Showing posts with label Quân sự. Show all posts
Showing posts with label Quân sự. Show all posts

Friday, September 22, 2017

Đấu tranh giai cấp là mấu chốt của chiến tranh ở Việt Nam: Một bình luận phê phán về bộ phim tài liệu của Burns và Novick

Vẫn luôn có những người Mỹ nhìn nhận khác về cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam và họ nhìn nhận thấy bản chất của vấn đề: đấu tranh giai cấp gắn liền với độc lập dân tộc. Điều căn bản này đã bị lảng tránh, sự lảng tránh mang tính ý thức hệ nhưng luôn núp dưới bình phong khách quan và phi ý thức hệ.

Dưới đây là bản dịch bài viết " Ideology as History: a Critical Commentary on Burns and Novick’s “The Vietnam War”của CHUCK O’CONNELL được đăng trên tạp chí Counterpunch.

Hệ tư tưởng đóng vai trò lịch sử: một bình luận phê phán về bộ phim "Chiến Tranh Việt Nam" của Burns và Novick

Sau khi xem tập 1 và 2 trong bộ phim nhiều tập của Burns và Novick về Chiến Tranh Việt Nam, tôi nhớ đến một câu cách ngôn cũ kỹ nói về một điều đáng giá cho sinh viên khoa lịch sử: giai cấp nào kiểm soát tư liệu sản xuất vật chất thì cũng kiểm soát tư liệu sản xuất tinh thần. Kỳ vọng của tôi hạ dần khi nghe người thuyết minh trong khi cuộn xuống danh sách các nhà tài trợ, khó có thể trông đợi bộ phim nhiều tập này thoát khỏi lối tường thuật kiểu chủ nghĩa tự do đã thống trị cuộc tranh luận về Chiến Tranh Việt Nam.

Tường thuật kiểu chủ nghĩa tự do là gì? Đó là một tập hợp các khẳng định gắn chặt với nhau: Việt Nam chống lại Pháp và sau đó Hoa Kỳ bị khát vọng độc lập quốc gia lôi kéo, ngụy quyền Sài Gòn ở miền Nam là một chính phủ hợp pháp, sự nổi loạn của Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc chống lại chính quyền được Hoa Kỳ ủng hộ là do chính quyền cộng sản Hà Nội ở miền Bắc chỉ đạo, xung đột quân sự ở Việt Nam là một cuộc nội chiến, một loạt sai lầm của các lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ đã dẫn đến việc quân đội Hoa Kỳ tham gia để hỗ trợ miền Nam. Đó là lối tường thuật nghe có vẻ có lý vì nó đã được lặp đi lặp lại suốt hơn năm mươi năm.

Khi nghiên cứu lịch sử một cách khoa học hơn thì một tường thuật chính xác hơn đã được đưa ra: Thứ nhất, bên cạnh sự quan trọng của chủ nghĩa quốc gia đối với xã hội Việt Nam, một yếu tố quan trọng của cuộc chiến tranh là mục tiêu của cuộc cải cách ruộng đất mà những người cộng sản hứa hẹn với nông dân, chiếm đại đa số dân chúng. Xung đột quân sự là một phần của cuộc cách mạng xã hội chống lại giai cấp địa chủ và những kẻ hỗ trợ ngoại bang của họ. Thứ hai, ngụy quyền Sài Gòn, xuất hiện sau khi Pháp thất bại trong việc tái chiếm Việt Nam, là sản phẩm của Hoa Kỳ, được Hoa Kỳ tài trợ và tổ chức quân đội để ném vào cuộc chiến chống lại lực lượng cách mạng Việt Nam. Khi quân đội Nam Việt Nam được thế lục ngoại quốc tài trợ và huấn luyện để phục vụ cho sự thống trị ở quốc gia này thì quân đội đó không chiến đấu trong một cuộc nội chiến – đó là chiến tranh phản cách mạng và là quân đội tay sai. Thứ ba, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam là một lực lượng chính trị độc lập xuất hiện sau khi chính quyền Hà Nội không tiến hành cuộc chiến chống lại chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam. Lực lượng chủ chốt trong Mặt Trận là những người cộng sản, do vậy có mối liên hệ với Hà Nội và được miền Bắc hỗ trợ trong nỗ lực nổi dậy. Thứ tư, sự tham chiến của Hoa Kỳ không phải là kết quả của những sai lầm nối tiếp nhau, trái lại là kết quả của sự lừa dối và khiêu khích có hệ thống mà chính quyền Hoa Kỳ từ thời Harry Truman cho đến Richard Nixon đã thực hiện để phục vụ cho tham vọng kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản hiện đại ở Đông Nam Á. Tôi sẽ làm rõ những luận điểm này.

Vấn đề đất đai – Đấu tranh giai cấp ở Việt Nam


Trong tác phẩm phân tích về thảm kịch chiến tranh Việt Nam, Anatomy of a War, Gabriel Kolko khẳng định rằng yếu tố cốt yếu trong sự ủng hộ của nông dân đối với phong trào cộng sản là vấn đề ruộng đất. Câu hỏi đơn giản là ai sẽ kiểm soát đất đai – địa chủ hay nông dân, kẻ bóc lột hay người bị bóc lột? Người cộng sản nói nông dân bị bóc lột sẽ kiểm soát đất đai bởi vì đó là cách duy nhất giải phóng họ khỏi những kẻ bóc lột. “Ruộng đất cho người cày” là khẩu hiệu cách mạng của họ. Kolko khẳng định rằng không thể hiểu được chiến tranh nếu không hiểu rõ động lực này, động lực của đấu tranh giai cấp, điều này đã bị bỏ qua trong hai tập đầu của bộ phim và có vẻ như sẽ tiếp tục như vậy trong cả bộ phim. Đây là lối tường thuật lịch sử điển hình kiểu chủ nghĩa tự do; ưu ái các phân tích dựa trên chủ nghĩa quốc gia để loại bỏ các phân tích dựa trên đấu tranh giai cấp. Mặc dù vậy, do kẻ thù là cộng sản nên quan điểm của họ cần phải được xem xét nếu bạn muốn thấu hiểu chiến lược và chiến thuật cũng như khả năng thu hút sự ủng hộ sâu rộng của đại đa số dân chúng – nông dân. Hãy để tôi nói vấn đề theo cách khác, hãy suy nghĩ về điều này: làm sao mà một đất nước kém phát triển với đại đa số là nông dân đã đánh bại cường quốc kinh tế và quân sự hùng mạnh nhất thế giới với dân số đông gấp năm lần, cường quốc này đã triển khai hơn 500.000 bính lính của họ cùng một triệu quân đồng minh (chủ yếu là quân đội miền Nam Việt Nam), kiểm soát hoàn toàn không phận và hải phận, rải 19 triệu gallon chất khai quang ở miền Nam Việt Nam và sử dụng 7,5 triệu tấn bom trong đó có 400.000 tấn bom cháy? Như James William Gibson đã chỉ ra trong cuốn sách The Perfect War: Technowar in Vietnam (1988, p. 9), đỉnh điểm của việc triển khai quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam vào năm 1969, “40% các sư đoàn trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu của Hoa Kỳ, hơn một nửa các sư đoàn hải quân, 1/3 lực lượng thủy quân, một nửa máy bay chiến đấu và khoảng từ ¼ đến ½ tổng số máy bay B52 của Bộ Tư Lệnh Không Quân Chiến Lược USAF” đã tham chiến. Hoa Kỳ kiểm soát không phận và hải phận, sử dụng hết các khu vực an toàn và tập kết (Thái Lan, Philippine, Guam), ném bom bốn nước (Bắc Việt Nam, Nam Việt Nam, Lào và Campuchia), xâm lược hai nước (Nam Việt Nam, Campuchia). Trái lại, phe đối lập cộng sản chiến đấu ở miền Nam không có cả không quân lẫn hải quân hay các khu vực an toàn và tập kết. Họ sống trong rừng rậm và dưới hệ thống hầm ngầm, mạng lưới cung cấp chính của họ (“Đường mòn Hồ Chí Minh”) thường xuyên bị Hoa Kỳ ném bom. Nếu có quân đội nào phải chiến đấu với “một cánh tay bị trói phía sau lưng” thì đó chính là quân đội cộng sản Việt Nam.

Để hiểu được chiến thắng của cộng sản Việt Nam, chúng ta cần phải nhớ tới câu cách ngôn rằng chiến tranh là chính trị với phương tiện khác và đối với những người cộng sản bị áp đảo về vũ khí thì chiến lược quân sự duy nhất là chiến tranh nhân dân mà “chính trị là tiên quyết”.

Sự thể hiện về đạo đức của lực lượng chiến đấu đã chứng minh điều cốt yếu của đấu tranh quân sự. Người cộng sản giành được sự ủng hộ của đại đa số nông dân với học thuyết hai cuộc cách mạng song song. Lý tưởng của họ là: Việt Nam có hai vấn đề gắn chặt với nhau: Thứ nhất là người dân bị ngoại quốc bóc lột, thứ hai là cấu trúc giai cấp đã giúp cho các địa chủ bản địa bóc lột nông dân. Địa chủ không thể bị lật đổ nếu đế quốc ủng hộ họ không bị đánh bại. Mặc dù vậy, đánh bại đế quốc thực dân mà không lật đổ quyền lực của địa chủ Việt Nam thì chỉ là thay đổi khuôn mặt của kẻ áp bức nắm giữ quyền lực nhà nước. Do đó, hai cuộc cách mạng đồng thời phải diễn ra – một cuộc nổi dậy chống lại sự thống trị của đế quốc và một cuộc đấu tranh giai cấp chống lại giai cấp địa chủ. Cuộc đấu tranh giai cấp hứa hẹn sự giải phóng (“ruộng đất cho người cày”) đã thúc đẩy nông dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống chế độ thực dân.

Chế độ thực dân Pháp và đấu tranh giai cấp


Khi xem phim của Burns và Novick, bạn sẽ không thực sự hiểu được hiện thực của chế độ thực dân Pháp. Bằng các luật lệ thực dân, Pháp chuyển kinh tế từ tự cấp tự túc sang xuất khẩu vào thị trường thế giới, chuyển của cải của nông dân vào túi giai cấp địa chủ-đầu tư thông qua địa tô, rất cao đối với tá điền, khoảng 40-60% thu hoạch kỳ vọng, cho nông dân nghèo vay với lãi suất 50-70% và đánh thuế người Việt Nam để chi trả cho việc khai thác thuộc địa. Sau nhiều thập kỷ, người Pháp sở hữu hầu hết của cải ở Việt Nam. Nhà báo Hoa Kỳ Robert Shaplen đã viết trong cuốn sách The Lost Revolution: The U.S. in Vietnam, 1946-1966 (1966, p.80): Trên thực tế, người Pháp sở hữu mọi của cải thực của Đông Dương và khoản đầu tư của họ là gần hai tỷ dollar; họ sở hữu mọi đồn điền cao su, vốn vẫn hoạt động ngay cả trong chiến tranh – như chúng vẫn hoạt động hiện nay, vào năm 1965 – và họ sở hữu 2/3 sản lượng gạo, tất cả các mỏ, tất cả tàu thuyền, gần như toàn bộ công nghiệp và ngân hàng.”

Chế độ thực dân Pháp có nghĩa gì đối với người Việt Nam? Điều đó có nghĩa là nông dân không ruộng đất, một giai cấp công nhân nhỏ bị bóc lột tàn tệ và một giai cấp tay sai bản địa. Thông qua việc cấp đất và nhượng quyền, người Pháp đã phân bổ lại ruộng lúa, vào cuối những năm 1930, dưới 2% dân số miền Nam sở hữu hơn 80% đất đai và 60% cư dân nông thôn ở miền Nam không có ruộng đất. Khi Thế Chiến Thứ Hai bắt đầu (1939), đa số nông dân rất nghèo. Công nhân Việt Nam được tuyển mộ từ nông dân vào khoảng 221.000 vào năm 1931. Điều kiện làm việc của các công nhân này tại các công ty Pháp rất tồi tệ: khoảng 30% công nhân xây dựng đường sắt từ Hà Nội đến biên giới Trung Quốc đã chết khi làm việc và rất nhiều công nhân Việt Nam làm việc trong các đồn điền của hãng Michelin chết vì làm việc quá sức hay sốt rét, công nhân Việt Nam gọi mình là “phân bón cho cây cao su”. Những người Việt Nam hợp tác với Pháp và được hưởng lợi từ sự hợp tác đó là doanh nhân thành thị, địa chủ ở nông thôn, trí thức và các viên chức hành chính trong chính quyền thuộc địa. Họ tạo thành cơ sở xã hội cho lực lượng chống cộng sản trong các cuộc chiến tranh với Pháp và Hoa Kỳ.

Việc bỏ qua đấu tranh giai cấp và sự đóng góp đạo đức tập thể mà những người nông dân đòi hỏi dĩ nhiên là sai lầm nghiêm trọng của bộ phim về Chiến Tranh Việt Nam.

Điều đó đã bị bỏ qua trong tập 1 về chế độ thực dân Pháp và tiếp tục bị bỏ qua trong phần tường thuật về chế độ chống cộng sản Ngô Đình Diệm ở miền Nam. Do không hiểu rõ cuộc đấu tranh cách mạng dựa trên giai cấp nên lối tường thuật mặc định là nói về chủ nghĩa quốc gia và nhiệm vụ giải phóng người Việt Nam khỏi đế quốc nước ngoài.

Ngụy quyền Sài Gòn – một sản phẩm của chủ nghĩa đế quốc


Một sự lảng tránh nghiêm trọng khác cũng xuất hiện trong tập 1 và tập 2 – đã che dấu hiện tượng không được nhìn nhận trong bộ phim của Burns và Novicks: chủ nghĩa đế quốc. Chính Chiến Tranh Việt Nam đã khơi lại cuộc tranh luận chính trị về khái niệm chủ nghĩa đế quốc, với vai trò là yếu tố chủ chốt giải thích cho chính sách đối ngoại của các quốc gia tư bản phát triển. Quan điểm nhìn nhận việc Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam là để duy trì nguồn tài nguyên và lao động giá rẻ của Đông Nam Á cho tái thiết công nghiệp hậu chiến ở nước Nhật Bản tư bản và duy trì trật tự quốc tế: không quốc gia nhỏ nào được phép thoát khỏi sự kiểm soát của các nước tư bản phát triển hùng mạnh. Nếu họ thử thì họ phải trả giá rất đắt.

Burns và Novick làm cho tham nhũng, bất lương, ngu dốt và ngạo mạn dễ thấy nhưng chủ nghĩa đế quốc thì khó thấy. Một điểm thất bại nữa là họ đã không tường thuật về nguồn gốc của Diệm, vốn được Hoa Kỳ dựng lên ở miền Nam để đồng thời chống lại cả cộng sản lẫn Pháp. Chính Hoa Kỳ đã buộc vua Bảo Đại chỉ định Diệm làm thủ tướng ở miền Nam vào năm 1954, sau khi Hiệp Định Geneva kết thúc cuộc chiến của Pháp được ký kết. Chính là Hoa Kỳ đã thúc đẩy Diệm tổ chức cuộc trưng cầu dân ý gian lận vào năm 1955 để ông ta thay thế Bảo Đại nắm chính quyền. Cả Burns cũng như Novick đều không chỉ ra rằng trước khi Ngô Đình Diệm từ Hoa Kỳ đến Sài Gòn vào ngày 25/6/1954 thì CIA đã dọn đường, đại tá Edward Lansdale, đã đến Sài Gòn trước đó ba tuần vào ngày 1/6/1954. Lansdale được bổ nhiệm vào Ủy Ban Quân Sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn với hai mục tiêu. Thứ nhất, thiết lập một chính quyền thân Hoa Kỳ ở miền Nam với Diệm là người nắm quyền, thứ hai, ông ta tiến hành các chiến dịch bí mật gây ra sự bất ổn và rối loạn để chống lại chính quyền miền Bắc. Hãy lưu ý rằng Lansdale đến Sài Gòn không chỉ trước Diệm mà còn trước cả khi Hiệp Định Geneva được ký kết. Hãy lưu ý rằng Burns và Novick đã không đề cập đến việc Hoa Kỳ từ chối ký vào hiệp định quốc tế kết thúc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất để không bị ràng buộc. Hay nói cách khác, Hoa Kỳ đã bắt đầu quá trình phá vỡ Hiệp Định Geneva ngay khi nó đang được đàm phán.

Burns và Novick đã không chỉ không truyền tải nguồn gốc của chế độ Diệm, một bộ máy của Hoa Kỳ để củng cố quyền lực của Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam, mà họ còn không truyền tải sự tàn bạo và tính chất độc tài cũng như cơ sở giai cấp của chế độ đó – tính chất và cơ sở đã tạo ra một cuộc nổi dậy, một cuộc nổi dậy đã khiến Hoa Kỳ phải đổ một lực lượng quân sự khổng lồ vào để bảo vệ chế độ Sài Gòn. Ngô Đình Diệm và em trai ông ta, cố vấn chủ chốt, Ngô Đình Nhu, đã thành lập và kiểm soát đảng chính trị hợp pháp duy nhất ở miền Nam: Đảng Cần Lao. Thông qua đó, hai anh em họ kiểm soát cảnh sát, sĩ quan quân đội và viên chức hành chính. Hoa Kỳ huấn luyện cảnh sát và quân đội Nam Việt Nam theo các phương pháp đàn áp được sử dụng với những ai chống lại chế độ tay sai của Hoa Kỳ. Việc huấn luyện cảnh sát Nam Việt Nam được thực hiện ở Đại Học Bang Michigan để che dấu sự tài trợ của CIA.

Một sự bỏ sót khác của Burns và Novick là không đề cập đến việc di cư khoảng 1 triệu người từ Bắc vào Nam từ năm 1954 đến 1955, nguyên nhân của sự kiện này không chỉ là nỗi sợ hãi cộng sản mà còn là chiến tranh tâm lý của CIA thực hiện, Chiến Dịch Hành Trình Tới Tự Do được thực hiện để đe dọa những người Thiên Chúa Giáo chống cộng sản và khiến họ di cư vào Nam để tạo ra cơ sở xã hội cho chế độ Ngô Đình Diệm, tay sai của Hoa Kỳ.

Ngô Đình Diệm, nhà cầm quyền tay sai của Hoa Kỳ ở miền Nam, mắc phải 3 sai lầm khiến chế độ của ông ta bị căm ghét. Thứ nhất, ông ta từ chối tuân thủ yêu cầu tổng tuyển cử thống nhất vào năm 1956 của Hiệp Định Geneva với lý do ông ta không ký Hiệp Định nên ông ta không buộc phải tuân thủ. Hoa Kỳ đã khuyến khích ông ta từ chối. Thứ hai, Diệm khởi sự một chương trình cải cách ruộng đất nhằm tước ruộng đất của những nông dân đã chiếm đất dưới sự hỗ trợ của Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp. Quân đội của Diệm trục xuất nông dân ra khỏi đất đai và trả chúng cho các địa chủ, địa chủ đòi nông dân phải nộp tô cho cả những năm đất đai bị chiếm. Cuối cùng, khi biết rằng nhiều cựu Việt Minh sống ở miền Nam Việt Nam, vào năm 1955, Diệm bắt đầu làn sóng đàn áp họ. Khoảng 12.000 người bị bắt giữ và xử tử, khoảng 50.000 người bị tống giam. Diệm theo đuổi chiến dịch thanh trừng chính trị bằng cách cố gắng kiểm soát khu vực nông thôn. Ông ta giải tán các hội đồng làng (phá hủy nền dân chủ truyền thống của làng xã) và bổ nhiệm những người trung thành với ông ta làm “trưởng làng”; cảnh sát tiến hành các chiến dịch lục soát, đột kích, bắt giam, thẩm vấn, tra tấn, trục xuất, di cư cưỡng bức, bỏ tù và xử tử. Vào tháng 5 năm 1959, Diệm thông qua Luật 10/59 cho phép bắt giữ, xét xử và xử tử bất cứ ai bị cáo buộc (tình nghi) phá hoại an ninh quốc gia trong vòng 3 ngày. Các chính sách đàn áp đã khiến cho cựu Việt Minh (cùng với một số dư đảng của đạo Cao Đài và Hòa Hảo cũng như băng nhóm Bình Xuyên) trốn vào khu vực đồng bằng Châu Thổ Sông Mekong và tự tổ chức thành lực lượng tự vệ vào năm 1958.

Vào tháng 12 năm 1960, họ thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, hay còn được gọi là NLF. Diệm và Hoa Kỳ gọi nhóm hỗn hợp này là “Việt Cộng”.

Trong tập 2, khi Burns và Novick sự bất mãn đối với Diệm bằng cuộc khủng hoảng đạo Phật, họ đã bỏ qua việc Diệm đàn áp nông dân và cựu binh Việt Minh vào những năm 1950 cũng như việc ông ta ủng hộ giai cấp địa chủ. Một lần nữa, xung đột giai cấp biến mất trong câu chuyện của họ.

Những lãng quên khác – Sự xâm lược được Hoa Kỳ hậu thuẫn để chống lại chính quyền Hà Nội


Ngay từ năm 1954, Hoa Kỳ đã vi phạm các điều khoản của Hiệp Định Geneva về việc cấm sự can thiệp quân sự của nước ngoài ở Việt Nam, bằng cách thực hiện các hoạt động xâm lược chống lại chính quyền Hà Nội. Hoa Kỳ tổ chức một nhóm bán quân sự (được gọi là “Binh”) trực thuộc Ủy Ban Quân Sự Sài Gòn dưới quyền đại tá Edward Lansdale và trợ lý Lucien Conein, để làm bẩn nguồn cung cấp dầu của công ty xe bus Hà Nội, nhằm mục đích phá hỏng động cơ của xe bus, phá hoại đường sắt ở Bắc Việt Nam và đánh dấu mục tiêu cho hoạt động phá hoại tương lai. Các hoạt động này được thực hiện vào tháng 9 và tháng 10 năm 1954.

Vào tháng 2 năm 1956, CIA thành lập và tài trợ cho “Nhóm Quan Sát Thứ Nhất”. Do quân đội Hoa Kỳ trang bị song được CIA điều hành, người miền Nam Việt Nam và 9 chuyên gia bán quân sự được CIA bổ nhiệm vào Sở Chỉ Huy của Nhóm Quan Sát, mục đích của nhóm là tham gia vào các chiến dịch bí mật chống lại Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Được Cố Vấn Đặc Nhiệm Quân Sự Hoa Kỳ huấn luyện ở Nha Trang trong 7 năm (1956-1962), nhóm “Quan Sát” bao gồm khoảng 20 nhóm 15 người. Các nhóm này thực hiện các hoạt động bắt cóc, ám sát, phá hoại và thu thập thông tin tình báo ở Bắc Việt Nam (cả Lào và Campuchia), thường xuyên được nhân sự Hoa Kỳ hộ tống. Sau năm 1960, với sự lớn mạnh của lực lượng nổi dậy cộng sản ở miền Nam, Nhóm Quan Sát Thứ Nhất được chuyển sang các hoạt động bí mật chống lại NFL. Vào năm 1963, nhóm được chuyển thành Lực Lượng Biệt Kích Nam Việt Nam.

Để bày tỏ sự tôn kính đối với hành động của tổng thống Kennedy trong Chiến Tranh Việt Nam, Burns và Novick cũng nên chỉ ra rằng vào mùa xuân năm 1961 Kennedy đã phê chuẩn các chiến dịch bí mật chống lại Bắc Việt Nam bằng cách gửi các đội Nam Việt Nam vượt qua vĩ tuyến 17 để tấn công đồng thới các mục tiêu quân sự và dân sự. Ông ta cũng cho phép CIA tiến hành một cuộc chiến tranh bí mật ở Lào bằng cách vũ trang cho khoảng 9.000 người Hmong để tấn công đường mòn Hồ Chí Minh. Cuối cùng, chính là dưới thời Kennedy, vào năm 1961, Hoa Kỳ đã bắt đầu cuộc chiến sinh hóa kéo dài một thập kỷ, rải 19 triệu gallon chất độc (chủ yếu là chất độc màu da cam với dioxin) xuống miền Nam Việt Nam. Ban đầu chiến dịch này có tên là “Chiến Dịch Diêm Vương” sau đó được đổi tên thành “Chiến Dịch Bàn Tay Mục Phu”. Dị tật bẩm sinh vẫn tiếp tục cho đến ngày nay ở Việt Nam và là một trong những di sản chiến tranh của Hoa Kỳ.

Bằng cách xóa bỏ các sự kiện đó khỏi câu chuyện, Burns và Novick tránh phải đối mặt với vấn đề chủ nghĩa đế quốc – khái niệm mà chính sách đối ngoại Hoa Kỳ đã đóng góp vào việc bóc lột nông dân và công nhân khắp thế giới, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đã ở phía sai trái của đấu tranh giai cấp. Không có khái niệm về xung đột giai cấp và chủ nghĩa đế quốc, Burns và Novick không thể hiểu được cội nguồn của sự chia rẽ chính trị ở Việt Nam. Rất nhiều điểm đáng chú ý có thể nêu ra nhưng bất kể là điều gì, họ cũng sẽ lẩn tránh trong lối tường thuật kiểu chủ nghĩa tự do về thảm kịch xung đột trong một thế giới ngạo mạn và thù địch giữa các quốc gia – một câu chuyện cần thiết để che dấu hiện thực của Chiến Tranh Việt Nam.

Chuck O’Connell là giảng viên xã hội học tại at UCI.


Sources


William J. Duiker, The Communist Road to Power in Vietnam (2ndedition)



John G. Gurley, Challengers to Capitalism (3rd edition)




Gabriel Kolko, Anatomy of a Wa

Mark Atwood Lawrence and Frederik Logevall (editors), The First Vietnam War: Colonial Conflict and Cold War Crisis




More articles by:CHUCK O’CONNELL

Wednesday, June 1, 2016

Hoa Kỳ lặng lẽ như đang chuẩn bị cho chiến tranh

Với kinh nghiệm của một nhà báo kỳ cựu về tin tức chiến tranh, John Pilger cảm thấy nước Mỹ đang chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh mới. Bên cạnh đó, tính đạo đức giả và những huyền thoại dối trá cũng được đề cập trong bài báo "Silencing America as It Prepares for War" của  John Pilger.

Hoa Kỳ lặng lẽ như đang chuẩn bị cho chiến tranh

Quay trở lại Hoa Kỳ trong năm bầu cử, tôi bất ngờ vì sự im lặng. Tôi đã đưa tin về bốn chiến dịch tranh cử tổng thống, bắt đầu từ năm 1968; tôi ở chỗ Robert Kennedy khi ông ta bị bắn và tôi nhìn thấy kẻ ám sát lúc đang chuẩn bị giết ông ta. Đó là lễ rửa tội theo cách Mỹ, cùng với việc bưng bít sự bạo lực của cảnh sát Chicago tại đại hội hỗn loạn của đảng Dân Chủ. Sự phản cách mạng khủng khiếp đã bắt đầu. 

Người đầu tiên bị ám sát trong năm đó, Martin Luther King, đã không ngần ngại kết nối sự đau khổ của người Mỹ gốc Phi với nhân dân Việt Nam. Khi Janis Joplin hát, “Tự do chỉ là cách nói khác của không còn gì để mất”, cô đã phát biểu một cách vô thức cho hàng triệu nạn nhân của nước Mỹ ở những nơi xa xôi. 

“Chúng ta đã mất 58.000 người lính trẻ ở Việt Nam và họ chết để bảo vệ tự do của các bạn. Đừng quên điều đó.” Một hướng dẫn viên của Dịch Vụ Công Viên Quốc Gia đã nói như vậy khi tôi quay phim tại đài tưởng niệm Lincoln ở Washington vào tuần trước. Anh ta hướng dẫn một buổi tiệc trường học của các thiếu niên mặc áo phông màu cam sáng. Bằng cách lặp đi lặp lại, anh ta đã biến sự thật về Việt Nam thành một lời nói dối không thể bác bỏ.

Hàng triệu người Việt Nam đã chết, bị thương, bị nhiễm độc và bị tàn tật trong cuộc xâm lược của Hoa Kỳ không có vị trí lịch sử trong tâm hồn trẻ thơ, chưa kể đến gần 60.000 cựu chiến binh đã tự sát. Một người bạn của tôi, một lính thủy bị mất cả hai chân ở Việt Nam, thường được hỏi rằng “Anh chiến đấu cho phe nào?”

Vài năm trước đây, tôi đến một cuộc triển lãm nổi tiếng có tên là “Cái Giá Của Tự Do” tại Viện Smithsonian ở Washington. Hàng dài thường dân, hầu hết là trẻ em chen chúc nhau đi qua một cái hang Santa theo kiểu tân thời, được nghe toàn những lời dối trá: việc ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki đã cứu sống “một triệu người”; Iraq được “giải phóng [bằng] không kích với sự chính xác phi thường”. Bối cảnh thực sự anh hùng: Chỉ có người Mỹ phải trả giá cho tự do. 

Chiến dịch tranh cử năm 2016 đáng chú ý không chỉ bởi vì sự xuất hiện của Donald Trump và Bernie Sanders mà còn bởi vì sự tái xuất hiện của một sự im lặng kéo dài về tính thần thánh tự phong đầy chết chóc. Một phần ba số thành viên của Liên Hiệp Quốc đang cảm thấy sự áp bức của Washington, lật đổ các chính quyền, tàn phá dân chủ, áp đặt phong tỏa và tẩy chay. Hầu hết các tổng thống phải chịu trách nhiệm đều là cánh tự do – Truman, Kennedy, Carter, Clinton, Obama.

Kỷ lục nghẹt thở của sự mất niềm tin cũng đang diễn ra trong nhận thức của công chúng, sau này Harold Pinter viết, điều đó “chưa bao giờ xảy ra… Không có gì xảy ra. Ngay cả khi điều đó đang diễn ra thì nó cũng không diễn ra. Điều đó không quan trọng. Không đáng quan tâm. Nó không quan trọng …”. Pinter nhại lại sự thừa nhận đối với cái mà ông gọi là “một sự thao túng lạnh lùng quyền lực thế giới trong khi giả bộ là lực lượng đứng về phía cái tốt phổ quát. Đó là một hành động vô thức cực kỳ thành công, nổi bật, thậm chí là hài hước.”

Ví dụ như Obama. Khi ông ta chuẩn bị mãn nhiệm, sự rác rưởi lại được bắt đầu lại từ đầu. Ông ta “tuyệt vời”. Một trong những tổng thống đầy bạo lực, Obama đã trao toàn quyền cho cỗ máy chiến tranh Lầu Năm Góc của tổng thống tiền nhiệm đã thất sủng. Ông ta truy tố nhiều người tiết lộ - những người nói sự thật – hơn bất cứ tổng thống nào khác. Ông ta tuyên bố Chelsea Manning có tội trước khi cô ta bị xét xử. Hiện nay, Obama thực hiện một chiến dịch khủng bố và giết chóc toàn cầu chưa từng có tiền lệ với máy bay không người lái.

Vào năm 2009, Obama hứa hẹn sẽ giúp “giải trừ vũ khí hạt nhân trên thế giới” và được trao giải Nobel Hòa Bình. Không có tổng thống Mỹ nào chế tạo nhiều đầu đạn hạt nhân hơn Obama. Ông ta “hiện đại hóa” các đầu đạn ngày tận thế của Hoa Kỳ, trong đó có các vũ khí hạt nhân “mini”, với kích thước và công nghệ “thông minh”, nói theo cách chung nhất, đảm bảo rằng việc sử dụng chúng là “không còn là bất khả thi”. 

James Bradley, tác giả của cuốn sách bán chạy “Những Lá Cờ Của Cha Anh” và là con trai của một trong số những người lính thủy Mỹ đã vẫy cờ trên đảo Iwo Jima, đã nói, “[Một] huyền thoại vĩ đại mà chúng ta được chứng kiến là Obama được coi là một gã yêu hòa bình cố gắng giải trừ vũ khí hạt nhân. Ông ta là chiến binh hạt nhân lớn nhất hiện nay. Ông ta mang đến cho chúng ta cuộc chạy đua đổ hàng nghìn tỷ dollar vào vũ khí hạt nhân. Đôi khi người ta chìm đắm trong ảo giác này bởi vì ông ta đưa ra những lời mập mờ trong các cuộc họp báo và bài diễn văn và các bức ảnh đẹp đôi khi được gắn kèm vào với chính sách hiện thực. Nhưng điều đó không đúng.” 

Dưới sự điều hành của Obama, một cuộc chiến tranh lạnh thứ hai đang được chuẩn bị. Tổng thống Nga đóng vai kẻ ác; người Trung Quốc vẫn chưa quay trở lại với hình tượng châm biếm mang tóc đuôi sam của họ - khi tất cả người Trung Quốc bị đuổi khỏi Hoa Kỳ - những các chiến binh truyền thông đang chuẩn bị cho điều đó. 

Cả Hillary Clinton cũng như Bernie Sanders đều chẳng thèm đề cập tới bất cứ điều gì. Không có rủi ro hay nguy hiểm nào đối với Hoa Kỳ và tất cả chúng ta. Đối với họ, sự gia tăng quân sự lớn nhất trên biên giới với Nga kể từ Thế Chiến II không hề diễn ra. Vào ngày 11/5, Romania đã “sống” cùng với một căn cứ “phòng thủ tên lửa” của NATO, đòn không kích đầu tiên của các tên lửa Hoa Kỳ sẽ nhằm vào trái tim của nước Nga, cường quốc hạt nhân thứ hai thế giới.

Ở Châu Á, Lầu Năm Góc gửi tàu chiến, máy bay và các lực lượng đặc nhiệm tới Philippines để đe dọa Trung Quốc. Hoa Kỳ đã bao vây Trung Quốc với hàng trăm căn cứ quân sự tạo thành một vòng cung từ Australia tới Châu Á và xuyên qua Afghanistan. Obama gọi điều đó là “xoay trục”.

Hệ quả trực tiếp là Trung Quốc đã thay đổi chính sách về vũ khí hạt nhân từ không sử dụng trước sang báo động cao và trang bị vũ khí hạt nhân cho các tầu ngầm. Sự leo thang đang được gia tốc.

Đó chính là Hillary Clinton, khi còn là ngoại trưởng vào năm 2010, đã đẩy vấn đề tranh chấp lãnh thổ ở các đảo đá và đá ở Biển Đông thành vấn đề quốc tế; CNN và BBC đã điên cuồng theo đuổi; Trung Quốc xây dựng sân bay trên các đảo có tranh chấp. Trong cuộc tập trận năm 2015, Chiến Dịch Thanh Kiếm Talisman, Hoa Kỳ thực hành việc “phong tỏa” eo biển Malacca mà hầu hết dầu và thương mại của Trung Quốc phải đi qua. Đó không phải là tin tức.

Clinton tuyên bố rằng Hoa Kỳ có “lợi ích quốc gia” ở vùng biển Châu Á này. Philippine và Việt Nam được khuyến khích và hối lộ để theo đuổi các đòi hỏi và sự thù địch xưa cũ đối với Trung Quốc. Ở Hoa Kỳ, người dân được chuẩn bị để coi mọi vị trí phòng vệ của Trung Quốc là tấn công và thế là hiện trường cần phải có sự leo thang cấp tốc. Một chiến lược khiêu khích và tuyên truyền tương tự cũng được áp dụng với Nga.

Clinton, “ứng cử viên của phụ nữ”, để lại một danh sách dài các cuộc đảo chính đẫm máu: ở Honduras, ở Libya (cùng với việc sát hại tổng thống Lybia) và Ukraine. Ukraine giờ là sàn diễn của CIA với diễn viên là đám phát xít và mặt trận trở thành cuộc chiến tranh chống lại Nga. Chính là thông qua Ukraine – theo nghĩa đen, vùng biên giới – mà quân phát xít của Hitler đã xâm lược Liên Bang Soviet, khiến 27 triệu người thiệt mạng. Thảm kịch ấy vẫn còn dấu vết ở Nga. Chiến dịch tranh cử của Clinton đã nhận tiền tài trợ từ chín trong số mười công ty vũ khí lớn nhất thế giới. Chưa từng có ứng cử viên nào làm được điều đó. 

Sanders, niềm hy vọng của nhiều thanh niên Mỹ, cũng không khác mấy so với Clinton trong thế giới quan về bên ngoài nước Mỹ. Ông ta ủng hộ việc ném bom phi pháp Serbia của Bill Clinton. Ông ta ủng hộ sự khủng bố bằng máy bay không người lái của Obama, sự khiêu khích đối với Nga và sự quay trở lại của các lực lượng đặc nhiệm (các đội tử thần) ở Iraq. Ông ta không nói gì về sự đe dọa đối với Trung Quốc và sự gia tăng nguy cơ chiến tranh hạt nhân. Ông ta đồng ý rằng Edward Snowden phải ra tòa và ông ta gọi Hugo Chavez – giống như ông ta, một người dân chủ xã hội – là “nhà độc tài cộng sản đã chết”. Ông ta hứa hẹn sẽ ủng hộ Clinton nếu như bà ta được đề cử.

Việc bầu chọn Trump hay Clinton chỉ là ảo tưởng lựa chọn xưa cũ, không có sự lựa chọn nào hết: hai mặt của cùng một đồng xu. Để đổ tội cho các nhóm thiểu số và hứa hẹn “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”, Trump là kẻ dân túy đối nội cánh hữu; tuy vậy Clinton có thể là sự nguy hiểm chết người hơn đối với thế giới. 

“Chỉ có mình Donald Trum nói những thứ ý nghĩa và mang tính phê phán đối với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ,” Stephen Cohen, giáo sư môn Lịch Sử Nga tại đại học Priceton và New York, đã viết, ông ta là một trong số ít các chuyên gia về Nga ở Hoa Kỳ đã phát biểu về nguy cơ chiến tranh.

Trong một chương trình phát thanh, Cohen nhắc đến những câu hỏi mang tính phê phán mà chỉ có Trump nói. Một số trong số chúng là: Tại sao Hoa Kỳ “có mặt ở khắp mọi nơi trên trái đất”? Nhiệm vụ thật sự của NATO là gì? Tại sao Hoa Kỳ luôn theo đuổi việc thay đổi chế độ ở Iraq, Syria, Lybia, Ukraine? Tại sao Washington coi Nga và Vladimir Putin là kẻ thù?

Sự cuồng loạn trong truyền thông tự do về Trump thể hiện ảo tưởng về “tranh luận tự do và cởi mở” cũng như “dân chủ được thực thi”. Quan điểm của ông ta về người nhập cư và Hồi giáo thực sự vớ vẩn, tuy vậy kẻ đứng đầu trong việc trục xuất những người yếu thế khỏi nước Mỹ lại là Obama chứ không phải Trump, di sản của Obama là sự phản bội đối với những người da màu: đa số tù nhân đang bị giam giữ là người da màu, giờ đây còn nhiều hơn trại khổ sai của Stalin. 

Chiến dịch tranh cử năm nay có thể không phải là về chủ nghĩa dân túy mà là về chủ nghĩa tự do Hoa Kỳ, một hệ tư tưởng coi bản thân là hiện đại và do vậy là siêu việt cũng như là con đường chân chính. Những người cánh hữu có sự tương đồng với đám đế quốc thế kỷ 19, với sứ mệnh Chúa đã giao phó về cải đạo, hợp tác hoặc chinh phục. 

Ở nước Anh, đó là chủ nghĩa Blair. Tội phạm chiến tranh Thiên Chúa Giáo Tony Blair đã rút lui với sự chuẩn bị bí mật cho sự xâm lược Iraq chủ yếu là bởi vì tầng lớp chính trị và truyền thông tự do thất vọng với “Anh Quốc tuyệt vời” của ông ta. Trên tờ Guardia, sự hoan nghênh đã câm lặng; ông ta được gọi là “thần bí”. Một sự đánh lạc hướng được coi là đặc trưng chính trị, được nhập khẩu từ Hoa Kỳ, dễ dàng bám lấy sự quan tâm đối với ông ta. 

Lịch sử được tuyên bố là đã kết thúc, giai cấp đã bị xóa bỏ và giới tính được khuyến khích theo chủ nghĩa nữ quyền; rất nhiều phụ nữ trở thành nghị sĩ của Đảng Lao Động Mới. Ngày đầu tiên tại Quốc Hội, họ bỏ phiếu cắt giảm phúc lợi của cha mẹ đơn thân, hầu hết là phụ nữ, như đã được chỉ dẫn. Đa số đã bỏ phiếu cho cuộc xâm lược Iraq khiến cho 700.000 phụ nữ Iraq bị góa chồng.

Sự tương tự ở nước Mỹ là những kẻ gây chiến đúng đắn về chính trị trên tờ New York Times, Washington Post và mạng lưới truyền hình, đang thống trị cuộc tranh luận chính trị. Tôi đã xem cuộc tranh luận dữ dội trên CNN về những sự phản bội của Trump. Điều đó là rõ ràng, họ nói, một người như vậy không đáng tin ở Nhà Trắng. Không có vấn đề nào được đặt ra. Không có gì về 80% người Mỹ có thu nhập tụt xuống dưới mức của những năm 1970. Không có gì về nguy cơ chiến tranh. Sự thông thái đã biết dường như chỉ là “bịt mũi trước những thứ bốc mùi” và bỏ phiếu cho Clinton: bất cứ ai ngoại trừ Trump. Theo cách đó, anh sẽ ngăn chặn con quái vật và đảm bảo hệ thống sẽ im lặng trước một cuộc chiến tranh khác. 

John Pilger can be reached through his website: www.johnpilger.com

Thursday, March 3, 2016

Bảo vệ Philippine: Hãy học Việt Nam!

Trước khi sự kiện Trung Quốc xâm lấn đảo mà Philippine đang chiếm giữ trên quần đảo Trường Sa diễn ra khoảng hơn 1 tháng, tờ Thời Báo Manila đã có đăng bài viết của nhà báo Ricardo Saludo cảnh báo sự phụ thuộc của Philippine vào Mỹ trong vấn đề quốc phòng. Ông cho rằng chiến lược quốc phòng của Philippine cần phải làm ngược lại chiến lược hiện nay, tức là giảm sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ ở Philippine để không khiêu khích Trung Quốc, nhất là sự có mặt của vũ khí hạt nhân, đồng thời gia tăng chi tiêu cho các loại vũ khí phòng thủ mang tính răn đe cao để làm nản lòng Trung Quốc, giống như Việt Nam đã làm. Sự xâm lấn không ngừng của Trung Quốc tại các đảo mà Philippine chiếm giữ, trong đó có nhiều đảo Philippine đã chiếm của Việt Nam từ trước năm 1975, mà Hoa Kỳ hoàn toàn không có động thái can thiệp đã cho thấy sự phá sản của chiến lược trông cậy vào đồng minh lớn. Một lần nữa người Philippine lại nhìn sang bài học độc lập, tự chủ, tự cường của Việt Nam. 

Phần bình luận của độc giả cũng được dịch để bạn đọc có thể biết thêm về dư luận công chúng ở Philippine, điều thú vị là dư luận công chúng ở nước họ cũng có nhiều điểm tương đồng một cách kỳ lạ với dư luận ở Việt Nam.


Ngày 21/1/2016 12:03 chiều 


Philippines có thể có sự bảo vệ bên ngoài mạnh mà không cần có Hiệp Định Hợp Tác Quốc Phòng Nâng Cao (EDCA) gia tăng sự triển khai của quân đội Hoa Kỳ cũng như sự tiếp cận của họ đối với các căn cứ của Philippine? 

Có vài sai lầm trong câu hỏi đó. Ngay cả khi có nhiều thêm quân đội Hoa Kỳ ở Philippine theo hiệp định, họ cũng sẽ không chiến đấu để bảo vệ sự đòi hỏi lãnh thổ của chúng ta, vậy thì tại sao phải viện dẫn đến EDCA? 

Hoa Kỳ đã không bao giờ can thiệp khi Trung Quốc chiếm đá Vành Khăn vào năm 1995 và bãi cạn Cỏ Mây vào năm 2012, tổng tư lệnh Obama đã không có bất cứ phản ứng nào khi sự tranh chấp hàng hải giữa Trung Quốc và Philippine trở nên bạo lực, như các phóng viên của Palace đã hai lần đưa ra câu hỏi vào năm 2014. Ngay cả sự đòi hỏi quy mô lớn của Trung Quốc cũng như việc xây dựng các cơ sở của họ ở Trường Sa, Hoa Kỳ cũng chỉ phản đối bằng miệng và hành động duy nhất đáng để bàn luận là việc tuần tra chung với hải quân Philippine. 

Do đó, EDCA không phải là yếu tố giải quyết vấn đề an ninh bên ngoài tối thượng của quốc gia hiện nay: tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. 

Đối với bản thân quần đảo, không có nguy hiểm tức thời hay trong tương lai gần, ít nhất là trước khi EDCA cho phép thêm các vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ tiến vào quần đảo. Ngay cả khi không có hiệp định mới, theo Hiệp Ước Phòng Thủ Tương Hỗ (MDT) Hoa Kỳ cũng đã cam kết sẽ hành động nếu như lãnh thổ chính hay quân đội của chúng ta bị tấn công.

Nhắc lại: MDT bao quát sự phòng thủ của Hoa Kỳ đối với lãnh thổ chính của Philippine, vốn không đối mặt với nguy cơ xâm lược. Nhưng cả MDT và EDCA đều không cam kết là quân đội Hoa Kỳ sẽ chống lại sự xâm lấn của Trung Quốc tại các đảo đá và bãi cạn mà Philippine đang chiếm giữ.

Làm dịu các nguy cơ

Tốt thôi, chúng ta làm cách nào để gia tăng an ninh quốc gia, có hoặc không có EDCA?

Thứ nhất, giảm nhẹ các nguy cơ. Điều này sẽ gia tăng an ninh quốc gia trước khi gia tăng quốc phòng.

Mối đe dọa an ninh hàng đầu hiện nay và sắp tới, đặc biệt là khi có thêm các lực lượng hạt nhân của Hoa Kỳ được triển khai ở quần đảo, là nguy cơ Trung Quốc sẽ tấn công vào lực lượng Hoa Kỳ có khả năng dùng vũ khí hạt nhân chống lại họ, cùng với các căn cứ và cơ sở hỗ trợ Hoa Kỳ.

Đừng tin bất cứ ai nói rằng Trung Quốc, đối mặt với sự tấn công hạt nhân từ các căn cứ của Hoa Kỳ ở Philippine, sẽ không vô hiệu hóa các lực lượng này, ngay cả khi phải gây thiệt hại liên đới lớn đối với nước ta, ngay cả khi điều đó châm ngòi cho cuộc chiến tranh nhiệt hạch. 

Hồi năm 1962, khi Nga cố đưa các tên lửa vào Cuba sau khi các đầu đạn của Hoa Kỳ được đặt ở Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ đã sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh tổng lực, tên lửa đạn đạo và máy bay ném bom đều sẵn sàng chiến đấu. May mắn là cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba đã kết thúc sau khi cả Moscow và Washington đều rút tên lửa về. 

Đừng hoài nghi về điều này: Trung Quốc cũng sẽ tham chiến nếu bị đe dọa bằng vũ khí hạt nhân.

Do vậy, bước quan trọng nhất để nâng cao an ninh của Philippine là đảm bảo rằng không có vũ khí hạt nhân được đưa vào lãnh thổ của chúng ta, như hiến pháp đã cấm và phán quyết của tòa án tối cao về EDCA đã lặp lại.

Điều này có nghĩa là thúc ép chính quyền yêu cầu Hoa Kỳ đảm bảo rằng không có tàu chiến hay máy bay nào mang vũ khí hạt nhân tiến vào quần đảo, như bài báo hôm thứ ba đã thúc giục (xem http://www.manilatimes.net/how-to-stop-the-edca/240157/ ).

Nguy cơ đe dọa an ninh số 2, một phần là bị kích động bởi EDCA, là Bắc Kinh gia tăng xây dựng các cơ sơ năng lực quân sự không quân và hải quân trên các đảo tranh chấp ở Trường Sa. Để chống lại nguy cơ này, chúng ta cần thuyết phục Trung Quốc dùng các cơ sở này chủ yếu cho mục đích dân sự và ngừng xây thêm.

Đúng vậy, nhiều người sẽ cười khúc khích. Trên thực tế, đây là điều mà Bắc Kinh muốn và họ có thể sẵn sàng phi quân sự hóa đá Chữ Thập. Để đổi lấy sự cắt giảm triển khai quân đội Hoa Kỳ ở Philippine, người Trung Quốc có thể đồng ý kiềm chế sự gia tăng quân sự của họ trên biển Nam Trung Hoa.

Quân sự hóa phần lớn là để bảo vệ tuyến đường hàng hải sống còn, nơi có 4/5 lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc đi qua. Nếu như sự gia tăng quân sự của Hoa Kỳ ở Philppine được kiềm chế, Trung Quốc sẽ ít có lý do gia tăng triển khai lực lượng của họ ở gần quần đảo.

Bắc Kinh có sẵn sàng cắt giảm hoạt động quân sự ở đá Chữ Thập để đổi lấy sự cắt giảm quân đội Hoa Kỳ ở nước ta?

Tại sao không? Sự lựa chọn của Trung Quốc là việc gia tăng quân sự biển sâu đầy đắt đỏ và bị quốc tế phản đối, có thể kéo dài nhiều năm và tiêu tốn hàng chục tỷ nhân dân tệ để bắt kịp hạm đội 7, với sự hậu thuẫn của 8 căn cứ ở Philippine.

Không có gì là phức tạp đối với Bắc Kinh: biến đá Chữ Thập thành cơ sơ du lịch và hàng hải quốc tế, cắt giảm mạnh quân đội của Hoa Kỳ ở Philippine là tạo điều kiện cho điều đó. 

Thực hiện quyền phòng vệ

Dĩ nhiên, vấn đề của những nỗ lực làm dịu nguy cơ là Trung Quốc có thể tiếp tục xâm lấn và thậm chí coi những sáng kiến hòa giải là dấu hiệu của sự yếu đuối cần khai thác.

Do vậy, bên cạng việc làm dịu nguy cơ, Philippine cần phải tiếp tục gia tăng quốc phòng – nhưng không phải theo cách Hoa Kỳ và các đồng minh khác đang giúp chúng ta thực hiện.

Đất nước này đã chi hơn 30 tỷ pesos vào máy bay huấn luyện của Hàn Quốc, máy bay trực thăng tân trang của Hoa Kỳ và các trang bị khác. Chúng ta cũng nhận được hai tàu cảnh sát biển Hoa Kỳ, tàu tuần tra Nhật Bản và trang bị của Australia.

Tuy vậy, tất cả các trang thiết bị đó sẽ không làm nản lòng Trung Quốc. Trái lại, như các chuyên gia quân sự Hoa Kỳ đã nói, chúng ta cần các vũ khí chống xâm nhập, phong tỏa khu vực (A2AD), làm nản lòng mọi đối thủ tại nơi hệ thống vũ khí A2AD được triển khai. 

Hãy học hỏi Việt Nam: họ mua tàu ngầm và tên lửa diệt hạm. Tàu ngầm đe dọa một khu vực rộng lớn vượt xa vị trí thực tế của chúng, do chúng khó bị phát hiện và có thể ở bất cứ đâu trong phạm vi hoạt động.

Trong khi đó, tên lửa diệt hạm siêu thanh có thể đánh chìm mọi thứ trong tầm bắn. Tầm bắn 300 km của đầu đạn Ấn-Nga BrahMos – đủ để bao quát hầu hết khu vực đặc quyền kinh tế của đất nước. Việt Nam đã có lợi thế khi mua chúng.

Cựu cố vấn an ninh quốc gia và tốt nghiệp học viện hải quân Hoa Kỳ Rolio Golez đã thúc giục triển khai 200 BrahMos, có thể lắp 3 đầu đạn trên một xe tải và di chuyển tới bất cứ đâu, khiến chúng khó bị phát hiện.

Chỉ riêng 200 tên lửa cũng tạo ra một sự răn đe đáng kể, chỉ với khoảng 35 tỷ pesos, bao gồm cả cơ sở hạ tầng hỗ trợ và huấn luyện vận hành. Quốc hội có thể phân bổ một phần tiền thuê mỏ khí đốt Malampaya, hiện giờ khoảng 150 tỷ pesos, cho các tên lửa – một dự án liên quan có đến năng lượng để bảo vệ các nguồn khí đốt và dầu ngoài khơi.

Thay vì EDCA, công thức cho sự phòng thủ bên ngoài của Philippine nên là RT-A2AD. Giảm thiểu các nguy cơ (RT) và triển khai hệ thống vũ khí chống xâm nhập, phong tỏa khu vực (A2AD). Cộng thêm NN: Không vũ khí hạt nhân.

11 Hồi đáp cho bài báo Bảo Vệ Philppine

1. fgood nói: 

Tôi cho rằng tổng thống tiền nhiệm của Philippine đều biển thủ tiền. Các binh lính khốn khổ của Philippine đều bị lừa bịp và khó mà nhận ra rằng không quân chỉ là máy bay huấn luyện, luôn luôn huấn luyện. Hải quân chỉ có một chiếc tàu cũ nát và quân đội của chúng ta chỉ có trang thiết bị lỗi thời. AFP tốt trong cuộc chiến tranh 1945 nhưng hiện nay họ chỉ là những con vịt què, mọi thứ đều là công nghệ cao. Tôi cảm thấy thật tồi tệ khi họ có trái tim của chiến binh nhưng ông chủ của họ lại lừa dối họ.

2. Mariano Patalinjug nói: 

Yonkers, New York
22 January 2016
Nhà báo Ricardo Saludo đã bỏ thời gian và nỗ lực để cân đo tác động chiến lược của EDCA – và quan điểm của ông đáng được các thiết chế quốc phòng và chính trị của quốc gia nghiên cứu một cách nghiêm túc.

Tuy vậy, chiến lược bao trùm và sự thật địa chính trị là Trung Quốc và Hoa Kỳ đang bắt tay nhau trong một nỗ lực thống trị vùng biển quốc tế ở biển Nam Trung Hoa (SCS), tại đó có khoảng 5 nghìn tỷ thương mại hàng hải đi qua hàng năm, trong đó phần nhiều là dầu từ Trung Đông – cũng là khu vực mà Trung Quốc đã 1] tự ý áp đặt một đường được gọi là “Chín Đoạn, bao phủ hầu như toàn bộ SCS và tiến xa về phía Nam sát với Indonesia và 2] đào xới bất hợp pháp các cấu trúc hàng hải ở biển Tây Philippine mà Philippine khẳng định một cách đúng đắn là một phần lãnh thổ của mình theo Luật Quốc Tế [UNCLOS].

Điều đã xảy ra là Hoa Kỳ, hết lần này tới lần khác trong thời gian gần đây, đã tuyên bố cho toàn thế giới là HỌ CÓ LỢI ÍCH QUỐC GIA TRONG VIỆC GIỮ TUYẾN ĐƯỜNG BIỂN ĐANG BỊ TRANH CHẤP, VỐN LÀ VÙNG BIỂN QUỐC TẾ, Ở BIỂN NAM TRUNG HOA, HOÀN TOÀN MỞ CỬA.

Do vậy, vấn đề địa chính trị giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ hiện nay là vấn đề chung. Đó là bối cảnh địa chính trị của EDCA: EDCA, trong chừng mực mà Philippine và Hoa Kỳ quan tâm, chỉ là sự triển khai logic của MDT và VFA.

Hoa Kỳ, rõ ràng là đang thực hiện mọi chuẩn bị cần thiết cho việc ngả bài với Trung Quốc về biển Nam Trung Hoa, đã sẵn sàng đóng quân và mọi loại trang thiết bị quân sự và hải quân ở các căn cứ của Philippine, cận kề tối đa với mặt trận tiềm tàng – một lợi thế rất lớn nếu không nói là quyết định đối với Hoa Kỳ. 

Điều đó giải thích lý khiến ngay sau ngày tòa án tối cao phán quyết EDCA HỢP HIẾN, Trung Quốc đã lên án chính quyền bằng những khái niệm không chắc chắn. 

MARIANO PATALINJUG

3. Val Ofreneo nói: 

Hãy thông minh. Về vấn đề kiểm soát tài nguyên như dầu mỏ và vùng đáng bắt cá ư? Trung Quốc đã khởi động căn cứ của họ tại khu vực tranh chấp và họ tuần tra vùng biển cũng như bầu trời và cảnh báo những ai tới gần. Không có lực lượng nào ngăn cản được họ ngoại trừ, có thể là, Nhật Bản. Philippine chúng ta đứng ở đâu? Chúng ta không có năng lực. 

4. Bob Uga says: 

Chúng ta có ít trang thiết bị quốc phòng, bao gồm của RTA2AD và BrahMos. EDCA bao quanh và giúp đơ bởi vì Hoa Kỳ có lợi ích chung với chúng ta – đảm bảo tự do hàng hải trên biển Trung Hoa. Hoa Kỳ sẽ không bao giờ can thiệp vào vấn đề Trường Sa của chúng ta và đó VẤN ĐỀ RIÊNG của Philippine chúng ta.

Sự phòng thủ tốt nhất của chúng ta là THỐNG NHẤT TẤT CẢ NGƯỜI PHILIPPINE để bảo vệ chủ quyền và di sản quốc gia. Chúng ta nên học từ người Việt Nam. RẮC RỐI là người Philippine chúng ta CHIA Rẽ, do vậy, Trung Quốc lợi dụng, trong khi NGƯỜI PHILIPPINE CHÚNG TA đang bận rộn CÃI LỘN LẪN NHAU. Kawawang Pilipinas Kong Mahal và chúng ta phải THỐNG NHẤT ngay hoặc không bao giờ.

5. Andres Soriano says: 

Tôi không đồng ý với tác giả. Trong hiện thực ngày nay, sự sống còn của một quốc gia là nhờ vào các liên minh kinh tế và quân sự. Hãy nhìn Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, NZ, Việt Nam và hầu hết các nước ASEAN, họ xây dựng hoặc củng cố liên minh với Hoa Kỳ. Trung Quốc bị cô lập giữa những nước láng giềng.


Tôi hoàn toàn đồng ý với bình luận của bạn.

6. JRT nói: 

Đề xuất về tên lửa dường như hợp lý nhưng hoàn toàn không đáng tin cậy. Nó rất dễ bị tấn công bởi bất cứ quân đội nào đã có mặt trên đất của chúng ta. Nó cũng có thể bị phát hiện bằng vệ tinh và máy bay do thám. Lựa chọn duy nhất mà tôi thấy có thể răn đe Trung Quốc là việc Bắc Triều Tiên đang làm với kho vũ khí của họ…vũ khí hạt nhân. Phải vũ khí hạt nhân sẽ làm nản lòng mọi quốc gia muốn tấn công một quốc gia có vũ khí hạt nhân. Để làm điều này…chúng ta phải khôi phục chương trình vũ khí hạt nhân, phát triển và đào tạo các nhà khoa học hạt nhân, có chương trình trao đổi với những quốc gia có năng lực về vũ khí hạt nhân. 

7. Thai Anton nói: 

Hai chiến đấu cơ F50 của không quân Indonesia đã rơi, chính là những máy bay mà Philippine mua của Hàn Quốc!!

8. Ed DeCastro nói: 

Đó là vấn đề đối với người Philippine chúng ta. Chúng ta luôn làm ra vẻ rất thông minh với các vấn đề quốc tế và chính trị. Nhưng thực tế, mahilig lang tayong pumuna ng mga ibang tao. Anong kakayahan ng Pilipinas na ilaban sa China. Wala!!! Kinuha na nga ng mga Inksekto ang ibang isla ay ngawa pa rin tayo ngawa na wala naman tayong ginagawa. Chúng ta kiếm đâu ra tiền để mua tàu ngầm, tên lửa diệt hạm và các loại tên lửa khác? Nếu các viên chức chính quyền từ cấp barangays tới quốc gia không trộm cắp tiền ngân sách hay tham nhũng để làm giàu cho bản thân thì chúng ta có đủ khả năng mua chúng. Việt Nam có kỷ luật hơn Philippine. Philippine là đất nước tham nhũng và lên án điều này đối với các chính khách hiện tại cũng như quá khứ như Binay, Enrile, Estrada, Revilla.

Trả lời

OO nga pop. Ano ngayon ang gagawin. Tumahimik na tanggapin ang ating pagkabusabos sa kamay ngt mga Tsino? (Ayaw p nami8n ang bastos na salitang “Intsik”).
O magpakamatayt na lang ba tayong lahat?

9. Virgilio garcias nói:

Tôi cho rằng bài xã luận này là thiên kiến. Nó chỉ đề cập đến năng lực của Trung Quốc trong việc tấn công quân đội Hoa Kỳ trên lãnh thổ của chúng ta.

Thế còn việc tấn công ngăn chặn mà Hoa Kỳ có thể thực hiện đối với quân đội Trung Quốc? Xin ngài tác giả hãy nhớ rằng quân đội và vũ khí Hoa Kỳ hiện đại và tinh vi nhất thế giới.

Trả lời

Đây không phải là xã luận của Manila Times. Đây là bài báo, thưa ngài, của một cây bút cá nhân – không phải đại diện của ban biên tập và điều hành tờ Manila Times. Nhưng ông ấy là người được cả tờ Times cũng như công chúng đánh giá cao.

o Lemuel Dimagiba nói:

Điều gì khiến anh nghĩ rằng Hoa Kỳ sẽ đánh phủ đầu Trung Quốc cho Philippine? Lol. Đừng ngây thơ thế.

Sunday, December 6, 2015

Hoa Kỳ biện minh cho chủ nghĩa quân phiệt bằng cách kỷ niệm chiến tranh xâm lược Việt Nam

Hoa Kỳ đang tiếp tục triển khai chương trình kỷ niệm 50 năm chiến tranh xâm lược Việt Nam, chính quyền Hoa Kỳ đang tìm cách sửa chữa các thông tin về chiến tranh xâm lược Việt Nam để biện minh cho chủ nghĩa quân phiệt, nhưng không phải người Mỹ nào cũng khờ khạo đến mức tin vào họ. Robert Fantina trong bài "Whitewashing Militarism, Vietnam-War Edition" đã phân tích từng mục tiêu của chương trình kỷ niệm và chỉ ra những khía cạnh bị che dấu.

Biện minh cho chủ nghĩa quân phiệt, xã luận về chiến tranh Việt Nam
Hình minh họa: Bôi xóa sự thật về chiến tranh xâm lược Việt Nam
Nguồn: Internet
Năm nay đánh dấu 40 năm sự kiện người Việt Nam chiến thắng Hoa Kỳ, trong cuộc chiến tranh đã tàn phá Việt Nam và gây ra những tổn thương và chia rẽ không thể kể hết ở Hoa Kỳ. Có thể thấy rằng sau khi người dân Việt Nam có thể chống lại cỗ máy quân sự hùng mạnh nhất thế giới, Hoa Kỳ cần phải suy nghĩ lại về việc gây chiến tranh và xâm lược quân sự, cũng như chuyển sang ngoại giao trước khi dùng đến bom đạn. Bài học về Việt Nam cần phải được ghi nhớ. 

Không có nhà sử học nào nhận ra rằng những bài học của cuộc chiến tranh thảm họa ấy đều đã nhanh chóng bị quên lãng. Điều đó không chỉ được khẳng định bằng hầu hết sự gây chiến thường xuyên của Hoa Kỳ kể từ khi họ bại trận ở Việt Nam, mà hiện giờ chính quyền cũng “kỷ niệm” thảm họa đế quốc chết chóc ấy. Để kết thúc, họ đã tổ chức một chương trình kỷ niệm trong 13 năm cho mốc 50 năm chiến tranh ở Việt Nam. Chương trình được bắt đầu vào năm 2012 và cả đất nước sẽ phải theo dõi nó, dưới hình thức này hay hình hay hình thức khác, cho đến năm 2025.

Trên trang web của chương trình kỷ niệm có đăng 5 mục tiêu được đặt ra. Mỗi mục tiêu là đều rối rắm hơn mục tiêu trước đó. Chúng ta sẽ xem xét chi tiết từng mục tiêu. 

“Để cảm ơn và vinh danh cựu chiến binh Chiến Tranh Việt Nam, bao gồm cả những người bị bắt làm tù binh chiến tranh (POW), hoặc bị coi là mất tích trong khi hành động (MIA), vì sự phục vụ và hi sinh của họ theo mệnh lệnh của Hoa Kỳ cũng như cảm ơn và vinh danh gia đình của những cựu chiến binh đó.”

Hoa Kỳ có một cách cảm ơn các cựu chiến binh thật kỳ quặc, nếu như họ tin rằng sự phô trương mang tính chất tình thế ấy sẽ lừa gạt được người khác. Cựu chiến binh, trong đó có một số lượng lớn những người đã “phục vụ” (sẽ nói chi tiết hơn về khái niệm nực cười này sau) ở Việt Nam, có tỷ lệ trầm cảm, tự tử, vô gia cư, nghiện ma túy và bạo lực gia đình cao hơn mức trung bình. Nạn nhân của chất độc màu da cam, chất diệt cỏ được sử dụng phổ biến ở Việt Nam, gây ra những vấn đề không thể kể hết về thể chất cho cựu chiến binh và con cái của họ, đã đấu tranh trong nhiều năm để buộc chính quyền thừa nhận bệnh tật của họ là do những hóa chất đó gây ra. Các bệnh viện của cựu chiến binh đã đưa ra những danh sách chờ đợi dài dặc và những tình trạng tệ hại. 

“Để nhấn mạnh sự cống hiến của lực lượng vũ trang trong chiến tranh Việt Nam và sự đóng góp của các cơ quan liên bang và các tổ chức chính phủ cũng như phi chính phủ đã phục vụ cùng với, hoặc hỗ trợ, lực lượng vũ trang.”

Người ta sẽ thấy ngạc nhiên khi có ai đó muốn nhấn mạnh hoạt động của những tổ chức đã giúp cho việc giết hại những người đàn ông, đàn bà và trẻ em vô tội dễ dàng cũng như hiệu quả hơn.

“Để bày tỏ sự tôn kính đối với những đóng góp tại mặt trận quê nhà của những người dân Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam.”

Có lẽ bất cứ ai có kiến thức sơ đẳng về cuộc sống ở Hoa Kỳ trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam đều biết rằng quốc gia phải bày tỏ sự tôn kính đối với đóng góp của những người đã phản đối chiến tranh. Hàng chục ngàn thanh niên đã bỏ trốn để không trở thành nạn nhân của việc buôn nô lệ của Hoa Kỳ với cái được gọi là nhập ngũ bắt buộc. Hàng sa số những người khác đến Việt Nam rồi trở về quê nhà và tích cực chống chiến tranh. Hàng sa số những người khác đã bị bỏ tù khi những hoạt động phản đối có lương tâm của họ bị từ chối, hay khi họ công khai đốt bỏ thẻ quân dịch. Thậm chí ngay cả truyền thông thuộc sở hữu của doanh nghiệp cũng như nhiều chính khách cũng coi những hành động đó là chính đáng và vinh danh chúng. Nhưng trong chương trình kỷ niệm bất tận này, tất cả những điều đó bị lảng tránh.

“Để nhấn mạnh sự tiến bộ trong công nghệ, khoa học và y tế của các nghiên cứu quân sự được thực hiện trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam”.

Dĩ nhiên là giờ thì chúng ta thấy cốt lõi của vấn đề. “Sự tiến bộ” đó chủ yếu phục vụ cho một nhóm nhỏ tài phiệt làm giàu từ chiến tranh. Mọi con bê vàng đều luôn được tôn sùng ở Hoa Kỳ. Nếu như có nhiều tiến bộ về công nghệ, khoa học và y tế bắt nguồn từ chiến tranh Việt Nam thì tại sao các cuộc chiến khác lại không tạo ra chúng và tại sao lại không nhìn nhận những tiến bộ bổ sung đã được tạo ra?

“Để ghi nhận những đóng góp và hy sinh của các đồng minh của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam.”

Thật phi lý khi cho rằng những đồng minh này sẽ sớm quên tất cả mọi chuyện. Tất cả các lưu ý về sự can dự rồ dại của Hoa Kỳ ở Việt Nam đều được so sánh với những sai lầm của Hoa Kỳ khi xâm lược Iraq với biện minh tương tự (hãy hiểu là: không tương tự). Thế nên vụ tưởng niệm vui vẻ này có thể không phải là thứ mà các đồng minh sẽ chào đón.

Giờ thì chúng ta sẽ xem xét khái niệm “phục vụ quân sự”, một phép nghịch hợp ngay cả khi chỉ có một. Chủ nghĩa quân phiệt, như đã được Hoa Kỳ phô bày thừa thãi trong hơn hai thế kỷ qua, đem đến chết chóc, nghèo đói, áp bức, phủ nhận nhân quyền, cũng như hàng sa số tổn thương khác cho những người đàn ông, đàn bà và trẻ em vô tội. Đây là sự thật kể từ chiến tranh 1812 cho đến tận ngày nay, khi Hoa Kỳ và đồng minh của họ ném bom Syria, cũng như phát tán sự thương vong ở đó, đồng thời gia tăng sự thù ghét đối với Hoa Kỳ. Việc giết hại người vô tội có thể được gọi là “thiệt hại liên đới”, nhưng người vô tội đã bị thương và chết nhiều hơn “những kẻ thù” mà Hoa Kỳ đã tự đặt ra.

Liệu những điều này có liên quan gì đến sự phục vụ? Từ đó, trừ khi bị xuyên tạc bằng cách gắn vào với từ “quân đội”, hàm ý về một sự hỗ trợ mang tính vị tha, hoạt động giúp đỡ những người bị thương, hoặc bất hạnh hơn những người đang phục vụ. Những tình nguyện viên tại nhà tạm cho người vô gia cư, tại ngân hàng thực phẩm, chương trình trường học cũng như tại những cơ sở khác mà người dân nhận được sự trợ giúp, có thể được gọi là phục vụ. Những giáo viên cống hiến cả cuộc đời để dạy học, bất chấp đồng lương thấp, cũng là phục vụ. Nhưng binh lính xâm lược một quốc gia độc lập và giết hại thường dân của quốc gia đó thì không phải là phục vụ; đó là từ ngữ để chỉ việc giết người và không phải là “phục vụ”. 

Nhưng ngày nay và cũng như trong nhiều năm tới, dường như tổng thống và nhiều chính khách khác sẽ ca tụng sự vĩ đại của nguyên nhân dẫn đến chiến tranh Việt Nam, với cặp kính mắt màu hồng 40 năm tuổi và ca ngợi điều đó như là một ví dụ về sự vĩ đại của Hoa Kỳ. Không ai đề cập đến sự nổi giận của các trường đại học, thường xuyên dẫn đến việc cảnh sát đàn áp sinh viên cực kỳ dã man. Thanh niên bỏ trốn khỏi đất nước để tránh bị cưỡng bách tham gia một cuộc chiến tranh vô đạo đức cũng bị lảng tránh. Những công dân khờ khạo cũng sẽ quên cảnh người Mỹ bỏ chạy một cách tuyệt vọng khỏi Sài Gòn khi Việt Cộng tiến quân vào, sẽ đặt tay lên ngực, thề trung thành với lá cờ và ngồi xuống khi Hoa Kỳ tiếp tục vận hành cỗ máy giết chóc ghớm ghiếc nhất hành tinh.

Robert Fantina’s latest book is Empire, Racism and Genocide: a History of US Foreign Policy (Red Pill Press).

Wednesday, October 28, 2015

Chiến hạm Hoa Kỳ tiến sát đá Subic trên biển Đông: Tự do hàng hải hay khiêu khích Trung Quốc?

Sự kiện tàu chiến Hoa Kỳ đi vào phạm vi 12 hải lý của đá Subi mà Trung Quốc đang kiểm soát đã kích động dư luận chủ nghĩa quốc gia ở Việt Nam. Đa số các phe phái quốc gia đều ồn ào hưởng ứng hành vi khiêu khích của Hoa Kỳ với lý do rằng điều đó cho thấy Hoa Kỳ không ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc và có lợi cho khẳng định chủ quyền của Việt Nam. Nhưng hãy hình dung các chiến hạm của Hoa Kỳ và đồng minh với lý do thực hiện tự do hàng hải tiến gần vào các đảo có công trình quân sự của Việt Nam ở các vùng đang có tranh chấp. Nhiều đồng minh của Hoa Kỳ như Đài Loan, Philippine và Malaysia hiện nay đều có tranh chấp chủ quyền với Việt Nam.  Điểm mấu chốt ở đây là Hoa Kỳ chỉ làm điều có lợi cho họ và cũng chưa bao giờ công nhận các tuyên bố chủ quyền của Việt Nam cũng như phê chuẩn UNCLOS. Sự can dự của Hoa Kỳ vào khu vực này đã khiến tình hình trở nên phức tạp hơn. Hơn một thế kỷ trước đây, các nước đế quốc đã từng thường xuyên dùng kiểu "ngoại giao pháo hạm" này để buộc các nước khác quy phục họ.

Tác giả James Cogan trong bài viết "Tensions soar internationally following US deployment in South China Sea" đã liên hệ sự khiêu khích của Hoa Kỳ với bối cảnh quốc tế rộng hơn khi đế quốc Mỹ đang lung lay và Trung Quốc mạnh dần lên với các mối quan hệ quốc tế. Không chỉ khiêu khích và hạ nhục Trung Quốc, sự kiện này còn có thể là để dằn mặt các nước Châu Âu đang tích cực hợp tác với Trung Quốc.

Tranh chấp lãnh thổ trên biển Đông có nhiều nước tham gia và thái độ của các nước sẽ rõ ràng hơn khi tất cả các bên liên quan sẽ cùng đối mặt với Hoa Kỳ và Trung Quốc tới đây tại các hội nghị thượng đỉnh khu vực.

Căng thẳng nâng lên tầm quốc tế sau hoạt động của Hoa Kỳ ở biển Đông

Hôm qua, Việc Hoa Kỳ triển khai tàu khu trục USS Lassen và tàu sân bay tuần tra trong phạm vi 12 hải lý quanh khu vực đá Subi và Vành Khăn mà Trung Quốc đang kiểm soát trên biển Đông đã thực sự gia tăng những căng thẳng ở Châu Á.

Mục tiêu trong hành động của Hoa Kỳ là hạ nhục chính quyền Trung Quốc và cho thấy họ chỉ có hai lựa chọn: hoặc là đáp trả bằng vũ lực hoặc là khuất phục trước sự chà đạp trắng trợn của Washington lên sự đòi hỏi chủ quyền đã có từ lâu của họ. Lý do của sự khiêu khích quân sự này là tuyên bố Hoa Kỳ đang khẳng định “quyền tự do đi lại” trên vùng biển quốc tế, chứ không phải của Trung Quốc. Sự khẳng định này không đáng tin hơn khẳng định rằng Iraq bị tấn công vì có vũ khí hủy diệt hàng loạt hay Hoa Kỳ gây chiến với Lybia để bảo vệ “nhân quyền”. 

Bắc Kinh đã đáp lại cả bằng ngoại giao và quân sự. Người phát ngôn bộ ngoại giao Trung Quốc Lu Kang tuyên bố trong một cuộc họp báo vào ngày hôm qua là tàu USS Lassen đã “xâm nhập bất hợp pháp” lãnh hải của Trung Quốc. Ông ta khẳng định: “Phía Trung Quốc sẽ đáp trả một cách cứng rắng mọi hành động cố ý khiêu khích của bất cứ quốc gia nào… và sẽ dùng tất cả các biện pháp cần thiết.” Bắc Kinh, ông ta tuyên bố, thúc giục Hoa Kỳ “đề cao cam kết không tham gia vào bất cứ bên nào trong tranh chấp lãnh thổ cũng như tránh mọi tổn hại tiếp theo đối với quan hệ Trung Quốc-Hoa Kỳ và hòa bình cũng như sự ổn định của khu vực.”

Đêm qua, đại sứ Hoa Kỳ tại Trung Quốc, Max Baucus, đã được triệu đến Bộ Ngoại Giao để nhận một thông điệp chính thống về “sự bất bình sâu sắc” của chính quyền Trung Quốc đối với sự khiêu khích của Hoa Kỳ.

Xã luận hôm nay của tờ báo do chính quyền Trung Quốc kiểm soát Global Times khẳng định: “Bắc Kinh phải cư xử với Hoa Kỳ lịch thiệp và chuẩn bị cho tình huống xấu. Điều này có thể thuyết phục Nhà Trắng rằng Trung Quốc, trái với sự miễn cưỡng của họ, không e ngại một cuộc chiến với Hoa Kỳ tại khu vực, điều đó là thiết yếu đề bảo vệ lợi ích và thể diện quốc gia của họ.” 

Bắc Kinh, tờ Global Times tuyên bố, phải “theo dõi các chiến hạm của Hoa Kỳ … tiến hành các can thiệp điện tử và thậm chí là gửi các chiến hạm tới, khóa mục tiêu bằng radar ngắm bắn và bay trên đầu chiến hạm Hoa Kỳ.”

Tạp chí dủa Đảng Cộng Sản Trung Quốc (CCP), tờ People’s Daily, đưa tin quân đội Trung Quốc đã cử hai tàu khu trục, Lanzhou và Taizhou, tới “cảnh cáo sự xâm phạm của chiến hạm Hoa Kỳ.” Một quan chức Hoa Kỳ cho biết là hai chiến hạm Trung Quốc “đã đeo bám” tàu Lassen vào hôm qua nhưng giữ một “khoảng cách an toàn”.

Toan tính ngạo mạn ở Washington là những tuyên bố của chính quyền Trung Quốc chỉ là những hùng biện để làm cố xoa dịu sự phẫn nộ mang tính chủ nghĩa dân tộc ở quốc nội đối với những hành động của Hoa Kỳ.

Chính quyền Obama và Lầu Năm Góc đã thể hiện rằng việc triển khai tàu Lassen chỉ là sự khởi đầu của việc thường xuyên đi vào khu vực mà Trung Quốc tuyên bố có chủ quyền, với ý đồ buộc Trung Quốc phải khuất phục trước sự thống trị quân sự của Hoa Kỳ trên biển Đông. Một quan chức nặc danh của Bộ Quốc Phòng nói với các nhà báo: “Tôi kỳ vọng rằng điều này sẽ trở thành hoạt động thông thường.”

Chuẩn đô đốc nghỉ hưu của Trung Quốc Yang Yi, một nhà nghiên cứu tại đại học quốc phòng của quân đội giải phong nhân dân, trả lời tờ Washington Post rằng nếu sự xâm nhập trở thành “một việc thông thường, xung đột quân sự trong khu vực là không thể tránh khỏi và Hoa Kỳ là người châm ngòi cho cuộc chiến đó.” 

Hải quân Australia và Nhật Bản, theo yêu cầu của Washington, có thể tham gia vào các vụ xâm nhập quy mô lớn hơn trong tương lai. Trong khi chỉ có duy nhất tàu Lassen được sử dụng trong cuộc khiêu khích ngày hôm qua, hàng tá chiến hạm Hoa Kỳ và Nhật Bản, trong đó có tàu sân bay USS Ronald Reagan, cũng như hai tàu khu trục nhỏ của Australia, đều ở trong phạm vi chiến đấu trên biển Đông. 

Chính quyền Australia ngay lập tức tuyên bố ủng hộ hành động của Hoa Kỳ. Bộ trưởng bộ quốc phòng Marise Payne khẳng định rằng Australia không tham gia chiến dịch hôm qua, họ “ủng hộ mạnh mẽ” “các quyền” tự do đi lại và bay qua bầu trời cũng như “tiếp tục hợp tác với Hoa Kỳ và các đối tác khu vực về an ninh hàng hải”. Các bản tin báo chí cho thấy Payne và ngoại trưởng Julie Bishop đã được chỉ dẫn về sự khiêu khích có kế hoạch ở biển Đông khi họ tham gia hội nghị bộ trưởng ở Washington vào đầu tháng này. 

Chủ nhiệm văn phòng chính phủ Nhật Bản Yoshihide Suga phát biểu tại một cuộc họp báo rằng Nhật Bản đã “trao đổi thông tin” với Washington và “theo dõi sát sao chủ đề trước khi chúng tôi quyết định thực hiện ra sao.” Chính quyền của thủ tướng Shinzo Abe đã khẳng định trước đó rằng họ chuẩn bị để thực hiện chiến dịch quân sự “tự do hàng hải”, hoặc là cùng với Hoa Kỳ hoặc là độc lập với Hoa Kỳ.

Kaoru Imori, từ trường đại học Meiji Gakuin của Nhật Bản, nói với hãng thông tấn Xinhua của Trung Quốc vào ngày hôm qua: “Lợi thế hiện nay của Hoa Kỳ, ít nhất là theo nghĩa đen, là họ có một quân đội thực tế thứ hai dưới dạng Nhật Bản – một quốc gia với ngân sách quân sự lớn và các phương tiện thiết yếu để sản xuất cũng như xuất khẩu trang thiết bị quân sự.”

Nhật Bản và Australia là các đối tác chủ chốt trong sự “xoay trục” hay “tái cân bằng” của Hoa Kỳ ở Châu Á. Cả hai quốc gia cung cấp các căn cứ trọng yếu cho quân đội Hoa Kỳ và quân đội của họ tham gia kế hoạch “AirSea Battle” của Hoa Kỳ. AirSea Battle là kế hoạch phác thảo chi tiết cách Hoa Kỳ và đồng minh tiến hành tấn công đường không và đường biển vào các cơ sở quân sự của Trung Quốc trên đất liền khi có chiến sự. Kế hoạch cũng bao gồm việc phong tỏa đường biển để ngăn chặn Trung Quốc vận chuyển hàng hóa theo đường biển từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương, do đo cắt nguồn nhập khẩu quan trọng về năng lượng và nguyên liệu thô của Trung Quốc.

Thời điểm diễn ra chiến dịch của Hoa Kỳ trên biển Đông cho thấy sự thật là “sự xoay trục” bắt nguồn từ quyết định của chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ, được sự ủng hộ của các đồng minh khu vực, để duy trì sự thống trị kể từ sau Thế Chiến II của họ ở Châu Á. Sự phát triển của kinh tế toàn cầu của Trung Quốc cũng như sự ảnh hưởng địa chính trị của họ trong hơn 15 năm qua được giai cấp thống trị Hoa Kỳ coi là sự thách thức tiềm tàng không thể chấp nhận được. Mục tiêu tối hậu của sự đối đầu với Trung Quốc là đưa Trung Quốc quay trở lại trạng thái bán thuộc địa về mặt kinh tế dưới sự điều hành của các ngân hàng và doanh nghiệp đa quốc gia Hoa Kỳ, cũng khuất phục về mặt chính trị trước sự chuyên chế của Washington. 

Việc triển khai tàu Lassen chỉ được ra lệnh một ngày sau chuyến viếng thăm nước Anh của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và chỉ vài ngày trước các chuyến thăm Trung Quốc của thủ tướng Đức Angela Merkel và tổng thống Pháp Francois Hollande. Sau các hiệp định thương mại và đầu tư giữa Anh và Trung Quốc, xã luận của tờ People’s Daily hôm qua – trước khi Hoa Kỳ khiêu khích – đưa tin rằng các quốc gia Châu Âu chủ chốt đang hoan nghênh ý định của Trung Quốc” và quan hệ kinh tế cũng như chính trị gần gũi hơn với Châu Âu có thể “giải tỏa những kiềm chế mà liên minh Hoa Kỳ-Nhật Bản áp đặt đối với Trung Quốc.” 

Giờ thì Merkel, cùng với lãnh đạo của Volkwagen và hàng tá các giám đốc điều hành doanh nghiệp Đức khác sẽ đến Bắc Kinh vào ngày hôm nay trong tình hình là một cuộc đụng độ quân sự giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, nước đồng minh của Đức trong liên minh NATO, có thể nổ ra. Tổng thống Hollande của Pháp sẽ đến vào ngày 2 tháng 11. 

Trong hai tuần nữa, tổng thống Barack Obama sẽ tham dự Hội Nghị Thượng Đỉnh Kinh Tế Châu Á Thái Bình Dương ở Philippines, Hội Nghị Thượng Đỉnh Hoa Kỳ-ASEAN (Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á) và Hội Nghị Thượng Đỉnh Đông Á ở Malaysia. Hoa Kỳ đòi hỏi các quốc gia Châu Á phải ủng hộ những hành động của họ ở biển Đông sẽ là chủ đề nổi bật của những sự kiện này, cho dù là đối thoại công khai hay bí mật. Bắc Kinh sẽ sử dụng hai hội nghị thượng định khu vực mà họ tham gia để chống lại sức ép của Hoa Kỳ.

Trung Quốc sẽ kỳ vọng được Nga ủng hộ, Nga buộc phải có quan hệ gần gũi hơn với Bắc Kinh khi Moscow bị Hoa Kỳ và NATO đe dọa và khiêu khích quân sự ở Đông Âu. Andrei Klimov, một nghị sĩ Nga hàng đầu thân cận với tổng thống Vladimir Putin, nói với hãng thông tấn TASS vào hôm qua: “Hoa Kỳ giương oai diễu võ gần biên giới của Trung Quốc – một thành viên thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc – khiến cho một thành viên Hội Đồng Bảo An khác, Nga, phải đặt ra các câu hỏi. Không ai cảm thấy tự do tham gia hành trình khi không được mời. Klimov nói, Hoa Kỳ đang “đùa với lửa”. 

Quá trình ngoại giao chông chênh và khiêu khích quân sự đang diễn ra hiện nay có thể dẫn đến một cuộc đụng độ giữa các nước có vũ khí hạt nhân và lôi kéo nhiều nước trên khắp khu vực Châu Á cũng như quốc tế vào một cuộc chiến trang tồi tệ.

Friday, October 2, 2015

Đòn chớp nhoáng của Putin khiến Washington khổ sở và bối rối

Mike Whitney trong bài báo "Putin’s Blitz leaves Washington rankled and confused" nhận định rằng Putin đưa quân tham chiến ở Syria ngay sau khi Hoa Kỳ ký thỏa thuận về sân bay Incirlik với Thổ Nhĩ Kỳ đã khiến Hoa Kỳ bàng hoàng. Sân bay Incirlik là chìa khóa để giúp Hoa Kỳ và Thổ Nhĩ Kỳ lật đổ chính quyền Assad. Do vậy, Nga phải hành động trước khi mọi chuyện trở nên quá muộn. Đây là thông tin ít được báo chí và truyền thông Việt Nam nhắc đến. Tiếp theo Nga có  thể nhanh chóng phá hủy phần lớn sức mạnh của lực lượng khủng bố trước khi Hoa Kỳ hồi tỉnh không? Thời gian sẽ trả lời.

Đòn chớp nhoáng của Putin khiến Washington khổ sở và bối rối



Vào thứ hai, tổng thống Nga Vladimir Putin đã phê phán nghiêm khắc chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc.

Vào thứ ba, Barack Obama dí dao vào lưng Putin. Đây là tin tức từ hãng Reuters: 

“Trong những ngày tới đây, Pháp sẽ thảo luận với các đối tác về đề xuất của Thổ Nhĩ Kỳ và các thành viên phe đối lập của Syria liên quan đến khu vực cấm bay ở miền bắc Syria, tổng thống Pháp Francois Hollande tuyên bố vào thứ hai … 

Ngoại trưởng Pháp Laurent Fabius “trong những ngày sắp tới sẽ xem xét ranh giới, cách thức đảm bảo khu vực và ý kiến của các đối tác,” Holande nói với các phóng viên bên lề cuộc họp thường niên của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc … 

Hollande nói rằng một đề xuất có thể được phê chuẩn bằng nghị quyết của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc sẽ “mang lại tính hợp pháp quốc tế cho những hoạt động diễn ra tại khu vực này.” … (Pháp, các đối tác thảo luận về “khu vực an toàn” ở miền bắc Syria: Hollande, Reuters)

Hollande là kẻ dối trá và là một con rối. Ông ta biết rằng Hội Đồng Bảo An sẽ không bao giờ phê chuẩn khu vực cấm bay. Nga và Trung Quốc đã nói không. Họ cũng giải thích tại sao lại phản đối điều đó. Đó là bởi vì họ không muốn có một đất nước sụp đổ khác trong tay họ, giống như Libya khi Hoa Kỳ và NATO áp đặt vùng cấm bay lần gần đây nhất. 

Nhưng bên cạnh đó, lý do thực sự khiến chủ đề vùng cấm bay nổi lên là nhượng bộ của Obama với tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan để đổi lấy việc sử dụng sân bay Incirlik. Washington đã giữ bí mật các điều khoản của thỏa thuận đó, nhưng Hollande đã tiết lộ. 

Vậy ai đã giật dây cho con rối bóng Hollande lảm nhảm về khu vực cấm bay?

Dĩ nhiên, đó là chính quyền Obama. Liệu có ai tin tưởng một cách nghiêm túc rằng Hollande thực hiện chính sách độc lập của ông ta ở Syria? Dĩ nhiên là không. Hollande chỉ làm điều mà ông ta được sai bảo, giống như ông ta đã làm khi được bảo phải hủy bỏ hợp đồng về Mistral, khiến Pháp tổn thất 1,2 tỷ dollar. Washington và NATO không thích ý tưởng Pháp bán các tàu chở máy bay trực thăng hiện đại cho đối thủ tinh quái Putin, thế nên họ yêu cầu Hollande hủy hợp đồng. Đó là việc mà ông ta đã làm, bởi vì đó là việc mà kẻ tay sai phải làm; chúng tuân lệnh chủ nhân. Giờ đây ông ta lại che chắn cho Obama để giữ cho các chi tiết thực tế của thỏa thuận Incirlik nằm ngoài sự theo dõi của công chúng. Đó là lý do tại sao chúng ta nói rằng Obama dí dao vào lưng Putin, bởi vì khu vực cấm bay sẽ phá hủy hoàn toàn các lợi ích của Nga ở Syria. 

Không thể không đánh giá cao sự đáng chú ý của bài báo trên Reuter. Bài báo ám chỉ có một sự trao đổi trong việc sử dụng Incirlik và yêu cầu của Thổ Nhĩ Kỳ đã được chấp nhận. Tại sao điều đó quan trọng?

Bởi vì Thổ Nhĩ Kỳ có ba yêu cầu: 

1. Các khu vực an toàn ở miền bắc Syria (có nghĩa là Thổ Nhĩ Kỳ sáp nhập về căn bản một phần lớn lãnh thổ của Syria.)

2. Một khu vực cấm bay (cho phép quân đội Thổ Nhĩ Kỳ, đặc nhiệm Hoa Kỳ hoặc du kích jihadi do Hoa Kỳ hậu thuẫn triển khai các chiến dịch quân sự với sự hỗ trợ của không quân Hoa Kỳ.)

3. Hoa Kỳ cam kết sẽ giúp Thổ Nhĩ Kỳ lật đổ Assad.

Obama có đồng ý với cả ba yêu cầu này để đổi lại Erdogan đồng ý cho USAF sử dụng Incirlik?

Có, ít nhất thì tôi cũng nghĩ là ông ta đồng ý. Incirlik thay đổi tất cả. Máy bay ném bom, máy bay không người lái và chiến đấu cơ Hoa Kỳ có thể tiến vào không phận Syria chỉ trong 15 phút, thay vì 3 đến 4 giờ từ Bahrain. Điều đó có nghĩa là nhiều lần xuất kích hơn, nhiều máy bay không người lái do thám hơn, nhiều hỗ trợ của không quân hơn cho quân du kích được Hoa Kỳ hậu thuẫn cũng như đặc nhiệm Hoa Kỳ trên mặt đất. Điều đó có nghĩa là Hoa Kỳ có thể áp đặt trên thực tế khu vực cấm bay trên phần lớn lãnh thổ Syria, phơi bày và làm suy yếu quân đội Syria để chỉ dẫn một cách đặc biệt thuận lợi cho quân đội jihadi của Obama. Incirlik là thứ thay đổi thế cờ, hòn đá tảng trong chính sách của Hoa Kỳ ở Syria. Khi được sử dụng Incirlik, chiến thắng nằm trong tầm tay của Washington. Đó là tầm quan trọng của Incirlik.

Đó là lý do khiến Putin đầy thận trọng đã quyết định triển khai máy bay, quân đội và vũ khí ngay sau khi thỏa thuận Incirlik được ký kết. Ông ấy có thể nhìn thấy những dòng chữ viết tay trên tường. Ông ấy biết rằng hoặc là hành động nhanh chóng và thay đổi cục diện hoặc sẽ phải chấp nhận sự thật rằng Hoa Kỳ và Thổ Nhĩ Kỳ lật đổ Assad vào lúc nào đó sau cuộc bầu cử bất thường của Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 1 tháng 11. Đó là thời hạn để ông ấy hành động. Ông ấy đã làm đúng và tham gia cuộc chiến.

Nhưng giờ Putin làm gì?

Vào thứ tư, chỉ hai ngày sau khi Putin tuyên bố với Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc: “Chúng ta không thể tiếp tục dung túng tình trạng quan hệ hiện nay của thế giới,” Putin ra lệnh ném bom các mục tiêu ở Homs, một cứ điểm của ISIS ở Tây Syria. Các vụ tấn công, được quốc hội Nga nhất chí phê chuẩn trước đó, hoàn toàn là hợp pháp theo luật lệ quốc tế (Tổng thống đương nhiệm Assad của Syria yêu cầu Putin thực hiện không kích), đã khiến chính sách của Hoa Kỳ có nguy cơ đổ vỡ. Trong khi quân đội Nga thiết lập kênh thông tin công khai với Lầu Năm Góc và báo cáo về thời gian cũng như địa điểm không kích, người phát ngôn bộ ngoại giao Hoa Kỳ John Kirby nói rằng Hoa Kỳ dự tính “tiếp tục các nhiệm vụ không quân tại Irag và Syria”, sự gia tăng nguy cơ của các đụng độ ngoài dự tính có thể dẫn tới sự đối đầu giữa Hoa Kỳ và Nga. 

Liệu đó có phải là điều mà Washington muốn, một sự cố bạo lực đẩy những kẻ đối đầu có vũ khí hạt nhân lao vào nhau?

Hãy xem xét kịch bản có khả năng này: Một máy bay F-16 bị bắn hạ trên bầu trời Syria trong khi hỗ trợ quân du kích của Obama trên mặt đất. Hiện giờ Nga đang không kích ở Syria, thật là một cơ hội tốt để buộc tội Putin về sự cố giống như trong vụ máy bay của Malaysia bị bắn hạ ở Đông Ukraina.

Điều gì diễn ra tiếp theo?

Cũng như những sự cố tương tự trong quá khứ, truyền thông sẽ phát động một chiến dịch tuyên truyền toàn diện để ủng hộ chính quyền tấn công trả đũa quân đội Nga, đồng thời kêu gọi triển khai quân đội Hoa Kỳ-NATO lớn hơn. Điều đó sẽ buộc Putin phải đánh lại và bị cuốn vào mạo hiểm hoặc lùi bước và mất mặt. Theo cách nào thì Putin cũng sẽ thua và Hoa Kỳ tiến thêm một bước đến gần mục tiêu lật đổ Bashar al Assad.

Putin hiểu tất cả những điều này. Ông ấy hiểu rủi ro của can thiệp quân sự, đó là lý do tại sao ông ấy chỉ miễn cưỡng cam kết chiến dịch hiện tại. Điều đó cho thấy: Chúng ta có thể hy vọng ông ấy hành động tương tự như khi quân đội Georgia xâm lược Nam Ossetia vào năm 2007. Putin đã ngay lập tức đưa xe tăng vào đẩy lùi quân đội xâm lược trở lại biên giới Georgia và nhanh chóng chấm dứt giao tranh. Ông ấy đã phải vật lộn với sự chỉ trích của cánh hữu về việc không xâm lược Georgia và lật đổ tổng thống Mikheil Saakashvili ở thủ đô của Georgia. Nhưng như đã xảy ra, sự kiềm chế của Putin đã giúp cho Nga tránh được những khó khăn của việc chiếm đóng, thứ tiêu tốn tài nguyên và đánh mất sự ủng hộ của công chúng. Putin đã đúng và phe chỉ trích ông ấy đã sai. 

Liệu hành động của ông ấy có giống như ở Nam Ossetia?

Khó có thể nói trước, nhưng rõ ràng là tay chân của Obama đã sững sờ bởi tốc độ can thiệp. Hãy xem tờ Guardian của Anh: “Theo Nhà Trắng, người phát ngôn Josh Earnest cho rằng Vladimir Putin không cảnh báo trước Barack Obama về ý định không kích ở Syria.

“Chúng ta đã từng nói rằng chúng ta sẽ hoan nghênh sự hợp tác có tính xây dựng của Nga,” Earnest nói, trước khi xác nhận rằng các cuộc trao đổi giữa quân đội Hoa Kỳ và Nga là thuần túy chiến thuật: “ để đảm bảo rằng các hoạt động quân sự của chúng ta và hoạt động quân sự của các đối tác sẽ được triển khai an toàn.” (The Guardian)

Tuyên bố của Earnest có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là toàn bộ chính giới Hoa Kỳ đã bị bất ngờ trước đòn chớp nhoáng của Putin và vẫn chưa thống nhất được về một phản ứng thích hợp. Họ biết rằng Putin đã phá hỏng nhiều năm công sức dựng lên các đơn vị tay sai để phục vụ cho mục tiêu của Hoa Kỳ, nhưng tầng lớp thống trị vẫn chưa thống nhất được về việc cần phải làm. Đưa ra quyết định về vấn đề này cần thời gian, điều đó có nghĩa là Putin có thể phá hủy hoàn toàn một số lượng đáng kể các nơi ẩn náu của khủng bố và khôi phục sự kiểm soát một phần lớn của đất nước cho Assad trước khi Hoa Kỳ thống nhất được một chiến lược. Trên thực tế, nếu như hành động nhanh, ông ấy thậm chí có thể buộc Hoa Kỳ và các đồng minh vùng vịnh phải ngồi vào bàn đám phán để đạt được một giải pháp chính trị. 

Đó bức tranh toàn cảnh, tuy vậy sự lựa chọn này tốt hơn là chờ đợi Hoa Kỳ thiết lập vùng cấm bay để lật đổ chính quyền trung ương và biến Syria thành nước vô chính phủ kiểu như Lybia, sẽ không có hy vọng gì ở kịch bản đó.

MIKE WHITNEY lives in Washington state. He is a contributor to Hopeless: Barack Obama and the Politics of Illusion (AK Press). Hopeless is also available in a Kindle edition. He can be reached at fergiewhitney@msn.com.