Showing posts with label Bức Tường Berlin. Show all posts
Showing posts with label Bức Tường Berlin. Show all posts

Saturday, October 25, 2014

Tại sao Bức Tường Berlin sụp đổ?

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch blog bài viết "Humpty-Dumpty and the fall of Berlin’s wall" của tác giả Victor Grossman, một nhà văn nhà báo người Mỹ sống ở Đức lâu năm, viết về Bức Tường Berlin. Tiêu đề do người dịch đặt.

Humpty-Dumpty và sự sụp đổ của bức tường Berlin

“Humpty-Dumpty sat on a wall, Humpty-Dumpty had a great fall.”

Dịch nghĩa: Humpty-Dumpty ngồi trên tường, Humpty-Dumpty ngã đau.
[Chú thích của người dịch: Humpty-Dumpty là hai anh em sinh đôi hình quả trứng trong truyện "Alice ở xứ sở kỳ diệu"] 

Câu đồng dao của trẻ em với từ cùng vần “wall” [tường] và “fall” [ngã] gợi nhắc đến lễ kỷ niệm sự sụp đổ của Bức Tường Berlin – mới được bắt đầu. Có phải là sự ám chỉ phù phiếm? Có thể. Đối với hàng triệu người thì sự kiện 25 năm trước đây được ghi nhớ với sự phởn phơ thực sự và có thể hiểu được. Nhưng sự quảng cáo rùm beng bất tận của truyền thông Đức, từ tuần này qua tuần khác ngay trước lễ kỷ niệm, và kế hoạch cho 8.000 bóng đèn heli được thắp sáng bởi 60.000 cục pin trên 10 dặm dọc theo dấu vết bức tường, hiện ra trong buổi tối cùng với tiếng kèn chiến thắng, tiếng chuông nhà thờ hân hoan hay những thứ tương tự trong khi Angela Merkel, Lech Valesa, Mikhail Gorbachov, cựu thị trưởng của Berlin và các ngôi sao giải trí khác hướng mắt lên bầu trời, có thể chứng minh cho cách tiếp cận khác của tôi.

Sau khi Bức Tường bị phá vỡ vào ngày 9 tháng 11 năm 1989, thứ nhanh chóng sụp đổ trong những tháng sau đó làm hiện ra những quả trứng kỳ dị được nhắc đến trong cuộc phiêu lưu của Alice. Đó là một thể chế hơn bốn mươi năm tuổi tự xưng là Cộng Hòa Dân Chủ Đức (GDR). Để tiếp tục mượn ám chỉ về dạng trứng, một thứ cần được giải thích: Nó sụp đổ bởi vì nó hoàn toàn sai lầm? Nó bị đẩy từ phía bên ngoài hay từ cả hai phía? Và sự sụp đổ đơn giản phản ánh cuộc cách mạng thắng lợi của một dân tộc trong việc đòi tự do – hay là vấn đề phức tạp hơn? Điều này vẫn còn phù hợp đối với những cuộc nổi dậy tương tự đã và đang diễn ra.

Tại sao GDR sụp đổ? Trái với hàng sa số những hình ảnh tồi tệ mà nó khởi đầu sau năm 1945, nó được tạo nên từ hy vọng và mơ ước của một nhóm nhỏ những người sống sót dưới thời phát xít Hitler, một số ở nơi lưu vong trên khắp các lục địa, một số khác trong trại tập trung và nhà tù của phát xít. Những người đàn ông và đàn bà đó đã quyết định tạo ra một nước Đức mới – hay ít nhất là một phần của nước Đức – từ chối chủ nghĩa phát xít và những thế lực đằng sau nó: Bayer và BASF (của I.G. Farben), những doanh nghiệp đã giúp phát xít xây dựng và điều hành Auschwitz, Siemens, Krupp và Flick, những doanh nghiệp đã lạm dụng hàng trăm ngàn lao động đói khát trong các trại tập trung cũng như cưỡng bức người lao động từ khắp các nước Châu Âu – và Ngân Hàng Đức, kẻ đã cung cấp tài chính cho hành trình đẫm máu ấy. Bất chấp việc họ bại trận, một lần nữa, những thế lực ấy không bao giờ ngừng kế hoạch phục hồi, tiếp tục bành trướng và đã tái tạo lại bản thân. Nhưng không phải ở Đông Đức, nơi những kế hoạch đó bị cản trở và nhà máy của họ bị quốc hữu hóa. Đó là hành động cực kỳ quan trọng của GDR, hành động không bao giờ được tha thứ, cho đến ngày nay. 

Những nhà hoạt động đầu tiên, đối mặt với hàng triệu người góa bụa, mồ côi, bực bội, bị đầu độc lý tưởng hay vẫn nhiễm tư tưởng phát xít, đã mời gọi những nhà văn, nghệ sĩ, giáo sư, nhà biên kịch, chuyên gia về điện ảnh chống phát xít lỗi lạc nhất giúp họ thay đổi tâm trạng và định kiến, ít nhất là ở Đông Đức. Trong số những người hưởng ứng có Bertolt Brecht, Hanns Eisler, Anna Seghers, Ernst Buch, Arnold Zweig, Heinrich Mann (người chết trước khi kịp trở về). Những người khác, như Hans Fallada, đã tiếp tục ở lại Đức nhưng đối đầu với chủ nghĩa phát xít. Những người này và các học trò của họ, đã tạo ra các vở kịch, bản nhạc, phim, tác phẩm văn chương tiến bộ để đưa đến người xem trên khắp thế giới. Ở đây cũng vậy, hoàn toàn trái ngược với tình hình ở phần nước Đức bên kia sông Elbe, chủ nghĩa phát xít bị đuổi ra khỏi lớp học, phòng văn chương, đồn cảnh sát và ghế của quan tòa.

Mặc dù khởi đầu với một đống hoang tàn đổ nát, một nền công nghiệp tan hoang phải gánh 95% chi phí tái thiết nước Đức và luôn bị thị trường thế giới phân biệt đối xử, GDR đã vất vả xây dựng một nền kinh tế mới đáng nể - một nền kinh tế phi lợi nhuận. Hoàn toàn thiếu hụt các tài nguyên tự nhiên nhưng ngành công nghiệp sắt thép đã được xây dựng, các nhà máy đóng tàu, nông trang thương mại, đường ống dẫn nước và máy công cụ, đã xuất hiện ở những khu vực như Mecklenburg, sau hàng thế kỷ chìm trong bóng tối trung cổ. Tất cả những điều đó không cần đến Kế Hoạch Marshall cũng như không có các kỹ sư và quản lý phát xít do họ đã bỏ trốn. 

Dần dần, đặc biệt là sau khi dòng chất xám ngừng chảy một cách liên tục và có tổ chức sang phương Tây nhờ Bức Tường Berlin, hàng tiêu dùng đã được đầu tư nhiều hơn. Mức sống cao ngang tầm thế giới đã đạt được, gần như mọi hộ gia đình có tủ lạnh, ti vi màu, máy giặt. Hơn một nửa hộ gia đình sở hữu ít nhất một chiếc ô tô nhỏ, mặc dù giao thông công cộng giá rẻ được mở rộng. 

Trong 40 năm, trái ngược với câu chuyện nực cười về sự xấu xa, nước Đức nhỏ đã giải quyết được nhiều vấn đề mà hiện giờ vẫn khiến nhiều quốc gia phải điên đầu. Với một khoản thuế nhỏ đáp ứng được mọi loại bảo hiểm y tế, kế hoạch hóa gia đình với phá thai, chăm sóc trẻ em, trại nghỉ hè, hoạt động văn hóa thể thao cho thanh niên và người già. Giáo dục hoàn toàn miễn phí, học bổng đáp ứng được chi phí sinh hoạt cơ bản nên không ai cần vay nợ, việc làm được đảm bảo sau khi tốt nghiệp. Phụ nữ có thể làm việc - với mức lương bình đẳng; hơn 90% làm việc. Điều tuyệt vời nhất là không có thất nghiệp, tịch biên tài sản bị cấm ngặt, không có ai phải lo sợ về ngày mai – hay năm tới. Vẫn còn nhiều thứ phải hoàn thiện, nhiều sai lầm xuất hiện, thường xuyên thiếu một vài hàng hóa tiêu dùng dẫn đến những câu chuyện cười đùa bất tận – rất nhiều giận dữ. Mặc dù vậy, sự nghèo khổ hoàn toàn đã bị xóa sổ. Ở đâu trên thế giới này đã làm được điều đó? 

GDR phải cạnh tranh với một trong những nền kinh tế phồn vinh nhất thế giới, Tây Đức. Nó không bao giờ có thể đáp ứng bước thay đổi nhanh chóng của những doanh nghiệp cạnh tranh không ngừng thăng trầm gây mất việc làm và phá hủy các kế hoạch, nhưng tạo ra đều đặn những sản phẩm hiện đại, hợp thời trang - trên hết là toàn các xe hơi tốt. Giống như người dân ở bất cứ đâu, công dân GDR cũng rung động với những quảng cáo hấp dẫn. Nhưng đó là truyền hình của Tây Đức – truyền hình Đông Đức là phi thương mại. Sự ghanh tị lan rộng. Điều đó bị làm tồi tệ thêm bởi khẩu vị thời trang lạc hậu của những người cai trị - và họ cai trị hầu như cho đến khi kết thúc.

Tôi cho rằng hầu hết những người chống phát xít bị lão hóa vẫn tiếp tục hy vọng ban đầu của họ, lý tưởng về chủ nghĩa xã hội. Nhưng khi họ già hơn, được đặt vào trung tâm quyền lực và thường xuyên được bợ đỡ bởi những kẻ xu nịnh, những kẻ luôn bu quanh những nơi quyền lực và đặc quyền xuất hiện, họ đánh mất sự liên hệ với đại đa số quần chúng. Nhiều quyền tự do bị cắt xén, tệ nhất là truyền thông về chính trị thường ngớ ngẩn, cứng nhắc, một chiều và tự ca ngợi bản thân. Như quyền tự do ngôn luận, sau những năm đầu tiên, sự sợ hãi và lo lắng trong nhiều phim Stasi đã hầu như biến mất, ít nhất là về sự kiện tư nhân hay đời thường. Người dân thường nói về điều họ nghĩ - ngoại trừ các cuộc họp công cộng (hay lớp học), họ thường sợ đánh mất cơ hội được khen thưởng hay một chuyến đi sang bên kia Bức Tường nếu họ tỏ ra “thân phương tây”.

GDR có các rạp, nhà hát, rạp ballet tuyệt vời; có nhiều nhóm tốt cho các khẩu vị khác. Hầu hết các phim hay nhất của Hollywood và phương tây được chiếu. Mặc dù cuộc sống đối với nhiều người dường như buồn tẻ, thiếu độc đáo, kìm hãm. Người dân cảm thấy bị giam hãm, thậm chí sau khi số lượng người có thể sang thăm Tây Đức tăng lên, đạt tới vài triệu vào năm 1988. Những người già đã có thể đi sang phía tây một tháng mỗi năm.

Mặc dù hệ thống không bao giờ thuận tiện cho phần lớn lý tưởng về dân chủ, không bao giờ là tuyệt đối. Nhu cầu của người dân thường xuyên được đáp ứng, từ ước muốn và nhu cầu của hai triệu thành viên đảng lãnh đạo, cho tới các báo cáo thường xuyên của cơ quan an ninh quốc gia hay Stasi (một trong số các cơ quan chức năng tích cực) và các túi đầy thư chứa đơn khiếu nại cũng như yêu cầu cá nhân.

Mặc dù vậy, ngày càng có nhiều thanh niên giành được ưu thế, đặc biệt là ổn định kinh tế, hầu như là vậy. Nhiều người yêu thích Vịt Donald, thán phục chàng cao bồi đẹp trai Malboro hay các ngôi sao Hollywood đáng yêu và mơ ước đi trên Cầu Vàng hay đi dưới Cổng Vàng, mà không hề quan tâm tới tình trạng của những người đang phục vụ Những Lời Nói Dối trơ trẽn.

Sự bất mãn tăng lên trong những năm 1980 khi nền kinh tế suy yếu, bị hạ gục bởi tham vọng xây dựng công nghiệp điện tử mà không cần trợ giúp từ bên ngoài, cũng như chương trình nhà ở khổng lồ và đầu tư lớn vào công nghiệp quốc phòng để chạy đua với phía Tây. Những người lãnh đạo trưởng thành chính trị từ thời Stalin không bao giờ học được các đối phó với sự đố kị hay sự bất mãn và sợ cải tổ theo kiểu Gorbachov, nhắc lại rằng Hitler đã nắm quyền nhờ vào bầu cử tự do và nhận thức một cách thiếu chính xác rằng phương Tây đang nhanh chóng sử dụng mở cửa để thúc đẩy “thay đổi chế độ”. Vào năm 1989, khi điều đó thành công ở Hungary và Ba Lan, nhanh chóng “phương tây hóa”, sự bất mãn bùng nổ, và người dân biểu tình ở Berlin, Leipzig, Dresden và những nơi khác.

Đầu tiên, khi Bức Tường được mở, người dân yêu cầu cải tiến GDR, với tự do mới. Nhưng khi Kohl, Brandt và những người khác tham gia, vung lên các sản phẩm được đóng gói tốt, những lời hứa hẹn hợp thời và trên hết là đồng Mark Tây Đức được in đẹp, GDR đã sụp đổ.

Vai trò trong sự thúc đẩy của Vermon Walter, người được George W. Bush gửi tới làm đại sứ ở Tây Đức với nhiệm vụ “làm cho mọi thứ tới nơi tới chốn”, là gì? Buổi sáng sau khi Bức Tường được mở, ông ta tổ chức chuyến bay thị sát Berlin bằng trực thăng cho thủ tướng Kohl, tiếp đó hạ mình “tham gia hành động”. Sau đó, phát biểu một cách tự hào về sự sụp đổ của GDR, ông ta nói “Chúng tôi tới đây bởi vì chúng tôi mạnh. Chúng tôi tới đây bởi vì chúng tôi được quyết định, và chúng tôi tới đây bởi vì chúng tôi bảo vệ quyền tự do lựa chọn số mệnh của người dân”. Walters, người đóng vai trò chủ chốt cùng với Reagan và giáo hoàng John Paul trong việc thay đổi chế độ ở Ba Lan, đã “trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào việc lật đổ nhiều chính quyền khác hơn bất cứ quan chức nào của chính quyền Hoa Kỳ”, trong số đó có vụ lật đổ ở Iran năm 1953, Brazil năm 1964, Chi Lê năm 1973, ngay cả Fiji năm 1987. Đối với sự lựa chọn tự do của người dân, theo quan điểm của ông ta Việt Nam là “một trong cuộc chiến cao quý và vị tha nhất” trong lịch sử Hoa Kỳ.

Không có gì thay đổi ở Đông Đức trong 25 năm. Đó là sự pha trộn. Du lịch và hàng tiêu dùng không tạo ra các vấn đề khác ngoại trừ giá của chúng. Quảng cáo hoành tráng và chương trình truyền hình thương mại hoành tráng, đường phố, quán cafe mới, ngay bên sườn xe bus và xe công cộng. Công nghiệp của GDR đã sớm bị phá hủy, cả những nhà máy cũ cũng như những nhà máy mới hiện đại nhất đều bị đem cầm cố và đóng cửa. Hàng triệu người di cư đến phía tây, nhưng với nước Đức giờ là nền kinh tế mạnh nhất châu Âu thì chỉ có một phần hồi phục; dĩ nhiên là một phần ba người Đông Đức ở trong tình trạng tốt hơn trước, khoảng một phần ba giữ nguyên hiện trạng. Phần còn lại thì kém may mắn. Chăm sóc y tế, mặc dù tốt hơn ở Hoa Kỳ, nhưng bị lung lay dữ dội bởi cú sốc giá, giống như phí dịch vụ và tiền thuê nhà. Trường học tư nhân nở rộ ở khắp nơi cho những người có đủ tiền. Giáo dục cấp cao ngày càng làm ăn khấm khá. Hãng Daimlers và Ngân Hàng Đức cất cánh.

GDR không thay đổi nhiều người quá lớn. Ích kỷ, ghen ghét, thậm chí tham lam khó có thể bị phá hủy hoàn toàn. Nhưng khoảng cách nhỏ giữa người thành công nhiều và thành công ít, trong khi không ai có thể trở thành giàu có bằng cách bóc lột người khác, cơ hội theo đuổi việc làm và chuyên môn của phụ nữ cho phép giảm sự phụ thuộc vào chồng hay ông chủ, sự thật là không có nhóm nào loại bỏ nào nhóm nào dựa trên sự khác biệt về tuổi tác hay nền tảng cũng như cảm giác an toàn về kinh kế có ý nghĩa, như những khảo sát đã chỉ ra, rằng công dân phía đông tính trên mức độ trung bình thân thiện hơn và gần gũi với gia đình cũng như đồng nghiệp hơn.

Tự do đạt được hiện giờ đang được đánh giá đúng. Nhưng các đảng lãnh đạo thiếu trách nhiệm đối những người làm việc bán thời gian, tạm thời cũng như những công việc không ổn định khác, hoặc chả có trách nhiệm gì, thường xuyên dẫn đến sự giễu cợt mới. Hãy nhìn những dạng Tweedle Dee-Tweedle của dân chủ (gợi nhắc đến Alice), nhiều người ngồi ở nhà thay vì đi bầu cử; trong cuộc bầu cử mới đây chỉ có nửa số công dân đi bỏ phiếu. Những người khác đã bỏ phiếu để loại bỏ “người ngoại quốc” – một khuynh hướng nguy hiểm. Khoảng 10%, phần lớn là ở Đông Đức, chống lại mọi cấm kị truyền thông để lựa chọn điều mà họ hy vọng là tốt hơn, đảng Cánh tả.

Nhưng trước viễn cảnh hiện tại về tình trạng đình đốn kinh tế ở châu Âu và nguy cơ của tương lai khó khăn, thắt lưng buộc bụng, một số người Đông Đức ngạc nhiên nếu tin vào mọi lời hứa và từ chối mọi thứ GDR đề xuất, họ đã tạo ra sai lầm đặc biệt 25 năm trước, thêm một lần nữa với Alice, của những con hàu nhỏ khờ khạo ngã gục trước lời mời thân thiện đi dạo với Hải Mã và Người Thợ Mộc đói khát: “Nếu giờ bạn đã sẵn sàng, bạn hàu thân mến, chúng tôi có thể nhồi thức ăn” – “Nhưng không phải cho chúng ta!” con hàu gào lên, chuyển sang màu xanh da trời. “Sau sự tử tế có một điều buồn thảm phải làm!”

Tất cả vấn đề đang diễn ra? Con mèo béo Cheshire đang cười nhe răng khi họ vơ vét nhiều hơn kho báu của thế gian, phá hủy hành tinh theo cách không thể cứu vãn và giành lấy quyền kiểm soát mọi cuộc gọi điện thoại, thư điện tử hay chuyến đi nghỉ ngày chủ nhật ở đồng quê với các sĩ quan Stasi đầy năng lực sẽ được thèm muốn. Khi mối đe dọa của chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản dường như đã bị loại bỏ, họ tìm cách ngăn chặn bất cứ sự đánh giá lại nào đối với năng lực của họ, trong khi đè bẹp mọi dấu hiệu độc lập bằng mưu đồ hay bởi vũ lực, tiến bộ hay không, ở mọi quốc gia.

Điều đó cũng có thể đúng ở Đức, rất nhiều công ty và bạn bè chính trị của họ tiếp tục nhắc nhở với sự run rẩy về một thời đại mà những rào cản phía đông chất đống lên những tài sản khổng lồ và thỏa mãn không giới hạn những khát vọng kinh tế cũng như chiến lược. Chúng ta thấy chúng trong các chương trình học đường, các kênh truyền hình bất tận, các buổi triển lãm, lễ kỷ niệm thường xuyên và các kế hoạch cho tượng đài mới.

Không có kỵ binh và lính hoàng gia nào có thể đặt Humpty-Dumpty hình trứng – hay GDR – lại cùng với nhau. Nhưng ở đó có nỗi sợ hãi hầu như là yếu bóng vía rằng tàn dư, tái hợp của thành quả trong quá khứ, có thể một ngày nào đó sẽ thổi lên hồi còi mới – không phải là khẩu vị của họ. Điều này, tôi tin chắc, là lý do chính cho những bóng đèn trắng lạ lùng và sự rùm beng bất tận.

Thursday, October 23, 2014

Một huyền thoại chống Cộng Sản: Bức Tường Berlin

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài báo "The Berlin Wall: Another Cold War Myth" của tác giả nổi tiếng William Blum về sự thật phía sau Bức Tường Berlin. Tiêu đề do người dịch đặt.

Bức Tường Berlin: Một Huyền Thoại Chiến Tranh Lạnh Khác

Ngày 9 tháng 11 là dịp kỷ niệm lần thứ 25 ngày Bức Tường Berlin sụp đổ. Sự huyên náo cuồng nhiệt đã bắt đầu nhiều tháng trước ở Berlin. Ở Hoa Kỳ, chúng ta có thể tiên đoán rằng tất cả những sáo ngữ thời Chiến Tranh Lạnh về Thế Giới Tự Do đối đầu với Chuyên Chế Cộng Sản sẽ được được tuôn ra ào ạt và câu chuyện cổ tích ngây ngô về bức tường sẽ được nhắc lại: Vào năm 1961, cộng sản Đông Berlin đã dựng một bức tường để ngăn công dân bị đàn áp của họ khỏi trốn sang Tây Berlin và tự do. Tại sao? Bởi vì cộng sản không thích nhân dân tự do hay biết được “sự thật”. Còn lý do nào khác nữa không?

Đầu tiên, trước khi bức tường được dựng lên vào năm 1961 hàng ngàn người Đông Đức vẫn đi làm hàng ngày ở phía Tây và sau đó trở về nhà ở phía Đông vào buổi tối; nhiều người quay lại và tiếp tục mua sắm hay vì lý do khác. Rõ ràng là không có gì ở phía Đông chống lại ý muốn của họ. Tại sao bức tường được dựng lên? Có hai lý do chính:

1) Phía Tây làm phía Đông điêu đứng với một chiến dịch lớn tuyển dụng lao động chuyên môn và lành nghề, những người vốn được đào tạo bằng kinh phí của chính quyền cộng sản. Điều này dẫn tới khủng hoảng lao động và sản xuất nghiêm trọng ở phía Đông. Một trong những ghi nhận về điều đó, tờ New York đưa tin vào năm 1963: “Tây Berlin gánh chịu hậu quả kinh tế từ bức tường khi mất khoảng 60.000 lao động lành nghề, những người đi từ nhà của họ ở Đông Berlin đến làm công việc hàng ngày ở Tây Berlin.”

Cần phải ghi nhận rằng vào năm 1999, tờ USA Today đưa tin: “Khi Bức Tường Berlin sụp đổ [1989], người Đông Đức tưởng tượng về một cuộc sống tự do thừa thãi hàng tiêu dùng và khó khăn bị đẩy lùi. Mười năm sau, 51% nói rằng họ hạnh phúc hơn với chủ nghĩa cộng sản”. Các khảo sát trước đó hơn thậm chí còn cho thấy hơn 51% thể hiện cùng quan điểm, trong mười năm nhiều người trong còn nhớ cuộc sống ở Đông Đức với sự yếu mến đã qua đời; mặc dù vậy mười năm sau nữa, vào năm 2009, tờ Washington Post đã đưa tin: “Người Tây [Berlin] nói rằng họ chán ngấy với xu hướng đánh bóng các hoài niệm về thời cộng sản của những người đồng bào phía đông”. Đó là thời kỳ hậu thống nhất mà câu tục ngữ của nước Nga mới và Đông Âu được khai sinh: “Mọi thứ cộng sản nói về chủ nghĩa cộng sản là dối trá, nhưng mọi thứ họ nói về chủ nghĩa tư bản lại trở thành sự thật”. 

Cũng cần phải ghi nhận thêm rằng sự phân chia nước Đức thành hai quốc gia vào năm 1949 – đánh dấu 40 năm thù địch trong Chiến Tranh Lạnh – là quyết định của Hoa Kỳ, không phải là quyết định của Soviet.

2) Trong những năm 1950, những người hùng chiến tranh lạnh Hoa Kỳ ở Tây Đức đã thiết lập một chiến dịch phá hoại và lật đổ thô thiển chống lại Đông Đức, nhằm phá hoại bộ máy kinh tế và hành chính của nước này. CIA và các cơ quan tình báo khác của Hoa Kỳ cùng với quân đội đã tuyển mộ, trang bị, huấn luyện và tài trợ cho các nhóm hành động và cá nhân người Đức, cả Đông lẫn Tây, để thực hiện các hoạt động từ tội phạm vị thành niên cho tới khủng bố; bất cứ thứ gì gây khó khăn cho cuộc sống của người Đông Đức và làm suy yếu sự ủng hộ của họ đối với chính quyền; bất cứ thứ gì làm cho cộng sản có vẻ xấu xa. 

Đó là những âm mưu đáng chú ý. Hoa Kỳ và các tay sai của họ đã sử dụng chất nổ, phóng hỏa, cắt đường dây điện và những phương pháp khác để phá hoại các trạm điện, bến tàu, kênh, tòa nhà công cộng, trạm xăng, cầu…; họ làm chệch đường ray tàu hàng, gây thương tích nghiêm trọng cho công nhân; đốt cháy 12 toa của một tàu chở hàng và phá hủy nồi hơi của một tàu khác; sử dụng a xít để phá hoại máy móc của các nhà máy phục vụ cho đời sống; bỏ cát vào tua bin của một nhà máy, khiến nó ngừng hoạt động; phóng hỏa một nhà máy sản xuất ngói; kích động lãn công trong các nhà máy; đầu độc chết 7.000 con bò của một hợp tác xã sữa; bỏ xã phòng vào sữa bột cung cấp cho các trường học Đông Đức; bị bắt khi lưu trú, mang theo một lượng lớn chất độc cantharindin với kế hoạch sản xuất thuốc lá độc để giết hại các lãnh đạo Đông Đức; đặt bom bẩn để phá rối các cuộc họp chính trị; âm mưu phá hoại Liên Hoan Thanh Niên Thế Giới ở Đông Berlin bằng cách gửi các giấy mời bị tẩy xóa, lừa dối về chỗ ngủ và đi lại miễn phí, giả các thông báo về thay đổi chương trình… ; thực hiện các vụ tấn công người tham dự với chất nổ, bom cháy, và các thiết bị quấy nhiễu; tẩy xóa và phân phát một số lượng lớn các phiếu khẩu phần ăn gây rối loạn, thiếu hụt và oán giận, tẩy xóa các bản fax thông báo và hướng dẫn khác của chính quyền rồi gửi đi để ly gián tổ chức và vô hiệu hóa các ngành công nghiệp cũng như công đoàn… tất cả những chuyện như vậy và còn hơn nữa. 

Trung Tâm Học Giả Quốc Tế Woodrow Wilson, ở Washington DC, chiến binh chiến tranh lạnh bảo thủ, một trong số các nghiên cứu của họ, Văn Bản Nghiên Cứu Dự Án Lịch Sử Chiến Tranh Lạnh Quốc Tế (#58, trang 9) viết: “Biên giới mở ở Berlin đã đưa đến GDR [Đông Berlin] hàng loạt các hoạt động gián điệp cũng như lật đổ, và theo như hai tài liệu trong phụ lục cho thấy, việc đóng cửa đã giúp cho cộng sản an toàn hơn”.

Suốt những năm 1950, Đông Đức và Liên Bang Soviet thường xuyên đưa các bản kháng với nghị đồng minh trước kia của Soviet ở phía Tây và Liên Hiệp Quốc về hoạt động phá hoại và gián điệp nghiêm trọng cũng như kêu gọi đóng cửa các văn phòng ở Tây Berlin mà họ khẳng định là phải chịu trách nhiệm, họ cũng cung cấp tên và địa chỉ của những văn phòng đó. Các kháng nghị của họ đã bị lờ đi. Không còn cách nào khác, Đông Đức buộc phải đóng các lối vào từ phía Tây, dẫn đến bức tường tai tiếng. Mặc dù vậy, ngay cả khi bức tường đã được dựng lên thì vẫn thường có dòng người di cư hợp pháp tuy có giới hạn từ đông sang tây. Vào năm 1984, Đông Đức cho phép 40.000 người rời khỏi. Vào năm 1985, tạp chí Đông Đức khẳng định hơn 20.000 cựu công dân đã định cư ở phía Tây muốn quay trở về nhà sau khi thất vọng với hệ thống tư bản. Chính quyền Tây Đức nói rằng có 14.300 người Đông Đức đã trở về nhà trong 10 năm trước đó.

Chúng ta đừng quên rằng khi Đông Đức đã tẩy sạch phát xít, ở Tây Đức hơn một thập kỷ sau chiến tranh, các vị trí cao nhất trong chính quyền từ hành pháp, lập pháp cho tới tư pháp vẫn còn hàng sa số các “cựu” phát xít.

Cuối cùng, cần phải nhớ rằng miền đông Châu Âu trở thành cộng sản là do Hitler, với sự chấp thuận của phương Tây, đã dùng họ như là đường cao tốc tiến đến Liên Bang Soviet nhằm xóa sổ vĩnh viễn chủ nghĩa Bôn-sê-vích, và nước Nga trong thế chiến thứ I cũng như thứ II đã tổn thất 40 triệu người bởi phương Tây sử dụng con đường cao tốc này để xâm lược nước Nga. Không có gì ngạc nhiên khi sau thế chiến thứ II Soviet quyết định đóng cửa con đường cao tốc đó.

Một quan điểm bổ sung và rất thú vị về kỷ niệm Bức Tường Berlin, xin hãy xem bài báo “Humpty Dumpty and the Fall of Berlin’s Wall” của tác giả Victor Grossman. Grossman (tên khác là Steve Wechsler) trốn khỏi quân đội Hoa Kỳ ở Đức do những đe dọa thời kỳ MacCarthy, trở thành một nhà báo và nhà văn trong suốt những năm ông ở Cộng Hòa Dân Chủ (Đông) Đức. Ông hiện vẫn sống ở Berlin và gửi đi “Bản tin Berlin” về sự phát triển của Đức trên nền tảng sai lệch. Bạn có thể gửi đăng ký theo dõi vào địa chỉ email Wechsler_grossman@yahoo.de . Tiểu sử của ông: “Crossing the River: a Memoir of the American Left, the Cold War and Life in East Germany” được xuất bản bởi University of Massachusetts Press. Ông khẳng định là mình cá nhân duy nhất trên thế giới có bằng cử nhân của cả đại học Harvard và và đại học Karl Marx ở Leipzig.