Wednesday, December 31, 2014

Okinawa ngăn chặn sự xoay trục sang Châu Á của Obama

Mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết của "A small island trying to block Obama's 'Asian Pivoting'" của tác giả Christine Ahn để thấy những nỗ lực của người dân Nhật Bản trong việc xóa bỏ các căn cứ quân sự Hoa Kỳ tại Nhật Bản. Tiêu đề do người dịch đặt lại.

Một hòn đảo nhỏ cố gắng ngăn chặn sự “xoay trục sang Châu Á” của Obama

Vào ngày 10 tháng 12 – Ngày Nhân Quyền Quốc Tế - Takeshi Onaga bắt đầu nhiệm kỳ của thống đốc mới ở Okinawa.

Tháng trước, các công dân của Okinawa đã mang đến chiến thắng vang dội cho Onaga, người điều hành một diễn đàn phản đối việc xây dựng căn cứ Hải Quân mới của Hoa Kỳ ở phía bắc Okinawa. Sử dụng khẩu hiệu “Tất cả Okinawa”, Onaga hứa hẹn “ngăn chặn việc xây dựng bằng mọi biện pháp có thể” và xóa bỏ sân bay trực thăng Osprey của Hải Quân, thứ mà ông gọi là “cản trở lớn nhất đối với sự phát triển của Okinawa.” 

Chiến thắng của Onaga – trong đó ông nhận được sự ủng hộ của 2/3 số cử tri – tạo thành một cuộc trưng cầu ý kiến của người dân Okinawa chống lại liên minh chặt chẽ với Washington của thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe trong việc tiếp tục quân sự hóa hòn đảo này.

Dấu vết đậm nét của Hoa Kỳ ở Okinawa

Tôi đến Okinawa vào đầu tháng 12 để tham gia một hội nghị phụ nữ và xây dựng hòa bình, và để nghe người dân Okinawa nói lên ý nghĩ về kế hoạch của Washington chuyển Sân Bay Futenma của Hải Quân đầy tai tiếng từ trung tâm thành phố Ginowan tới Vịnh Henoko có hệ sinh thái nguyên thủy.

Khi tôi chuyển tiếp ở sân bay quốc tế Narita của Tokyo sang cửa lên máy bay tới Naha, ấn tượng rõ ràng là tôi đi đến căn cứ Hoa Kỳ. Viên chức Hoa Kỳ trong đồng phục dân sự và chiến đấu, cùng với gia đình của họ, chiếm đại đa số tại khu vực sân bay.

Trong khi chờ chuyến bay, tôi ngồi chung bàn với một lính thủy người Mỹ gốc Phi cao lớn có tên là Ramone. Khi tôi hỏi anh ta tại sao lại đăng lính, anh ta nói rằng anh cần một sự thay đổi. Mẹ anh ta phản đối việc đăng lính bởi vì ông nội anh ta trở về từ Chiến Tranh Thế Giới thứ II “không ổn tí nào”, và chú anh ta không bao giờ hoàn toàn hồi phục sau chiến dịch Bão Táp Sa Mạc.

Mặc dù vậy, so với những cơ hội ít ỏi ở Nam Carolina, đời sống quân nhân là tốt đối với anh ta, và anh ta có thể nhanh chóng có được danh vọng. Bố của hai cô con gái, Ramone nói anh ta cảm thấy nuôi dưỡng gia đình ở Okinawa an toàn hơn là trở về quê nhà. Sau khi chúng tôi đã trở nên gần gũi hơn, tôi hỏi Ramone xem anh ta nghĩ sao về vị thống đốc mới trúng cử. Anh ta cười tủm tỉm và nói, “Lý tưởng của ông ta khác.”

Ramone là một trong số 26.000 lính Mỹ đóng quân ở Okinawa. Cùng với gia đình, họ tạo thành khoảng 50.000 người Mỹ sống cùng với 1,3 triệu dân Okinawa. Tuy tôi vui mừng rằng Ramone và gia đình của anh ấy ít phải đối mặt với sự phân biệt và bạo lực hơn ở quê nhà, nhưng điều thực sự khiến tôi áy náy là bạo lực và khó khăn đối với con người và vùng đất này trong thời kỳ quân đội Mỹ chiếm đóng Okinawa.

Điều đó cũng gợi cho tôi nhớ đến cuộc đối thoại mới đây với nhà vật lý trị liệu của tôi ở Honolulu, con gái của bà ấy sống cùng với chồng là lính thủy ở Okinawa. Bà ấy cũng nói rằng họ thích sống ở Okinawa, ngay cả khi họ chỉ có liên hệ giới hạn với mọi người. Khi tôi đủ can đảm để kích động bà ấy về bạo lực mà quân đội Mỹ đã dùng để chống lại phụ nữ Okinawa, bà ấy trả lời rằng có những ngăn cấm đáng tiếc đối với lính Mỹ ở Okinawa do hành động của “một vài trái táo thối.” 

Nhưng khi tôi nói chuyện nhiều hơn với người dân Okinawa và viến thăm các địa điểm tiềm năng cho căn cứ mới của Hải Quân Hoa Kỳ ở vịnh Henoko, tôi càng hiểu hơn tại sao chiến thắng của Onaga là một dấu hiệu rất đáng chú ý trong cuộc đấu tranh đòi chủ quyền đã kéo dài nhiều thập kỷ của người dân Okinawa.

Cuộc đấu tranh lâu dài của Okinawa

Quân đội Hoa Kỳ mô tả Okinawa là “Hòn đá tảng của Thái Bình Dương” do sự gần gũi của nó đối với các thành phố chính của Châu Á, bao gồm Seoul, Tokyo, Đài Bắc, Hong Kong, Thượng Hải và Manila. Ngày nay, Henoko là chìa khóa trong chiến lược bao vây Trung Quốc và Bắc Triều Tiên của Washington. Theo học giả về Nhật Bản Gavin McCormack, “Đây là cái được gọi là Cơ Sở Thay Thế Futenma (FRF), một căn cứ lục-hải-không quân với cảng nước sâu, được thiết kế để phục vụ xuyên suốt thế kỷ 21 với vai trò là điểm tập trung sức mạnh lục quân, hải quân và không quân lớn nhất ở Đông Á.”

Vào năm 1945, khi Nhật thua Thế Chiến II, Okinawa rơi vào sự kiểm soát của Hoa Kỳ. Mặc dù Nhật Bản được đảm bảo độc lập theo Hiệp Ước Hòa Bình San Francisco năm 1951, nhưng Hoa Kỳ vẫn tiếp tục kiểm soát Okinawa trong 27 năm. Vào năm 1972, Hoa Kỳ trao trả Okinawa cho Nhật Bản, nhưng một hiệp ước bí mật giữa Washington và Tokyo cho phép Hoa Kỳ tiếp tục duy trì các căn cứ quân sự.

Trong Thế Chiến II, Okinawa là chiến trường duy nhất trong phần nổi tiếng của Nhật Bản. Một phần tư dân Okinawa đã chết. Theo Suzuyo Takazato, người sáng lập tổ chức Phụ Nữ Okinawa Hành Động Chống Lại Bạo Lực Quân Sự, trong thời kỳ hậu chiến, lực lượng chiếm đóng Hoa Kỳ đã giam giữ người dân Okinawa chạy loạn trong các trại tập trung và chiếm các vùng đất màu mỡ để xây dựng các căn cứ quân sự. Okinawa chiếm ít hơn 1% lãnh thổ đất liền Nhật Bản, mặc dù vậy 74% căn cứ quân sự Hoa Kỳ đóng ở đây, họ chiếm 1/5 diện tích đất liền của Okinawa.

Vào năm 1995, sau vụ cưỡng hiếp tập thể dã man một bé gái 12 tuổi của ba viên chức Hoa Kỳ, người dân Okinawa tiến hành các cuộc biểu tình quy mô lớn đòi xóa bỏ các căn cứ quân sự Hoa Kỳ ở Okinawa. Tình thế gây sốc đã buộc Tokyo phải đám phán với Hoa Kỳ vào năm 1996, thiết lập một Ủy Ban Hành Động Đặc Biệt ở Okinawa, được gọi là SACO, để bắt đầu giảm sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ xuống 20% - trong đó có việc đóng cửa căn cứ Futenma ở thành phố Ginowan. Giống như chiếc bánh rán, căn cứ Futenma chiếm 30% diện tích trung tâm thành phố Ginowan, và được bao quanh bởi nhà trẻ, trường học, đại học và bệnh viện, hoạt động dưới tiếng ồn kinh khủng của chiến đấu cơ phản lực, máy bay trực thăng và tàu sân bay.

Mặc dù vậy Hoa Kỳ đã nhanh chóng thay đổi lời hứa của họ, thay vì đóng cửa căn cứ Futenma thì lại đề xuất chuyển nó tới Trại Schwab ở vịnh Henoko. Điều đó đã gây ra giận dữ trong công chúng. Trong 18 năm, người dân Okinawa đã biểu tình liên tục hàng ngày trước cửa Trại Schwab và đường biển để ngăn chặn việc xây dựng căn cứ mới.

An ninh của ai? Không phải của phụ nữ Okinawa 

“Okinawa đã phải chịu đựng gánh nặng từ sự có mặt của quân đội Hoa Kỳ trong suốt 69 năm qua, Suzuyo Takazato nói. Với vai trò một nhân viên xã hội, bà đã làm việc cùng với những nạn nhân của bạo lực tình dục trong suốt hơn hai thập kỷ.

Takazato trao cho tôi một tài liệu liệt kê các tội ác của quân đội Hoa Kỳ đối với phụ nữ Okinawa trong hơn hai thập kỷ hậu chiến. Do không có các tài liệu chính thống về các tội ác đó, Takazako và những người khác đã đào xới các bản báo cáo của cảnh sát và các bài báo được cắt ra của các tạp chí từ năm 1945 đến năm 2012. Họ tập hợp chúng thành một tài liệu 26 trang gây sốc cho thấy bạo lực của quân đội Hoa Kỳ đối với phụ nữ và bé gái không phải là trường hợp của vài trái táo thối, mà mang tính cấu trúc.

Trong chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam, Okinawa đóng vai trò là sân bay xuất phát của quân đội Hoa Kỳ. Đây cũng là nơi mà binh lính Hoa Kỳ, rất nhiều người trong số họ bị PTSD (hội chứng rối loạn căng thẳng sau chấn thương), trở về sau chiến trận và gây ra các tội ác đối với người dân Okinawa, đặc biệt là phụ nữ và bé gái. Theo Takazato, cưỡng hiếp và các tội ác bạo lực đứng hàng đầu trong và sau các cuộc chiến đó. “Họ trở về sau chiến trận trong các điều kiện khủng khiếp và trút bỏ vào phụ nữ,” bà giải thích. Để quản lý binh lính Hoa Kỳ, những người sẽ đột nhập vào các gia đình địa phương và cưỡng bức phụ nữ và bé gái, Takazako giải thích rằng “Giống như một chiếc đai, các nhà thổ quân sự đã được thiết lập bao quanh các căn cứ quân sự.” 

Maki Sunagawa, một sinh viên 24 tuổi tốt nghiệp đại học Christian ở Okinawa, giải thích lý do cô phản đối chiếm đóng quân sự ở Okinawa. Thứ nhất, hồi cô còn học cấp 2, anh trai của cô đang ở trong thư viện của đại học Quốc Tế Okinawa khi mà máy bay trực thăng của Hải quân Hoa Kỳ đâm vào tòa nhà. Mặc dù không có sinh viên nào bị thương, nhưng điều đó đã gợi cho cô câu hỏi tại sao một căn cứ quân sự Hoa Kỳ lại ở gần nơi họ sống. Thứ hai, lúc cô học trung học, một trong những bạn thân của cô tiết lộ với cô là bị năm binh lính mặc thường phục cưỡng hiếp tập thể. Sunagawa nói bạn của cô không bao giờ kể với bố mẹ hay cảnh sát, và trong 8 năm đã phải chịu đựng trầm cảm, không thể hoàn thành trung học.

Một đồ thị Sao và Vạch cho thấy vào năm 2011 có 333 báo cáo về việc lính thủy Hoa Kỳ tấn công tình dục đối với phụ nữ tại các căn cứ hải quân khắp thế giới. Okinawa với 67 vụ tấn công đứng thứ hai sau Trại Lejeune ở Jacksonville, Florida (Hoa Kỳ). Nhiều nỗ lực đã được đưa ra để ngăn chặn hành động của các binh lính Hoa Kỳ, nhưng các cuộc tấn công vẫn tiếp diễn. Ví dụ, vào năm 2012, trong một triển khai ngắn hạn tới Okinawa từ Forth Worth, Texas, hai nhân viên hải quân Hoa Kỳ đã tấn công và cưỡng hiếp một phụ nữ Okinawa. Không giống như hầu hết các vụ án tấn công tình dục khác vốn thất bại trong việc mang lại công lý cho phụ nữ nạn nhân, hai thủy thủ đó đã bị xét xử và buộc tội ở tòa án của Nhật Bản và đang chịu án 10 năm tù giam trong nhà tù Nhật Bản. “Chúng tôi sợ hãi trong suốt những ngày nghỉ lễ như Ngày Quốc Tế Lao Động và ngày 4 tháng 7,” Takazato nói, bởi vì sự gia tăng của bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em.

Đầu độc biển và đất đai 

Khi chúng tôi đi bằng thuyền ở vịnh Henoko và Oura – nơi có kế hoạch thu hồi 160 ha biển để xây dựng các đường băng lớn và các cầu bốc dỡ - tôi nói chuyện với một số nhà hoạt động, già và trẻ, tham gia ngăn chặn việc xây dựng.

Takeshi Miyagi, một nông dân 44 tuổi, nói ông bỏ cánh đồng của mình vào tháng 7 để tham gia phản kháng với việc theo dõi biển bằng ca-nô. Miyagi nói rằng ông và các nhà hoạt động khác đang bảo vệ hệ sinh thái giàu có của vịnh Henoko và Oura và sự sinh tồn của cá nược. Bộ Môi Trường Nhật Bản liệt kê cá nược – một loài động vật biển có vú có họ hàng với lợn biển – vào danh sách “bị đe dọa nghiêm trọng.” Chúng cũng được đưa vào danh sách các chủng loài bị đe dọa của Hoa Kỳ.

Theo McCormack, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đã chỉ ra rằng rằng trong 5.334 chủng loài tồn tại ở biển có 262 loài đang bị đe dọa tuyệt chủng. Cũng báo cáo đó của Bộ Quốc Phòng đã khẳng định rằng có một ít cá thể cá nược sống trong vịnh, nhưng các nhà nghiên cứu mới đây đã phát hiện trong một chuỗi hai tháng hơn 100 cá thể cá nược đang kiếm ăn trong khu vực thu hồi. Điều này đã thúc đẩy các nhóm bảo tồn Hoa Kỳ và Nhật Bản đệ đơn kiện chống lại Bộ Quốc Phòng để ngăn chặn việc xây dựng. Người dân Okinawa cũng chỉ ra lịch sử làm đầu độc bằng hóa chất của các căn cứ quân sự Hoa Kỳ. Vào tháng trước, Bộ Quốc Phòng Nhật Bản bắt đầu khai quật sân bóng đá ở Okinawa, nơi chôn các thùng chứa thuốc diệt cỏ độc hại được phát hiện năm ngoái. Vào tháng 7, chính quyền Nhật Bản đào được 88 thùng chứa nguyên liệu để chế tạo chất độc màu da cam ở khu đất được thu hồi gần căn cứ không quân Kadena.

Sự phản đối mạnh mẽ của người dân Okinawa đối với việc xây dựng căn cứ mới ở vịnh Henoko không chỉ thách thức chính sách xoay trục quân sự sang Châu Á của chính quyền Obama mà còn thúc đẩy nhận thức về những tác động tiêu cực đối với con người và sinh thái của hàng trăm căn cứ quân sự Hoa Kỳ trên khắp thế giới. Quan trọng nhất là chiến thắng dân chủ ở Okinawa đem lại hy vọng cho những đấu tranh tương tự ở Guam, Philippine và đảo Jeju của Hàn Quốc, với sự bền bỉ và phản kháng phi bạo lực, họ cũng sẽ ngăn chặn được cỗ máy chiến tranh quyền lực nhất thế giới.

Christine Ahn is the International Coordinator of Women De-Militarize the Zone.

Lý do chủ nghĩa tư bản sẽ là cái chết của chúng ta

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bình luận ngắn "Why Capitalism Will be the Death of Us" của tác giả William Blum về vấn đề y tế trong chủ nghĩa tư bản.

Lý do chủ nghĩa tư bản sẽ là cái chết của chúng ta

Vi khuẩn kháng kháng sinh - "những siêu rệp" - nhưng vẫn chưa được nghiên cứu, có thể dẫn đến 10 triệu cái chết mỗi năm cho đến năm 2050. Các loại thuốc mới chống lại những siêu rệp được được chờ mong vô vọng. Nhưng một nhóm cộng tác viên cố vấn cho tổng thống Obama đã cảnh báo vào tháng 9 rằng "không có kênh cung cấp hiệu quả các loại thuốc mới để thay thế các loại thuốc cũ bị kháng kháng sinh vô hiệu hóa."

Vấn đề dường như là "Kháng sinh nhìn chung mang lại lợi nhuận thấp, nên chúng không phải là lĩnh vực hấp dẫn đối với nghiên cứu và phát triển."

A ha! "Lợi nhuận thấp"! Có gì đơn giản hơn nữa? Đó có phải là khái niệm đáng để giết hại và chết chóc? Giống như hàng triệu người Mỹ đã chết trong thế kỷ 20 để các doanh nghiệp có thể tối ưu hóa lợi nhuận bằng cách không bảo vệ công chúng trước thuốc lá, chì và a-mi-ăng.

Các doanh nghiệp được lập trình để tối ưu hóa lợi nhuận bất chấp cái xã hội mà họ hoạt động trong đó, cũng giống như cách mà các tế bào ung thư được lập trình để nhân lên bất chấp sức khỏe của sinh vật chủ.

Tuesday, December 30, 2014

Sự khác nhau giữa một nhà dân chủ chết và một con chó chết

Sự khác nhau giữa một nhà dân chủ chết nằm trên đường và một con chó chết nằm trên đường là gì?

Quanh chỗ con chó chết có vệt phanh gấp.

Saturday, December 27, 2014

Các nhánh trong kinh tế học chính thống

Trước kia các nhà kinh tế học tân cổ điển chỉ có độc một chủ thuyết là thị trường có khả năng tự điều chỉnh. Đến cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 thì phái tân cổ điển hoàn toàn tan vỡ do thực tế đã chứng tỏ thị trường không có khả năng tự điều chỉnh. Keynes xây dựng lý thuyết kinh tế vĩ mô lập luận rằng kinh tế thị trường không thể tự điều chỉnh nên cần sự can thiệp của nhà nước, song Keynes vẫn thừa nhận nền tảng kinh tế vi mô của phái tân cổ điển và cho là không mâu thuẫn với lý thuyết của ông. Sau này, lý thuyết của Keynes cũng phá sản toàn tập do chính sách tài khóa kiểu vay nợ để chi tiêu công trong đó có rất nhiều cho quân sự dẫn đến một nền kinh tế nợ nần khủng khiếp, chiến tranh liên miên và khủng hoảng còn dữ dội hơn trước.

Kể từ Keynes thì kinh tế học tân cổ điển, hay còn gọi là kinh tế học chính thống chia làm hai nhánh. Nhánh thứ nhất tiếp tục bảo vệ quan điểm thị trường có khả năng tự điều chỉnh nên phải để cho thị trường tự do điều chỉnh, nhà nước chỉ can thiệp tối thiểu để sửa chữa những khuyết tật của thị trường. Học thuyết về thị trường tự điều chỉnh hồi thế kỷ 19 vốn được gọi là chủ nghĩa tự do. Phái này được gọi là phái bảo thủ, tên là bảo thủ nhưng ủng hộ quan điểm thị trường tự do. Nhánh thứ hai theo quan điểm của Keynes, cho rằng thị trường không có khả năng tự điều chỉnh nên cần sự can thiệp mạnh mẽ của nhà nước, phái này được gọi là phái tự do. Tên là tự do nhưng lại ủng hộ sự can thiệp của nhà nước, tức là thị trường không tự do. Chính sự tách rời kỳ quặc giữa tên gọi và nội dung của các phái trong kinh tế học chính thống dẫn đến nhiều sự lẫn lộn cho người đọc. Nhưng cho dù có tách rời đến đâu chăng nữa thì cả hai nhánh đó không bao giờ là tả, ngược lại chúng đều là bảo thủ, đều bảo vệ chủ nghĩa tư bản. Kinh tế học tân tự do vốn ban đầu là do một nhóm các nhà kinh tế theo quan điểm bảo thủ trong đó có F. Hayerk và von Mises họp nhau ở Thụy Sĩ, thành lập một hội để chống lại phái Manchester của Keynes lúc đó đang là chính thống. Sau khi phái Keynes tan rã thì nhánh này trở thành dòng chính thống được gọi là chủ nghĩa tân tự do với đại biểu quan trọng là Friedman. Friedman và nhóm Chicago Boys đã tạo nên cơn ác mộng tự do hóa của các nước Mỹ Latin, điển hình là Chi Lê . Đến những năm 70 của thế kỷ trước, thì Samuelson, một nhà kinh tế học đã trình bày kết hợp kinh tế vi mô của tân cổ điển và kinh tế vĩ mô của Keynes. 

Paul Krugman là nhà một trong số những nhà kinh tế học nổi tiếng nhất hiện nay ở Mỹ, ông ta theo phái Keynes mới, tức thuộc về nhánh tự do trong kinh tế học chính thống. Song có nhiều người biết chút ít về kinh tế lại hay nói Paul Krugman thuộc cánh tả. Sự thật không phải vậy, mà những người kia có lẽ cũng không phải nhầm lẫn, họ cố tình gọi vậy vì họ ghét quan điểm của Paul Krugman. Điều đó giống như thời McCarthy ở Mỹ, người ta ghét ai thì gọi người đó là cộng sản. Việc gọi Paul Krugman là cánh tả thì ngược lại cho thấy những người ghét ông ta chắc chắn thuộc về phe bảo thủ.

Hiện thực kinh tế lại càng ngược với tên gọi hơn nữa. Ở Mỹ thì doanh nghiệp lớn ủng hộ phái tự do, tức là ủng hộ sự can thiệp của nhà nước vào thị trường. Còn các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tầng lớp tiểu tư sản, trí thức và tầng lớp trung lưu thì theo phái bảo thủ, tức là ủng hộ quan điểm thị trường tự do. 

Người ta sẽ hỏi Việt Nam có khác gì không. Câu trả lời là không. Doanh nghiệp lớn luôn ủng hộ sự can thiệp của nhà nước để bảo vệ cho lợi nhuận của họ, nhất là khi đại đa số doanh nghiệp lớn ở Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước. Trên truyền thông thường xuất hiện các chuyên gia kinh tế đề cao quan điểm thị trường tự do, hạn chế sự can thiệp của nhà nước, khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và hạn chế các doanh nghiệp lớn của nhà nước, họ thuộc về phái bảo thủ. Có một điều chưa rõ lắm, nhưng có thể là ở Việt Nam người ta gọi cách khác, ví dụ như phái tự do thì được gọi là phái kỹ trị, còn phái bảo thủ thì được gọi là phái dân túy. Tuy nhiên đấy chỉ là cách gọi trong một nhóm chuyên môn hẹp, chưa được phổ biến rộng rãi trên truyền thông.


Ai nhặt được tờ 500 nghìn đồng?

Ông già Noel, ông Bụt, một nhà dân chủ yêu nước và một gã ăn mày say rượu cùng đi trên phố. Họ nhìn thấy một tờ 500 nghìn đồng trên mặt đất. Ai nhặt được tờ 500 nghìn đó?

Tất nhiên là gã ăn mày say rượu, vì ba người kia là các nhân vật tưởng tượng, vốn chỉ có trong chuyện cổ tích.

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí.)

Friday, December 26, 2014

Lại chuyện cười về đám dân chủ và nhân quyền

Muốn bắt muốn đánh thì tùy

Ở Việt Nam dịch vụ nhà nghỉ thường rất tệ, nhất là nhà nghỉ ở tỉnh xa. Nhiều nhà nghỉ thường thuê mấy đứa thiếu niên làm giúp việc, tụi nhỏ hay nhớ trước quên sau nên có nhiều chuyện dở khóc dở cười xảy ra. 

Hôm đó anh dân chủ và chị nhân quyền đi hoạt động ở tỉnh xa, gặp khi trời tối nên cả hai thuê chung một phòng nghỉ cho tiết kiệm. Sau khi cả hai vào phòng được một lúc thì có tiếng gõ cửa, một hồi lục đục rồi thì anh dân chủ ra mở cửa. 

Thằng nhỏ giúp việc gãi đầu gãi tai:
- Anh ơi, em quên đưa anh cái điều khiển ti vi.
Anh dân chủ nói:
- Ờ, được rồi!

Anh dân chủ đóng cửa phòng. Một lúc sau lại có tiếng gõ cửa, anh dân chủ ra mở cửa thì thấy vẫn thằng nhỏ giúp việc đứng đó gãi đầu gãi tai.

Thằng nhỏ nói: 
- Anh ơi, em quên đưa anh cái điều khiển điều hòa nhiệt độ.
Anh dân chủ nói:
- Ờ, được rồi!

Anh dân chủ đóng cửa phòng. Một lúc sau lại có tiếng gõ cửa. Thằng nhỏ giúp việc ngạc nhiên khi thấy anh dân chủ mở cửa rồi chắp tay vái lấy vái để.

Anh dân chủ kêu: Thôi, tôi xin ông, muốn bắt muốn đánh gì tùy ông, chứ bao cao su thì tôi không thể nuốt thêm cái nào nữa.

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí, lấy cảm hứng từ vụ án hai bao cao su của anh họ Cù)

Khi đang chỉnh sửa câu chuyện trên thì tình cờ lại nảy ra một chuyện khác.

Sáng kiến bảo vệ người bảo vệ nhân quyền.

Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự tổ chức hội thảo "Bảo Vệ Người Bảo Vệ Nhân Quyền" rất hoàng tráng, có thảo luận xem giải pháp nào khả thi, nhưng chả ai có giải pháp gì, cuối cùng họ quyết định tổ chức một cuộc thi sáng kiến bảo vệ những người bảo vệ nhân quyền.

Giải nhất cuộc thi đã được trao cho sáng kiến về bao cao su tự hủy sau khi sử dụng.

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí)

Thursday, December 25, 2014

Phẫu thuật cho ai dễ nhất?

Bốn nhà phẫu thuật ngồi tán chuyện với nhau về công việc trong giờ nghỉ giải lao.

Người thứ nhất nói: Tôi thấy phẫu thuật cho nhân viên kế toán là dễ nhất. Mọi thứ bên trong đều được đánh số.

Người thứ hai nói: Tôi thấy phẫu thuật cho thủ thư là dễ nhất. Khi anh mổ phanh ra, tất cả nội tạng đều được sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái.

Người thứ ba nói: Tôi thích phẫu thuật thợ điện hơn. Tất cả nội tạng của họ đều được đánh dấu bằng các màu khác nhau.

Người thứ tư nói: Tôi thấy phẫu thuật cho mấy nhà dân chủ là dễ nhất. Họ không có tim hay gan, không có xương sống, mông và đầu của họ có thể thay thế cho nhau. Đặc biệt nhất là nếu anh có lỡ cắt nhầm cái gì thì cũng không cần phải lo lắng, chúng sẽ tự mọc lại.

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí, nhân dịp được nghe những huyền thoại về các nhà dân chủ Việt Nam)

Wednesday, December 24, 2014

Nghề nào cổ nhất

Một thợ xây, một thợ điện và một nhà dân chủ tranh luận với nhau xem nghề nào cổ xưa nhất.

Người thợ xây nói: Trái đất là thứ đầu tiên chúa trời tạo ra, thế nên nghề xây dựng là cổ nhất.

Người thợ điện nói: Nhưng trước đó chúa trời có nói "hãy mang ánh sáng tới đây". Thế nên nghề thợ điện cổ xưa hơn.

Nhà dân chủ nói: Rồi, trước tất cả những thứ đó là sự hỗn loạn. Các anh nghĩ xem ai đã tạo ra sự hỗn loạn?

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí)

Thursday, December 11, 2014

Mười một lý do khiến tôi xấu hổ khi là một người Mỹ

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Eleven reason's I'm ashamed to be an American" của tác giả Dave Lindendorf. Bài viết thể hiện tâm trạng của một người Mỹ khi chứng kiến những thất bại của đất nước mình.

Mười một lý do khiến tôi xấu hổ khi là người Mỹ

Tôi sẽ nói điều này: Tôi xấu hổ khi là công dân Mỹ. Điều này không dễ dàng, bởi vì sống ở nước ngoài và chứng kiến những chỗ bẩn thỉu trong thời đại của tôi. Tôi biết rằng đất nước này có nhiều điều vĩ đại, nhiều con người vĩ đại dã sống ở đó, nhưng cuối cùng tôi đã đi đến kết luận rằng Hoa Kỳ hiện là một quốc gia ốm yếu và méo mó, tại đó cái xấu vượt xa cái tốt.

Tôi có thể nhớ cảm giác chán ghét lần đầu tiên đối với đất nước của tôi vài lần. Vào lúc 17 tuổi, lần đầu tiên khi tôi nhận ra sự tàn bạo mà Hoa Kỳ đã gây ra đối với những người dân Việt Nam nhân danh tôi – cưỡng hiếp và giết hại, phá hủy các ngôi làng của nông dân, ném bom na-pam xuống trẻ em ở miền Nam, và ném bom rải thảm miền Bắc Việt Nam (bao gồm cả đê điều, trường học và bệnh viện). Sau đó tôi kinh hoàng và nổi loạn khi nhận ra một cách muộn màng rằng Hoa Kỳ đã dồn những người bản địa, người Mỹ gốc Nhật, người Nhật định cư hợp pháp vào các trại tập trung trong thế chiến thứ hai, và chính quyền quốc gia đã đồng lõa với đám phát xít da trắng quỷ quyệt ở California trong việc tước đoạt trang trại, nhà cửa và công việc của những người bị giam giữ đó. 

Mặc dù những tội ác đó rất kinh khủng nhưng không thấm tháp gì so với những thứ mà tôi đang được thấy ở đất nước này.

Hãy để tôi liệt kê một số cách mà đất nước này khiến tôi phát ốm: 

1. Điều đó không chỉ là lần công bố mới nhất bản báo cáo được biên tập triệt để về chương trình cố ý tra tấn của chính quyền Bush/Cheney, khởi sự vào năm 2001 sau sự kiện 11 tháng 9 và kéo dài trong nhiều năm đối với không chỉ nghi phạm khủng bố mà còn cả đối với những người được biết hay có thể là hoàn toàn vô tội. Không có gì được làm hay có vẻ như sẽ được làm để trừng phạt những người cho phép và bảo vệ cho các tội ác chiến tranh cũng như tội ác chống nhân loại. Không chỉ có vậy mà còn nhiều người Mỹ đồng tình với điều đó. Ngay cả truyền thông, như trên NPR, tôi nghe thấy các phóng viên nói rằng một trong số “các câu hỏi” về chương trình tra tấn của chính quyền là nó “có hiệu quả” hay không trong việc thu thập thông tin về hoạt động khủng bố. Hoa Kỳ và các quốc gia còn lại của thế giới đã ký một hiệp định hình sự hóa việc tra tấn sau Thế Chiến thứ II (theo luật pháp quốc tế thì hình phạt có cả tử hình). Đó là sự che giấu hay thất bại trong việc trừng phạt tội ác tra tấn.

2. Cảnh sát ở Hoa Kỳ đã bị quân sự hóa trong cả phương diện vật chất lẫn huấn luyện và tự nhận thức, khiến họ giờ đây trở thành một dạng quân đội xâm lược hơn là “viên chức hòa bình” (một khái niệm lỗi thời mà bạn không còn nghe thấy nữa). Hết lần này đến lần khác chúng ta chứng kiến cảnh sát hung hăng sử dụng vũ lực, trong đó có cả vũ lực chết người, trong các tình huống kêu gọi sự bình tĩnh và hiểu biết. Điều khiến tôi phát ốm nhất là chứng kiến một xe cảnh sát ở Cleverland lao thẳng tới ban công trong một sân chơi, nơi có cậu bé 12 tuổi Tamir Rice đang ngồi một mình, chơi với một khẩu súng đồ chơi. Trong vòng chưa tới hai giây, một cảnh sát bước ra khỏi xe và bắn cậu bé tử thương vào bụng. Hoàn toàn không có lời kêu gọi nào trong vụ xử tử này. Không có ai quanh đó bị cậu bé đe dọa. Cảnh sát phải giữ khoảng cách an toàn, đánh giá tình hình, sau đó kêu gọi Rice rời khỏi ban công và buông súng, nếu cậu bé không làm theo, họ phải chờ tăng cường lực lượng, trong đó có một chuyên gia đàm phán. Trái lại, họ chỉ lao thẳng xe tới đó như trong tình huống giải cứu con tin và hạ gục cậu bé. Sau đó họ không làm gì để giúp cậu bé. Ugh! Không có làn sóng phẫn nộ phổ biến nào về vụ sát hại tàn bạo của cảnh sát. 

Cũng không có sự phẫn nộ phổ biến với những cảnh sát can dự vào vụ giết hại Micheal Brown ở Ferguson, MO hay vụ siết cổ chết Eric Garner một cách hoàn toàn vô lý ở Staten Island, New York, cả hai kẻ giết người mặc đồng phục đều được miễn tố bởi các hội thẩm đoàn công tố hoàn toàn bị thao túng và bị lừa dối. Trái lại, chúng ta nghe thấy những người da trắng được phỏng vấn trên chương trình truyền hình nói rằng cảnh sát đã làm đúng.

3. Nhưng đó mới chỉ là một phần thôi. Tôi thấy căm phẫn khi tổng thống của chúng ta là một người không có đủ can đảm để lên án những tội ác đó và tuyên bố rằng ông ta sẽ truy tố những ai ra lệnh cho quân đội và CIA sử dụng tra tấn đối với những người bị bắt trong cái được gọi là Chiến Tranh Chống Khủng Bố. Tổng thống Obama phải yêu cầu Bộ Tư Pháp tích cực truy tố những cảnh sát giết hại thường dân không vũ trang nếu các công tố viên địa phương không làm điều đó, và ông ta phải ra lệnh truy tố bất cứ ai ra lệnh, ủy quyền, tạo điều kiện hay bao che cho việc tra tấn của các nhân viên chính quyền. (Không có gì ngạc nhiên khi tổng thống Obama được chuẩn đoán trào ngược dịch vị dạ dày: ít nhất đường ống dinh dưỡng của con người cũng có lương tâm!)

4. Tôi cảm thấy căm phẫn về tình hình tù tội. Theo như tổ chức Sáng Kiến Chính Sách Nhà Tù, Hoa Kỳ vào lúc này có khoảng 2,4 triệu tù nhân ( chỉ có 2/3 trong số họ bị kết án, với phần lớn trong số còn lại là bị tạm giam chờ xét xử vì họ không thể nộp số tiền bảo lãnh do hệ thống tòa án tha hóa của chúng ta đặt ra). Không có gì ngạc nhiên: Từ cuối những năm 80 đến năm 2008, số lượng các đạo luật liên bang có hình phạt tù đã tăng từ 3000 lên 4450, và chúng tiếp tục gia tăng khi những kẻ bất tài trong Quốc Hội tiếp tục thông qua những đạo luật tạo ra “tội hình sự” nhiều hơn để trừng phạt. Đó là chưa kể tới chính quyền bang và địa phương, điều đó giải thích tại sao Hoa Kỳ chỉ chiếm 5% dân số thế giới nhưng có số tù nhân chiếm tới 25% số tù nhân trên toàn thế giới. Chính bản thân tôi cũng bị đe dọa bỏ tù cách đây chưa lâu bởi một gã cảnh sát côn đồ ở một thị trấn ngoại ô vì xin đi nhờ xe – một hành vi mà hiện nay là hợp pháp ở bang của tôi, và điều đó nếu không phù hợp thì cũng giống hầu hết các vi phạm hành chính như đỗ xe không vé, không đáng bị bắt giữ. Không vấn đề - nếu tôi không khuất phục, gã đầu gấu trong bộ đồng phục với vũ khí cầm tay sẽ còng tay tôi, và vu cáo về những thứ như: bắt giữ vì chống cự, quấy rối trật tự hay những chuyện vớ vẩn tương tự. Chúng ta sống trong một xã hội bị ám ảnh bởi sự trừng phạt, bị giám sát bởi những cảnh sát dường như thích thú với việc cai trị công chúng.

5. Tôi phát ốm khi chứng kiến hết cộng đồng này đến cộng đồng khác thông qua những luật lệ cấm cho người vô gia cư ăn. Tại một quốc gia trong giai đoạn hậu Đại Suy Thoái, chúng ta vẫn đang có tỷ lệ thất nghiệp thực tế và lao động không đầy đủ từ 18 đến 20% tùy thuộc vào cách tính. 

6.Tôi xấu hổ và tức giận khi Wall Street về bản chất là một hiện trường tội ác khổng lồ - nơi mà hàng ngàn tỷ dollar của cải trong suốt thập kỷ qua đã bị rút khỏi túi của những thường dân Mỹ và đặt vào tay của 1% hay 5% giàu nhất, biến đất nước của chúng ta thành xã hội bất công nhất trong số 34 quốc gia phát triển của thế giới. Không có chủ ngân hàng nào trong danh sách hàng đầu của quốc gia về cái được gọi là ngân-hàng-quá-lớn-để-sụp-đổ bị buộc tội, càng ít hơn nữa bị truy tố hay bỏ tù vì trò lừa đảo lớn nhất mà thế giới từng được thấy. Trong một số dịp hiếm hoi khi Bộ Tư Pháp đã theo đuổi những tội phạm ngân hàng đó, họ đạt được “các thỏa thuận” dưới dạng những khoản phạt vô nghĩa, và chưa từng yêu cầu những giám đốc lừa đảo đó rời bỏ vị trí quyền lực béo bở, hay phải thừa nhận là họ làm sai, theo các điều khoản của thỏa thuận. Trên thực tế, những gã lừa đảo trong bộ complete vải sọc nhỏ đó thay vì bị bỏ tù thì lại thường xuyên được mời làm khách ở Nhà Trắng và Quốc Hội, được kêu gọi đóng góp “sự thông thái” của họ cho chính sách của chính quyền, sau đó họ sẽ thưởng công cho các chủ nhà hào hiệp của họ với những bổng lộc và “quyên góp chiến dịch” không khác gì hối lộ. 

7. Tôi phẫn nộ và xấu hổ khi đất nước của tôi tiêu tốn hơn một nghìn tỷ dollar mỗi năm cho quân đội và quân nhân tại 800 căn cứ trên toàn thế giới. Điều này diễn ra trong khi 50 triệu người Mỹ được đưa tin là “mất an ninh lương thực” – hay nói cách khác là 50 triệu người, nhiều trong số đó là trẻ em, đang bị đói tại những thời điểm nhất định trong năm – và khi những chương trình hỗ trợ như Phiếu Lương Thực và Trợ Cấp Thất Nghiệp đang bị cắt giảm để tiết kiệm tiền. Tồi tệ hơn, không có scandal quốc gia nào về việc đó. Trên thực tế, nhiều người Mỹ, dĩ nhiên là đa số, nghĩ rằng tất cả các khoản chi tiêu cho quân đội là tốt, bởi vì nó dường như là “bảo vệ an toàn cho chúng ta” và có thể “tạo công ăn việc làm.” Sự thật cay đắng là ngày nay, Hoa Kỳ, đất nước của tôi là quốc gia khủng bố lớn nhất thế giới – dựa trên thành tích không có đối thủ về việc xâm chiếm bất hợp pháp các đất nước khác, thực hiện giết chóc bằng máy bay không người lái ngoài biên giới, bắt cóc, tra tấn và thủ tiêu người dân, tài trợ và viện trợ cho các cuộc lật đổ chính quyền nước ngoài, thường là các chính quyền được bầu cử dân chủ.

8. Tôi phát ốm trong tâm can bởi vì một nửa thế kỷ sau khi những người Tuần Hành Vì Tự Do và những người dân địa phương can đảm đã chiến thắng và chấm dứt đạo luật Jim Crow ở miền Nam đã cấm người da đen đi bầu cử suốt nhiều thế hệ, ít nhất một nửa đất nước và không chỉ ở miền nam mà là mọi nơi, giờ đây lại đang tìm cách ngăn cản người da đen, người nói tiếng Tây Ban Nha và những người có màu da khác đi bầu cử. Hệ thống tòa án tha hóa của chúng ta ủng hộ họ trong nhiều trường hợp, ngay cả Tòa Án Tối Cao, hiện giờ đang bị thống trị bởi phát xít, phát xít nguyên thủy và phát xít tôn giáo. 

9. Tôi bối rối khi phần lớn những người Mỹ đồng bào của tôi lo lắng về chuyện họ có thể có chiếc iPhone mới nhất, hay họ có quyền do chúa ban tặng để được sở hữu một vũ khí tự động không giấy phép, hơn là về việc chúng ta vẫn có quyền riêng tư hay không, quyền không bị chính phủ theo dõi, hay các doanh nghiệp có được phép mua quan chức chính quyền trực tiếp như mua một miếng thịt bò không, hiện nay theo như Liên Minh Công Dân cho biết.

10. Tôi phẫn nộ khi nam và nữ đồng bào của tôi không còn tin rằng điều quan trọng của một xã hội là cung cấp cho mọi người các dịch vụ cơ bản, tạo ra cho tất cả mọi người một cơ hội công bằng để thoát khỏi nghèo khổ. Không còn nhận thức rằng mọi người phải có thể đi học ở một trường công được tài trợ tử tế, hay tiếp cận miễn phí một trường cao đẳng tài trợ bằng tiền thuế hay với một mức học phí thấp – mức có thể đáp ứng với một công việc bán thời gian 10 giờ. Không còn bất cứ nhận thức nào về việc mọi người Mỹ phải được quyền chăm sóc y tế chất lượng. Ngay cả thứ hỗ trợ cho cái được gọi là Luật Chăm Sóc Sức Khỏe Có Khả Năng Thanh Toán (ACA) hầu hết là từ những cá nhân ích kỷ muốn có khả năng thanh toán bảo hiểm cho bản thân, cũng chưa tạo ra được sự chăm sóc y tế chất lượng cho tất cả mọi người. Cũng giống như vậy, nếu ACA tạo cho bạn khả năng thanh toán bảo hiểm, bản ủng hộ nó, nhưng nếu bạn có bảo hiểm do chủ lao động thanh toán thì bạn chống lại ACA. Đó là sự thật cơ bản trong mọi lĩnh vực. Người Mỹ ngày nay đã đánh mất nhận thức chung về chia sẻ trách nhiệm và đấu tranh. Mọi người thường nói (không chính xác, tôi nghĩ) về thế hệ những năm 60 trở thành thế hệ của “cái tôi”. Hiện nay, có lẽ là toàn bộ Hoa Kỳ đã trở thành quốc gia của “cái tôi”.

11. Cuối cùng, tôi không thể quên vấn đề biến đổi khí hậu. Không có gì hoài nghi, Hoa Kỳ là tác nhân chính trong biến đổi khí hậu suốt thế kỷ qua, khi là một quốc gia công nghiệp hóa nhất thế giới. Ngay cả ngày nay, nếu như Trung Quốc vượt qua Hoa Kỳ về khí thải các-bon, sự thật không thể phủ nhận là tính bình quân trên đầu người, mỗi người Hoa Kỳ chúng ta thải khí các-bon vào khí quyển vượt xa bất cứ người Trung Quốc nào, gấp 5 lần hoặc hơn. Mặc dù vậy, đất nước của chúng ta là cản trở chủ yếu đối với bất cứ nỗ lực chân thật nào nhằm giảm bớt hay đảo ngược biến đổi khí hậu. Dưới chính quyền hiện tại và trước đây, Hoa Kỳ đã phá hoại thành công các nỗ lực đạt đến một hiệp định quốc tế giới hạn khí thải hiệu ứng nhà kính, thậm chí sử dụng cả năng lực do thám của Ủy Ban An Ninh Quốc Gia để theo dõi tình hình đàm phán của các quốc gia khác và để tống tiền các nhà lãnh đạo. Đơn giản là phát ốm về sự ích kỷ của người Mỹ khi họ không quan tâm một chút nào đến sự kinh khủng mà con cái chứ không phải cháu của chúng ta phải đối mặt (Ngân Hàng Thế Giới, không phải là một cái ổ cực đoan về môi trường, cảnh báo rằng thiếu niên hiện nay sẽ đối mặt với một thế giới nóng hơn từ 6 đến 8 độ F khi chúng 80 tuổi!). Đây là sự ích kỷ - hay – điên khùng trên quy mô lớn mà tôi không thể hiểu nổi. 

Tôi có thể tiếp tục nhưng tôi nghĩ rằng mười một lý do để xấu hổ về đất nước của một ai đó là quá đủ.

Đó là tôi.

Dave Lindorff is a founding member of ThisCantBeHappening!, an online newspaper collective, and is a contributor to Hopeless: Barack Obama and the Politics of Illusion (AK Press).


Wednesday, December 10, 2014

Chiến tranh băng giá của Washington chống lại Nga

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Washington’s Frozen War Against Russia" của tác giả Diana Johnstone về cuộc đối đầu giữa Hoa Kỳ và Nga hiện nay. Tác giả đã chỉ ra mục tiêu của Hoa Kỳ là thay đổi chế độ ở Nga, lật đổ tổng thống Putin.

Chiến Tranh Băng Giá của Washington chống lại Nga

Hơn một năm qua, Hoa Kỳ đã triển khai kịch bản được thiết kế để (1) tái lập sự kiểm soát của Hoa Kỳ đối với Châu Âu bằng cách ngăn chặn Châu Âu giao thương với Nga, (2) làm phá sản Nga, (3) lật đổ Vladimir Putin và thay thế ông ta bằng một tay sai của Hoa Kỳ, giống như kẻ say sưa Boris Yeltsin trước đây.

Những ngày qua đã cho thấy rất rõ sự phản bội kinh tế trong cuộc chiến của Hoa Kỳ chống lại Nga.

Tất cả bắt đầu ở hội nghị quốc tế cấp cao quan trọng về tương lai của Ukraina được tổ chức ở Yalta vào tháng 12 năm 2013, tại đó chủ đề chính là cuộc cách mạng khí đá phiến mà Hoa Kỳ hy vọng có thể sử dụng để làm suy yếu Nga. Cựu bộ trưởng năng lượng Hoa Kỳ Bill Richardson ở đó để tạo đà, được Bill và Hillary Clinton hoan nghênh. Washington hy vọng sử dụng kỹ thuật fracking để tạo ra nguồn năng lượng thay thế cho khí đốt tự nhiên, loại Nga ra khỏi thị trường. Khối lượng đó sẽ khiến cho Châu Âu mù quáng.

Nhưng cú lừa đó không thể hoàn thành dựa trên “thị trường” bất khả xâm phạm, do fracking tốn kém hơn việc chiết xuất khí đốt của Nga nhiều. Một cuộc khủng hoảng quan trọng là cần thiết để bóp méo thị trường với sức ép chính trị. Với cuộc đảo chính ngày 22 tháng 2, do Victoria Nulanad dàn xếp, Hoa Kỳ đã thành công trong việc giành quyền kiểm soát Ukraina, đưa tay chân “Yats” (Arseniy Yatsenyuk) lên nắm quyền, người này ủng hộ việc gia nhập NATO. Mối đe dọa trực tiếp đối với căn cứ hải quân của Nga ở Crimea đã dẫn tới cuộc trưng cầu dân ý sáp nhập một cách hòa bình bán đảo lịch sử của Nga trở lại Nga. Nhưng dàn đồng ca của Hoa Kỳ lên án việc sáp nhập hòa bình bán đảo Crimea là “cuộc xâm lược quân sự của Nga”. Động thái phòng vệ đó được NATO loan báo là bằng chứng của việc Putin có ý đồ xâm lược các quốc gia láng giềng của Nga ở Đông Âu bất kể lý do. 

Cùng lúc đó, kinh tế xâm lược của Hoa Kỳ đã lặng lẽ lan tỏa.

Ukraina là một trong những nguồn dự trữ khí đá phiến lớn nhất ở Châu Âu. Giống như các quốc gia Châu Âu khác, người Ukraina đã chống lại các tác động tổn hại môi trường của việc fracking trên quê hương của họ, nhưng không giống các quốc gia khác, Ukraina không có luật cấm. Chevron đã tham gia.

Vào tháng 5 vừa qua, R. Hunter Biden, con trai của phó tổng thống Hoa Kỳ, trở thành thành viên trong ban giám đốc của Burisma Holdings, nhà cung cấp khí đốt tư nhân lớn nhất của Ukraina. Biden trẻ chịu trách nhiệm về bộ phận pháp lý của Holdings và đóng góp vào “sự mở rộng quốc tế” của công ty.

Ukraina có đất canh tác màu mỡ cũng lớn như dự trữ dầu đá phiến. Người khổng lồ nông nghiệp Cargill của Hoa Kỳ đã đặc biệt tích cực ở Ukraina, đầu tư vào kho chứa ngũ cốc, thức ăn gia súc, nhà cung cấp trứng và hãng kinh doanh nông nghiệp chủ chốt, Ukr Land Farming, cũng như cảng tại Novorossiysk ở Biển Đen. Hội Đồng Kinh Doanh Hoa Kỳ-Ukraina cũng rất tích cực với sự có mặt của Monsanto, John Deere, nhà chế tạo nông cụ CNH Industrial, DuPont Pioneer, Eli Lilly và Công Ty. Monsanto dự định xây dựng một “nhà máy hạt giống ngũ cốc không biến đổi gen” trị giá 140 triệu dollar ở Ukraina, nhắm tới thị trường e ngại hạt giống biến đổi gen (GMO) của Châu Âu. Trong bài phát biểu tại hội nghị của Hội Đồng Kinh Doanh Hoa Kỳ-Nga do Chevron tài trợ một năm trước đây, Victoria đề cập tới việc Hoa Kỳ đã chi 5 tỷ dollar trong hai mươi năm qua để giành được Ukraina.

Vào ngày 2 tháng 12, tổng thống Poroshenko bổ nhiệm ba người ngoại quốc làm bộ trưởng trong nội các: một người Mỹ, một người Lít-va và một người Grudia. Ông ta cấp quốc tịch Ukraina cho họ chỉ vài phút trước buổi lễ bổ nhiệm. 

Người sinh ra ở Mỹ, Natalie Jaresko, là bộ trưởng tài chính mới của Ukraina. Với một nền tảng gia đình Ukraina cũng như bằng cấp của trường Harvard và DePaul, Jaresko chuyển từ Bộ Ngoại Giao tới Kiev để lãnh đạo phòng kinh tế của đại sứ quán Hoa Kỳ mới mở khi Ukraina tách ra khỏi Liên Bang Soviet. Ba năm sau, bà ta rời đại sứ quán Hoa Kỳ để lãnh đạo quỹ Western NIS Enterprise được Hoa Kỳ tài trợ. Vào năm 2004, bà ta thiết lập quỹ đầu tư cổ phiếu riêng. Với vai trò là người ủng hộ cuộc Cách Mạng Cam năm 2004, bà ta tham gia Hội Đồng Cố Vấn Nhà Đầu Tư Nước Ngoài của tổng thống “Cam” Viktor Yushenko. 

Chủ ngân hàng đầu tư Aivaras Abromavicius là bộ trưởng Kinh Tế mới, đặt chính sách kinh tế vào ảnh hưởng của Hoa Kỳ hơn là kiểm soát.

Bộ trưởng Y Tế mới, Aleksandr Kvitashvili từ Grudia, được đào tạo ở Hoa Kỳ và không nói tiếng Ukraina. Ông ta từng là bộ trưởng y tế tại quê hương Grudia dưới thời tổng thống tay sai của Hoa Kỳ Mikheil Saakashvili.

Hoa Kỳ đã hoàn tất việc kìm chặt kinh tế Ukraina. Bước kế tiếp là bắt đầu fracking, dĩ nhiên sẽ biến Hunter Biden thành nhà tài phiệt mới nhất của Ukraina.

Không ai đề cập tới điều này nhưng hiệp định thương mại gây tranh cãi giữa E.U. và Ukraina, đã bị trì hoãn khiến cho cuộc biểu tình Maidan dẫn tới cuộc đảo chính ngày 22 tháng 2 do Hoa Kỳ chỉ đạo, xóa bỏ các rào cản thương mại, cho phép tự do xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp do công ty Hoa Kỳ sản xuất ở Ukraina sang các quốc gia E.U. Chính quyền Ukraina chìm đắm trong nợ nần nhưng điều đó không ngăn cản các công ty Hoa Kỳ kiếm lợi nhuận khổng lồ từ đất nước màu mỡ, lương thấp và phi luật lệ. Các nhà sản xuất ngũ cốc Châu Âu, như Pháp, có thể bị thiệt hại lớn khi gặp cạnh tranh giá rẻ.

Cuộc tấn công của chính quyền Kiev bị ám ảnh bởi Nga ở Đông Nam Ukraina đã giết chết lĩnh vực công nghiệp vốn có thị trường ở Nga của quốc gia. Nhưng đối với những nhà cai trị Kiev từ miền tây Ukraina thì điều đó không quan trọng. Cái chết của công nghiệp cũ kỹ có thể giữ cho lương thấp và lợi nhuận cao.

Ngay sau khi người Mỹ giành quyền kiểm soát kinh tế Ukraina, Putin thông báo hủy bỏ dự án đường ống dẫn khí đốt Tuyến Phương Nam. Hợp đồng được ký vào năm 2007 giữa Gazprom và công ty hóa dầu ENI của Ý, nhằm đảm bảo nguồn cung cấp khí đốt của Nga cho vùng Ban-căng, Áo và Ý tránh đi qua Ukraina, một quốc gia trung gian không đáng tin cậy khi liên tục không thanh toán các khoản nợ và hút khí đốt chuyển cho Châu Âu để sử dụng. Công ty Đức Winterhall và công ty Pháp EDF cũng đầu tư vào Tuyến Phương Nam.

Trong những tháng gần đây, các đại diện của Hoa Kỳ gia tăng sức ép, buộc các quốc gia Châu Âu đã tham gia phải hủy bỏ dự án. Tuyến Phương Nam là phao cứu sinh đối với Serbia, vẫn đang khốn đốn bởi hậu quả từ những trận ném bom của NATO và tư hữu hóa các ngành công nghiệp để bán đổ bán tháo cho nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh nhu cầu về công ăn việc làm và an ninh năng lượng, Serbia cũng sẽ nhận được 500 triệu euro phí quá cảnh hàng năm. Belgrade phản đối cảnh báo rằng Serbia phải tuân thủ chính sách đối ngoại chống lại Nga của E.U. để đáp ứng các điều kiện làm ứng cử viên gia nhập E.U.

Điểm yếu là Bulgaria, nước này cũng nhận được những lợi ích tương tự khi chấp nhận cho đường ống đi qua lãnh thổ. Đại sứ Hoa Kỳ ở Sofia, Marcie Ries đã bắt đầu cảnh báo các doanh nhân Bulgari rằng họ có thể phải gánh chịu trừng phạt nếu hợp tác với các công ty Nga. Chủ tịch về hưu của Ủy Ban Châu Âu, José Manuel Barroso người Bồ Đào Nha, người được coi là “Maoist” khi “chủ nghĩa Mao” biện minh cho việc chống lại phong trào giải phóng được Soviet hậu thuẫn ở các thuộc địa Châu Phi của Bồ Đào Nha, đã đe dọa Bulgaria với việc khởi kiện bất tuân thủ Châu Âu trong hợp đồng Tuyến Phương Nam. Điều này dẫn chiếu tới quy định của E.U. chống lại việc cho phép cùng một công ty cung cấp và chuyển tiếp khí đốt. Nói ngắn gọn là E.U. đang cố gắng áp dụng quy định của bản thân theo kiểu hồi tố cho hợp đồng được ký kết với một quốc gia không thuộc E.U.

Cuối cùng, John McCain bay tới Sofia để hăm dọa thủ tướng Bulgaria, Plamen Oresharski, để hủy bỏ hợp đồng, khiến cho Tuyến Phương Nam nằm trên Biển Đen mà không có lối vào đất liền Ban-căng.

Tất cả những chuyện nực cười đó cho thấy hoàn cảnh cuộc chiến tuyên truyền hiện nay của Hoa Kỳ chống lại Nga, kiểu như Gazprom là một vũ khí nguy hiểm được Putin sử dụng để “ép buộc” và “bắt nạt” Châu Âu.

Bằng chứng duy nhất là Nga thường xuyên kêu gọi một cách vô ích Ukraina trả các khoản nợ khí đốt quá hạn.

Hủy bỏ Tuyến Phương Nam là một cú đánh đến muộn của NATO vào Serbia. Thủ tướng Serbia Aleksandar Vucic than vãn về tổn thất Tuyến Phương Nam: “Chúng ta đang trả giá cho xung đột giữa các cường quốc.”

Các đối tác người Ý trong hợp đồng cũng không vui vẻ với tổn thất lớn đó. Nhưng quan chức và truyền thông E.U. vẫn lên án Putin về mọi thứ như thường lệ.

Dĩ nhiên là khi bạn thường xuyên bị xúc phạm và cảm thấy không được chào đón thì bạn sẽ quay đi. Putin mang dự án đường ống dẫn dầu sang Thổ Nhĩ Kỳ và ngay lập tức bán cho thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Recep Erdogan. Điều đó có vẻ như là một hợp đồng tốt cho Nga, cho Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng toàn bộ sự việc vẫn chỉ là điềm báo.

Dầu của Nga là công cụ ép buộc? Nếu Putin có thể sử dụng Gazprom để buộc Erdogan thay đổi chính sách về Syria, và từ bỏ quyết định lật đổ Bachar al Assad, nhằm đánh bại Nhà Nước Hồi Giáo thần kỳ, thì đó sẽ là kết quả tuyệt vời. Nhưng hiện giờ vẫn chưa có dấu hiệu của một sự tiến triển như vậy.

Sự thay đổi từ Ban-căng sang Thổ Nhĩ Kỳ đào sâu ngăn cách giữa Nga và Tây Âu, mà trong dài hạn sẽ gây tổn thương cho cả hai phía. Nhưng điều đó cũng đào sâu bất bình đẳng kinh tế giữa phương Nam và phương Bắc Châu Âu. Đức vẫn nhận được khí đốt của Nga từ Tuyến Phương Bắc, dự án hợp tác của Gerhard Schroeder với Putin. Song các quốc gia phía Nam Châu Âu, vốn đang chìm trong khủng hoảng của đồng euro, thì bị bỏ mặc trong lạnh giá. Điều này có thể thúc đẩy nổi loạn chính trị đang lớn dần tại những quốc gia đó.

Khi những tiếng nói dấy lên ở Ý phàn nàn rằng trừng phạt Nga khiến Châu Âu bị tổn thương nhưng Hoa Kỳ thì vô sự, người Châu Âu có tự an ủi bằng diễn ngôn của người được giải Nobel Hòa Bình ở Nhà Trắng, người ca ngợi Liên Minh Châu Âu làm điều đúng đắn, ngay cả khi điều đó “là gay go đối với kinh tế Châu Âu”.

Trong bài phát biểu với các CEO hàng đầu vào ngày 3 tháng 12, Obama nói rằng sự trừng phạt nhằm mục tiêu thay đổi “nhận thức” của Putin, nhưng không nghĩ rằng điều đó sẽ thành công. Ông ta chờ đợi “chính trị trong nội bộ Nga” sẽ “bắt kịp với những gì diễn ra trong kinh tế, đó là lý do tại sao chúng ta tiếp tục duy trì sức ép.” Hay nói cách khác là ăn cắp thị trường khí đốt của Nga, ép buộc Châu Âu áp đặt trừng phát, và khiến những gã gốc mù quáng của Washington ở Arab Saudi hạ giá dầu bằng cách làm tràn ứ thị trường, đều chỉ nhằm mục đích khiến nhân dân Nga đủ ghét Putin để lật đổ ông ta. Nói một cách ngắn gọn là thay đổi chế độ.

Vào ngày 4 tháng 12, Hạ Viện Hoa Kỳ chính thức công bố động cơ của Hoa Kỳ phía sau thông điệp bằng cách đưa ra một thứ có thể coi là tồi tệ nhất mà khối lập pháp từng đưa ra: Nghị quyết 758. Nghị quyết là một bản tóm tắt tất cả những dối trá chống lại Vladimir Putin và Nga trong hơn một năm qua. Chưa bao giờ có nhiều lời dối trá được nhồi nhét trong một văn bản chính thức như vậy. Mặc dù vậy, cuộc chiến tuyên truyền được chứng thực bằng số phiếu thông qua 411 so với 10 phản đối. Nếu như điều này không dẫn đến chiến tranh giữa hai cường quốc hạt nhân, và vẫn còn những nhà sử học trong tương lai, thì họ sẽ đánh gia nghị quyết này là bằng chứng sự thất bại hoàn toàn của trí tuệ, trung thực, và tinh thần trách nhiệm của hệ thống chính trị mà Washington đang cố gắng áp đặt cho toàn thế giới.

Ron Paul đã viết một phân tích xuất sắc về tài liệu đáng xấu hổ đó ở đây và ở đây nữa

Bất kể người ta có nghĩ gì về chính sách đối nội của Paul, về đối ngoại thì ông ta đứng riêng một mình – rất riêng biệt – tiếng nói của lý trí. (Đúng như vậy, có cả Dennis Kucinich nữa, nhưng họ loại bỏ ông ta bằng cách xóa bỏ theo kiểu gian lận quận của ông ta khỏi bản đồ.)

Sau một danh sách dài những lời nói dối “Xét rằng”, gây tổn thương và đe dọa, chúng ta trở thành phe gây sự thô bỉ trong chiến dịch nguy hiểm này. Hạ Viện kêu gọi các quốc gia Châu Âu “làm suy yếu khả năng sử dụng nguồn khí đốt như là công cụ tạo sức ép chính trị và kinh tế đối với các quốc gia khác của Liên Bang Nga” và “thúc giục tổng thống xúc tiến phê chuẩn của Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ về việc xuất khẩu khí đốt hóa lỏng sang Ukraina và các quốc gia Châu Âu khác.” 

Quốc Hội đã sẵn sàng mạo hiểm và thậm chí là khuyến khích chiến tranh hạt nhân, nhưng họ đi từ “tuyến dưới”. Điều quan trọng là việc đánh cắp thị trường khí đốt của Nga bằng thứ mà cho đến nay vẫn là trò lừa gạt: khí đá phiến thu được từ fracking của Hoa Kỳ.

Tồi tệ hơn Chiến Tranh Lạnh

Phái tân bảo thủ đang điều khiển các chính khách thiếu trải đời của Hoa Kỳ sẽ đẩy chúng ta vào một cuộc Chiến Tranh Lạnh mới. Cuộc đối đầu dai dẳng với Liên Bang Soviet là “Lạnh” do Sự Phá Hủy Đảm Bảo Cho Đôi Bên (MAD). Cả Washington và Moscow đã hoàn toàn nhận thức được rằng chiến tranh “Nóng” có nghĩa là đụng độ vũ khí hạt nhân sẽ tiêu diệt tất cả mọi người.

Khi thời đó qua đi, Hoa Kỳ nghĩ rằng họ đã “thắng” trong Chiến Tranh Lạnh và dường như say sưa với sự tự thỏa mãn rằng họ có thể thắng một lần nữa. Sự nâng cấp vũ khí hạt nhân của họ và xây dựng “lá chắn hạt nhân” quanh biên giới Nga chỉ nhằm mục tiêu tạo cho Hoa Kỳ khả năng đánh phủ đầu – khả năng hạ gục bất cứ sự trả đũa nào của Nga đối với tấn công hạt nhân của Hoa Kỳ. Điều đó không thể có tác dụng, nhưng nó làm suy yếu sự ngăn chặn.

Nguy cơ của một cuộc chiến toàn diện giữa hai cường quốc hạt nhân thực sự lớn hơn dưới thời Chiến Tranh Lạnh. Hiện nay chúng ta đang ở trong một dạng Chiến Tranh Băng Giá, bởi vì tất cả những gì mà Nga làm hay nói đều không có bất cứ tác động nào. Phe tân bảo thủ đang tạo ra các chính sách của Hoa Kỳ ở phía hậu trường đã sáng tạo ra câu chuyện giả tưởng về “sự xâm lược” của Nga mà thổng thống của Hoa Kỳ, truyền thông và giờ là Quốc Hội phải chấp nhận và tán thành. Các nhà lãnh đạo Nga phản ứng với sự trung thực, sự chân thành và nhận thức chung, vẫn đang kiềm chế bất chấp những thóa mạ đối với họ. Điều đó không tạo ra bất cứ thứ gì tốt đẹp. Tình thế bị đóng băng. Khi lý trí thất bại, bạo lực sẽ tiếp bước. Sớm hay muộn.

Diana Johnstone is the author of Fools’ Crusade: Yugoslavia, NATO, and Western Delusions. Her new book, Queen of Chaos: the Foreign Policy of Hillary Clinton, will be published by CounterPunch in 2015. She can be reached at diana.johnstone@wanadoo.fr

Tuesday, December 9, 2014

Người da màu là nạn nhân của chế độ tư bản

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Black Bodies, Broken Worlds" của tác giả Vijay Prashad. Tác giả đã phác thảo mối liên hệ giữa việc cảnh sát giết hại thường dân và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của Mỹ. Điểm hạn chế của tác giả là trông đợi vào những biện pháp cải cách kiểu tư bản như dịch vụ công miễn phí và đánh thuế thu nhập. Hiện nay, sự tích lũy của chủ nghĩa tư bản nằm ở các doanh nghiệp chứ không phải ở các cá nhân nên việc đánh thuế thu nhập các cá nhân không có tác dụng gì. Hệ thống dịch vụ công cuối cùng chỉ là một kiểu người nghèo trợ cấp cho người giàu và khiến cho gánh nặng thuế khóa của người nghèo ngày càng lớn hơn. Tiêu đề do người dịch đặt.

Những người da đen, những thế giới đổ vỡ

Tôi là ai mà dám nói với bạn về luật pháp và công lý? Tôi không có bằng cấp về luật. Tôi ở trong một căn phòng với những người như Fred Dow, người đóng vai trò rất quan trọng trong ban Quyền Công Dân của Bộ Giáo Dục dưới thời chính quyền Clinton (vợ tôi tốt nghiệp tại trường Brown, chỉ nhớ một cách trìu mến về công việc với OCR và Fred trong một dịp đặc biệt của những năm đầy nguy hiểm). Tôi cũng mất mặt khi trở thành người nhập cư – bạn không thích điều đó, hãy về nhà. Sự tin cậy mà tôi có là gì ngoài cái danh hiệu nhỏ bé của một sử gia và nhà báo đối với Hoa Kỳ? Nhưng tôi đứng trên vai những người lớn hơn tôi, vai của những người như Harry Dow, con của một người lao động nhập cư Trung Quốc, người đã giành lấy quyền được lên tiếng, người đã tìm ra cách khiến quốc gia này – được xây dựng dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa tư bản cực đoan – công bằng hơn, đáng kính trọng hơn. Điều gì khiến tôi có quyền được nói. Câu trả lời: Harry Dow.

Nước Mỹ mà chúng ta đang sống là gì? Đất nước mà cảnh sát cảm thấy được khuyến khích với sự miễn tố khi bắn người da đen, những người mà nhân tính của họ bị quăng ra lề bởi một nền văn hóa không khoan dung. Có một chuỗi dài những cái tên từ Eric Garner ở Staten Island (2014) tới Thomas Shipp và Abram Smith ở Marion, Indiana (1930) và trở về thời nô lệ. Khi theo dõi những sự kiện diễn ra ở Ferguson, Missouri và thành phố New York, tôi nhớ lại vụ bạo loạn Harlem năm 1935 – được bắt đầu khi cậu bé người Phi Puerto Rico tên là Lino Rivera bị đánh đập vì ăn trộm ở cửa hàng. Sau cuộc bạo loạn, thị trưởng New York triệu tập một buổi thẩm vấn, báo cáo The Negro in Harlem nhận định rằng các vụ bạo động là “ngẫu nhiên” và nguyên nhân của bạo loạn là “sự bất công trong phân biệt đối xử trong tuyển dụng nhân công, đàn áp của cảnh sát và sự phân chia chủng tộc.” Báo cáo của năm 2014 cũng gợi lên nhận thức tương tự của thời kỳ suy thoái.

Phản kháng sự tàn ác hàng ngày đối với người da đen đưa tôi trở lại năm 1803, khi toàn bộ nô lệ người Igbo, bị trói vào nhau, xuống tàu ở Georgia và đi bộ xuống biển dưới sự che chở của Thần Nước của họ. Trong chuỗi sự kiện những ngày qua, nhân loại bị trói buộc ở Hoa Kỳ đã tập hợp lại tại cánh đồng băng giá của hồ Shore Drive ở Chicago và bên dưới những chỏm cao của cầu Brooklyn của New York – chặn những con đường giao thông huyết mạch để bày tỏ sự bất đồng. Nhân tính đang phẫn nộ chống lại sự áp bức – nhân tính không phải là giá trị riêng của Mỹ, mà là giá trị phổ quát. Nhân tính là giá trị coi khinh việc giết người, và thiếu công lý là không thể khoan dung. Nhân dân phản đối. Họ sẽ không khoan dung nữa. Họ nói, điều đó phải chấm dứt.

Nhưng tại sao những vụ giết người đó xảy ra. Chúng không thể chỉ đổ lỗi cho các cảnh sát. Điều đó quá đơn giản. Đây là vấn đề của hệ thống. Tỷ lệ bất bình đẳng ở Hoa Kỳ đang cao lịch sử. Người giàu không chỉ từ chối đóng thuế, mà họ còn sử dụng sự giàu có cũng như quyền lực để đảm bảo rằng ý niệm về thuế được coi như là bất hợp pháp: chúng ta đang sống trong xã hội hậu thuế khóa. General Electric, Bristol Meyers Squibb và Verizon đều là các hãng không đóng thuế, trong nền kinh tế hậu thuế khóa. Một người đàn ông né thuế tiêu thụ đặc biệt cho thuốc lá bị giết chết; các hãng trong bảng xếp hạng Fortune 500 né thuế tổng thể thì được hoan nghênh. Với mức lãi suất 0%, chính quyền chuyển giao hàng tỷ dollar cho ngân hàng làm dự trữ, như là biện pháp bảo vệ chống lại sự tan rã của hệ thống tín dụng (1,8 nghìn tỷ tiền của chính quyền nằm trong “dự trự vượt hạn mức” tại các ngân hàng tư nhân). Ngân hàng ngồi trên đống tiền đó, như những người giàu có ngồi trên vận may của họ. Chúng ta có ít những khoản đầu tư nội địa để tạo công ăn việc làm cho những người bị vứt bỏ đang ngày càng gia tăng; chúng ta không có tiền cho các dịch vụ phục vụ cho những người bị quẳng ra bên lề. Thất nghiệp toàn cầu được dự đoán ở mức cao, với một tương lai “đáng báo động” cho nạn thất nghiệp, theo Báo Cáo Việc Làm Thế Giới của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế. Thanh niên thất nghiệp gần gấp ba người trưởng thành. Khoảng 6,4 triệu thanh niên đã hết hy vọng kiếm được việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên Mỹ gốc Phi giờ là 35%. Không có kể hoạch này thay đổi điều này. 

Tiền biến giao diện giữa nhân dân và nhà nước thành cảnh sát và nhà tù. Ba phần tư những người bị bỏ tù trong hai thập kỷ qua là do các tội liên quan đến ma túy nhưng không bao lực. Scandal của sự mở rộng nhà tù của Hoa Kỳ là điều này: những nhà tù đó trở thành trại giam giữ những người thất nghiệp kinh niên. Ngân sách thành phố nghèo nàn của Ferguson đã dựa ngày càng nhiều hơn vào những thứ như phạt giao thông (mục lớn thứ hai trong nguồn thu nhập của họ). Vào năm 2013, cảnh sát phát ra 32.975 lệnh bắt giữ tại thành phố Ferguson với tổng số dân là 21.135. Cảnh sát viết biên lai phạt người dân đối ngay cả các vi phạm vô hại. Các biên lai phạt có mức phạt cao, vượt quá mức lương nghèo khổ tại thành phố (tỷ lệ nghèo khổ là 20%). Khi những biên lai phạt không được thanh toán, cảnh sát phát lệnh bắt giữ - và đưa người dân vào tù. Dân chúng không phải là một phần của xã hội; họ bị coi như là mối đe dọa với luật pháp và trật tự.

Xã hội Hoa Kỳ đã bị cơ chế đó phá vỡ - tỷ lệ bất bình đẳng kinh tế cao, tỷ lệ nghèo khổ cao, không có khả năng tham gia vào hệ thống giáo dục lành mạnh, cơ hội tiến bộ kinh tế không thể đạt tới, các điều kiện hiếu chiến rõ ràng để quản lý dân chúng được coi như tội phạm chứ không phải là công dân. Nhóm quá trình ăn mòn đó khiến cho chúng ta hoàn toàn thất vọng. Những cái tên như Martin, Brown, Garner là của hiện tại. Ở đâu đó tại Hoa Kỳ tối nay, một người khác sẽ bị sát hại – một người nghèo bị cảnh sát coi là mối đe dọa. Ngày mai là một người khác, và sau đó lại một người khác. Những cái chết đó không phải là sự xúc phạm đối với hệ thống này. Chúng là bình thường đối với hệ thống này.

Nhiều người trong chúng ta là người Mỹ gốc Châu Á, một nhánh chính trị nổi lên từ phong trào người Mỹ gốc Á. Khái niệm được phát triển như là cách để khẳng định đầu tiên là người Mỹ và sau đó lưu giữ vị trí đặc biệt của chúng ta là người Châu Á ở Mỹ. Có một lịch sử lâu dài kể từ khi phong trào Dân Quyền kết thúc khiến người Mỹ gốc Á chống lại người Mỹ gốc Phi, để phỏng đoán rằng chúng ta là mô hình thiểu số chống lại vấn đề thiểu số. Hãy nhìn xem, chúng ta đôi khi nói rằng bạn không cần sự hỗ trợ của nhà nước và bạn thành công! Tại sao người Mỹ gốc Phi không thể giống như người Mỹ gốc Á, có phải là một câu hỏi nực cười? Mười lăm năm trước đây, tôi viết một cuốn sách có tên là The Karma of Brown Folk, lập luận rằng lịch sử nhập cư của chúng ta và hệ thống cấp bậc chủng tộc có liên hệ chặt chẽ với thành quả. Sự lựa chọn cẩn trọng của nhà nước đối với người Châu Á – với thành tích giáo dục và quyết định cá nhân – cho phép các cộng đồng Châu Á ở Hoa Kỳ tạo ra nhiều thành quả vượt trội không chỉ so với các nhóm thiểu số ở Hoa Kỳ mà còn cả so với dân cư ở quê hương họ (ví dụ, tất cả mọi người ở Ấn Độ và Trung Quốc không phải là bác sĩ, kỹ sư, hay luật sư). Sự lựa chọn nhà nước chứ không phải sự lựa chọn tự nhiên đã tạo ra ưu thế. Chuyện ngược lại là về người Mỹ gốc Phi. Nếu chúng ta không nhạy cảm đối với những lịch sử khác và sử dụng đầy mạo hiểm một cộng đồng này chống lại một cộng đồng khác, chúng ta sẽ phản bội không chỉ di sản của phong trào người Mỹ gốc Á tiến bộ, mà còn phản bội cả phẩm giá của chúng ta. Bạo lực chống lại người Mỹ gốc Phi là đặc biệt; chúng không đồng nhất với chủng tộc mà người Mỹ gốc Á đối mặt. Nhưng điều đó không làm giảm nhẹ đóng góp của chúng ta cho công lý rộng mở nhất trong thế giới của chúng ta 

Chúng ta đã thiếu giai cấp chính trị. Từ khi nào chúng ta thấy những người lãnh đạo không biện giải đứng về phía đúng đắn của lịch sử - những người kêu gọi giáo dục công công, chăm sóc y tế công cộng và công khai điều đó, tài trợ bằng thuế lũy tiến cao đánh vào thu nhập và thừa kế? Tại sao chúng ta co rúm mình lại khi phải làm rõ rằng chúng ta không đồng ý với việc một nhóm nhỏ gia đình tận hưởng thật ghê ghớm sự giàu có của xã hội? Coi công lý như thủ tục để đưa vào bản kiến nghị khi ai đó bị giết là không đủ; còn về công lý trong tim của đời sống xã hội. Đâu là công lý trong việc từ chối quyền đến trường học tử tế, công việc tử tế của trẻ em? Michael Brown sẽ làm nghề gì nếu câu ta được phép đến trường cao đẳng nghệ thuật tự do? Eric Garner sẽ đặt tên cửa hàng nhỏ của ông ấy là gì?

Sự thất vọng đã lan tới các đường phố. Nhưng ai đang ở trên đường phố? Những người phồn tạp đủ loại, được nuôi dưỡng bởi hiện tại. Họ phải từ chối Hôm Nay; họ muốn Ngày Mai. Điều gì dẫn dắt họ? Một quan điểm chung: Cuộc Sống Của Người Da Đen Quan Trọng, thứ còn hơn là một từ khóa. Đó là nguyên lý đầu tiên. Điều đó mâu thuẫn với Luật Hình Sự, Cải Cách Phúc Lợi, Cuộc Chiến Chống Ma Túy và Khủng Bố. Điều đó cho rằng Cuộc Sống quan trọng hơn sự tin cậy của thị trường tư bản. Trên đường phố là những người đã từng tham gia phong trào Chiếm Đóng, cũng như những người đã mang mặt nạ nặc danh để chiếm đóng mạng Internet. Có những sinh viên đại học đã thừa nhận rằng hiện tại nuôi dưỡng bằng nợ nần chỉ kết thúc trong một tương lai chất nặng nợ nần. Có những người tiếp tục cắm rễ sâu vào sự sống sót của giai cấp lao động với phong trào chống thu hồi tài sản. Trong đám đông, chúng ta nhìn thấy các nhà hoạt động cho quyền của người nhập cư, những Người Mơ Ước, đứng bên những Người Bảo Vệ Giấc Mơ từ thành phố quê hương của Trayvon Martin. Đây là đa số đang lớn lên. Đâu là nơi đa số này sẽ tới, ai biết được? Song họ đang di chuyển. 

Vào năm 1968, ngay trước khi bị sát hại, Martin Luther King, Jr. đã nói, “Chỉ khi trời đủ tối, bạn mới nhìn thấy những vì sao.”

Giờ thì trời đã đủ tối.

Vijay Prashad is the author of No Free Left: The Futures of Indian Communism (forthcoming from Left Word Books, New Delhi). He is a contributor to Killing Trayvons: an Anthology of American Violence.

Friday, December 5, 2014

Người dân đảo Jeju của Hàn Quốc: Không căn cứ hải quân

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Jeju: “Island of Peace” in the Crosshairs of War" của nhà hoạt động hòa bình Mica Cloughley về phong trào của người dân đảo Jeju, Hàn Quốc phản đối việc xây dựng căn cứ hải quân trên đảo. Tiêu đề do người dịch đặt.

Jeju: “Hòn đảo Hòa Bình” trong tầm ngắm của chiến tranh

Một số người có thể ngạc nhiên, làm sao mà một tỉnh nhỏ của Hàn Quốc được gọi là “Hòn đảo Hòa Bình” lại có tỷ lệ tội phạm cao nhất Hàn Quốc? Dân số đảo Jeju vào khoảng 500.000 người, và cho tới nay thì cộng đồng trên đảo vẫn đặc trưng bởi sự bình yên. Seoul, trái lại, có dân số 10 triệu người, lớn hơn 20 lần. Câu trả lời nằm ở định nghĩa về tội phạm. Cuộc đấu tranh kéo dài 8 năm chống lại việc xây dựng căn cứ hải quân khổng lồ đã bị nhà cầm quyền Hàn Quốc đàn áp với sự xâm phạm nhân quyền trắng trợn, trong đó có việc áp dụng bất thường luật lệ dẫn đến hơn 600 người bị bắt giam và hơn 400 người bị buộc tội liên quan đến các hoạt động phi bạo lực ở cửa ngõ đảo Jeju, địa điểm xây dựng căn cứ hải quân Hàn Quốc. Do đó “tội phạm” lên đến mức ấy. Các vi phạm từ đi bộ ẩu tới “cản trở công việc”, loại thứ hai mới đây được áp dụng cho một nữ tu già, Sơ Stella Soh, về việc ngồi trước cửa của căn cứ hải quân, chặn lối vào của xe tải. Điều này có nghĩa là lần đầu tiên trong 200 năm lịch sử Thiên Chúa Giáo Hàn Quốc, một nữ tu bị truy tố về tội hình sự.

Nhưng những cư dân đảo chống chủ nghĩa đế quốc cản trở công việc của ai khi họ từ chối căn cứ hải quân? Căn cứ hải quân trên đảo Jeju có vẻ là dành cho quân đội Hàn Quốc, nhưng có thể hiểu rằng quân đội Hoa Kỳ sẽ sử dụng căn cứ. Đó là viên ngọc trên vương miện “xoay trục sang Châu Á” của tổng thống Obama, thứ thực sự tạo thành một vòng cung các căn cứ hải quân và quân sự bao quanh Trung Quốc. Căn cứ hải quân trên đảo Jeju cũng là công việc kinh doanh mạo hiểm đầy lợi nhuận đối với Samsung. Quả thực vậy, cũng chính là Samsung sản xuất điện thoại di động, chính họ đang xây dựng căn cứ quân sự lớn nhất khu vực lòng chảo Thái Bình Dương. Trong quá trình xây dựng, Samsung trắng trợn vi phạm luật pháp quốc tế và gây tổn hại cho môi trường dễ tổn thương của hòn đảo, cũng như địa điểm Di Sản Thế Giới của UNESCO. Công ty này đã đánh mìn, đúng theo nghĩa đen, một phần đảo mà người dân bản địa đã tôn kính nhiều thế kỷ. Đó là nơi linh thiêng nhất trên hòn đảo của họ.

Hải quân Hàn Quốc dự tính căn cứ sẽ được hoàn thành vào tháng 12 năm 2015. Bản thiết kế mô tả một căn cứ hải quân rộng 50 ha sẽ chứa 7.000 lính, tối đa 24 tàu chiến, trong đó có hai tàu khu trục hộ vệ, 6 tàu ngầm hạt nhân. Cần biết rằng mỗi tàu khu trục có một động cơ lên đến 100.000 mã lực, khó có thể tưởng tượng rằng căn cứ sẽ an toàn đối với một môi trường nhạy cảm về sinh thái. 7.000 lính thủy sẽ cập bến ở Gangjeong, một ngôi làng với dân số khoảng 2.000 người. Dân làng biết rằng dự án này có nguy cơ xóa sổ toàn bộ cộng đồng của họ.

Nếu họ xây nó, căn cứ hải quân sẽ phá hủy nhiều phần sinh quyển độc đáo của đảo Jeju. Vùng biển quanh đảo được luật pháp quốc tế bảo vệ bởi vì chúng nằm trong phạm vi Bảo Tồn Sinh Quyển của UNESCO. Chỉ còn ít hơn 120 cá heo mũi chai sống trong vùng biển quanh đảo. Rừng san hô mềm lớn nhất thế giới, ngoài khơi của làng Gangejong, đã bắt đầu chết từ khi việc xây dựng được khởi công vào năm 2011. Samsung đã phá vỡ hàng sa số các luật môi trường để cấp tốc xây dựng căn cứ quân sự. 

Do đó, các nhà hoạt động hòa bình của đảo Jeju đã công khai kêu gọi mọi người trên thế giới tự nguyện tới và sống trong làng của họ, trực tiếp chứng kiến cuộc đấu tranh. Tôi đáp ứng lời kêu gọi ấy, đi tới làng Gangjeong, đảo Jeju. Tôi biết rằng mình tới đó để giương cao lá cờ màu vàng trên vỉa hè, kêu lên: “Không căn cứ hải quân!” Do các nhà hoạt động bị chính quyền giám sát thường xuyên và nhiều người ủng hộ quốc tế của cuộc đấu tranh chống căn cứ hải quân đã bị từ chối nhập cảnh vào Hàn Quốc, tôi được dặn là không thông báo với bất cứ ai trong làng khi tôi tới nơi. Lúc tôi ngó vào Trung Tâm Hòa Bình, hy vọng có ai đó sẽ giúp đỡ khi tôi nói mình là tình nguyện viên đến từ tổ chức bất bạo động phi chính phủ Peaceworkers ở San Francisco và dự định sẽ ở lại 6 tuần. 

Một người phụ nữ tên là Silver chỉ cho tôi thấy quanh làng trong buổi tối đầu tiên. Lúc chúng tôi ngồi trong nhà hàng miễn phí cho các nhà hoạt động, một cơn gió mạnh thổi vào phòng, làm cốc chén xoong chảo trên quầy va vào nhau

“Tôi nghe nói đảo Jeju nổi tiếng về gió.” Tôi nói với Silver

“Phải,” Silver cười, “Đảo Jeju nổi tiếng về ba thứ: gió, đá và phụ nữ.”

“Sau khi gió thổi, mọi người nghĩ đó là bão to. Chúng tôi thường có bão hàng năm vào giữa tháng 7 và tháng 10, nhưng năm nay chúng tôi vẫn chưa có bão, nên mọi người đang cầu nguyện nó đến ngay.”

Bối rối, tôi hỏi, “bão không phải nguy hiểm sao? Chị có phải sơ tán không?”

“Có, bão rất tệ đối với nông dân trồng quýt,” Silver trả lời, “Chúng phá hủy hết mùa màng và gây ra rất nhiều thiệt hại. Nhưng cơn bão năm ngoái cũng gây thiệt hại tồi tệ cho căn cứ hải quân, thế nên giờ ngay cả nông dân cũng cầu bão.”

Tôi sẽ sớm được biết những người cầu bão trở thành biểu tượng của phong trào phi quân sự hóa đảo Jeju ra sao. Với cuộc đấu tranh kéo dài hơn 8 năm chống lại việc xây dựng căn cứ hải quân tại vùng biển nguyên thủy của làng Gangjeong, các nhà hoạt động đồng hành cùng với một lực lượng đủ sức mạnh để ngăn chặn sự phá hủy đó. 

Dù cho 94% cử tri làng Gangjeong bỏ phiếu chống lại căn cứ quân sự, chính quyền Hàn Quốc không công nhận cuộc trưng cầu dân ý đó. Khi thảo luận về việc xây dựng một căn cứ hải quân trên đảo Jeju khởi công 12 năm trước đây, hải quân Hàn Quốc đầu tiên đã tiếp cận làng Hwansun, phía đông của Gangjeong. Nhưng khi tuân thủ mọi quy tắc và luật lệ để tổ chức một cuộc bầu chọn hợp pháp, kết quả chống lại dự án. Nhiều sự đóng góp thuộc về Haenyeo, những nữ thợ lặn của đảo Jeju. Những phụ nữ Haenyeo đã lặn nhiều thế kỷ ở vùng biển Đông Trung Hoa quanh đảo, thu gom cá nhỏ và sò. Buôn bán các sản vật của họ tiếp sức cho kinh tế của đảo Jeju. Jeju là đảo mẫu quyền, với Haenyeo là các lãnh đạo cộng đồng nhiệt huyết. Haenyeo là một lực lượng mạnh mẽ được ghi vào luật lệ trong sách của đảo Jeju rằng đàn ông bị cấm nhìn họ khi họ làm việc trên biển.

Thế nên khi Hải Quân Hàn Quốc tiếp cận làng Hwansun vào năm 2002, Haenyeo ngay lập tức thấy thật điên rồ nếu chấp nhận dự án. Điều đó làm ô nhiễm “cánh đồng biển” của họ, nơi họ “thu hoạch mùa màng” là bào ngư và tảo bẹ. Haenyeo thống nhất với những người khác trong làng để phủ quyết dự án của hải quân. Khi tiếp cận làng thứ hai vào năm 2005, Wimi, ở phía tây của Gangjeong, kết quả cũng tương tự: không căn cứ hải quân.

Sau đó hải quân đến Gangjeong, họ tiếp cận theo cách khác, phá vỡ quy định của tất cả các làng để thúc đẩy bằng một cuộc bỏ phiếu phi pháp. Thay vì tổ chức một diễn đàn cho toàn bộ làng, hải quân phỉnh phờ riêng rẽ một nhóm nhỏ các dân làng chủ chốt, trong đó có trưởng làng, chủ tịch Hiệp Hội Ngư Nghiệp Gangjeon, và những nữ thợ lăn Haenyeo có ảnh hưởng nhất. Những người này được cung cấp chuyến đi miễn phí đến Hawaii để thấy căn cứ của Hải Quân Hoa Kỳ đã bất ngờ gia tăng du lịch và tạo ra bùng nổ kinh tế. Thượng lưu Gangjeong được nghe rằng hải quân muốn biến đảo Jeju thành “Hawaii của Hàn Quốc”.

Trong thời gian đó hải quân đã gửi cho Hiệp Hội Ngư Nghiệp Gangjeong 7,8 triệu dollar để “bù đắp thiệt hại”, những Haenyeo được lựa chọn đã chia nhau khoản tiền đó. Tới lúc tổ chức bỏ phiếu, chỉ có 87 người dân tham gia, chiến thuật của chính quyền Hàn Quốc đã có hiệu quả, kết quả bỏ phiếu chấp nhận căn cứ. 1.800 người dân còn lại của làng Gangjeong hoàn toàn không biết gì về điều này cho tới khi bản tin tối thông báo rằng họ nhất trí ủng hộ căn cứ quân sự. Sau khi cú sốc qua đi, một cuộc bỏ phiếu toàn làng hợp pháp được tổ chức, trong đó 94% người dân chống lại căn cứ quân sự, Hải Quân Hàn Quốc đã chuyển giao dự án trị giá 1 tỷ dollar cho Samsung.

Lập luận phổ biến về ưu thế hải quân là căn cứ sẽ cung cấp an ninh sống còn cho Jeju. Nhưng lịch sử lại cho thấy điều khác. Bất cứ khi nào lực lượng quân sự chủ chốt hiện diện trên đảo, chúng dẫn đến chết chóc, di cư, và phá hủy dân cư địa phương. Còn sự thật nào hơn cuộc thảm sát diễn ra sau cuộc nổi dậy nhỏ của nông dân vào ngày 13 tháng 4 năm 1948 chống lại lực lượng chiếm đóng Hoa Kỳ? Ngay sau khi đánh bại lực lượng xâm lược Nhật Bản trên đảo Jeju, Hoa Kỳ khởi động một cuộc bầu cử trên đảo Jeju để chia Triều Tiên thành hai miền Nam và Bắc. Khi các địa phương phản đối một Triều Tiên bị phân chia, họ đã tổ chức một cuộc nổi dậy nhỏ chống lại cuộc bầu cử đó. Hoa Kỳ và chính quyền Hàn Quốc đã nhanh chóng gọi các cư dân đảo Jeju là cộng sản, điều này biện minh cho chiến dịch tàn phá sau đó của họ.

Dưới sự chỉ huy của Hoa Kỳ, chính quyền địa phương trên đảo Jeju tiến hành một cuộc tấn công tàn bạo khiến khoảng từ 30.000 đến 80.000 người chết. (Ước lượng khác nhau do xác chết được chôn trong các ngôi mộ tập thể khắp trên đảo.) Đại đa số người dân bị thảm sát trong thời kỳ 1945-1954 là thường dân trên đảo, không phải cộng sản. Dư chấn của sự kiện đó giải thích tại sao có nhiều hơn những người dân đảo không nổi dậy công khai giờ đây cũng chống lại việc xây dựng căn cứ quân sự. Đại đa số người dân đảo Jeju biết rằng căn cứ này được xây dựng không phải để bảo vệ họ mà là để leo thang căng thẳng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Dĩ nhiên là căn cứ sẽ đảm bảo an ninh đường biển cho các tập đoàn nhiều tài nguyên của Hàn Quốc, trong đó Samsung.

Nhiều tổ chức tôn giáo trên đảo Jeju đã phản đối xây dựng căn cứ hải quân bằng cách tổ chức các buổi lễ trước cửa, chặn đường vào căn cứ của xe tải chở xi măng, thép và các vật liệu khác. Hàng ngày trong hơn 3 năm, các mục sư Thiên Chúa Giáo đã tổ chức đám đông trước cửa căn cứ, theo mệnh lệnh của giám mục đảo Jeju, giám mục Peter Kang U-Il. Tất cả các cuộc biểu tình của Thiên Chúa Giáo diễn ra dưới sự cầu nguyện của ông. Hàng ngày, trừ chủ nhật, các nhà hoạt động khác cúi mình 100 lần đối mặt với cánh cửa, cầu nguyện chấm dứt xây dựng, và thức tỉnh rằng tất cả cuộc sống là phụ thuộc lẫn nhau.

Căn cứ hải quân đã chặn hoàn toàn lối đi chung tới Đá Gureombi, nơi các buổi lễ tôn giáo được tổ chức hàng trăm năm nay. Đá Gureombi là nơi linh thiêng nhất trong làng và người dân Gangjeong tin rằng đá đang sống. Như nhà hoạt động, cựu phê bình điện ảnh, Yang Yoon Mo giải thích điều này: “Đó là nơi duy nhất trên đảo mà đá thân thiện với người dân.”

Yang Yoon Mo đấu tranh cho khu bảo tồn với thân thể của ông, bám vào dưới các xe tải xây dựng và nằm trên đường đi của chúng. Nhà cầm quyền Hàn Quốc đã bỏ tù ông 4 lần, vào năm 2010, 2011, 2012 và mới đây nhất là năm 2013 khi ông phải ngồi tù 18 tháng vì các hành động bất tuân dân sự. Trong ba lần ngồi tù ông đã thực hiện các cuộc tuyệt thực dài. Cuộc tuyệt thực dài nhất vào năm 2011 khi ông gần như đã chết sau cuộc tuyệt thực tổng cộng 74 ngày.

Người dân Gangjeong có nhận thức sâu sắc rằng cuộc sống trên trái đất không được cấu tạo từ các số phận cá biệt, mà tất cả chúng có liên hệ qua lại với nhau. Tình trạng của người này được ràng buộc chặt chẽ với tình trạng của người khác. 

Trong tuần thứ ba ở làng, tôi chứng kiến một mục sư già, Cha Mun, đứng lại sau khi kết thúc buổi lễ hàng ngày và tiếp tục một mình chặn cửa. Viên chức cảnh sát vẫn ra tín hiệu hướng dẫn giao thông cho xe tải đi vào cửa. Một chiếc xe tải kềnh càng với bánh xe cao đến vai tôi tăng tốc đến cửa và Cha Mun, phanh rít lên chỉ một đoạn ngắn trước khi đâm vào ông. Một lúc sau, tôi hỏi Cha Mun rằng ông có cảm thấy sợ khi đứng chặn đường xe tải không. Ông cho tôi thấy một nụ cười vui sướng và nói đơn giản, “không, tôi là Đá Gureombi. Bạn là Đá Gureombi. Nếu tôi để cho hải quân giết Đá Gureombi, họ cũng giết tôi. Họ cũng giết cả bạn.”

Những gì tôi có thể nói là ông ấy không định làm thơ hay diễn ngôn bi kịch. Ông ấy tin một cách chân thành rằng đá linh thiêng là một phần trong thân thể ông ấy, và ông ấy sẽ tiếp tục mạo hiểm cuộc sống để phản đối việc xây dựng trên hòn đảo và văn hóa của ông ấy.

Trong tuần thứ tư ở làng, Jung Sun-Nyeo, người phụ nữ dẫn đầu đoàn cúi mình 100 lần hàng ngày, báo tin cho tôi: “cơn bão đến vào ngày mai.” Bà ngừng lại, tìm kiếm từ tiếng Anh để giải thích thêm. Tôi đoán bà muốn tiếp tục với điều gì đó giống như, “sẽ không có các hoạt động trước cửa ngày mai, hãy ở nhà,” nhưng trái lại bà nói với một nụ cười phấn khởi, “chúng tôi sẽ chào đón cơn bão tối nay với đồ uống. Bạn được chào đón!”

Các nhà hoạt động của đảo Gangjeong hiểu rằng cuộc chiến đấu chống lại dự án căn cứ hải quân lớn nhất ở Đông Á không chỉ là bảo vệ đảo của họ khỏi bị nhấn vào các cuộc xung đột tương lai ở Thái Bình Dương. Như họ hát vào lúc kết thúc buổi lễ hàng ngày: “Gangjeong, bạn là ngôi làng nhỏ nhất/ nhưng hòa bình cho cả thế giới sẽ đến từ bạn.”

Khi chúng ta công nhận mọi nỗ lực chống lại việc xây dựng của họ, chúng ta cũng phải công nhận mọi nỗ lực có tính xây dựng để thúc đẩy hòa bình của họ. Bên cạnh sự nổi tiếng về gió, đá và phụ nữ, đảo Jeju cũng nổi tiếng về ba thứ không: không cánh cửa, không ăn xin, không trộm cắp. Cả ba thứ đó là biểu tượng của truyền thống và di sản cộng đồng của Jeju, nơi mọi người luôn chăm lo cho người khác. Cư dân đảo chia sẻ những gì họ có với người khác nên không có người ăn xin, không cần phải ăn trộm, và không cần cánh cửa. Nhà của họ luôn mở với bất cứ ai cần mái che, và do không có kẻ trộm nên cũng cũng chẳng cần ngăn chặn ai với cánh cửa.

Trong 6 tuần ở Gangjeong, tôi thực sự kinh ngạc về văn hóa hòa bình đang lớn mạnh trong 1.900 người dân làng. Nếu chúng ta cho phép căn cứ hải quân vượt qua làng Gangjeong, nó sẽ không chỉ là 1.900 cuộc sống di cư và một đá núi lửa trên đảo bị nghiền nát để mở đường cho chủ nghĩa quân phiệt Hàn Quốc và Hoa Kỳ. Mọi người trên trái đất sẽ đánh mất hòn đảo nhỏ của hòa bình, chúng ta không thể để những gì Gangjeong đã dạy chúng ta bị phá hủy. Khi chúng ta cầu bão, hãy để chúng ta chìm trong những con sóng từ khắp nơi của thế giới cùng với nhận thức và hành động của chúng ta. Hãy để hòa bình sống ở Gangjeon và thế giới.

Bạn có thể xem thêm các thông tin về cuộc đấu tranh và các thức tham gia tại SaveJejuNow.org.

Mica Cloughley is the co-founder of Emergency Peace Teams (.org) and Empathy App (.org). She lives in Oakland, CA. Those interested in going to Jeju Island can contact her through the website emergencypeaceteams.org.

Cảnh sát giết người ở Mỹ: Vấn đề giai cấp


Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Police killings in America: The class issues" của tác giả Joseph Kishore, bài viết cho biết lý do người Mỹ đã biểu tình ở nhiều thành phố để phản đối sự tàn bạo của cảnh sát Mỹ. Mỗi năm cảnh sát Mỹ giết hại hơn 400 thường dân, nhưng hầu hết không bị truy tố hay chịu bất cứ hình thức kỷ luật nào. 

Cảnh sát giết người ở Mỹ: Vấn đề giai cấp

Một lần nữa, viên chức cảnh sát lại thoát khỏi truy tố sau khi giết hại thường dân không vũ trang trên đường phố Hoa Kỳ.

Quyết định của hội thẩm đoàn công tố Staten Island không truy tố viên cảnh sát Pantaleo của thành phố New York về tội siết cổ chết Eric Garner vào tháng 7, là một trò hề tư pháp, diễn ra chỉ hai tuần sau thất bại tương tự trong việc truy tố viên cảnh sát đã bắn Michael Brown ở Ferguson, Missouri.

Theo một nghĩa nào đó, việc miễn tội cho Pantaleo thậm chí còn xuất sắc hơn việc không truy tố Darren Wilson. Garner bị xét hỏi về việc bán thuốc lá không rõ nguồn gốc. Anh ta bị quật ngã ra mặt đất chẳng vì bất cứ lý do gì, bị siết cổ với một đòn khóa đã bị sở cảnh sát cấm từ lâu và bị ghìm xuống mặt đất khi anh ta kêu la không ngừng rằng anh ta không thể thở được. Sau khi anh ta bất tỉnh, cảnh sát đứng xung quanh 7 phút trước khi thực hiện sơ cứu.

Toàn bộ sự cố được ghi hình lại, và được hàng triệu người khắp thế giới xem. Nhân viên khám nghiệm pháp y của thành phố kết luận đó là hành vi giết người. Mặc dù vậy, không có phiên tòa, không có cơ hội nào để quan tòa làm sáng tỏ vụ án này và đưa ra sự trừng phạt theo luật pháp. Thay vào đó, giống như ở Ferguson, một hội thẩm đoàn công tố, trong một quá trình bí mật, do một công tố viên có quan hệ gần gũi với cảnh sát dẫn dắt, đã quyết định không truy tố. 

Quyết định của hội thẩm đoàn công tố trong vụ án Garner đã gây ra một làn sóng phẫn nộ khắp đất nước. Hàng ngàn người đã đổ ra đường phố trong một cuộc biểu tình giận dữ ngẫu hứng, phong tỏa đường cao tốc và tràn ngập các đường phố ở thành phố New York, Chicago và các thành phố khác của Hoa Kỳ.

Hàng triệu người đang tự hỏi: Nếu một sĩ quan cảnh sát có thể siết cổ chết một người không có vũ khí, với toàn bộ sự kiện đã được ghi hình lại, mà vẫn thoát khỏi bị truy tố; còn có điều gì không được phép? Sự giận dữ là hoàn toàn chính đáng. Song sự giận dữ cần được dẫn dắt bởi lý giải chính trị rõ ràng và am hiểu.

Khó có thể nói nghiêm túc về sự tàn bạo của cảnh sát mà không nói về chủ nghĩa tư bản, mà không thừa nhận mối liên hệ giữa bạo lực của nhà nước và sự bất công xã hội khổng lồ đang trở thành đặc trưng của cuộc sống ở Hoa Kỳ. Sự thật căn bản là giai cấp thống trị và những người phát ngôn đủ loại của họ đang tìm cách che đậy tất cả.

Phản ứng của thiết chế chính trị và truyền thông đối với việc miễn truy tố trong vụ Garner đã bộc lộ sự hốt hoảng đối với tác động của nó. Các chính khách đủ loại, Dân Chủ và Cộng Hòa, đã cấp tốc kêu gọi các điều tra tiếp theo, một cuộc điều tra liên bang về “quyền công dân”, các biện pháp khác nhau nhằm khôi phục “niềm tin của công chúng”. Giai cấp thống trị có một nhận thức chung rằng “kết cấu dân sự của Hoa Kỳ” (một khái niệm được tờ New York Time sử dụng sau vụ miễn truy tố Wilson) đang bị đẩy đến gần điểm tan vỡ.

Những động thái đó được tổng thống Obama, người đã gặp thị trưởng thành phố New York Bill de Blasio vào thứ năm, dẫn dắt để tạo ra một chiến lược chính trị chung đối phó với các cuộc biểu tình về vụ giết hại Garner. Theo thư ký báo chí của Nhà Trắng Josh Earnest, “hai người đã cam kết hợp tác để củng cố niềm tin và sự liên kết giữa lực lượng hành pháp và các cộng đồng địa phương mà họ phục vụ”.

Các biện pháp gồm có nhiều hành động xoa dịu, như các tài trợ máy quay phim cho cơ quan cảnh sát (không phù hợp trong vụ Garner, do toàn bộ sự kiện cũng đã được ghi hình) và “huấn luyện” thêm cho cảnh sát.

Sau cuộc họp, Obama tuyên bố rằng “quá nhiều người Mỹ cảm thấy thật bất công khi đề cập tới khoảng cách giữa lý tưởng đã được công khai của chúng ta và cách thức luật lệ được áp dụng hàng ngày.” Phía sau tai tiếng của cảnh sát và hệ thống pháp luật, Obama nói, có “một câu hỏi lớn về việc khôi phục ý thức về mục đích chung”. 

Mặc dù vậy, có một điều mà Obama không thể thừa nhận, sự thiếu vắng của “ý thức về mục đích chung” không phải là câu hỏi về nhận thức hay thất bại trong đối thoại, mà là hiện thực khách quan. Không có “mục đích chung” giữa quý tộc tài chính và doanh nghiệp, quyết định theo đuổi chính sách chiến tranh vĩnh viễn trên phương diện quốc tế và phản cách mạng xã hội trong nước, với hàng triệu người lao động và thanh niên đang phải đối mặt với một cuộc tấn công tàn nhẫn về công ăn việc làm, tiền lương, chương trình xã hội và quyền dân chủ.

Giữa sự chia rẽ xã hội này, nhà nước, trong đó có cảnh sát, không phải là cơ quan trung lập mà là một công cụ của giai cấp thống trị. Bản thân Obama đã luôn khuyến khích và gia tăng thêm quyền lực của nhà nước, từ gia tăng bộ máy do thám vi hiến có quy mô lớn; tới tự cho mình quyền được ám sát bất kỳ ai, bao gồm cả công dân Mỹ, mà không cần xét xử; tới quân sự hóa cảnh sát nội địa thông qua cung cấp hàng tỷ dollar dưới dạng xe bọc thép, vũ khí và các trang thiết bị khác – một chính sách mà tổng thống này đã xác nhận lại trong tuần.

Trong nỗ lực che đậy vấn đề giai cấp căn bản ngay tức thời, Đảng Dân Chủ đã triển khai nhiều nhóm phụ tá và các cơ quan truyền thông, cùng với những người đề xuất các chính sách danh tính như Al Sharpton, để khẳng định rằng vấn đề căn bản liên quan đến bạo lực của cảnh sát là chủng tộc và “quan hệ chủng tộc”. Hệ quả tất yếu của khẳng định đó là Obama, tổng thống da màu đầu tiên của Hoa Kỳ, sẽ “nghiêm túc” nói chuyện về sự tàn bạo của cảnh sát. 

Chủ nghĩa chủng tộc đóng một vai trò không thể phủ nhận trong các chiến dịch tội ác của cảnh sát, song điều đó hoàn toàn nằm dưới sự phân chia giai cấp căn bản. Quả thực vậy, trung tâm của cuộc khủng hoảng chính trị mà giai cấp cai trị phải đối mặt là cơ chế chính trị đã được tạo dựng để phá hủy nhận thức giai cấp – bao gồm các chính sách về chủng tộc và danh tính – bản thân chúng cực kỳ tai tiếng, một phần không nhỏ trong trải nghiệm về chính quyền Obama.

Mục tiêu trong bạo lực của cảnh sát không phải là chủng tộc mà là đàn áp giai cấp. Không chỉ công nhân trong mọi chủng tộc là nạn nhân của sự tàn bạo của cảnh sát, mà các công cụ đàn áp được giai cấp thống trị gia tăng một cách có hệ thống và có chủ ý để sẵn sàng đối phó với đình công, biểu tình, diễu hành hay các dạng phản kháng chính trị và xã hội khác đối với sự chuyên chế của ngân hàng và doanh nghiệp.

Phản kháng sự tàn bạo của cảnh sát và sự trỗi dậy của phương thức cai trị bằng nhà nước cảnh sát ở Hoa Kỳ phải cắm rễ trong một phong trào chính trị của giai cấp lao động, được vận động như một lực lượng độc lập, đối lập với hệ thống tư bản chủ nghĩa và bộ máy nhà nước phục vụ cho nó như là kẻ áp đặt bất công xã hội.