bị lên án “tham nhũng” không chỉ đơn
giản là việc thao túng niềm tin của công chúng cho lợi ích tư nhân, mặc dù lúc
đó sự thu lợi cá nhân có thừa. Trái lại, chúng là một hệ thống các hoạt động sử
dụng chính quyền để hỗ trợ cho các đảng phái chính trị quần chúng. Trong suốt
50 năm đó, sự lên án tham nhũng không nhằm vào sự thiếu trung thực cá nhân mà
nhằm vào cỗ máy động cơ chính của hệ thống chính trị quốc gia Hoa Kỳ của thời kỳ
đó. Do đó, cuộc chiến thành công chống lại tham nhũng không chỉ chấm dứt thực
tiễn tham nhũng phổ biến trong chính quyền mà cũng đồng thời biến đổi chính trị
cũng như chính quyền theo một cách không được lường trước.
Các
Chính Đảng, Sự Sảo Trợ và Dân Chủ Tham Dự
Giành
được vị trí tổng thống vào năm 1828, Andrew Jackson đại diện cho một lực lượng
mới trong chính trị Hoa Kỳ. Ông là người đầu tiên ở miền Tây đạt tới vị trí cao
nhất, cho đến lúc đó vẫn thuộc về các thành viên của giới thượng lưu vùng Bờ
Đông và ông cũng là tổng thống đầu tiên không có liên hệ với phong cách gia trưởng
của thế hệ lập quốc (Skowronek, chap. 5). Khi nói về sự thay đổi chung, địa
phương và hệ tư tưởng trong chính trị Hoa Kỳ, Jackson đã hỏi rằng làm thế nào để
sự thắng cử của ông được chuyển hóa vào quản lý nhà nước? Hiến Pháp cho phép
ông bổ nhiệm một số bộ trưởng của vài bộ trong chính quyền liên bang, nhưng cần
được Thượng Viện phê chuẩn. Còn các viên chức cấp thấp hơn đang thực hiện công
việc hàng ngày của chính quyền thì sao? Jackson lên án quan niệm cho rằng những
viên chức này sẽ tại nhiệm vĩnh viễn và ông chấm dứt tình trạng này trong nhánh
hành pháp (White, 1965, chap. 1).
Trong
bài phát biểu tại nhiệm đầu tiên, Jackson đã đưa ra học thuyết quản trị công mới.
Những người được bổ nhiệm hành chính, lớn hay nhỏ, đều sẽ là những người trung
thành với tổng thống và đảng thắng cử. Những người được bổ nhiệm hành chính sẽ
là công cụ phản ánh ý chí của cử tri. Dĩ nhiên, hệ quả logic của chính sách
nhân sự mới là mỗi đời tổng thống đều sẽ loại bỏ các viên chức do tổng thống
trước đó bổ nhiệm. Trên thực tế, điều này đã được đưa ra từ khi Jefferson thắng
cử vào năm 1800 nhưng chưa bao giờ được thực hiện một cách có hệ thống như dưới
thời Jackson (Aronson).
Jackson
đưa ra học thuyết “luân chuyển vị trí” như là khái niệm về quản trị dân chủ
(Mosher, pp. 61-64). Việc bổ nhiệm chính trị và bãi nhiệm các vị trí hành chính
có hai hệ quả, một đối với quản lý nhà nước và một đối với các chính đảng. Thứ
nhất, việc bổ nhiệm các đảng viên vào bộ máy hành chính đảm bảo rằng các viên
chức hành chính sẽ trung thành với chính sách của lãnh đạo thắng cử (Crenson,
pp. 104-139). Thứ hai, Jackson và người của ông cũng tạo thành một nền chính trị
Hoa Kỳ mới với các đảng quần chúng (Ceaser). Thời kỳ của Jackson bắt đầu với việc
xây dựng các chính đảng quốc gia từ các tổ chức đảng của bang, mỗi đảng đều được
tổ chức bởi các lãnh đạo nắm giữ sự bảo trợ. Các đảng cấp bang này kiểm soát việc
lựa chọn các của bang và ứng cử viên địa phương cũng như ứng cử viên vào hai viện
của Quốc Hội. Trong kỳ họp bốn năm một lần, các đảng ở bang này, tại đại hội quốc
gia, lựa chọn ứng cử viên tổng thống. Do vậy, sự luân chuyển vị trí đòi hỏi
trách nhiệm chính trị trong quản lý nhà nước đồng thời cũng cung cấp nguồn lực
để xây dựng các đảng quần chúng.
Hệ
thống đảng phái thời hậu Jackson bền vững nhờ vào khả năng phân phối sự bổ nhiệm
mang tính bảo trợ cho những người trung thành, nhờ vào khả năng đưa sự mua sắm
của chính quyền đến những người ủng hộ và quyền ban phát phần thưởng cho các khu
vực bầu cử đã ủng hộ thông qua chính sách phân phối công. Trên thực tế, một hệ
thống tham nhũng có tổ chức là nền tảng cho các tổ chức chính trị dân chủ và sự
tham gia chính trị ở Hoa Kỳ.
Chính
quyền Hoa Kỳ thế kỷ 19 thiếu năng lực nhưng lại phải đối mặt với nhu cầu và
gánh nặng gia tăng. Họ thiếu các tổ chức quản trị hợp lý, các viên chức hành
chính được đào tạo, các phương tiện truyền thông và họ chỉ có quyền lực không
chắc chắn đối với sự phát triển kinh tế mới. Bằng cách sử dụng các nguồn lực của
chính quyền để hỗ trợ cho bản thân, các chính đảng cũng mang đến sự trật tự cho
chính quyền. Các hoạt động của đảng phái cung với các nhà hoạt động và cử tri của
họ đã lấp đầy khoảng trống do chính quyền thiểu số của Hoa Kỳ tạo ra.
Ann
Orloff and Theda Skocpol cho rằng mức độ xuất hiện dân chủ trong sự phát triển
nhà nước quyết định số lượng nguồn lực công mà các chính đảng có thể khai thác.
Họ viết:
Tại một số nước Châu
Âu phong kiến, sự hành chính hóa nhà nước diễn ra trước sự xuất hiện của chế độ
dân chủ bầu cử… Khi các đảng tranh cử cuối cùng cũng xuất hiện tại các quốc gia
đó thì họ không thể tiếp cận “bổng lộc của chức vụ”, và do đó phải đưa ra các kêu
gọi cương lĩnh… Nhưng ở những nước mà chính trị dân cử diễn ra trước sự hành
chính hóa nhà nước… các đảng phái có thể sử dụng các chức vụ cũng như chính
sách của chính quyền làm sự bảo trợ (p. 731).
Từ
những năm 1820 đến năm 1900, những đảng phái bảo trợ Hoa Kỳ đã có thể giao
tranh như thể họ có một đạo quân lớn (Jensen, p. 11). Các cử tri có liên hệ mạnh
mẽ với chính đảng lớn này hay chính đảng lớn khác, hệ quả là nếu như việc bỏ
phiếu cho đảng đối thủ là bất khả thi thì cử tri cũng không chú ý đến sự khó chịu
đó. Cho đến cuối thế kỷ, phiếu bầu vẫn do các chính đảng tự in ra và chỉ có ứng
cử viên của bản thân. Cử tri lựa chọn phiếu bầu của đảng này hay đảng khác và
trên thực tế là bỏ phiếu thẳng cho đảng ấy. Do vậy, vào ngày bầu cử, mối quan
tâm chính của mỗi đảng là tối đa hóa số cử tri đi bỏ phiếu trong số những người
trung thành với họ.
Sự
quan trọng của số lượng cử tri đi bầu có thể thấy trong những thắng lợi sít sao
của các kỳ bầu cử tổng thống từ năm 1868 đến 1900. Chỉ có hai trong số chín kỳ
bầu cử bốn năm một lần có thắng lợi chênh lệch hơn 5% tổng số phiếu bầu cho đảng
Cộng Hòa hoặc đảng Dân Chủ. Ba kỳ có thắng lợi chỉ chênh lệch dưới 1% tổng số
phiếu bầu cho cả hai đảng (Keller, p. 545). Thêm vào đó, sự tương quan đảng
phái trong Quốc Hội cũng thay đổi qua các kỳ bầu cử. Khi những căng thẳng về nội
chiến và Tái Thiết qua đi, trận chiến chính trị trở thành đấu tranh giữa các cỗ
máy đảng phái để tối đa hóa số cử tri đi bầu trong một bối cảnh không có sự
khác biệt về hệ tư tưởng hay có các vấn đề chia rẽ.
Cho
đến lúc đó, các đảng phải sử dụng một đạo quân nhân viên đảng phái để đảm bảo số
cử tri đi bầu và cung cấp người cho các điểm bỏ phiếu vào ngày bầu cử. Morton
Keller nhận thấy: “Phương kế máy móc mong manh của chính trị mang tính tổ chức
chiếm ưu thế so với các vấn đề quốc gia chủ chốt” (Keller, p. 544). Nhân viên đảng
phái tụ tập ở các điểm bỏ phiếu tạo ra cho đảng cơ hội hối lộ hay lôi kéo cử
tri vào phút chót. Giữa các kỳ bầu cử, các đảng duy trì sự trung thành của cử
tri thông qua các báo chí dành cho đảng viên và thông qua việc phân phát lợi
ích. Cho đến cuối thế kỷ 19, hầu như mọi tờ báo Hoa Kỳ đều liên kết với đảng
phái và phần lớn ấn phẩm của họ được các tổ chức đảng quốc gia hay bang phân
phát (ví dụ, xem Abbott). Trong một thời kỳ không có chính sách phúc lợi, các tổ
chức đảng phái là người cung cấp dịch vụ, người ban phát đặc ân và văn phòng
tuyển dụng.
Do
đó, các đảng phái không chỉ đơn giản là cỗ máy phân phối các lợi ích cụ thể để
phục vụ cho bản thân. Bên cạnh đó, họ cũng lấp đầy những khoảng trống trong
chính sách công có thể được cung cấp ở đâu đó tại phương Tây bằng cách mở rộng
nhà nước phúc lợi xã hội. Ví dụ, khi mà các bộ máy đảng đô thị ở Hoa Kỳ cung cấp
nhiều loại lợi ích giống như phúc lợi cho những người nhập cư mới từ Ireland,
Đông Âu và miền bắc Italy, chính quyền trung ương ở Anh và Tây Âu cũng bắt đầu
phổ quát hóa chính sách phúc lợi cho công dân của họ. Sự bảo trợ là lợi ích
trung tâm được các đảng phái phân phát cho người trung thành. James C. Scott đã
viết:
Bằng
cách khai thác sự theo đuổi công cộng để cung cấp các vị trí có thể thỏa thuận
theo các tiêu chí chính trị, bộ máy đảng phái thu được công cụ cần thiết để duy
trì kỷ luật và sự gắn kết bên trong. Các nhóm và cá nhân khác nhau kết hợp
thành đảng phái được gắn kết bằng các phần thưởng vật chất như là sự bảo trợ, đồng
thời những vị trí này cũng đem đến cho đảng phái các cán bộ đảng, họ là những
người thường trực của tổ chức và chịu trách nhiệm về những mệnh lệnh của lãnh đạo
(p. 1151).
Do vậy, các chính đảng duy trì một đạo quân các nhà
hoạt động sẵn sàng làm việc cho ứng cử viên của đảng, ủng hộ báo chí của đảng
và duy trì sự trung thành của cử tri dựa trên lợi ích. Làm sao các chính đảng
này có thể cung cấp tài chính cho những hoạt động quy mô lớn đó? Khả năng của đảng
thắng cử trong việc bổ nhiệm những người trung thành với họ vào các vị trí
trong chính quyền đã mang lại cho đảng phái cả khả năng tặng thưởng tức thời
cho người trung thành cũng như nguồn tài chính đáng tin cậy. Trong hệ thống của
Jackson, mỗi vị trí đều đi kèm với nghĩa vụ về khoản phần trăm cho chính đảng
và nguồn thu đó trở thành nền tảng cho ngân quỹ của đảng.
Điều
mà Jackson khởi sự vào cuối những năm 1820 đã trở thành quy tắc trong phần còn
lại của thế kỷ. Summers viết
Vào
năm 1896, chính quyền thực hiện việc bãi nhiệm và bổ nhiệm quy mô lớn mỗi khi tổng
thống mới nhậm chức… Không tổng thống nào có thể để đối thủ tiếp tục tại nhiệm
và triển khai chính sách của họ. Trong một hệ thống đảng phái dựa trên lòng
trung thành, với cấp bậc giống như cấp bậc quân sự … người thắng cử có thể
không tin rằng những người thất cử sẽ hành động chân thành, nhưng hơn thế nữa,
họ không thể tin rằng người của họ sẽ trung thành mà không… có phần chia.”
(Summers, p. 89).
Nhu cầu của đảng phái đối với nguồn lực của chính
quyền – việc làm và hợp đồng – dẫn đến sự phát triển của chính quyền. Xã hội và
kinh tế Hoa Kỳ đã thay đổi vào cuối 1/3 thế kỷ 19, công việc của chính quyền trở
nên phức tạp hơn. Tuy vậy, sự tăng trưởng của chính quyền trong thời gian đó
không hoàn toàn dựa trên các chức năng được mở rộng bởi vì khi mà bối cảnh trở
nên phức tạp hơn thì bản thân chính quyền đã không mở rộng nhanh chóng phạm vi
chính sách đối với xã hội và kinh tế cho đến thế kỷ 20.
Do
đó, điều hợp lý là xem xét nhu cầu tổ chức của đảng phái như là nguyên nhân sự
phát triển của chính quyền. Từ năm 1871 đến 1881, số lượng nhân viên của chính
quyền liên bang đã tăng gấp đôi, từ 51.000 lên 100.000 và vào năm 1891, số lượng
nhân viên đã tăng lên 157.442 (Cục Thống Kê, p. 710). Nhân viên chính quyền đã
phình ra ở hầu như mọi địa phương. Ví dụ, ở thành phố New York, có 140.000 nhân
viên chính quyền, địa phương, bang và liên bang – chiếm 1/8 số cử tri (Keller,
p.239).
Chương
trình chi tiêu lớn nhất của chính quyền liên bang vào cuối thế kỷ 19 đáp ứng được
cho một chính đảng và đó chính là mô hình sử dụng nguồn lực của chính quyền cho
lợi ích của đảng viên. Trợ cấp cho cựu chiến binh phe Liên Bang và người phụ
thuộc, gắn kết một số lượng người khổng lồ cho đảng Cộng Hòa và tổ chức liên kết
của họ, Đại Quân Cộng Hòa, nhóm gây sức ép lớn nhất thời đó. Trợ cấp cho cựu
chiến binh chiếm 34% ngân sách liên bang vào năm 1890 và cục trợ cấp quản lý
chính sách này có 6.241 nhân viên vào năm 1991. Vào năm 1900, 753.000 cựu chiến
binh và 241.000 người phụ thuộc được nhận trợ cấp. Thêm vào đó: “Một cơ sở hạ tầng
trợ cấp lớn và các đại lý nhận, luật sư về trợ cấp [khoảng 60.000 vào năm
1898], các ban y tế và 4.000 phẫu thuật viên phục vụ cho hệ thống phúc lợi liên
bang quy mô lớn đầu tiên này” (Keller, 311).
Từ
một góc độ, chính quyền Hoa Kỳ cuối thế kỷ 19 đã quản trị dựa trên sự tham
nhũng. Tuy vậy, nếu tham nhũng là “sự lừa dối niềm tin của công chúng để mưu lợi
riêng,” thì điều đã diễn ra trong chính quyền Hoa Kỳ phức tạp hơn tham nhũng hiện
đại. Chúng đã lợi dụng “niềm tin của công chúng” để cung cấp năng lượng cho bộ
máy chính trị dân chủ ở Hoa Kỳ. Vào cuối những năm 1890, nhà khoa học chính trị
Henry Jones Ford coi những bổng lộc này giống như tiền tệ, mà nhờ vào đó các tổ
chức phân tán trong phạm vi các đảng phái củng cố bản thân và thực hiện công việc
của họ. “Các nghị sĩ, cũng như các lãnh đạo đảng phái ở bang và địa phương của
họ trở thành người môi chức quyền, tìm kiếm và chi tiêu khoản tiền tệ bổng lộc”
(Trích dẫn của White, Repub. Era, pp. 7-8). Trong khi rõ ràng là có sự lạm dụng
đồng thời niềm tin của công chúng cho lợi ích riêng thì mục tiêu trung tâm của
các đảng phái chính trị dựa trên nguồn lực của chính quyền là vận hành một hệ
thống tham gia đã khiến Hoa Kỳ thế kỷ 19 trở thành một xã hội dân chủ chính trị
nhất vào thời đó. Do đó, tham nhũng, được gọi là “hệ thống bổng lộc”, là phương
tiện để mở rộng các mục tiêu công của chính quyền – ngay cả khi bằng các phương
tiện phi pháp và phi chính thống.
Đảng
Phái và Chính Quyền
Hiến
Pháp Hoa Kỳ năm 1787 đã tạo ra một chính quyền cho nước cộng hòa nông nghiệp.
Không có sự thay đổi căn bản trong quyền lực và tổ chức thì chính quyền này sẽ
không phù hợp với sự trỗi dậy của công nghiệp và chủ nghĩa tư bản tập thể, một gia
tăng dân số nhanh chóng, sự gia tăng đô thị và sự phát triển của vận tải. Sự trỗi
dậy của các cỗ máy đảng phái theo cách nào đó đã hướng tới việc cung cấp các
phương tiện để mở rộng phạm vi của chính quyền trong xã hội và kinh tế. Nhà sử
học Mark Summer nhận thấy: “Ông chủ, sự vận động hành lang có tổ chức, các nhà
thầu lắm mánh khóe, tất cả đều thấy rằng sự phát triển của họ vướng vào một
chính quyền nhỏ, giới hạn, với các quan chức dân cử không, không thể làm tất cả
những công việc được kỳ vọng một cách có hiệu quả hay toàn diện” (Summers, p.
x).
Chính
quyền nhỏ, chính thống, giữa một xã hội và nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng
được bổ sung bằng các chính đảng quần chúng, với gốc rễ tổ chức ở các bang và địa
phương, các lãnh đạo khéo léo của họ - “những ông chủ,” với binh đoàn đảng viên
tích cực cũng như các doanh nhân trung thành về chính trị với họ. Theodore Lowi
khái quát chính quyền quốc gia trong thời kỳ này là là nhà nước phân phối, có
nghĩa là vai trò chính của chính quyền liên bang là thúc đẩy kinh tế quốc gia bằng
việc phân phối trợ cấp và phần thưởng (Lowi, chap. 1). Minh họa nổi bật cho
chính sách công của nhà nước phân phối là sự trợ cấp cho việc xây dựng đường sắt
đi về phía tây bằng cách giao đất công cho các công ty đường sắt.
Trợ
cấp của chính quyền được phân phối thông qua các doanh nhân trung thành với đảng
nắm quyền và là một dạng khác của sự bảo trợ chính trị. Những trợ cấp này, như
việc cấp đất cho đường sắt, tạo thành sự trao đổi mà qua đó chính quyền liên
bang khuyến khích doanh nhân và nhà đầu tư thực hiện các dự án lớn. Do vậy,
không cần đến năng lực hành chính để lập kế hoạch và triển khai các dự án,
chính quyền vẫn có thể hỗ trợ việc xây dựng một cơ sở hạ tầng quốc gia phục vụ
cho việc mở rộng chủ nghĩa tư bản công nghiệp – kênh rạch, đường xá, bưu điện
và đường sắt.
Hợp
đồng của chính quyền đóng vai trò kép đối với chính quyền, đạt được mục tiêu
chính sách đồng thời cũng cung cấp việc làm và nguồn tài chính cho các đảng
chính trị. Làn sóng xây dựng các tòa nhà công cộng lớn đáng chú ý vào cuối thế
kỷ 19 cũng liên quan. Từ tòa thị chính thành phố, tòa nhà nghị viện tới tòa nhà
trung tâm bang và các tòa nhà liên bang lớn, hai thập kỷ trước năm 1900 đã tạo
thành thời đại vàng của kiến trúc công cộng ở Hoa Kỳ. Hầu như mọi thành phố đều
được thiết lập vào cuối thế kỷ 19 đều có một tòa nhà nghị viện hoặc thị chính lộng
lẫy ở trung tâm. Những tòa nhà này dường như báo hiệu một chính quyền mới đang
trỗi dậy, một chính quyền quyền lực hơn và đế quốc hơn nước cộng hòa nông nghiệp.
Tuy vậy, chìa khóa để hiểu được sự huy hoàng mỹ thuật – và chi phí – của những
tòa nhà này là ghi nhận rằng những dự án đó là tham nhũng như chúng được dự
báo.
Thông
qua các hợp đồng xây dựng, chính quyền đáp ứng cho các doanh nhân trung thành về
chính trị và các tổ chức đảng phái phục vụ như là văn phòng tuyển dụng để cung
cấp công nhân cho công việc xây dựng. Bên cạnh đó, để lại quả cho các hợp đồng
nhận được, doanh nghiệp trả các khoản phần trăm cho chính khách và lãnh đạo đảng
phái. Những hệ quả của mối quan hệ phức tạp, mang tính cộng sinh giữa chính quyền,
đảng phái và doanh nghiệp có thể được dự báo theo quy mô. Morton Keller viết: “Các nhà thầu trúng thầu
chia sẻ lợi nhuận từ giá cả được kê cao bừa bãi với các chính khách. Tòa nhà
Tòa Án Hạt New York… tốn phí gấp bốn lần tòa nhà Nghị Viện của Anh Quốc. Hơn
13.000.000 dollar [170 triệu dollar vào năm 1998] đã được chi cho việc xây dựng
tòa nhà này từ năm 1869 đến 1871 và tòa nhà không bao giờ được hoàn thành”
(Keller, p. 240).
Tóm
tắt lại lập luận cho đến thời điểm này, chính trị Hoa Kỳ vào thế kỷ 19 đã chuyển
giao có hệ thống nguồn lực công từ chính quyền sang các đảng phái chính trị. Hệ
quả là các đảng phái có thể được coi bản thân họ như người thực hiện các chức
năng công thiết yếu. Họ tạo ra sự tham dự chính trị rộng rãi bằng cách kết nối
các lợi ích cụ thể với hành động chính trị của các cá nhân. Họ khiến cho các cuộc
bầu cử giống như được thực hiện trong dân chủ, kết nối sự lựa chọn của cử tri với
hành động của chính quyền. Cuối cùng, họ còn tạo cho chính quyền tối thiểu cơ hội
để sử dụng các đảng phái quốc gia và các hệ thống tổ chức của họ như là phương
tiện để thực thi chính sách. Mặc dù vậy, tất cả đều có giá của nó.
3.
Chống Lại Tham Nhũng Trong Chính Quyền
Vào
cuối thế kỷ 19, Moise Ostrogorski cho rằng mục tiêu chính của chính quyền Hoa Kỳ
đã trở thành sự duy trì tổ chức đảng phái. Ông bình luận rằng các đảng phái đã
kết nối những hệ thống quyền lực phân tán thành chính quyền thống nhất, nhưng
thay vì là một chính quyền hiệu quả hơn, điều mà sự thống nhất hướng tới là “sự
bán rẻ bảo trợ tổng thống cho các nghị sĩ,” và ai đó nói thêm, cho các đảng
phái (Ostrogorski, pp. 285-6). Liệu sự đóng góp của các đảng phái cho dân chủ
có xứng đáng với chi phí tham nhũng đi kèm với hệ thống mà xã hội phải gánh chịu?
Trong vài thập kỷ cuối của thế kỷ 19, sự phê phán việc bảo trợ và các đảng phái
đã đi đến kết luận là phí tổn trong tham nhũng và sự lãng phí của những đảng
phái đó vượt xa sự đóng góp cho dân chủ và chính quyền của họ.
Cuộc
thánh chiến phá hủy bảo trợ chính trị trở nên cuồng nhiệt trong chính trị Hoa Kỳ
sau năm 1870. Nếu như ai đó cho rằng phong trào cải cách chỉ đề cập tới việc
gia tăng hiệu quả của chính quyền thì sự say mê của những người cải cách sẽ
không thể cắt nghĩa được. Nhưng nếu người ta hiểu rằng mục tiêu là thanh tẩy
chính quyền về đạo đức thì người ta sẽ hiểu được sự say mê đi cùng với cuộc cải
cách. Nhân vật nổi bật trong cuộc cải cách công vụ là George William Curtis, chủ
tịch của Liên Hiệp Cải Cách Công Vụ (NCSRL). Khu vực bầu cử của ông ta bao gồm
các công dân bản địa thượng lưu và phần trên của tầng lớp trung lưu. Curtis tìm
cách thay đổi hệ thống phần thưởng đã gắn kết các chính đảng với chính quyền,
nó cũng đã vô tình đã mở cửa công việc chính quyền cho các công dân ở tầng lớp
thấp hơn. Ông ta giải thích rằng mục tiêu của cải cách không phải chỉ là tuân
thủ những quy định thi cử nhất định. Đó phải là sự chỉnh đốn tham nhũng trong
chính trị và khôi phục các chính đảng cho chức năng thực sự của chúng, tức là…
các chính sách quốc gia” (White, p. 298).
Những
người cải cách dịch vụ công áp đặt một hệ thống thi cử công chức đảm bảo rằng
những người gia nhập công sở đạt đủ điều kiện để quản lý. Để củng cố “hệ thống
tài năng” đó, họ cũng tìm cách bảo vệ công chức trước sự phân biệt đối xử chính
trị trong các quyên góp cho đảng phái và bãi nhiệm vì lý do chính trị. Cuộc cải
cách chỉ đạt được thành công nhỏ nhoi với sự thông qua Luật Pendleton 1883, chịu
ảnh hưởng của các cuộc cải cách Northcote-Trevelyan trước đó ở Anh Quốc. Đạo luật
này thiết lập các kỳ thi cạnh tranh và tạo ra một ủy ban công vụ do tổng thống
chỉ định để thực hiện các kỳ thi đó cũng như áp dụng kết quả của chúng. Luật
này cũng cụ thể hóa rằng “không bất cứ cá nhân nào trong công vụ… có nghĩa vụ
quyên góp chính trị cho bất cứ quỹ chính trị nào,” và “không bất cứ cá nhân nào
trong công vụ có quyền sử dụng quyền lực chính thống hay ảnh hưởng của anh ta để
áp đặt hành động chính trị của bất cứ ai….” (Mosher, pp. 56-7).
Thành
công ban đầu của những người cải cách còn hạn chế bởi vì tỷ lệ công vụ mà hệ thống
tài năng mới bao quát còn nhỏ. Tuy vậy, đạo luật đã mang lại cho tổng thống quyền
mở rộng số lượng các vị trí mà hệ thống tài năng bao quát. Trong hơn hai thập kỷ
tiếp đó, các tổng thống đã thường xuyên mở rộng phạm vi bao quát của luật. Vào
năm 1891, 22% công chức của chính quyền liên bang nằm trong phạm vi thi công chức.
Vào năm 1900, 44% công chức thuộc phạm vi đó và vào năm 1910 thì tỷ lệ đó tăng
lên 57% (Cục Thống Kê Hoa Kỳ, p. 710). Trên thực tế, theo các quy tắc công vụ mới,
phần thưởng của sự bảo trợ và tư cách đảng viên đã góp phần mở rộng phạm vi bao
quát của hệ thống tài năng. Các tổng thống lần lượt kết thúc nhiệm kỳ với các mệnh
lệnh mở rộng phạm vi bao quát của hệ thống tài năng đối với các vị trí mà ông
đã lấp đầy bằng sự bảo trợ vào lúc khởi đầu nhiệm kỳ.
4.
Nền Cộng Hòa Cải Cách: Quản Trị Chuyên Nghiệp và Sự Suy Giảm Của Tham Dự
Các
nhà cải cách công vụ đã thay đổi nhận thức của công chúng về đặc trưng của
chính trị và chính quyền liên bang Hoa Kỳ. Sự chính trực thay thế cho sự đại diện
và hiệu quả thay thế cho sự thông cảm. Việc phân phối chức vụ cho đảng viên hay
đòi hỏi công chức đóng góp tiền cho đảng không còn là hợp pháp (Mosher, pp.
64-79). Các đảng phái bị buộc phải tìm ra các nguồn lực thay thế. Trong quá
trình tìm kiếm nguồn lực thay thế, bản thân các đảng phái cũng thay đổi. Dưới hệ
thống bổng lộc, các chính đảng liên kết qua lại với các khối cử tri lớn theo
hai cách. Thứ nhất, đảng được tổ chức để kích thích sự tham gia ở mức độ rất
cao, cả thông qua bầu cử lẫn các trong các hội thảo chính trị thường xuyên của
đảng viên, các cuộc tranh luận và diễu hành đặc trưng cho thời kỳ đó. Thứ hai,
tổ chức đảng được đảm bảo bằng sự phân phối rộng rãi các bổng lộc chính trị
theo cấp bậc trong đảng. Hệ thống mới sau cải cách sẽ kết nối các đảng với tầng
lớp thượng lưu kinh tế đồng thời tách họ khỏi cử tri quần chúng.
Nguồn
Lực Mới và Các Đảng Phái Đã Thay Đổi
Hệ
thống nguồn lực mới được đảng Cộng Hòa và lãnh đạo của họ, Mark Hanna, phát kiến
trong cuộc bầu cử năm 1896, đó là một sự phản ứng lại lệnh cấm yêu cầu công chức
đóng góp chính trị của cuộc cải cách công vụ. Trong cùng năm đó, đảng Dân Chủ đề
cử William Jennings Bryan, một người bảo vệ quyền lợi cho nông dân và chỉ trích
các chủ ngân hàng cũng như doanh nghiệp lớn. Đảng Cộng Hòa sử dụng nỗi ám ảnh
do lập trường bài kinh doanh của Bryan để gây quỹ được một khoản tiền khổng lồ
từ các doanh nghiệp nhằm tài trợ cho chiến dịch tranh cử của đảng Cộng Hòa. Khi
hướng tới các khoản đóng góp tài chính của doanh nghiệp, đảng Cộng Hòa đã tìm
thấy một mỏ vàng, có thể nói như vậy (Martin, pp. 84-87). Sự sáng tạo trong việc
gây quỹ đã tạo ra một nguồn lực ổn định đảm bảo cho đảng phái, nguồn lực đó
cũng dần dần thay thế cho các bổng lộc. Hệ quả của hệ thống nguồn lực mới là
các đảng phái trở nên gắn bó với tầng lớp thượng lưu kinh doanh chặt chẽ hơn và
dần dần đại diện cho các lợi ích chính trị của họ, cả đảng Dân Chủ cũng như đảng
Cộng Hòa.
Một
sự thay đổi khác trong hoạt động chính trị ở Hoa Kỳ cũng được củng cố bằng nguồn
tiền mới của lĩnh vực kinh doanh là sự trỗi dậy của truyền thông giải trí cũng
như các kênh tin tức quốc gia đại chúng. Vào những năm 1880, báo chí chuyển hóa
từ các hoạt động quy mô nhỏ của đảng phái, được các đảng phái tài trợ, thành hoạt
động kinh doanh phát đạt, xuất bản các tờ báo chính trị độc lập lớn hơn và nhiều
màu sắc hơn. Công nghệ in ấn mới cũng như sự phát triển nhanh chóng của các
hãng quốc gia đang tìm kiếm kênh quảng cáo đã thúc đẩy sự thay đổi trong ngành
báo chí. Số lượng và số kỳ xuất bản của báo chí đã bùng nổ trong nửa thế kỷ, từ
nội chiến cho đến năm 1914. Vào năm 1860, Hoa Kỳ có 387 nhật báo với tổng số ấn
bản phát hành là 1.478.000. Vào năm 1914, Hoa Kỳ có 2.580 nhật báo với tổng số
phát hành là 28.777.000 (Cục Thống Kê, p. 500). Trong cùng nửa thế kỷ đó, số lượng
phát hành của báo chí đã tăng gấp gần 20 lần, dân số tăng gấp 3 lần (Cục Thống
Kê, p. 1). Với nguồn tiền dồi dào mới, các chính đảng đã phát hiện ra rằng quảng
cáo qua báo chí là sự thay thế lý tưởng cho đạo quân nhân viên đảng phái, những
người khuyến khích cử tri đi bỏ phiếu trong các kì tranh cử của thế kỷ 19. Do
đó, hệ quả là hệ thống bổng lộc chấm dứt, bản chất tranh cử của đảng chính trị
thay đổi ngay khi nguồn tài chính của đảng đã thay đổi. Khi đánh mất tổ chức dựa
trên sự bảo trợ để tiến hành các chiến dịch tranh cử theo kiểu quân sự của thế
kỷ 19, các đảng phái dần dần áp dụng chiến dịch tranh cử theo kiểu quảng cáo
phù hợp với nguồn tiền từ doanh nghiệp (Jensen).
Ngay
khi cơ sở của đảng phái tách khỏi các tổ chức quần chúng quy mô lớn, vai trò của
họ trong việc cung cấp dịch vụ cho các cử tri trung thành cũng suy giảm. Trong
thời kỳ chính quyền nhỏ ở Hoa Kỳ, các bộ máy đảng đã cung cấp dịch vụ cho người
nghèo, người thất nghiệp và người nhập cư mới. Sau năm 1900, chính quyền bang
và địa phương đã dần dần cung cấp một số dịch vụ xã hội, cùng với các tổ chức từ
thiện tư nhân, như nhà tạm trú, xây dựng một mạng lưới an sinh xã hôi tối thiểu
để thay thế cho vai trò phân phối phúc lợi của tổ chức đảng.
Thắng
Lợi Của Người Cải Cách Trước Tham Nhũng
Những
người cải cách đã thắng lợi trong cuộc chiến chống lại tham nhũng và kém hiệu
quả trong chính trị Hoa Kỳ, hoàn toàn ở cấp quốc gia và không hoàn toàn ở các
chính quyền thành phố vào Thế Chiến I. Họ đã cải cách nhánh hành pháp liên bang
và áp dụng khái niệm công chức chuyên nghiệp. Ở cấp địa phương, họ đã áp dụng
khái niệm chính quyền thành phố phi đảng phái và người quản lý thành phố chuyên
nghiệp. Hơn thế nữa, họ đã khởi sự một ngành nghiên cứu hành chính công của Hoa
Kỳ để phục vụ cho việc gia tăng hiệu quả của quản lý nhà nước “để mở đường cho
chính quyền,” như Woodrow Wilson đã viết trong luận văn cổ điển của ông,
“Nghiên Cứu Về Hành Chính” (p. 485). Cuối cùng, những người cải cách đã tạo ra
các chương trình nghiên cứu và đào tạo để giáo dục các công chức chuyên nghiệp,
những người sẽ quản lý chính quyền hiệu quả và bảo vệ nói khỏi sự đồi bại của bổng
lộc.
Theo
ngôn ngữ của người cải cách, sự chấm dứt của tham nhũng trong chính quyền Hoa Kỳ
sẽ đảm bảo rằng chính quyền gần gũi với người dân. Tuy vậy, một nghịch lý đã xuất
hiện. Như James Morone đã nhận thấy: “chính quyền sẽ vừa quay lại với dân chúng
vừa xa cách họ và nằm trong tay của các chuyên gia” (Morone, p.98). Theo một
cách thỏa hiệp nhanh chóng, hệ thống bổng lộc đã hiện thực hóa lý tưởng của
Andrew Jackson về hệ thống hành chính “luân chuyển vị trí”, thông qua đó các
công dân bình thường hiểu được sự phục vụ của chính quyền trong thời gian tương
đối ngắn. Trái lại, một chính quyền được cải cách và có trật tự hơn sẽ nằm
trong tay của những người chuyên nghiệp. Những người cải cách đã định nghĩa lại
quan hệ giữa chính quyền và nhân dân. Thay vì để công dân trực tiếp tham gia vào
chính quyền, những người cải cách tạo ra một chính quyền sẽ phục vụ cho công
dân tốt hơn. Với bổng lộc, các công dân đã tham gia vào chính trị và chính quyền.
Với cải cách, công dân trở thành khách hàng.
Đáng
chú ý là có bằng chứng cho thấy mục đích phục vụ công dân – hay cử tri – như
khách hàng đã khuyến khích chính khách tấn công sự bảo trợ và tham nhũng. Vào
cuối thế kỷ 19, bưu điện là một trong những lĩnh vực lớn được bảo trợ đảng phái
của chính quyền liên bang. Hầu như toàn bộ hệ thống thu gom và phát trả thư ở
nông thôn đều dựa trên sự bảo trợ dưới dạng bổ nhiệm chính trị các trưởng bưu cục
cấp 4. Tuy vậy, vào năm 1890, một đạo luật của Quốc Hội đã biến hệ thống đó
thành một hệ thống chuyển phát tự do ở nông thôn với nhân sự được lựa chọn bằng
thi tuyển và chấm dứt sự bảo trợ. Sự chấm dứt bổng lộc và thiết lập sự chuyên
nghiệp không do các nhà cải cách khởi sự mà do các nghị sĩ Quốc Hội tìm cách
gia tăng dịch vụ cho cử tri của họ (Kernell and McDonald).
Do
vậy, các đảng phái và chính khách đã thay đổi khi cuộc cải cách công vụ và hành
chính chấm dứt bổng lộc trong chính quyền. Để thích nghi với sự tranh cử theo
phong cách quảng cáo, các đảng phái chi một số tiền lớn cho quảng cáo trên báo
chí, pamphlet và sách tranh cử. Đồng thời, một khuynh hướng rắc rối cũng xuất
hiện. Sự tham gia của cử tri bắt đầu suy giảm trong chính trị Hoa Kỳ vào thế kỷ
20.
Vào
đỉnh điểm của thời kỳ bổng lộc ở Hoa Kỳ, các đảng phái chính trị được củng cố bằng
một hệ thống tham nhũng đã khuyến khích tỷ lệ cử tri đi bầu cao – tỷ lệ trên những
người có quyền bỏ phiếu. “Bổng lộc” dưới dạng bổ nhiệm bảo trợ, hợp đồng cho
các doanh nghiệp ủng hộ chính trị và chính sách phân phối như trợ cấp, hướng
vào cử tri đảng viên, đã tạo ra các phần thưởng mạnh mẽ cho tổ chức đảng để gia
tăng số lượng cử tri đi bầu như là phương tiện để thắng cử và tiếp tục kiểm
soát bổng lộc. Đồng thời các tổ chức đảng lớn được đảm bảo bằng bổng lộc cũng
cung cấp các đạo quân đảng viên có năng lực về hoạt động quần chúng để tổ chức
cho cử tri đi bầu cử. Tuy vậy, sự suy giảm của bổng lộc do cải cách chính quyền
đã đe dọa mối quan hệ giữa tham nhũng và tỷ lệ người bỏ phiếu. Bảng 1 cho thấy
khuynh hướng của số cử tri bỏ phiếu ở các bang không phải miền bắc trong thế kỷ
sau nội chiến
Bảng
1
Tỷ
Lệ Bỏ Phiếu Ở Các Bang Không Phải Miền Nam Trong Các Kỳ Bầu Cử Tổng Thống,
1868-1948
(Dữ
Liệu Của Burnham, p. 30)
Tỷ
lệ bỏ phiếu
|
|
1868-1880
|
82.6
|
1884-1896
|
85.4
|
1900
|
84.1
|
1904-1916
|
73.6
|
1920-1948
|
60.6
|
Sự
suy giảm tỷ lệ cử tri bỏ phiếu ở Hoa Kỳ trong thế kỷ 20 là một hiện tượng phức
tạp (xem Burnham, chap. 1). Không có lời giải thích đơn lẻ nào có thể giải
thích được cho toàn bộ sự suy giảm nhưng tương quan nhất thời của sự suy giảm với
sự gia tăng của việc chống lại bổng lộc, phong trào cải cách hành chính công là
rõ ràng. Nói một cách khái quát về mối liên hệ nhân quả, chúng ta có thể thấy sự
tương đối phù hợp giữa giả định và phương pháp của phong trào cải cách với những
thay đổi hệ quả trong đảng phái, điều đã giải thích hợp lý sự suy giảm của tỷ lệ
người đi bầu cử. Khi khiến cho chính quyền phục vụ nhân dân tốt hơn, các nhà cải
cách đã tạo ra một chính quyền – và quy trình chính trị - hoàn toàn xa cách cử
tri, so với quy trình chính trị định hướng bằng bổng lộc cũ. Khi sự bảo trợ
chính trị quan trọng là “bổng lộc” của người thắng cử, các đảng phái có phần
thưởng mạnh mẽ để thúc đẩy số lượng cử tri đi bầu. Tuy vậy, khi sự bảo trợ suy
thoái và sự phục vụ của chính quyền được chuyên nghiệp hóa theo như sự cải
cách, phần thưởng của các đảng phái trong việc thúc đẩy bầu cử cũng giảm đi.
Dĩ
nhiên, lợi ích của phong trào cải các đối với hành chính công là rất lớn. Viên
chức hành chính của chính quyền trở thành người làm nghề chuyên môn thay vì các
công dân tích cực chính trị “luân chuyển vị trí”. Chính quyền, như đã mở rộng
vào thế kỷ 20, đòi hỏi ngày càng nhiều sự phục vụ của những người được giáo dục
và chuyên môn hóa. Hệ thống công vụ mà cải cách đã tạo ra đã thích nghi nhanh
chóng với những đòi hỏi thay đổi của công việc nhà nước. Sự bảo trợ là hệ thống
nhân sự dựa trên giả định rằng công dân bình thường cũng phù hợp với công việc
nhà nước. Những yêu cầu của chính quyền thế kỷ 20 đã khiến cho giả định đó trở
thành lỗi thời. Tuy vậy, đồng thời, chúng ta cũng nhận thấy rằng những thay đổi
trong hành chính công của Hoa Kỳ, nhấn mạnh vào tài năng và chấm dứt thực tiễn
tham nhũng, cũng xóa bỏ vai trò tích cực của công dân trong chính quyền ngay cả
khi chúng mở rộng chất lượng sự phục vụ của chính quyền cho công dân.
Song
song với những sự thay đổi của hành chính công từ bảo trợ sang chuyên nghiệp,
các đảng phái chính trị Hoa Kỳ và sự tranh cử của họ cũng thay đổi từ thúc đẩy
cử tri quần chúng đi bầu cử sang quảng cáo chính trị dựa trên truyền thông. Khi
chính trị đảng phái Hoa Kỳ trở nên phụ thuộc vào việc thuyết phục các cử tri
theo cùng một cách như quảng cáo thương mại, cử tri trở nên ít có liên hệ gần
gũi với đảng phái, tuyển cử và bỏ phiếu.
5.
Kết Luận
Liệu
tham nhũng có nhất thiết là kẻ thù của dân chủ? Con đường phát triển của những
xã hội công nghiệp phát triển nhất cho thấy rằng sự tham nhũng phổ biến suy giảm
khi trách nhiệm của chính quyền gia tăng và sự tham gia cũng nhưng tranh cử được
mở rộng. Tuy vậy, trường hợp Hoa Kỳ là một ngoại lệ đáng chú ý so với kịch bản
chung đó. Bài báo này lập luận rằng sự phát triển chính trị ở Hoa Kỳ thể hiện mối
quan hệ hệ thống giữa tham nhũng chính trị, đảng phái quốc gia và tham gia dân
chủ.
Định
nghĩa truyền thống về tham nhũng chính trị là sự lạm dụng niềm tin của công
chúng để thu lợi riêng. Tuy vậy, vào thế kỷ 19 ở nước Mỹ, tham nhũng có vai trò
phức tạp hơn nhiều. Ở Hoa Kỳ, điều đó dẫn đến việc chiếm dụng các nguồn lực của
chính quyền để phục vụ cho các đảng phái quần chúng, ngược lại các đảng phái
này lại sử dụng nguồn lực đó để mở rộng sự tham gia chính trị và cung cấp một số
chức năng cộng cộng, cùng với sự làm giàu cá nhân. Bên cạnh đó, chính trị Hoa Kỳ
vào thế kỷ 19 chính thức gắn kết tham nhũng với dân chủ. Các chính khách hàng đầu
như tổng thống Andrew Jackson và Martin Van Buren đã lập luận rằng bản thân
chính quyền là lĩnh vực chính trị và tình cảm quần chúng và chức vụ cũng như sự
bảo trợ nên được phân phối cho công dân vì lợi ích của họ. Do vậy, các đảng
phái nhận được khái niệm chính thể dân chủ, mà nghịch lý là hợp pháp hóa tham
nhũng.
Thực
tế, cuộc chiến cải cách đã phá hủy tính hợp pháp của tham nhũng trong chính trị
Hoa Kỳ. Sự thúc đẩy này đã tạo ra một nền hành chính công chuyên nghiệp cho
chính quyền Hoa Kỳ. Nhưng song song với sự phát triển đó, bản thân các đảng
phái đã thay đổi tổ chức và chức năng của họ. Vai trò là tổ chức quần chúng để
thúc đẩy sự tham gia bầu cử của họ đã suy giảm, họ bị biến thành một tổ chức đặc
biệt để thu gom tiền từ các lợi ích có tổ chức và quản lý các chiến dịch chính
trị dựa trên truyền thông.
Song
song với những thay đổi của đảng phái và tham gia chính trị, chính quyền trở
thành lĩnh vực chuyên nghiệp đã mở rộng chức năng đối với kinh tế và xã hội. Sự
tiếp cận của công dân với chính quyền đã suy giảm khi chính quyền mở rộng và
gia tăng gánh vác đời sống của xã hội. Chính quyền Hoa Kỳ, trước những năm
1930, là lớn, phức tạp, kỹ thuật và hầu như sạch tham nhũng. Đó là sản phẩm của
cải cách và chuyên nghiệp hóa chính quyền được khởi sự trong những năm cuối của
thế kỷ 19 để chấm dứt sự tham nhũng và gia tăng hiệu quả. Tham nhũng hệ thống
đã chấm dứt, nhưng cùng với sự biến mất của tham nhũng thì Hoa Kỳ cũng nhận thấy
những sự thay đổi chính trị và thể chế đã làm suy giảm sự tham gia của công dân
vào chính trị và chính quyền.
*Peri
Arnold, Giáo Sư, Khoa Khọc Chính Trị, Đại Học Notre Dame, Notre Dame, Indiana,
USA.
Tài liệu tham khảo
Abbott
Richard H, "The Republican Party Press in Reconstruction Georgia, 1867- 1874.",
The Journal of Southern History, Vol. 2 (November 1995), 725-760.
Anechiarico
Frank and Jacobs James B., The Pursuit of Absolute Integrity, Chicago,
University of Chicago Press, 1996.
Aronson
Sidney H., Status and Kinship in the Higher Civil Service, Cambridge, MA,
Harvard University Press, 1964.
Bureau
of the Census, Statistical History of the United States, Stanford, CT, Fairfield
Publishers, 1965.
Burnham
Walter Dean, The Current Crisis in American Politics, New York, Oxford
University Press. 1982.
Ceaser
James, Presidential Selection, Princeton, NJ, Princeton University
Press, 1979.
Jensen
Richard, Winning of the Midwest, Chicago, University of Chicago Press, 1971.
Kernell
Samuel and McDonald Michael P., "Congress and America's Political Development:
The Transformation of the Post Office from Patronage to Service.", American
Journal of Politics, Vol. 43 (1998), 792-811.
Keller
Morton, Affairs of State, Cambridge, MA, Harvard University Press, 1977.
Lowi,
Theodore, The Personal President. Ithaca, NY, Cornell University Press, 1975.
Martin,
Ralph., The Bosses, New York, G.P. Putnam, 1964.
McCormick,
Richard C., The Party Period and Public Policy, New York, Oxford University
Press, 1986.
Morone,
James A., The Democratic Wish, New York, Basic Books, 1990.
Mosher,
Frederick C. (ed.), Basic Documents of American Public Administration, 1776-1950,
New York, Holmes & Meier, 1976.
Mosher,
Frederick C., Democracy in the Public Service, 2nd ed., New York, Oxford
University Press, 1982.
Orloff,
Ann Shola and Theda Skocpol, "Why Not Equal Protection? Explaining the Politics
of Public Social Spending in Britain, 1900-11, and the United States, nSQs-1920.",
American Sociological Review, Vol. 49, (1984), 726-750.
Ostrogorski,
Moise, Democracy and the Organization of Political Parties, Vol. I, Garden
City, NY, 1964 (Published originally in 1902).
Rosenbloom,
David, Public Administration, 4th ed., New York, McGraw-Hill, 1998.
Scott,
James C., "Corruption, Machine Politics, and Political Change." American
Political Science Review. Vol. 63 (1969), 1142-1158.
Skowronek,
Stephen, The Politics Presidents Make, Cambridge, Harvard University
Press, 1993.
Summers,
Mark, The Era of Good Stealings, New York, Oxford University Press, 1993.
White,
Leonard D., The Jacksonians, New York, The Free Press, 1965.
White,
Leonard D., The Republican Era, New York, Macmillan, 1958.
Wilson,
Woodrow, "The Study of Administration", Political Science
Quarterly, 61 (December, 1941, reprinting original of 1887).
Labels:
Báo chí,
Chính trị,
Đấu tranh,
Hoa Kỳ,
Hối lộ,
Khoa học,
Lịch sử,
Quốc tế,
Tham nhũng,
Thế giới,
Truyền thông,
Tư bản,
Vô sản
Wednesday, May 11, 2016
Sài Gòn là “Hòn Ngọc Viễn Đông” hay “Paris của phương Đông”?
Số lượng người Pháp sống ở thuộc địa Đông Dương tương đối ít, do vậy chính quyền Pháp tìm nhiều cách để khuyến khích người dân di cư đến thuộc địa. Họ tổ chức các cuộc triển lãm về thuộc địa Đông Dương ở các thành phố lớn như Paris, Marseille và Lyon và giới thiệu thuộc địa là "Hòn Ngọc Viễn Đông" để thu hút người Pháp. [1] Như vậy, Hòn Ngọc Viễn Đông này là cho người Pháp chứ không phải cho dân thuộc địa.
Từ năm 1896 đến năm 1902, toàn quyền Doumer tăng cường khai thác thuộc địa, lúc này Đông Dương được gọi là "Hòn Ngọc Viễn Đông". Doumer theo đuổi kế hoạch xây dựng cơ sở hạ đô thị cho toàn bộ Đông Dương nhằm phục vụ cho việc khai thác thuộc địa, được tuyên truyền một cách văn hoa là biến Đông Dương thành "Hòn Ngọc Viễn Đông". Kế hoạch này không phải chỉ phục vụ cho Sài Gòn, hơn nữa Doumer cũng quyết định đặt chính quyền thực dân tại Hà Nội chứ không phải Sài Gòn, tức là coi Hà Nội là trung tâm của Đông Dương.[2]
Sự mơ hồ trong danh hiệu "Hòn Ngọc Viễn Đông" ở Đông Dương đã khiến cho không chỉ Sài Gòn nhận được danh hiệu ấy mà người ta bắt gặp cả người Hà Nội thời xưa cũng đôi lúc dùng danh hiệu ấy cho thành phố của mình.[3] Sau này, một số người nước ngoài cũng nhắc đến điều này ví dụ như trong một bài báo về việc Hàn Quốc tham gia chiến tranh ở Việt Nam đã đăng trên blog này.
Cho đến năm 1910, khách du lịch vẫn gọi Sài Gòn là "Paris của phương Đông" vì lối sống và văn hóa phỏng theo kiểu Paris của thành phố này. Một khách du lịch đã đi một vòng quanh các cảng ở Đông Nam Á và so sánh Sài Gòn với các thương cảng khác ở Đông Nam Á. Ông ta cho biết vào lúc đó người Mỹ đã gọi Manila của Philippine là "Hòn Ngọc Viễn Đông" và nói rằng Sài Gòn tuy không sạch sẽ hay có hoạt động thương mại sầm uất như Manila nhưng đẹp và hấp dẫn hơn. [4]
Tuy vậy, danh hiệu "Paris của phương Đông" cũng không phải chỉ duy nhất Sài Gòn có. Ở Châu Á, Thượng Hải có danh xưng này từ lâu và sau này có Harbin của Trung Quốc cũng nhận danh xưng này. Ngoài ra còn có Van, một thành phố nhỏ nằm ở phía Đông của Anatolia, Thổ Nhĩ Kỳ cũng xưng tên đó.
Có thể những cái tên như "Hòn Ngọc Viễn Đông" hay "Paris của phương Đông" chỉ là tên gọi mang tính chất truyền thông để quảng bá du lịch và thu hút du khách cũng như thực dân đến thuộc địa sinh sống, nó không mang ý nghĩa nhiều về sự phát triển hay quy mô của thành phố ấy. Việc Pháp thua trận ở Điện Biên Phủ và hiệp ước hòa bình khiến Việt Nam tạm thời bị chia cắt đã thúc đẩy người Pháp ở miền Nam tìm sự an ủi trong ánh hào quang cũ kỹ của thời thuộc địa trước khi bị người Mỹ hất cẳng. Sau đó, những tay sai thất trận của Mỹ tiếc nuối về Hòn Ngọc Viễn Đông ở nơi lưu vong. Đa số người Việt Nam chẳng quan tâm cái hòn ngọc thời thuộc địa ấy có nghĩa gì, giờ đây họ đang xây dựng một thành phố vĩ đại mang tên người anh hùng giải phóng dân tộc. Người ta sẽ phải nhắc đến thành phố Hồ Chí Minh ở Đông Nam Á. Lần này, lịch sử không phải do những kẻ thực dân hay đế quốc viết mà do người Việt Nam tự do viết ra.
Tài liệu tham khảo:
[1] Trong cuốn “French Women and the Empire: The Case of Indochina” của Marie-Paule Ha do nhà xuất bản Oxford University Press phát hành năm 2014 ở trang 89 có đoạn viết:
According to Alain Ruscio, from 1878 onward, Indochina and Indochinese featured regularly in the different colonial exhibition in Paris, Marseille, and Lyon, in which “the Pearl of the Orient”, as Asian colony came to be know, was billed as one of the major attractions27.
Mục chú thích số 27 như sau:
Ruscio, “Du village à l’exposition. One of French woman interviewed by Locret-Le Bayon recalled that it was her visit to the 1931 international colonial exhibihation that totally changed her negative view of the colonies and helped make up her mind to marry her husband, who had a position in Saigon.
[2] Trong cuốn “Encyclopedia of Early Cinema” của Richard Abel do nhà xuất bản Taylor & Francis, phát hành năm 2005 ở trang 678 có đoạn viết:
From 1896 to 1902, Doumer embarked on an ambitious plan to develop Vietnam’s urban infrastructure. The Cinématoghraphe captured the labor of the anonymous Vietnamese workers who transformed Indochina into the “Pearl of the Orient”, as exemplified in Girel’s extraordinary Coolies à Saigon [Coolies in Saigon] shot in December 1896. This desire to archive everyday practices is also evident in scenics of travelogues such as Le Vilage de Namo: Paronama pris d’une chaise à porteurs [The Vilage of Namo Seen from a Portable Chair].
[3] Trong cuốn “From the City Inside the Red River: A Cultural Memoir of Mid-century” Vietnam của Nguyễn Đình Hoà do nhà xuất bản McFarland phát hành năm 1999 ở trang 34 có đoạn viết:
We worked our way up in nearly complete darkness. Once we got rooftop, we found out the reward very worthwhile: Before us spread out the city of Hanoi. Amid the greenery of trees, I could very easily spot the Municipal Theater, the “Grands Magasins Resunis” department store (referred to as Maison Godard), the university building, the Lanessan Military Hospital, the Maurice Long Museum, the cathedral, the railroad station, the palace of the governor-general with little tricolor flag – all distinctive landmarks of the “Pearl of the Orient.” Columns of smoke were spiraling upward from the rice wine distillery, and beyond the city boundaries also, from small factories, pottery kilns and brick kilns scattered in suburban areas.
[4] Sách "On& Off Duty in Annam" của Grabrielle M. Vassal, do nhà xuất bản William Heinemann (London) phát hành năm 1910 trang 21 có viết:
The tour d’inspection took us down the chief streets, through the Botanical Gardens and round one of the prettiest districts in the neighbourhood. We were charmed with all we saw. Saigon is the Paris of the East. Manila, which the Americans call “the Pearl of the Orient”, may be more sanitary and show greater commercial activity, but it is neither so pretty nor so attractive as Saigon. The town is well laid out on broad and artistic lines. The public buildings, such as the Cathedral, the theatre, and the Governor’s Palace, are chefs-d’oeuvre of architecture, and are set off to advantage by their position at the end of some broad avenue or grass-covered square.
Labels:
Báo chí,
Bất đồng chính kiến,
Chính trị,
Đấu tranh,
Đời sống,
Hoa Kỳ,
Hòn Ngọc Viễn Đông,
Pháp,
Truyền thông,
Văn hóa,
Việt Nam,
Vô sản
Một vài ghi chép về đấu tranh giai cấp hiện nay ở Việt Nam
Hoàn cảnh lịch sử
Đặc trưng của chế độ Việt Nam hiện nay là nhà nước nằm trong tay công nhân, nông dân và trí thức.
Do xuất phát điểm của Việt Nam là một nước nghèo nàn lạc hậu, vốn từ một nước nửa phong kiến nửa thuộc địa, làm cách mạng giành độc lập từ tay đế quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, nên công nhân đa số là công nhân cổ xanh, nông dân đại đa số là tiểu nông, không phải là địa chủ, trí thức xuất thân chủ yếu từ tầng lớp tiểu tư sản và thị dân. Tầng lớp tư sản và địa chủ vốn nhỏ yếu của Việt Nam đã tan rã trong nửa thế kỷ sau khi giành độc lập từ tay thực dân Pháp. Suốt nửa thế kỷ từ sau khi giành độc lập, Việt Nam đã duy trì thành công chính sách kinh tế phục vụ cho lợi ích của công nhân, nông dân và trí thức. Lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến sự hình thành thị trường và sự hồi sinh của giai cấp tư sản và địa chủ. Mặc dù giai cấp tư sản và địa chủ mới hồi sinh dần dần thâu tóm được quyền lực về kinh tế nhưng họ vẫn chưa đủ sức để giành lấy quyền lực chính trị.
Trong bối cảnh liên minh công-nông-trí vẫn nắm tuyệt đối quyền chính trị nhưng phải nhượng bộ một mức nhất định trước sức mạnh kinh tế của giai cấp tư sản và địa chủ thì chính quyền cũng nhà nước cũng mang trạng thái ấy. Một mặt nhà nước phải bảo vệ quyền lợi của công nhân, nông dân và trí thức, tức là phải kiềm chế tư sản và địa chủ không để họ bóc lột công nhân và nông dân tàn tệ, mặt khác lại phải có những nhượng bộ nhất định đối với tư sản và địa chủ để phục vụ cho sự phát triển kinh tế của quốc gia. Điều này tạo ra một sự mơ hồ, nhập nhằng bề ngoài, đồng thời tạo ra lỗ hổng khiến tầng lớp viên chức nhà nước có thể lợi dụng để kiếm chác cho bản thân. Giai cấp tư sản và địa chủ cũng lợi dụng lỗ hổng này để mua chuộc viên chức nhà nước nhằm tạo ra những chính sách có có lợi cho họ. Sở dĩ điều này có thể xảy ra là vì kinh tế thị trường đã biến tầng lớp viên chức nhà nước thành một tầng lớp làm công việc hành chính nhà nước chuyên nghiệp, có điều kiện sống, lợi ích và nhận thức giống như giai cấp tư sản.
Đấu tranh giai cấp
Sự xung đột giữa bảo vệ và nhượng bộ để phát triển là điều tất yếu của giai đoạn quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Từ đó nảy sinh ra những quan điểm khác nhau trong quần chúng nhân dân tùy thuộc vào xuất phát điểm của họ.
Thứ nhất là quan điểm cực tả. Quan điểm này phủ nhận tình trạng quá độ, nhấn mạnh vào những hy sinh lợi ích và nhượng bộ trước giai cấp tư sản và địa chủ, cho rằng nhà nước đã phản bội lại lợi ích của công-nông-trí vì vậy cần phải thay đổi chế độ hiện nay, thiết lập chế độ chuyên chính vô sản cứng rắn. Đây là quan điểm của tầng lớp trí thức tiểu tư sản hoặc công nhân cổ trắng cực tả hay vô chính phủ.
Thứ hai là quan điểm cực hữu. Quan điểm này nhấn mạnh vào sự kiềm chế đối với giai cấp tư sản và địa chủ, cho rằng chế độ hiện tại chỉ đẻ ra tình trạng tha hóa, lạm dụng quyền lực, tham nhũng, hối lộ, lãng phí tràn lan. Quan điểm này là của giai cấp tư sản và một số bộ phận tiểu tư sản, cho rằng chế độ hiện nay sinh ra chỉ nhằm mục đích kìm hãm, tống tiền và cướp bóc nhân dân (tức là giai cấp tư sản và địa chủ), bóp nghẹt các quyền tự do và dân chủ. Do vậy, cần phải lật đổ chế độ hiện tại và thay thế bằng chế độ dân chủ tự do phục vụ cho lợi ích của nhân dân (tư sản và địa chủ).
Dù là theo quan điểm nào thì mục đích chung của những người cực tả và cực hữu đều là chống lại chế độ hiện tại.
Sự đấu tranh giai cấp diễn ra trên mọi mặt của cuộc sống, dưới với nhiều lĩnh vực khác nhau.
Ở lĩnh vực nhận thức thì giai cấp tư sản cho rằng do dân chúng thiếu hiểu biết về quyền lợi của bản thân nên mới bị chính quyền áp bức, do vậy họ tìm cách tuyên truyền để dân chúng biết mà đòi hỏi quyền lợi của mình. Giai cấp tư sản nhìn nhận những kiềm chế đối với họ là do họ chưa nhận thức đầy đủ về quyền lợi của bản thân. Họ coi chủ nghĩa Marx-Lenin là học thuyết sai lầm, chỉ nhằm đầu độc trí óc dân chúng, do vậy cần phải bị loại bỏ. Ngược lại, quan điểm cực tả thì lại cho rằng quần chúng ngu dốt, thiếu hiểu biết đường lối chính sách của Đảng và nhà nước nên hay chống lại, do vậy cần phải áp đặt chính sách và dùng hình phạt thật hà khắc để răn đe quần chúng nhân dân.
Ở lĩnh vực kinh tế thì giai cấp tư sản cho rằng kinh tế thị trường là tốt, định hướng xã hội chủ nghĩa là sai lầm, do vậy chỉ cần phát triển kinh tế thị trường và phải xóa bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm cực tả lại cho rằng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thực ra là chủ nghĩa tư bản, chỉ phục vụ cho các tầng lớp ăn bám, cần phải thiết lập chế độ kinh tế chỉ huy toàn diện không chấp nhận bất cứ sự thỏa hiệp nào.
Ở lĩnh vực chính trị thì giai cấp tư sản cho rằng chế độ dân chủ tự do kiểu phương Tây là văn minh (vì phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản), đứng trên mọi giai cấp và dân tộc. Họ đòi hỏi Việt Nam phải đi theo chế độ dân chủ tự do (tư sản) phương Tây và xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan điểm cực tả thì lại cho rằng quần chúng có nhận thức thấp kém, chưa đủ trình độ để hưởng các quyền tự do dân chủ do vậy cần phải tăng cường kiểm soát nhà nước, hạn chế các quyền tự do dân chủ và tập trung quyền lực vào tay nhóm tinh hoa.
Ở lĩnh vực văn hóa thì giai cấp tư sản cho rằng văn hóa Việt Nam hiện nay là hủ bại, thấp kém, chỉ có văn hóa (tư sản) phương Tây mới là tốt. Họ đòi hỏi Việt Nam phải Tây hóa, hoàn toàn áp dụng văn hóa (tư sản) phương Tây. Quan điểm cực tả thì lại cho rằng văn hóa Việt Nam hiện nay đã bị Tây hóa, tha hóa và lệch lạc, cần phải quay trở lại văn hóa truyền thống với các giá trị khắc khổ.
Hiện nay ở Việt Nam thì giai cấp tư sản và địa chủ chưa đủ mạnh để giành lấy quyền lực nhà nước nên họ vẫn chủ yếu dựa vào giai cấp tiểu tư sản và tầng lớp thị dân, tầng lớp trí thức và viên chức nhà nước đang ngày càng ngả về phía họ. Để phá vỡ sức mạnh của liên minh công-nông-trí thì giai cấp tư sản cần phải lôi kéo được đại bộ phận nông dân, do vậy những vấn đề như tham nhũng trở thành tâm điểm. Tham nhũng là phương cách giai cấp tư sản dùng để kiếm lợi bị quy lại thành việc quan chức nhà nước ăn cắp phúc lợi của nhân dân khiến cho nhân dân phải nghèo khổ. Điều này một mặt biến giai cấp tư sản (thủ phạm) thành nạn nhân, mặt khác lại kích động sự phẫn nộ người dân nghèo (đại đa số là nông dân). Cuộc đấu tranh chống tham nhũng trở thành vấn đề chính trị cấp thiết.
Giới viên chức nhà nước cố gắng hành chính hóa vấn đề tham nhũng, họ lảnh tránh tính chất chính trị, cho rằng tham nhũng sinh ra là do tiền lương thấp, tức là họ coi bản thân như nạn nhân của chế độ tiền lương thấp. Việc tăng lương thực chất không đụng chạm đến vấn đề tham nhũng hay nguồn gốc của tham nhũng mà chỉ gia tăng quyền lợi cho giới viên chức nhà nước.
Quan điểm cực tả thì cho rằng tham nhũng là do sai lầm trong sự tuyển chọn cán bộ khiến cho những cán bộ tham lam vô đạo đức lọt vào bộ máy nhà nước. Việc tăng cường tuyển chọn những cán bộ thuộc giới tinh hoa thực chất là giúp cho các phần tử cực tả có nhiều đại diện cũng như quyền lực hơn trong bộ máy nhà nước nhưng cũng không đụng chạm gì đến vấn đề tham nhũng.
Giai cấp tư sản vốn không chống lại tham nhũng mà chỉ dùng việc chống tham nhũng để phục vụ cho việc củng cố quyền lực chính trị, do vậy họ đòi hỏi phải áp dụng các cơ chế quản lý nhà nước tư sản như minh bạch, kiểm soát và phân chia quyền lực, thông qua đó tước bỏ quyền lực của các đại biểu của giai cấp công nhân và nông dân. Đồng thời khi làm như vậy, họ cũng đảm bảo được rằng giới viên chức nhà nước sẽ càng bị lệ thuộc hơn vào tiền của họ.
Truyền thông trên mạng Internet
Truyền thông trên mạng Internet hiện nay có đặc điểm là phải thu hút một lượng độc giả rất lớn và da dạng để có thể bán quảng cáo hoặc nhận được tiền tài trợ. Do vậy, các phương tiện truyền thông hiện nay buộc phải tạo ra số lượng tin tức cực lớn mỗi ngày và cập nhật hầu như liên tục để thu hút tối đa số lượng độc giả. Truyền thông có hai cách tạo ra tin tức. Thứ nhất là tìm kiếm tin tức mới và cung cấp cho độc giả và thứ hai là tự tạo ra tin tức. Cách thứ nhất càng ngày càng trở nên đắt đỏ do số lượng tin tức rất lớn, vì vậy truyền thông rút gọn nó thành hoạt động sao chép, chỉnh sửa, đăng tải đơn thuần và chỉ tập trung nguồn lực cho những tin tức nóng thu hút được nhiều độc giả. Cách thứ hai là đưa ra những chủ đề gây tranh cãi để cho độc giả tham gia bàn luận, cách này rẻ tiền và thu hút được số lượng lớn độc giả thường xuyên nên ngày càng được truyền thông chú trọng khai thác.
Việc bàn luận trên mạng Internet hầu hết là vô thưởng vô phạt, nó không quan trọng ai nói gì, nói cái gì hay nói với ai, không ràng buộc trách nhiệm làm rõ và phản hồi hay đưa đến hành động thực tế, mỗi người đều có thể đưa ra ý kiến của mình cho dù chúng xung đột với ý kiến của người khác hay vô đạo đức và lệch lạc đến đâu. Các ý kiến cứ thế tồn tại cùng với nhau, không bác bỏ sự tồn tại của nhau và tạo thành dòng thông tin ngày càng lớn hơn giúp truyền thông thu hút độc giả phục vụ cho việc kiếm tiền. Sự tự do ngôn luận trở thành phương cách kiếm tiền của truyền thông, do vậy họ đề cao quyền tự do ngôn luận để phục vụ cho hoạt động kinh doanh truyền thông. Nhà nước cũng phải có những nhượng bộ nhất định trước tình hình đó, một mặt là phải áp dụng cơ chế hậu kiểm vì không thể nào kiểm tra hết số lượng tin tức khổng lồ trước khi đăng tải, mặt khác là phải tạm dung túng ở mức nhất định đối với các tin tức và quan điểm gây tranh cãi.
Truyền thông trên mạng Internet mang đủ các màu sắc phe phái và được các thế lực phản động, cực đoan, tích cực lợi dụng để tuyên truyền chống phá chế độ. Nó mang lại cho những người tham gia cái ảo giác là họ đang hoạt động chính trị, nhưng thực ra tính chính trị lại nằm ở mối liên hệ của họ với các tổ chức chính trị chứ không phải ở hoạt động trên mạng Internet. Điều này cho thấy sự thụ động của một bộ phận lớn những người sử dụng mạng Internet. Việc tranh luận trên mạng Internet, như đã nói ở trên, không có tác dụng gì nhiều vì sự ẩn danh khiến người ta buộc phải bám lấy các định kiến cá nhân hơn là nhượng bộ trước lý lẽ. Song khi bị buộc phải đối mặt với hoạt động có tổ chức thì những người thụ động sẽ có xu hướng thỏa hiệp, ngay cả khi trái với định kiến của bản thân, vì họ cảm thấy bị cô lập và cần phải giữ liên hệ với các nhóm nhất định nhằm duy trì sự hiện diện của mình. Đây là điểm mấu chốt để những người vô sản có thể thuyết phục và thu hút các đối tượng thụ động. Việc đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc và thông tin sai lệch là cần thiết nhưng chỉ trong chừng mực việc đó có thể lôi kéo được các nhóm quần chúng thụ động và cô lập được các nhóm cực đoan hay phản động. Nói tóm lại, những người vô sản cần phải tự tổ chức và tạo ra sự thu hút của riêng mình, nếu bám theo hệ thống truyền thông sẵn có một cách đơn lẻ thì họ sẽ trở thành sản phẩm truyền thống giống như các đối tượng thụ động khác.
Một vấn đề lớn về vai trò của giai cấp tiểu tư sản trong truyền thông trên mạng xã hội cho tới nay vẫn chưa được giải đáp là các phần tử tiểu tư sản lớp dưới thường là những đối tượng tích cực và tạo dựng được nhiều mối liên hệ cá nhân trên mạng xã hội nhất. Lý do thứ nhất là do điều kiện sống khiến nhóm này có điều kiện và buộc phải sử dụng mạng Internet thường xuyên. Lý do thứ hai là nhóm này có đặc thù vừa là người lao động vừa là sở hữu tư bản hoặc có điều kiện sống giống như tư sản, do vậy mang những quan điểm của cả người lao động và tư sản. Tính chất này khiến cho nhóm tiểu tư sản dễ dàng tìm được tiếng nói chung và trở thành đầu mối liên hệ với cả người lao động cũng như tư sản. Truyền thông nắm bắt được điều này nên luôn tìm cách thu hút sự chú ý của nhóm độc giả tiểu tư sản, điều đó giúp họ nhanh chóng tạo ra mạng lưới liên hệ với một cơ sở độc giả lớn hơn. Điều này lý giải hiện tượng truyền thông thường xuyên đăng tải quan điểm chính trị bấp bênh kiểu tiểu tư sản. Khi những người tiểu tư sản trở nên cực đoan thì họ sẽ trở thành các phần tử cực hữu. Một bộ phận không nhỏ những phần tử tiến bộ trong xã hội Việt Nam cũng xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản, sau đó chuyển sang phía vô sản. Nhưng những người vô sản sẽ sai lầm nếu như tìm cách thỏa hiệp với tiểu tư sản để kiểm soát truyền thông vì điều đó chỉ giúp cho tiểu tư sản nhanh chóng kiểm soát truyền thông và loại bỏ những người vô sản. Có lẽ đây chính là nguyên nhân khiến các tổ chức truyền thông hoàn toàn lọt vào tay giai cấp tiểu tư sản và được dùng để chống lại chính quyền Xô Viết trong giai đoạn khối Xã Hội Chủ Nghĩa ở Đông Âu sụp đổ. Những người vô sản cần phải duy trì hệ thống truyền thông độc lập và điều kiện cơ sở hạ tầng truyền thông hiện nay thuận lợi hơn nhiều so với những năm 1990 của thế kỷ trước.
Labels:
Báo chí,
Bất đồng chính kiến,
Chính trị,
Đấu tranh,
Đời sống,
Giai cấp,
Giáo dục,
Tham nhũng,
Truyền thông,
Việt Nam,
Vô sản
Subscribe to:
Posts (Atom)