Thursday, April 25, 2013

Tại sao vàng miếng là vàng nhưng lại không phải là vàng?

Cách đây hơn hai trăm năm, các nhà kinh tế học đã phải nghĩ nát óc để giải thích tại sao tiền vàng là vàng nhưng giá trị của nó lại chả liên quan gì đến vàng. Đủ các loại học thuyết đã được đưa ra rồi bị quên lãng. Giờ đây, Việt Nam lại đang đối mặt với câu hỏi đó.

1. Vàng miếng là vàng

Về mặt chất liệu thì vàng miếng cũng là vàng, khi mua bán thì người ta cũng coi nó là vàng không khác với gì vàng được dùng làm đồ trang sức hay đồ dùng. Vàng miếng vì vậy mang giá trị của vàng. Song có một vấn đề trong thực tế là vàng miếng mặc dù cũng là vàng nhưng lại không được sử dụng làm đồ trang sức hay chế tác đồ trang sức, tức là không được sử dụng như vàng, mà thường chỉ dùng để thanh toán hoặc tích trữ thay cho tiền mặt.

2. Vàng miếng không phải là vàng

Vàng miếng khi được sử dụng để thanh toán hay tích trữ thay cho tiền mặt thì nó không còn là vàng nữa mà đóng vai trò như tiền tệ. Nếu đem vàng miếng ra khỏi phạm vi Việt Nam thì nó lại trở lại thành vàng. Khi được sử dụng như là tiền tệ thì vàng miếng không còn mang giá trị của vàng nữa mà mang giá trị của tiền tệ, giá của vàng miếng lúc này chịu sự chi phối của cung cầu về tiền tệ. Tại sao vàng miếng trở thành tiền tệ thì đó là một câu chuyện dài về lịch sử kinh tế. Vàng miếng trong vai trò là tiền tệ không thích hợp với giao dịch của người dân bình thường, không ai mang vàng miếng đi chợ mua rau cả, nhưng lại rất thích hợp với giao dịch của những tổ chức tài chính lớn ví dụ như ngân hàng. Do vậy, muốn hiểu được tại sao vàng miếng có vai trò tiền tệ thì cần phải nghiên cứu lịch sử việc sử dụng vàng miếng trong ngân hàng, song những tài liệu về vấn đề đó có lẽ là không có sẵn hoặc nếu có sẵn thì cũng khó có thể tiếp cận được. 

3. Vàng miếng trở thành tiền tệ như thế nào? 

Thoạt nhìn thì quá trình biến đổi vàng thành vàng miếng rất đơn giản, doanh nghiệp mua vàng nguyên liệu về, đem dập thành vàng miếng có trọng lượng 1 cây, đóng gói rồi đem bán trên thị trường. Ẩn giấu sau đó là những quy luật kinh tế hoàn toàn khác nhau chi phối mà người ta không thể hiểu được nếu không tách biệt giá trị sử dụng của vàng và vàng miếng. Khi doanh nghiệp mua vàng về dập thành vàng miếng thì vàng miếng đó vẫn chỉ là vàng, chỉ khi nó được trao vào tay người mua thì mới trở thành phương tiện giao dịch. Trong tay doanh nghiệp thì vàng miếng có giá trị của vàng nhưng khi được bán cho người mua thì nó bị biến thành tiền tệ, tức là có giá trị của tiền tệ. Bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể dập vàng thành vàng miếng, song chỉ có vàng miếng của một số doanh nghiệp nhất định mới có thể lưu thông trên thị trường như là vàng miếng, điều đó phụ thuộc vào tiềm lực tài chính của doanh nghiệp.

4. Tại sao Ngân Hàng Nhà Nước lại độc quyền kinh doanh vàng miếng?

Khi hầu hết các chủ doanh nghiệp và ngân hàng có tiềm lực tài chính lớn đổ xô vào kinh doanh vàng miếng, tức là kinh doanh tiền tệ thì điều đó ảnh hưởng tới lợi ích của Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN). Một trong những hệ quả thấy rõ là việc nhập khẩu vàng nguyên liệu tạo sức ép lên tỷ giá hối đoái mà NHNN muốn duy trì ổn định, tình trạng nhập khẩu vàng kéo dài sẽ làm cạn kiệt dự trữ ngoại tệ. Quyền lực của NHNN là phát hành tiền, khi có một loại tiền tệ khác xuất hiện cạnh tranh với tiền của NHNN thì NHNN phải tìm cách loại bỏ loại tiền tệ ấy. Ban đầu, NHNN tìm cách loại bỏ vai trò tiền tệ của vàng miếng song nỗ lực ấy không mấy hiệu quả nên đã nắm độc quyền kinh doanh vàng miếng, tức là độc quyền phát hành vàng miếng với tư cách là tiền tệ. Ở đây cần chú ý, vàng miếng là tiền tệ nhưng lại không phải lại ngoại tệ bởi vàng miếng chỉ có giá trị là vàng miếng trong phạm vi quốc gia khi ra khỏi phạm vi đó thì vàng miếng cũng chỉ là vàng nguyên liệu, ngược lại vàng nguyên liệu không phải là tiền tệ trong nước nhưng lại là tiền tệ quốc tế vì có thể dùng để trao đổi giữa các quốc gia với nhau.

5. Hệ quả của vàng miếng trong vai trò tiền tệ

Khi NHNN độc quyền kinh doanh vàng miếng thì vai trò tiền tệ của vàng miếng càng trở nên vững chắc, giá cả vàng miếng giờ đây sẽ phụ thuộc vào cung cầu vàng miếng với vai trò là tiền tệ chứ không chịu sự chi phối của thị trường vàng nguyên liệu. Vì vậy vàng miếng sẽ có giá hoàn toàn khác so với vàng nguyên liệu cho dù là trên thị trường vàng nguyên liệu trong nước hay thị trường thế giới. Mọi nỗ lực của NHNN sẽ tập trung vào việc kiểm soát giá cả vàng miếng với vai trò là tiền tệ chứ không phải là vàng miếng với vai trò là vàng. 

Bán lẻ vàng miếng là hoàn toàn không khả thi, do vậy NHNN buộc phải bán buôn cho các tổ chức có năng lực tài chính. Sau đó, các tổ chức này sẽ bán lẻ lại cho người mua khác. Điều này có nghĩa là giá vàng miếng do NHNN bán ra trên thị trường bán buôn sẽ phải thấp hơn giá giao dịch trên thị trường bán lẻ. Khoản chênh lệch giữa giá bán buôn với giá bán lẻ vàng miếng sẽ tạo ra lợi nhuận cho tổ chức kinh doanh, phần lớn các tổ chức kinh doanh lại là các ngân hàng nên nảy sinh ra một hệ quả khác đối với nền kinh tế. Nếu lợi nhuận từ mua bán vàng miếng lớn hơn lợi nhuận thu được từ việc cho vay thì các ngân hàng giảm cho vay và tăng cường mua bán vàng miếng, ngược lại nếu lợi nhuận thu được từ việc cho vay cao hơn từ việc mua bán vàng miếng thì ngân hàng sẽ giảm mua bán vàng miếng và tăng cường cho vay. Điều này có nghĩa là giá mua vào cũng như bán ra của vàng miếng mà các tổ chức tham gia đấu thầu đặt ra sẽ phụ thuộc vào sự biến động của tình hình sản xuất và kinh doanh trong nước.

Dập vàng miếng là công việc tốn thời gian nên NHNN sẽ phải dự trữ một khối lượng lớn vàng miếng để luôn kịp thời cung cấp cho thị trường. Hiện nay, giá vàng miếng trong nước cao hơn rất nhiều so với giá vàng nguyên liệu trên thị trường thế giới. Nếu chỉ nhìn bề ngoài thì nhiều người sẽ nghĩ NHNN lãi lớn trong việc kinh doanh vàng miếng, vì chỉ việc mua vàng nguyên liệu trên thị trường thế giới rồi về dập thành vàng miếng đem bán để hưởng chênh lệch. Song sự thực không phải như vậy, NHNN luôn phải dự trữ một khối lượng lớn vàng miếng nhưng vàng miếng trong kho của NHNN thì chưa phải là vàng miếng với tư cách tiền tệ mà nó vẫn chỉ là vàng nên chịu sự chi phối của giá vàng nguyên liệu, tức là khi giá vàng thế giới giảm thì giá của nó cũng giảm còn khi giá vàng thế giới tăng thì giá của nó cũng tăng. Khoản tiền chênh lệch giữa giá vàng miếng đã bán và vàng nguyên liệu phải bù đắp cho sự biến động về giá trị của số vàng trong kho dự trữ. Trong trường hợp NHNN mua vào vàng miếng, nếu thoạt nhìn thì NHNN sẽ phải mua giá cao hơn giá trên thị trường bán lẻ, tức là có cảm giác lỗ, song khoản chênh lệch đó lại được bù đắp bởi giá trị tăng lên của số vàng dự trữ. Giá mua tối đa và giá bán vàng miếng tối thiểu của NHNN hoàn toàn có thể tính được dựa trên các tham số như: số lượng vàng miếng dự định mua vào hay bán ra, khối lượng vàng dự trữ và sự biến động của giá vàng trên thị trường thế giới. Doanh thu thực của NHNN có thể ước tính dựa trên chênh lệch giữa giá đề xuất của NHNN và giá trúng thầu mua bán vàng miếng. Lợi nhuận mà NHNN thu được chắc chắn là nhỏ hơn rất nhiều so với khoản chênh lệch giữa giá vàng nguyên liệu và giá vàng miếng (như đã nói ở trên, phần lớn khoản chênh lệch phải được trích lập quỹ dự phòng giảm giá vàng). 

Khi giá vàng trên thị trường thế giới có xu hướng giảm thì giá trị của kho vàng miếng dự trữ trong tay NHNN cũng giảm xuống, do vậy NHNN sẽ chịu áp lực phải bán ra. Ngược lại, khi giá vàng thế giới có xu hướng tăng thì giá trị kho vàng dự trữ trong tay NHNN cũng tăng lên do vậy NHNN sẽ phải mua vào. Trong ngắn hạn thì NHNN có thể mua vàng nguyên liệu trên thị trường thế giới rồi dập thành vàng miếng nhưng trong dài hạn thì không thể làm như vậy vì hai lý do chính: thứ nhất là việc dập vàng miếng bị giới hạn bởi công suất hoạt động của doanh nghiệp nên có thể sẽ không kịp thời và thứ hai là việc mua vàng trên thị trường thế giới cần có ngoại tệ, tức là sẽ làm ảnh hưởng tới dự trữ ngoại tệ của quốc gia. Như vậy, trong dài hạn khi thị trường vàng miếng đạt tới quy mô nhất định thì NHNN sẽ phải mua vàng miếng chủ yếu từ thị trường trong nước còn nguồn vàng nguyên liệu từ thị trường thế giới sẽ chỉ đóng vai trò bổ sung.

Trên thị trường vàng miếng, NHNN cũng sẽ phải cân nhắc các quyết định mua bán để giữ giá vàng miếng ổn định. Khi giá vàng miếng có xu hướng giảm thì NHNN phải mua vào và ngược lại khi giá vàng miếng có xu hướng tăng thì NHNN phải bán ra. Mọi vấn đề sẽ là đơn giản trong hai trường hợp: giá vàng thế giới có xu hướng giảm đồng thời giá vàng miếng trong nước có xu hướng tăng và giá vàng thế giới có xu hướng tăng đồng thời giá vàng miếng trong nước có xu hướng giảm. Song rõ ràng là thị trường không phải lúc nào cũng thuận lợi như vậy, rất có thể xảy ra trường hợp khác như: giá vàng thế giới có xu hướng giảm đồng thời giá vàng miếng trong nước cũng có xu hướng giảm và giá vàng thế giới có xu hướng tăng đồng thời giá vàng miếng trong nước có xu hướng tăng, khi đó NHNN sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc điều hành thị trường vàng miếng cũng như duy trì quỹ dự trữ vàng.  

Kết luận

Quy luật kinh tế đã khiến cho vàng miếng là vàng nhưng lại không còn là vàng khi được ném vào lưu thông, đã khiến cho thị trường vàng trong nước chịu ảnh hưởng của thị trường vàng thế giới nhưng lại tách thị trường vàng miếng khỏi thị trường vàng. Nếu không hiểu được quá trình đó thì sẽ không thể hiểu được sự biến động khác nhau giữa giá vàng miếng và giá vàng thế giới. 





Monday, April 15, 2013

Đã dốt toán thì đừng bàn chuyện chính trị

Hôm nay, tình cờ thấy trang Bô Shit lại tiếp tục bôi nhọ giới trí thức Việt Nam với bài "Trung lập: Quyền lợi dân tộc hay quyền lợi giai cấp" của một người tự xưng là Tiến sĩ Toán học Nguyễn Ngọc Chu. Không biết người này là tiến sĩ thiệt hay dỏm nhưng với những gì người này đã viết thì rõ ràng rất đáng ngờ về thực chất của cái danh hiệu TS.

Về mặt phương pháp thì vị TS này đã mắc sai lầm cơ bản khi sử dụng logic hình thức vốn chỉ phù hợp với đại số để khảo sát quan hệ của biến số. Sức mạnh của một quốc gia không phải là một đại lượng độc lập với chiến lược quan hệ quốc tế. Một quốc gia khi lựa chọn một chiến lược quan hệ quốc tế thì chiến lược ấy sẽ có tác động ngược trở lại làm gia tăng hoặc suy yếu sức mạnh của quốc gia đó. Vị TS này định làm toán nhưng đến phương pháp cơ bản của toán học cũng không nắm được thì thật là khó mà tưởng tượng. 

1. Quốc gia mạnh mới có thể lựa chọn trung lập?

Vị TS này viết rằng: "Trên bàn cờ quốc tế chỉ có các cường quốc lớn mới đủ năng lực để tự cho mình quyền trung lập, tức là quyền độc lập với các nước khác, quyền tự mình đứng riêng hay dẫn đầu một phe. Các nước nhỏ không đủ năng lực để tự bảo vệ mình trong tư cách của một quốc gia trung lập và sớm hay muộn sẽ bị phụ thuộc nhiều hơn vào một cường quốc lớn. Trò chơi trung lập là trò chơi của các cường quốc lớn, không phải là trò chơi của nước nhỏ." Điều này hoàn toàn sai. Một quốc gia lựa chọn chiến lược quan hệ quốc tế thế nào hoàn toàn không phụ thuộc vào việc nó mạnh hay yếu mà phụ thuộc vào chiến lược mà các quốc gia khác trong tập hợp đó lựa chọn, các sự lựa chọn dựa trên tính toán về lợi ích của mỗi quốc gia sẽ tác động qua lại lẫn nhau để dẫn đến một thế cân bằng, tại thế cân bằng đó thì mỗi quốc gia sẽ có một chiến lược xác định. Sự tương quan này thường rất phức tạp và mô tả sẽ rất dài dòng bằng lý thuyết trò chơi, chỉ có thể lấy một ví dụ minh họa thế này, một tập hợp ba quốc gia mà có hai quốc gia mạnh ngang nhau đang đối đầu và một quốc gia khác yếu hơn thì rõ ràng mọi nỗ lực của hai quốc gia mạnh sẽ là trung lập hóa quốc gia yếu hơn vì lôi kéo làm đồng minh sẽ không khả thi. Bất cứ quốc gia mạnh nào định tấn công quốc gia yếu hơn sẽ có nguy cơ bị quốc gia mạnh còn lại thừa cơ tấn công tức là đẩy mình vào thế chống lại hai kẻ thù cùng lúc, nguy cơ bị tiêu diệt là chắc chắn. Bản thân quốc gia yếu hơn chắc chắn sẽ lựa chọn trung lập thay vì ngả theo một trong hai phía để phía còn lại bị tiêu diệt và chính mình sẽ là nạn nhân kế tiếp. 

Hồi Thế Chiến II đã có một ví dụ điển hình về trường hợp nêu trên, hai nước đế quốc Đức và Pháp hùng mạnh đã cố gắng trung lập hóa Thụy Sĩ yếu hơn. Sau đó, Thụy Sĩ đã khéo léo tiếp tục duy trì được tình trạng trung lập của mình ngay cả khi Đức chiếm đóng hầu như toàn bộ châu Âu cho đến khi kết thúc chiến tranh. Nếu theo đúng lập luận của vị TS này, Thụy Sĩ phải bị xóa khỏi bản đồ châu Âu từ lâu rồi.

Vị TS khi bắt đầu giải bài toán thì đã ngay lập tức đánh tráo điều kiện của bài toán nên không chỉ sai hoàn toàn mà còn bất chấp cả thực tế. Tất cả cái trò xảo trá ấy chỉ để ngụy biện rằng nước yếu thì không thể trung lập, để sau đó lén lút đưa cái việc bị một nước lớn đe dọa vào nhằm cổ vũ cho việc liên minh với một nước lớn khác.  

2. Mối đe dọa từ Trung Quốc hay mối đe dọa từ Mỹ lớn hơn?

Người Việt Nam ai cũng biết tâm địa của Trung Quốc với Việt Nam ra sao và ai cũng biết Mỹ đã làm gì với Việt Nam trong một cuộc chiến kéo dài suốt hơn hai mươi năm. Hiện giờ tâm địa của Mỹ đối với Việt Nam ra sao? Vị TS này chỉ nêu ra vế thứ nhất mà giấu biệt đi vế thứ hai, không so sánh được các nguy cơ từ phía Mỹ và từ phía Trung Quốc đối với Việt Nam, gian trá lấy luôn cái cần chứng minh ra để khẳng định, tức là khẳng định luôn Trung Quốc là mối đe dọa lớn nhất.

Thậm chí nửa quan trọng nhất trong việc phân tích mối quan hệ tay ba Mỹ-Trung Quốc-Việt Nam cũng đã bị lờ đi đó là quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc. Mỹ quan hệ với Việt Nam ra sao rõ ràng phải tính đến phản ứng chiến lược của Trung Quốc và ngược lại Trung Quốc định làm gì với Việt Nam cũng phải tính đến phản ứng chiến lược của Mỹ. Bởi vì các lựa chọn đó có thể phát sinh những chi phí và lợi ích chiến lược khác nhau đối với Mỹ cũng như Trung Quốc, nhưng vị TS này có vẻ không biết đến những điều điều đơn giản như vậy. Trên thực tế, đây là một cân bằng động rất phức tạp, nhiều quốc gia thường phải sử dụng một đội ngũ chuyên gia hùng hậu về lý thuyết trò chơi lập nên các mô hình tính toán để xác định được chiến lược cân bằng. Có thể minh họa rõ hơn một chút thế này: Nếu Trung Quốc định lôi kéo Việt Nam về phía mình thì Trung Quốc phải tính được Mỹ phản ứng thế nào về điều đó, không phải lập luận vớ vẩn kiểu Việt Nam không chơi với Mỹ thì Mỹ không cần quan tâm mà Mỹ sẽ hành động ra sao để bảo vệ lợi ích của mình. Về mặt địa thế, Việt Nam nằm tiếp giáp với Trung Quốc và giống như cái sân bay tự nhiên kiểm soát toàn bộ khu vực Đông Nam Á, nơi có rất nhiều các nước đồng minh của Mỹ và con đường biển quan trọng hàng đầu thế giới đi qua. Nếu Trung Quốc lôi kéo Việt Nam thành công thì Mỹ sẽ bị mất toàn bộ ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á vào tay Trung Quốc, vậy là Mỹ phải tìm cách chống lại điều đó. Ngược lại nếu Mỹ muốn lôi kéo Việt Nam về phía mình thì phải tính đến việc Trung Quốc sẽ tìm mọi cách ngăn cản Mỹ vì nếu có được liên minh với Việt Nam thì Mỹ có thể khóa chặt con đường biển quan trọng nhất của Trung Quốc và mở rộng tầm ảnh hưởng tới các khu vực tự trị miền núi nằm sâu trong lục địa của Trung Quốc. Cả hai trường hợp đều dẫn đến sự thay đổi chiến lược trong quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc và đó là cái mà hai nước này cần phải tính toán. Rõ ràng là vị TS toán này thậm chí còn không hiểu mình đang nói về cái gì, lập luận hoàn toàn trẻ con.

3. Liên minh với Mỹ đòi hỏi phải có dân chủ và nhân quyền?

Không chỉ có dốt về toán học, vị TS này còn diễn món tập làm văn đầy những gian lận kiểu học trò với các vấn đề chính trị. Tại sao Việt Nam không liên minh với Mỹ? Vì sợ Mỹ đòi cải cách dân chủ và nhân quyền dẫn đến đa đảng? Lập luận của vị TS này thật nực cười! Giáo sư ngôn ngữ học người Mỹ nổi tiếng Noam Chomsky đã viết trong cuốn sách "What the Uncle Sam really want" như thế này: while the US pays lip service to democracy, the real commitment is to "private, capitalist enterprise."  When the rights of investors are threatened, democracy has to go; if these rights are safeguarded, killers and torturers will do just fine. hay cụ thể hơn là to install governments that favor private investment of domestic and foreign capital, production for export and the right to bring profits out of the country. Mục tiêu Mỹ đối với các quốc gia độc lập là thiết lập lên các chính phủ phục vụ lợi ích của nhà đầu tư Mỹ, nếu chính phủ nào chấp nhận bán rẻ nhân dân của mình theo cách đó thì Mỹ sẽ để chính phủ đó được tự do tồn tại còn không sẽ là phá hoại và lật đổ. Đối với Mỹ tự do, nhân quyền, dân chủ, độc đảng hay đa đảng, hoàn toàn không phải là vấn đề đáng được quan tâm. Ai cũng biết điều đó chỉ là trò bịp bợm để kiếm chác, tại sao vị TS này lại  ngây ngô đến mức cho rằng điều đó đe dọa được Đảng cầm quyền ở Việt Nam nhỉ?

4. Có thể bảo vệ quyền lợi dân tộc dựa vào liên minh với Mỹ? 

Hãy nhìn lại lịch sử thế giới gần đây, nước Mỹ chẳng đã tài trợ cho những chế độ độc tài tàn bạo nhất trong lịch sử đó sao? Những cái tên quốc gia như Guatemala, Nicaragua, Honduras, Panama, El Salvado, Haiti, có gợi lên cho vị TS này điều gì không nhỉ? Những quốc gia ấy nhờ vào sự bảo trợ dân chủ và tự do của Mỹ đã đắm chìm trong nghèo nàn, lạc hậu, nội chiến, đã gần như biến mất khỏi bản đồ thế giới. Ở những quốc gia ấy, một bộ phận giàu có đã dựa vào sức mạnh của   nước Mỹ để đàn áp và cướp bóc nhân dân một cách kinh khủng chưa từng thấy, đó là bảo vệ quyền lợi dân tộc hay giai cấp? Vị TS này mong muốn Mỹ sẽ làm điều tương tự với dân tộc Việt Nam chăng?

Kết luận:

Lập luận của vị TS này hoàn toàn là vớ vẩn và gian lận chỉ nhằm kêu gào Việt Nam phải trở thành sân sau Mỹ để chống lại Trung Quốc, tức là đẩy Việt Nam vào thế đối đầu khốc liệt hơn với Trung Quốc. Lúc đó Mỹ sẽ giúp Việt Nam ư? Nước Mỹ sẽ bảo vệ đồng minh của mình bằng cách một lần nữa đưa quân đội vào Việt Nam chăng? Thực ra thì mục đích chính của tác giả bài viết tầm bậy trên trang boxit là muốn nhân danh quyền lợi dân tộc để đòi đa nguyên đa đảng, chỉ có điều quá ngây ngô và ngớ ngẩn, chẳng thể thuyết phục được ai, ngược lại còn làm người ta phải hoài nghi trình độ của những người tự nhận mình là trí thức.



Sunday, April 14, 2013

Vì tự do

Có một lần, chó sói gặp cừu lang thang trên đồng cỏ. Chó sói liền hỏi cừu:
- Này cừu, mày sống có lý tưởng không?
Cừu liền trả lời:
- Ồ, có chứ, lý tưởng của tao là tự do.
Chó sói liền hỏi tiếp:
- Mày có sẵn sàng chết vì lý tưởng không?
Cừu lại trả lời:
- Có chứ, lý tưởng là lẽ sống của tao mà.
Chó sói liền xé xác cừu ra ăn thịt. Kết thúc bữa tiệc thịnh soạn, nó nói: 
- Tao cũng có chung lý tưởng với mày, nhưng tao phải sống vì tự do.


Saturday, April 13, 2013

Tại sao phải tăng lương cho công nhân?

1) Tăng lương cho công nhân để đảm bảo đời sống cho công nhân, tạo điều kiện cho họ chăm sóc bản thân và gia đình, để họ có thể tham gia vào đời sống văn hóa-xã hội. Như vậy, tăng lương sẽ có tác dụng cải tạo con người mạnh mẽ giúp tạo ra những con người không chỉ khỏe mạnh về thể chất mà còn khỏe mạnh về tinh thần, sẽ giúp cho xã hội phát triển mạnh mẽ hơn.

2) Tăng lương cho công nhân không làm tăng giá cả hàng hóa mà chỉ làm giảm lợi nhuận của chủ doanh nghiệp, góp phần tạo dựng sự bền vững trong phân phối thu nhập.

3) Tăng lương cho công nhân làm không làm tăng lạm phát vì nhu cầu về lương thực thực phẩm của công nhân tăng song nhu cầu về hàng xa xỉ của chủ doanh nghiệp lại giảm, phần giảm đi và tăng lên bù trừ nhau nên tổng cầu về hàng hóa của xã hội không tăng.

4) Tăng lương cho công nhân làm gia tăng nhu cầu về lương thực thực phẩm tức là tăng thu nhập cho nông dân và làm giảm nhu cầu về hàng hóa xa xỉ tức là có tác dụng tiết kiệm tài nguyên của đất nước, giảm bớt tiêu xài lãng phí.

5) Tăng lương cho công nhân sẽ hạn chế việc chủ doanh nghiệp tiêu dùng lãng phí sức lao động, nguồn tài nguyên quan trọng bậc nhất của quốc gia.

6) Tăng lương cho công nhân sẽ thúc đẩy chủ doanh nghiệp phải sử dụng nhiều máy móc hơn trong sản xuất, tức là thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nền sản xuất.

Bàn về chính sách hỗ trợ cho vay nhà ở của Ngân Hàng Nhà Nước

Ngân hàng Nhà nước mới công bố dự thảo Thông tư Quy định về cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết 02. Các đối tượng vay vốn bao gồm người thu nhập thấp, cán bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang vay để thuê, thuê mua nhà ở xã hội; đối tượng thu nhập thấp mua nhà thương mại có diện tích nhỏ hơn 70 m2, giá bán dưới 15 triệu đồng mỗi m2. Doanh nghiệp xây nhà xã hội hoặc từ nhà thương mại chuyển sang nhà xã hội cũng thuộc đối tượng được ưu đãi.

Chính sách của Ngân Hàng Nhà Nước sẽ phải đối mặt với ba vấn đề thực tế sau đây.

1) Khó xác định chính xác đối tượng được hưởng hỗ trợ: 

Hệ thống kê thu nhập của Việt Nam chưa được hoàn chỉnh nên sẽ rất khó xác định được chính xác thu nhập của các đối tượng thuộc nhóm được hỗ trợ. Một nghiên cứu xã hội học năm 2012 của Thanh Tra Chính Phủ cho thấy 79% công chức và cán bộ được hỏi có thu nhập ngoài lương, có tới 11,5% số đó có thu nhập ngoài lớn hơn hoặc bằng 50% mức lương. Như vậy, việc hỗ trợ cho cán bộ công chức mua nhà hoàn toàn có thể rơi vào những đối tượng không cần được ưu đãi. 

2) Mục tiêu của chính sách khó có duy trì trong dài hạn:

Nhóm người có thu nhập thấp là nhóm dễ bị tổn thương trong dài hạn do thu nhập của họ chỉ đủ chi tiêu nên không có tích lũy. Tài sản có giá trị như nhà có thể bị bán đi  hoặc cầm cố lấy tiền chi tiêu cho những nhu cầu phát sinh bất thường như chữa bệnh, cho con cái đi học hoặc để sinh sống khi bị mất việc làm. Rõ ràng là nếu không có một hệ thống an sinh xã hội thích hợp thì việc duy trì một tài sản có giá trị đối với hộ gia đình có thu nhập thấp trong dài hạn là một việc không khả thi. Khoản cho vay hỗ trợ nhà ở có thể bị biến tướng thành trợ cấp y tế, trợ cấp thất nghiệp hoặc trợ cấp giáo dục trong trường hợp người dân bán nhà để chi tiêu.

3) Chính sách không hấp dẫn đối với ngân hàng:

Doanh nghiệp phải thu hồi vốn ngay để tiếp tục đầu tư do vậy sẽ cần tới trung gian của ngân hàng. Người có thu nhập thấp sẽ vay tiền của ngân hàng để mua nhà, nhưng người thu nhập thấp sẽ không có tài sản nào có giá trị để thế chấp mà cho vay tín chấp thì lại rất rủi ro đối với ngân hàng, giải pháp duy nhất là dùng chính căn nhà mua được đó để thế chấp cho ngân hàng. Hiện nay, thị trường bất động sản đang đi xuống, số lượng các khoản thế chấp bằng bất động sản nằm tại ngân hàng rất lớn vì vậy các ngân hàng có xu hướng hạn chế cung cấp tín dụng thế chấp bằng bất động sản. Chính sách hỗ trợ mua nhà cho người thu nhập thấp sẽ khó kiếm được ngân hàng chịu đứng ra cấp tín dụng. Mặt khác nhà ở xã hội thường có điều kiện mua bán rất chặt chẽ, khi đứng ra cấp tín dụng có thế chấp bằng nhà ở xã hội thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc quản lý rủi ro, ví dụ nếu người mua nhà không trả được nợ thì ngân hàng cũng không thể xiết nhà để thu hồi nợ.

Như vậy, nếu cho hỗ trợ các khoản vay của cá nhân thì chính sách của Ngân Hàng Nhà Nước sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng nếu cho các doanh nghiệp vay vốn ưu đãi để xây dựng nhà xã hội thì những vấn đề sẽ đơn giản hơn nhiều, có thể chính sách sẽ được điều chỉnh theo hướng ưu tiên cho doanh nghiệp hơn là các cá nhân. 

Wednesday, April 10, 2013

Đội mũ "Ngu như lừa"

Ở phố nọ có một bà nhà giàu thuê người giúp việc ở quê ra. Bà này mồm miệng rất đáo để còn cô giúp việc lại cứng đầu cứng cổ hay cãi. Chủ tớ thường hay cãi vã nhau ầm xóm từ chuyện nhỏ xọ đến chuyện lớn, không ngày nào được yên. 

Một hôm bà chủ nghe thiên hạ kháo nhau giá đất đang xuống liền đi buôn khắp xóm, gặp ai cũng xui có đất thì bán mau kẻo nó xuống giá nữa thì mất tiền oan. 

Cô người làm đi đâu về nghe bà chủ buôn chuyện thì bâng quơ: "Ôi giời, người ta có mảnh đất đang mong đất đai sốt lên bán lấy cái vốn cho con cái lấy vợ gả chồng, giờ lại có kẻ đi xui người ta bán rẻ". 

Bà chủ mới nhảy chồm lên: "Cái con này, mày ăn gì mà nói ngu thế, đất đai có rẻ thì mày mới mua được mảnh cắm dùi mà làm người thành phố chứ, lại mong đất giá cao để về cắm mặt vào ruộng hả?"

Cô người làm cười khằng khặc: "Ôi giời ơi, đi ở cho bà ăn ba bữa còn chả no mà mơ đến chuyện mua đất thành phố à?"

Bà chủ tức lộn ruột không nói lại được câu nào, nghĩ bụng: "Rồi mày biết tay bà!". Bà chủ liền may một cái mũ có gắn ba chữ "Ngu như lừa", rồi bắt cô người làm cứ đi đâu là phải đội cái mũ ấy. Cô giúp việc cũng trơ mặt, đội cái mũ "Ngu như lừa" đi diễu khắp phố phường.

Hàng xóm thấy lạ mới hỏi bà chủ sao làm vậy thì bà chủ trả lời: "Bởi nó ngu như lừa nên mới phải đội cái mũ đó". Mọi người đều cười ồ: "Đúng rồi, phải cho nó đội cái mũ ấy để người ta thấy bà khác với nó chớ!"

Saturday, April 6, 2013

Chuyện ngụ ngôn mới: Cừu, dê và chó sói

Cừu vốn là loài ăn cỏ, thường sống theo đàn lớn. Khi có chó sói xuất hiện thì cừu luôn có thói quen chạy tán loạn mỗi con một nơi, chó sói đuổi bắt cừu rất dễ dàng. Dê là loài ăn cả cỏ và lá cây thường sống theo nhóm nhỏ nhưng phàm ăn lại khéo leo trèo nên ở đâu có đàn dê xuất hiện thì chỉ một thời gian sau là cây cối bị ăn trụi sạch. Khác với cừu, khi chó sói xuất hiện thì đàn dê luôn đứng sát lại với nhau và chĩa sừng ra phía ngoài khiến chó sói thường không bắt được dê. 

Người chăn cừu có kinh nghiệm thường thả vào đàn cừu một bầy dê. Khi sống cùng với dê, cừu cũng thay đổi thói quen. Nếu chó sói có xuất hiện thì cừu không chạy tứ tung nữa mà chúng tập trung lại quanh bầy dê, do vậy chó sói khó có thể lùa bắt được cừu.

Một lần, có một con cừu lạc đàn lang thang trên đồng cỏ bị chó sói bắt gặp. Chó sói liền nói với cừu rằng loài sói vốn rất kính trọng loài cừu vì cừu không làm tổn hại tới cây cối, nhưng đối với loài dê tham lam chuyên phá hoại cây cối thì khác. Chó sói đề nghị cừu tránh xa bầy dê ra để chúng có thể tấn công dê nhằm bảo vệ cây cối cũng như đồng cỏ của loài cừu. Con cừu trở về nói với đàn của nó, tất cả lũ cừu đều thấy có lý và chúng quyết định tránh xa bầy dê.

Chó sói xuất hiện, đàn cừu không còn ở gần bầy dê nữa nên mạnh con nào con ấy bỏ chạy theo bản năng, thế là chó sói thoải mái vồ lấy cừu ăn thịt.

Tuesday, April 2, 2013

Thị trường bất động sản và nhóm lợi ích

Khi tìm hiểu trường bất động sản thì cần phải thấy có hai loại hàng hóa khác nhau là đất đai và bất động sản (ví dụ như nhà ở, chung cư, khu thương mại, tòa nhà văn phòng cho thuê). Đất đai không có giá trị mà chỉ có giá cả, giá cả của đất đai là do địa tô (tiền thuê đất) quyết định. Giá cả của bất động sản được tính bằng giá đất cộng với chi phí xây dựng và lợi nhuận được tạo ra. Như vậy, giá cả của đất đai sẽ biến động theo mức độ tăng trưởng của khu vực sản xuất, tức là tùy thuộc vào khối lượng tiền thuê đất mà khu vực sản xuất có thể trả cho cho chủ đất, còn giá cả của bất động sản thì phụ thuộc vào sự phát triển của chính ngành xây dựng hơn là giá cả đất đai.

1.  Những nét chính về thị trường bất động sản:

Kinh tế Việt Nam trải qua một thời kỳ tăng trưởng nhanh kéo dài, việc kinh doanh bất động sản cũng rất phát đạt, nhưng nguồn cung đất đai tăng trưởng chậm hơn dẫn đến giá cả của đất đai tăng vọt. Đây là lý do chủ yếu khiến giá cả đất đai ở Việt Nam rất cao, đặc biệt là ở các đô thị lớn, nơi tập trung phần lớn các cơ sở sản xuất kinh doanh. Giá đất cao tất nhiên cũng ảnh hưởng tới giá bất động sản, tuy nhiên trong thời kỳ giá đất cao đi liền với kinh tế tăng trưởng nhanh thì vẫn có nhiều người dân mua được nhà. Có hai lý do chủ yếu khiến điều đó diễn ra, thứ nhất là kinh tế tăng trưởng nhanh dẫn đến thu nhập của người dân tương đối cao và nguồn tín dụng dồi dào cho phép họ mua nhà, thứ hai là một bộ phận người dân vốn có nhà hoặc đất đai ở khu vực giá cao có thể dễ dàng bán đi và mua nhà hoặc đất ở khu vực có giá thấp hơn để cải thiện mức sống.

Hiện nay, khu vực sản xuất tăng trưởng chậm lại, tiền thuê đất giảm xuống khiến cho giá cả của đất đai sụt giảm mạnh nhưng giá cả bất động sản lại giảm chậm hơn, do giá đất đai chỉ chiếm một phần trong giá trị của bất động sản trong khi chi phí xây dựng chưa có sự thay đổi đột biến. Kinh tế tăng trưởng chậm lại nên số lượng người có khả năng mua nhà cũng giảm xuống, ngay cả khi giá nhà thấp hơn. Thị trường bất động sản cho thấy một nghịch lý là khi giá bất động sản cao thì có nhiều người mua được nhà còn khi giá thấp thì lại có nhiều người không mua được nhà, lý do đằng sau đó chính là sự tăng trưởng của nền kinh tế.

2. Các nhóm lợi ích:

Trên thị trường bất động sản có hai nhóm chính, nhóm thứ nhất là các chủ đất bao gồm các tổ chức hay cá nhân có quyền sử dụng đối với các diện tích đất đai thích hợp cho xây dựng, nhóm thứ hai là các chủ đầu tư xây dựng bất động sản. Nhóm thứ hai thường mua hoặc thuê đất của nhóm thứ nhất để xây dựng rồi bán hoặc cho thuê trên thị trường.

Giá đất giảm xuống khiến thu nhập của chủ đất giảm nhưng lại có tác động tích cực đối với những nhà đầu tư xây dựng bất động sản. Giá đất giảm dẫn đến chi phí đầu tư ban đầu giảm đồng thời tỷ suất lợi nhuận của nhà đầu tư xây dựng bất động sản do đó sẽ tăng lên. Rõ ràng là lợi ích của hai nhóm này không thống thất trên phương diện giá cả đất đai. Chủ đất muốn đất đai phải giữ giá để bảo vệ nguồn thu nhập và tài sản. Đối với nhóm thứ hai thì bảo vệ giá đất đai không phải là ưu tiên lớn nhất, cái họ cần là có thể tự điều chỉnh linh hoạt giá bất động sản để nhanh chóng bán hết hàng nhằm thu hồi vốn và tiếp tục đầu tư mới, tỷ suất lợi nhuận từ xây dựng sẽ giúp họ bù đắp các khoản thua lỗ trước đó.

Do sự khác biệt về lợi ích nên hai nhóm này mong muốn sự trợ giúp của nhà nước trong thời kỳ thị trường bất động sản suy thoái cũng rất khác nhau. Chủ đất thường vận động nhà nước thực hiện các biện pháp giữ cho giá cả đất đai không giảm quá mạnh, ví dụ như hạn chế cấp phép các dự án bất động sản mới, điều này cũng khiến cho giá bất động sản kém linh hoạt do các chủ đầu tư bắt buộc phải trả giá cao cho đất. Trong khi các chủ đầu tư xây dựng bất động sản thì lại muốn nhà nước hỗ trợ việc kinh doanh của họ ví dụ hỗ trợ để người dân vay tiền mua nhà, hơn là can thiệp vào giá cả đất đai hay bất động sản.