Showing posts with label Quốc Hội. Show all posts
Showing posts with label Quốc Hội. Show all posts

Tuesday, November 5, 2019

Công nhân, chủ doanh nghiệp và nhà nước

Khi có xung đột giữa công nhân và doanh nghiệp, như hiện nay, doanh nghiệp đòi tăng giờ làm thêm, công nhân đòi giảm giờ làm từ 48 tiếng/tuần xuống 44 tiếng/tuần, một vị đại diện cho nhà nước đứng ra nói như thế này: Bây giờ đất nước ta còn nghèo, giảm giờ làm xuống thì chi phí lao động tăng lên, giá cả hàng hóa tăng lên thế là hàng hóa xuất khẩu mất cạnh tranh, tăng trưởng kinh tế giảm, thì nước ta thoát nghèo thế nào được.


Ấy thế là cái lý gì? Tất nhiên người nhà nước là phải lo lắng cho lợi ích quốc gia, đứng trên cả chủ doanh nghiệp lẫn công nhân rồi. Người ta nói ắt hẳn có lý do chính đáng. Mà lý lẽ hợp lý hợp tình đến thế kia thì ai mà không nghe cho được nhỉ?

Ở đây mấu chốt của vấn đề không phải là việc nhồi nhét lợi ích quốc gia vào cái việc bắt công nhân làm 48 tiếng/tuần mà là cái căn cứ để người ta tính toán cái lợi ích đó. Đại thể người ta sẽ tính thế này, trước kia công nhân làm 48 tiếng/tuần, giờ làm 44 tiếng/tuần thì với năng suất như cũ muốn có sản lượng như cũ sẽ phải thuê công nhân làm thêm 4 tiếng, chi phí lao động sẽ tăng thêm 4/44, tức là 9,1%. Chi phí lao động đội lên 9.1%, giá cả hàng hóa xuất khẩu vì thế cũng tăng lên, hàng hóa xuất khẩu trở nên kém cạnh tranh hơn. Mọi thứ rõ ràng là rất thuyết phục.

Chìa khóa của vấn đề: Tiền lương là giá cả của lao động hay sức lao động?

Trong tính toán của người nhà nước thì tổng tiền lương khi làm 44h với 48h là khác nhau, hay nói cách khác tiền lương được tính theo số giờ lao động và không cố định, làm nhiều hưởng nhiều, ẩn giấu đằng sau cái tính toán đó là cái luận điểm: Tiền lương là giá cả của lao động! Đằng sau những thứ kêu choang choang về lợi ích quốc gia, thực ra là lợi ích và quan điểm của chủ doanh nghiệp. Khi anh nhà nước tính toán theo quan điểm của chủ doanh nghiệp thì anh ta đứng về phía chủ doanh nghiệp.

Còn bây giờ là quan điểm của công nhân: Tiền lương của công nhân là giá cả của sức lao động, được tạo thành từ chi phí nuôi sống và đào tạo nghề nghiệp cho công nhân, do đó nó cố định, làm 44h/tuần hay 48h/tuần cũng không làm thay đổi nó được. Việc giảm thời gian lao động xuống không làm tăng chi phí lao động, lại càng không ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa.

Người ta sẽ lại thắc mắc rằng chủ doanh nghiệp phải thuê thêm lao động 4h mỗi tuần, phải trả thêm tiền mà anh lại nói rằng chi phí lao động không tăng là sao? Nhưng người ta quên mất rằng đâu có gì buộc chủ doanh nghiệp vẫn phải giữ nguyên mức lương cũ khi thời gian làm việc giảm xuống. Ví dụ, công nhân đi làm 48h/ tuần, nhận được 96 đồng tiền lương, giờ họ chỉ phải làm việc 44h/tuần. Chủ doanh nghiệp biết rằng công nhân sẽ buộc phải đi làm để kiếm đủ sống, họ sẽ hạ lương tuần xuống 88 đồng và trả 8 đồng cho 4h làm thêm. Vậy là công nhân vẫn phải đi làm với mức lương như cũ. Tổng mức tiền lương vẫn như cũ, chủ doanh nghiệp không cần phải tăng lương thêm đồng nào cả.

Khi người ta hiểu rằng tiền lương là giá cả của sức lao động thì việc tăng hay giảm thời gian lao động sẽ không ảnh hưởng đến chi phí lao động và không ảnh hưởng gì đến giá cả hàng hóa cả, nhưng việc giảm thời gian lao động sẽ làm thời gian lao động thặng dư và ảnh hưởng tới lợi nhuận của chủ doanh nghiệp. Đấy mới là cái khiến chủ doanh nghiệp không hài lòng và tất nhiên là người nhà nước phải bảo vệ lợi ích quốc gia trên quan điểm của chủ doanh nghiệp.

Thế còn việc kéo dài thời gian làm thêm? Người ta sẽ nói: công nhân làm thêm thì có thêm tiền, cũng tốt chứ sao? Vẫn là giả định: Tiền lương là giá cả của lao động. Sự thực là doanh nghiệp muốn kéo dài thời gian làm thêm để hạ lương thời gian làm chính xuống, nên vào thời kỳ ít việc thì doanh nghiệp sẽ trả cho công nhân đồng lương chết đói. Mặt khác, theo luật Việt Nam tiền làm thêm giờ không phải đóng bảo hiểm xã hội nên chủ doanh nghiệp sẽ còn ăn bớt cả lương hưu của công nhân nữa.

Ví dụ cụ thể: Công nhân đang đi làm 8 tiếng mỗi ngày, tiền lương theo giờ là 12,5 đồng/h, tổng lương là 100 đồng / ngày, bảo hiểm xã hội chủ phải đóng là 10% tiền lương. Tổng chi phí lao động là 110 đồng. Bây giờ chủ doanh nghiệp được phép tổ chức làm thêm 2h mỗi ngày với điều kiện tiền lương làm thêm phải gấp đôi tiền lương chính, kết quả không phải là công nhân nhận được 140 đồng. Thực tế là như thế này, chủ doanh nghiệp sẽ hạ tiền lương tính theo giờ xuống còn 100/12 = 8.33 đồng, 8h làm chính thức chỉ còn mang lại cho công nhân 66,67 đồng, còn 2h làm thêm sẽ mang lại thu nhập: 33,33 đồng. Song bi kịch chưa dừng ở chỗ đó, tiền bảo hiểm xã hội 10% trước kia được tính trên 8h làm chính thức là 10 đồng, bây giờ chỉ còn 6,67 đồng vì tiền làm thêm giờ không phải đóng bảo hiểm xã hội, chủ doanh nghiệp sẽ đút túi thêm 3,33 đồng đó. Bi kịch thế đã đủ chưa? Vẫn chưa đâu. Những doanh nghiệp được tùy ý tổ chức làm thêm thì họ sẽ chỉ cho công nhân làm thêm vào thời kỳ họ cần, chỉ vào thời kỳ đó công nhân mới nhận được mức lương đủ sống, còn bình thường họ sẽ trả mức lương bị hạ thấp của thời gian làm chính thức, công nhân sẽ phải nhận đồng lương chết đói.

Khi nhìn từ góc độ của công nhân thì người ta sẽ thấy rõ cái mánh khóe của chủ doanh nghiệp nhằm móc túi công nhân. Mặt khác, ai cũng biết rằng bảo hiểm xã hội lấy nguồn thu hiện tại để thanh toán cho người lao động nghỉ hưu, khi doanh nghiệp có thể kéo dài thời gian làm thêm thì họ sẽ dồn tiền lương sang tiền làm thêm giờ để giảm khoản đóng góp cho bảo hiểm xã hội. Sự thâm hụt quỹ bảo hiểm xã hội ấy tất yếu sẽ buộc nhà nước phải bù vào để giúp cho những người lao động nghỉ hưu có thể sống sót.


Lợi ích quốc gia được đồng nhất với lợi nhuận của doanh nghiệp trong vấn đề giảm số giờ làm việc của công nhân còn 44h/tuần. Giới chủ than vãn như trời sắp sập đến nơi. Nhưng đây không phải là lần đầu tiên giảm giờ làm mà Việt Nam cũng không phải nước duy nhất giảm giờ làm. Kinh nghiệm thực tế cho thấy khi giờ làm giảm đi thì lương công nhân cũng không thay đổi nhiều. Giảm giờ làm 4h mỗi tuần thì cũng không phải là quá nhiều, chủ doanh nghiệp sẽ đẩy cường độ lao động cao hơn để duy trì sản lượng như cũ, tức là không ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa hay tăng trưởng GDP. Tuy vậy, chưa phải là hết, chủ doanh nghiệp sẽ có thêm một phần lợi nhuận từ chi phí tiết kiệm được, đó là chi phí cơ sở vật chất và chi phí quản lý, giảm giờ làm thì những chi phí này cũng giảm đi. Thật tình cờ là cái khoản mà chủ doanh nghiệp tiết kiệm được này bị giấu biệt, không xuất hiện trong bất cứ tính toán nào về tác động của việc giảm giờ làm.

Những kẻ nhân danh lợi ích quốc gia để thuyết phục công nhân hy sinh lợi ích của bản thân bao giờ cũng là những tôi tớ trung thành nhất của chủ doanh nghiệp. Họ tính toán lợi nhuận, tăng trưởng kinh tế, nhưng tính toán của họ không bao giờ có chỗ cho người lao động.

Thursday, November 19, 2015

Sự khác nhau giữa nhà hát và quốc hội

Nhà hát và quốc hội khác nhau ở điểm nào?

Ở nhà hát thì diễn viên giỏi thường được trả lương thấp.

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí, nhưng không nhất thiết khác với sự thật)

Thursday, November 13, 2014

Kiev leo thang chiến tranh ở miền đông Ukraina

Xin mời bạn đọc blog theo dõi bản dịch bài viết "Kiev escalates war in eastern Ukraine" của tác giả Christoph Dreier với các bình luận mới về tình hình chiến sự tại Ukraina.

Kiev leo thang chiến tranh ở miền đông Ukraina

Cuối tuần qua nổ ra trận chiến khốc liệt nhất tại các thành phố Donetsk và Luhansk ở miền đông Ukraina kể từ khi hiệp định ngừng bắn được ký kết vào đầu tháng 9. Cuộc tấn công quân sự của chính quyền Kiev cho thấy NATO đang tăng cường đe dọa Nga. 

Nhân chứng cho biết đạn pháo hạng nặng đã được bắn đi từ các khu vực do quân đội Kiev kiểm soát cũng khu vực của quân nổi dậy. Sân bay Donetsk là một chiến trường đẫm máu. Hiệp định Minsk yêu cầu giao sân bay cho phe nổi dậy. Mặc dù vậy, các binh lính trung thành với Kiev đã từ chối rút quân và đụng độ dữ dội hàng ngày với quân nổi dậy.

Theo quân nổi dậy cho biết, các xe tăng quân đội Ukraina đã tiến về phía Donetsk. Hai xe tăng được cho biết là bị quân nổi dậy phá hủy trong cuộc tấn công vào làng Nikichino.

Quân nổi dậy cáo buộc quân đội Ukraina đã ném bom các khu vực dân cư và sử dụng các loại bom cháy. Trong bản tin ngày thứ ba, tổ chức Human Rights Watch xác nhận bom cháy được sử dụng trong trận chiến trước đó ở khu vực Donetsk.

Nhiều dân thường đã trở thành nạn nhân của các vụ tấn công. Vào cuối tuần, hai thiếu niên đã thiệt mạng trong một vụ nã pháo vào trường học. Theo phe nổi dậy cho biết, ít nhất có 12 thường dân đã thiệt mạng trong một cuộc tấn công vào làng Frunze gần Luhansk. 

Chính quyền Kiev và đồng minh của họ ở Washington cáo buộc Nga gửi xe tăng và các trang thiết bị quân sự khác qua biên giới để gia tăng sức mạnh cho các tổ chức nổi dậy. Nhiều phóng viên đã đưa tin về sự di chuyển của quân đội tại khu vực Donetsk.

Tổ Chức An Ninh Và Hợp Tác Châu Âu (OSCE), có một đội quan sát viên ở khu vực, đưa tin về hai đoàn xe với 40 chiếc xe tải 9 xe tăng di chuyển theo hướng đông ở khu vực Donbass. Nguồn gốc của những chiếc xe này và loại hàng hóa được chuyên chở vẫn chưa rõ. Chỉ huy phó của quân nổi dậy, Eduard Basurin, nói trong đoàn xe có các đơn vị dân quân được thành lập để bảo vệ Donetsk trước các cuộc tấn công của chính quyền Ukraina.

Người phát ngôn chính thức Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, Jen Psaki, nói vào thứ hai là “Nga và dân quân mà họ ủng hộ” đã “thường xuyên” phá vỡ Hiệp định Minsk. Ngoại trưởng John Kerry đe dọa Nga bằng những biện pháp trừng phạt mới vào ngày thứ bảy sau cuộc hội đàm với người đồng sự phía Nga Sergei Lavrov.

Giám đốc chính sách đối ngoại Liên Minh Châu Âu, Federica Mogherini, gọi sự di chuyển của quân đội là “một sự tiến triển rất đang lo ngại”. Bà ta thúc giục Nga thể hiện sự kiềm chế và giảm leo thang xung đột. Bà ta cũng yêu cầu Moscow ngăn chặn binh lính, vũ khí và chiến binh tiến vào Ukraina từ lãnh thổ Nga.

Cuối tuần tới, ngoại trưởng của 28 nước Liên Minh Châu Âu sẽ họp để quyết định về các biện pháp trừng phạt mới đối với Nga. “Cuộc tranh luận sẽ không chỉ xoay quanh các biện pháp trừng phạt chặt chẽ, mà còn chú trọng tới việc chúng ta có thể hỗ trợ Ukraina ra sao trong thời gian khó khăn này”, Mogherini nói. 

Thủ tướng Đức Angela Merkel thông báo về một sự mở rộng có thể danh sách những người sẽ bị trừng phạt.

Thủ tướng Anh David Cameron cáo buộc Nga không tuân thủ luật pháp quốc tế. Nếu Nga “tiếp tục theo con đường hiện tại, chúng tôi sẽ gia tăng sức ép và quan hệ của Nga với phần còn lại thế giới sẽ rất khác trong tương lai”, Cameron nói.

Vào thứ ba, tổng thống Hoa Kỳ Barack Obam và người đồng sự Nga, Vladimir Putin, đã họp ngắn bên lề hội nghị thượng đỉnh Hợp Tác Kinh Tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) ở Bắc Kinh. Bên cạnh vấn đề Ukraina, họ cũng thảo luận về chương trình hạt nhân của Iran. Không có bản tin chính thức nào về cuộc họp của họ được công bố. Có thể kỳ vọng rằng hai nhà lãnh đạo sẽ lại gặp nhau vào tuần tới ở hội nghị thượng đỉnh G20 ở Australia.

Vào thứ hai, một bản tin được công bố liệt kê 40 tình huống đối đầu quân sự giữa Nga và NATO có thể biến thành chiến tranh. Tuần trước, tướng Đức của NATO Hans-Lothar Domröse đã thống báo rằng đồng minh sẽ tiếp tục mạnh tay hơn với Nga. 

Tổng thống Ukraina Petro Poroshenko ký hiệp định ngừng bắn Minsk sau khi chính quyền Ukraina đánh nhau với quân nổi dậy ở miền đông và phải gánh chịu nhiều thiệt hại nghiêm trọng. Chính quyền Kiev hy vọng câu giờ bằng ngừng bắn để ổn định sự cai trị của họ và tái tổ chức quân đội.

Nhưng chính phủ đã vi phạm hiệp định ít nhất cũng thường xuyên như phe nổi dậy. Quân đội của họ từ chối rút khỏi các khu vực bên cạnh sân bay Donetsk theo như quy định trong hiệp định Minsk. Hơn nữa, họ lại liên tục nã pháo Donetsk và Luhansk.

Quyền tự trị của miền đông Ukraina đã bị tước đoạt. Mặc dù nghị viện Ukraina đã thông qua luật liên quan, người phát ngôn nghị viện Alexander Turchinov từ chối ký tên hay chuyển đạo luật đó tới tổng thống. Sau khi quân nổi dậy tổ chức bầu cử một tuần trước ở miền đông Ukraina, Turchinov tuyên bố là luật tự trị không có giá trị.

Một đạo luật thanh thanh lọc cơ quan và dịch vụ công cộng đã được thông qua trước cuộc bầu cử nghị viện do chính quyền Kiev tổ chức vào tháng 10, đạo luật đó được dùng để đưa các cơ quan nhà nước vào khuôn khổ. Nhiều vị trí trước đó thuộc về những người phê phán chính quyền đã được chuyển giao cho lực lượng cực đoan cánh hữu, lực lượng đóng vai trò trọng yếu trong cuộc đảo chính lật đổ tổng thống thân Nga Viktor Yanukovych vào tháng 2 vừa qua.

Juri Michaltschisin, người sáng lập viện Joseph Goebbels vào năm 2005, được đưa tin là trở thành lãnh đạo mới của cục “tuyên truyền và phân tích” thuộc cơ quan mật vụ Ukraina, SBU. Tân phát xít Vadim Troyan được Bộ Nội Vụ phong chức cảnh sát trưởng Kiev.

Các tiểu đoàn cánh hữu của Vệ Binh Quốc Gia, được nhiều nhà tài phiệt tài trợ và đóng vai trò quan trọng trong cuộc nội chiến, tìm cách can thiệp trực tiếp hơn vào chính trị thông qua các ứng cử viên tham gia vào tranh cử nghị viện. Mặc dù các đảng phát xít công khai nhận được rất ít phiếu bầu, nhưng các chính đảng lớn đã đưa nhiều thành viên cực hữu vào danh sách đề cử của họ. Một đại diện nổi bật là Yuri Bereza, thủ lĩnh của tiểu đoàn Dnepr khét tiếng, vốn phải chịu trách nhiệm về hàng loạt các vi phạm nhân quyền. 

Bereza được bầu vào nghị viện theo danh sách đề cử của đương kim thủ tướng Arseniy Yatsenyuk. Với vai trò là thành viên mới của nhóm lớn nhất trong nghị viện, ông ta tuyên bố ngay sau cuộc bầu cử là tiểu đoàn của ông ta sẽ chuẩn bị các cuộc tấn công khủng bố vào Nga. Dựa vào những lực lượng như vậy, và sự hậu thuẫn của Washington, Berlin và NATO, Kiev đang chuẩn bị tái diễn các tấn công quân sự ở miền đông.

Thursday, November 6, 2014

Ba nguyên tắc chi tiêu ngân sách của bộ trưởng Vinh

Trước đây cũng khá lâu, bác Giao có yêu cầu bình luận về phát biểu của bộ trưởng bộ kế hoạch đầu tư Nguyễn Quang Vinh trong bài "Bộ trưởng Kế hoạch-Đầu tư: Việt Nam vi phạm ba nguyên tắc trụ cột", bình luận qua comment thì sẽ quá dài nên phải viết một bài riêng cho bác Giao.

Hoàn cảnh của cuộc tranh luận về ngân sách

Trước hết nếu chỉ nhìn vào bài báo đó thì không thể bình luận nhiều, cần phải nhìn vào bối cảnh lịch sử của Việt Nam để hiểu tại sao có bài báo đó.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam mấy năm gần đây đang chậm lại, nguồn thu ngân sách bị giảm sút trong khi đó các khoản phải chi lại phình ra rất nhanh. Kế hoạch tăng lương đã phải hoãn hai năm, chính phủ thậm chí đã phải phát hành trái phiếu để đảo nợ. Thu chi ngân sách trở thành vấn đề nóng bỏng tại diễn đàn Quốc Hội. 

Ngân sách thì có rất nhiều cơ quan tiêu nhưng giải trình về ngân sách trước Quốc Hội thì chỉ có hai bộ là Bộ Tài Chính (BTC) và Bộ Kế Hoạch-Đầu Tư (BKHĐT). Song hai bộ này cũng chỉ nắm chung về chi tiêu và đầu tư, họ không nắm được chi tiêu của các bộ khác và các địa phương. Ngân sách cũng là vấn đề phức tạp, dưới Luật Ngân Sách Nhà Nước thì còn có 300 văn bản khác. Đa phần các đại biểu cũng không bao quát hết được vấn đề ngân sách.

Tuy cùng phải giải trình về vấn đề ngân sách trước Quốc Hội song quan điểm của BTC và BKHĐT lại đối chọi nhau. Điều này dẫn đến bài phát biểu của bộ trưởng Vinh.

Gần đây nhất hai bộ này đã trực tiếp đối thoại với nhau về ngân sách là trong cuộc hội thảo về Kế Hoạch và Đầu Tư ở Đà Nẵng vào ngày 7.8.2014. Trong cuộc hội thảo đó đại diện của BKHĐT đã nói về việc xây dựng kế hoạch đầu tư trung hạn, còn đại diện của BTC nhấn mạnh việc ưu tiên chi cho cải cách tiền lương và an sinh xã hội.

Mới đây, chủ tịch Quốc Hội đã phát biểu về vấn đề chi ngân sách, nhấn mạnh việc phải thực hiện cải cách tiền lương, trong khi bộ trưởng BTC muốn ưu tiên trả nợ và chi cho quốc phòng. 

Chưa đầy hai tuần sau, bộ trưởng Vinh đã phát biểu về ba trụ cột kinh tế của quản lý ngân sách, quan điểm của BKHĐT là giảm chi thường xuyên, giảm chi an sinh xã hội và gia tăng chi đầu tư phát triển. BTC cũng đã nhanh chóng đưa ra quan điểm của mình. BTC một lần nữa nhấn mạnh việc chi cho an sinh xã hội là dựa trên các nghị quyết của Quốc Hội và chính phủ. Một điểm đáng chú ý là BTC đã đề cập đến vấn đề phải xiết lại việc lập dự toán đầu tư, tức là công việc của BKHĐT.

Nguyên tắc kinh tế nào?

Về nguyên tắc kinh tế, dựa trên kinh tế học thì chỉ có hai loại quan điểm. Quan điểm của trường phái Keynes là nhà nước có thể can thiệp vào thị trường để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngược lại theo quan điểm của phái tân cổ điển thì nhà nước nên hạn chế can thiệp vào thị trường, chỉ nên can thiệp để sửa chữa các khuyết tật của thị trường.

Thu chi ngân sách về bản chất là liên quan chặt chẽ đến nhau, không thể tách rời việc thu riêng và chi riêng. Ví dụ như tăng chi lương chẳng hạn, thì cũng có nghĩa là khoản thu từ thuế thu nhập và thuế giá trị gia tăng cũng tăng lên, do vậy phải tính toán cân đối cả thu và chi. Khoa kinh tế học gộp hai vấn đề đó lại thành chính sách tài khóa.

Phái Keynes khuyến khích nhà nước chi tiêu để điều tiết nền kinh tế do vậy chính sách tài khóa là vấn đề trọng tâm của họ. Một người theo phái Keynes, giáo sư kinh tế học Warron Smith đã đúc kết nguyên tắc về chính sách tài khóa là: "Quy tắc tốt nhất là ngân sách không bao giờ nên cân bằng, trừ một khoảnh khắc khi thay đổi từ dư thừa để chống lạm phát sang thâm hụt để chống suy thoái". Còn các đại biểu của phái tân cổ điển thì thường dẫn quan điểm ngắn gọn của người sáng lập ra khoa kinh tế chính trị cổ điển, Adam Smith: "Ngân sách tốt duy nhất là ngân sách cân bằng"

Khoản 1 điều 8 Luật Ngân Sách Nhà Nước năm 2002 ghi rõ: Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách.

Bàn về ba nguyên tắc của bộ trưởng Vinh

Nguyên tắc trong trường hợp này chỉ có hai loại, một là dựa trên lý thuyết kinh tế, hai là dựa trên luật.

Về vi phạm nguyên tắc thứ nhất, "tăng chi cho lương cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Đây là vi phạm nguy hiểm, bởi ở các nước chỉ tăng lương khi năng suất lao động tăng, hiệu quả lao động tăng lên thì được bù đắp.". Khoa kinh tế học chưa bao giờ chứng minh được lương tương ứng với năng suất lao động. Khoa kinh tế học cho rằng lương là do cung và cầu về lao động quyết định. Doanh nghiệp thuê lao động dựa trên nguyên tắc lương bằng giá trị sản phẩm biên của lao động, tức là không chỉ liên quan đến năng suất lao động của lao động, mà còn phụ thuộc vào giá cả của sản phẩm đầu ra và công nghệ sản xuất. Khoa kinh tế chính trị học Marx-Lenin thì coi lương là giá cả của sức lao động, nên cũng không liên quan đến năng suất lao động. Khoa kinh tế chính trị học cổ điển thì còn có quy luật sắt về tiền lương, như của Malthus, tức là theo quy luật thị trường thì lương thực tế luôn chỉ bằng mức tối thiểu đủ sống. Còn về mặt thực tiễn thì doanh nghiệp không bao giờ áp dụng tăng lương bằng tăng năng suất lao động, nguyên tắc được áp dụng phổ biến là tỷ lệ tăng lương nhỏ hơn tỷ lệ lạm phát.

Vi phạm nguyên tắc thứ hai, tốc độ tăng cho chi an sinh xã hội cao hơn tốc độ tăng thu ngân sách, mất cân đối ngayChi an sinh xã hội là nhu cầu bức xúc quan trọng của mọi quốc gia nhưng dù muốn thế nào thì muốn, nhu cầu an sinh xã hội rất lớn phải cân đối, phải thấp hơn tốc độ thu về ngân sách.

Vi phạm nguyên tắc thứ ba là trong quy luật kinh tế quy định tốc độ tăng chi cho phát triển phải cao hơn tốc độ tăng chi thường xuyên, để tiến lên nếu ngược lại thì khó khăn.

Tôi đã tra cứu các loại sách giáo khoa về kinh tế học và không tìm thấy nguyên tắc thứ hai và thứ ba của bộ trưởng ở bất cứ chỗ nào, có lẽ đó là loại nguyên tắc cao cấp chỉ dành riêng cho các chuyên gia cao cấp chăng?

Nếu đối chiếu với quy định của khoản 1 điều 8 của luật NSNN thì nguyên tắc số 2 và 3 của Bộ trưởng Vinh chỉ là những trường hợp cụ thể của quy định ấy. Lý do là cả chi lương, chi an sinh xã hội đều thuộc về khoản chi thường xuyên. Hãy lấy quy tắc thứ 3 để xem xét, tốc độ tăng chi thường xuyên phải thấp hơn tốc độ tăng chi phát triển, điều đó có nghĩa là tốc độ tăng chi thường xuyên phải thấp hơn tốc độ tăng thu ngân sách, vì chi thường xuyên cộng với chi đầu tư phát triển chính bằng tổng chi. Nhưng ngay cả khi tốc độ tăng chi thường xuyên lớn tốc độ tăng thu ngân sách thì tốc độ tăng chi đầu tư phát triển vẫn có thể lớn hơn nhờ bội chi theo luật NSNN. Xét quy tắc thứ hai, khi tốc độ tăng chi thường xuyên được duy trì thấp hơn tốc độ tăng thu ngân sách, đương nhiên theo logic đơn giản thì các cấu thành của chi thường xuyên, như  tốc độ chi an sinh xã hội phải thấp hơn tốc độ tăng thu ngân sách, nhưng ngay cả trong trường hợp đó thì chi an sinh xã hội vẫn có thể có tốc độ cao hơn tốc độ thu ngân sách nếu tốc độ gia tăng của các khoản khác thuộc về chi thường xuyên giảm đi. 

Trong bài báo bộ trưởng nêu rõ là Việt Nam đang gặp rắc rối vì không tuân thủ ba nguyên tắc này, nhưng suy nghĩ kĩ hơn một chút sẽ thấy áp dụng cả ba nguyên tắc này thì Việt Nam cũng không tránh khỏi rắc rối. Các khoản chi cho lương, an sinh xã hội đều nằm trong khoản chi thường xuyên. Trong thực tế sẽ xảy ra tình huống các nguyên tắc đó tạo sức ép lên nhau, ví dụ tuân thủ nguyên tắc thứ ba, giữ tốc độ tăng chi phát triển lớn hơn tốc độ tăng chi thường xuyên mà năng suất lao động tăng nhanh buộc phải tăng lương đẩy tốc độ tăng chi thường xuyên vượt quá tốc độ chi phát triển thì lúc đó không biết sẽ phải hy sinh nguyên tắc nào. Nếu có thể hy sinh nguyên tắc này để chọn nguyên tắc khác thì ba nguyên tắc đó không thể là nguyên tắc mà chỉ có thể là tùy chọn.

Tại sao quan điểm của Bộ trưởng Vinh được ủng hộ?

Quan điểm của bộ trưởng Vinh là gia tăng chi đầu tư phát triển để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chi đầu tư phát triển là những khoản chi như sau: chi xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, chi hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước và góp vốn vào doanh nghiệp, chi dự trữ nhà nước. Bộ trưởng Vinh vốn chỉ nắm được khoản chi xây dựng cơ sở hạ tầng còn hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước và góp vốn lại thuộc BTC, dự trữ nhà nước thì do Tổng Cục Dự Trữ quản lý trong đó khoản dự trữ lớn nhất là ngoại tệ lại do Ngân Hàng Nhà Nước nắm. Với các dự án cơ sở hạ tầng thì đương nhiên là doanh nghiệp có lợi, xét trên phương diện kinh tế vĩ mô thì cơ sở hạ tầng tốt sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí sản xuất, xét trên phương diện trực tiếp thì các doanh nghiệp sẽ được nhận thầu thêm các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng mới. Trong bối cảnh kinh tế trì trệ thì quan điểm của bộ trưởng Vinh sẽ được nhóm doanh nghiệp công nghiệp và xây dựng ủng hộ mạnh mẽ. 

Song vấn đề nằm ở chỗ, Việt Nam đã từng sử dụng chính sách tài khóa theo kiểu Keynes trước đây không lâu. Vào năm 2008 khi thế giới bị chìm trong cuộc khủng hoảng tài chính do nợ dưới chuẩn của Mỹ gây ra, chính phủ Việt Nam đã tung ra gói kích thích tài khóa trị giá 8 tỷ USD. Cho đến nay chưa có bất cứ nghiên cứu nào đánh giá tác động của gói kích thích kinh tế đó. Những năm tiếp theo Việt Nam đã phải chứng kiến mức lạm phát kinh hoàng và tình trạng các doanh nghiệp đua nhau đầu cơ làm rối loạn thị trường. Hiện nay trong chính phủ không còn nhiều người nhắc đến kích thích tăng trưởng kinh tế bằng chính sách tài khóa nữa. Từ sau cuộc chạy đua lãi suất của hệ thống ngân hàng năm 2012, chính sách tiền tệ đã bắt đầu có tiếng nói nhất định đối với việc ổn định kinh tế vĩ mô.

Điều đáng chú ý hơn trong bài phát biểu của bộ trưởng Vinh.

Đó là đoạn cuối bài:

Bộ trưởng Bùi Quang Vinh kể rằng, Quốc hội từng yêu cầu ông phải trả lời câu hỏi những dự án nào không hiệu quả, kém hiệu quả. Để làm việc này, Bộ Kế hoạch đã gửi công văn đến tất cả các địa phương thì nhận được phản hồi là "dự án nào cũng hiệu quả". “Tôi hỏi tiêu chí nào là hiệu quả thì các ông ấy bảo không hiệu quả chỗ này thì hiệu quả chỗ khác”, Bộ trưởng chia sẻ.

Những người làm quản lý doanh nghiệp đều thuộc lòng câu cách ngôn của nhà kinh tế học Peter Drucker "Không thể quản lý khi thiếu đo lường". Câu chuyện của bộ trưởng Vinh cho thấy BKHĐT hoàn toàn không có chuẩn mực để đo lường hiệu quả dự án. Việc bộ hỏi các địa phương là vô ích vì thứ nhất họ sẽ không biết dựa trên tiêu chí nào để trả lời BKHĐT. Thứ hai là cho dù có được đầy đủ báo cáo của các địa phương thì BKHĐT cũng chẳng thể làm gì vì mỗi báo cáo ấy sẽ theo một chuẩn mực khác nhau và không thể nào tổng hợp vào một báo cáo để phân tích hay đánh giá. Chỗ này làm tôi nhớ đến câu khen của một người bạn khi phải chứng kiến tình trạng tương tự ở nhiều bộ ngành: "Thế mà Việt Nam vẫn quản lý được mới tài!". 

Tuesday, November 4, 2014

Hoa Kỳ và Châu Âu tiếp tục đe dọa sau cuộc bầu cử của phe nổi dậy ở Ukraina

Ngay sau cuộc bầu cử nghị viện của chính quyền Ukraina, các khu vực nổi dậy đã tổ chức các cuộc bầu cử của riêng họ. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "US, Europe issue new threats after elections in Ukraine’s separatist regions" của tác giả Andrea Peters để biết thêm chi tiết các cuộc bầu cử tại khu vực nổi dậy. Tiêu đề do người dịch đặt.

Hoa Kỳ, Châu Âu đưa ra những đe dọa mới sau cuộc bầu cử tại khu vực của phe nổi dậy ở Ukraina 

Tổng thống Ukraina Petro Poroshenko và các lãnh đạo phương Tây đã lên án các cuộc bầu cử được tổ chức vào ngày chủ nhật tại Cộng Hòa Nhân Dân Donetsk (DPR) và Cộng Hòa Nhân Dân Luhansk (LPR). Các cuộc bầu cử mang lại thắng lợi cho các lãnh đạo thân Nga tại cái nôi của khu vực nổi dậy ở đông nam Ukraina. Washington, Đức và Liên Minh Châu Âu đã ngay lập tức tuyên bố các cuộc bầu cử đó là phi pháp.

Aleksandr Zakharchenko và Igor Plotnitsky, những người đang phục vụ trong vai trò thủ tướng tự phong của DPR và LPR sau khi có sự thay đổi về lãnh đạo trong lực lượng nổi dậy vào tháng 8, đã thắng cử với 79% và 64% tổng số phiếu bầu. Các khối nghị viện liên minh với các lãnh đạo này cũng có chiến thắng cần thiết trong một cuộc bầu cử ở các khu vực đã đề cập.

Sau khi tuyên bố các cuộc bầu cử là một “trò hề” vào chủ nhật, tổng thống Ukraina kêu gọi một cuộc hội đàm cấp cao với lãnh đạo an ninh và quốc phòng vào thứ hai để “tái đánh giá tình hình” tại khu vực đông nam của người nổi dậy. Cơ quan an ninh Ukraina lên án cuộc bầu cử là sự “tiếm quyền”.

Kiev ra hiệu cho thấy sự sẵn sàng của họ trong việc tiếp tục các tấn công quân sự vào khu vực dựa trên lý do cuộc bầu cử ngày 2 tháng 11 đã vi phạm thỏa thuận hòa bình mong manh được ký với những người nổi dậy vào tháng 9.

Khoảng 4,000 người đã bị giết hại trong cuộc nội chiến và hơn nửa triệu người trở phải chạy tị nạn. Cơ sở hạ tầng khu vực Donbass đã bị phá hủy khốc liệt bởi các cuộc tấn công và cắt giảm hay tước đoạt các dịch vụ thiết yếu đối với cư dân còn lại. 

Các cư dân đã không nhận được lương hưu từ chính phủ trung ương, và nợ lương rất phổ biến. Hiệp định ngừng bắn đã liên tục bị vi phạm, với các cuộc tấn công liên tiếp vào các trung tâm dân sự và các đụng độ quy mô nhỏ giữa người nổi dậy và quân đội Ukraina.

Theo như hãng thông tấn Nga ITAR-TASS đưa tịn, kèm theo kế hoạch đã tuyên bố nhằm bãi bỏ luật đảm bảo quyền tự chủ giới hạn cho khu vực Donbass, Poroshenko đang kêu gọi Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế ủng hộ các nỗ lực tái lập kiểm soát của họ đối với khu vực nêu trên và đề xuất biến khu vực đó thành khu vực tự do thương mại.

Lên án và đe dọa của Poroshenko đã được các quyền lực phương Tây hưởng ứng. Trong những ngày trước cuộc bầu cử chủ nhật, thủ tướng Đức Angela Merkel đã khẳng định các cuộc bầu cử ở DPR và LPR là vô giá trị. Từ đó, chính quyền của bà ta đã chỉ trích quyết định “tôn trọng” kết quả bầu cử của Nga, mổ tả chúng là “kém hiểu biết”. Berlin đang tuyên bố họ đã loại bỏ mọi trở ngại đối với các biện pháp trừng phạt đã được áp đặt để trả đũa sự ủng hộ của Nga đối với những người nổi dậy. 

Hoa Kỳ và Liên Minh Châu Âu cũng đã từ chối công nhận các cuộc bầu cử, giám đốc chính sách đối ngoại EU Federica Mogherini coi chúng là “bất hợp pháp và vi hiến”.

Vào thứ hai, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ mô tả cuộc bầu cử ngày chủ nhật ở DPR và LPR là “đáng xấu hổ”. Cho thấy rõ rằng họ đã chuẩn bị sử dụng cuộc bầu cử để kích động sự đối đầu mới với Kremlin, Bộ Ngoại Giao đe dọa, “Nếu Nga tiếp tục lảng tránh những đóng góp của họ [để tôn trọng luật bầu cử Ukraina] và tiếp tục gây bất ổn cũng như các hoạt động nguy hiểm, cái giá mà Nga phải gánh chịu sẽ gia tăng.” 

Những đe dọa đối với Nga đến cùng với tin tức cho biết Ba Lan, một thành viên NATO, với ý định tái tập hợp quân đội chủ chốt trong thời gian tới, đã chuyển hàng ngàn quân tới biên giới phía đông của họ. “Tình hình địa chính trị đã thay đổi. Chúng tôi có một cuộc khủng hoảng an ninh lớn nhất kể từ Chiến Tranh Lạnh và chúng tôi phải phác thảo các kết luận từ đó”, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Tomasz Siemoniak nói với hãng thông tấn AP vào cuối tháng 10.

Việc Hoa Kỳ và Châu Âu lên án các cuộc bầu cử ở DPR và LPR là bất hợp pháp cũng như vi hiến hoàn toàn đạo đức giả. Các thế lực phương Tây quyết định những cuộc bầu cử nào được thừa nhận hay phủ nhận chỉ dựa trên lợi ích đế quốc của họ. 

Cuộc đảo chính cực hữu do Hoa Kỳ và Đức hậu thuẫn đã lật đổ tổng thống dân cử Viktor Yanukovych vào tháng hai vừa qua được hoan nghênh như là một thắng lợi của dân chủ. Cuộc bầu cử nghị viện tháng trước ở Ukraina được thể hiện như một chiến thắng dân chủ khác, mặc dù nó đưa một nhóm theo chủ nghĩa quốc gia và phát xít mới đến quyền lực, để dùng bạo lực áp đặt các biện pháp thắt lưng buộc bụng bị căm ghét theo yêu cầu của phương Tây.

Dựa trên các tính toán chiến lược của họ, Đức và Hoa Kỳ đã nhiều lần công nhận “sự hợp hiến” của nhiều khu vực ly khai, có thể kể tên một số như Croatia, Slovenia, Bosnia và Kosovo, dẫn đến các cuộc nội chiến đẫm máu tước đoạt mạng sống của hàng chục nghìn người.

Cuộc bầu cử diễn ra vào chủ nhật ở đông nam Ukraina không hề ít hợp hiến hơn cuộc bầu cử nghị viện quốc gia diễn ra trong tuần trước đó, trong đó số người đi bỏ phiếu chỉ hơn 52%, giảm so với tất cả các cuộc bầu cử nghị viện trước đây. Tại những khu vực mà dân chúng được coi là thù địch với chính quyền Kiev, tỷ lệ tham gia bỏ phiếu thấp hơn 30%, với đa số người bỏ phiếu lựa chọn khối đối lập. 

Ủy Ban Bầu Cử Trung Ương của LPR khẳng định tổng số người bỏ phiếu đạt gần 60%. Do người bỏ phiếu xếp hàng quá dài tại các điểm bỏ phiếu nên họ tiếp tục mở cửa điểm bỏ phiếu thêm 2 giờ. Ngay cả các bản tin ở phương Tây cũng buộc phải công nhận dấu hiệu sự tham gia phổ biến của dân chúng, bao gồm đám đông tại các điểm bỏ phiếu.

Cư dân địa phương được báo chí phỏng vấn không bày tỏ sự nhiệt tình đối với các lãnh đạo nổi dậy của DPR hay LPR mà bày tỏ sự phẫn nộ về bạo lực chính quyền Kiev đối với họ. Một bản tin trên tờ Guardian mô tả “một đám đông khổng lồ tại trường học số 13, một trong ba điểm bỏ phiếu được mở trong thành phố [Ilovaysk]”, ở đó “cư dân nói họ bỏ phiếu cho một ‘tương lai hòa bình’”. 

“Valentina, một tiểu thương 61 tuổi ở Ilovaysk, nói bà đã phải trú ẩn 23 ngày dưới hầm cùng với vài tá người khác, và bị các tiểu đoàn quân tình nguyện Ukraina đe dọa, những người đó cố gắng sử dụng bà và những người khác làm lá chắn sống cũng như ăn cắp điện thoại di động và các của cải khác”, bản tin cho biết.

Tổ chức Theo Dõi Nhân Quyền mới công bố một điều tra chi tiết cáo buộc quân đội Ukraina về việc sử dụng các đầu đạn chùm đã bị cấm trong các cuộc tấn công ở khu vực đông nam.

Tại DPR, quan chức địa phương cho biết có hơn một triệu cử tri trong tổng số ba triệu cư dân đủ điều kiện tham gia bỏ phiếu đi bầu cử. Mặc dù vậy, tỷ lệ bỏ phiếu khó có thể đánh giá, do cuộc khủng hoảng tị nạn và sự thật là nhiều cử tri đủ điều kiện về mặt kỹ thuật đang sống trong các khu vực thuộc sự kiểm soát của quân đội Ukraina. Bỏ phiếu trực tuyến là lựa chọn của những người này, mặc dù không rõ là có bao nhiêu nhiêu người sử dụng lợi thế đó. Các điểm bỏ phiếu cũng được thiết lập gần các tỉnh Rostov, Voronezh, Belgorod của Nga để phục vụ cho người tị nạn trong khu vực.

Tổ Chức An Ninh và Hợp Tác Châu Âu (OSCE), thường theo dõi các cuộc bầu cử, đã từ chối gửi các đại diện tới khu vực đông nam Ukraina để quan sát cuộc bầu cử. Việc chắp vá các lực lượng cánh hữu và giả cánh tả ở Châu Âu và Hoa Kỳ tạo thành các quan sát viên bầu cử và báo cáo không có vi phạm bầu cử chính yếu. Các cá nhân đó, bao gồm các thành viên đảng phái chính trị và chính quyền ở Hy Lạp, Pháp, Serbia, và mọi nơi khác, đã bị báo chí lên án là những quan sát viên bầu cử “dỏm” và bị chính quyền Kiev tuyên bố là “khách không mời” của quốc gia. Họ bị đưa vào “sổ đen”.

Theo các quan chức của DPT và LPR, người thắng cử ở DPR Aleksandr Zakharchenko đã giành được chức thủ tướng với 765,000 phiếu, trong khi Plotnitsky ở LPR đảm bảo chiến thắng với 445,000 phiếu. Các đối thủ của họ tụt xa phía sau. Aleksandr Kofman, phó chủ tịch Quốc Hội Novorossiya, đơn vị chính trị thống nhất của DPR và LPR, giành được 10% số phiếu bầu trong cuộc đua với Zakharchenko. Tại LPR, vị trí thứ hai thuộc về thủ lĩnh công đoàn Oleg Akimov, người giành được 15,5% tổng số phiếu bầu.

Các khối chinh trị liên kết với các lãnh đạo nổi dậy cũng đã thắng lợi dễ dàng trong cuộc đua vào nghị viện. Đảng Cộng Hòa Donetsk giành được 662,750 phiếu bầu ở DPR. Đảng Hòa Bình Luhansk áp đảo hoàn toàn đối thủ Liên Minh Kinh Tế và Liên Minh Nhân Dân Luhansk, họ giành được gần 70% số phiếu bầu.

Theo các bản tin, năm chính đảng đã bị loại khỏi cuộc bầu cử do những lý do kỹ thuật, trong đó có Đảng Cộng Sản. Mặc dù vậy, đâu đó có đưa tin ra Đảng Cộng Sản mới được thành lập trong khu vực ủng hộ việc lựa chon Zakharchenko.

Cần phải thấy rằng những người nổi dậy thân Nga đang kiểm soát DPR và LPR có sự ủng hộ của dân chúng, họ đã thu được điều đó dựa trên những lời hứa về cải thiện xã hội và triển khai các chương trình phúc lợi. Một sự pha trộn những người theo chủ nghĩa quốc gia Nga, vô chính phủ và bảo thủ cánh hữu sẽ gắn bó với nhiều lớp của tầng lớp cai trị ở Moscow, họ dùng hoài niệm về quá khứ Soviet để chống đỡ cho chính phủ còn non nớt của họ. 

Saturday, June 14, 2014

Washington thúc đẩy các căng thẳng đang gia tăng trên Biển Đông

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài báo "Washington drives escalating tensions in South China Sea" của Joseph Santolan, bài viết cung cấp một góc nhìn khác về vai trò của Hoa Kỳ trong các tranh chấp trên Biển Đông.

Hoa Kỳ đang thúc ép cả Philippine và Việt Nam đối đầu với Trung Quốc trên biển Nam Trung Hoa như là một phần trong “chuyển trục sang châu Á”, nhằm chôn vùi Bắc Kinh và củng cố sự kiểm soát của Hoa Kỳ đối với khu vực.

Vào thứ hai, phó đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, Vương Minh, đã trình tuyên cáo lập trường lên Tổng Thư Ký Ban Ki-moon, trong đó ông ta yêu cầu loan tin tới Đại Hội Đồng. Văn bản cáo buộc Việt Nam thường xuyên quấy rối một dàn khoan của Công Ty Dầu Đại Dương Quốc Gia Trung Quốc mà Bắc Kinh triển khai vào ngày 1 tháng 5 tại vùng biển cách 32 km về phía tây của quần đảo Hoàng Sa đang có tranh chấp trên biển Nam Trung Hoa

Bắc Kinh khẳng định rằng các tàu của Việt Nam đã đâm tàu của Trung Quốc 1,416 lần, thêm vào đó Hà Nội đã sử dụng “người nhái” tiếp cận dàn khoan từ dưới nước và giăng lưới cũng như rải các vật cản để cản đường đi của tàu Trung Quốc.

Văn bản khẳng định rằng những hành động đó là “sự xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền tài phán và pháp lý của Trung Quốc, đe dọa nghiêm trọng tới sự an toàn của các nhân viên Trung Quốc và dàn khoan HSSY 981, và xâm phạm trắng trợn các luật pháp quốc tế có liên quan”. Văn bản cũng kêu gọi đàm phán song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam để giải quyết vấn đề.

Trong một đáp trả khiêu khích, Quốc Hội Việt Nam thông báo vào thứ ba rằng họ thông qua một ngân sách trị giá 762 triệu dollar để đóng thêm các tàu cảnh sát biển(*). Vào thứ tư, Hà Nội đã đệ trình tuyên cáo lập trường đáp lại Bắc Kinh lên Liên Hiệp Quốc, yêu cầu Trung Quốc “rút tàu ra khỏi lãnh hải Việt Nam và chấm dứt mọi hoạt động quấy rầy an toàn và cũng như an ninh hàng hải, và tôn trọng an ninh cũng như hòa bình khu vực”.

Washington đang sử dụng căng thẳng giữa Hà Nội và Bắc Kinh để thúc ép Việt Nam đưa đòi hỏi về lãnh thổ của Trung Quốc tại biển Nam Trung Hoa ra Tòa Hòa Giải Quốc Tế về Luật Biển (ITLOS) tại Hague, cùng với vụ kiện của chính quyền Philippine vào ngày 30 tháng 3.

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố vào cuối tháng 5, trong một cuộc họp với thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Ben Cardin, một thành viên của Ủy Ban Quan Hệ Quốc Tế, rằng Hà Nội đã “chuẩn bị và sẵn sàng cho hoạt động pháp lý… Chúng tôi đang cân nhắc thời điểm thích hợp nhất để thực hiện biện pháp này.” Ông cũng khẳng định rằng Việt Nam mong đợi “Hoa Kỳ có những đóng góp rõ ràng hơn, hiệu quả hơn vào hòa bình và ổn định khu vực.”

Suốt tuần qua, chính quyền Philippine của tổng thống Benigno Aquino khẳng định rằng Trung Quốc đã triển khai một số máy nạo vét và tàu kéo để nạo vét đáy biển cũng như phun cát và đá lên năm đảo san hô ở phía bắc quần đảo Trường Sa, mở rộng diên tích mặt đất lên 9 ha. Manila phỏng đoán rằng Bắc Kinh đang xây dựng một sân bay và có ý định sử dụng sân bay này để tuyên bố Khu Vực Xác Thực Phòng Không (ADIZ) trên biển Nam Trung Hoa.

Washington sử dụng những cáo buộc này để gia tăng sức ép lên Trung Quốc. Trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ về quan hệ Đông Á và Thái Bình Dương Daniel Russel nói vào ngày thứ ba, “Có nhiều bản tin báo chí về các hoạt động trên biển Nam Trung Hoa, như sự cải tạo đang diễn ra và… xây dựng trên quy mô lớn các vị trí tiền đồn vượt qua mức mà một cá nhân có lý trí có thể khẳng định là phù hợp với việc duy trì hiện trạng”.

Với giọng điệu đạo đức giả trắng trợn, Russel, người phát ngôn cho chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ, tiếp tục, “sự ép buộc và đe dọa vũ lực như là cơ chế để thỏa mãn đòi hỏi lãnh thổ đơn giản là không thể chấp nhận.

Washington thường sử dụng ép buộc và đe dọa vũ lực để thỏa mãn các lợi ích của họ, và thậm chí dẫn đến chiến tranh, không chỉ trên biển Nam Trung Hoa mà còn tại hàng loạt các điểm nóng quanh địa cầu. Bình luận của Russel diễn ra chỉ trong vòng hai tuần sau khi Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Chuck Hagel phát biểu tại Singapore, phác thảo sự chuẩn bị quân sự của Hoa Kỳ và đồng minh tại khu vực.

Yếu tố chủ chốt trong các cáo buộc chống lại việc “xây dựng đảo” của Bắc Kinh là lo ngại của Manila và Philippine cho rằng điều này có thể ảnh hưởng tới vụ kiện của Manila tại ITLOS.

Vào ngày 3 tháng 6, tòa hòa giải đưa ra Quy Tắc Thủ Tục số 2, yêu cầu Bắc Kinh cho tới ngày 15 tháng 12 phải nộp bị vong lục phản kháng trong vụ kiện của Manila. Bắc Kinh trả lời bằng một thông cáo ngoại giao, lặp lại sự từ chối tham gia vụ kiện.

Vụ kiện của Manila tại ITLOS được Washington lôi kéo và thuyết phục, nhằm mục đích vô hiệu hóa các đòi hỏi của Bắc Kinh trên biển Nam Trung Hoa.

Russel diễn giải các câu hỏi của vụ kiện ITLOS vào tháng 2, khẳng định rằng Hoa Kỳ cho rằng “mọi tranh chấp lãnh hải phải được xuất phát từ đặc điểm đất đai và mặt khác phải phù hợp với luật quốc tế về biển… các đòi hỏi ở biển Nam Trung Hoa mà không xuất phát từ đặc điểm đất đai về căn bản là sai lầm”.

Paul Reichler, cộng sự của hãng luật Hoa Kỳ Foley Hoag và chịu trách nhiệm tư vấn cho vụ kiện tại ITLOS của Philippine, phát biểu tại Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế (CSIS) ở New York, cho rằng kiện Trung Quốc ở Hague sẽ biến Bắc Kinh thành “kẻ ngoài vòng pháp luật quốc tế”, và Bắc Kinh sẽ có “một cái giá đắt phải trả”.

Đòi hỏi lịch sử của Manila đối với các hòn đảo và lãnh thổ có vẻ như yếu hơn của Bắc Kinh. Điều đó cho thấy tại sao Manila không đưa ra kiện tranh chấp lãnh thổ, mà là tranh chấp biển theo Công Ước Quốc Tế về Luật Biển (UNCLOS), dựa trên các vùng biển tranh chấp chứ không phải các hòn đảo. Họ lập luận rằng tranh chấp phải được phán xét tiên quyết dựa trên sự gần gũi về bờ biển chứ không phải là các đòi hỏi có tính lịch sử.

Yếu tố cốt lõi trong đòi hỏi của Manila, theo đó trạng thái của các vùng đất trên biển Nam Trung Hoa là đá không phải là đảo, và là đối tượng của pháp lý về biển chứ không phải là lãnh thổ. Đòi hỏi này đối mặt với thực tế là Manila có một đơn vị hành chính chính thức trên đảo Pag-asa tại Trường Sa, tại đó có 300 thường dân, một trường tiểu học và 40 binh lính. Tuy nhiên, lập luận pháp lý đã củng cố cho sự phản đối của Manila đối với việc nạo vét và xây dựng của Bắc Kinh tại phần phía bắc quần đảo Trường Sa.

Russel ủng hộ ranh giới của Manila vào ngày 12 tháng 6, kêu gọi các bên tranh chấp đưa ra một “đảm bảo đơn giản như không chiếm đóng bất cứ dạng đất nào hiện chưa bị chiếm đóng trên biển Nam Trung Hoa”. Bắc Kinh rõ ràng là mục tiêu của tuyên bố này.

Các phán xét nhân đạo giả tạo giúp đế quốc Hoa Kỳ can thiệp vào Lybia, Syria hay Ukraina không dễ dàng để áp dụng trong tranh chấp lãnh hải, nơi không có ảnh hưởng trực tiếp đến dân chúng, và điều rõ ràng trên nguyên tắc là xung đột về lợi ích kinh tế của các quốc gia tham gia tranh chấp.

Washington đang tìm cách thúc đẩy vụ đối đầu với Trung Quốc dựa trên khái niệm “tự do giao thông hàng hải”, và làm vậy để vô hiệu hóa các đòi hỏi lãnh thổ của Bắc Kinh tại tòa án quốc tế. Washington thúc ép cả Philippines lẫn Việt Nam lôi kéo Trung Quốc vào trò chơi nguy hiểm bên bờ vực hải chiến trên biển Nam Trung Hoa, và sau đó đệ đơn kiện tại ITLOS dựa trên những tranh chấp đó.

Sự đột phá của chiến dịch này là tạo ra một cái cớ hợp pháp cho chiến tranh.

Washington cùng lúc cũng tiến hành các sự chuẩn bị quân sự cần thiết. Vào cuối tháng tư, Washington ký một thỏa thuận với Manila để đóng quân không giới hạn trên khắp lãnh thổ Philippines. Họ cũng đang có các đàm phán với Hà Nội để đậu các tàu chiến Hoa Kỳ tại vịnh Cam Ranh.

Chú thích của người dịch: (*) Tác giả bài báo nhầm lẫn về khoản ngân sách 16.000 tỷ đồng mà Quốc Hội Việt Nam mới thông qua, ngân sách đó không chỉ dành cho việc đóng tàu cảnh sát biển mà còn được sử dụng để hỗ trợ ngư dân đóng tàu vỏ sắt và trang bị cho lực lượng kiểm ngư. Khoản hỗ trợ đóng tàu vỏ sắt cho ngư dân lên tới 10.000 tỷ đồng, chiếm gần 2/3 ngân sách đã được phê duyệt.

Friday, May 23, 2014

Chính phủ Obama xác nhận quyền lực chiến tranh không giới hạn mà không cần sự cho phép của Quốc Hội

Chính quyền Hoa Kỳ đã vứt bỏ chiếc lá nho - sự chấp thuận của Quốc hội, để trần truồng bước vào các cuộc chiến tranh bất tận, điều đáng chú ý là họ viện dẫn mục II Hiến pháp Hoa Kỳ để biện minh cho việc tiến hành chiến tranh không có bất cứ giới hạn nào, cũng như giết hại người dân Mỹ ở bất cứ đâu trên thế giới mà không cần xét xử. Xin mời bạn đọc bản dịch bài viết "Obama administration asserts unlimited war powers without Congressional authorization" của Joseph Kishore để biết thêm chi tiết.

Trong phiên điều trần trước Quốc hội vào thứ tư, các quan chức hàng đầu của chính quyền Obama đã xác nhận rằng tổng thống có quyền lực chiến tranh không giới hạn mà thậm chí không cần đến chiếc lá nho – sự ủy quyền của Quốc hội.

Phát biểu trước ủy ban quan hệ đối ngoại của thượng viện, các quan chức chính quyền – phó chủ tịch cố vấn pháp luật của bộ ngoại giao Mary McLeod và luật sư trưởng của bộ quốc phòng Stephen Preston – tuyên bố rằng các vụ tấn công của máy bay không người lái, triển khai quân lính cũng như các chiến dịch chiến tranh khác của chính quyền Obama không bị ràng buộc bởi Sự ủy quyền về Sử dụng Lực lượng Quân sự năm 2001 (AUMF).

Hơn một thập kỷ qua, AUMF đã trở thành sự che đậy cho tất cả những hoạt động bất hợp pháp và vi hiến của các chính quyền Bush và Obama – xâm lược quân sự, giam giữ không giới hạn (gồm cả ở Guatanamo Bay), tra tấn và ám sát bằng máy bay không người lái. Quốc hội đang cân nhắc chỉnh sửa hoặc chấm dứt AUMF trong một nỗ lực chuyển giao những hoạt động này sang một nền tảng cố định hơn.

Trong diễn biến tra vấn của các thượng nghị sĩ về tương lai của AUMF, McLeod và Preston khẳng định rằng, theo quan điểm của chính phủ, trong thực tế không AUMF không tạo thành bất cứ quyền lực bổ sung nào cho phía hành pháp ngoài những quyền đã tồn tại trong mục II của Hiến pháp Hoa Kỳ - một sự khẳng định về quyền lực hành pháp không giới hạn.

Preston đã khai, “Tôi không nhận thấy bất cứ nhóm khủng bố ngoại quốc nào thể hiện một mối đe dọa đối với đất nước này mà tổng thống thiếu thẩm quyền để chống lại đơn giản bởi vì điều đó không được quy định bởi AUMF. Nếu một nhóm thể hiện một mối đe dọa, tổng thống có thẩm quyền tiến hành chống lại mối đe dọa đó.”

Khi thượng nghị sĩ cộng hòa Bob Corker hỏi tổng thống có thể tiếp tục “tiến hành các hoạt động chống khủng bố mà ông ấy đang tiến hành hiện nay” hay không trong trường hợp AUMF bị hủy bỏ, McLeod trả lời, “Có, tôi tin rằng ông ấy có thể.”

“Hoa Kỳ có thẩm quyền nhằm vào các cá nhân, bao gồm cả người Mỹ, những người tạo thành mối đe dọa tiềm tàng tấn công đất nước của chúng ta,” McLeod bổ sung (bổ sung nhấn mạnh).

Trong ngôn ngữ của các luật sư chính quyền, “tiềm tàng” đã bị định nghĩa lại để diễn tả những điều kiện vô nghĩa này. McLeod không nói việc giết hại người Mỹ có thể diễn ra trong phạm vi Hoa Kỳ hay không. 

Một báo cáo trên tờ Rolling Stone về buổi điều trần ghi nhận: “Khi thượng nghị sĩ Tim Kaine (D-Virginia) hỏi ‘cái gì mà [tổng thống] không thể làm nếu không có AUMF’, Preston không đưa ra câu trả lời ngay tức thì. Sau đó Kaine hỏi nếu Hoa Kỳ có thể tiếp tục giam giữ tù nhân tại vịnh Guantanamo không khi AUMF bị hủy bỏ. Preston lảng tránh; McLeod bổ sung rằng Hoa Kỳ có thể tiếp tục giam giữ tù nhân ‘đến chừng nào mà chúng ta còn có xung đột vũ trang với Al Qaeda.’”

“Tôi nghĩ có thể nói thẳng rằng có hay không có AUMF, để gia hạn sự ủy quyền sử dụng lực lượng quân đội chống lại Al Qaeda, và Taliban, cùng những lực lượng liên kết khác mà chúng ta có xung đột vũ trang … tổng thống có thẩm quyền về mặt hiến pháp để hành động,” Preston nói.

Khi được hỏi phía hành pháp có đơn phương tấn công bất cứ quốc gia nào bị coi là “chứa chấp” khủng bố, mà không cần sự chấp thuận của Quốc hội, hay không, McLeod trả lời, “Chúng tôi phải nghĩ xem các cá nhân trong quốc gia đó hay trong chính phủ của quốc gia đó có tạo thành một nguy cơ tiềm tàng hay không.” Điều đó cho thấy, phía hành pháp sẽ có sự cân nhắc nội bộ và quyết định xem có nên bắt đầu một cuộc chiến dựa vào định nghĩa của họ về “sự tiềm tàng”.

McLeod bổ sung rằng trong quan điểm của chính phủ thì họ có thẩm quyền bắt đầu cuộc chiến chống lại Syria mà không cần sự cho phép của Quốc hội dựa vào những khẳng định không chắc chắn về việc sử dụng vũ khí hóa học (trong một cuộc nội chiến) hồi năm ngoái. Trong cuộc nội chiến của Syria, chính là Hoa Kỳ chứ không phải chính phủ Syria đã liên minh trực tiếp với Al Qaeda và các “lực lượng liên kết” của họ.

Buổi điều trần vào ngày thứ tư là một phần trong cuộc tranh luận nội bộ của giới chính trị về việc đánh giá một cuộc chiến thường trực. Điều trần trước ủy ban hoạt động vũ trang của thượng viện cách đây khoảng một năm, trợ lý bộ trưởng quốc phòng Michael Sheehan đã lập luận rằng UMF tạo cho chính quyền một quyền lực chiến tranh hầu như không giới hạn ở bất cứ đâu trên thế giới, bao gồm cả trong phạm vi Hoa Kỳ. Ông ta bổ sung thêm rằng thẩm quyền chiến tranh sẽ tiếp tục vô điều kiện “ít nhất là 10 đến 20 năm”.

Do đó, theo Sheehan vào lúc ấy, tiến hành các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái hay các cuộc chiến khởi sự trong tương lại không bị ràng buộc bởi sự ủy quyền thêm nữa của Quốc hội, chừng nào mà các chiến dịch quân sự có thể kết nối theo cách nào đó với Al Qaeda hay các “lực lượng liên kết” của họ - một cụm từ không xuất hiện trong AUMF. Sheehan đặc biệt dẫn chứng vụ đánh bom Boston Marathon mới đây để mở rộng “chiến trường” tới Hoa Kỳ.

Sau đó trong cùng tháng, Obama đã đọc một diễn văn tại học viện quốc phòng, đề cập tới việc phòng thủ với sự ám sát bằng máy bay không người lái. Lần đầu tiên, Obama công khai thừa nhận rằng ông ta đã ra lệnh giết Anwar al-Awlaki, một công dân Hoa Kỳ. Khi tuyên bố rằng “Hoa Kỳ đang ở ngã tư đường,” Obama nói rằng chính phủ của ông ta dự định “lôi kéo Quốc hội” về AUMF để “xác định xem chúng ta có thể tiếp tục chiến đấu chống khủng bố mà không phải giữ Hoa Kỳ trong trạng thái thời chiến thường trực như thế nào.”

Lời khai của McLeod và Preston làm rõ rằng chính quyền trong thực tế tìm kiếm một cơ chế để ủng hộ chiến tranh thường trực, ám sát bằng máy bay không người lái, cũng như các hoạt động cộng tác bất hợp pháp trong phạm vi các quyền lực hợp hiến của tổng thống.

Cơ sở pháp lý này cho hàng sa số những chế độ độc tài tổng thống đã trở thành nền tảng trong những bản ghi nhớ được tạo ra bởi cả chính quyền Bush và Obama. Phó tổng thống dưới thời Bush Dick Cheney và các luật sư của ông ta trong một nỗ lực đặc biệt lập luận rằng AUMF về cơ bản là thừa, một thủ tục, và khả năng tra tấn cũng như giết hại là từ mục II của Hiến pháp.

Các lập luận pháp lý giả tạo đã được tiếp tục và mở rộng dưới thời Obama, đặc biệt là khi chúng liên quan tới sự ám sát phi pháp. Vào thứ tư, thượng viện Hoa Kỳ bỏ phiếu 52-43 để mở đường cho việc chấp thuận bổ nhiệm của Obama đối với vị trí tại Tòa thượng thẩm khu vực số 1, David Barron. Barron là tác giả của bản ghi nhớ vẫn còn bí mật được tạo ra để biện minh cho vụ giết hại al-Awalaki và các công dân Hoa Kỳ khác mà không thông qua xét xử. 

Cuộc bỏ phiếu vào thứ tư hầu như theo đảng phái, với đảng Dân chủ bỏ phiếu thuận và đảng Cộng hòa bỏ phiếu chống. Bởi vì sự thay đổi quy định của thượng viện vào năm ngoái, bỏ phiếu thủ tục để chấp thuận chỉ đòi hỏi một đa số đơn giản, không phải là đa số tuyệt đối với 60 phiếu.

Nhằm tạo điều kiện cho việc chấp nhận, chính quyền tuyên bố vào thứ ba rằng họ sẽ ngừng các nỗ lực ngăn chặn giải mật theo lệnh của tòa án một trong số những bản ghi nhớ mà Barron tạo ra trong thời kỳ tại nhiệm ở văn phòng pháp lý của bộ tư pháp từ năm 2009 đến năm 2010. Sự giải mật này, Nhà Trắng đã tuyên bố, sẽ diễn ra tại một số thời điểm không xác định trong tương lai.

Lời hứa của chính quyền là đủ để làm hài lòng sự chỉ trích trong nội bộ đảng dân chủ. Thỏa hiệp cơ bản của họ với đòi hỏi quyền hành pháp không giới hạn của Nhà Trắng được thượng nghị sĩ Ron Wyden tổng kết, ông ta đã tuyên bố sau khi bỏ phiếu cho đề cử Barron được đi tiếp: “Tôi tin rằng mọi người Mỹ có quyền được biết nếu chính quyền của họ tin rằng có quyền giết hại họ.”

Cuộc bỏ phiếu xác nhận hoàn toàn cho Barron sẽ diễn ra hôm nay.

Saturday, April 12, 2014

Quốc Hội sai thì ai xử?

Mới đây ông chủ tịch Quốc Hội lại có một phát ngôn bất hủ: "Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai". Có lẽ trong lúc vội vàng, ông chủ tịch Quốc Hội đã nhầm lẫn, Quốc Hội là cơ quan lập pháp tối cao của nhà nước vốn chỉ đại diện cho nhân dân chứ không phải là nhân dân. 

Đại diện của nhân dân sai thì nhân dân có thể xử lý, ít nhất là bằng lá phiếu bầu, cứ 5 năm một lần nhân dân sẽ phán xét mọi chuyện Quốc Hội làm là đúng sai hay hiệu quả thế nào, và phán xét từng đại biểu một.

Tại nhiều nước trên thế giới người ta có thể giải tán Quốc Hội ngay giữa nhiệm kỳ để bầu cử lại nếu xét thấy Quốc Hội đó không đáp ứng được yêu cầu của nhân dân. Việt Nam chưa có cái lệ ấy, nhưng đã có tiền lệ là các đại biểu Quốc Hội có thể bị truất quyền đại biểu ngay trong nhiệm kỳ nếu vi phạm pháp luật, ví dụ như trường hợp của bà đại biểu Quốc Hội Đặng Thị Hoàng Yến. Vì vậy, minh bạch hóa quá quy trình làm luật và thông qua các chủ trương lớn của quốc gia, gắn với trách nhiệm cá nhân điều hoàn toàn có thể làm được.

Có lẽ Việt Nam có một đặc điểm khác với nhiều nước trên thế giới mà ít người để ý, đó là Đảng lãnh đạo. Đa số tuyệt đối đại biểu Quốc Hội là Đảng viên, thế nên nếu Quốc Hội làm sai thì Đảng có thể kỷ luật Đảng viên là đại biểu Quốc Hội và như vậy cũng là một cách kỷ luật Quốc Hội. 

Nhiều người sẽ ngạc nhiên khi đại biểu Quốc Hội hỏi về việc nếu Quốc Hội làm sai thì có kỷ luật ông chủ tịch Quốc Hội không. Câu hỏi ấy có lý của nó. Xét về mặt tổ chức, chủ tịch Quốc Hội không phải là người đứng đầu Quốc Hội, cũng chỉ là một đại biểu Quốc Hội như mọi đại biểu khác. Nhưng xét về mặt Đảng, chủ tịch Quốc Hội là có một ghế trong Bộ Chính Trị, cơ quan lãnh đạo cao cấp của Đảng, tức là có vị trí cao hơn các đại biểu khác rất nhiều. Trên bàn họp Quốc Hội tiếng nói của chủ tịch Quốc Hội với đại biểu cũng là tiếng nói của ủy viên bộ chính trị với các Đảng viên. Đó chính là vấn đề mà câu hỏi vô tình đề cập tới. 

Xét theo lẽ tự nhiên nếu Quốc Hội không làm tròn chức trách của mình thì bất cứ khi nào nhân dân dân cũng có thể giải tán Quốc Hội để bầu Quốc Hội khác. Cho dù có tiền lệ hay không có tiền lệ, thì đó là điều không thể tránh khỏi. Tốt hơn hết là Quốc Hội tự lựa chọn cách kỷ luật thay vì để nhân dân ra tay, bởi vì khi đó chỉ có một hình thức kỷ luật duy nhất.  


Friday, March 14, 2014

Chomsky: Từ Hiroshima tới Fukushima, Việt Nam tới Fallaujah, quyền lực nhà nước lảng tránh tác hại hàng loạt của nó.

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài phát biểu của giáo sư ngôn ngữ học Noam Chomsky, người có những quan điểm độc đáo về chính trị và quan hệ quốc tế, tại lễ tưởng niệm 3 năm thảm họa nhà máy điện hạt nhân Fukushima tại Tokyo Nhật Bản.

Amy Goodman: Chúng ta kết thúc lễ tưởng niệm 3 năm thảm họa Fukushima với bài phát biểu của nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng thế giới, nhà ngôn ngữ học, tác giả sách, giáo sư đại học MIT Noam Chomsky, người đã đến Tokyo tuần qua. Noam Chomsky đã 85 tuổi. Ông gặp mặt những người sống sót, bao gồm cả các gia đình đã được sơ tán. Cuộc gặp gỡ của chúng tôi được kênh truyền hình độc lập trực tuyến OurPlanet-TV ghi hình. Đây là phát biểu của giáo sư Chomsky ở Nhật Bản.

Noam Chomsky: Những gì đã diễn ra ở Nhật Bản thật khủng khiếp, với những trải nghiệm kinh khủng và duy nhất mà chúng ta không muốn nhắc tới. Và tất nhiên, cực kỳ khủng khiếp đối với trẻ em, chúng vô tội và không có khả năng tự bảo vệ mình. Đáng tiếc là điều đó luôn xảy ra. Tôi muốn nói rằng, tôi có hai đứa con gái-khi chúng bằng tuổi của con gái các bạn, sau khi ở trường học về đã kể rằng chúng được dạy phải trốn dưới gầm bàn nếu có chiến tranh hạt nhân. Đó là thời điểm ngay sau cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, thế giới đã đến rất gần một cuộc chiến tranh hạt nhân. Lũ trẻ đã rất bối rối. Tôi muốn nói rằng, lũ trẻ vốn là bạn của những gia đình biết chắc chắn họ không bao giờ sống sót nếu thế giới bị phá hủy bởi chiến tranh hạt nhân. Nhưng nguồn chính thống nói: "Đừng lo ngại, mọi thứ đều được kiểm soát." Sự thật là như vậy đấy-chúng tôi đã ngừng cho con gái uống sữa khi chúng khi đó, do các nhà khoa học lo ngại, khẳng định rằng nồng độ cao của chất strontium-90 trong sữa là do các thử vũ khí hạt nhân ở Mỹ gây ra, rất nhiều vụ thử ngoài trời. Chính phủ đảm bảo với mọi người rằng đó không phải là vấn đề, nhưng chúng tôi-rất nhiều người như chúng tôi, đã ngừng cho trẻ em uống sữa, chỉ cho chúng uống sữa bột, được sản xuất từ trước khi có những vụ thử vũ khí hạt nhân.

Điều đó luôn diễn ra. Ngay như bây giờ, ví dụ Fallujah, một thành phố ở Iraq, bị quân Mỹ tấn công bằng thứ vũ khí mà không ai biết đến, nhưng nó gây ra mức độ phóng xạ cao. Các nghiên cứu của bác sĩ Iraq và Mỹ cho thấy tỷ lệ ung thư rất cao ở trẻ em của thành phố Fallujah, cao hơn rất nhiều so với trước đó. Nhưng chính quyền Mỹ đã phủ nhận. Chính quyền Iraq không đoái hoài tới. Các tổ chức quốc tế từ chối xem xét. Chỉ có các tổ chức độc lập và các nhóm dân sự gánh vác.

Đó là điều diễn ra ở mọi nơi. Tôi muốn nhắc tới, vào năm 1961 Mỹ tiến hành chiến tranh hóa học ở Việt Nam, miền Nam Việt Nam, chiến tranh hóa học đã phá hủy mùa màng và thú nuôi. Việc đó diễn ra suốt bảy năm. Mức độ độc hại-họ đã dùng chất gây ung thư mạnh nhất được biết tới: dioxin. Chuyện đó kéo dài nhiều năm. Hậu quả rất khủng khiếp ở miền Nam Việt Nam. Nhiều trẻ em bị dị dạng, dị dạng kinh hoàng, được sinh ra tại các bệnh viện ở Sài Gòn. Chính quyền từ chối điều tra. Họ chỉ điều tra tác động đối với các lính Mỹ, nhưng không điều tra tác động đối với người Việt Nam ở miền Nam. Hầu như không có nghiên cứu nào ngoài các nghiên cứu của các nhóm dân sự độc lập.

Hết trường hợp này đến trường hợp khác, đó là một câu chuyện kinh khủng, và đặc biệt kinh khủng đối với các bạn vì các bạn phải chịu đựng nó. Nhưng các chính quyền thì hành động theo cách này: Họ bảo vệ mình trước công dân của họ. Các chính quyền tin rằng công dân là kẻ thù chính và họ phải-tự bảo vệ. Do đó mà có những luật về bí mật. Công dân không được biết những gì mà chính quyền làm với họ. Ví dụ cuối cùng, trước khi Edward Snowden tiết lộ bí mật, lãnh đạo cơ quan tình báo quốc gia James Clapper đã khai trước trước Quốc Hội là liên lạc điện thoại của người Mỹ không bị theo dõi. Một lời dối trá ngoài sức tưởng tượng. Nói dối Quốc Hội là tội ác: có thể bị phạt nhiều năm tù. Không chỉ là lời nói. Chính quyền đang nói dối công dân của họ.

Amy Goodman: Tác  giả sách và giáo sư MIT Noam Chomsky, phát biểu trong chuyến đến thăm Tokyo tuần qua. Chân thành cảm ở OurPlanet-TV. Các bạn có thể truy cập website để theo dõi ba ngày tin tức của chúng tôi từ Tokyo, Nhật Bản, tại democracynow.org.