Showing posts with label Quốc tế. Show all posts
Showing posts with label Quốc tế. Show all posts

Sunday, March 7, 2021

Các Phiên Bản Người Đẹp Ngủ Trong Rừng

Câu chuyện cổ tích "Người Đẹp Ngủ Trong Rừng" của phương Tây được kể lại nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay.

Phiên bản của thủ tướng.




Phiên bản của các tỉnh.



Còn đây có lẽ là phiên bản gốc.


Chuyện "Người Đẹp Ngủ Trong Rừng" có nhiều phiên bản cổ hơn phiên bản của anh em nhà Grimm. Một phiên bản đó là của Italia. Trong phiên bản này, không phải hoàng tử đã đánh thức người đẹp. Trái lại, anh ta đã cưỡng hiếp người đẹp rồi bỏ đi, khiến cô sinh ra hai đứa bé trong khi ngủ. Một đứa bé đã mút ngón tay cô và làm cái rằm cắm ở đó rơi ra, thế là cô tỉnh giấc ngủ trăm năm.

Người đẹp sẽ thức giấc, nhưng đôi khi không phải theo cách mà anh em nhà Grimm vẫn kể.

P/s: Đây là phiên bản đời thực, không phải chuyện cổ tích.

Saturday, July 13, 2019

Bàn về khái niệm dân chủ

Dân chủ là mốt thời thượng của phương Tây, mọi tội vạ đều được đổ cho thiếu dân chủ, mọi sự thần kỳ đều là do có dân chủ. Người Mỹ vẫn ném dân chủ bằng B-52 xuống đầu các dân tộc thấp cổ bé họng và tự hào về điều đó. Đám phát xít mới cũng hò hét tự xưng dân chủ. Vài người Việt Nam loạn trí còn ca ngợi món dân chủ chở bằng máy bay ném bom hạng nặng của Mỹ và coi đó là ngọn cờ thời đại. Ấy thế mà khi người Việt Nam chân chính nói về sự dân chủ của quốc gia mình thì người ta ngay lập tìm mọi cách xuyên tạc, bôi nhọ, bịt miệng, tất nhiên là nhân danh dân chủ.

Khái niệm dân chủ cần phải được thay đổi cách tiếp cận, nhằm làm rõ nội hàm của nó, để đập tan những sự lạm dụng của các phe cánh phản dân chủ.

Sơ lược về các xã hội tiền tư bản

Trong các xã hội tiền tư bản thì lực lượng dân cư đông đảo nhất là nông dân, hầu hết là nông dân nhỏ, bị gắn chặt vào ruộng đất, cho dù lãnh chúa có sở hữu đất đai hay không thì nông dân vẫn là người chiếm hữu đất đai và canh tác từ đời này qua đời khác theo tập quán. Điều này có nghĩa là lãnh chúa hay nhà nước chỉ có thể chiếm hữu được lao động thặng dư của nông dân dựa trên sự cưỡng bức, nhờ vào sự thống trị về tư pháp, chính trị và quân sự, điều này có nghĩa là sở hữu của lãnh chúa hay nhà nước không tách rời khỏi địa vị chính trị và quân sự. Hình thức căn bản của sự bóc lột ấy là địa tô và thuế khóa, bao gồm thuế hiện vật và các loại lao dịch cũng như nghĩa vụ cống nạp. 

Song trong các xã hội tiền tư bản, nông dân cũng có tổ chức chính trị của mình, đó chính là các cộng đồng làng. Nhờ vào việc củng cố sức mạnh chính trị của cộng đồng làng, nông dân có thể tự bổ nhiệm các chức sắc làng thay cho viên chức của lãnh chúa hay nhà nước, tự thiết lập các quy định của làng, thông qua đó họ hạn chế được sự bóc lột. Tuy vậy, cho dù cộng đồng làng có mạnh đến đâu thì cũng không thể giúp cho nông dân tự do. Nhà nước là lãnh địa độc quyền của các lãnh chúa, cộng đồng làng không bao giờ có thể tham gia vào bộ máy nhà nước, hay nói cách khác, nông dân không có quyền công dân.

Nền dân chủ Athen

Nền dân chủ Athen là một ngoại lệ của thời tiền tư bản. Sau cuộc cải cách của Cleisthenes, các làng trở thành đơn vị của nhà nước và nông dân trở thành công dân. Từ deme trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là làng và democracy có nghĩa là quyền lực thuộc về làng, không phải là quyền lực thuộc về nhân dân như bị xuyên tạc ngày nay. Sự kết hợp làng vào nhà nước và biến nông dân thành công dân của Athen đã mang lại hai đặc trưng độc đáo cho công dân Athen. Thứ nhất là mọi nông dân-công dân tự do đều trực tiếp tham gia vào công việc nhà nước, bất kể địa vị kinh tế ra sao. Thứ hai, do nông dân, cũng như những người sản xuất nhỏ khác, có quyền lực chính trị nên họ sử dụng quyền đó hạn chế các biện pháp bóc lột của nhà nước cũng như quý tộc đối với nông dân, tức là hạn chế các loại thuế khóa và lao dịch. Người Athen nghèo khổ nhất cũng được coi là tự do, không phải là kẻ tôi tớ của bất kỳ người trần mắt thịt nào, họ không phải nai lưng ra làm giàu cho bất cứ quý tộc hay nhà nước nào, họ chỉ lao động cho bản thân mình.

Tuy vậy, nền dân chủ Athen luôn là ngoại lệ của lịch sử, không lặp lại ở bất cứ đâu. Hơn nữa, nền dân chủ của Athen khi trao quyền công dân cho nông dân thì cũng loại bỏ quyền công dân của đại đa số cư dân Athen, đó là phụ nữ, người ngoại quốc, nô lệ. Về bản chất dân chủ Athen có nghĩa là trao quyền công dân toàn diện cho nông dân đồng thời giới hạn phạm vi những người được trao quyền. Sở dĩ có điều này vì xã hội Athen thoát ra từ xã hội nguyên thủy, khi mà nông dân còn tương đối tự do và độc lập về kinh tế trong khi giới quý tộc thì chưa đủ mạnh để tạo ra nhà nước độc lập với nông dân, do vậy họ buộc phải liên minh với nông dân, chấp nhận sự tự do của nông dân để tạo ra một nhà nước đủ mạnh nhằm duy trì trật tự xã hội có lợi cho giới quý tộc. 

Chủ nghĩa tự do trong xã hội phong kiến Châu Âu

Khác với nông dân Athen, nông dân Châu Âu thời Trung Cổ bị gắn chặt vào đất đai và đối tượng gánh chịu các bóc lột phi kinh tế, họ hoàn toàn bị loại khỏi bộ máy nhà nước. Xã hội Trung Cổ Châu Âu có đặc trưng là quyền lực phân tán, tức là có nhiều lãnh địa nhỏ, mỗi lãnh địa có một lãnh chúa nắm toàn bộ các quyền lực tư pháp, chính trị và quân sự, nông dân trong lãnh địa bất kể là tự do hay không tự do đều lệ thuộc vào lãnh chúa. Bên trên các lãnh chúa có triều đình và nhà vua, nhưng thường là nhà vua cũng có lãnh địa riêng và bị hạn chế can thiệp vào lãnh địa riêng của các lãnh chúa.

Các cộng đồng làng của nông dân vẫn tồn tại, có thể giúp nông dân phần nào hạn chế sự bóc lột của lãnh chúa và triều đình, thậm chí còn có thể đóng vai trò như là công cụ để kiểm soát quyền lực của lãnh chúa, nhưng vấn đề chủ chốt ở đây là nông dân bị loại khỏi nhà nước. Quyết định về các vấn đề chính trị, quân sự, luật pháp, thuế khóa, đều thuộc về lãnh chúa và là công việc của riêng họ với triều đình. Do vậy trong xã hội phong kiến Châu Âu thì khái niệm dân chủ kiểu Athen, hay trao quyền công dân cho nông dân, hoàn toàn là xa lạ. Xã hội phong kiến Châu Âu không có dân chủ. Khái niệm dân chủ của thời Athen đã chấm dứt cùng với xã hội Athen và nó hoàn toàn không còn dấu vết nào trong xã hội phong kiến Châu Âu.

Các lãnh chúa Châu Âu phải đối mặt với một vấn đề hoàn toàn khác với quý tộc Athen. Sự phát triển của chế độ phong kiến dần dần khiến cho triều đình trở nên mạnh hơn, với tư cách là trung tâm quyền lực chính trị và đòi hỏi nhiều hơn sản phẩm thặng dư của toàn thể xã hội. Triều đình với tư cách là chính quyền trung ương dần trở lên độc lập, vượt ra khỏi tầm kiểm soát của cách lãnh chúa và bắt đầu  can thiệp trở lại các lãnh địa, tức là xâm phạm vào quyền lực phong kiến của các lãnh chúa. Đây là lúc khái niệm chủ nghĩa tự do (liberalism) ra đời, lãnh chúa khẳng định về những đặc quyền cá nhân mà nhà nước không được xâm phạm, đồng thời vời điều đó là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước và giới hạn quyền lực của bộ máy nhà nước. Chủ nghĩa tự do là một sản phẩm của giai đoạn cuối thời Trung Cổ, khi mà chế độ phong kiến tản quyền đã bắt đầu suy yếu và giới quý tộc đã đánh mất dần các chức năng quân sự, chính trị và tư pháp, chỉ còn bám vào địa vị quý tộc với những đặc quyền được nhà nước bảo vệ. Chủ nghĩa tự do của thời Trung Cổ khác biệt hoàn toàn với cơ chế dân chủ Athen ở chỗ, nếu như cơ chế dân chủ Athen bảo vệ sự tự do của những nông dân sống bằng lao động của bản thân thì chủ nghĩa tự do trung cổ, bắt nguồn từ lordship, lại bảo vệ tự do của những kẻ sống bằng lao động của người khác.

Nước Anh là hình mẫu cổ điển của chủ nghĩa tự do, khi lãnh chúa bị tư sản hóa, tách khỏi các nghĩa vụ phong kiến về quân sự và pháp lý, tồn tại dựa vào quyền sở hữu đất đai thuần túy kiểu tư bản. Họ tạo thành cơ chế quyền lực nhà nước dựa trên nghị viện kết hợp với nhà vua. Điều này hoàn toàn không mang ý nghĩa dân chủ hay trao quyền cho nông dân. Nghị viện Anh chỉ do giới quý tộc bầu ra và đại diện cho dân chúng ngay cả khi dân chúng không có quyền bầu cử. Chủ nghĩa tự do Anh gắn liền với sự nổi loạn không ngừng của nhà vua.

Khái niệm chủ nghĩa tự do hoàn toàn không có liên hệ gì với dân chủ, nó thể hiện vị thế đặc quyền trong xã hội phong kiến và do vậy nó là một thứ thay thế cho dân chủ trong xã hội phong kiến Châu Âu. Nó không bảo vệ những người bị bóc lột và ngược lại bảo vệ đặc quyền của những kẻ bóc lột. 

Dân chủ trong xã hội tư bản

Điểm mấu chốt trong xã hội tư bản là người lao động bị tách khỏi tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống. Do vậy, người lao động phải hoàn toàn tự do, không chỉ tự do về thân thể, mà cũng không còn mối liên hệ với cộng đồng giúp họ tồn tại, giống như trong các xã hội tiền tư bản. Đồng thời với điều đó, nhà tư bản cũng được giải thoát khỏi các chức năng chính trị, họ chỉ chịu sự chi phối của quy luật thị trường khi mua bán tài sản. Điều này có nghĩa là sở hữu của nhà tư bản được tách khỏi các ràng buộc về quân sự, luật pháp và chính trị.

Con người trong xã hội tư bản xuất hiện với tư cách là một cá nhân độc lập chứ không phải là thành viên của một cộng đồng như trong các xã hội tiền tư bản. Do vậy, trong xã hội tư bản thì quyền công dân được trao cho các cá nhân, không giới hạn phạm vi, bởi vì giờ đây mọi cá nhân đều bình đẳng một cách trừu tượng với nhau. Nhưng mặt khác, quyền công dân trong xã hội tư bản lại bị hạn chế về mặt kinh tế. Nếu như trước kia, nông dân Athen có thể sử dụng quyền công dân để chống lại sự bóc lột thì giờ đây kinh tế đã thoát khỏi phạm vi quyền lực nhà nước, trở thành một lĩnh vực độc lập, chỉ tuân theo quy luật thị trường. Hay nói cách khác, quyền công dân không thể tác động đến địa vị kinh tế của người lao động nữa. Khi họ bán sức lao động thì họ trở thành nô lệ của nhà tư bản, họ phải nai lưng ra làm giàu cho nhà tư bản mà quyền lực nhà nước không thể can thiệp vào điều đó. Tóm lại, trong xã hội tư bản thì quyền công dân được trao cho tất cả mọi người, nhưng quyền đó không bảo vệ được họ khỏi bị bóc lột về kinh tế, hay nói cách khác là phạm vi của quyền công dân bị giới hạn trong lĩnh vực chính trị thuần túy.

Trong xã hội tư bản thì quyền công dân không phụ thuộc vào địa vị xã hội hay kinh tế, đồng thời quyền lực chính trị cũng không thể can thiệp vào quyền lực kinh tế. Do vậy, chủ nghĩa tư bản đã cứu thoát chủ nghĩa tự do của thời phong kiến, đem nó vào xã hội hiện đại để kết hợp với dân chủ tư sản, tạo thành khái niệm dân chủ tự do.

Tuy vậy, cần phải nhớ rằng chủ nghĩa tự do bắt nguồn từ xã hội tiền tư bản, nó giả định cá nhân có các đặc quyền bất khả xâm phạm và có đủ khả năng làm chủ các đặc quyền đó, song trong xã hội tư bản thì người lao động là cá nhân trần trụi, không tư liệu sản xuất, không có khả năng làm chủ đời sống của bản thân, cũng như không có bất cứ đặc quyền nào, cũng chẳng thể dựa vào bất cứ đặc quyền nào để chống lại sự bóc lột. Chủ nghĩa tự do không được trang bị để đối mặt với điều ấy. Do đó, khái niệm dân chủ tự do trong xã hội tư bản luôn mang đến những cuộc khủng hoảng xã hội thường trực, những vực sâu pháp lý không có cách nào lấp đầy.

Định nghĩa lại dân chủ theo kiểu Mỹ         

Nước Mỹ sinh ra từ các thuộc địa của đế quốc Anh ở Bắc Mỹ được giải phóng. Một mặt họ chịu ảnh hưởng về mặt tổ chức chính trị của đế quốc Anh, nhà nước tư bản đầu tiên của thế giới, mặt khác cuộc cách mạng giải phóng thuộc địa đã tạo cho những người sản xuất nhỏ một vai trò chính trị tích cực. Hệ quả của hoàn cảnh lịch sử ấy là giới thượng lưu Mỹ không thể tiến hóa thành một tầng lớp quý tộc tư bản kiểu Anh, mặc dù họ rất mong muốn điều đó.

Đối mặt với hoàn cảnh lịch sử đặc biệt ấy, giai cấp thống trị ở Mỹ đã tạo ra một khái niệm đặc biệt là ‘dân chủ đại diện’. Họ diễn giải rằng các thành phần có địa vị thấp trong xã hội có lợi ích thống nhất với các thành phần có địa vị cao hơn, ví dụ thợ thủ công sẽ ủng hộ thương nhân vì thương nhân có khả năng thúc đẩy lợi ích cho thợ thủ công tốt hơn chính bản thân thợ thủ công, hay nói cách khác, thương nhân là đại diện tự nhiên cho lợi ích của thợ thủ công. Từ đó, giai cấp thống trị Mỹ khẳng định rằng dân chủ không phải là việc trực tiếp tham gia công việc nhà nước mà là chuyển giao quyền lực ấy cho người đại diện. Dưới danh nghĩa dân chủ, giai cấp thống trị Mỹ tạo ra một chế độ quý tộc trá hình kết hợp với nền dân chủ tư sản. Một mặt quyền công dân được trao cho dân cư không phân biệt địa vị kinh tế, mặt khác quyền công dân ấy lại chỉ giới hạn trong việc bầu cử, hoàn toàn không ảnh hưởng đến quyền lực nhà nước hay có thể thay đổi địa vị kinh tế của công dân.

Cơ chế dân chủ đại diện là một sáng tạo hiện đại của Mỹ, hoàn toàn không có liên hệ gì với cơ chế dân chủ Athen, vì dân chủ Athen có nghĩa là công dân trực tiếp tham gia vào công việc nhà nước, họ không chuyển giao quyền lực của mình cho người đại diện nào hết, đó là một khái niệm hoàn toàn xa lạ đối với Athen. Do vậy, theo khái niệm dân chủ Athen thì nền dân chủ đại diện của Mỹ là phản dân chủ.

Cơ chế dân chủ đại diện của Mỹ dẫn đến một nghịch lý, đó là họ phải định nghĩa lại khái niệm ‘nhân dân’. Một mặt họ phải coi ‘nhân dân’ với tư cách là tập hợp toàn thể dân cư là có quyền lực tối cao, để có thể trao quyền lực tối cao đó cho đại diện, mặt khác ‘nhân dân’ lại là một tập hợp trừu tượng, không hoạt động chính trị mà hoàn toàn thụ động đón nhận kết quả từ nhà nước, tức là tước bỏ nội dung chính trị của 'nhân dân'. 

Tóm lại, dân chủ  Athen và dân chủ hiện đại là những khái niệm khác nhau, bắt nguồn từ những chế độ xã hội khác nhau, hoàn toàn không có liên hệ với nhau. Chế độ dân chủ tư sản hiện đại một mặt mở rộng quyền công dân cho người lao động, mặt khác lại hạn chế phạm vi quyền lực chính trị của công dân. Do vậy, chế độ dân chủ tư sản chỉ là dân chủ hình thức, không phải dân chủ thực chất. Điều này hoàn toàn trái ngược với khoa học chính trị chính thống, vốn luôn mô tả dân chủ như là một nguyên lý chính trị tiến hóa liên tục từ Athen đến nhà nước tư bản hiện đại, mang tính xuyên lịch sử và dựa vào đó để cho rằng dân chủ là một di sản phổ quát của phương Tây cần được bảo vệ và duy trì. Thực tiễn cho thấy nền dân chủ hình thức của chế độ tư bản về bản chất là phản dân chủ. Một mặt nó tuyên bố nhân dân có quyền lực tối cao, mặt khác nó tước bỏ khả năng sử dụng cái quyền lực tối cao ấy và buộc nhân dân phải trao quyền lực ấy cho các đại diện của giai cấp tư sản. 

Nhà nước chuyên chế châu Á và dân chủ

Khác với châu Âu, các nhà nước châu Á đã nhanh chóng hoàn thiện hình thái nhà nước trung ương tập quyền. Đặc trưng của nhà nước phong kiến tập quyền châu Á là giai cấp thống trị đồng nhất với nhà nước, tức là không có giới quý tộc độc lập, không phân chia thành các lãnh địa. Nhà nước trung ương được thống nhất với quyền lực tuyệt đối, các quan lại được vua bổ nhiệm cai trị tại các địa phương. Nhà nước chính là bộ máy bóc lột duy nhất trong xã hội, đối tượng của nó là nông dân, giai cấp thống trị đồng nhất với giới quan lại triều đình. 

Trong nhà nước chuyên chế châu Á, nông dân không có quyền chính trị, họ có thể phát triển các cộng đồng làng để hạn chế sự bóc lột của nhà nước, song nhà nước hoàn toàn nằm ngoài phạm vi kiểm soát của họ. Tầng lớp địa chủ hay thương nhân giàu có ở châu Á cũng giống như nông dân, hoàn toàn không có bất cứ quyền chính trị nào đáng kể, thậm chí còn là đối tượng kiểm soát của nhà nước chuyên chế. Vậy nên ở châu Á mới có cái lệ phổ biến là những nhà giàu thường bỏ tiền mua các chức quan nhỏ để tránh phải làm các công việc lao dịch như nông dân.

Khác với châu Âu dựa vào giới quý tộc cha truyền con nối, nhà nước chuyên chế châu Á dựa vào tầng lớp trí thức, tầng lớp này tập trung vào việc học hành, nghiên cứu về nghệ thuật cai trị để trở thành quan lại. Điều này dẫn đến hệ quả là khái niệm dân chủ không sinh ra ở châu Á. Việc tham gia vào chính quyền là của quan lại, hoàn toàn độc lập với nông dân. Giới trí thức học để làm quan, họ hoàn toàn không có nhu cầu kiểm soát hay hạn chế quyền lực nhà nước, mặt khác quyền lực nhà nước hoàn toàn không làm thay đổi địa vị kinh tế của giới trí thức. 

Cách mạng tháng Tám của Việt Nam và nền dân chủ mới  

Việt Nam bước vào thời hiện đại với hai gánh nặng là chế độ phong kiến suy tàn và chế độ thực dân, để cùng một lúc đánh đổ cả hai thứ ấy thì không thể nào dựa vào tầng lớp trí thức phong kiến hay tư sản mại bản. Cách mạng tháng Tám năm 1945 của Việt Nam là một dấu mốc vĩ đại trong lịch sử châu Á, lần đầu tiên nông dân được giải phóng và trao quyền công dân. Họ không những được trao quyền mà còn được cung cấp các điều kiện để thực thi quyền công dân. Nông dân được chia ruộng đất, để trở thành người sản xuất tự do, thoát khỏi sự bóc lột của chế độ phong kiến và tư bản. Nông dân không những được bỏ phiếu để bầu chính quyền mà trên thực tế còn kiểm soát chính quyền thông qua các đại diện không có đặc quyền đặc lợi trong Đảng Cộng Sản. Điều này là một phát kiến quan trọng sinh ra từ thực tiễn đấu tranh của phong trào cộng sản quốc tế. Đảng viên một mặt là người lao động bình thường, không có đặc quyền đặc lợi gì từ chức vụ đảng, không nắm chức vụ nhà nước, mặt khác họ có quyền kiểm soát bộ máy nhà nước từ việc hoạch định ra đường lối cho đến phê chuẩn ứng cử viên vào chức vụ quan trọng của nhà nước dựa trên lợi ích của người lao động. Điều này tạo ra một cơ chế hữu hiệu kiểm soát nhà nước đồng thời ngăn cản đảng viên cố kết trở thành tầng lớp đặc quyền chính trị.  

Đây là một khái niệm dân chủ hoàn toàn mới, không liên quan đến dân chủ Athen hay dân chủ tư sản. Khái niệm này cũng không bắt nguồn từ kinh nghiệm của nhà nước chuyên chế châu Á, do đó cái luận điệu cho rằng Việt Nam phải thoát Trung hay thoát Á là hoàn toàn bịp bợm. Một mặt khái niệm dân chủ ở Việt Nam có nghĩa là tạo ra địa vị kinh tế tự do cho những người bị áp bức đồng thời trao quyền công dân cho họ, mặt khác là tạo điều kiện cho họ kiểm soát quyền lực nhà nước một cách gián tiếp, thông qua việc tham gia vào một đảng chính trị chuyên chính có quyền lực thực tế. Song điều này cũng tiềm ẩn xung đột chính trị nội tại. Nhà nước bao giờ cũng là thành trì cuối cùng của sự bóc lột. Viên chức nhà nước là một tầng lớp độc lập, sống bằng công việc nhà nước, tham gia vào bộ máy nhà nước thông qua con đường bổ nhiệm và tuyển dụng, lợi ích của họ là mở rộng bộ máy nhà nước và do đó phải tìm cách thoát khỏi những kiềm chế của đảng chính trị thuộc về người lao động. Đảng chính trị thuộc về người lao động sẽ luôn tìm cách hạn chế sự phát triển của nhà nước vì sự phát triển của nhà nước có nghĩa là tăng cường bóc lột người lao động thông qua thuế khóa. Do vậy, vấn đề căn bản của Việt Nam trong thời kỳ quá độ là kiểm soát quyền lực nhà nước, bằng cơ chế dân làm chủ, đảng lãnh đạo và không ngừng mở rộng quyền lực chính trị cho người lao động. 

Sunday, August 26, 2018

Tin tức về một tay giặc lái

Ảnh: Bia John McCain ở hồ Trúc Bạch
Nguồn: Internet
Mục sư nói với người nhà của thượng nghị sĩ John McCain quá cố:
-Tôi có tin tốt lành cho các vị đây: McCain đang được bay lên thiên đường với đức Chúa Trời.
- Ông ấy đã tới nơi chưa, thưa cha? Một người hỏi.
Mục sư nói tiếp:
- Còn đây là tin xấu: Tụi Việt Cộng đã bắn rơi máy bay của ông ấy.

(Chuyện bịa, nhưng không nhất thiết phải khác với sự thật)

P/s: Nhiều năm nữa người ta sẽ quên John McCain, như đã quên Bill Clinton, nhưng tấm bia hồ Trúc Bạch sẽ luôn còn đó, nhắc nhở người Việt Nam về những gì họ đã phải làm để giành lấy độc lập, tự do và phẩm giá.

Thursday, September 21, 2017

Bộ phim tài liệu của Ken Burns & Lynn Novick và sự kiện Vịnh Bắc Bộ


Người Việt Nam từ lâu đã khép lại cuộc kháng chiến chống Mỹ để thống nhất đất nước, song nước Mỹ vẫn không ngừng bị ám ảnh về cuộc chiến mà một siêu cường như họ đã thua đau đớn một quốc gia nhỏ bé nghèo nàn. Mỗi khi nước Mỹ lao mình vào một cuộc phiêu lưu quân sự mới thì cuộc chiến xâm lược Việt Nam lại được đem ra mổ xẻ. Người Việt Nam không kỳ vọng người Mỹ sẽ trung thực về những điều họ đã làm ở Việt Nam nhưng luôn hy vọng rằng họ sẽ hiểu rõ cái giá phải trả cho chiến tranh lớn như thế nào.

Dưới đây là bản dịch bài báo về bộ phim tài liệu của Ken Burns và Lynn Novick trên tạp chí Counterpunch.


JAMES M. WILLIAMSON

Vào mùa xuân năm ngoái, tôi tham gia một buổi ghi hình trước các trích đoạn trong bộ phim tài liệu về cuộc chiến tranh Mỹ-Việt Nam của Ken Burns và Lynn Novick tại Havard, cả hai đều có mặt, cùng với vài gã “an ninh quốc gia” của trường Kennedy, những người được thuê dưới danh nghĩa “cố vấn”. (Tôi vui mừng thấy Peter Davis, giám đốc của bộ phim đánh giá “Trái tim và Tâm hồn”, trong số khán giả, tôi đã chào ông trước khi ra về. Peter là một người tốt nghiệp Havard, hiện giờ đanh viết tiểu thuyết và được Ken Burns nhắc đến khi ông ta bắt đầu cuộc thảo luận sau ghi hình.)

Tôi ngạc nhiên khi nghe thấy “người thuyết minh” trong một trích đoạn nhắc đến việc “trả đũa sự kiện Vịnh Bắc Bộ”. Tôi càng ngạc nhiên hơn nữa khi nghe thấy Burns nói chính câu đó – “trả đũa sự kiện Vịnh Bắc Bộ” – trong cuộc thảo luận và màn hỏi đáp sau buổi ghi hình và trong một bối cảnh khác. [Ông ta nghĩ đến việc đó vì lý do gì?]

Ông ta muốn nói gì?

“Trả đũa” sự kiện Vịnh Bắc Bộ?

Giáo sư Sut Jhally đã cùng với Media Education Foundation (MEF) ở Western Mass đã góp công lớn vào việc mổ xẻ khái niệm “trả đũa” trên đa số truyền thông Hoa Kỳ. MEF đã sản xuất ít nhất là một đĩa DVD phân tích về việc mọi cuộc tấn công của Israel vào Palestine đều được gọi là “trả đũa”. Dĩ nhiên, trên thực tế điều đó không đúng. Dĩ nhiên, nếu bạn “tin” rằng một số thực thể (cá nhân, chính quyền, “quốc gia”, “nhân dân…”) đang “trả đũa” (vì cho là bị tấn công) – thay vì khởi xứng các cuộc tấn công – thì hầu như mọi thứ mà “người trả đũa” làm đều hợp lý?

Mô tả việc Hoa Kỳ tấn công Bắc Việt là “trả đũa” trong bộ phim tài liệu của PBS, vốn có ý định nói sự thật về cuộc chiến kinh hoàng đó, là một sai lầm căn bản và nghiêm trọng, người ta sẽ phải đặt ra câu hỏi tại sao, sau chừng ấy năm – và sau khi sự thật về “sự cố” Vịnh Bắc Bộ đã được làm rõ từ lâu – Ken Burns và Lynn Novick lại tham gia (mặc dù rất muộn màng) vào kiểu tuyên truyền ủng hộ chiến tranh này (Hay có thể được hiểu là một kiểu tẩy não).

Burns và Novick được ghi nhận về khả năng truyền tải các “câu chuyện” đầy cảm xúc. Liệu họ có được phép biến các sự thật căn bản về cuộc chiến của Hoa Kỳ thành một “câu chuyện”? Nhưng các câu chuyện thúc đẩy cảm xúc trong loạt phim của PBS được gắn với một siêu tự sự về *lịch sử* chiến tranh ở Việt Nam. Trong siêu tự sự này chúng ta có thể phân định và đánh giá xem Burns và Novick (và PBS) có tiết lộ sự thật hữu ích để đối mặt với lịch sử “của chúng ta” – lịch sử của cuộc chiến này – hay không.

Ba ngày sau “sự cố thứ hai” của hai sự kiện được gọi là “những sự cố” Vịnh Bắc Bộ, chính quyền LBJ đã nhận được sự chấp thuận của Quốc Hội Hoa Kỳ cho “Nghị Quyết Vịnh Bắc Bộ” đầy tai tiếng, kể từ đó luôn luôn được sử dụng làm chiếc lá nho che đậy cho sự leo thang can thiệp quân sự ở Việt Nam, “hợp pháp” cả về hiến pháp lẫn chính trị, với bạo lực đẫm máu, hủy diệt và chết chóc.

Liệu một mẩu “lịch sử” đó có quan trọng không? Liệu có nó có quan trọng đến mức phải sửa lại cho đúng?

Chỉ ba tuần sau “sự cố”, I. F. Stone đã tường thuật hầu hết câu chuyện thực tế trong I. F. Stone’s Weekly, chủ yếu dựa trên các bình luận có cơ sở của thượng nghị sĩ Wayne Morse tại phòng họp Thượng Viện, Wayne Morse, thượng nghị sĩ của bang Oregon, là một trong hai thượng nghị sĩ duy nhất bỏ phiếu chống lại Nghị Quyết Vịnh Bắc Bộ; người còn lại dĩ nhiên là Ernest Gruening của bang Alaska.

Như đã được khám phá, Cục Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ đã tiến hành các cuộc tấn công lén lút vào khu vực bờ biển Bắc Việt trong nhiều tháng (OPLAN 34-A). Cuối cùng, vào đầu tháng 8 năm 1964, một sĩ quan cấp trung của hải quân Bắc Việt đã ra lệnh cho thuyền tuần tra Bắc Việt theo đuôi tàu USS Maddox ra tận lãnh hải quốc tế, do nghi ngờ tàu này đã hỗ trợ các cuộc tấn công vào bờ biển Bắc Việt (điều đó là đúng; tàu Maddox có một đơn vị giám sát đặc biệt [và bất thường] của NSA trên bong tàu và cũng tham gia vào cái được gọi là “Tuần tra DeSoto”, ra vào vùng lãnh hải mà chính quyền Bắc Việt tuyên bố chủ quyền). Ngoài ra, các cuộc tấn công của Hoa Kỳ/CIA còn được thiết kế để đánh giá và thu thập thông tin về radar cũng như phòng không của Bắc Việt.

Do đó, nếu có “sự trả đũa”, thì cần nói chính xác hơn là lực lượng hải quân Bắc Việt đã “trả đũa” các cuộc xâm lược liên tục của Hoa Kỳ. (Ý đồ chính của giới lãnh đạo Hoa Kỳ chính là khiêu khích rồi dùng sự trả đũa của Bắc Việt làm cớ cho việc leo thang can thiệp). Nhờ vào sự giám sát hiện đại của đơn vị NSA trên tàu Maddox, họ biết trước rằng thuyền tuần tra đang tiến tới gần “với tốc độ cao”. Ba thuyền tuần tra đã bị phá hủy hoàn toàn và Maddox chỉ bị “một phát đạn” trong sự cố. [Nguồn tài liệu rất lớn về chủ đề này có tại trang web National Security Archive]

Hai ngày sau, vào đêm 4/8/1964, “cuộc tấn công thứ hai” diễn ra, lần này là tàu USS Turner Joy.

Tuy vậy, không có “cuộc tấn công” thứ hai nào hết.

Một bài báo tương đối gần của Viện Hải Quân Hoa Kỳ đã tường thuật như sau:

Phân tích bằng chứng
Từ lâu, các nhà sử học đã hoài nghi rằng cuộc tấn công thứ hai ở Vịnh Bắc Bộ chưa bao giờ xảy ra và nghị quyết dựa trên một bằng chứng ngụy tạo. Nhưng không có thông tin giải mật nào cho thấy McNamara, Johnson, hay bất cứ ai tham gia quá trình ra quyết định đã xuyên tạc thông tin tình báo liên quan đến sự cố ngày 4/8. Hơn 40 năm sau sự cố, mọi thứ thay đổi với việc công bố gần 200 tài liệu liên quan đến sự cố Vịnh Bắc Bộ và các đoạn rã bang từ thư viện Johnson.

Các tài liệu và băng ghi âm mới này tiết lộ điều mà các nhà sử học không thể chấp nhận: Không có cuộc tấn công thứ hai vào tàu chiến của Hoa Kỳ trên Vịnh Bắc Bộ vào đầu tháng 8 năm 1964.
Hơn nữa, bằng chứng cho thấy một sự gây rối và cố ý của bộ trưởng bộ Quốc Phòng McNamara trong việc xuyên tạc bằng chứng và đánh lừa Quốc Hội. [Xem: https://www.usni.org ]

I.F. Stone đã đề cập câu chuyện này nhiều năm trước khi một số nhà sử học sử dụng các tài liệu giải mật được công bố một cách muộn màng và miễn cưỡng để xác nhận sự dối trá, sự lừa dối và xuyên tạc. [Xem: I. F. Stone’s Weekly, sau “lời khai” của McNamara vào năm 1968.]

Xao động của vùng nước có thể đã bị xuyên tạc – hoặc phán đoán sai – thành việc thuyền tuần tra Bắc Việt phóng thủy lôi. James Stockade, sau này là đô đốc và là người đồng tranh cử Ross Perot khi ông này tranh cử tổng thống, đã bay phía trên tàu Maddox và kể lại là không thấy bằng chứng nào về “cuộc tấn công”. Sau này, Stockdale nhấn mạnh rằng từ trên không ông ta có thể theo dõi bất cứ “sự tấn công nào”, trong mọi trường hợp.

Việc công bố điện tín trao đổi của NSA được các nhà sử học coi là sự phân tích quan trọng đối của sự cố này, tập hợp hàng trăm tài liệu liên quan đến các bức điện được giải mật. [Xem nghiên cứu bên ngoài cơ sở NSA của Robert J. Hanyok.]

Cuối cùng, John Prados, người viết những câu chuyện quan trọng về các hoạt động bí mật của CIA và Hoa Kỳ ở nước ngoài, đã cung cấp một bài báo hữu ích nhân dịp kỷ niệm 40 năm sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” cho Washington – dựa trên National Security Archive vào năm 2004.

Dĩ nhiên, nếu bạn quan tâm đến việc “kể chuyện”, bạn có thể không cần quá chú trọng vào sự thật lịch sử và bối cảnh mà “các câu chuyện” diễn ra.

Nhưng chúng ta có nên yêu cầu Burns và Novick (và PBS) kể đúng về điều đã diễn ra hay không diễn ra tại Vịnh Bắc Bộ - và được sử dụng để biện minh cho cuộc chiến tranh kéo dài hàng chục năm?

Sunday, August 27, 2017

Chủ nghĩa tư bản và nền sản xuất hàng hóa nhỏ

Trong nhiều cuộc thảo luận về kinh tế chính trị, tôi để ý thấy rằng phần lớn những người tham gia đều cho rằng chủ nghĩa tư bản đối lập với sản xuất nhỏ. Điều này diễn ra ở hai khía cạnh. Thứ nhất, chủ nghĩa tư bản làm phá sản nền sản xuất nhỏ để tạo ra một đội quân làm thuê đồng thời tiêu thụ hàng hóa do nhà tư bản sản xuất ra. Thứ hai, chủ nghĩa tư bản thống trị dựa vào bóc lột giá trị thặng dư từ lao động làm thuê, do vậy nó độc lập với nền sản xuất hàng hóa nhỏ và không có lợi ích gì từ nền sản xuất nhỏ. Tóm lại, chủ nghĩa tư bản xung đột với nền sản xuất nhỏ và cần phải phá hủy nền sản xuất nhỏ.

Điều đó có đúng không? Nếu người ta chỉ đọc quyển 1 của bộ Tư Bản thì điều đó rất đúng. Sở dĩ như vậy là bởi vì toàn bộ phần đầu Marx trình bày quan hệ sản xuất tư bản dưới dạng bản chất nhất của nó, tạm gác lại mối quan hệ của nó với toàn bộ nền sản xuất, trong đó có bộ phận sản xuất hàng hóa nhỏ và tự cấp tự túc.

Vấn đề ở đây là gì? Hãy nhìn vào lịch sử, nếu theo lập luận đã nêu trên thì sau hơn hai trăm năm phát triển, chủ nghĩa tư bản phải phá hủy hoàn toàn nền sản xuất hàng hóa nhỏ và biến tất cả thành lao động làm thuê. Nhưng điều đó không xảy ra, ngược lại, lịch sử cho thấy chủ nghĩa tư bản tạo dựng được sản xuất hàng hóa lớn ở chỗ này thì lại duy trì sản xuất hàng hóa nhỏ, thậm chí là cả phương thức sản xuất lạc hậu hơn ở chỗ khác. Chúng ta có thể giải thích thế nào về chế độ thực dân kiểu cũ và kiểu mới kéo dài cho đến tận nay ở nhiều nước trong khi chủ nghĩa tư bản vẫn phát triển ở một số nước. Chúng ta giải thích ra sao về hàng sa số các hộ sản xuất hàng hóa nhỏ, nông dân tự cấp tự túc vẫn tồn tại bên cạnh các tập đoàn đa quốc gia.

Hơn nữa, lịch sử cũng đặt ra câu hỏi khác, nếu nền sản xuất hàng hóa nhỏ và chủ nghĩa tư bản độc lập nhau, không có mối liên hệ kinh tế nào ngoài mâu thuẫn sống còn vậy thì sự tồn tại của nền sản xuất hàng hóa nhỏ có phải là sự suy thoái của chủ nghĩa tư bản không. Điều này sẽ dẫn đến con đường kỳ quặc mà giai cấp tiểu tư sản vẫn tán dương, đó là chỉ cần tước đoạt sản xuất lớn, chia đều cho người lao động, biến mỗi người lao động thành một tiểu chủ, thế là có chủ nghĩa xã hội.

May mắn thay, Marx cũng đã đưa ra câu trả lời cho vấn đề này ở quyển thứ 3 của bộ Tư Bản, phần đó nằm trong sự phân tích quá trình chuyển hóa giá trị thành giá cả, tức là phân tích toàn bộ nền sản xuất tư bản. Khi xem xét quá trình chuyển hóa giá trị thành giá cả, Marx đã chỉ ra rằng ngay khi hình thành giá cả sản xuất thì một phần giá trị thặng dư do công nhân tạo ra đã chuyển từ bộ phận có cấu tạo hữu cơ thấp sang bộ phận có cấu tạo hữu cơ cao. Điều này có nghĩa là bên cạnh những bộ phận sản xuất lớn, có cấu tạo hữu cơ cao thì chủ nghĩa tư bản không thể tách rời bộ phận sản xuất nhỏ có cấu tạo hữu cơ thấp. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì nó lại càng cần một nền tảng lớn những đơn vị sản xuất có cấu tạo hữu cơ thấp để cung cấp giá trị thặng dư cho phần có cấu tạo hữu cơ cao.

Điều này sẽ góp phần làm sáng tỏ sự tồn tại của nền sản xuất hàng hóa nhỏ trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản. Thứ nhất, chủ nghĩa tư bản phá hủy nền sản xuất nhỏ để tạo ra đội quân làm thuê và tiêu thụ hàng hóa, nhưng mặt khác lại không ngừng tái tạo lại nền sản xuất hàng hóa nhỏ dưới khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, tức là sản xuất hàng hóa và chịu sự chi phối của quy luật giá trị. Thông qua quy luật giá trị, chủ nghĩa tư bản với lợi thế của khoa học và công nghệ sẽ tước đoạt một phần giá trị thặng dư của nền sản xuất nhỏ.

Điều này giải thích được sự tồn tại của chủ nghĩa thực dân và cách thức chủ nghĩa tư bản thống trị toàn cầu dựa vào một số nước phát triển và duy trì sự kém phát triển ở các nước khác. Khi mà các nước tư bản phát triển ngày càng phụ thuộc vào việc tước đoạt nền sản xuất nhỏ để duy trì sự phồn thịnh của họ đồng thời nuôi dưỡng một đạo quân thất nghiệp khổng lồ thì cũng có nghĩa là chủ nghĩa tư bản đã qua thời thanh xuân và trở thành một thứ ăn bám đúng nghĩa. Song điều đó không có nghĩa là nền sản xuất hàng hóa nhỏ là cứu cánh cho loài người, ngược lại nền sản xuất nhỏ đã trở thành nô lệ của chủ nghĩa tư bản, nó vĩnh viễn không thể phát triển độc lập, nếu được tự do thì sự tích lũy trong lòng nó sẽ lại sinh ra chủ nghĩa tư bản vì nó hoạt động theo quy luật giá trị, là quy luật của chủ nghĩa tư bản. 

Tóm lại, nền sản xuất hàng hóa nhỏ dưới sự thống trị của chủ nghĩa tư bản đã trở thành một bộ phận của chủ nghĩa tư bản, nó không thể tồn tại độc lập với chủ nghĩa tư bản. Nền sản xuất hàng hóa nhỏ là cần thiết với chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn độc quyền và đế quốc, chính vì vậy nó sinh ra mâu thuân giữa các nước tư bản trên quy mô quốc tế. Giai cấp tư sản ở quốc gia phát triển luôn muốn duy trì sản xuất hàng hóa nhỏ ở các nước chậm đang triển, ngược lại giai cấp tư sản ở các nước đang phát triển lại muốn phá vỡ nền sản xuất hàng hóa nhỏ để mở rộng nền sản xuất tư bản của họ. Chiến tranh thế giới là kết quả tất yếu của mâu thuẫn đó. Song chủ nghĩa tư bản vốn thống trị chủ yếu nhờ vào quy luật giá trị nên chiến tranh phải nhường chỗ cho các hiệp định thương mại tự do, một thứ hợp đồng nô lệ hiện đại.

Wednesday, September 7, 2016

Hàn Quốc: Tham nhũng cộng sinh với sự phát triển kinh tế thần kỳ

Tham nhũng gắn liền với sự tăng trưởng thần tốc là vấn đề bế tắc của cả nghiên cứu về tham nhũng cũng như mô hình tăng trưởng kinh tế của các nước công nghiệp mới (NIC). Tuy vậy, điều này không quá xa lạ khi được đối chiếu với lịch sử hình thành của các nước tư bản phương Tây. Hàn Quốc là một trường hợp điển hình ở Đông Á cho thấy tham nhũng gắn liền với công nghiệp hóa và phát triển kinh tế thần tốc. Hiện nay, Hàn Quốc đã trở thành một nước phát triển nhưng vẫn tiếp tục phải đối mặt với nạn tham nhũng trong cả chính quyền cũng như doanh nghiệp tư nhân. Trong quá khứ, chính quyền Hàn Quốc đã trực tiếp can thiệp vào kinh tế, chỉ đạo các doanh nghiệp phát triển theo định hướng, cung cấp tín dụng ưu đãi, ưu đãi về các điều kiện hành chính và kinh doanh, đổi lại sẽ nhận được những khoản lại quả hậu hĩnh của doanh nghiệp để đầu tư cho mạng lưới bảo trợ về chính trị, tức là doanh nghiệp và chính quyền cùng nhau củng cố sự thống trị và đàn áp người lao động. Trong tình hình đó thì nạn tham nhũng cũng gạt bỏ các tổ chức chính trị của người lao động và vì vậy nó gắn liền với sự tích lũy tư bản nhanh chóng của Hàn Quốc. Các nhóm tài phiệt lớn của Hàn Quốc đều được hình thành trong giai đoạn đầy tham nhũng của Hàn Quốc và vươn lên trở thành các đế chế tư bản quốc tế, mặc dù họ vẫn tuân thủ theo các truyền thống quan hệ dựa trên địa phương, gia tộc hoặc cá nhân. Điều này cho thấy chủ nghĩa tư bản trên một góc độ nào đó đã thích nghi với những truyền thống lâu đời của xã hội phương Đông.

Dưới đây là bản dịch bài báo “Corruption and NIC development: A case study of South Korea” của Jonathan Moran, Khoa Kinh Doanh, Đại học John Moores Liverpool, Anh Quốc.

Tham nhũng và sự phát triển của NIC: Một nghiên cứu điển hình về Hàn Quốc

Tóm lược. Cuộc tranh luận về tham nhũng và thành tích kinh tế đã nghiêng ngả từ lập trường này sang lập trường khác trong nhiều thập kỷ. Vào những năm 1960, trường phái tư tưởng gắn với lý thuyết hiện đại hóa cho rằng tham nhũng thường có quan hệ tích cực với tăng trưởng kinh tế (Huntington, 1968: Leff, 1964). Sau đó, tham nhũng bị coi là tai hại đối với sự tăng trưởng do phá hoại cơ sở của các chính sách công ổn định, duy lí cũng như sự phân bổ thông qua thị trường (Rose-Ackerman, 1978; Theobald, 1990), tham nhũng vẫn được đánh giá theo tình huống đó cho đến hiện nay, đặc biệt là sau “sự bùng nổ tham nhũng” của những năm 1990 (Alam, 1989; Leiken, 1997; Naim, 1995). Các nước Đông Á đóng vai trò là các nghiên cứu điển hình quan trọng về vai trò của tham nhũng trong công nghiệp hóa: bài báo này tập trung vào Hàn Quốc. Thứ nhất là do tham nhũng đồng tồn tại với sự phát triển. Thứ hai, tham nhũng ở Hàn Quốc  vào nhiều thời điểm khác nhau là thực dụng, gây hại, phi lý và hợp lý, nhưng luôn luôn hiện diện trong thời kỳ công nghiệp hóa thần tốc. Dĩ nhiên điều này không hàm ý cho rằng tham nhũng nuôi dưỡng tăng trưởng hay khuyến nghị tham nhũng như là một lựa chọn chính sách cho các nền kinh tế đang phát triển hay đang chuyển đổi, do có bằng chứng cho thấy trong nhiều trường hợp thì tham nhũng là có hại cho sự phát triển. Bài báo này tìm hiểu vai trò của tham nhũng trong sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc để hiểu rõ hơn về bản thân hiện tượng tham nhũng.

Dẫn nhập

Đông Á có một vị trí ngoại lệ trong cuộc tranh luận về tham nhũng và thành tích kinh tế. Thứ nhất, bằng chứng cho thấy mức độ tham nhũng cao bất thường đã đồng tồn tại với sự tăng trưởng kinh tế thần tốc. Câu trả lời thường là giả định không có sự tồn tại của hiện tượng này, ví dụ như Alam khẳng định: “Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore là những nước không có tham nhũng mang tính hệ thống” trong khi Indonesia dường như chỉ tham nhũng dưới thời Sukarno (Alam, 1989, p.444). Logic ở đây là rõ ràng: do những nước này đã phát triển về kinh tế nên họ không thể có tham nhũng mang tính hệ thống. Hay nói cách khác, tham nhũng được giải thích là xảy ra ở mức độ không nghiêm trọng hoặc không tập trung (Wade, 1990) hoặc không phù hợp với quá trình phát triển kinh tế chủ đạo. Tuy vậy, những bê bối gần đây ở Hàn Quốc, Đài Loan và Indonesia cũng như những bê bối hiện tại ở Nhật Bản đã cho thấy một quá trình đã tồn tại – và là hệ thống – trong nhiều thập kỷ.

Thứ hai, kết quả là mọi phân tích triệt để về tham nhũng hầu như đều vắng mặt trong các công trình về tăng trưởng kinh tế Đông Á. Trong công trình nổi bật về sự phát triển của Châu Á, Robert Wade chỉ dành 5 trong số 393 trang cho tham nhũng, coi tham nhũng chỉ là thứ diễn ra ở cấp độ thấp (Wade, 1990). Các bộ sách tăng lên nhanh chóng của các cựu kỹ trị đã từng thi hành các chính sách cấp cao trong thời kỳ công nghiệp hóa cũng lảng tránh tham nhũng, thường là theo nguyện vọng của họ về việc không tiết lộ các hành động phi pháp và/hay mong muốn được tái tuyển dụng trong tương lai. Trong nhiều năm gần đây, nhiều nhà kỹ trị - một số người đã viết những tác phẩm về sự phát triển kinh tế không có tham nhũng của Hàn Quốc – đã bị cáo buộc về liên quan đến tham nhũng và tiết lộ thông tin.

Thứ ba, một phần lý do của việc phân tích hiện tượng này một cách miễn cưỡng là mức độ tham nhũng cao tạo ra các vấn đề cho những mô hình phát triển cố gắng giải thích sự tăng trưởng thần tốc. Nhiều công trình cổ điển về công nghiệp hóa Hàn Quốc của cả cánh tả và cánh hữu đều dựa vào các khái niệm (của Weber hay Khổng Tử) về một giới hành chính duy lý, độc lập, trong việc triển khai các kế hoạch phát triển quốc gia. Nếu như tham nhũng tồn tại thì đó là do giới thượng lưu chính trị, họ nhận các khoản lại quả lớn còn các công chức thì không nhận được gì. Điều này đã hoàn toàn bỏ qua (a) hoàn cảnh chính trị tổng thể của sự phát triển và (b) cách thức mà giới công chức, kinh tế và thượng lưu chính trị ở Hàn Quốc (cũng như Đông Á) đã tham gia sâu vào các hoạt động phi pháp, bóp hầu bóp cổ, tìm kiếm đặc lợi, vân vân. Các công trình gần đây đã bắt đầu mô tả vai trò của tham nhũng trong sự tăng trưởng kinh tế thành công và chỉ ra sự quan trọng của việc phân phối quyền lực chính trị đối với tác động kinh tế tích cực hay tiêu cực của tham nhũng (Khan, 1996; 1998). Tuy vậy, việc áp dụng một tầm nhìn lịch sử/theo bối cảnh vẫn là cần thiết.

Bài báo này lập luận rằng mức độ tham nhũng cao đã đồng tồn tại với sự tăng trưởng kinh tế và cho rằng giới công chức đã (a) bện chặt với giới lãnh đao chính trị, (b) bản thân giới công chức là tham nhũng, (c) việc xây dựng chính sách kinh tế không chỉ là duy lý/Khổng Giáo mà còn bị chính trị hóa sâu sắc và (d) sự hiện diện của tham nhũng có tác động đến tăng trưởng kinh tế, nếu không rõ ràng trong ngắn hạn, tức là sự ổn định dài hạn.

Nhà nước, sự phát triển và hoàn cảnh tham nhũng ở Hàn Quốc

Sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc đã thể hiện hai đặc trưng sau: công nghiệp hóa thần tốc gắn với sự biến đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang một nền công nghiệp đa dạng với công nghiệp nặng, hóa chất, điện tử, chế tạo máy và công nghệ cao, vài trò to lớn của nhà nước trong việc tạo dựng, củng cố thị trường và kiểm soát đầu tư, cuối cùng là vai trò của xuất khẩu trong việc định hướng tăng trưởng.

Nhà nước là một biến số quan trọng trong các cuộc tranh luận về phát triển. Chủ đề đã thay đổi từ giải thích mô hình tăng trưởng theo định hướng thị trường của Hàn Quốc sang nghiên cứu vai trò to lớn của nhà nước, nhưng bản thân điều này này lại bị thay thế bằng chủ đề về cách thức nhà nước tương tác với thị trường. Tuy vậy, vai trò của nhà nước là trung tâm, bất kể là sửa chữa các méo mó của thị trường hay các chính sách củng cố. Bên cạnh đó, vai trò chính trị/cưỡng bức của nhà nước cũng không thể đặt ra ngoài sự phát triển. Các thức mà nhà nước đàn áp cả người lao động cũng như giới kinh doanh là nhân tố sống còn, như là bản chất chính trị của việc lập chính sách nói chung.

Mặc dù các di sản của chế độ thực dân Nhật Bản và thời kỳ hậu chiến là quan trọng song sự phát triển của kinh tế Hàn Quốc hiện đại có thể coi là bắt nguồn những thay đổi kinh tế được áp dụng sau cuộc đảo chính quân sự năm 1961, vốn được coi là sự trỗi dậy của một nhà nước mạnh, độc lập với các lợi ích cục bộ. Nhà nước kiểm soát kinh doanh, người lao động và các nhóm xã hội dân sự trong một hệ thống gần như hợp tác xã mà quân đội đóng vai trò là xương sống của chế độ và các cơ quan tình báo kiểm soát hoàn toàn sự bất đồng. Trên phương diện kinh tế, các Kế Hoạch Năm Năm liên tiếp được xây dựng dựa trên sự kiểm soát toàn diện của nhà nước đối với hệ thống tài chính. Nhà nước cung cấp sự hỗ trợ và phần thưởng cho doanh nghiệp thường xuyên – nếu không nói là luôn luôn – kết hợp với các tín hiệu của thị trường. Hơn nữa, uy tín của chính sách kinh tế chủ yếu dựa trên quyền lực chính trị của tổng thống và Cục Tình Báo Trung Ương Hàn Quốc (KCIA).

Về tham nhũng thì nhà nước cũng quan trọng song không phải là biến số duy nhất. Sự tham nhũng ở Hàn Quốc bắt nguồn từ sự tác động qua lại của nhiều nhân tố lịch sử và cấu trúc. Nhà nước mạnh là sống còn nhưng các lực lượng xã hội (cụ thể là các nhóm doanh nhân mới) yếu và truyền thống về mạng lưới bảo trợ-thân hữu (guanxi) của các gia đình, trường học, các mối liên hệ địa phương, vân vân. Phần tiếp theo sẽ giải thích ngắn gọn những điểm này.

Ngay cả trước khi được thành lập như một nhà nước có chủ quyền vào năm 1948, Hàn Quốc đã mang đặc trưng là quyền lực trung ương mạnh. Thời kỳ cai trị tàn bạo của đế quốc Nhật Bản 1910-1945 gắn liền với chương trình hiện đại hóa cưỡng bức theo cái được gọi là một nhà nước “phát triển thái quá”, tức là các chức năng chính trị, hành chính, cưỡng bức và kinh tế quá lớn so với quốc tế (Cumings, 1984). Mô hình nhà nước mạnh đã sống sót qua các cuộc nội loạn hậu chiến và Chiến Tranh Triều Tiên. Một phần là nhờ vào Chính Quyền Quân Sự Hoa Kỳ (AMG) trong khoảng thời gian 1945-48, duy trì các chức năng cưỡng bức của nhà nước để đàn áp các hoạt động dân túy, cánh tả và cộng sản. Syngman Rhee, tổng thống từ năm 1948 đến 1960, đã tuyển mộ lực lượng cảnh sát, mật vụ và các nhóm du kích cánh hữu để đe dọa các đối thủ và thao túng các cuộc bầu cử cho đến khi ông ta bị các cuộc biểu tình của sinh viên lật đổ. Tuy vậy, nhà nước quyền lực đã mở rộng và hồi phục sau cuộc đảo chính năm 1961 của Park Chung Hee. Dân chủ “có quản lý” được áp dụng sau cuộc đảo chính chỉ chấm dứt vào năm 1972 để nhường chỗ cho một nhà nước an ninh quốc gia trưởng thành hoàn toàn, khi mà Park dường như sẽ thất bại trong bầu cử. Một cuộc đảo chính khác vào năm 1980 sau vụ ám sát Park đã đưa một chính quyền do quân đội hậu thuẫn khác dưới sự lãnh đạo của Chun Doo Hwan lên cầm quyền. Do đó, trong giai đoạn 1961-1987, nhà nước quân sự đã thống trị sự phát triển chính trị ở Hàn Quốc. Sự yếu đuối của các nhóm xã hội dân sự là một đặc trưng quan trọng liên quan tới hoàn cảnh tham nhũng. Ví dụ, so với Mỹ Latin thì tổ chức của người lao động yếu và hoàn toàn bị AMG cũng như chính quyền Rhee vô hiệu hóa. Các nhóm xã hội dân sự khác cũng yếu do các cấu trúc tiền thuộc địa hoặc sự biến đổi hiện đại của chế độ thuộc địa và Chiến Tranh Triều Tiên. Các nhóm kinh doanh/doanh nhân (cũng giống như Đông Bắc Á – ngoại trừ Nhật Bản – và Đông Nam Á) rất nhỏ bé về quy mô, nguồn lực và sự hợp pháp chính trị. Tầng lớp kinh doanh ở Hàn Quốc rất yếu và không được ưa thích do sự hợp tác của họ với người Nhật. Những tính chất đó được củng cố thêm bằng những thỏa thuận tham nhũng của họ với chính quyền Rhee và việc họ kiếm lợi trong Chiến Tranh Triều Tiên.

Nhiều mạng lưới bảo trợ-thân hữu phi chính thức đan kết với quan hệ đó, ví dụ các mối liên hệ địa phương. Tỉnh phía nam Kyongsang là căn cứ của nhóm sĩ quan quân sự tổ chức đảo chính vào năm 1961, trong đó có Park Chung Hee và cháu vợ của ông ta là Kim Jong Pil, người sáng lập tổ chức KCIA. Cuộc đảo chính đã củng cố sự thống trị của Kyongsang. Cả Chun Doo Hwan, người tổ chức đảo chính năm 1979-80 sau vụ ám sát Park, lẫn Roh Tae Woo (người giúp Chun lên nắm quyền, sau này vào những năm 1980 đổi phe thành dân chủ và thắng cử tổng thống năm 1987) đều có liên quan đến tỉnh này. Trong số 20 tập đoàn doanh nghiệp lớn nhất (chaebol), chín người sáng lập xuất thân từ Kyongsang, ba trong số năm tập đoàn doanh nghiệp lớn nhất cũng vậy (Chon, 1992, p.168). “Số lượng người lớn bất thường có xuất thân từ tỉnh Kyongsang tham gia vào các vị trí có ảnh hưởng sâu sắc trong chính quyền và công nghiệp” (Chon, 1992, p.166). Kim Woochoong, người sáng lập tập đoàn Daewoo đã được tham gia vào mạng lưới quyền lực do bố ông ta đã dạy Park Chung Hee ở trường Kỹ Thuật Taegu. Trong Kyongsang, “phái T-K” (trường Kỹ Thuật Taegu/trường Sư Phạm Trung Học Kyongbuk) là mối quan hệ quan trọng nhất, các thành viên của chúng và hậu duệ của họ đã thống trị các thiết chế quân sự/an ninh và chính trị. Các mối quan hệ khác cũng được thiết lập, thường là các liên minh địa phương trong trường học, Học Viện Quân Sự, cựu sinh viên. Một mạng lưới các mạng lưới được mở rộng, kết nối quân đội, chính trị và kinh doanh, thường xuyên được bổ sung bằng các hội nhóm bí mật hoặc phi chính thức. Ví dụ, trước cuộc cải cách dân chủ, quân đội kiềm chế khoảng 40 hội nhóm bí mật, nổi tiếng nhất là Hanahoe (Một Tư Duy), cơ sở mà Chun Doo Hwan dùng để tổ chức đảo chính vào năm 1980. Giới thượng lưu nhà nước là các nhân tố chủ chốt trong những quan hệ đó.

Động lực khiến tham nhũng nở rộ cả trong nền dân chủ yếu (1948-1961) lẫn chế độ quân sự (1961-1987) bắt nguồn từ tác động qua lại của nhiều yếu tố: nhà nước mạnh, các nhóm xã hội dân sự yếu và hoạt động của các nhóm có mối liên hệ “bí ẩn” (della Porta and Pizzorno, 1996). Mối quan hệ đã phát triển, coi dấu hiệu của các thể chế hiện đại là năng lực, sự lập kế hoạch và tổ chức, mà tổ chức lại được thâm nhập bằng quan hệ cá nhân, các hội nhóm và các mạng lưới phi chính thức. Động lực này đã thường xuyên bị bỏ qua khi xem xét sự tăng trưởng và tham nhũng của Hàn Quốc.

Vấn đề tham nhũng ở Hàn Quốc: chính quyền Rhee 1948-1960

Để giải thích cách tham nhũng đồng tồn tại với sự tăng trưởng kinh tế thì cần phải nghiên cứu Hàn Quốc trong những năm 1950, khi tham nhũng đã gây tổn hại rõ ràng cho sự phát triển kinh tế. Các chính sách chính trị và hệ tư tưởng của Syngman Rhee dựa trên việc duy trì sự cai trị của bản thân ông ta, sự thống nhất bán đảo Triều Tiên và một lập trường chống Nhật Bản. “Chính sách” kinh tế của ông ta thể hiện khát vọng nắm quyền lực vĩnh viễn. Kinh tế Hàn Quốc có đặc trưng là sự kiểm soát chặt chẽ đối với sản phẩm nội địa và sự phân bổ tài chính bắt nguồn từ Chiến Tranh Triều Tiên. Hơn nữa, nền kinh tế cũng được bảo vệ trước sự cạnh tranh quốc tế, hàng nhập khẩu được kiểm soát bằng giấy phép và các khoản viện trợ quốc tế cần thiết được cung cấp dưới dạng không hoàn lại, viện trợ kỹ thuật và lương thực, vân vân. “Mục tiêu chủ chốt của kinh tế đối ngoại Hàn Quốc dưới thời Rhee là tối đa hóa dòng viện trợ kinh tế và quân sự từ các nguồn công ích; dòng tư bản từ các nguồn lực tư nhân không được khuyến khích” (Westphal et al., 1979: 360). Rhee hoàn toàn nằm trong sự điều khiển của chính quyền Hoa Kỳ, nhất là khi họ cần ông ta trong vai trò của một đồng minh chống cộng.

Rhee sử dụng ảnh hưởng của ông ta đối với viện trợ nước ngoài và kinh tế nội địa để tạo ra cấu trúc bảo trợ-thân hữu liên kết cộng đồng kinh doanh yếu của Hàn Quốc. Những người kinh doanh thân hữu nhận được các hãng trước đây thuộc về người Nhật với giá thấp, các giấy phép nhập khẩu hàng hóa khan hiếm, các khoản vay bằng đồng dollar cũng như các lợi thế khác giúp cho họ độc quyền trên thị trường. “Tỷ lệ chênh lệch 3:1 của tỷ giá thị trường ngoại hối chính thống và chợ đen có thể khiến bất cứ ai cũng có thể tức thì trở nên giàu có nếu như anh ta tiếp cận được việc trao đổi ngoại tệ” và vào lúc đó Rhee phê chuẩn mọi khoản giao dịch ngoại tệ lớn hơn 500 dollar (Kim, 1971, p.24). Đảng Tự Do được cho là đã thu được 50% giá trị của mọi dự án tư nhân nhận viện trợ của Hoa Kỳ (Kim, 1976, p.152). Nền kinh tế bị bóp nặn thông qua việc phân bổ lợi tức đã tài trợ cho Rhee, đảng Tự Do và giới cảnh sát. Rhee đã tẩy chay việc lập kế hoạch và phát triển một giới công chức kinh tế độc lập.

Trong môi trường này, sự tăng trưởng chủ yếu xuất phát từ các hoạt động kinh tế “tổng bằng 0”, sự hình thành lợi nhuận thông qua các hoạt động tìm kiếm lợi tức phi sản xuất (Jones&Sakong, 1980). Việc kinh doanh được phát triển thông qua độc quyền nguồn cung tài chính, đầu vào và hàng hóa tiêu dùng. Samsung và nhiều doanh nghiệp khác đã mở rộng hoạt động trong thời kỳ này, nhưng có thể nói rằng không có viện trợ của Hoa Kỳ thì nền kinh tế sẽ sụp đổ (Mason, 1980, pp.192–205) [1]. Lĩnh vực kinh doanh vẫn yếu về kinh tế và không được ủng hộ về chính trị, đặc biệt là do các hoạt động tìm kiếm lợi nhuận trong Chiến Tranh Triều Tiên và thời kỳ thắt lưng buộc bụng những năm 1950. Nói chung, “Hàn Quốc vào những năm 1950 thể hiện đặc trưng chính trị rõ ràng là thù địch với việc lập kế hoạch phát triển. Chính quyền kém được bảo vệ trước các đòi hỏi của khu vực tư nhân và bị các mạng lưới bảo trợ-thân hữu thâm nhập. Bộ phận quản lý kinh tế là đối tượng can thiệp chính trị của cả bộ phận hành pháp cũng như giới hành chính.” (Haggard, Moon & Kim, 1991, p.855). Người ta có thể nói một cách có lý rằng nếu Hàn Quốc tiếp tục đi theo quỹ đạo đó thì họ sẽ lặp lại kịch bản của Philippines. Trong các khảo sát về triển vọng phát triển tốt nhất vào những năm 1950, Hàn Quốc hiếm khi xuất hiện so với những nước như (nực cười thay) Philippines, Thổ Nhĩ Kỳ và Lebanon.

Cuộc đảo chính quân sự của Park Chung Hee đã đem tới những sự thay đổi quan trọng nhưng cũng vẫn tiếp tục với tham nhũng và tăng trưởng. Park cũng thu gom các viện trợ quốc cần thiết, tạo ra sự độc quyền, cung cấp các khoản vay giá rẻ, các tiếp cận đặc quyền đối với trao đổi ngoại tệ và cấp miễn phí các lợi ích phi chính thống cho doanh nghiệp. Giới hành chính bị chính trị hóa. Tuy vậy, chính quyền mới cũng tạo ra những thay đổi quan trọng. Đó là sự kết hợp của những điều cần thiết cho việc giải thích sự cộng sinh giữa tham nhũng và tăng trưởng. Tham nhũng bị giới hạn bởi những nhân tố cụ thể, cho tới mức độ nhất định mà nhà nước quốc hữu hóa hoàn toàn tham nhũng.

Tham nhũng và chủ nghĩa quốc gia dưới chính quyền Park Chung Hee

Thực tiễn tham nhũng đã tuân thủ khuynh hướng phát triển quốc gia. Bốn nhân tố sẽ được xem xét để giải thích quá trình này:

Hệ tư tưởng nhà nước

Mối quan hệ giữa hệ tư tưởng và tổ chức vật chất là phức tạp nhưng có thể chấp nhận rằng hệ tư tưởng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển xã hội, một quá trình rõ ràng ở Hàn Quốc. Cuộc đảo chính năm 1961 đã không chỉ mang đến sự thay đổi mạnh mẽ trong tổ chức chính trị - từ nền dân chủ trục trặc đến chính quyền do quân đội hậu thuẫn – nó cũng mang đến sự thay đổi chủ chốt trong hệ tư tưởng, với hệ quả tác động đến sự phát triển kinh tế và tham nhũng. Park Chung Hee, lãnh đạo của cuộc đảo chính, cũng như một số các sĩ quan trẻ khác đều chịu ảnh hưởng và trộn lẫn các hệ tư tưởng thu được từ kinh nghiệm của người Nhật. Park thể hiện rõ ràng sự thán phục các nhà lãnh đạo Trung Hưng Minh Trị ở Nhật Bản và công thức “Nước giàu, Quân mạnh”, có nghĩa là mối liên hệ chặt chẽ giữa an ninh quốc gia và phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, người Nhật cũng khẳng định khái niệm phát triển quốc gia dựa trên sự gắn kết xã hội và quay trở lại củng cố sự gắn kết đó. Trung tâm của dạng hợp tác xã này là quan niệm cho rằng các lợi ích cục bộ phải bị đàn áp: cả lao động và doanh nghiệp đều phải chấp nhận quyền lực của nhà nước và phục vụ cho sự phát triển của quốc gia. Park Chung Hee (nực cười thay khi là người quốc gia Hàn Quốc) đã phục vụ quân đội Hoàng Gia Nhật Bản ở Mãn Châu Lý, chứng kiến trước hết quá trình công nghiệp hóa do nhà nước chỉ đạo để phục vụ cho an ninh quốc gia. [2]

Park triển khai những ý tưởng đó sau cuộc đảo chính. Doanh nghiệp đối mặt với một nhà nước chuẩn bị cưỡng ép và quấy rối cũng như hỗ trợ. Chỉ những doanh nghiệp hành động theo lợi ích quốc gia bằng cách tuân thủ sự hướng dẫn của nhà nước và chuyển sang sự tăng trưởng theo định hướng xuất khẩu mới nhận được các lợi ích. Tham nhũng vốn tràn lan dưới thời Syngman Rhee, vẫn tiếp tục trong phạm vi một khuôn khổ mới. Doanh nghiệp nhận được trợ cấp nhờ vào nguồn gốc địa phương của họ hay họ có quan hệ với tầng lớp thượng lưu nhà nước hoặc với Park (Clifford, 1994; Chon, 1992) và có thể nhận được sự đảm bảo bổ sung khi đóng góp tiền bạc. Tuy vậy, nếu họ không thực hiện thì sự hỗ trợ bị cắt giảm hay hủy bỏ: các khoản tiền của doanh nghiệp đảm bảo thái độ thân thiện hoặc tốt đẹp của nhà nước, nhưng hiếm khi là sự đáp ứng tự động và thường xuyên. Khi sao chép cách tiếp cận kiểu doanh nghiệp, các khoản đóng góp sẽ thường xuyên được dựa trên các nguyên nhân xã hội có thể chấp nhận được, như “nạn nhân lũ lụt và các thảm họa tự nhiên khác…tổ chức Chữ Thập Đỏ, quốc phòng, tổ chức USO kiểu Hàn Quốc, liên đoàn chống cộng sản, các tổ chức phúc lợi, các tổ chức thể thao, các quỹ thể thao, các quỹ giáo dục, xây dựng đường tàu điện ngầm” và vân vân (Woo, 1991, p.236 n.82), trên thực tế là sự bổ sung cho hệ thống thuế chưa hoàn chỉnh. [3]

Do đó, vai trò của hệ tư tưởng, tập trung vào sự ảnh hưởng và sự hấp dẫn của hệ tư tưởng “hiện đại” từ các nguồn cụ thể (Nhật Bản và Hoa Kỳ) và hiện thực lịch sử đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng về một khái niệm phát triển cụ thể, cũng như vai trò của tham nhũng trong sự phát triển, của giới thượng lưu quân sự ở Hàn Quốc.

Kinh nghiệm của Hàn Quốc có thể hữu ích khi so sánh với các quốc gia khác trong khu vực. Không giống quân đội Hàn Quốc, có tổ chức cấp bậc bắt nguồn từ lý tưởng về chủ nghĩa tư bản quốc gia của Nhật Bản và hệ tư tưởng quản lý của Hoa Kỳ (Lee, 1968), quân đội Thái Lan áp dụng nghệ thuật lãnh đạo nhà nước truyền thống Đông Nam Á trong chính sách đối ngoại, trong lĩnh vực đối nội thì dựa trên thuốc phiện và một số lĩnh vực kinh tế năng động nhất định để đảm bảo sự cai trị của quân đội (McCoy, 1991, pp.180–192). Việc Hoa Kỳ sử dụng Thái Lan làm căn cứ logistic khổng lồ cho Chiến Tranh Việt Nam đã củng cố kịch bản này. Những năm 1960 là đỉnh điểm của sự hậu thuẫn cho các tướng lĩnh Thái Lan, với việc Hoa Kỳ viện trợ chính thức 2 tỷ dollar từ năm 1965 đến 1975 1975 (Girling, 1981, p.96 n.85) để đảm bảo “một hệ thống phù hợp với Hoa Kỳ sẽ được duy trì ngay cả khi có sự thay đổi về nhân sự (Girling, 1981, p.94). Một sư đoàn Thái Lan tham chiến ở Việt Nam nhưng đóng góp chủ yếu của nước này là căn cứ logistic mà Hoa Kỳ dùng để vận chuyển cho chiến trường Miền Nam Việt Nam, bao gồm đường sá, doanh trại, hậu cần, các cơ sở nghỉ ngơi và giải trí cho lính Mỹ (khoảng 50.000 vào năm 1968-69). Việc đó kéo theo một sự gia tăng lớn bất ngờ về gái bán dâm (Girling, 1981, p.236 n.15). Miền Nam Việt Nam, cũng được Hoa Kỳ tạo ra và hậu thuẫn, lặp lại những kịch bản đó ở cấp độ rất cao. Các ngành thuốc phiện và mại dâm bùng nổ cùng với sự hiện diện quy mô lớn của người Mỹ. Vào năm 1967, một người quan sát đã viết “hoạt động kinh tế ở miền Nam thực tế đã ngừng lại ngoại trừ phục vụ cho chiến tranh; Sài Gòn là một nhà thổ khổng lồ; nằm giữa những người Mỹ, đang cố gắng ít nhiều thúc đẩy một bản sao xã hội của họ ở đất Việt Nam, và đám đông dân chúng đang cố gắng “tái thiết” là những con mèo béo ú ở Sài Gòn” (Sayle được trích dẫn trong Knightley, 1989, p.384). Tham nhũng và chủ nghĩa bè phái quân sự/hành chính trở nên phổ biến, chế độ đã tan rã từ trước khi Bắc Việt thống nhất đất nước (McCoy, 1991, p.260).

Nếu việc Syngman Rhee tiếp tục nắm quyền ở Hàn Quốc, điều đó có thể được coi như là một sự hối lộ khổng lồ và vô ích tại nhà nước chống nổi loạn ở Đông Nam Á. Rhee và Diệm, lãnh tụ Nam Việt Nam từ năm 1955 đến 1962, có sự tương đồng. Cả hai đều cho rằng họ có thể dựa vào sự ủng hộ quân sự của Hoa Kỳ để bảo vệ nền dân chủ yếu kém tham nhũng của họ. Mặc dù Rhee bị sinh viên lật đổ và không có sự can thiệp quân sự, Diệm bị quân đội lật đổ, song quỹ đạo phát triển của hai nước này rất khác nhau. Như đã nói, các sĩ quan trẻ ở Hàn Quốc có nhiều lý tưởng khác nhau về sự phát triển chính trị và kinh tế của Hàn Quốc. Mặc dù các chính sách bắt nguồn từ những lý tưởng này thường mờ nhạt vào lúc đầu và phản ánh sự khác biệt nội bộ của những người đảo chính quân sự, song cùng với thời gian thì họ đã phát triển gắn kết hơn và kết hợp đầu vào từ Hoa Kỳ và Nhật Bản. Do vậy, ở Hàn Quốc, những sĩ quan dưới thời Park Chung Hee đã bắt đầu ngập ngừng và sau đó quyết đoán tái cấu trúc kinh tế, mối quan hệ chính quyền-doanh nghiệp và thậm chí là cả xã hội. Ở Nam Việt Nam và Thái Lan, chính quyền quân sự đã củng cố thêm các thực tiễn trong kinh tế và xã hội. “Giống như ở phần còn lại của Đông Nam Á, các dạng quan liêu lạc hậu của phương Tây đã bám chặt lấy tầng lớp thượng lưu quyền lực truyền thống, tạo ra một sự kết hợp của tham nhũng, truyền thống và hiện đại” (McCoy, 1991, p.200) [4], với những nước như Thái Lan và Nam Việt Nam, chịu tác động bởi sự giao thoa của những ảnh hưởng văn hóa/tư tưởng và tiến trình lịch sử khác nhau, với những liên hệ quốc tế đang thúc đẩy kịch bản quyền lực và thực tiễn chính trị hiện tồn.

Sự độc lập của nhà nước

Sự độc lập của nhà nước đối với các nhóm xã hội có tổ chức là một nhân tố quan trọng để giải thích các quỹ đạo phát triển. Tuy vậy, trong thực tế điều này thường được sử dụng theo cách quá “gọn gàng” trong các phân tích cánh tả hoặc cấu trúc, vốn tập trung vào việc nhà nước/giới hành chính duy lí tách biệt triển khai các chiến lược dài hạn (Haggard, 1990). Sau cuộc đảo chính, giới hành chính được bảo vệ khỏi sức ép xã hội. Tuy vậy, các cơ quan nhà nước và hành chính ở Hàn Quốc vẫn có đặc trưng tham nhũng – trên thực tế việc họ bóp nặn tiền từ doanh nghiệp và cung cấp các lợi ích cho những nhóm nhất định chính là dấu hiệu của sự độc lập mà nhiều tác giả đã tập trung làm rõ. Độc lập với các nhóm xã hội dân sự cho phép nhà nước đặt ra các khuôn khổ của quan hệ bảo trợ-thân hữu và các quy tắc cho tham nhũng, có nghĩa là quốc hữu hóa thực tiễn tham nhũng.

Sau thời kỳ mở rộng nhanh chóng vào những năm 1950, quân đội đã mở rộng về tổ chức, nguồn lực và năng lực. Cuộc đảo chính năm 1961 – được một số chính khách Hàn Quốc coi là không thể tránh khỏi – đã xác nhận các cơ quan quân sự và an ninh là lực lượng thống trị ở Hàn Quốc. Các nhóm xã hội dân sự là tương đối yếu. “Quan hệ trường đại học-báo chí” đã lật đổ Rhee không thể tiếp tục hoạt động như là một nhà nước thay thế hay vận động trong thời gian dài.

Người lao động thì suy yếu và không được tổ chức. Tầng lớp kinh doanh – một trong những nguyên nhân là – bất chấp mối quan hệ với nhà nước dưới thời Rhee, vẫn yếu đuối về chính trị và văn hóa. “Do các doanh nhân truyền thống không có được địa vị đáng kính trọng trong xã hội Hàn Quốc, sự trỗi dậy của họ vào những năm 1950 tạo ra một sự oán giận và nghi ngờ được củng cố thêm bằng mức độ tham nhũng hiện hành” (Cole&Lyman, 1971, p.83). Khi chế độ do quân đội hậu thuẫn được hình thành, một sự tái tổ chức các mối quan hệ nhà nước-xã hội đã diễn ra và sự kiểm soát đối với kinh tế được củng cố, cải cách hay mở rộng. Điều quan trọng là sự kiểm soát nhà nước đối với hệ thống tài chính thông qua quốc hữu hóa đã đạt tới mức độ rất lớn, [5] và dòng tư bản quốc tế từ Hoa Kỳ và từ Nhật Bản vào cuối những năm 1960 chảy vào hệ thống đã giúp cho tầng lớp thượng lưu nhà nước độc lập về tài chính đối với giới kinh doanh bản địa. Tuy vậy, cũng cần phải ghi nhận rằng sự độc lập của nhà nước không đủ để làm cơ sở cho một chiến lược phát triển hiệu quả. Năng lực của nhà nước, tầm ảnh hưởng và phạm vi của nhà nước, phải được kết hợp với tính chất hợp tác của nhà nước; có nghĩa là khả năng tạo dựng và thi hành chính sách thành công (Evans and Rueschemeyer, 1985).Tham nhũng hoạt động trong phạm vi cấu trúc nhà nước này.

Sự độc lập và chính sách

Sức mạnh chính trị bắt nguồn từ các mối liên hệ bảo trợ-thân hữu được tổ chức để phục vụ cho sự phát triển quốc gia. Doanh nghiệp không thể đảo ngược các ưu tiên phát triển của nhà nước trong khi nhà nước có thể quyết định nhóm nào sẽ được cấp nguồn lực để đổi lấy sự ủng hộ. Quá trình tham nhũng trong việc kinh doanh nói chung là trả một khoản tiền lớn mà không có đảm bảo về sự trợ giúp, chỉ là đảm bảo chọn đúng phe nhà nước, trả các khoản lại quả cho nhà nước vì sự trợ giúp trong các dự án phát triển kinh tế hay đóng góp chính trị cho giới thượng lưu nhà nước về các dự án từ thiện hoặc cho phép giới thượng lưu nhà nước xây dựng các căn cứ quyền lực. Tuy vậy, những khoản chi này không được coi là khinh suất do chúng là một phần của quan hệ động lực tổng thể.

Mặc dù cả Chung Ju Yung (Hyundai) và Kim Woo-choong (Daewoo) đều có quan hệ cá nhân với tổng thống Park và nhận được sự hỗ trợ rộng rãi nhưng Park được cho là sẽ chọn người thắng cuộc. Chung xuất sắc trong việc phát triển công nghiệp xây dựng ở Hàn Quốc và nhận được sự hỗ trợ phi chính thống cần thiết khi đáp ứng được mục tiêu phát triển công nghiệp đóng tàu của Park. Kim phất lên nhờ cải cách các ngành thua lỗ. Cho Chung-hun của Hanjin nhận được sự hỗ trợ lớn hơn sau khi thay đổi tình hình của hãng hàng không Hàn Quốc từng thuộc về nhà nước vào những năm 1960. Mặc dù các hãng khác cũng nhận được sự bảo trợ nhưng nếu thất bại thì sự bảo trợ sẽ bị thu hồi. Yonhap Steel, một trong những doanh nghiệp lớn nhất Hàn Quốc vào những năm 1960, có sự bảo trợ của Lee Hu Rak, giám đốc KCIA, nhưng thất bại khi chuyển đổi sang tăng trưởng theo định hướng xuất khẩu, dẫn đến sự suy thoái của họ (Clifford, 1994, p.57). Các hãng cần phải có hiệu quả bởi vì họ sẽ thực hiện để nhận được sự hỗ trợ tiếp theo và phải trả một khoản phần trăm trên sự hỗ trợ nhận được cho nhà nước dưới dạng quỹ chính trị. Các khoản vay được cấp cho doanh nghiệp với điều kiện khoản lại quả được trả cho tổng thống và đảng cầm quyền [6] nhưng đáng chú ý là hành vi này phải tuân thủ hiệu quả về kinh tế.

Một nhà kinh tế học ước lượng rằng khoản lại quả thêm vào mà các hãng xuất khẩu phải trả cho việc được vay với lãi suất ưu đãi đã khiến cho lãi suất vay vốn tương đương với lãi suất thông thường (Patrick, 1994, p.337). Điều tương tự cũng áp dụng với thuế. Các công ty có thành tích cảm thấy sự mập mờ của nhà nước hoặc thậm chí được khuyến khích né tránh đóng thuế. Nói chung là “hệ thống tín dụng và thuế khóa tạo ra một cơ chế tặng thưởng cho thành tích tốt và trừng phạt thành tích tồi. Trong khi sự ảnh hưởng của ủng hộ chính trị hầu như bị xóa bỏ trong hệ thống thuế khóa, các trừng phạt kinh tế vẫn tiếp tục là một phần của việc thu thuế, cả phần thưởng cũng như sự trừng phạt đều là những khía cạnh quan trọng của hệ thống tín dụng” (Mason et al., 1980, p.322). Nói tóm lại, mối quan hệ bảo trợ-thân hữu, sự trợ giúp phi chính thức tiếp đó và sự khuyến khích trong các hoạt động phi pháp đã tồn tại, nhưng trên cơ sở sự hiệu quả thay vì chỉ dựa trên sự ủng hộ chính trị. Sự tương phản sâu sắc với mối quan hệ nhà nước-doanh nghiệp của Châu Phi là rõ ràng.

Ngay cả sự tham nhũng phổ biến dưới thời Chun Doo Hwan cũng tuân thủ khuôn khổ hiệu quả. Ví dụ vào năm 1985, tập đoàn Kukje, là tập đoàn lớn thứ bảy của Hàn Quốc, bị nhà nước giải tán, bề ngoài là do cấu trúc nợ quá hạn nhưng trên thực tế là do chủ tịch của tập đoàn này thể hiện thái độ không sẵn sàng đóng góp cho các quỹ “từ thiện” của Chun, như Ilhae. Tuy vậy, tập đoàn này được tái phân phối cho các tập đoàn khác đã đóng góp hào phóng và nhiều doanh nghiệp nói chung tiếp tục có lợi nhuận dưới trướng của chủ nhân mới (Clifford, 1994, Chapter 16). Trong mối quan hệ mà nhà nước thu gom các khoản đóng góp khổng lồ từ doanh nghiệp, các chiến dịch chống tham nhũng không đóng vai trò như là chính sách theo dõi thường trực để đảm bảo giới hành chính hay nền kinh tế trong sạch, trái lại để “kiểm soát” doanh nghiệp, và cụ thể là những doanh nghiệp kém hiệu quả hay hành động theo cách phá hoại quyền lực nhà nước. Quan hệ tham nhũng nhà nước-doanh nghiệp cần được xem xét trên góc độ động lực.

Tham nhũng đã là một phần tích hợp của mối liên hệ nhà nước-doanh nghiệp và quá trình phát triển thay vì là một hiện tượng bất thường. Doanh nghiệp thường xuyên phàn nàn về “khoản thuế thứ cấp” khổng lồ mà họ buộc phải trả, và vào năm 1992, sau cuộc dân chủ hóa mà Chung Ju Yung của Hyundai đứng về phe tổng thống cũng như tạo ra tư bản chính trị bằng cách chấm dứt khoản đóng góp khổng lồ mà chaebol được “khuyến khích” trả cho các tổng thống Park, Chun và Roh trong nhiều thập kỷ. Tuy vậy, sự trợ giúp phi chính thống/phi pháp mà nhà nước cung cấp cho những công ty thành công như Hyundai là thiết yếu đối với sự phát triển của họ.

Quyền lực chính trị của nhà nước cũng không thể tránh khỏi việc điều chỉnh và triển khai chính sách phát triển. Như Woo đã nói thẳng thừng: “nhà nước làm tiền trở thành mặt trái của nhà nước phát triển tốt lành” (1991, p.199-200). Động lực này phải được phân tích trong câu chuyện về sự phát triển của Hàn Quốc cho dù là từ góc độ kinh tế vĩ mô hay nghiên cứu chính sách công hoặc lịch sử kinh doanh tư nhân (xem Kirk, 1994 hay sau đó). Lập luận được phác thảo ở đây dẫn đến một sự khác biệt nhỏ so với Michell. Ông khẳng định rằng “hệ thống các quan hệ cá nhân phi chính thống đan xen các cấu trúc chính thống (và) quan hệ chính quyền/doanh nghiệp theo cách thức mà ở quốc gia khác sẽ dẫn đến sự phổ biến tham nhũng” đã không hoạt động ở Hàn Quốc bởi vì “kẻ thù bên ngoài và sự hấp thụ mạnh mẽ chủ nghĩa quốc gia kinh tế” (1984, p.36). Trái lại, sự tham nhũng phổ biến ở đây đã được quốc hữu hóa.

Những sức ép bên ngoài

Hai sức ép có tác dụng củng cố khuôn khổ quốc gia đã được mô tả phía trên. Thứ nhất, mối quan hệ bên ngoài với Hoa Kỳ và Nhật Bản tạo thuận lợi cho cả sự phát triển cũng như tham nhũng. Viện trợ bên ngoài và sức ép ngoại giao của Hoa Kỳ đã thúc đẩy Hàn Quốc chuyển từ chiến lược phát triển vốn tạo thuận lợi cho loại tham nhũng làm suy yếu – Công Nghiệp Hóa Bằng Thay Thế Nhập Khẩu – sang một dạng có trật tự hơn – Công Nghiệp Định Hướng Xuất Khẩu (Haggard,Moon & Kim, 1991). Viện trợ của Hoa Kỳ được hứa hẹn khi Hàn Quốc chuyển hướng từ chiến lược sang tự lực cánh sinh và qua đó giảm thiểu viện trợ của Hoa Kỳ. Các khoản tài trợ công không hoàn lại giảm xuống và bị thay thế bằng các khoản cho vay. Mặc dù các khoản cho vay tiếp tục đổ vào Hàn Quốc cho tới cuối những năm 1960 song sự thay đổi đáng kể là sự gia tăng mạnh mẽ của tài chính tư nhân từ Hoa Kỳ, Nhật Bản (do Hoa Kỳ khuyến khích) và Châu Âu, theo sau sự thay đổi trong chiến lược phát triển (Wade & Kim, 1977; Chang, 1982). Nực cười là mức độ gia tăng viện trợ tài chính và các viện trợ khác cho Thái Lan và Nam Việt Nam lại khiến Hoa Kỳ tìm cách tạo ra nền kinh tế tự cường ở Hàn Quốc.

Sự hấp thụ và tăng trưởng kinh tế trong những năm 1960 đã thu hút tài chính tư nhân quốc tế và kết hợp với sự tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc đã tạo ra một nhóm đoan chính mà tham nhũng đóng vai trò nổi bật trong đó. Nhật Bản quan tâm tới sự phát triển của Hàn Quốc vì mục tiêu của họ, cũng giống như các doanh nghiệp và tổ chức Hoa Kỳ đang cho vay hoặc đầu tư. Khoản lại quả khổng lồ là một phụ phẩm của những mối liên hệ tích cực này. Khoảng 2 tỷ dollar tiền lại quả được tạo ra cho nhà cầm quyền Hàn Quốc từ thỏa thuận với các hãng Nhật Bản trong việc xây dựng hệ thống đường tàu điện ngầm Seoul, giám đốc KCIA Lee Hu Rak nhận được 500.000 triệu dollar (Kim, 1978, p.53). Các mối liên hệ giữa công ty Nhật Bản, doanh nghiệp Hàn Quốc và giới thượng lưu nhà nước Hàn Quốc được gọi là yuchaku (cùng nhau phát triển). Một lần nữa, động lực lại là tham nhũng tích cực, cũng như đối với các công ty Hoa Kỳ đầu tư ở Hàn Quốc, không chỉ là tập trung vào hợp đồng của chính quyền mà còn tham gia vào việc mở rộng có lợi nhuận các cơ sở công nghiệp. Do đó, “ít nhất 8,5 tỷ dollar từ quỹ hợp tác của Hoa Kỳ đã chảy vào túi đảng cầm quyền ở Hàn Quốc trong cuộc bầu cử năm 1971” (Congressional Quarterly Almanac, 1978, p.811). Các công ty dầu lửa Hoa Kỳ và các doanh nghiệp lớn khác đã có mối quan hệ đầy lợi nhuận với các quan chức chủ chốt của Hàn Quốc (Kim, 1978, pp.51–52).

Thứ hai, mối đe dọa bên ngoài từ Bắc Triều Tiên cũng làm nổi bật động lực phát triển quốc gia. Ít nhất vào những năm 1950, có thể nói rằng Bắc Triều Tiên hợp pháp hơn Nam Triều Tiên và hơn nữa nếu miền Nam tiếp tục tình trạng mạo hiểm thì miền Bắc có thể tiếp tục tấn công. Một trong những động cơ của cuộc đảo chính năm 1961 là an ninh quốc gia: sự tham nhũng của Rhee không chỉ cản trở các quân nhân chuyên nghiệp, nó còn làm kinh tế đình đốn. Sau cuộc đảo chính, miền Bắc tấn công, mối đe dọa trở thành thường trực, trong đó có việc cử đội ám sát tới ám sát tổng thống Hàn Quốc vào năm 1968 và suýt thành công trong việc ám sát tổng thống Chun Doo Hwan vào năm 1983. Nhưng sự hùng mạnh của kinh tế Hàn Quốc đã củng cố tình hình an ninh quốc gia của họ cũng như ngăn cản chiến lược lật đổ và thống nhất đất nước của miền Bắc.

Những mối liên hệ bên ngoài

Cách thức mà các nhà nước-quốc gia tham gia vào kinh tế thế giới là sống còn trong việc xác định các ưu tiên, nhận thức và quỹ đạo phát triển của nhà nước. Như đã đề cập trước đây trong sự kết hợp với lập luận về hệ tư tưởng và thực tiễn nhà nước, sự tham gia của Thái Lan vào thị trường toàn cầu trong Chiến Tranh Việt Nam đã dựa trên du lịch (và ít lãng mạn hơn là gái mại dâm) như là nguồn thu nhập quốc tế. Tương tự, viện trợ của Hoa Kỳ đã khuyến khích sự tiếp tục cầm quyền của một quân đội trung thành với lợi nhuận của việc buôn bán ma túy toàn cầu (McCoy, 1991). Hàn Quốc không có đặc điểm đó. Mặc dù là một quốc gia hấp dẫn song các cơ hội du lịch và “nghỉ ngơi” dường như là không khả thi trên bán đảo bị chiến tranh tàn phá và một cuộc chiến khác có thể tiếp diễn vào bất cứ lúc nào. Với một ít tài nguyên tự nhiên (không có thuốc phiện và rừng nhiệt đới của Thái Lan) và triển vọng về sự cắt giảm viện trợ của Hoa Kỳ, chiến lược phát triển được áp dụng là hướng tới việc hội nhập quốc tế trên lĩnh vực thương mại. [7] “Chiến lược” kinh tế Công Nghiệp Hóa Thay Thế Nhập Khẩu được theo đuổi dưới thời Syngman Rhee đã thúc đẩy tham nhũng do nó bảo vệ công nghiệp nội địa khỏi sự cạnh tranh đồng thời tạo ra các thiên đường thuận lợi cho việc tìm kiếm lợi tức. Công Nghiệp Hóa Định Hướng Xuất Khẩu (EOI) lại giúp nền kinh tế Hàn Quốc hội nhập vào trật tự kinh tế quốc tế tự do. Tác động của việc đó là các doanh nghiệp Hàn Quốc được đặt vào kỷ luật thị trường thế giới. Các doanh nghiệp nhận được các khoản vay nhờ vào các quan hệ địa phương hoặc cá nhân phải thành công trên thị trường thế giới để tiếp tục nhận được sự trợ giúp (cũng như thiên đường lợi nhuận của họ dưới dạng độc quyền nội địa) do những sự trợ giúp chính thức và phi chính thức của chính quyền được cấp trên cơ sở các lệnh xuất khẩu được đáp ứng (Lim 1981). “Các nhà xuất khẩu có thành tích nổi bật được miễn thế chấp cho các nghĩa vụ hải quan đặc biệt cũng như các nghĩa vụ hải quan nói chung, không phải chịu các cuộc thanh tra thuế bất thường và được ưu tiên trong việc phân bổ ngoại tệ cho các hoạt động kinh doanh” (Kim, 1975, p.272).

Kết luận

Viêc tập trung vào các chi tiết lịch sử cho thấy sau cuộc đảo chính năm 1961 một loạt các nhân tố đan xen với nhau tạo ra một động lực và một khuôn khổ có thể “kiềm chế” tham nhũng. Tham nhũng không giải thích được sự phát triển kinh tế ở Hàn Quốc bằng bất cứ sự liên tưởng nào, nhưng nó cộng sinh với sự tăng trưởng thần tốc và ở một số lĩnh vực thì tạo ra sự linh hoạt cho chính sách kinh tế vốn coi sự chuyển giao nguồn lực cho một số doanh nghiệp có khả năng nhất là cách sử dụng chúng tốt nhất. Người ta có thể lập luận rằng tham nhũng làm chậm sự phát triển kinh tế ở Hàn Quốc – điều này là đúng trong trường hợp những năm 1950 – nhưng điều này sẽ là võ đoán trong trường hợp công nghiệp hóa cực nhanh và thành công của những năm 1960.

Rõ ràng là tham nhũng là sự bế tắc trong các nghiên cứu về sự phát triển của Đông Á dựa trên các khái niệm “thuần khiết” về sự độc lập của nhà nước, các mối liên hệ nhà nước-xã hội và vai trò của chính sách công đối với sự phát triển. Bài báo này cố gắng thúc đẩy các nghiên cứu tiếp theo thể hiện phân tích lịch sử xuyên suốt về các thức hình thành chính sách một cách chính xác và sự triển khai được thực hiện trong môi trường mang tính chính trị. Đây là tính chất chung cho hoàn cảnh của tham nhũng tại các nước NICs ở Đông Á (nhà nước mạnh, giới kinh doanh bản địa yếu, sự phổ biến của các mạng lưới phi chính thống). Tuy vậy, kinh nghiệm không điển hình của Hàn Quốc ở đây không phải là sự biện minh cho lập luận chung rằng tham nhũng vừa tích cực vừa tiêu cực. Hơn nữa, tham nhũng luôn đi kèm với những phí tổn cụ thể, ngay cả khi nó cộng sinh với sự phát triển nhanh thần tốc: “tham nhũng có thể được kiểm soát bằng cách thay đổi đặc tính của nó nhưng quan trọng nhất là không bị phá hủy” (Werner, 1983, p.638). Bằng chứng về phí tổn của tham nhũng là rõ ràng, như hệ thống tài chính đang cần có sự tái cấu trúc và là cốt lõi của các bê bối chính trị và trên góc độ phát triển chính trị nói chung. Trong hiện tại, bằng chứng cho thấy rất khó có thể xóa bỏ tham nhũng mang tính cấu trúc trong kinh tế chính trị Hàn Quốc và nhấn mạnh sự thật rằng sự cộng sinh của tham nhũng và phát triển kinh tế có những tác động dài hạn mà giờ mới bộc lộ rõ ràng, nếu không nói đến những tác động ngắn hạn.

Chú thích

1. Theo các công trình mới được điều chỉnh (Michell, 1981; Lie, 1997), sự tăng trưởng kinh tế nghèo nàn không chỉ là lỗi của chính quyền Rhee mà còn do chính quyền Hoa Kỳ, vốn đang kiểm soát các lĩnh vực quan trọng của chính sách kinh tế Hàn Quốc, thúc giục ổn định hóa và tiêu dùng thay vì đầu tư, vốn có thành tích nghèo nàn dưới thời Rhee. Tuy vậy, điều vẫn còn gây tranh cãi là nếu không có ảnh hưởng của Hoa Kỳ thì giới hành chính, vẫn mong muốn một chính sách công nghiệp và phát triển tích cực, có ảnh hưởng gì không, khi mà Rhee quyết định sử dụng kinh tế để đảm bảo cho sự tồn tại của ông ta thông qua các quan hệ bảo trợ-thân hữu với các doanh nhân đầu cơ trục lợi.

2. Quân đội Quan Đông Nhật Bản đã xâm lược Mãn Châu Lý, đổi tên thành tỉnh Manchukuo. Quốc gia độc lập trên hình thức này trên thực tế do quân đội điều hành như là một thực thể độc lập và hoạt động như phòng thí nghiệm cho quá trình phát triển kinh tế và tập trung hóa chính trị dưới sự kiểm soát của nhà nước.

3. Vào đầu những năm 1970, thuế của nhà nước chiếm 14% GPD (Wade and Kim, 1977, p.118) Vào năm 1987 giảm xuống còn 2% (Kwack and Lee, 1991, p.14).

4. Quan hệ bảo trợ-thân hữu đặc trưng của Đông Nam Á thời thuộc địa và độc lập là một hỗn hợp của “hiện đại” – quan hệ đảng phái, các chương trình phát triển, các doanh nghiệp bị quốc hữu hóa, vân vân, và các mạng lưới huyết thống và quê quán truyền thống. “Ở bất kỳ dạng cụ thể nào của chúng, mạng lưới bảo trợ-thân hữu vẫn đóng vai trò là cơ sở chính của các hệ thống liên minh giữa những người không phải họ hàng khắp Đông Nam Á” (Scott, 1972, p.105). Các quan hệ bảo trợ-thân hữu vận hành trong các xã hội và kinh tế kém hiện đại (trên góc độ sự phát triển tổ chức và thể chế) cũng được đặt dưới thống trị của những ảnh hưởng hệ tư tưởng và văn hóa khác nhau ở Đông Nam Á.

5. Khoản tài chính nước ngoài lớn đã tạo ra cho quân đội các quỹ lớn và sự ảnh hưởng thông qua hệ thống ngân hàng nhà nước. “Không có nhà nước nào ngoài khối xã hội chủ nghĩa có thể đạt được biện pháp kiểm soát đó đối với các nguồn lực có thể đầu tư của nền kinh tế” (Datta-Chaudhuri được trích dẫn trong Harris, 1987, p.212 n.9). Viện trợ/khoản vay của Hoa Kỳ cho Hàn Quốc vào giai đoạn 1946-1976 là 12,6 tỷ dollar; viện trợ/khoản vay của Nhật Bản là 1 tỷ dollar; các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp 1,9 tỷ dollar E. Mason et al. (eds. 1980, p.165). Đảng Dân Chủ Tự Do, được quân đội thành lập ngay sau cuộc đảo chính đã nhận được 2/3 ngân quỹ từ các doanh nghiệp Nhật Bản trong giai đoạn 1961-1965  (Woo, 1991, p.86).

6. “Do các khoản vay tư nhân đều phải được chính quyền phê chuẩn và đảm bảo trả nợ, phía Hàn Quốc nhận được các khoản vay nước ngoài phải trả một tỷ lệ nhất định (phổ biến được cho là 10-15% và đôi khi là 20% tổng số tiền) để nhận được sự bảo lãnh của chính quyền”
(Kim, 1976, p.264).

7. Mặc dù Hàn Quốc đi theo con đường tăng trưởng nhờ thương mại, mức độ hội nhập của nền kinh tế nội địa – chịu ảnh hưởng rõ ràng của con đường này – vẫn ở mức thấp: tư bản nước nước ngoài được tìm kiếm bằng con đường vay mượn thay vì FDI và hiếm thấy đầu tư nước ngoài được phê duyệt.

Tài liệu tham khảo

M. Alam (1989) Anatomy of Corruption: An Approach to the Political Eonomy of Underdevelopment. American Journal of Economics and Sociology Vol.48 No.4.

D.-J. Chang (1982) Japanese Corporations and the Political Economy of South Korea-Japanese Relations 1965–1979. PhD Diss. University of California: Berkeley.

S. Chon (1992) Political Economy of Regional Development in Korea. in R. Appelbaum and J. Henderson (eds.), “States and Development in the Asian Pacific Rim.” London: Sage.

M. Clifford (1994) Troubled Tiger: Businessmen. Bureaucrats and Generals in South Korea. East Gate Press: ME Sharpe.

D. Cole and P. Lyman (1971) Korean Development: the Interplay of Politics and Economics. Cambridge Mass: Harvard University Press.

Congressional Quarterly Almanac (1978) “Congress Ends ‘Koreagate’ Lobbying Probe.” Congressional Quarterly Almanac Vol. 34.

B. Cumings (1984) The Origins and Development of the Northeast Asian Political Economy.International Organisation Vol. 38 No. 1.

D. della Porta and A. Pizzorno (1996) The Business Politician: Reflections from a Study ofPolitical Corruption. in M. Levi and D. Nelken (eds.), “The Corruption of Politics and the Politics of Corruption.” Oxford: Blackwell.

P. Evans and D. Rueschemeyer (1985) The State and Economic Transformation. in T. Skocpol, P. Evans and D. Rueschemeyer (eds.), “Bringing the State Back In” Cambridge: Cambridge University Press.

J.L. Girling (1981) Thailand: Society and Politics. Ithaca: Cornell University Press.

S. Haggard (1990) Pathways from the Periphery. Ithaca: Cornell University Press.

S. Haggard, B-K Kim and C. Moon (1991) The Transition to Export-Led Growth in South Korea. The Journal of Asian Studies Vol. 50, No. 4.

N. Harris (1987) The End of the Third World. London: Penguin.

S. Huntington (1968) Political Order in Changing Societies. New Haven: Yale University Press.

L. Jones and I. Sakong (1980) Government, Business and Entrepreneurship in Economic Development: the Korean Case. Cambridge: Harvard.

M. Khan (1996) The Efficiency Implications of Corruption. Journal of International Development Vol. 8, No. 5.

M. Khan (1998) Patron-Client Networks and the Economic Effects of Corruption in Asia Paper presented at the UNDP-PACT and OECD Conference, Corruption and Integrity Improvement Initiatives in the Context of Developing Countries, Paris.

J. Kim(1975) Recent Trends in the Government’s Management of the Economy. in E.R. Wright (Ed) “Korean Politics in Transition” Seattle: University of Washington Press.

J.A. Kim (1976) Divided Korea: the Politics of Development. Cambridge Mass: Harvard University Press.

H. Kim (1978) Statement of Kim Hyung Wook, Former Director Korean Central Intelligence Agency to US Congress Subcommittee on International Organisations, Investigation of Korean-American Relations Part 7.

D. Kirk (1994) Korean Dynasty: Hyundai and Chung Ju Yung. Hong Kong: East Gate Press.

P. Knightley (1989) The First Casualty. London: Pan.

T.W. Kwack and K.S. Lee (1991) Tax Reform in Korea. Korea Development Institute Paper No. 9103.

H.B. Lee (1968) Korea: Time, Change and Administration. Honolulu: East-West Center Press.

N. Leff (1964) Economic Development Through Bureaucratic Corruption. American Behavioural Scientist Vol. 8.

R. Leiken (1997) Controlling the Global Corruption Epidemic. Foreign Policy No.105.

J. Lie (1997) Aid Dependence and the Structure of Corruption: The Case of Post-Korean War South Korea International Journal of Sociology and Social Policy Vol. 17, No. 11–12.

Y. Lim (1981) Government Policy and Private Enterprise: Korean Experience in Industrialisation. Centre for Korean Studies, Berkeley: California.

A. McCoy (1991) The Politics of Heroin. CIA Complicity in the Global Drug Trade. Lawrence Hill Books: USA.

E. Mason et al. (eds. 1980) The Economic and Social Modernisation of the Republic of Korea. Cambridge Mass: Harvard University Press.

T. Michell (1984) Administrative Traditions and Economic Decision-making in South Korea. IDS Bulletin Vol. 15, No. 2.

T. Michell (1989) Control of the Economy During the Korean War: the 1952 Coordination Agreement and its Consequences. in J. Cotton and I. Neary (eds.), “The Korean War in History.” Manchester: Manchester University Press.

M. Naim (1995) The Corruption Eruption. Brown Journal of World Affairs Vol.II, No.2.

H.T. Patrick (1994) Comparisons, Contrasts and Implications. in H.T. Patrick and Y.C.

Park (eds.), ‘The Financial Development of Japan, Korea and Taiwan.’ Oxford: Oxford University Press.

S. Rose-Ackerman (1978) Corruption: A Study in Political Economy. New York: Academic Press.

J.C. Scott (1972) Patron-Client Politics and Political Change in Southeast Asia. The American Political Science Review Vol. 66, No. 1.

R. Theobald (1990) Corruption, Development and Underdevelopment. Durham: Duke University Press.

L. Wade and B. Kim (1977) The Political Economy of Success. Seoul: Kyung Hee Press.

R. Wade (1990) Governing the Market. Princeton: Princeton University Press.

S.B.Werner (1983) The Development of Political Corruption: a Case Study of Israel. Political Studies Vol.XXXI.

L. Westphal et al. (1979) Foreign Influences on Korean Industrial Development Oxford Bulletin of Economics and Statistics Vol. 41, No. 4.

J.-E.Woo (1991) Race to the Swift: State and Finance in Korean Industrialisation. Columbia: Columbia University Press.


Jon Moran is Senior Research Assistant, DFD Corruption Project on corruption and anti-corruption strategies, Liverpool Business School, Liverpool John Moores University.