Showing posts with label Da màu. Show all posts
Showing posts with label Da màu. Show all posts

Tuesday, October 27, 2015

Thiên đường của tự do và nhân quyền: Phạt để kiếm tiền

Brian Platt viết về sự tồi tệ của hệ thống cảnh sát Hoa Kỳ trong bài "The Police and Court System: Neoliberal America’s Tax Collectors". Hệ thống cảnh sát và tòa án đã trở thành những kẻ tống tiền và ăn cướp chuyên nghiệp để giúp chính quyền tăng nguồn thu ngân sách. Việc tống tiền và ăn cướp đó chủ yếu nhằm vào giai cấp công nhân, những người không có quyền lực để tự bảo vệ bản thân trong xã hội tư bản. Do ở Hoa Kỳ giai cấp và chủng tộc tương đối ăn khớp với nhau nên nạn nhân của các vụ ăn cướp, tống tiền chủ yếu là người da màu và da nâu. Hệ quả là bộ máy cảnh sát ngày càng trở lên bạo lực, bởi vì nhà nước không còn kiểm soát được quyền lực ấy nữa, ngược lại nhà nước tồn tại nhờ quyền lực ấy.  

Hệ thống cảnh sát và tòa án: Những kẻ thu thuế của Hoa Kỳ tân tự do

Vào tuần trước, Biloxi, bang Mississippi là thành phố mới nhất bị ACLU kiện vì thực hiện “modern-day debtors’ prison” [bắt giam người không thể đóng tiền phạt tư pháp]. Trong hai tháng qua, các vụ kiện tương tự đã được ACLU dùng đề chống lại chính quyền của Jackson, bang Mississippi, hạt Benton, bang Washington, New Orleans, thành phố Alexander, bang Alabama, và hạt Rutherford, bang Tennessee.

Hệ thống tư pháp hình sự đang ngày càng trở thành phương thức được ưa chuộng để tài trợ cho các chính quyền thành phố trong cơn ác mộng tân tự do hiện đại ở Hoa Kỳ. Cảnh sát nhằm vào những vi phạm nhỏ nhặt của người nghèo để phạt. Khi những khoản tiền phạt này không được đóng đúng hạn, tiền phạt bổ sung sẽ được tính thêm và người dân bị quẳng vào tù. Trong nhiều vụ, các nhân viên thu nợ tư nhân được thuê để săn đuổi những người nghèo, nhưng người thường xuyên nợ tiền phạt chồng chất nhưng hiếm khi được xóa nợ. Việc bóp nặn người nghèo để kiếm tiền cho thành phố đã cho phép các chính quyền địa phương cung cấp sự miễn thuế cho cộng đồng doanh nghiệp và người giàu có. Hay nói theo cách khác là những chương trình này tạo ra một cách thức khác để phân phối tiền từ giai cấp công nhân sang giai cấp tư sản.

Trong cuộc điều tra về Ferguson, bang Missouri trước đây vào năm 2015, bộ Tư Pháp đã kết luận: “Hoạt động của lực lượng thi hành pháp luật ở Ferguson đã bị thành phố định hướng vào doanh thu hơn là nhu cầu an toàn công cộng. Sự quan trọng của doanh thu này đã lấn át cả tính chất thể chế của sở cảnh sát Ferguson… và cũng đã định hướng tòa án địa phương.” Trao đổi nội bộ giữa các quan chức thành phố và cảnh sát đã cho thấy họ âm mưu bóp nặn người nghèo để bù đắp thiếu hụt ngân sách. Tất cả đều nói rằng gần một phần tư doanh thu của Ferguson là từ tiền phạt và Ferguson không phải là kẻ thi hành xuất sắc nhất ở hạt St. Louis.

Một điều tra mới đây của NPR cho thấy rằng thực tiễn dựa vào người nghèo để bù đắp cho chính quyền địa phương – bù đắp việc miễn thuế cho người giàu – không phải là duy nhất ở Ferguson hay Biloxi. Khắp đất nước, tiền phạt được dùng để tạo doanh thu. Một phân tích của NPR cho biết có 41 bang buộc người dân phải trả tiền cho “phòng và giường” khi họ bị giam giữ, 43 bang tính phí sử dụng luật sư công cho người dân, 44 bang tính phí quản thúc, 49 bang tính phí sử dụng vòng theo dõi. Kể từ năm 2010, tất cả các bang, ngoại trừ Alaska và Bắc Dakota đã tăng các khoản phí này để tăng thêm doanh thu. Trong một tuyên bố về vụ kiện chống lại Biloxi, luật sư Nusrat Choudhury của ACLU đã tóm tắt tình hình, “Đây thực sự là tống tiền bằng nhà tù. Các thành phố trên khắp đất nước, giống như Biloxi, đều đang tranh nhau gia tăng doanh thu và họ làm điều đó trên lưng của những người nghèo.”

Do giai cấp và chủng tộc có liên hệ gần gũi với nhau ở Hoa Kỳ nên sự tập trung bóp nặn người nghèo có nghĩa là nhằm vào người da màu và da nâu. Khi xem xét dữ liệu do Bộ Tư Pháp cung cấp, tờ New York Times đã phát ra ở Ferguson, nơi có 67% dân số là da màu, 83% vụ chặn xe và 93% vụ bắt giữ là nhằm vào người da màu. Một báo cáo năm 2011 của Hội Nghị Lãnh Đạo về Dân Quyền và Nhân Quyền đề cập đến sự gia tăng chủng tộc đã tiết lộ thêm về vấn đề phổ biến này. Một nghiên cứu năm 2007 ở Arizona cho thấy số người da màu, Latino, và Mỹ bản địa bị chặn xe vì “vi phạm giao thông” cao hơn rất nhiều so với lái xe da trắng. Ở Tây Virginia, một nghiên cứu năm 2009 cho thấy lái xe da màu bị chặn xe gấp 1,64 lần so với lái xe da trắng. Những nghiên cứu tương tự ở Illinois, Minesota và Texas cũng thu được kết quả tương tự. Thậm chí khi các nhà nghiên cứu tập trung hơn vào các hạt cụ thể - như những nghiên cứu ở hạt Sacramento, bang California và hạt DuPage, bang Illinois – họ cũng thấy rằng người da màu lái xe là nguyên nhân bị chặn xe. 

Đây cũng không phải là hiện tượng mới. Một điều tra của tờ Orlando Sentinel vào năm 1992 cho biết sở cảnh sát của hạt Volusia nhằm vào lái xe da màu và da nâu dọc theo đường I-95 để tống tiền dọc đường, tại đó cảnh sát sử dụng luật tịch thu tài sản dân sự - luật này cho phép cảnh sát tước đoạt tài sản cá nhân – để chiếm đoạt tiền và tài sản. Phân tích của tờ Sentinel với camera theo dõi của cảnh sát cho thấy “gần 70% vụ chặn xe là đối với người da màu hoặc Hispanic, một con số thật sự khác thường bởi vì đại đa số lái xe trên đường liên bang là da trắng.” Sở cảnh sát đã tịch thu gần 8 triệu dollar với sự bất lương đó.

Mới đây, một loạt phóng sự của tờ Washington Post cho thấy từ năm 2001 “có 61.998 vụ tước đoạt tiền mặt trên đường cao tốc và ở những nơi khác mà không có lệnh khám xét hay cáo trạng… tổng cộng là hơn 2,5 tỷ dollar.” Viết dưới bút danh Illinois, phó thống đốc Ron Hain giải thích mục đích của việc cướp bóc đúng theo nghĩa đen trên đường cao tốc là “Tất cả các thành phố quê hương của chúng ta đều đang nằm trên mỏ vàng miễn thuế.” Đàm thoại nội bộ do tờ Post thu thập đã cho thấy rằng cảnh sát và chính quyền thành phố ở Washington DC đã lên kế hoạch gia tăng doanh thu bằng cách tịch thu tài sản dân sự trong các đề án về ngân sách tương lai. 

Để tìm hiểu cách thức tịch thu diễn ra chúng ta có thể xem xét vụ việc của Ron Henderson và Jennifer Boatright, những người bản địa Texas, lái xe cùng với hai con nhỏ của Boatright từ Houston đến Linden. Sau khi dừng tại một cửa hàng tiện lợi ở thị trấn Tenaha, họ bị cảnh sát theo đuôi vài dặm trên con đường cho đến khi họ bị cảnh sát vẫy vào. Viên cảnh sát tuyên bố rằng Henderson, người Latino, đã chạy xe trên làn trái quá lâu, một kiểu biện minh hời hợt cho việc chặn xe phổ biến mang tính phân biệt chủng tộc. Sau khi khám xét xe, viên cảnh sát tịch thu 6.037 dollar, toàn bộ tiền tiết kiệm của cặp vợ chồng, họ phải đưa cho thành phố tiền nếu không họ có thể bị bắt giữ vì tội rửa tiền và gây nguy hiểm cho trẻ em. Nữ cảnh sát tuyên bố rằng sau khi họ bị kết án thì con của Boatright sẽ bị đưa vào trại nuôi dưỡng trẻ em. Trong nước mắt, Boatright đã mua lại tự do cho con của cô từ thị trấn Tehana chỉ với hơn 6.000 dollar.

Đề án tân tự do đòi hỏi tiền phải được tái phân phối từ giai cấp công nhân cho giai cấp tư sản – một trường hợp đảo ngược của Robin Hood. Một cách để làm điều này là chuyển gánh nặng của việc tài trợ cho chính quyền từ người giàu sang người nghèo. Sử dụng nhà nước cảnh sát cảnh sát quy mô lớn được phát triển trong chiến tranh chống ma túy, các chính quyền địa phương đã tìm ra phương thức sáng tạo mới để “đánh thuế” người nghèo bằng các nỗ lực hành pháp có chủ định. Do giai cấp và chủng tộc liên hệ chặt chẽ với nhau ở Hoa Kỳ nên điều này đã ngày càng khiến người da màu và da nâu rơi vào tầm ngắm của cảnh sát. Khi tổ chức cảnh sát là một thể chế bạo lực và phân biệt chủng tộc thì điều đó lại càng tạo cho cảnh sát nhiều cơ hội hơn để giết hại người da màu và da nâu. 

Đây là bi kịch cuối cùng của câu chuyện. Ở Nam Carolina, Walter Scott được vẫy vào vì là lái xe da màu và sau đó bị cảnh sát giết hại. Ở Cincinnati, Samuel Dubose bị vẫy vào vì cái mà công tố viên hạt gọi là một “chicken crap stop” [chặn xe với lý do vớ vẩn] và khi DuBose từ chối ra khỏi xe, viên cảnh sát đã bắn thẳng vào đầu ông ở cự ly gần khiến ông chết ngay lập tức. Sandra Bland bị vẫy vào ở hạt Waller, bang Texas vì tội có quá nhiều melanin trên da, khi cô phản đối sự bất hợp pháp của vụ chặn xe, viên cảnh sát kéo cô ra khỏi xe, đập đầu cô xuống đất và bắt giữ cô. Ba ngày sau cô chết ở trong nhà giam, bị những thủ phạm vô danh hành hình theo kiểu lynch – đáng ngờ nhất là cảnh sát hạt Waller. Hàng sa số các nạn nhân ít được biết đến, ở Portland, Keaton Otis bị cảnh sát vẫy vào bởi vì, theo lời viên cảnh sát bắt giữ, “người này… có bề ngoài giống như một gã côn đồ.” Otis chỉ có một lỗi vi phạm giao thông nhỏ trong hồ sơ khi viên cảnh sát bắn anh ta 23 phát đạn và giết chết anh ta.

Cảnh sát đại diện cho độc quyền bạo lực của nhà nước. Nếu chúng ta chấp nhận rằng dưới chủ nghĩa tư bản, mọi dạng nhà nước, như Marx đã nói, đều là sự chuyên chế của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân thì cảnh sát là bạo lực có tổ chức của giai cấp tư sản. Chỉ bằng cách nhìn này thì việc hệ thống cảnh sát và tòa án bóp nặn một cách có tổ chức giai cấp công nhân cùng với những hệ quả tất yếu của nó mới có thể được thấu hiểu. Nếu chúng ta chấp nhận tiên đề này thì việc xóa bỏ cảnh sát trở thành một yêu cầu cách mạng. Xóa bỏ cảnh sát đối với chúng ta là một nhiệm vụ lịch sử cũng giống như xóa bỏ chế độ nô lệ đối với công nhân Mỹ vào giữa thế kỷ 19. Cảnh sát không thể cải tổ được, chúng chỉ có thể bị xóa bỏ. 

Brian Platt is an aerospace machinist who lives in Seattle.

Thursday, June 25, 2015

Sách giáo khoa lịch sử ở Hoa Kỳ xuyên tạc về hệ thống giai cấp

Trong các cuộc tranh luận gần đây về sách giáo khoa lịch sử, những kẻ thuộc cánh tự xưng là dân chủ đã tuyên bố rằng chính quyền Việt Nam xuyên tạc lịch sử, bóp méo lịch sử để biện minh cho sự thống trị của bản thân và chỉ có những hình mẫu tự do như nước Mỹ mới có tiếng nói trung thực về lịch sử, chỉ ở đó mới có sự thật và không có nhồi sọ. Tất nhiên họ nói dối và thật không may cho họ là James W. Loewen, trong cuốn sách "Lies My Teacher Told Me" do nhà xuất bản Touchstone phát hành năm 2007, đã tố cáo điều mà họ nói là dối trá. Học sinh Mỹ ghét môn lịch sử, đó là môn học nhàm chán nhất trong số tất cả các môn học, tất cả các sách giáo khoa lịch sử dù là của tư nhân cũng đều bị kiểm duyệt chặt chẽ qua nhiều tầng nhiều lớp để nhồi vào đầu học sinh những tín điều của giai cấp thống trị bất chấp mọi sự thật. 

Giai cấp vô sản không bao giờ ngần ngại khi phải nói sự thật này: Sách giáo khoa lịch sử cũng như giáo dục lịch sử nói chung phải phục vụ giai cấp vô sản và chế độ của do những người vô sản lập lên, và chỉ có như vậy nó mới tiến bộ và phục vụ cho đa số dân chúng. Người vô sản không bao giờ cần đến những trò mị dân bịp bợm của chế độ tư bản. Người vô sản thừa nhận hệ thống giai cấp và đấu tranh để xóa bỏ hệ thống ấy, ngược lại giai cấp tư sản phủ nhận hệ thống giai cấp để duy trì hệ thống ấy, đó là sự khác biệt căn bản giữa quan điểm của hai giai cấp.

Dưới đây là bản dịch Chương 7 "Land of Opportunity" của cuốn sách nêu trên. 

Lao động có trước và độc lập với tư bản. Tư bản là chỉ là thành quả của lao động và không bao giờ có thể tồn tại nếu lao động không tồn tại trước. Lao động tốt hơn tư bản và đáng được quan tâm hơn.
—Abraham Lincoln1

Có lúc tôi đã tin rằng tất cả chúng ta là chủ nhân số phận của mình – rằng chúng ta có thể sống theo cách mà chúng ta thấy hài lòng …. Tôi đã vượt qua sự câm điếc và mù lòa để hạnh phúc và tôi cho rằng bất cứ ai cũng có thể đạt được vinh quang nếu như họ đấu tranh một cách quả quyết. Nhưng khi tôi càng biết nhiều hơn về đất nước này thì tôi hiểu rằng mình đã khẳng định thứ mà mình biết rất ít. … Tôi hiểu rằng quyền lực đang trỗi dậy trên thế giới này nằm ngoài tầm với của mọi người.
—Helen Keller2

Mười người ở nước ta có thể mua cả thế giới trong khi mười triệu người khác không đủ ăn.
—Will Rogers, 1931

Không may là lịch sử của một quốc gia quá dễ để viết như là lịch sử của giai cấp thống trị.
—Kwame Nkrumah3

Miền đất hứa

Học sinh trung học có mắt, tai và ti vi (quá nhiều người có ti vi riêng), thế nên chúng biết rất nhiều về đặc quyền tương đối ở Hoa Kỳ. Chúng so sánh vị thế xã hội của gia đình mình với gia đình khác, so sánh vị thế cộng đồng này với cộng đồng khác. Đặc biệt là học sinh của tầng lớp trung lưu biết chút ít về các thức vận hành của cấu trúc giai cấp ở Hoa Kỳ, nhưng không biết gì về việc chúng thay đổi ra sao theo thời gian. Học sinh không thể thoát khỏi sự lảng tránh của trường trung học về sự vận hành của cấu trúc giai cấp; chúng thể hiện như những nhà khoa học xã hội bàng hoàng “Tại sao người ta nghèo?” Tôi hỏi các sinh viên năm thứ nhất. Hay nếu vị thế giai cấp của họ là tương đối đặc quyền, “Tại sao gia đình em được trả lương cao?” Câu hỏi mà tôi nhận được, cho thấy sự độ lượng, thiếu chín chắn và ngây thơ của các em. Sinh viên cho rằng người nghèo đã không thành công.4 Họ không biết tại sao cơ hội không bình đẳng ở Hoa Kỳ và không có khái niệm về việc cấu trúc xã hội thúc đẩy người dân thường xuyên, tác động tới ý tưởng và cuộc sống của họ.

Sách lịch sử trung học có thể chịu một số trách nhiệm về tình trạng này. Một số sách trình bày những điểm mấu chốt của lịch sử lao động, như vụ đình công Pullman 1894 ở gần Chicago mà thống đốc Cleveland đã đàn áp bằng quân đội liên bang, hay vụ nổ súng Triangle Shirtwaist giết hại 146 phụ nữ ở thành phố New York vào năm 1911, nhưng sự kiện gần đây nhất được đề cập trong hầu hết các cuốn sách là Luật Taft-Hartley cách đây đã 50 năm. Không có cuốn sách nào đề cập tới vụ đình công của công nhân đóng gói thịt Hormel vào giữa những năm 1980 hay cuộc đình công của nhân viên kiểm soát không lưu mà tổng thống Reagan đã đàn áp. Không có sách giáo khoa nào mô tả về những vấn đề mà công nhân phải tiếp tục đối mặt, như sự tăng trưởng của các doanh nghiệp đa quốc gia và họ xuất khẩu công việc ra nước ngoài. Với điều bỏ sót đó, tác giả sách giáo khoa có thể xây dựng lịch sử lao động như những chuyện đã diễn ra từ lâu, như chiếm hữu nô lệ, chế độ chiếm hữu nô lệ đã được sửa chữa từ lâu. Như vậy suy diễn theo logic thì các công đoàn có vẻ như là chủ nghĩa vô chính phủ. Lý do cần thiết để công nhân có tiếng nói ở nơi làm việc bị lờ đi.

Sách giáo khoa mô tả các sự kiện trong lịch sử lao động không bao giờ ăn khớp với các nghiên cứu về giai cấp 5. Những thứ chỉ đáng đưa vào phần chú thích chứ không phải là bài giảng! Sáu trong số 12 cuốn sách giáo khoa lịch sử của Hoa Kỳ mà tôi kiểm tra không có từ khóa như “giai cấp”, “phân chia giai cấp”, “cấu trúc giai cấp”, “phân phối thu nhập”, “bất bình đẳng”, hay những từ dễ hiểu về chủ đề liên quan. Không sách nào liệt kê từ “giai cấp trên”, “giai cấp lao động”, hay “giai cấp dưới”. Hai sách giáo khoa liệt kê từ “giai cấp trung lưu”, nhưng chỉ để thuyết phục học sinh rằng Hoa Kỳ là quốc gia của giai cấp trung lưu, “Ngoại trừ nô lệ, hầu hết các thực dân là thành viên của “tầng lớp bậc trung””, cuốn Miền Đất Hứa viết, và nhấn mạnh vào luận điểm chúng ta là quốc gia của tầng lớp trung lưu bằng cách hỏi sinh viên “Mô tả ba giá trị của “tầng lớp trung lưu” đã thống nhất người Mỹ tự do của mọi giai cấp.” Một số sách giáo khoa đề cập sự bùng nổ của các khu ngoại ô trung lưu sau Thế Chiến thứ II. Mặc dù vậy, mô tả về tầng lớp trung lưu khó có thể tương đồng với việc bàn luận về phân chia giai cấp; trên thực tế, như Gregory Mantsios đã chỉ ra, “những tham chiếu này được chấp nhận hoàn toàn là bởi vì chúng loại bỏ sự khác biệt giai cấp.”6

Trình bày về việc chúng ta là giai cấp trung lưu ra sao hiện nay là vấn đề đặc biệt khó khăn, bởi vì tỷ lệ hộ gia đình có thu nhập từ 75% đến 125%  của thu nhập trung vị đã giảm xuống thường xuyên từ năm 1967. Các chính quyền Reagan-Bush đã gia tốc sự suy giảm của tầng lớp trung lưu và đa số hộ gia đình tụt xuống thay vì đi lên7. Đây là khuynh hướng lịch sử mà người ta cho rằng sách giáo khoa lịch sử sẽ coi là một vấn đề nghiêm trọng, nhưng chỉ có 4 trong số 12 cuốn sách đưa ra phân tích về phân chia giai cấp ở Hoa Kỳ. Mặc dù vậy phân tích về sự phân chia này chỉ tập trung chủ yếu vào thời kỳ thuộc địa. Miền Đất Hứa theo sát tiêu đề chắc chắn bằng cách bàn luận về “tiến bộ xã hội” của giai cấp. “Một trong những sự khác biệt lớn giữa xã hội thuộc địa và Châu Âu là người thuộc địa có “sự tiến bộ xã hội” lớn hơn, cuốn Truyền Thống Hoa Kỳ hưởng ứng. “Khác với Châu Âu cùng thời, Hoa Kỳ ở thế kỷ 18 là sự tỏa sáng về bình đẳng và cơ hội – với ngoại lệ xấu xa là chế độ nô lệ,” cuốn Lễ Hội Hoa Kỳ đồng thanh. Mặc dù cuốn Thách Thức của Tự Do mô tả ba giai cấp, trên, giữa và dưới – trong cộng đồng người da trắng của xã hội thuộc địa, so với Châu Âu “đó là sự tiến bộ xã hội lớn hơn”.

Không bao giờ sách giáo khoa đề cập tới những xung đột giai cấp đẫm máu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ - cuộc nổi loạn Bacon và cuộc nổi loạn của Shays – đã diễn ra trong và ngay sau thời thuộc địa. Sách giáo khoa vẫn sẽ nói rằng xã hội thuộc địa tương đối không giai cấp và đặc trưng bằng sự tiến lên. Mọi thứ trở nên lạc quan. Cuốn Thách Thức của Tự Do thuyết phục chúng ta “Vào năm 1815, hai giai cấp đã biến mất và Hoa Kỳ là quốc gia của những người trung lưu với mục tiêu của giai cấp trung lưu.” Cuốn sách này lặp lại, với khoảng thời gian 50 năm trước, về hoàn cảnh của cơ hội mở rộng ở Hoa Kỳ. “Vào những năm sau 1945, sự tiến bộ xã hội – sự biến đổi từ một giai cấp này sang một giai cấp khác – trở nên phổ biến ở Hoa Kỳ,” cuốn Thách Thức của Tự Do kết luận, “Điều này có nghĩa là mọi người có cơ hội tốt hơn để tiến lên trong xã hội. Sự khẳng định về tiến lên là mâu thuẫn. Cuốn sách giáo khoa đó không đề cập bất cứ điều gì về bất bình đẳng giai cấp hay rào cản đối với sự tiến bộ xã hội. “Đâu là điều kiện để những người nhập cư nghèo da trắng trở nên giàu có ở thuộc địa?” cuốn Miền Đất Hứa hỏi. Câu hỏi “Đâu là những điều kiện đã/đang cản trở điều đó?” lại không được đặt ra. Tác giả sách giáo khoa giới thiệu những người Mỹ, như những người thuyết giáo khoa trương của thế kỷ 19, có “nguồn gốc thấp kém” và “đạt được các vị trí cao nhất”.8

Giai cấp dường như là biến số quan trọng duy nhất trong xã hội. Từ trong trứng cho đến khi vào mộ, nó tương quan với hầu hết các đặc trưng xã hội của con người mà chúng ta có thể đo lường. Các bà mẹ sung túc có khả năng được chăm sóc thai sản, nhận được các tư vấn y khoa thường xuyên cũng như có sức khỏe, sự sung sức, dinh dưỡng nói chung. Nhiều bà mẹ thuộc tầng lớp nghèo và giai cấp lao động tiếp xúc với y tế lần đầu tiên vào tháng cuối, đôi khi là giờ cuối cùng của thai kỳ. Trẻ em giàu ra đời khỏe mạnh hơn và cân nặng hơn trẻ em nghèo. Trẻ sơ sinh về nhà với các tình trạng rất khác nhau. Trẻ em nghèo có mức độ bị nhiễm độc cao từ môi trường và trong cơ thể. Trẻ em giàu có nhiều thời gian và tương tác ngôn ngữ hơn với cha mẹ, cũng như chăm sóc chất lượng khi bố mẹ chúng đi vắng. Khi chúng đến nhà trẻ và cũng như 12 năm sau đó, trẻ em nghèo được lợi từ các trường học ngoại ô chi tiêu gấp 3 lần trên mỗi đầu học sinh so với các trường học trong nội đô hay các vùng nông thôn nghèo khổ. Trẻ em nghèo được dạy dỗ trong các lớp học lớn hơn 50% so với các lớp học của trẻ em giàu. Những sự khác biệt này giải thích tỷ lệ bỏ học cao hơn của trẻ em nghèo.

Ngay cả khi trẻ em nghèo đủ may mắn để tham gia cùng trường học với trẻ em giàu, chúng phải đối mặt với những giáo viên kỳ vọng chỉ trẻ em của gia đình giàu có biết câu trả lời đúng. Các nghiên cứu xã hội học cho thấy giáo viên thường xuyên ngạc nhiên và thậm chí là lo âu khi học sinh nghèo vượt trội. Giáo viên và các tư vấn viên tin rằng họ có thể dự đoán ai sẽ “học đại học”. Khi nhiều trẻ em của giai cấp lao động phát ra các dấu hiệu sai lầm, ngay cả ở lớp một, chúng kết thúc giai đoạn “giáo dục phổ thông” ở trường trung học* “Nếu anh là con của bố mẹ nghèo, cơ hội tốt mà anh nhận được là sự chú ý giới hạn và thường là vô tình của những người trưởng thành trong trường trung học,” theo Theodore Sizer trong nghiên cứu bán chạy nhất về trường trung học ở Hoa Kỳ, Thỏa Hiệp của Horace. “Nếu anh là con của bố mẹ có thu nhập cao và trung lưu, cơ hội tốt mà anh nhận được là sự chú ý cẩn trọng và cần thiết,” Researcher Reba Page đã cung cấp mô tả sống động về việc các khóa học lịch sử ở trường trung học Hoa Kỳ sử dụng việc học vẹt để vô hiệu hóa học sinh tầng lớp nghèo. Do vậy, trường học đưa vào thực hành khuyến nghị của Woodrow Wilson: “Chúng ta muốn một giai cấp các cá nhân được giáo dục tự do và chúng ta muốn một giai cấp các cá nhân khác, giai cấp cần thiết lớn trong mọi xã hội, từ bỏ những đặc quyền của giáo dục tự do và khép mình vào việc thực hiện những công việc chân tay đặc biệt khó khăn.”

Nếu như những sự bất bình đẳng trong đời sống gia đình và trường học này là chưa đủ, thiếu niên giàu được thu nhận vào Princeton Review hay các khóa đào tạo khác cho Kiểm Tra Dự Tuyển Học Đường (SAP). Ngay cả khi không có đào tạo, trẻ em giàu có lợi thế hơn bởi nền tảng của chúng tương tự với những người ra đề thi, chúng hợp/dễ chịu với vốn từ và những giả định văn hóa nhóm tinh vi của bài kiểm tra. Không có ai ngạc nhiên khi thấy giai cấp có mối tương quan chặt chẽ với điểm SAT. Đó là lý do khiến giai cấp dự báo tỷ lệ học đại học và loại đại học chính xác hơn so với các yếu tố khác, như năng lực trí tuệ. Sau đại học, phần lớn trẻ em giàu có nhận được công việc cổ cồn trắng, đa số trẻ em của giai cấp lao động nhận các công việc cổ cồn xanh và sự phân chia giai cấp tiếp tục. Những người trưởng thành giàu thường được thuê làm công tố viên hay thành viên của tổ chức chính thống làm gia tăng quyền lực dân sự của họ. Người nghèo phần lớn xem ti vi. Do những gia đình giàu có thể tiết kiệm tiền trong khi các gia đình nghèo phải chi tiêu hết những gì kiếm được nên sự cách biệt về của cải lớn hơn sự cách biệt về thu nhập 10 lần. Do những gia đình nghèo và giai cấp lao động không thể tích lũy đủ tiền mặt để mua nhà, họ bị mất khoản né thuế quan trọng nhất của chúng ta, xóa lãi suất cầm cố nhà. Cha mẹ thuộc giai cấp lao động không thể sống trong các nhóm thượng lưu hay thuê trông trẻ chất lượng cao, do vậy quá trình bất bình đẳng giáo dục lặp lại trong thế hệ kế tiếp. Cuối cùng, người Mỹ giàu cũng có tuổi thọ lâu hơn người thuộc giai cấp dưới và giai cấp lao động, chủ yếu là bởi vì học được chăm sóc y tế tốt hơn.13 Đó là khẳng định trong nghiên cứu của Helen Keller về mù lòa, nghiên cứu cho thấy chăm sóc y tế tồi không được phân phối ngẫu nhiên theo cấu trúc xã hội mà tập trung vào giai cấp dưới.

An sinh xã hội trở thành một hệ thống chuyển hóa khổng lồ, sử dụng tiền mà tất cả người Mỹ đóng góp để chi trả cho lợi ích không tương xứng của những người Mỹ giàu sống lâu hơn. Trên hết là giai cấp quyết định các thức mà người ta nghĩ về giai cấp. Khi được hỏi về việc sự nghèo khổ ở Hoa Kỳ là lỗi của người nghèo hay lỗi của hệ thống, 57% lãnh đạo doanh nghiệp đổ lỗi cho người nghèo; chỉ có 9% đổ lỗi cho hệ thống. Lãnh đạo lao động cho thấy sự tương phản rõ ràng trong lựa chọn ngược lại: chỉ có 15% cho rằng người nghèo có lỗi, trong khi 56% cho rằng hệ thống có lỗi. (Một số trả lời “không biết” hay chọn vị trí trung dung.) Sự khác biệt lớn nhất giữa hai đảng chính trị chủ chốt nằm ở cách thành viên của họ nghĩ về giai cấp: 55% đảng viên Cộng Hòa lên án người nghèo về sự nghèo khổ, trong khi chỉ có 13% lên án hệ thống; trái lại 68% đảng viên Dân Chủ lên án hệ thống, chỉ có 5% lên án người nghèo.14

Chỉ có ít những khẳng định nói trên là mới, tôi biết, đó là lý do tôi không mô tả chi tiết chúng, nhưng đa số học sinh trung học không biết hoặc không hiểu những ý tưởng này. Hơn nữa, quá trình đã thay đổi theo thời gian, cấu trúc giai cấp ngày nay ở Hoa Kỳ không giống với năm 1890, chưa nói tới Hoa Kỳ thuộc địa. Mặc dù vậy, cuốn Miền Đất Hứa không đề cập tới giai cấp sau năm 1670, đó là một ví dụ. Nhiều giáo viên làm vấn đề tồi tệ thêm bằng cách tránh nói về giai cấp. Phỏng vấn các giáo viên mới đây “cho thấy họ có kiến thức rộng hơn về kinh tế, cả về học thuật lẫn kinh nghiệm, so với những gì họ thừa nhận trong lớp học.” Giáo viên “thể hiện sự sợ hãi rằng học sinh có thể tìm ra sự bất công và bất bình đẳng trong các thể chế kinh tế và chính trị.”15 Bằng cách không bao giờ lên án hệ thống, khóa học lịch sử Hoa Kỳ do đó phản ánh “lịch sử của phe Cộng Hòa”. Về mặt lịch sử, giai cấp kết nối mọi dạng sự kiện và quá trình trong quá khứ của chúng ta. Hệ thống cai trị của chúng ta do những người giàu thiết lập, theo các học thuyết khẳng định rằng chính quyền là người bảo vệ giai cấp có của. Mặc dù bản thân giàu có nhưng James Madison lo ngại về sự bất bình đẳng và viết trong tập Người Liên Bang số 10 để trình bày cách thức chính quyền dự kiến không chịu ảnh hưởng của người giàu. Madison đã không hoàn toàn thành công, theo Edward Pessen, người nghiên cứu nền tảng giai cấp của các đời tổng thống Hoa Kỳ cho tới thời Reagan. Pessen đã phát hiện ra rằng hơn 40% xuất thân từ tầng lớp trên, hầu hết từ bộ phận cao nhất của nhóm thượng lưu, 15% xuất thân từ các gia đình nằm giữa tầng lớp trên và trung lưu. Hơn 25% đến từ nhóm trên của tầng lớp trung lưu, chỉ có 6 tổng thống, hay 15% đến từ tầng lớp trung lưu và nhóm dưới của tầng lớp trung lưu, chỉ có duy nhất Andrew Johnson đại diện cho tầng lớp dưới. Rất có lý do khi Pessen đặt tên cuốn sách là Ghi Chép, Huyền Thoại về Nội Các.111 Thật là đau buồn khi con tàu vĩ đại Titanic bị chìm, như một bài hát cổ lặp lại, đó là sự đau buồn lớn nhất cho tầng lớp dưới: về phụ nữ, chỉ có 4 trong số 143 hành khách hạng nhất bị chết, trong khi có 15 trong số 93 hành khách hạng hai bị chìm, cùng với 81 trong số 179 phụ nữ và thiếu nữ hành khách hạng ba chết. Thủy thủ yêu cầu hành khách hạng ba ở lại dưới hầm tàu, canh giữ một số người dưới đó bằng súng.17 Gần đây hơn, giai cấp đóng vai trò chủ chốt trong việc xác định ai sẽ tham chiến ở Việt Nam; con trai của gia đình giàu có nhận được hoãn thi hành nghĩa vụ quân sự vì lý do giáo dục và y tế trong suốt cuộc chiến.13 Sách giáo khoa và giáo viên lảng tránh tất cả những điều đó.  

Giáo viên có thể lảng tránh giai cấp để không gây tổn hại cho trách nhiệm của họ. Nếu như vậy, sự lo ngại của họ là sai lầm. Khi học sinh nghèo học về hệ thống giai cấp, họ tìm thấy kinh nghiệm giải phóng. Một khi họ thấy rõ những quá trình xã hội có thể khiến cho gia đình họ nghèo, họ có thể xóa bỏ hình ảnh tiêu cực về sự nghèo khổ của bản thân. Nếu hiểu biết là sự tha thứ thì đối với trẻ em của giai cấp lao động hiểu cách thức phân chia giai cấp diễn ra là tha thứ cho bản thân và gia đình chúng. Kiến thức về hệ thống giai cấp cũng giảm khuynh hướng lên án nạn nhân của sự nghèo khổ của giai cấp khác. Về mặt sư phạm, sự phân tầng tạo ra kinh nghiệm học tập thú vị. Học sinh ngạc nhiên khi khám phá ra các giai cấp trên giành được quyền lực lớn trong mọi vấn đề từ luật năng lượng của quốc hội cho đến quyết định được phân cấp ở các thị trấn nhỏ.

Xem xét trường hợp một học sinh da trắng lớp 9 học lịch sử Hoa Kỳ tại một thành phố mà giai cấp trung lưu thống trị ở Vermont. Cha cô buộc hàng ở Sheetrock, kiếm tiền vào mùa thấp điểm xây dựng cho gia đình tương đối nghèo. Mẹ cô lái xe bus trường học bán thời gian để phụ thêm thu nhập, thêm vào đó chăm sóc hai em gái của cô. Cô gái sống cùng gia đình trong một căn nhà nhỏ, căn nhà nghỉ mùa hè được gia cố cho mùa đông, trong khi hầu hết bạn cùng lớp của cô sống ở căn nhà ngoại ô lớn. Cô gái này hiểu gì về sự nghèo khổ của mình? Khi sách giáo khoa thể hiện quá khứ Hoa Kỳ là 390 năm tiến bộ và mô tả xã hội của chúng ta là miền đất hứa mà người dân được tưởng thưởng những gì họ xứng đáng nhận, sự thất bại không thể tránh khỏi của giai cấp lao động Hoa Kỳ trong việc thay đổi nguồn gốc giai cấp của họ đã đứng chờ trước cửa nhà.

Trong phạm vi cộng đồng giai cấp lao động da trắng, cô gái có vẻ như tìm được vài nguồn mới – giáo viên, giáo dân, thành viên gia đình – những người có thể nói với cô về anh hùng hay những cuộc đấu tranh của người dân cùng tầng lớp với cô, ngoại trừ những xung đột giai cấp đang tiếp diễn, giai cấp lao động thường xuyên quên lịch sử của bản thân. Hơn bất cứ nhóm nào khác, học sinh của giai cấp lao động da trắng tin rằng họ xứng đáng với tình trạng thấp kém. Văn hóa nhóm về kết quả đáng xấu hổ. Nhận thức tiêu cực này là điều đầu tiên trong số những thứ mà Richard Sennett và Jonathan Cobb đã gọi là “sự xúc phạm giấu mặt của giai cấp” Vài năm trước đây, hai học sinh của tôi đã thực hiện một thí nghiệm: họ lái xe quanh Burlington, Vermont, trong một chiếc xe Hoa Kỳ lớn màu đen sáng loáng, gần như mới (có lẽ là một chiếc kiểu như Lexus ngày nay) và sau đó là một chiếc xe ô tô nhỏ 10 năm tuổi móp méo. Với mỗi chiếc xe, khi họ đến đèn đỏ và nó chuyển sang xanh, họ đợi cho tới khi người khác phải bóp còi trước khi lái đi. Những người lái xe khác đợi trung bình ít hơn 7 giây để bóp còi giục họ khi họ lái chiếc xe nhỏ, nhưng với chiếc xe sang trọng thì họ phải đợi 13,2 giây cho tới khi có ai đó bóp còi. Bên cạnh việc đưa ra một lý do tốt cho việc mua xe hơi sang trọng, thí nghiệm này cũng cho thấy người Mỹ kính trọng một cách vô thức những người có giáo dục và thành công. Do những người lái xe ở mọi tầng lớp xã hội bóp còi giục chiếc xe hơi nhỏ thường xuyên hơn, lái xe thuộc giai cấp lao động đã không tôn trọng bản thân trong khi chiều ý những người giàu hơn. Lời châm biếm cay đắng “Nếu anh thông minh thì tại sao anh không giàu?” chuyển tải sự xúc phạm đối với sự tự nhận thức của người nghèo khi ý tưởng về một Hoa Kỳ có chế độ dựa trên tài năng là bất khả chiến bại ở trường học.

Một phần của vấn đề là sách giáo khoa lịch sử Hoa Kỳ mô tả giáo dục Hoa Kỳ như hệ thống tài năng trị. Một số lượng khổng lồ nghiên cứu xác nhận rằng giáo dục bị thống trị bởi cấu trúc giai cấp và vận hành để lặp lại cấu trúc này trong thế hệ tiếp theo. 20 Trong khi đó, sách giáo khoa lịch sử vô tình nói về sự hào phóng liên bang đối với giáo dục như Luật Giáo Dục Tiểu Học và Phổ Thông Cơ Sở, được thống qua dưới thời tổng thống Lyndon Johnson. Không sách giáo khoa nào cung cấp dữ liệu hay phân tích về bất bình đẳng trong phạm vi các thể chế giáo dục. Không sách giáo khoa nào đề cập về việc các trường cấp quận ở khu vực thu nhập thấp phải hoạt động với các điều kiện khắc nghiệt về tài chính kinh khủng tới mức Jonathan Kozol gọi chúng là “sự bất bình đẳng man rợ”.21 Không sách giáo khoa nào đề xuất rằng học sinh có thể nghiên cứu lịch sử của trường học và dân chúng mà trường học đó phục vụ. Chỉ có hai cuốn sách giáo khoa liên hệ giáo dục với hệ thống giai cấp để giảm nhẹ như đã thấy! Học tập “là chìa khóa của tiến bộ xã hội ở Hoa Kỳ thời kỳ hậu chiến,” theo lời của cuốn Sự Thách Thức của Tự Do 21

Khuynh hướng lảng tránh giai cấp của giáo viên và sách giáo khoa như thể đó là bí mật nhỏ bẩn thỉu chỉ củng cố thêm sự miễn cưỡng của gia đình giai cấp lao động khi nói về về chúng. Paul Cowan kể về việc phỏng vấn trẻ em của gia đình nhập cư Italia tham gia vào cuộc đình công nhà máy Lawrence nổi tiếng năm 1912, Massachusetts. Ông nói chuyện với con gái của một công nhân Lawrence, người làm chứng tại cuộc điều tra của quốc hội về vụ đình công. Người công nhân Camella Teoli, lúc đó 13 tuổi, bị cuốn tóc vào máy quay sợi ngay trước cuộc đình công và phải nằm viện nhiều tháng. Lời khai của bà “lên trang nhất của các tờ báo khắp nước Mỹ”. Nhưng con gái của Teoli, được phỏng vấn năm 1976 sau khi mẹ bà đã chết, không thể giúp gì cho Cowan. Mẹ của bà không nói gì về vụ tai nạn, không nói gì về chuyến đi tới Washington, không nói gì về sự ảnh hưởng của bà đối với lương tâm của người Mỹ - ngay cả khi hầu như hàng ngày, con gái “chải tóc cho mẹ để lộ ra những vết sẹo.” Một người có nguồn gốc giai cấp lao động kể với tôi câu chuyện tương tự về nỗi xấu hổ của ông chú “công nhân ngành thép”. Một sự phòng ngự được tạo ra trong văn hóa của giai cấp lao động; ngay cả những sự phản kháng thành công của giai cấp lao động, như vụ đình công Lawrence, cũng giả định tình trạng thấp kém và thu nhập thấp, do đó hàm chứa một sự thấp kém nhất định. Nếu  các cộng đồng lớn hơn tốt như sách giáo khoa nói với chúng ta, thì hoan nghênh hay chấp nhận hồi ức về xung đột là một kiểu không trung thành.

Sách giáo khoa không phản ánh lịch sử của người nhập cư. Khoảng cuối thế kỷ, người nhập cư thống trị giai cấp lao động đô thị Hoa Kỳ, ngay cả ở những thành phố cách xa bờ biển như Des Moines và Louisville. Khi hơn 70% dân số da trắng là người gốc bản xứ, dưới 10% giai cấp lao động đô thị là người bản xứ. Khi sách giáo khoa nói về lịch sử của người nhập cư, chúng nhấn mạnh vào Joseph Pulitzer, Andrew Carnegie và những người cùng hạng của họ - những người nhập cư đã tạo ra điều siêu tốt. Một số sách giáo khoa áp dụng câu “quấy đảo để giàu có hay miền đất hứa” cho kinh nghiệm của người nhập cư. Những thành công huyền thoại đã đạt được, chắc chắn như vậy, nhưng chúng chỉ là ngoại lệ, không phải là quy luật. 59% giám đốc điều hành và chủ ngân hàng ở Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ đến từ thành phần giai cấp trên hay nửa trên của giai cấp trung lưu. Dưới 3% bắt nguồn từ người nhập cư nghèo hay trẻ em nông thôn. Suốt thế kỷ 19, chỉ có 2% số nhà công nghiệp Hoa Kỳ có nguồn gốc từ giai cấp lao động.” Bằng cách tập trung vào những ngoại lệ đầy cảm hứng, sách giáo khoa trình bày lịch sử của người nhập cư như là một sự xác nhận đầy phấn khích về việc Hoa Kỳ là miền đất hứa tuyệt vời.

Sách giáo khoa nhấn mạnh lặp đi lặp lại về sự khác biệt giữa Hoa Kỳ và Châu Âu trong việc có ít sự phân chia giai cấp và có sự linh hoạt kinh tế và xã hội lớn hơn. Đây là một khía cạnh khác về nguyên mẫu của chủ nghĩa ngoại lệ Hoa Kỳ: xã hội của chúng ta công bằng một cách riêng biệt. Điều đó chưa từng có trong lịch sử ở Pháp hay Australia, để khẳng định rằng xã hội của chúng ta bình đẳng một cách ngoại lệ. Sự mô tả này về Hoa Kỳ có chuẩn bị cho học sinh về hiện thực? Chúng mô tả không chính xác đất nước chúng ta hiện nay. Các nhà khoa học xã hội đã nhiều lần so sánh mức độ bình đẳng kinh tế ở Hoa Kỳ với các quốc gia công nghiệp khác. Dựa theo các đo lường đã có, Hoa Kỳ xếp hạng 6/6, 7/7, 9/12 hay 14/14” Ở Hoa Kỳ, 1/5 dân số giàu nhất có thu nhập gấp 12 lần 1/5 dân số nghèo nhất, tỷ lệ cao nhất trong nhóm các nước công nghiệp: ở Anh tỷ lệ là 7:1, ở Nhật Bản chỉ là 4:1. 27 Ở Nhật Bản, một giám đốc điều hành trung bình của hãng chế tạo ô tô có thu nhập cao gấp 20 lần một công nhân trung bình trong nhà máy lắp ráp ô tô; ở Hoa Kỳ ông ta (và không phải là bà ta) có thu nhập gấp 192 lần. 28 Sự kiêu ngạo kiểu Jefferson về một quốc gia của nông dân độc lập và thương nhân đã biến mất từ lâu: chỉ có 1/13 người lao động Hoa Kỳ tự kinh doanh, so với 1/8 ở Tây Âu. 29 Do vậy, chúng ta không chỉ có ít hơn các nhà kinh doanh độc lập so với 200 năm trước đây, chúng ta còn có ít hơn so với Châu Âu hiện nay.

Khi mà sách giáo khoa khẳng định rằng Hoa Kỳ thuộc địa có ít sự phân chia giai cấp hơn Châu Âu thì chúng cũng phải trình bày cho độc giả khi nào sự bất bình đẳng xuất hiện. Chắc chắn đó không phải là sự phát triển mới đây. Vào năm 1910, 1% giàu nhất của dân chúng Hoa Kỳ chiếm hơn 1/3 tổng số thu nhập cá nhân, trong khi 1/5 nghèo nhất chỉ chiếm 1/8 tổng thu nhập cá nhân.50 Mức độ bất bình đẳng ngang với Đức hay Anh.31 Nếu sách giáo khoa thừa nhận sự bất bình đẳng, chúng có thể mô tả sự thay đổi trong cấu trúc giai cấp theo thời gian, sẽ dẫn dắt học sinh vào các tranh luận lịch sử hấp dẫn.32

Ví dụ, một số nhà sử học lập luận rằng sự giàu có ở xã hội thuộc địa được phân phối bình đẳng hơn hiện nay và sự bất bình đẳng kinh tế đã gia tăng dưới thời tổng thống Andrew Jackson – thời kỳ được nhận định một cách nực cười là thời đại của người bình thường. Những người khác tin rằng sự phát triển của doanh nghiệp lớn vào cuối thế kỷ 19 đã làm cho cấu trúc giai cấp cứng nhắc hơn. Walter Dean Burnham lập luận rằng chiến thắng bầu cử tổng thống của phe Cộng Hòa vào năm 1896 (McKinley đánh bại Bryan) mang tới một làn sóng tái liên kết chính trị biến “chế độ dân chủ công bằng thành một chế độ tài phiệt”, do đó vào những năm 1920 doanh nghiệp kiểm soát chính sách công. 35 Khoảng cách rõ ràng giữa giàu và nghèo, như khoảng cách giữa người da màu và da trắng, lớn hơn vào cuối Kỷ Nguyên Tiến Bộ vào năm 1920 so với khi bắt đầu vào năm 1890. Lịch sử không phải chỉ có sự gia tăng phân tầng, giữa suy thoái và cuối chiến tranh thế giới thứ II, thu nhập và của cải ở Hoa Kỳ đã trở lại bình đẳng hơn. Sự phân phối thu nhập được duy trì hợp lý cho tới khi tổng thống Reagan nhậm chức vào năm 1981, khi sự bất bình đẳng bắt đầu tăng lên. Vẫn có những học giả khác cho rằng chỉ có thay đổi nhỏ kể từ Cách Mạng. Ví dụ, Lee Sokow phát hiện ra “sự bất bình đẳng thu nhập và của cải đáng ngạc nhiên” ở Hoa Kỳ vào năm 1798. Ít nhất là đối với Boston, Stephan Thernstrom kết luận rằng sự bất bình đẳng trong cơ hội sống của hai giai cấp cho thấy sự tiếp diễn kỳ lạ. 36 Tất cả đều là một phần của lịch sử Hoa Kỳ, nhưng không phải là lịch sử Hoa Kỳ được dạy ở trường trung học.

Đối với các nhà khoa học xã hội, mức độ bất bình đẳng là điều quan trọng cần biết về xã hội. Khi chúng ta xếp hạng các quốc gia theo biến số này, chúng ta thấy các quốc gia vùng Scandinavia ở trên đỉnh, bình đẳng nhất, và các xã hội nông nghiệp như Colombia và Ấn Độ ở gần dưới cùng. Chính sách của chính quyền Reagan và Bush, công khai phục vụ cho người giàu, tiếp tay cho khuynh hướng sẵn có, gây ra sự gia tăng đáng kể của bất bình đẳng từ năm 1981 đến năm 1992. Đối với Hoa Kỳ thì việc tiến tới vị trí của Colombia về bất bình đẳng xã hội không phải là vấn đề nhỏ. Chắc chắn là học sinh trung học muốn được học về việc vào năm 1950 các nhà vật lý học có thu nhập gấp 2,5 lần công nhân công nghiệp tham gia nghiệp đoàn nhưng giờ thì sự chênh lệch là 6 lần. Chắc chắn chúng cần phải biết rằng quản lý cấp cao của các doanh nghiệp may mặc, thường có thu nhập gấp 50 lần người lao động Mỹ bình thường, hiện giờ có mức lương cao gấp 1.500 lần so với công nhân Malaysia của họ. Việc giáo viên và sách giáo khoa lịch sử của chúng ta che dấu thông tin lịch sử có thể thúc đẩy và nuôi dưỡng các tranh luận về những khuynh hướng đã nêu chắc chắn là sai lầm.

Tại sao họ làm điều ngớ ngẩn này? Trước tiên và trên hết là việc nhà xuất bản kiểm duyệt các tác giả sách giáo khoa. “Nếu anh nói về giai cấp thì sẽ luôn có rủi ro bị chụp mũ là Marxist,” biên tập viên nghiên cứu xã hội và lịch sử của một trong những nhà xuất bản lớn nhất nói với tôi. Biên tập viên này nói về điều cấm kỵ, chính thức hay phi chính thức đối với mọi tác giả hợp tác với cô và cô ngụ ý rằng hầu hết các biên tập viên khác cũng làm như vậy.

Sức ép của các nhà xuất bản cũng bắt nguồn từ các hội đồng và ủy bản chấp nhận sách giáo khoa ở bang và quận. Những đối tượng này lại chịu sức ép từ các nhóm có tổ chức và các cá nhân khác xuất hiện trước họ. Dĩ nhiên, sự vận động mạnh mẽ nhất là tổ chức Nhà Nghiên Cứu Phân Tích Giáo Dục do Mel Gabler lãnh đạo. Quan điểm phê phán cánh hữu kiên quyết của Gabler về việc một cuốn sách có nội dung phân tích giai cấp có sức tàn phá ghê ghớm. Như một tác giả đã viết, “Trình bày vấn đề với các khái niệm giai cấp là không thể chấp nhận được, thậm chí ngay cả với những gì không thuộc về nước Mỹ.” Nỗi lo sợ không được chấp nhận ở Texas là vấn đề lo ngại chủ yếu của nhà xuất bản và có thể giải thích tại sao cuốn sách Cuộc Sống và Tự Do mô tả Hoa Kỳ là “một xã hội bất công”, bất công đối với các nhóm kinh tế thấp hơn, không bao giờ được chấp nhận. Sức ép đó cũng mới xuất hiện. Cuốn sách Dẫn Nhập về Vấn Đề của Văn Hóa Mỹ và sách giáo khoa lịch sử nổi tiếng của Harold Rugg, được viết vào thời suy thoái, vẫn có một số phân tích giai cấp. Vào đầu những năm 1940, theo Frances FritzGerald, Hiệp Hội Các Nhà Chế Tạo Quốc Gia đã tấn công cuốn sách của Rugg, một phần vì vấn đề giai cấp và “đưa đến sự kết thúc” của phân tích xã hội và kinh tế trong sách giáo khoa lịch sử Hoa Kỳ.40

Ảnh hưởng của các giai cấp trên thường là không trực tiếp. Hình mẫu hợp lý cho đặc quyền giai cấp trong lịch sử Hoa Kỳ là chủ nghĩa Darwin về xã hội, một nguyên mẫu vẫn còn sức ảnh hưởng lớn trong văn hóa Hoa Kỳ. Khái niệm con người phát triển và thất bại chỉ là đấu tranh sinh tồn của những cá thể thích nghi nhất có thể không phù hợp với dữ liệu về sự biến đổi đa thế hệ ở Hoa Kỳ, nhưng khó có thể loại bỏ hình mẫu ấy khỏi giáo dục Hoa Kỳ, nhất là khỏi các lớp học lịch sử Hoa Kỳ. Sự thật không phù hợp với hình mẫu này, như toàn bộ bài giảng về phân chia giai cấp, đơn giản là bị bỏ qua.

Tác giả sách giáo khoa có thể không cần phải chịu sức ép từ nhà xuất bản, cánh hữu, giai cấp trên, hay các hình mẫu văn hóa để lảng tránh sự phân chia giai cấp. Trong quá trình anh hùng hóa, tác giả sách giáo khoa mô tả nước Mỹ như là một anh hùng, thực sự là một anh hùng trong sách của họ, nên họ phải loại bỏ các khuyết tật của nước Mỹ, họ khó có thể chấp nhận một lý thuyết công bằng xã hội giải thích lý do cho việc 1% dân số kiểm soát tới 40% của cải. Có khi nào 99% còn lại trong số chúng ta lười biếng hoặc không được tưởng thưởng xứng đáng? Để đề cập một số cơ chế - học tập không bình đẳng và tương tự - nhờ vào nó mà giai cấp trên tiếp tục thống trị rõ ràng là sẽ khơi dậy sự phê phán đối với đất nước đáng yêu của chúng ta. Vì bất kỳ lý do nào thì sách giáo khoa cũng tối thiểu hóa sự phân chia giai cấp.

Sau đó họ làm một điều rất khó hiểu: họ không giải thích lợi ích của doanh nghiệp tự do. Viết về các thế hệ sách giáo khoa trước đây, Frances FritzGerald đã chỉ ra rằng sách giáo khoa bỏ qua “đức hạnh cũng như sự đồi bại của hệ thống kinh tế của chúng ta.”42 Giáo viên có thể đề cập tới doanh nghiệp tự do với sự tôn trọng, nhưng hiếm khi từ ngữ vượt quá một khẩu hiệu.45 Sự chểnh mảng này rất kỳ lạ nhưng mang lại lợi thế cho chủ nghĩa tư bản. Ngôi sao bóng rổ Michael Jordan, giám đốc điều hành Lee Iacocca của Chrysler, nhà làm kem Ben và Jerry đều giàu có nhờ vào việc cung cấp hàng hóa mà con người thèm muốn. Chắc chắn là không thể đánh giá sự phân chia giai cấp ngắn gọn như vậy, bởi vì những người có lợi thế lạm dụng lạm dụng của cải và quyền lực để ngăn tiếng nói của những người không có lợi thế. Trong trật tự xã hội và kinh tế, hệ thống tư bản đưa ra nhiều thứ để chỉ trích cũng như nhiều thứ để tán dương. Nước Mỹ là miền đất hứa cho nhiều người. Trên hết là sự xuyên tạc mà chủ nghĩa tư bản áp đặt cho nó, dân chủ cũng có lợi ích từ việc tách biệt quyền lực giữa phạm vi công cộng và cá nhân. Sách giáo khoa lịch sử của chúng ta không bao giờ đả động đến những lợi ích này.

Các nhà xuất bản hay những người ảnh hưởng tới họ đã kết luận thẳng thắn rằng điều mà xã hội Hoa Kỳ cần phải dứt khoát là công dân tán thành cấu trúc xã hội và hệ thống kinh tế không cần suy nghĩ. Hệ quả là sách giáo khoa ngày nay bảo vệ hệ thống kinh tế của chúng ta vô điều kiện, với lòng trung thành không thể dung thứ về sự không phân chia giai cấp độc đáo; do vậy họ khiến cho học sinh khóa học lịch sử Hoa Kỳ không thể phê phán hay bảo vệ hệ thống phân chia giai cấp một cách thành thạo. Nhưng không phải là tốt khi tin rằng Hoa Kỳ bình đẳng sao? Có thể hình mẫu “miền đất hứa” là một huyền thoại được củng cố - có thể việc tin vào nó sẽ biến nó thành sự thật. Nếu như học sinh nghĩ rằng bầu trời là giới hạn, họ có thể chạm vào bầu trời, nếu họ không tin thì họ sẽ không làm.

Sự tương tự về giới tính cho thấy vấn đề với luồng tư duy này. Làm sao nữ sinh trung học hiểu vị trí của họ trong lịch sử Hoa Kỳ khi mà sách giáo khoa lịch sử nói với họ rằng, từ thời thuộc địa tới nay, phụ nữ có cơ hội bình đẳng để phát triển và tham gia vào chính trị? Nữ sinh có thể suy luận, dĩ nhiên là vô thức, rằng đó là sai lầm của giới tính, một kết luận khó có thể chấp nhận.

Sách giáo khoa phải trình bày về việc phụ nữ bị từ chối quyền bầu cử ở nhiều bang cho tới năm 1920 và đối mặt với nhiều rào cản phát triển. Sách giáo khoa cũng phải trình bày về những rào cản đối với các nhóm dân tộc thiểu số. Câu hỏi cuối cùng mà Miền Đất Hứa hỏi học sinh sau phần “Tiến Bộ Xã Hội” là “Đâu là rào cản ngăn người da đen, bản địa và phụ nữ cạnh tranh một cách bình đẳng với thực dân da trắng?” Sau đoạn tán dương tiến bộ của nó. Cuốn Thách Thức của Tự Do viết, “Mặc dù vậy, không phải tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng hay cơ hội bình đẳng để cải thiện cuộc sống của họ,” và tiếp tục mô tả các vấn đề về phân biệt giới tính và chủng tộc. Nhưng không khi nào và ở đâu cuốn Miền Đất Hứa hay Thách Thức của Tự Do (hay đa số các sách giáo khoa khác) gợi ý rằng cơ hội có thể không bình đẳng đối với người da trắng của giai cấp dưới và giai cấp lao động hiện nay.44 Dĩ nhiên, kết quả là ngay cả các lãnh đạo doanh nghiệp và phe Cộng Hòa, những người trả lời phỏng vấn khảo sát làm cái việc mà các nhà khoa học xã hội gọi là “lên án nạn nhân”, lên án hệ thống xã hội hơn là người Mỹ gốc Phi về sự nghèo khổ của người da màu và lên án hệ thống hơn là phụ nữ về những kết quả không bình đẳng ở nơi làm việc. Nói tóm lại, người Mỹ giàu, giống như sách giáo khoa của họ, sẵn sàng coi phân biệt chủng tộc là nguyên nhân của sự nghèo khổ của người da màu, bản địa và phân biệt giới tính là nguyên nhân của sự bất bình đẳng của phụ nữ nhưng không coi sự phân biệt giai cấp là nguyên nhân của sự nghèo khổ nói chung.45

Hơn nhiều so với toán hay khoa học tự nhiên, hơn cả văn học Hoa Kỳ, các khóa học lịch sử Hoa Kỳ hứa hẹn sẽ nói với học sinh trung học về cách thức họ, cha mẹ, cộng đồng và xã hội phát triển. Trừ một điều là sự bất bình đẳng bởi giai cấp. Mặc dù trẻ em giai cấp lao động và nghèo thường không thể xác định nguyên nhân sự tha hóa của chúng, lịch sử thường vô hiệu hóa điều đó bởi vì nó biện minh hơn là giải thích hiện tại. Khi học sinh phản ứng bằng cách bỏ học, về mặt trí tuệ hay thể chất, kết quả học tập nghèo nàn của chúng sẽ thuyết phục chúng cũng như những người cùng tuổi với chúng về một sự đánh giá nhanh chóng hơn rằng hệ thống là dựa trên tài năng và chúng thiếu tài năng. Cuối cùng, sự thiếu vắng phân tích giai cấp trong môn học lịch sử Hoa Kỳ là một cách để sắp đặt giáo dục ở Hoa Kỳ chống lại giai cấp lao động.

Chú thích:

Bản scan của cuốn sách mà tôi có bị lược bỏ phần chú thích nên tạm thời chưa thể dịch, khi tìm được phần chú thích thì tôi sẽ dịch và bổ sung sau.

Wednesday, May 20, 2015

Mười sự thật đáng phiền lòng về Baltimore

Sự nghèo khổ sinh ra từ sự giàu có, đó là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Nước Mỹ giàu có thì cũng luôn có những nơi như Baltimore. Những ngày này người ta được biết đến bạo loạn ở Baltimore được đưa tin trên truyền thông nhưng theo dõi bản dịch "Ten disturbing facts about Baltimore" của tác giả Bill Quigley thì có lẽ bạn sẽ hình dung được những đau khổ thường nhật mà người dân ở Baltimore phải đối mặt. Bài viết được đăng trên tạp chí ColdType số 98 tháng 5 năm 2015.

Mười sự thật đáng phiền lòng về Baltimore

Bạn bị sốc về rối loạn ở Baltimore? Điều gì gây sốc hơn trong đời sống thường ngày ở Baltimore, một thành phố 622.000 dân có 63% là người Mỹ gốc Phi? Đây là 10 con số cho thấy một vài câu chuyện. 

5: Người da màu ở Baltimore có nguy cơ bị bắt vì tàng trữ ma túy cao gấp 5,6 lần người da trắng ngay cả khi việc sử dụng ma túy ở cả hai chủng tộc là tương đương nhau. Hạt Baltimore có tỷ lệ bắt giữ vì tàng trữ ma túy cao thứ năm ở Hoa Kỳ.

5.7: Hơn 5,7 triệu dollar đã được Baltimore thanh toán kể từ năm 2011 trong hơn 100 vụ kiện cảnh sát bạo lực. Nạn nhân của các vụ bạo lực của cảnh sát hầu hết là người da màu và có cả phụ nữ mang thai, một người trợ tế nhà thờ 65 tuổi và một bà lão 87 tuổi.

6: Trẻ sơ sinh da trắng ở Baltimore có triển vọng sống lâu hơn trẻ sơ sinh Mỹ gốc phi ở thành phố 6 năm.

8: Người Mỹ gốc phi ở Baltimore chết vì biến chứng của bệnh HIV/AIDS cao hơn 8 lần so với người da trắng và chết vì các nguyên nhân liên quan đến bệnh tiểu đường cao gấp hai lần so với người da trắng.

8.4: Tỷ lệ thất nghiệp của thành phố là 8,4%. Đa số các ước lượng đều cho thấy tỷ lệ thất nghiệp ở người Mỹ gốc phi cao gấp hai lần người da trắng. Tỷ lệ thất nghiệp quốc gia đối với người da trắng là 4,7%, còn đối với người da màu là 10,1%.

9: Trẻ sơ sinh Mỹ gốc Phi ở Baltimore chết trước khi tròn một tuổi cao gấp 9 lần trẻ sơ sinh da trắng.

20: Là 20 năm chênh lệch trong tuổi thọ trung bình giữa những người sống trong các khu dân cư giàu có nhất ở Baltimore so với những người sống cách đó 6 dặm trong khu nghèo khổ nhất.

23.8: 148.000 người, hay 23,8% số người ở Baltimore, sống dưới mức nghèo khổ chính thống.

56: 56,4% số học sinh tốt nghiệp trung học ở Baltimore. Tỷ lệ quốc gia là khoảng 80%.

92: 92% các vụ bắt giữ vì tàng trữ ma túy ở Baltimore là người Mỹ gốc Phi, một trong những tỷ lệ chênh lệch về chủng tộc cao nhất ở Hoa Kỳ.

Bill Quigley is a human rights lawyer and professor at Loyola University New Orleans College of Law. He is also a member of the legal collective of School of Americas Watch, and can be reached at quigley77@gmail.com

Saturday, November 29, 2014

Bí mật đen tối của Hội Thẩm Công Tố

Nhiều bạn đọc ở Việt Nam hiểu nhầm phán quyết trong vụ bắn chết thanh niên da màu ở thành phố Ferguson là quyết định trắng án của tòa án, hoặc không truy tố của tòa án. Hệ thống tư pháp Mỹ có điểm khác với Việt Nam, một vụ án trước khi được truy tố bởi công tố viên thì phải đưa ra xem xét tại "grand jury", một dạng hội thẩm công tố, để xem xét các bằng chứng xem có đủ điều kiện truy tố không, sau đó mới là truy tố của công tố và cuối cùng tòa án mới xét xử. Tòa án không liên quan gì đến grand jury cả, do vậy phán quyết của grand jury cũng không phải là phán quyết của tòa án. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "The secret darkness of grand jury" của tác giả Lauren C. Regan, một chuyên gia về luật Hoa Kỳ, để hiểu rõ hơn khái niệm hội thẩm công tố và lý do khiến cho hầu hết các vụ cảnh sát bắn chết thường dân không bị đưa ra truy tố. 

Bí mật đen tối của Hội Thẩm Công Tố

Suốt 17 năm qua tôi đã đại diện cho rất nhiều và rất nhiều khách hàng bị gọi đến làm nhân chứng ở Hội Thẩm Công Tố Bang và Liên Bang trong các điều tra của chính quyền. Hội Thẩm Công Tố là một tòa án bí mật mà tại đó một công dân buộc phải trả lời các câu hỏi của công tố viên, thường là trái với ý muốn của họ. Họ không được phép có luật sư tại phòng hội thẩm công tố để tham vấn khi các câu hỏi được đưa ra. Không có quan tòa tại phòng hội thẩm công tố để theo dõi sự công bằng hay hợp hiến của quá trình. Công tố viên tự mình quyết định bằng chứng nào sẽ được cung cấp cho hội thẩm viên, và đó là cách thức duy nhất làm cơ sở cho cuộc tranh luận và quyết định của về việc một cáo trạng nghiêm trọng sẽ được đưa ra. Công tố viên trở thành bạn của hội thẩm viên: Ông ta kiểm soát giờ nghỉ tắm, ăn, và khi nào họ có thể quay lại với công việc, gia đình cũng như cuộc sống. Công tố viên, một vị trí được lựa chọn chính trị, rất gần gũi với cảnh sát hàng ngày và nói chung có thiên vị đối với cảnh sát do mối quan hệ thân thuộc đó. Công tố viên có quyền lực rất lớn đối với kết quả làm việc của hội thẩm công tố. 

Là một luật sư cho những nhân chứng được gọi, mối lo ngại đầu tiên là khách hàng của tôi có tự ràng buộc trách nhiệm phải cung cấp lời khai cho hội thẩm công tố không. Bởi vì hội thẩm công tố là một quá trình bí mật, câu trả lời cho những câu hỏi hầu hết là có, có khả năng là một cá nhân được gọi đến để làm chứng và đưa ra các thông tin khiến cho cá nhân đó bị truy tố hình sự. Trong trường hợp này, nhân chứng được khuyến nghị là họ phải vận dụng quyền trong Tu Chính Án Thứ Năm để giữ im lặng, do vậy sẽ họ sẽ không ràng buộc bản thân vào một tội ác. Cách duy nhất để công tố viên vượt qua quyền cá nhân trong Tu Chính Án Thứ Năm là áp dụng miễn truy tố cho người được gọi. Nếu miễn truy tố được áp đặt thì quyền trong Tu Chính Án Thứ Năm bị xóa bỏ và họ buộc phải khai. Nhưng, khi đưa ra việc miễn truy tố, nhà nước thừa nhận rằng họ không cho phép truy tố nhân chứng về bất cứ tội ác nào liên quan đến lời khai.

Đây là điều căn bản và hiểu biết khiến tôi nghi ngờ về hội thẩm công tố mới đây xử lý vụ Darren Wilson, sĩ quan cảnh sát đã sát hại thanh niên 18 tuổi Michael Brown ở Ferguson, bang Missouri. Nếu một cá nhân bị điều tra vì tội giết người, liệu họ (trong nhận thức về quyền lợi) có tự nguyện khước từ quyền trong Tu Chính Án Thứ Năm và khai với hội thẩm công tố mà không được miễn truy tố hay có một số dạng thỏa thuận khác với nhà nước đảm bảo cho các sĩ quan bị tình nghi rằng lời khai của họ sẽ không được sử dụng để truy tố họ về một trong những tội đặc biệt nghiêm trọng của quốc gia? Nếu thỏa thuận kiểu đó không được bí mật đưa vào quy trình hội thẩm công tố, điều dễ diễn ra là công đoàn cảnh sát đầy thế lực hoặc luật sư của Wilson sẽ vận dụng quyền theo Tu Chính Án Thứ Năm của anh ta. Bởi vì công tố viên hoàn toàn kiểm soát các câu hỏi được đặt ra và bằng chứng được cung cấp cho hội thẩm công tố, không có gì ngạc nhiên khi như thường lệ, nhà nước đảm bảo kết quả mà họ muốn – sĩ quan cảnh sát sẽ lại tiếp tục thoát khỏi tội sát nhân.

Chắc chắn, nhà nước cảm thấy buộc phải triệu tập một hội thẩm công tố cho vụ giết người gây ra giận dữ và sự chú ý khắp thế giới này. Và chắc chắn là mời Darren Wilson tới hội thẩm công tố tuyên bố sự vô tội cũng như khiển trách anh ta là để làm ra vẻ nhà nước “thực sự” điều tra vụ giết người. Tán dương hoạt động của các hội thẩm viên là một cách đánh lạc hướng tốt, nhưng dĩ nhiên là không phải lỗi của của các hội thẩm viên mà hệ thống hội thẩm công tố bị hỏng. Nếu các hội thẩm viên chỉ được phép đụng chạm từng phần giống như thầy bói xem voi, thì khó mà có thể biết con voi ra sao.

Do vậy, một cảnh sát sát nhân không bao giờ được nhìn thấy dưới ánh sáng của phòng hội thẩm, trái lại sẽ ẩn nấp trong bóng tối của phòng hội thẩm công tố đầy thiên vị

Kịch bản này đã diễn ra rất nhiều lần ở Hoa Kỳ. Những người ngoài lề (bất kể là da đen, bệnh tâm thần, nghèo, vân vân) bị sĩ quan lực lượng hành pháp đã tuyên thệ duy trì luật pháp và bảo vệ an toàn của cộng đồng bắn và giết hại. Cộng đồng phản ứng với sự kinh hoàng, sợ hãi và tức giận với việc giết hại một nạn nhân mà họ biết hay có liên quan. Nhà nước tạo ra một số khung điều chỉnh như thể là họ thực sự quan tâm đến việc cá nhân này – một trong số ít có quyền giết người hợp pháp với các điều kiện nghiêm ngặt – hành động thích nghi với luật pháp. Trái ngược với số lượng các vụ sát hại của cảnh sát đang gia tăng ở quốc gia này; có thể nghi ngờ rằng các kết luận của nhà nước chủ yếu là để giải tội cho các hành động của sĩ quan cảnh sát và xác nhận quyền được trừng phạt một cá nhân bằng cái chết của họ. Cộng đồng phản ứng trong sự phẫn nộ. Biểu tình và các hành động trực tiếp đã trở thành cách duy nhất mà người dân giải tỏa thịnh nộ và oán giận đối với hệ thống hư hỏng và bất công. Sự phẫn nộ của công chúng trở thành lý do để gia tăng sự đàn áp của nhà nước đối với cộng đồng – quân sự hóa cảnh sát, Vệ Binh Quốc Gia cũng như bỏ tù các lãnh đạo cộng đồng. Cộng đồng thường xuyên bị chia rẽ và chia cắt giữa những người không thể tiếp tục hối lỗi trên mặt vì sự bất công đó, những người tiếp tục tuân thủ các tá điền trong cuộc bất tuân dân sự của Ghandi, với những người có đặc quyền cho phép họ vùi đầu vào cát.

Một thanh niên da màu khác bị chết. Một cảnh sát sát nhân khác tiếp tục được thuê để bảo vệ và phục vụ cộng đồng mà anh ta đã phá hủy. Một hệ thống hư hỏng được duy trì mà không hề thảo luận về việc thay thế nó. Trái lại, thảm kịch tương tự tiếp tục tái diễn, dĩ nhiên “nhân dân chúng ta” sẽ phải đặt ra một giải pháp xã hội có thể đem lại sự tôn trọng nhân dân.

Lauren Regan is the founder and executive director of the Civil Liberties Defense Center (CLDC). Ms. Regan operates a public interest law firm, The Justice Law Group, specializing in constitutional law, civil rights, and criminal defense. She is a founding board member and past president of the Cascadia Wildlands. She also serves as a Lane County Teen Court judge, Oregon State Bar Leadership Fellow, National Lawyers Guild, Eugene co-chair, and volunteers hundreds of hours a year to various progressive causes.

Thursday, November 6, 2014

Những người thầy tốt nhất mà tôi từng có

Người ta thường được nghe các hùng biện đề cao giáo dục, coi giáo dục là con đường thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, con đường để trở nên giàu sang và hạnh phúc. Ảo tưởng tư sản thường được tiếp sức bằng câu chuyện kiểu Fukuzawa vẽ nên một tương lai nhờ học hành mà trở thành tầng lớp thượng lưu trong xã hội. Nhưng đối với giai cấp vô sản, không có điều kiện để học hành thì cuộc sống là trường học đồng thời là nơi thực hành của họ, những người xung quanh là thầy dạy của họ. Thứ mà họ học được không phải là cách trở nên giàu có hay giành được địa vị cao trong xã hội mà là đấu tranh để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch "The Best Teachers I Ever Had" của tác giả Bill Quigley để biết những người nghèo ở Hoa Kỳ đã tự giáo dục mình ra sao.

Những người thầy tốt nhất mà tôi từng có

Tôi thường sống và làm việc tại Nhánh Người Ireland ở Nhà Hy Vọng của New Orleans. Tôi làm việc với những người sống trong Cơ Sở Phát Triển Nhà Ở St. Thomas. Hơn 1500 hộ gia đình sống trong các tòa nhà bằng gạch xếp chiếm ba trong số bốn khối nhà của khu vực mà hiện nay là khu chung cư River Garden.

Một số sơ dòng Catholic sống ở St. Thomas muốn tôi tham gia cùng với họ trong việc chăm sóc người nghèo và tôi đã đồng ý. Một trong các sơ nhận được một khoản lương nhỏ cho việc dạy tôn giáo ở Học Viện Mercy. Bà nói với tôi rằng bà sẽ đưa cho tôi khoản lương 250 dollar đó nếu tôi tham gia cùng với họ. 

Tôi biết giảng dạy xã hội của đạo Catholic ưu tiên cho việc giúp đỡ người nghèo, nên tôi đã tham gia cùng với họ để giúp đỡ mọi người.

Tôi đã làm việc với những sơ đó và các gia đình trong cộng đồng vài năm trước khi tôi đi học ở trường luật. Tôi giúp đỡ khi có ai đó bị ốm và cần giúp đỡ để đến bệnh viện, với trách nhiệm thu thập các hóa đơn và điền chúng vào các bản kê khai của chính quyền.

Tôi cũng hợp tác chặt chẽ với các bà mẹ và các bà nội/ngoại, những người đã lập ra hội đồng dân cư. Những phụ nữ này thường là chủ gia đình, phần lớn chỉ kiếm được rất ít tiền hoặc không kiếm được đồng nào từ các công việc có mức lương tối thiểu, trợ giúp công cộng hay an sinh xã hội. Họ nuôi dạy con cháu và thường là các cháu nội/ngoại với rất ít tiền trong một môi trường tương đối cam go.

Sau nhiều tháng, tôi bắt đầu hiểu rằng những người phụ nữ mà tôi trợ giúp đang sống một cuộc sống anh hùng. Họ có rất ít tiền, không xe hơi, không tài khoản tiết kiệm và đầy gánh nặng trách nhiệm. Mặc dù vậy họ rất sùng tín, rất tích cực trong cộng đồng, bỏ nhiều thời gian để nuôi dạy trẻ em và rất sẵn sàng dấn thân cũng như giúp đỡ người khác.

Phần lớn mọi người không biết đến những cư dân này do những người kém may mắn đó là người Mỹ gốc Phi và họ không sống trong “dự án”.

Thậm chí sau một ngày mệt mỏi chăm sóc những trẻ nhỏ, đưa những trẻ lớn hơn tới trường và đón về, tìm cách mặc cả để ngân sách nhỏ bé của họ vừa đủ, giặt giũ, làm các công việc nhà thờ và cầu nguyện, dọn dẹp và nhiều việc khác, họ sẵn sàng tới cuộc họp ở Nhà Hy Vọng hay St. Alphonsus để học chương trình giáo dục phổ cập (GED), cùng với những người khác dọn dẹp trong cộng đồng hay tuần hành đòi cải thiện nhà ở hoặc quyền bầu cử. 

Tôi hỗ trợ họ bởi vì tôi có thể đọc và viết tốt hơn họ. Nhưng tôi cũng học được rất nhiều điều về sự quan trọng của gia đình, sự rộng lượng, tính quyết đoán, sự can đảm, chia sẻ và lòng thành kính.

Tôi hiểu rằng những bà mẹ và bà nội/ngoại đó đang dạy và truyền cảm hứng cho tôi. Tôi giúp đỡ họ nhưng họ cũng giúp đỡ tôi.

Đây là câu thành ngữ của người dân bản địa Australia, “Nếu bạn phải tới giúp tôi thì bạn đang lãng phí thời gian. Nhưng nếu bạn phải tới bởi vì tự do của bạn được ràng buộc với tôi, thế thì chúng ta hãy cùng đấu tranh”. 

Tôi tới St. Thomas để giúp đỡ những người nghèo. Nhưng tôi ở lại đó bởi vì tôi thấy rằng mình cần tự do cũng như họ cần. Bằng cuộc sống của bản thân, họ đã dạy tôi về tự do, hy vọng và tình yêu. Những bà mẹ và bà nội/ngoại là những người thầy tốt nhất mà tôi từng có. Chúng tôi đã cùng nhau hoàn thành việc đấu tranh cho công lý.

Bill Quigley là giảng viên tại trường Luật của đại học Loyola New Orleans.


Wednesday, October 22, 2014

Hoa Kỳ: Cảnh sát bảo vệ hay xâm lược cộng đồng?

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Ferguson Killing Exposes the Reality Of Militarized, Racist Policing directed against African Americans" của hai tác giả Kevin Zeese and Margaret Flowers bình luận về chính sách quân sự hóa cảnh sát ở Hoa Kỳ sau sự kiện ở thành phố Ferguson. Tiêu đề bài viết do người dịch đặt.

Vụ giết người ở Ferguson cho thấy hiện thực phân biệt chủng tộc và quân sự hóa cảnh sát trực tiếp chống lại người Mỹ gốc Phi

Vụ giết hại Michael Brown do một sĩ quan cảnh sát, người được xác định vào thứ sáu là Darren Wilson, và cuộc bạo động trong đó cảnh sát vũ trang và bạo lực được sử dụng để đối phó với người biểu tình ôn hòa cũng như phóng viên cho thấy những thứ đã được tích tụ trong suốt nhiều năm. Nhiều người đã viết về quân sự hóa cảnh sát và tác động bất thường của nó đối với người da màu, nhưng giờ đây nhiều người Mỹ hơn đã được chứng kiến sự thật đó và không thể thoát khỏi nó.

Michael Brown là một trong số bốn người da đen không có vũ trang bị cảnh sát giết hại vào những tháng trước. Vào ngày 17 tháng 7, Eric Garner bị giết bằng một đòn khóa bất hợp pháp ở New York. Vào ngày 5 tháng 8, John Crawford bị bắn tại một cửa hàng ở Beavercreek, OH. Ngay sau cái chết của Brown, vào ngày 9 tháng 8, Ezell Ford, một thanh niên bị bệnh thần kinh đã bị bắn ở Los Angeles. Đó là bốn trong số rất nhiều trường hợp, theo một nghiên cứu mới đây, cứ mỗi 28 giờ lại có một người da đen bị cảnh sát, nhân viên an ninh hay dân phòng giết hại. Cả quốc gia đang chứng kiến những thảm kịch này; hiện thực đã được cưỡng bức áp đặt cho chúng ta. 

Phản ứng của công chúng trước sự kiện đã phổ biến nhanh chóng. Vào tối thứ năm biểu tình được tổ chức từ bờ này đến bờ kia đại dương thể hiện tình ái hữu với người dân Ferguson và sự đau buồn trước cái chết của Michael Brown cũng như những cái chết do cảnh sát gây ra trên khắp cả nước. Lời kêu gọi phi quân sự hóa cảnh sát của Tổng Chưởng Lý và các quan chức dân cử đang được thúc đẩy. Bộ Tư Pháp (DOJ) đã công bố một cuộc đánh giá rộng rãi về các hoạt động cảnh sát dẫn đến thiệt hại nhân mạng. Người dân đang kêu gọi gây sức ép buộc DOJ phải hành động, xin hãy xem: Yêu cầu Bộ Tư Pháp chấm dứt cảnh sát phân biệt chủng tộc và quân sự hóa.

Đây là thời điểm đáng chú ý và là cơ hội để thúc đẩy việc thay đổi ngành cảnh sát. Hàng trăm ngàn người Mỹ theo dõi sự kiện bộc lộ ở Ferguson. Công chúng thấy cảnh sát bắn hơi cay vào cộng đồng trong đám tang, bắn đạn cao su và dùng loa công suất lớn để giải tán họ. Công chúng thấy cảnh sát theo kiểu quân đội lùa họ vào các khu dân cư để tiếp tục bắn hơi cay và đạn cao su. Công chúng thấy các phóng viên bị ngược đãi và bị bắt giữ khi đội SWAT chiếm nhà hàng McDonald, nơi họ đang tường thuật tin tức và các phóng viên khác bị tấn công bằng hơi cay, sau đó cảnh sát tước các trang thiết bị của nhà báo.

Những sự kiện này khiến cho các trang tin tức tường thuật về hoạt động của cảnh sát cấp tập hơn. Trả lời về vụ bắt giữ một trong số các phóng viên của họ, Ryan Grim viết trên tuyên bố chính thức của Huffington Post về việc bắt giữ nhà báo nêu một điểm chính yếu: “Quân sự hóa cảnh sát là một trong những sự phát triển tự mãn và thiếu được chú ý nhất trong thời đại chúng ta.” Cảnh sát Ferguson đã tỏ ra xuất sắc trong việc thu hút sự chú ý của quốc gia đối với hiện thực cảnh sát của thế kỷ 21 và nhu cầu thay đổi cấp thiết đối với phương hướng của nó.

Hùng biện về “cuộc chiến” chống ma túy cũng như “cuộc chiến” chống tội phạm từ lâu không còn là hùng biện. Trong một số thập kỷ qua, lực lượng cảnh sát ở Hoa Kỳ, cả cảnh sát ở các thị trấn nhỏ, đã được chính phủ liên bang quân sự hóa. Quân sự hóa là một phần của sự leo thang đàn áp bất đồng chính kiến; và mục tiêu của hoạt động cảnh sát cực đoan là các cộng đồng da màu. Các thực tiễn như “chặn và khám xét” và “lái xe khi da đen”, cũng như hoạt động cảnh sát nhắm vào người Arab và người Hồi giáo, đã cho thấy sự phân biệt chủng tộc là một chính sách có chủ ý về cảnh sát trên khắp đất nước.

Phần lớn điều đó diễn ra tại các sở cảnh sát trong bí mật và không minh bạch hay có sự tranh luận công khai. Liệu công chúng có muốn lực lượng cảnh sát quân sự hóa khi họ có tiếng nói trong việc ra quyết định? Thiếu vắng quy trình dân chủ, Hoa Kỳ dường như đã tạo ra đội quân thường trực xâm phạm các nền tảng của của Hiến Pháp Hoa Kỳ. Cảnh sát quân sự hóa áp dụng luật lệ không công bằng, vi phạm các luật bảo vệ quyền bình đẳng cũng như hủy hoại hệ thống tư pháp khi cảnh sát vừa là quan toà vừa là người thi hành.

Chúng ta rơi vào tình trạng này ra sao? 

Cảnh sát phân biệt chủng tộc không hề mới. Như Victor E. Kappeler chỉ ra, “cảnh sát St. Louis đã được thành lập để bảo vệ các cư dân trước dân bản địa tại thành phố biên giới” và “vào năm 1704, thuộc địa của Carolina đã thàng lập đơn vị tuần tra nô lệ đầu tiên của quốc gia”. Những đơn vị tuần tra đã phát triển thành các đơn vị cảnh sát. Mục tiêu của cảnh sát ban đầu là kiểm soát nô lệ và bảo vệ lợi ích tài sản của chủ nô. Di sản phân biệt chủng tộc đó còn tiếp tục tới ngày nay. 

Ferguson không phải là bất thường khi đề cập tới sự bất bình đẳng chủng tộc trong hoạt động cảnh sát, sự căng thẳng giữa cảnh sát và cộng đồng người Mỹ gốc Phi đã tích tụ nhiều năm. Một cộng đồng có 2/3 là người Mỹ gốc phi, nhưng chỉ có 3/53 sĩ quan cảnh sát là người da màu. Theo báo cáo hàng năm của Tổng Chưởng Lý Missouri về hoạt động cảnh sát, mặc dù chiếm 63% dân số Ferguson nhưng người da màu chiếm tới 86% các vụ bị chặn xe. Người da màu bị khám xét gần gấp đôi và bị bắt gấp hai lần so với người da trắng mặc dù người da trắng mang hàng lậu thường xuyên hơn. So với các thống kê tồi tệ đó thì tình trạng ở Missouri còn tồi tệ hơn. Tổ chức NAACP cáo buộc St. Louis về sự phân biệt chủng tộc trong việc chặn xe. Một cư dân nói với tờ Washington Post: “Mọi người trong thành phố này là nạn nhân của DWB [lái xe khi là da đen]”.

Quân sự hóa cảnh sát đang là hiện tượng rõ nét hơn. Peter Kraska của Đại Học Miền Đông Kentucky đã viết về hiện tượng này từ đầu những năm 1990. Ông ấy ghi nhận sự gia tăng nhanh chóng của các đơn vị cảnh sát bán quân sự (PPU, đội SWAT không chính thức) được mô phỏng theo các đơn vị đặc nhiệm trong quân đội. PPU đã không tồn tại ở bất cứ đâu cho đến năm 1971, khi Los Angeles dưới sự lãnh đạo của cảnh sát trưởng Daryl Gates, tổ chức đơn vị đầu tiên và sử dụng nó để đột kích các ngôi nhà với xe bọc thép trang bị cọc lao. Vào năm 2000, có 30.000 đội cảnh sát SWAT; báo cáo của Kraska cho biết cuối những năm 1990, 89% sở cảnh sát thành phố hơn 50.000 dân có PPU, hầu hết tăng gấp đôi số lượng so với giữa những năm 80; và ở các thị trấn nhỏ giữa 25.000 và 50.000 dân, 80% sở cảnh sát có PPU tăng gấp bốn lần so với 20% vào giữa những năm 80.

Kraska cho biết đội SWAT đã thực hiện 45.000 nhiệm vụ trong năm 2007 so với 3.000 vào đầu những năm 80. Ông chỉ ra nhiệm vụ thông thường nhất là thực hiện lệnh khám xét ma túy, chiếm 80% số lần, nhưng họ cũng được gia tăng sử dụng trong tuần tra khu dân cư. Những con số này phù hợp với báo cáo mới đây của ACLU.

Một trong những nhà sử học quan trọng khác về sự gia tăng quân sự hóa trong cảnh sát là Radley Balko, tác giả của cuốn sách Rise of the Warrior Cop: The Militarization of America’s Police Forces. Ông cho biết “việc sử dụng đội SWAT gia tăng 1.500% trong hai thập kỷ qua” và viết trên tờ ABA Journal vào năm 2013 rằng “đội SWAT đột kích đầy bạo lực vào nhà tư nhân hơn 100 lần mỗi ngày.” Việc họ dùng lựu đạn choáng gây ra tổn thương cho trẻ em và một bé gái bẩy tuổi bị bắn chết lúc đang ngủ khi đội SWAT đột kích nhầm nhà. Có rất nhiều ví dụ tương tự như vậy. 

Colin Jenkins đã chỉ ra trong bài Coming Home to Roost: American Militarism, War Culture, and Police Brutality, rằng đó là quá trình diễn ra dần dần. Chưa bao giờ có tranh luận về việc quân sự hóa cảnh sát, thay vào đó là hàng loạt các quyết định về phong trào biểu tình những năm 60, cuộc chiến chống ma túy và hoạt động cảnh sát sau ngày 11 tháng 9. Xu hướng trở nên đặc biệt đáng chú ý vào những năm 1980, khi cuộc chiến chống ma túy dưới thời Reagan tạo ra ngoại lệ đối với Luật Posse Comitatus, một luật về thời kỳ tái cấu trúc buộc quân đội đứng ngoài việc hành pháp nội địa. Đó là khi đội SWAT bắt đầu được sử dụng để thực hiện lệnh khám xét ma túy. Kỷ nguyên hậu 9 tháng 11 đã mang lại cho cảnh sát quyền lực lớn hơn với Luật Yêu Nước và có vẻ như là nguồn lực không giới hạn để chống khủng bố. Dĩ nhiên quân sự hóa cảnh sát hiếm khi được sử dụng chống khủng bố nội địa bởi thực sự là không có nhiều khủng bố ở Mỹ.

Jenkins chỉ ra hàng tỷ dollar thiết bị quân sự đã chảy vào các sở cảnh sát trên khắp đất nước: “Họ có mọi thứ từ áo giáp, vũ khí hỏa lực mạnh cho tới xe bọc thép, thậm chí cả máy bay không người lái”. Ông hỏi tại sao, chỉ ra rằng đó không phải bởi vì sự an toàn, ghi nhận là có 50 thiệt mạng hàng năm trong số 900.000 sĩ quan cảnh sát trên cả nước. Có nghĩa là chỉ có 1 trong số 18.000 cảnh sát bị giết mỗi năm (sự kỳ quặc là bị chết bởi sét đánh trong đời bạn có tỷ lệ là 1/3.000). Ông lên án văn hóa chiến tranh Mỹ và tin rằng cảnh sát trở thành quân sự bởi họ chuyển từ phòng thủ sang tấn công vào những nơi họ đối đầu và đàn áp nhân dân, hơn là bảo vệ và phục vụ cộng đồng.

Vấn đề có thể bị làm tồi tệ thêm bởi những chương trình như của Phòng Thương Mại, ‘Thuê Những Người Hùng Của Chúng Ta’, nhằm tuyển mộ những lính đương nhiệm và cựu binh vào các sở cảnh sát. DOJ có một chương trình được gọi là ‘COPS’ xét tuyển nhanh các thành viên của quân đội tham gia vào hoạt động cảnh sát. Sở Cảnh sát San Antonio kiêu hãnh về các thành viên quân đội chuyển đổi dễ dàng vào công việc cảnh sát. Dĩ nhiên là đơn giản bởi vì họ đang sử dụng cùng một trang thiết bị và kỹ thuật. Điều đó dấy lên sự lo ngại về tác động của hoạt động cảnh sát trong môi trường quân sự hóa đối với những cựu binh đã trải qua Rối Loạn Căng Thẳng Hậu Chấn Thương. Đó là vấn đề về sử dụng steroid trong cảnh sát, có tác động tâm lý, được gọi là “điên khùng roid.”

Huấn luyện quân sự cho sĩ quan cảnh sát có thể tạo ra việc các chiến thuật hung hãn được thi hành đối với cộng đồng. Báo cáo của ACLU cho biết Vệ Binh Quốc Gia đang huấn luyện cảnh sát, và đó cũng là chương trình huấn luyện do Lực Lượng Phòng Vệ Israel tổ chức.

Newsweek tường thuật trang thiết bị quân sự là do sự phình ra của quân đội Hoa Kỳ. Ngân sách của họ chiếm hơn nửa chi tiêu khả biến và vào năm 1990 Quốc hội bổ sung vào Luật Ủy Quyền Phòng Vệ Quốc Gia một điều khoản, mục 1033, cho phép Bộ Quốc Phòng (DoD) chuyển giao các trang thiết bị quân sự không còn cần thiết sang các đơn vị liên bang và bang để hỗ trợ cuộc chiến chống ma túy.

ACLU cho biết 4,3 tỷ dollar trang thiết bị đã được chuyển giao theo điều khoản này. Chương trình bao gồm 17.000 đơn vị hành pháp của tất cả các bang và lãnh thổ. Chương trình được mở rộng từ 1 triệu dollar năm 1990 lên 450 triệu dollar vào năm 2013. Sự lãng phí trong ngân sách của DoD được tiết lộ qua sự thật là 36% số trang thiết bị được chuyển giao chưa từng được quân đội sử dụng.

ACLU nghiên cứu tại 20 bang với 800 đội SWAT trong năm 2011-2012. Họ thấy rằng “tổng số 15.054 vật phẩm đồng phục chiến đấu hoặc trang bị bảo vệ cá nhân được cấp cho 63 đơn vị hồi đáp… và khoảng 500 đơn vị hành pháp nhận được loại xe chống mìn phục kích, được chế tạo để chống lại bom xuyên giáp trên mặt đường”. Đội SWAT sử dụng chủ yếu (79% số lần) trong việc khám xét ma túy, báo cáo cũng kết luận rằng quân sự hóa cảnh sát tác động chủ yếu tới người da màu. Khi cảnh sát có các trang thiết bị dạng này, không có gì ngạc nhiên là họ sử dụng chúng và các hoạt động của họ có tính quân sự hơn.

Rất quan trọng khi nhấn mạnh rằng chúng ta rơi vào tình trạng này mà không có tranh luận công khai. Trong thực tế các nỗ lực thu thập thông tin về quân sự hóa cảnh sát và đội SWAT thường xuyên bị ngăn chặn. Ở Massachusetts, nhóm Privacy SOS của ACLU cố gắng thu thập thông tin thông qua yêu cầu ghi nhận thông tin công khai. Họ được cho biết là đội SWAT được miễn trừ bởi vì đó là thực thể cá nhân, Hội Đồng Thực Thi Pháp Luật, không phải là đối tượng của luật ghi nhận thông tin công khai. Họ sẽ không cung cấp các thông tin cơ bản như số vụ đột kích mà họ thực hiện. 

Rất nhiều hoạt động thực thi pháp luận bán quân sự được thực hiện với các lực lượng liên ngành, thiếu sự minh bạch. Nhóm Privacy SOS cho biết công việc được hoàn thành thông qua Khu Vực Buôn Bán Ma Túy Cường Độ Cao New England (NEHIDTA). Khi được yêu cầu về tài liệu, họ từ chối với lý do rằng “HIDTA không phải thực thể hợp pháp có thể cung cấp bất cứ thông tin gì. Hơn nữa HIDTA là sự phối hợp của nhiều đơn vị chức năng bộ và ngành. Mọi thông tin truyền qua HIDTA được coi là tài sản duy nhất của đơn vị ban đầu, và không phải là là tài sản của HIDTA”. Nhóm Privacy SOS chỉ ra rằng việc quân sự hóa cảnh sát đã được thực hiện song song với liên bang hóa cảnh sát địa phương và cả hai đều không gặp phải bất cứ cuộc tranh luận công khai nào. Cảnh sát tự trị, hơn là bị cai trị bởi nhân dân theo bất cứ cách dân chủ nào.

Một khu vực khác nơi cảnh sát bị quân sự hóa được sử dụng để đàn áp bất đồng chính trị. Trong các cuộc cắm trại chiếm đóng, cảnh sát quân sự hóa được sử dụng rất hung hãn trên khắp cả nước để cưỡng bức dỡ bỏ trại. Một lần nữa, điều này xảy ra diễn ra thông qua liên bang hóa cảnh sát địa phượng trong Lực Lượng Thực Thi Hỗn Hợp với các đơn vị liên bang như FBI hay An Ninh Nội Địa. Nó không chỉ tác động tới Chiếm đóng mà quân đội đã được cả Đại Hội Đảng Dân Chủ cũng như Đảng Cộng Hòa vào năm 2012 kêu gọi một lần nữa hợp tác với cảnh sát địa phương dưới sự bảo trợ của Lực Lượng Thực Thi Hỗn Hợp trong phạm vi Tư Lệnh Quân Sự Miền Bắc. 

Cần điều gì để chấm dứt quân sự hóa hoạt động cảnh sát? 

Một khảo sát của Reason Rupe vào tháng 12 năm 2013 cho thấy 58% người Mỹ đồng ý rằng cảnh sát đã đi quá xa khi họ sử dụng các trang thiết bị quân sự. Giờ đây khi mọi người khám phá ra sự lạm dụng sở Ferguson, con số đó sẽ tăng lên. Chúng ta có thể thấy sự gia tăng của phe đối lập đối với việc quân sự hóa cảnh sát và phân biệt chủng tộc trong cuộc biểu tình từ bờ này đến bờ kia đại dương diễn ra tuần này.

Các cựu chiến binh đang lên tiếng. Paul Szoldra một lính thủy nghỉ hưu đã từng phục vụ ở Afghanistan, biết tại sao bạn cần bộ đồ rằn ri trong hoạt động quân sự, nhưng không phải là trong hoạt động cảnh sát và kết luận “dường như các sĩ quan cảnh sát đã cởi bỏ bộ đồng phục xanh để mặc đồng phục và trang bị quân sự, đang mang theo tâm trạng đó cùng với nó”. Ông viết, thông điệp mà người lính mặc đồng phục ở Afghanistan là: “’Chúng tôi là quân đội, và chúng tôi đang kiểm soát’. Nhiều người Afghanistan nhìn chúng tôi như những kẻ chiếm đóng”. Đâu là thông điệp mà cảnh sát Hoa Kỳ đang chuyển tới cộng đồng mà họ phải “bảo vệ và phục vụ”?

Andrew Exum, cựu sĩ quan bộ binh tóm tắt tình hình trong một tweet: “Quân sự hóa lực lượng hành pháp là trái ngược với hoạt động cảnh sát nội địa và cần phải chấm dứt”. Chúng ta kỳ vọng đây là lúc ý kiến của công chúng phát tán nhanh chóng tại Hoa Kỳ. Điều gì cần phải làm để điều chỉnh, để phi quân sự hóa và mang lại nhận thức thông thường đối với hoạt động cảnh sát?

Những lời kêu gọi phi quân sự hóa hoạt động cảnh sát đang gia tăng kể từ khi các sự kiện nổ ra ở Ferguson của Tổng Chưởng Lý Holder và thượng nghị sĩ Cộng Hòa Henry Johnson (D-GA) đã gửi một lá thư “Các đồng nghiệp kính mến” mời các nghị sĩ cùng tham gia với ông hạn chế trang bị quân sự cho các sở cảnh sát. Ông viết: 

“Chúng ta phải tỏ ra quan ngại về việc chúng ta cung cấp một số lượng không hạn định trang thiết bị quân sự  cho cảnh sát địa phương và khuyến khích sử dụng chúng nhằm thực thi các hoạt động hành pháp thông thường. Đó là lý do tại sao tôi sẽ sớm triển khai chương trình cải tổ “Chấm Dứt Quân Sự Hóa Hoạt Động Hành Pháp”. Dự luật của tôi sẽ giải thực hiện hai điều. (1) Giới hạn kiểu trang thiết bị có thể chuyển giao. (2) Yêu cầu các bang xác nhận rằng họ có thể thống kê toàn bộ các trang thiết bị. 

Chúng ta vui lòng thấy Bộ Tư Pháp cuối cùng cũng thông báo một cuộc đánh giá rộng rãi về hoạt động cảnh sát. Mặc dù trong nhiệm kỳ của tổng thống Obama thường xuyên có các vụ giết hại người Mỹ gốc Phi. Cuối cùng thì DOJ thông báo họ sẽ đánh giá các hoạt động cảnh sát dẫn đến lạm dụng. Trong phạm vi điều tra có việc sử dụng lực lượng sát thương, hành xử của cảnh sát với người bị bệnh thần kinh và các công nghệ mới được cảnh sát sử dụng. Người dân có thể thoải mái liên lạc với Bộ Tư Pháp về những quan ngại (địa chỉ email của họ là AskDOJ@usdoj.gov.). Vì một hoạt động dân chủ, người dân cần tham gia, hợp tác và biểu lộ quan điểm. 

Một số đang chống lại các vụ sát hại mang tính phân biệt chủng tộc của cảnh sát trên vũ đài quốc tế. Ron Davis, bố mẹ của một thanh niên da màu bị sát hại khác, đang giận dữ về những kẻ thủ ác không bị trừng phạt trên cả nước. Ông ấy sử dụng cuộc họp thứ 85 của Ủy Ban Xóa Bỏ Phân Biệt Chủng Tộc ở Geneva, Thụy Sĩ để gây sức ép buộc Washington phải chấm dứt việc “tội phạm hóa chủng tộc” ở Hoa Kỳ. Trong cuộc họp, Hoa Kỳ bị buộc phải trả lời các câu hỏi về vấn đề nỗ lực thực hiện trách nhiệm của Hoa Kỳ.

Chúng tôi đã viết một bài báo cho Green Shadow Cabinet về trách nhiệm lành mạnh đối với một dịch bệnh như nạn giết hại thanh niên da màu. Thay vì quân sự hóa cảnh sát gia tăng căng thẳng trong các cộng đồng bị tổn thương, cảnh sát và các cơ quan chính quyền khác nên ủng hộ các cuộc biểu tình hòa bình; điều đó sẽ gia tăng sự minh bạch về chi tiết và điều tra đối với các sự kiện cũng như các nhân viên xã hội và chuyên gia tâm lý học nên sẵn sàng hỗ trợ cho các thành viên cộng đồng.

Chúng tôi đồng tình với khuyến nghị của tổ chức ACLU, mà chúng tôi tóm tắt như sau:

Các cải tổ ngành cảnh sát phải theo hệ thống, đây không phải là một vài trái táo thối mà là vấn đề về hoạt động cảnh sát cấp độ quốc gia. Chính phủ liên bang có quyền lực để đảm bảo các trang thiết bị quân sự không được sử dụng trong hoạt động cảnh sát thông thường, như khám xét ma túy hay tuần tra đường phố, chỉ giới hạn trong những tình huống thực sự nguy hiểm, như cố thủ, tình huống con tin hay có kẻ bắn chủ động. Chính quyền liên bang nắm giữ nguồn cung và kiểm soát trang thiết bị quân sự do đó họ có thể có tạo ra ảnh hưởng lớn bằng cách cắt giảm hay thậm chí ngừng chuyển giao trang thiết bị quân sự cho các bang.

Nhà nước và chính quyền địa phương phải giới hạn việc sử dụng các đội SWAT cho các tình huống đặc biệt. Các tiêu chuẩn cần được thiết lập rõ ràng để các quyết định chủ quan của cảnh sát không dẫn đến việc dùng sai đội SWAT. 

Đội SWAT không bao giờ được triển khai đơn nhất dựa trên cơ sở là khả năng hiện diện ma túy. Sự hiện diện của ma túy không thể đánh đồng với bạo lực và nhiều vụ lạm dụng của đội SWAT đã dẫn đến giả định sai lầm đó. Đội SWAT chỉ thích hợp nếu tình huống được chỉ ra rằng cảnh sát thông thường sẽ không thể thực hiện lệnh một cách an toàn.

Khi đội SWAT được sử dụng thì cần phải có tỷ lệ thích hợp. Một đội SWAT hoàn chỉnh là 20 sĩ quan và trong nhiều trường hợp triển khai một phần là thích hợp hơn cũng như không gây leo thang căng thẳn hay gây nguy hiểm đối với công dân. 

Các chương trình huấn luyện thúc đẩy tinh thần “chiến binh” cần được hạn chế.

Cần có sự minh bạch để công chúng biết được cách cảnh sát bảo vệ cộng đồng của họ và có cơ hội tham gia vào quá trình ra quyết định. Một ánh sánh mạnh cần soi tỏ những chính sách này, hành động và trang thiết bị, cần phải đặt dưới sự giám sát của công chúng. Điều này đòi hỏi thu thập dữ liệu về trang thiết bị nhận được, chúng ở đâu và được sử dụng ra sao. Ngay hiện giờ không có lưu trữ thường xuyên được thực hiện.

Cuối cùng chúng tôi thúc giục các cá nhân sĩ quan cảnh sát, những người thừa nhận rằng quân sự hóa hoạt động cảnh sát là hủy hoại khả năng khiến họ trở thành một phần của cộng đồng, để phục vụ công dân và bảo vệ họ, hãy lên tiếng. Chúng tôi đã chứng kiến tác động của hoạt động cảnh sát thông minh khi thống đốc Nixon giao trọng trách cho Tuần Tra Đường Cao Tốc Bang và đại úy Ron Johnson tham gia đoàn tuần hành và bỏ mũ sắt. Tất nhiên một nỗ lực lớn hơn để phi quân sự hóa cảnh sát sẽ khởi đầu với các sĩ quan cảnh sát về hưu, nhưng điều quan trọng đối với đa số cảnh sát im lặng, những người chứng kiến vấn đề của việc quân sự hóa, là nói ra. Hãy để đồng nghiệp của bạn biết rằng cảnh sát là một phần của cộng đồng, không phải kẻ chiếm đóng cộng đồng.