Tuesday, March 29, 2016

Ủy viên Bộ Chính Trị và huyền thoại về Hòn Ngọc Viễn Đông

Việt Nam đã tự mình tạo ra một huyền thoại có thật của thời đại. Chỉ trong một thời gian chưa đầy nửa thế kỷ, người Việt Nam đã đánh bại những đế quốc sừng sỏ nhất thời đại để giành độc lập dân tộc, người Nhật phải từ bỏ giấc mơ Đại Đông Á, người Pháp bị đánh bại ở Điện Biên Phủ, người Mỹ bỏ chạy khỏi miền Nam Việt Nam và Trung Quốc không còn dám nhòm ngó biên giới phía Bắc, bên cạnh đó là cuộc chiến 10 năm đánh bại quân Khmer đỏ được cả Trung Quốc, Hoa Kỳ và Anh hậu thuẫn. Việt Nam là một huyền thoại có thật mà tất cả các nước thuộc địa kiểu cũ và mới đều mơ tới.

Những huyền thoại không có thật

Sau nhiều năm thoát khỏi những gian khổ hậu chiến và xây dựng lại đất nước, dường như huyền thoại của chính bản thân đã bị một số người Việt Nam quên lãng và họ dựa vào những huyền thoại mới, không có thật, thậm chí là bôi nhọ và bác bỏ điều thần kỳ thật sự mà người Việt Nam đã làm được.

Một ông bộ trưởng sắp về hưu đã mượn chuyện bịa đặt về một cậu bé Nhật Bản để noi gương cho Việt Nam, mặc dù đó là một câu chuyện ngớ ngẩn. 

Trước đây tại sao TPHCM được gọi là Hòn ngọc Viễn Đông. Nói Singapore là số 1 của khu vực. Hơn 50 năm trước, ông Lý Quang Diệu đã nhìn về Sài Gòn và mơ ước liệu sau này Singapore có được như Sài Gòn không? Thực chất là khi tách ra khỏi Malaysia thì Singapore mới chỉ là một cái làng chài. Do đó, tôi cho rằng khi đã là số 1 thì phải là toàn diện, tổng thể.
Ông bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh kiêm ủy viên Bộ Chính Trị đã nhắc lại một huyền thoại chống cộng nổi tiếng. Không hiểu từ bao giờ đám chống cộng cặn bã đã bịa ra chuyện Lý Quang Diệu nói rằng Singapore từng ao ước được như Sài Gòn, mục đích là để xuyên tạc rằng Sài Gòn dưới thời thuộc địa xưa giàu có trù phú và cộng sản Việt Nam đã phá hủy nó. 
Lee thinks there's some point to buying time with a shield because he believes in the great-man theory of history. And the great man is none other than Lee Kuan Yew, who thinks that because of his own competence and shrewdness Singapore has succeeded where South Vietnam has failed. "If you can find the group of men who could do it," Lee said in Dunster, "Saigon can do what Singapore did." In fact, the prime minister boasted, "If one looked at Saigon and Singapore in 1954, one would have said Singapore was the goner, not Saigon." (in nghiêng thêm vào)

Trong quá khứ, Singapore đã phát triển hơn Sài Gòn rất nhiều, chính trong bài báo vào năm 1967 đã dẫn ở trên, tờ The Crimson đã cho biết thu nhập bình quân đầu người của Singapore vào lúc đó là 500 dollar/năm và Singapore có mức sống cao nhất Đông Nam Á, nên việc Singapore ước ao như Sài Gòn rõ là chuyện hoang đường. Trong bài phát biểu tại Havard vào năm 1967, Lý Quang Diệu chê ngụy quyền Sài Gòn không làm được điều mà Singapore đã làm khi nói rằng: “Nếu ai đó nhìn lại Sài Gòn và Singapore vào năm 1954, họ sẽ phải thừa nhận rằng Singapore dễ sụp đổ hơn nhiều.” Ở đây Lý nói về tình hình chính trị hồi đó. Ông ta cho rằng ngụy quyền Sài Gòn đã có điều kiện chính trị thuận lợi hơn Singapore nhiều vào năm 1954 để duy trì sự độc lập và chống lại cộng sản, nhưng ngụy quyền Sài Gòn không làm được điều ấy. Một câu nói chỉ trích sự thất bại của chính quyền Sài Gòn của Lý Quang Diệu đã bị đám chống cộng xuyên tạc thành câu ca tụng Sài Gòn thời thuộc địa.

Tất nhiên cho dù ông bí thư thành ủy có ngây thơ, không biết rằng đó là một câu chuyện bịa đặt thì cũng chưa phải là vấn đề lớn. Chuyện quan trọng hơn nhiều là lập trường chính trị của một bí thư thành ủy và ủy viên bộ chính trị. 

Về Lý Quang Diệu

Báo chí Việt Nam hiện nay thường hay trích dẫn những điều Lý Quang Diệu nói về Việt Nam mà họ thấy vừa tai, thậm chí một số tờ báo còn gọi Lý là bạn của nhân dân Việt Nam (mặc dù người bạn tốt này thường xuyên ủng hộ đế quốc chia cắt đất nước và ném bom xuống đầu người dân Việt Nam), nhưng họ không bao giờ đưa tin về hoạt động chống phá Việt Nam điên cuồng của ông ta. Thời chiến tranh chống Mỹ, Lý Quang Diệu là kẻ ủng hộ Mỹ triệt để nhất. Singapore không chỉ tham gia cung cấp hậu cần và đạn dược cho quân đội Mỹ, khi Mỹ định ngừng ném bom miền Bắc và rút quân khỏi miền Nam, Lý Quang Diệu đã kêu gọi Mỹ tiếp tục tham chiến ở Việt Nam. Ông ta so sánh Việt Nam với Nam Tư ở Châu Âu và nói rằng nếu Mỹ không can thiệp thì cộng sản Việt Nam sẽ xâm lược hết toàn bộ bán đảo Đông Dương. 

Theo con gái của Lý kể lại thì sau khi chế độ ngụy quyền Sài Gòn sụp đổ, Lý Quang Diệu đã gọi cả gia đình vào phòng ngủ và nói rằng: “Mẹ các con và ta sẽ ở lại đây cho đến sự kết thúc cay đắng. Hiển Long đã tham gia quân đội và phải thực hiện nghĩa vụ. Nhưng cả ba người không bị bắt buộc phải ở lại.” Điều này lý giải thái độ chống phá Việt Nam đến cùng của Lý, ông ta sợ rằng Việt Nam sẽ là hình mẫu để người cộng sản ở Malaysia và Singapore noi theo. 

Sau đó, khi Việt Nam chống lại quân du kích Khmer đỏ ở Campuchia thì Lý cũng công khai ủng hộ Khmer đỏ, ông ta không chỉ tiếp tay cung cấp vũ khí cho chúng mà còn bảo vệ chúng trên truyền thông, phủ nhận mọi tội ác mà Khmer đỏ đã gây ra với người Campuchia cũng như người Việt Nam (chi tiết này được nhà báo nổi tiếng John Pilger nhắc đến trong bài báo xuất sắc Year Zero nói về nạn diệt chủng ở Campuchia). Lý chưa bao giờ là người muốn thấy một nước Việt Nam cộng sản giàu mạnh, ông ta sợ điều đó ảnh hưởng tới chế độ gia đình trị thân phương Tây mà ông ta đã tạo ra ở Singapore. Do vậy, những điều mà Lý nói về Việt Nam đều thiên kiến và rất không đáng tin cậy.

Huyền thoại “Hòn Ngọc Viễn Đông”

Có lẽ các nước thực dân có thói quen gọi thuộc địa của họ ở Châu Á là “Hòn Ngọc Viễn Đông” nên Châu Á có rất nhiều “Hòn Ngọc Viễn Đông”. 

Hong Kong là “Hòn Ngọc Viễn Đông” từ lâu.


Manila của Philippines cũng là “Hòn Ngọc Viễn Đông” từ rất lâu.

Sri Lanka cũng vậy. Thậm chí Sri Lanka còn thường xuyên được so sánh với Singapore vì cùng từng là thuộc địa của Anh, cùng là quốc đảo có vị trí thuận lợi trên con đường biển quan trọng, giành độc lập sớm hơn nhưng lại không phát triển như Singapore.

Đảo Penang của Malaysia cũng được gọi là “Hòn Ngọc Viễn Đông”.

Cả Manila của Philippines và đảo Penang của Malaysia đều bị so sánh với Singapore. Lý Quang Diệu đã từng nói rằng ông ta không hiểu lý do Manila từng rất phát triển vào những năm 1960 rồi sau đó lại suy tàn dưới thời Marcos. Đảo Penang thì gần giống với Singapore và người Malaysia đã hỏi tại sao Singapore phát triển còn đảo Penang thì không. 

Thành phố Hồ Chí Minh không phải là "Hòn Ngọc Viễn Đông" duy nhất ở Đông Nam Á. 

Điều duy nhất mà người ta có thể hy vọng là sau khi nghe ông bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh kiêm ủy viên Bộ Chính Trị phát biểu về "Hòn Ngọc Viễn Đông" các cựu chiến binh không trở về nhà và họp gia đình. 

Wednesday, March 23, 2016

Văn hóa Nhật Bản dưới một góc nhìn khác

Điều đáng phiền lòng ở Việt Nam hiện nay là hầu hết các bài báo về nước ngoài, ví dụ như các bài báo về Nhật Bản đều mang tính tự ti dân tộc, hoặc chỉ để so bì nhằm nhấn mạnh vào nhược điểm của Việt Nam hoặc ca ngợi và sùng bái nước ngoài một cách thái quá, do vậy làm rối loạn nhận thức của người đọc. Dưới góc nhìn khác, góc nhìn của một nhà nghiên cứu nữ phương Tây về nữ quyền trong cuốn “Womansword: What Japanese words say about woman” của Kittredge Cherry do nhà xuất bản Kodansha International tái bản năm 2002 (xuất bản lần thứ nhất năm 1987) thì người ta lại thấy văn hóa Nhật Bản có nhiều nét gần gũi với Việt Nam. Dưới đây là một số mục từ Nhật Bản được trích trong cuốn sách để minh chứng cho điều ấy.

Amaterasu Omikami: Đại Thiên Quang Mẫu

Vào ngày đầu tiên của năm mới, một số người Nhật Bản sẽ thức giấc sớm để ngắm mặt trời nhô lên khỏi chân trời, nhắc họ nhớ về nguồn gốc. Nữ thần mặt trời, Đại Thiên Quang Mẫu (Amaterasu Omikami), là mẹ tổ tiên của tất cả người Nhật Bản và là vị thần tối cao trong thần thoại Shinto. Shinto là một trong số ít tôn giáo trên thế giới coi mặt trời là nữ giới. Theo thần thoại đầu tiên được ghi nhận vào khoảng 1.300 năm trước đây, Amaterasu đã trao cho cháu trai của bà tấm gương, thanh kiếm và đồ trang sức hình cây đào lộn hột, cho đến nay vẫn được ca tụng là “Ba Bảo Vật Linh Thiêng”, sau đó gửi cậu xuống sinh sống ở “Miền Đất Đồng Bằng Đầy Lau Sậy và Lúa Mới Trổ Bông”, khởi đầu với Nhật Bản. Hoàng đế hiện tại có liên quan phả hệ trực tiếp với nữ thần mặt trời, tạo thành sự kế thừa không ngắt quãng dài nhất thế giới.

Amaterasu và tấm gương linh thiêng của bà được thờ cúng tại thần điện Shinto linh thiêng nhất, Đại Điện Ise. Đại Điện này rất cổ, nguồn gốc của nó vẫn gây ra sự tranh cãi của giới học giả; tờ rơi của Đại Điện khẳng định rằng nó được nữ hoàng Yamato-hime-no-Mikoto xây dựng vào thế kỷ thứ 4 trước Công Nguyên. Không giống với đa số các điện thờ khác, nó được xây dựng theo phong cách kiến trúc cổ xưa nhất của Nhật Bản và có một tu sĩ cao cấp trụ trì. Vị trí đó, theo truyền thống là do một công chúa của triều đình nắm giữ, đã bị bãi bỏ vào năm 1868 và khôi phục vào năm 1946. Mặc dù vị thần tối cao là nữ nhưng hầu như tất cả các tu sĩ Shinto đều là nam. Những nữ tín đồ hỗ trợ họ được gọi là miko.

Trong khi Shinto gợi lại cho một số người Nhật Bản những hồi ức không mấy dễ chịu về chủ nghĩa quân phiệt thì nữ thần mặt trời tối cao mang đến cảm hứng cho phụ nữ Nhật Bản, trong đó có nhà thơ Hiratsuka Raicho. Bà lập ra nhóm văn chương nữ quyền có tên là Hiệp Hội Nữ Học Giả (Seito), một tổ chức tiên phong của phong trào nữ quyền đương thời. Để giới thiệu ấn bản đầu tiên của tờ báo Nữ Học Giả của nhóm vào năm 1911, bà đã nhắc lại truyền thuyết về Amaterasu. Bài thơ của Raicho, có lẽ là tuyên ngôn nữ quyền nổi tiếng nhất của Nhật Bản, mở đầu với câu “Vào thuở ban đầu, phụ nữ là mặt trời. Một con người chân thực.” 

Trích trang 16

[Bình luận: Có gần gũi với chuyện mẹ Âu Cơ của Việt Nam không nhỉ?]

Bijin: Xinh đẹp

Sự xinh đẹp mang tính nữ. “Hôm nay tôi bắt gặp cái đẹp” nói chung có nghĩa là người nói gặp một phụ nữ đẹp. Cũng giống như vậy, người Nhật Bản nói về việc bắt gặp một bijin, theo nghĩa đen là “người đẹp” nhưng thực tế chỉ được dùng cho phụ nữ đẹp. Trái lại, giới tính thường được nhắc đến trong nhiều từ khác nhau chỉ vẻ đẹp của nam giới như “đẹp trai” (binan). 

Khái niệm này có thể thêm vào phía trước hầu hết các tên gọi nghề nghiệp để tạo thành một từ ghép chỉ những hiện tượng Nhật Bản như “phát thanh viên xinh đẹp” (bijin anaunsaa) đọc bản tin truyền hình, “chiêu đãi viên xinh đẹp” (bijin hosutesu) phục vụ đồ uống trong các câu lạc bộ chiêu đãi và thậm chí là “biên tập viên xinh đẹp” (bijin henshusha) đang làm việc với những cuốn sách như cuốn này. Vào thời xưa, khoảng một ngàn năm trước đây, một bijin có nghề nghiệp đặc biệt dành riêng cho cô ấy. Các tài liệu văn bản sớm cho thấy dân làng thường nấu rượu saké bằng một quy trình lên men nguyên thủy, bắt đầu bằng việc nhai nát gạo và bỏ chúng vào các bồn gỗ lớn. Sự tinh khiết của rượu saké được đảm bảo bằng cách chỉ dùng gạo được bijin nhai – trong trường hợp này có nghĩa là những trinh nữ trẻ. Rượu tạo ra được gọi là bijinshu hay “saké xinh đẹp”.

Ngày nay, ngoại hình đẹp vẫn là một tiêu chí quan trọng đối với việc làm của phụ nữ. Sự thể hiện “hình dáng yêu kiều” (yoshi tanrei) vẫn nổi bật trong các quảng cáo tuyển dụng phụ nữ. Phong cách đa dạng và vẻ đẹp là yêu cầu bắt buộc với những vị trí như hướng dẫn viên du lịch, người giới thiệu sản phẩm ở nhà trưng bày, nhân viên lễ tân và là luật bất thành văn trong nhiều công việc dành cho phụ nữ. Từ này cũng có thể được dùng cho một người đàn ông hấp dẫn nhưng cách sử dụng thông thường phủ nhận sự diễn giải đó. Các ông chủ đánh giá đàn ông cao hơn về phẩm chất nội tại của họ và hiếm có quảng cáo về nam giới đẹp trai. Cũng tương tự như vậy, từ để chỉ nam giới ưa nhìn không thể gắn với chức danh nghề nghiệp của họ.

Họ có thể tìm được việc làm tương đối đơn giản nhưng phụ nữ đẹp được coi là dễ chịu bất hạnh hoặc thậm chí là đột tử hơn những chị em bình thường của họ. Một câu ngạn ngữ phổ biến nói rằng “Người đẹp bạc mệnh” (Bijin hakumei). Câu ngạn ngữ cũng hàm ý về sự nhất thời của vẻ đẹp thanh xuân và thực tế là người Nhật Bản có khuynh hướng coi bản thân quá khứ là đẹp. Sự đam mê quốc gia đối với hoa anh đào nở một phần bắt nguồn từ thực tế là chúng tàn rất nhanh. 

Các tiêu chuẩn về vẻ đẹp cũng thay đổi như được thấy qua nghệ thuật Nhật Bản trong vài thế kỷ, đặc biệt là loại hình ukiyo-e hay còn gọi là “tranh đẹp” (bijinga). Vẻ đẹp của thời kỳ này là sự xấu xí của thời kỳ khác. Răng đen, một phần quan trọng của vẻ đẹp cá nhân đối với phụ nữ, lại tạo ra sự khó chịu ngày nay. Thời trang thay đổi qua lại giữa khuôn mặt tròn và khuôn mặt hình oval dài, được gọi là “mặt hình hạt dưa” (urizane-gao). Vào thời Edo, đàn ông viết về sự khát khao của họ đối với một có gái có miệng nhỏ, lông mày giống như mặt trăng lưỡi liềm nhô lên từ mỏm núi xa xa, tóc giống như đôi cánh của một con quạ nước và “trán giống như núi Phú Sĩ” (Fuji-bitai). Khái niệm thời trang truyền thống này được dùng để chỉ lối rẽ tóc mà người nói tiếng Anh gọi là búi tóc bà góa. 

Theo truyền thống, hình ảnh của một phụ nữ Nhật Bản được cho là nằm ở một nơi mà hầu hết các dân tộc khác đều bỏ qua: gáy (unaji). Quan trọng hơn ngực, mông hay chân, gáy thể hiện sự nhạy cảm. Lý do thực sự của quan niệm thẩm mỹ đặc biệt này rất đơn giản. Phần còn lại của cơ thể phụ nữ bị giấu sau áo kimono. Ngay cả gáy của phụ nữ cũng thường được che bằng búi tóc đen, thế nên khi phụ nữ vén tóc lên, nó khiến cho người phương Tây cảm thấy như họ đang nhìn thấy một phụ nữ mặc quần áo ngắn. Sự chú trọng vào gáy đã giảm xuống nhưng vẫn còn đủ mạnh vào giữa những năm 1980 đối với một tạp chí phụ nữ phổ thông để đề cao hình tượng unaji bijin với các bức ảnh ngôi sao phô bày gáy của họ.

Người Nhật khẳng định rằng sự quyến rũ của cái gáy mạnh mẽ hơn sự cố định của bộ ngực, dĩ nhiên gần hơn với sự hấp dẫn của nụ cười thanh tú. Bộ ngực, được gọi thông tục là oppai hay chichi, không bao giờ được coi là mục tiêu tình dục ở Nhật Bản, ở đó các bà mẹ vẫn cho trẻ con bú ở nơi công cộng cho đến ba mươi năm trước đây. Phụ nữ ở các tỉnh vẫn cởi trần đến thắt lưng khi họ làm việc, cho đến khi sự bại trận trong Thế Chiến II đưa những người lính Hoa Kỳ lóng ngóng đến đất nước. Luật pháp vẫn cho phép bộ ngực được phơi bày trên truyền hình với sự đề kháng là di sản của thái độ quá khứ, nhưng tính khêu gợi của nhiều kênh truyền hình là dấu hiệu cho thấy sự sùng bái phương Tây có vẻ như đã chiếm chỗ. Bất chấp những khuynh hướng mới, nhiều đàn ông Nhật Bản giãi bày bí mật rằng bộ ngực lớn đang áp đảo – thậm chí là sợ hãi. 

Phấn bột gạo trang điểm da (mochi hada) là một biểu tượng khác được người Nhật Bản thừa nhận, họ nhanh chóng làm quen với sự mềm mại, mịn màng, màu trắng và sự quyến rũ của bột gạo. Mấu chốt là màu trắng, được phổ biến trong câu ngạn ngữ Nhật Bản, “Màu trắng che đi bẩy khuyết tật” (Iro no shiroi wa shichi nan kakusu), có nghĩa là một làn da trắng bù đắp được cho cái miệng lớn hay cái mũi tẹt hoặc vô số những điều kém hoàn hảo khác.

Phụ nữ Nhật Bản bắt đầu sử dụng phấn trang điểm mặt và thân thể có tên là “màu trắng tự hào” (oshiroi) cùng với các mỹ phẩm khác từ hơn một ngàn năm trước đây để hiện thực hóa ý tưởng này. Loại bột xuất hiện sớm nhất, được làm từ bột gạo và đất, đã bị thay thế bằng phấn có pha chì nhập khẩu từ Trung Quốc vào thế kỷ thứ 7. Tính độc hại của loại phấn này được thừa nhận vào những năm 1870 và các phiên bản không chì đã được phát triển, sau đó lại bị các lớp phấn nền trang điểm theo kiểu phương Tây thay thế. Đàn ông cũng trang điểm mặt để tăng sự hấp dẫn vào thời Heian. Việc trang điểm dần dần trở thành hoạt động của nữ giới, mặc dù vào giữa những năm 1980, các hãng mỹ phẩm hàng đầu của Nhật Bản bắt đầu cung cấp các dòng phấn nền trang điểm, son môi và bút kẻ mắt cho nam giới, cùng với các hướng dẫn sử dụng.

Những gì mà màu trắng không che đậy được thì cách đi đứng thích hợp có thể làm được, theo một cuốn sách bán chạy vào thế kỷ 19 của Nhật Bản bàn về cách làm đẹp. Các chỉ dẫn của cuốn sách bao gồm cả chỉ dẫn cách giúp phụ nữ làm cho đôi mắt trông gần nhau hơn: Nhìn vào một điểm cách chân khoảng 1,82 m khi đứng và thu khoảng cách lại một nửa khi ngồi. Ngày nay, một số phụ nữ dùng những biện pháp mạnh hơn – phẫu thuật thẩm mỹ - để đạt được vẻ đẹp lý tưởng hiện thời. Ba loại phẫu thuật thông thường mà phụ nữ Nhật Bản hay thực hiện được gọi là “Tây hóa” mí mắt trên, nâng mũi và làm đẹp cằm. 

Trích trang 19-22

[Bình luận: Răng đen, mặt tròn phúc hậu, đều là những quan niệm thẩm mỹ của người Việt xưa, hiện giờ bị thay thế bằng các cô gái mặt chữ V với cằm độn nhọn hoắt và mũi cao như người phương Tây.]

Busu: Xấu xí

Phụ đề tiếng Nhật “Busu!” khi diễn viên Dustin Hoffman đánh nhau với bạn gái trong phim Tootsie và thốt ra từ tiếng Anh tục tằn nhất “Fuck you!”. Những từ thô tục này tương đương chỉ trong những tình huống nhất định, bởi vì busu có nghĩa là một phụ nữ với bộ mặt gớm guốc. Đó là một trong những sự xúc phạm ghê ghớm nhất đối với phụ nữ ở Nhật Bản, cho dù đó cũng có thể là sự chòng ghẹo, có thể là đối với bạn trai hoặc thú cưng. Phụ nữ xấu xí được gọi là busu ở Nhật Bản sẽ giống như sự so sánh với “chó” của người nói tiếng Anh. 

Người ta thường liên hệ với động vật trong tiếng Anh nhưng tiếng Nhật thì hiếm khi có sự so sánh đó. Một trong số ít đó là sự so sánh nhẹ nhàng và kiểu cũ đối với phụ nữ có vẻ ngoài thô kệch: “con rùa xun xoe” (okame). Cho đến nay người Nhật Bản vẫn không xếp rùa vào giới động vật. Okame là tên của nhân vật nữ trong cặp đôi phổ biến của mặt nạ hài kịch Kyogen có tại hầu hết các cửa hàng bán đồ lưu niệm Nhật Bản. Vẻ mặt ngốc nghếch của cô ta với khoảng cách lớn giữa mắt và lông mày rất khó quên và người Nhật Bản đã dùng tên của cô ta để chế nhạo. Một số nhà sử học Nhật Bản cho rằng mặt nạ Okame đầu tiên là thời trang trước đây rất lâu, khuôn mặt phúng phính giống như rùa của cô ta được coi là lý tưởng. Một diễn viên Kyogen đương thời có lần đã đưa ra bình luận gây choáng váng là tất cả đàn ông Nhật Bản đều hy vọng cô dâu của họ sẽ trông giống như vậy vào đêm tân hôn.

Bắt nguồn từ truyền thống nông nghiệp lâu đời, văn hóa Nhật Bản rút ra nhiều phép ẩn dụ từ cây cối hơn là từ động vật. Busu có thể là một từ như vậy. Theo một lý thuyết, ý nghĩa gốc của từ busu là chất độc được tạo ra từ rễ cây củ ấu tàu. Khi ăn phải busu, người ta sẽ chết với khuôn mặt méo mó, một cảnh tượng đã trở thành bất tử trong hài kịch Kyogen. Đôi khi, ở một vài nơi, sự liên hệ có thể được tạo thành từ sự nhăn nhó của người ăn phải busu và khuôn mặt xấu xí của phụ nữ. Những từ lóng cùng nghĩa tồn tại ngắn ngủi đã được làm giàu thêm, trong đó có seishin (tâm hồn) busu đối với phụ nữ chỉ có vẻ đẹp bên ngoài và kamaboko (xúc xích cá) busu đối với những phụ nữ phù hợp với định nghĩa của busu, giống như xúc xích cá bám vào tấm ván gỗ khi chúng được chế biến.

Trích trang 22-23

[Bình luận: Sự xấu xí kiểu Thị Nở ở Việt Nam cũng có nhé]

Gokiburi teishu: Ông chồng gián

Thứ gì có thể vô dụng, phiền hà và gây khó chịu hơn một con gián trong bếp? Một ông chồng trong bếp, đa số các phụ nữ Nhật Bản truyền thống đều dùng khái niệm “ông chồng gián” (gokiburi teishu) để mô tả người đàn ông định xâm lấn lãnh địa của họ. Họ cho rằng việc chuẩn bị bữa ăn sẽ lâu hơn với sự “trợ giúp” của một người thiếu kinh nghiệm nấu nướng. Theo truyền thống, nhà bếp là nơi mà phụ nữ Nhật Bản không cảm thấy sức ép của cái tôi nam tính. Nhiều người coi đây là nơi linh thiêng của họ. Cho tới gần đây, đàn ông đã vui vẻ đảm nhiệm việc nấu nướng, nếu cần phải trích dẫn câu ngạn ngữ “Một quý ông sẽ không vào bếp” (Danshi chubo ni irazu)

Hầu hết các bà nội trợ ngày nay đều không phàn nàn về việc đàn ông đi làm ở bên ngoài trong khi phụ nữ làm việc nhà. Một khảo sát năm 1983 của chính quyền cho thấy có 71% phụ nữ Nhật thích sự sắp xếp này, nhiều hơn so với 56% ở Philippines và 34% ở Hoa Kỳ. Số lượng phụ nữ Nhật rời khỏi nhà bếp đã tăng lên, vào năm 1972 có 83% ưa thích sự phân công lao động truyền thống. Thống kê của chính quyền cho thấy ý tưởng thay đổi nhanh chóng hơn thực tế. Một phụ nữ Nhật Bản trung bình dành 3 giờ 25 phút cho việc nhà và chăm sóc con cái vào năm 1981, trong khi đó một nam giới điển hình chỉ dùng có 8 phút.

Tuy vậy, ông chồng gián không chỉ giới hạn trong nhà bếp. Mỗi khi ông chồng làm vợ không hài lòng, người vợ Nhật Bản có thể dùng khái niệm xúc phạm này. Đàn ông không thể chống lại với khái niệm tương đương, bởi vì không có từ “bà vợ gián”. Từ này phổ biến đến mức hiện nay một số người có tư tưởng tự do còn gọi bạn đời là gián vì không giúp làm việc bếp núc. Số lượng cặp vợ chồng chống lại trạng thái ban đầu bằng cách chia sẻ việc nhà nhiều đến mức người Nhật Bản mới đây đã tạo ra một từ nửa bỡn cợt tương đương với từ “ông nội trợ” trong tiếng Anh. Từ shufu cũng giống như từ phổ thông để chỉ bà nội trợ, nhưng thay vì chỉ “phụ nữ chính” như thông thường, chữ này đánh vần thành “nam chính”.

Từ để chỉ bà nội trợ, cũng giống như nhiều từ chỉ các bà vợ nói chung, sử dụng khái niệm thứ bậc. Việc phụ nữ chỉ làm việc nhà là một điều xa xỉ trước thời hiện đại hóa bắt đầu vào năm 1868. Sau đó, lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản, gia đình biến đổi từ trung tâm của sản xuất thành cơ sở tiêu dùng và nuôi dưỡng con cái. Cùng với sự thay đổi này một số từ ngữ mới đã được bổ sung vào công việc giới hạn của thế hệ bà nội trợ mới: kaji (việc nhà), ikuji (chăm sóc con cái) và ryori (nấu nướng). Một tên hiệu cũng được gán cho phần lớn các bà nội trợ mới. Họ được gọi là shufu. Cho đến khi kết thúc Thế Chiến thứ II, khái niệm này chỉ dùng cho phụ nữ đại diện cho hộ gia đình trong khuôn khổ của hệ thống gia đình, nhưng hiện giờ có nghĩa là bà nội trợ nói chung. Khi tạp chí phổ thông của phụ nữ Shufu no Tomo (Sổ Tay Bà Nội Trợ) được thành lập vào đầu thế kỷ 20, tiêu đề của nó cũng sáng tạo như tạp chí Ms. của Hoa Kỳ. 

Một số ít ông nội trợ đã bắt đầu tham dự vào thế giới của bát đĩa. Các bài báo về nấu nướng cho đàn ông được xuất bản với tiêu đề như “Bố làm bếp” trên nhiều tạp chí và báo dành cho đàn ông của Nhật Bản, trong đó có cả tờ Nihon Keizai Shinbun, một tờ báo Nhật Bản nổi tiếng tương đương với tờ Wall Street Journal. Ít nhất thì một hiệu sách lớn ở Tokyo cũng có một khu vực bày “Sách nấu ăn dành cho đàn ông”. Các cậu bé không bị buộc phải tham gia các lớp học nội trợ ở trường học nhưng một số nhóm phụ nữ xôn xao vì sự thay đổi đó. Những người đàn ông cảm thấy việc nấu ăn là vui vẻ đã tập hợp nhau ở Tokyo vào năm 1977 để thành lập “Câu Lạc Bộ Hãy Để Quý Ông Vào Bếp” (danshi chubo ni hairo kai), thu nạp được 500 thành viên chỉ riêng ở Tokyo trong vòng 8 năm sau khi thành lập. Theo triết lý phi giới tính, câu lạc bộ chấp nhận cả hai giới. Nữ thành viên chiếm 20% vào giữa những năm 1980 và tiếp tục gia tăng. Không ít phụ nữ trẻ đã dùng câu lạc bộ để tìm kiếm một ông chồng sẵn sàng và có thể chia sẻ việc bếp núc.

Khuynh hướng này mang lại những lợi ích thực tế đối với đàn ông cũng như phụ nữ, nếu như những câu chuyện đồn thổi trong nhà bếp có chút sự thật nào đó. Các bà nội trợ thích lặp đi lặp lại câu chuyện cổ tích về người đàn ông sống lâu hơn vợ - bị chết đói bởi vì ông ta không biết nấu ăn, dùng cái mở nắp hộp hay thậm chí là tìm nơi chứa thực phẩm. Ít nhất thì những con gián cũng biết đường đi đến nhà bếp.

Trích trang 58-60

[Bình luận: Người Việt Nam thỉnh thoảng cũng cãi nhau như mổ trâu mổ bò vì vụ này. Hồi xưa các bà mẹ cũng không thích chồng vào bếp vì họ làm rối loạn mọi thứ lên hơn là giúp ích. Bây giờ thì nhiều ông chồng vào bếp hơn rồi.]

Meoto-jawan: Tách trà vợ chồng

Quan hệ hôn nhân ở Nhật Bản được củng cố thành một hiện thực có thể nhìn thấy và chạm vào: “tách trà vợ chồng” (meoto-jawan). Hai chiếc tách này giống hệt nhau ngoại trừ kích thước, chiếc tách lớn hơn thuộc về người chồng. Meoto-jawan bắt nguồn từ tầng lớp thương nhân vào cuối thời Edo, sau đó sớm trở thành thời thượng vào thế kỷ này. Một số người cho rằng tách trà của chồng và vợ đầu tiên có kích thước như nhau nhưng chiếc tách của người chồng đã được làm to ra dần dần, cùng với môi trường văn hóa. Tương tự, các quy định xã hội ở quốc gia khác đã buộc người Nhật Bản phải làm bình đẳng một số mẫu meoto-jawan xuất khẩu. Khi phải mua tách trà phương Tây, trong trường hợp không có kiểu châu Á, người Nhật Bản cũng vui vẻ mua thứ mà họ gọi là tách đôi (pea kappu) với kích thước giống nhau.

Một truyền thống về đồ gia dụng khác cũng xuất hiện dưới dạng một đôi có kích thước không cân xứng được thiết kế cho cặp vợ chồng. Chúng bao gồm bát ăn cơm cũng được gọi là meoto-jawan và đũa được gọi là meoto-bashi. Vào thời phong kiến, nhiều người chồng thực sự được ăn thực phẩm tốt hơn và nhiều hơn vợ của họ. Phong tục ăn uống quy định rằng phụ nữ trong nhà trước hết phải dọn phần thức ăn cho người đàn ông đứng đầu gia đình, sau đó tuân theo trật tự. Trẻ em được ăn no bởi vì nhu cầu cho cơ thể đang lớn của chúng được công nhận. Những người phải ăn cuối cùng đôi khi là các cô dâu trẻ. 

Bộ meoto-jawan tiếp tục là món quà phổ biến cho các cặp vợ chồng, nhất là mới cưới. Món quà này không chỉ muốn nói rằng đàn ông nhận được nhiều hơn mà còn nói rằng cặp vợ chồng là một đơn vị đơn nhất vĩnh cữu với cùng khẩu vị. Không ai có thể chia cặp tách chồng và vợ ra để bán hay gộp vào thành cặp khác hoặc dùng đơn lẻ, mặc dù chồng hoặc vợ có thể uống cốc còn lại khi “nửa kia” qua đời. Sự kết hợp không thể tách rời với kích thước khác nhau gợi cảm hứng cho người ta gán cái tên meoto, có nghĩa là “chồng và vợ”, cho nhiều hiện tượng tự nhiên khác nhau. Hai hòn đá cuội nằm cạnh nhau được gọi là “đá vợ chồng” (meoto iwa). Khi người Nhật Bản thấy hai cây thông dựa vào nhau, họ gọi chúng là “cây thông vợ chồng” (meoto matsu). Đôi khi họ cầu xin những cây thông giúp đỡ tác thành một cuộc hôn nhân tốt.

Một đồ vật không xuất hiện trong cặp chồng và vợ là kimono. Hiện nay, quần áo phương Tây là thông dụng, các cặp vợ chồng trẻ Nhật Bản đôi khi xuất hiện trong áo phông đẫm mồ hôi, quần áo chơi tennis và đồ tương tự. Các quan niệm phương Tây về quần áo nam nữ, được thiết kế cho cặp đôi đang hẹn hò cũng như đã kết hôn, đã được nền văn hóa sử dụng các vật meoto trong nhiều thế kỷ nhanh chóng chào đón. 

Trích trang 60-61

[Bình luận: À, cái khoản vợ chồng phải ăn khác nhau trước Việt Nam cũng có đấy]

Meishi! Furo! Neru!: Ăn! Tắm! Ngủ!

Ba từ ngắn này được trao đổi mỗi tối giữa chồng và vợ ở Nhật Bản. Người công nhân làm thuê điển hình ở Tokyo trở về nhà vào khoảng 9-10h tối, kiệt sức sau một giờ chen chúc trên tàu và vẫn còn hơi chếnh choáng do cuộc nhậu bắt buộc sau giờ làm. “Meishi!”, anh ta ra lệnh, sử dụng một từ thô thiển chỉ thức ăn và vợ anh ta nhanh chóng mang đồ ăn tới. Khi đã no bụng, anh ta nói “Furo!”. Cô ấy gật đầu. Cô ấy vốn đã chuẩn bị sẵn nhà tắm. Sau khi ra khỏi nhà tắm bốc khói, anh ta lại nói: “Neru!”. Đấy là lúc cô vợ phải trải tấm đệm ra. Các bà vợ thường xuyên châm biếm một cách buồn bã rằng chồng họ bận đóng góp cho phép màu kinh tế của Nhật Bản đến mức chỉ có ba từ để nói với họ. “Meishi! Furo! Neru!” đã trở thành sáo ngữ đối với rất nhiều công nhân và vợ của họ. 

Mặt khác, người vợ Nhật Bản và chồng không thực sự muốn nghe ba từ ngắn khác mà các cặp đôi phương Tây cho là quan trọng, “Anh yêu em”. Hầu hết các cặp đôi đều không bao giờ thốt ra câu đó. Những người quan sát Nhật Bản và phương Tây đều đưa ra những giải thích khác nhau về sự im lặng này. Họ chỉ ra rằng truyền thống Nhật Bản cho rằng hôn nhân chỉ là sự sắp xếp kinh tế để duy trì dòng tộc và bổ sung thêm tình yêu vào đẳng thức đó chỉ gây ra tổn hại nhiều hơn là sự tốt đẹp. Quan niệm này có thể vẫn ảnh hưởng đến nhiều người và một số cặp đôi không có tình yêu vẫn sống với nhau để chăm lo cho con cái, nhưng hầu hết người Nhật Bản kết hôn ngày nay đều nói với người khác rằng họ làm điều đó vì tình yêu. Tuy vậy, việc nói “Anh yêu em” tạo ra cảm giác bối rối và không cần thiết. Sự bối rối được cho là bắt nguồn từ ý tưởng coi một cặp đôi kết hôn là một thể thống nhất, không phải là hai cá thể. Điều này có thể giải thích lý do khiến cha mẹ Nhật Bản không bày tỏ tình yêu đối với con cái. Khi chồng và vợ cảm thấy gần gũi, biểu lộ tình yêu cũng như khen ngợi người kia là một điều cấm kỵ trong văn hóa Nhật Bản. Các từ ngữ trực tiếp là không cần thiết và có thể giới hạn cũng như làm giảm giá trị của cảm xúc mà họ cố gắng bày tỏ. Ở Nhật Bản, tình yêu được truyền tải bằng hàng sa số các cử chỉ cũng sự sự thổ lộ tinh tế đã được thấm đẫm trong các bài thơ haiku đầy thẩm mỹ. Đôi khi tất cả những điều cần nói chỉ là “Meishi! Furo! Neru!

Trích trang 62-63 

[Bình luận: Cách đây vài năm có cô nhà văn nào đó gọi đàn ông Việt Nam chỉ biết ăn tắm ngủ là lợn thì phải]

Naijo no ko: Của chồng công vợ

Một trong những yếu tố quan trọng của thành tựu kinh tế Nhật Bản bị hầu hết các nhà phân tích phương Tây bỏ qua. Đó là “sự thành công nhờ sự trợ giúp bên trong” (najio no ko). Khi nhiều khái niệm Nhật Bản về kỹ thật quản lý doanh nghiệp được giảng giải chi tiết thì nguồn bị che đậy khiến cho mọi thứ trở nên khả thi này thường bị bỏ sót. Thông thường ở Nhật Bản, sự hữu ích của “tay trong” chính là người vợ. Naijo no ko có nghĩa là thành công của người đàn ông bắt nguồn từ sự trợ giúp và hi sinh của người vợ. 

Thiếu sự trợ giúp của người vợ, người chuẩn bị các bữa ăn, sửa soạn quần ào và vun vén tài chính, ông chồng Nhật Bản sẽ không thể tiếp tục làm việc lâu dài và chăm chỉ như họ đã làm để duy trì sự tăng trưởng kinh tế. (Nhà tập thể của công ty cung cấp nhiều dịch vụ này cho đàn ông độc thân, đôi khi cho cả phụ nữ.) Ngôn ngữ tiếp đó khẳng định rằng người vợ Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của người chồng với từ “vai trò của vợ” (nyobo yaku). Một người đàn ông luôn sẵn sàng hỗ trợ và khuyên bảo bạn bè hay đồng nghiệp, người đáng tin cậy này được gọi “cánh tay phải” trong tiếng Anh, tương đương với từ “vai trò của vợ” ở Nhật Bản. 

Ở cấp quốc gia, phụ nữ Nhật Bản cũng hỗ trợ theo cách tương tự. Hầu hết những người đại diện cho công việc và chính quyền quốc gia bên ngoài Nhật Bản là nam giới, trong khi ở nhà những công việc không mấy vinh quang nhưng quan trọng như công việc văn phòng và kiểm tra chip máy tính đều nằm trên vai phụ nữ “bên trong”. Đây không phải là chính sách mới. Phụ nữ chiếm trung bình 60% của lao động công nghiệp từ năm 1894 đến 1912, một thời kỳ quan trọng trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa của Nhật Bản.

Khi hỏi bất cứ người Nhật Bản nào về naijo no ko, cô ấy hay anh ấy sẽ trả lời với câu chuyện về gia tộc phong kiến nổi tiếng ở Shikoku có tên là Yamanouchi. Sách lịch sử ca ngợi bà Yamanouchi, nói rằng sự lớn mạnh của gia tộc bắt nguồn từ Kazutoyo Yamanouchi (1546-1605) và bà vợ thông minh Kenshoin (1557-1617) của ông. Câu chuyện bắt đầu khi lãnh chúa địa phương lên kế hoạch kiểm tra quân đội của mình. Kazutoyo phát hiện ra nhiều chiến mã vô song bị đem bán – với mức giá rẻ mạt. Ông ta phàn nàn về sự túng thiếu khiến ông ta không mua được chiến mã gây ấn tượng với chủ nhân của ông ta. Khi đó bà vợ rút ra đúng số tiền cần thiết từ chiếc gương của bà và đưa cho ông. Kazutoyo sững sờ. Gia tộc vốn rất tằn tiện nhưng cũng chỉ đủ cho nhu cầu tối thiểu về thực phẩm và quần áo. Bà vợ tằn tiện của ông giải thích rằng cha của bà đã cho bà số tiền ấy khi họ cưới nhau để chi dùng trong trường hợp khẩn cấp, như việc mua ngựa. Từ số tiền ban đầu của vợ, ông ấy đã giành được sự kính trọng của thượng cấp, thắng nhiều trận chiến và thu được nhiều của cải cũng như quyền lực cho toàn thể bộ tộc của mình. 

Trích trang 64-65

[Bình luận: Câu "của chồng công vợ" của người Việt Nam chính là chỉ hiện tượng này còn gì.]

Oshikake nyobo: Vợ đột nhập

Hầu hết phụ nữ Nhật Bản đều chờ có ai đó hỏi họ làm vợ, song có một số phụ nữ cũng có đủ sự can đảm đến mức một khái niệm đặc biệt đã được tạo ra để mô tả họ. Những cô dâu quả cảm này được gọi là “vợ đột nhập” (oshikake nyobo), dựa trên từ thường để chỉ vị khách không được mời (oshikake kyaku). Họ thường là những phụ nữ mạnh mẽ yêu một người đàn ông còn đang lưỡng lự, nhưng lại sẵn sàng yêu thương chăm sóc họ sau khi kết hôn. Ít nhất đối với phụ nữ thì từ này mang ý nghĩa ngạc nhiên hơn là phàn nàn, một người vợ đột nhập cần phải có đủ can đảm để thực hiện chiến thuật của mình.

Thông thường, cô ấy đột nhập vào nhà của người yêu mà không cần được phép và bắt đầu sống ở đó. Cô ấy chăm sóc anh ta bằng cách nấu các bữa tiệc đêm, dọn dẹp sau đó mà không phàn nàn, sắp xếp phòng ở và quần áo ngay ngắn nhất. Anh ta sẽ trở nên phụ thuộc nhiều hơn vào cô và cho đến khi anh ta nhận ra rằng không thể sống thiếu cô. Sau một thời gian, họ cưới nhau. Mặc dù các thiếu nữ can đảm nhất cũng không đột nhập tới mức chung sống, kỹ thuật bắt chồng bằng nấu nướng, dọn dẹp và chăm sóc đã có truyền thống lâu đời ở Nhật Bản.

Việc bà vợ đột nhập buộc đàn ông phải cưới họ không có nghĩa là họ hạ thấp vai trò của việc hỏi vợ. Tuy vậy, một số phụ nữ Nhật Bản cũng đưa ra đề xuất hôn nhân. Một nghiên cứu của chính quyền nhằm vào nhóm các phụ nữ đủ lớn tuổi để làm bà nội/ngoại để đưa ra câu hỏi. Khảo sát đối với phụ nữ vùng nông thôn và ngoại ô Nhật Bản cho thấy rằng khoảng hơn 10% đã hỏi cưới đàn ông vào cuối những năm 1940, nhưng tỷ lệ nữ đề xuất kết hôn đã giảm xuống nhanh chóng còn 3% vào những năm 1960.

Không có khái niệm về “chồng đột nhập” trong tiếng Nhật bởi vì điều đó có nghĩa là đàn ông là người tấn công trong cuộc săn tìm người phối ngẫu. Mặc dù đàn ông nói chung đảm nhận sự dẫn dắt trong việc đề xuất hôn nhân, song họ hiếm khi sử dụng từ mang tính đột nhập để đưa ra câu hỏi. Câu hỏi truyền thống là “Em có theo anh không?” (Boku ni tsuite kite kuremasu ka). Một khảo sát của tạp chí Shukan Post vào giữa những năm 1980 cho thấy hầu hết đàn ông đề xuất chủ đề này với sự thể hiện mập mờ như “Hãy cùng nhau ăn sáng mỗi ngày” hay “Khi nào em định nghỉ việc?”

Trích trang 69-70

[Bình luận: Đàn ông Việt Nam có lẽ hỏi khác đàn ông Nhật một chút, nhưng chuyện Tấm Cám hay Tú Uyên-Giáng Kiều đều phảng phất hình bóng của cô vợ đột nhập nhỉ?]

Otto o shiri ni shiku: Cưỡi đầu cưỡi cổ chồng

Khi một phụ nữ từ chối yêu cầu của chồng về việc nấu món sukiyaki bởi vì cô ấy thích ăn món tempura, người Nhật Bản sẽ nói rằng cô ta “cưỡi đầu cưỡi cổ” chồng. Phiên bản Nhật Bản của người chồng bị bắt nạt là một người đàn ông nằm dưới cặp mông to bự của bà vợ. Người vợ thống trị được gọi là “cưỡi lên” (shiri ni shiku) người chồng, cũng giống như họ sẽ nhún nhảy trên một tấm đệm, trong bối cảnh mà từ ngồi shiku thường được nhắc đến. Người ta thường biến câu này sang thể bị động, hàm nghĩa đồng cảm với người bị áp bức bằng cách nói “người chồng bị cưỡi” (otto ga shiri ni shikareru). Sự liên hệ với người chồng (otto) có thể bỏ đi bởi vì sự thể hiện tiêu cực này luôn luôn lên án người vợ làm chủ. Shiri ni shiku không thể ám chỉ một ông chủ đang áp bức người dưới quyền, hay bà mẹ đang giám sát chặt chẽ đứa con trai. 

Về nghĩa đen, shiri ni shiku có nghĩa là bị dí bẹp dưới mông và hông, vốn được thể hiện bằng từ shiri. Khi vật thể phía dưới là tấm nệm hoặc khăn trải giường, sự liên hệ đến cơ thể nói chung bị bỏ qua. Hình tượng được nói đến cũng bao hàm sự phê phán là mông phụ nữ quá to, nếu không chồng của cô ta có thể lật đổ quyền lực của cô ta. Tuy vậy, bộ mông nhỏ cũng chẳng tốt hơn. Khi nói “bộ mông nhẹ” của ai đó (shiri ga karui) có thể là sự cáo buộc thiếu ổn định, thiếu chu đáo, hoặc – chỉ đối với phụ nữ - thiếu đạo đức. Đây chỉ là một số ít trong hàng sa số ý nghĩa của mông được sử dụng ở Nhật Bản. 

Sự phổ biến của những ông chồng nằm dưới mông còn được gọi là “sự thống trị của bà vợ” (kakaa-denka). Kakaa, một từ thô tục chỉ bà vợ, là một trong số ít các từ được người Nhật Bản tạo ra chứ không sao chép của người Trung Quốc. Nó được kết hợp từ chữ “nữ” và chữ “mũi” để tạo thành khái niệm bốc mùi hôi thối. Thái cực trái ngược là từ teishu kanpaku, với một từ không chính thống chỉ người chồng và theo sau đó là từ chỉ cố vấn trưởng của hoàng đế. Một số phụ nữ Nhật Bản dùng từ teishu kanpaku với nghĩa tương đương như từ “gã chồng gia trưởng” trong tiếng Anh. Tuy vậy, khi người chồng Nhật Bản về mặt truyền thống được kỳ vọng sẽ hành động như vị vua trong lâu đài, sự cai trị của người chồng có thể mang nghĩa tốt, trong khi bị vợ cưỡi thì chắc chắn là mang tính tiêu cực.

Trong số những người cảm thấy sự cai trị của vợ đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát có các viên chức của chính quyền Nhật Bản. Một hướng dẫn cho bố mẹ của trẻ em 3 tuổi vào năm 1985 do bộ Y Tế và Phúc Lợi ban hành đã sử dụng phép ẩn dụ “ngồi lên” để thúc giục các ông bố tích cực hơn trong việc nuôi dạy con cái và cho con cái thấy ý nghĩa của nam tính. Một bức vẽ trong hướng dẫn mô tả một cậy bé đang chứng kiến cảnh ông bố cố gắng thoát khỏi bộ mông to của bà mẹ. Cậu bé nhớ đến lời của bài hát quân sự cổ ca ngợi những binh lính can đảm đã hy sinh của Nhật Bản: “Bố ơi, bố thật mạnh mẽ!”

Trích trang 70-71

[Bình luận: Sư tử Hà Đông đây rồi còn gì!]

Senen teishu: Ông chồng một ngàn yen

Lạm phát cũng tác động đến từ lóng chỉ những ông chồng quỵ lụy. Những gã mà người Nhật Bản thường gọi là “ông chồng một trăm yen” (hyakuen teishu) đã được đổi thành “ông chồng một ngàn yen” (senen teishu) trong vài thập kỷ qua. Tính cách của họ vẫn như cũ. Những người đàn ông này trực tiếp đưa hết tiền lương cho vợ, sau đó được nhận lại một khoản tiền tối thiểu mỗi ngày: một trăm yen vào những năm 1960, một ngàn yen ngày nay. Bất kể theo cách nào, chúng cũng chỉ đủ cho ăn trưa và thuốc lá. Từ này mang tính xúc phạm, không phải bởi vì người chồng để cho vợ kiểm soát tiền bạc mà bởi vì anh ta chấp nhận một số tiền nhỏ.

Không có khái niệm “bà vợ một ngàn yen” ở Nhật Bản. Xử lý chi tiêu gia đình được coi là việc của phụ nữ ở Nhật Bản thời xưa và vẫn được duy trì trong 83% hộ gia đình Nhật Bản, theo một khảo sát năm 1984 của chính quyền. Cũng nghiên cứu trên đã chỉ ra rằng sự mua sắm càng lớn thì các bà vợ các ít có quyền kiểm soát. Đối với các đồ điện tử chính, 48% cặp vợ chồng cùng đưa ra quyết định, trong khi 30% số ông chồng và 17% số bà vợ ra quyết định một mình. Mức độ đưa ra quyết định chung hầu như tương tự khi mua sắm đất đai và nhà cửa, nhưng tỷ lệ đàn ông tự quyết định việc mua bất động sản (38%) lớn nhiều hơn so với vợ (2%). Phụ nữ chỉ ra rằng nếu như họ quyết định mua tủ lạnh mới hay thậm chí là nhà mới thì điều đó không có nghĩa là họ có thể quyết định sẽ sống cuộc đời của mình ra sao. Ví dụ, họ có thể lưỡng lự chi tiền cho lớp học tennis của bản thân, hoặc bất cứ cách nào khác có thể làm ông chồng, người đưa tiền lương cho họ, không hài lòng. Cho đến nay, phụ nữ Nhật Bản dường như vẫn duy trì sự độc lập tâm lý cho phép họ gọi chồng bằng cái tên mà phụ nữ phương Tây không bao giờ dám mơ tưởng đến, ngay cả trong thời kỳ mà họ phụ thuộc kinh tế lớn nhất. Họ không ngần ngại gọi chồng là “gã chuyển lương” (kyuryu unpannin). 

Có một số trường hợp mà phụ nữ thành công so với ông chồng thất nghiệp. Vào lúc mà nghề làm tóc là công việc tốt nhất cho phụ nữ, mỗi người đàn ông để vợ hỗ trợ về tài chính đều được gọi “chồng của thợ làm tóc” (kamiyui no teishu), một khái niệm vẫn còn được dùng hiện nay.

Do phụ nữ Nhật Bản nắm giữ hầu bao nên các hãng bán sản phẩm tiêu dùng và các cơ hội đầu tư thường xuyên ve vãn họ. Những người chuyên tụ tập ở quầy vay nợ và tiền gửi dài hạn tại các ngân hàng Nhật Bản hầu như đều là những phụ nữ trông cáu kỉnh với mái tóc xám và bộ kimono xám. Các nhà quảng cáo Nhật Bản thừa nhận rằng phụ nữ thuận theo sự ưa thích cá nhân ngay cả khi mua sắm cho cả gia đình, do vậy họ ngày càng hướng tới phụ nữ khi quảng cáo xe hơi và máy tính, cũng như thực phẩm và thời trang. Nhờ vào chiến lược mới của các công ty chứng khoán, một số nữ nhân viên bán hàng tại nhà tươi cười ở Nhật Bản hiện nay đang bán cổ phiếu và trái phiếu thay vì mỹ phẩm.

Trích trang 72-73

[Bình luận: Mấy ông chồng kiểu này ở Việt Nam giờ cũng phổ biến lắm. Ở Việt Nam có lẽ họ sẽ được gọi là ông chồng năm mươi nghìn!]

Thursday, March 17, 2016

Những huyền thoại an ủi: Canada và chiến tranh Việt Nam

Trong bài viết "Những huyền thoại an ủi: Canada và Chiến Tranh Việt Nam", tác giả Yves Engler đã phơi bày sự thật về huyền thoại một cựu thủ tướng Canada chống chiến tranh Việt Nam, mà thực ra ông ta ủng hộ nó. Điều này làm chúng ta liên tưởng đến huyền thoại Ngô Đình Diệm là người theo chủ nghĩa dân tộc và chống lại Hoa Kỳ. Tất nhiên đó là sự dối trá.

Những huyền thoại an ủi: Canada và chiến tranh Việt Nam

Trong khi việc đưa tin về chuyến viếng thăm Washington mới đây của Justin Trudeau vô vị một cách đáng ngạc nhiên trong sự nhấn mạnh vào “sự thân thiết” giữa Obama và thủ tướng Canada, ít nhất nó cũng chính xác (theo nghĩa giới hạn mà truyền thông chính thống đặt ra), ngoại trừ việc chương trình 60 Phút đã nhầm lẫn một cách nực cười bức ảnh ngôi sao Kim Cattral của phim Sex and the City với Margaret Trudeau. Tuy vậy, một nội dung khác đã không bị truyền thông chống lại như là lời nói dối và huyền thoại quốc gia nguy hiểm.

Một số hãng truyền thông đã thảo luận về việc Lester Pearson viếng thăm Lyndon Johnson sau khi ông ta được cho là “có một bài phát biểu lên án sự can dự của Hoa Kỳ ở Việt Nam.” Báo chí Canada đã tường thuật bài phát biểu của cự thủ tướng và cuộc gặp mặt với tổng thống Hoa Kỳ như sau: “’Pearson không bao giờ viếng thăm nữa, sau xung đột nổi tiếng năm 1965. Ông ấy phản đối chiến tranh Việt Nam và Johnson đã tóm lấy ve áo của ông ta rồi nói gằn giọng: “Đừng đến phòng ngủ của tao và đái ra chăn của tao.’”

Phát biểu của Pearson tại đại học Temple ở Philadelphia vào đêm trước khi ông ta gặp Johnson dường như là ví dụ được trích dẫn nhiều nhất về việc lãnh đạo Canada (được cho là) phản đối chủ nghĩa quân phiệt Hoa Kỳ. Ngay cả các tác giả nói chung là quan trọng như Linda McQuaig cũng nhắc đến nó như là “sự đóng góp vào nỗ lực chấm dứt của chiến tranh Hoa Kỳ ở Việt Nam.”

Nhưng đây là điều mà Pearson đã thực sự nói ở Philadelphia: “Chính quyền và đại đa số người dân ở đất nước tôi hoàn toàn ủng hộ chính sách giữ gìn hòa bình và tạo dựng hòa bình của Hoa Kỳ ở Việt Nam.” 

Trong Sự đồng phạm lặng lẽ: Sự can dự của Canada trong Chiến Tranh Việt Nam, Victor Levant đặt phát biểu của Pearson vào bối cảnh chính xác: 

“Trong bài diễn văn ở Temple, thủ tướng không chấp nhận tất cả những điều kiện và hầu hết các kết luận của chính sách Hoa Kỳ. Theo quan điểm của Pearson, nguyên nhân chính gây ra sự gia tăng chiến tranh ở Việt Nam là sự xâm lược của Bắc Việt. Ông ta nói, ‘tình hình này không thể cải thiện được cho đến khi Bắc Việt hiểu rằng sự xâm lược, dưới bất cứ vỏ bọc nào, vì bất kỳ lý do gì, đều không được chấp nhận và sẽ không thể thành công.’ Điều này có tác động rộng lớn, do ‘không có quốc gia nào… có thể cảm thấy an toàn nếu như sự đầu hàng ở Việt Nam dẫn đến sự biện hộ cho xâm lược thông qua lật đổ và chiến tranh giải phóng quốc gia giả tạo.’ Nếu như hòa bình có thể đạt được, điều kiện đầu tiên là ngừng bắn và điều này chỉ diễn ra nếu như Hà Nội thừa nhận những sai lầm trong đường lối của họ: ‘hành động xâm lược của Bắc Việt để mang sự giải phóng cộng sản (có nghĩa là sự cai trị của cộng sản) đến Nam Việt Nam phải chấm dứt, chỉ khi đó thì đàm phán mới có thể diễn ra.’ Hành động quân sự của Hoa Kỳ nhằm mục đích chống lại sự xâm lược của Hà Nội, các biện pháp có đi quá xa, trong đó có việc ném bom miền Bắc, song hoàn toàn chính đáng: ‘các cuộc tấn công trả đũa đối với các mục tiêu quân sự của Bắc Việt, vốn là một sự khiêu khích lớn, nhằm mục đích cho thấy rõ rằng việc duy trì chính sách xâm lược đối với miền nam sẽ trở thành một gánh nặng lớn đối với chế độ miền Bắc. Sau khoảng hai tháng không kích, thông điệp đã được đưa ra rõ ràng và sáng tỏ.’”

Levant viết tiếp:

“Mặt khác, Pearson khẳng định rằng việc tiếp tục ném bom, thay vì làm suy yếu ý chí kháng cự của Hà Nội, có thể dẫn đến tình thế không khoan nhượng. Do đó, ông ta đề xuất một động thái chiến thuật là Hoa Kỳ nên cân nhắc “tạm ngừng” ném bom: ‘có nhiều yếu tố mà tôi không ở vị thế để cân nhắc. Nhưng ở đây ít nhất là việc tạm ngừng không kích Bắc Việt, vào đúng thời điểm, có thể cho nhà cầm quyền Hà Nội một cơ hội. Nếu họ muốn đón nhận cơ hội đó, để tạo ra một số sự linh hoạt cho chính sách của họ mà không có vẻ như là phải làm điều đó dưới sức ép quân sự. Nếu như sự tạm ngừng diễn ra trong một thời gian giới hạn, tỷ lệ đụng độ ở Nam Việt Nam có thể cho thấy cách đo lường chính xác sự hữu dụng và mong muốn tiếp tục. Dĩ nhiên, tôi không đề xuất bất cứ sự nhượng bộ nào về nguyên tắc, hay bất cứ cắt giảm sức kháng cự xâm lược nào ở Nam Việt Nam. Sự kháng cự có thể đòi hỏi gia tăng sức mạnh quân sự được dùng để chống lại và tấn công cộng sản có vũ trang. Tôi chỉ muốn đề xuất rằng một sự tạm ngừng có tính toán và được thông báo trên chiến trường vào đúng lúc có thể tạo điều kiện thuật lợi cho sự phát triển các giải pháp ngoại giao vốn không dễ dàng áp dụng cho vấn đề trong tình thế hiện tại. Ít nhất, điều đó cũng có thể cho thấy sự không khoan nhượng của chính quyền Bắc Việt.’” 

Hãy tiếp tục phân tích lập trường “chống chiến tranh” của Pearson. Khoảng 3 triệu người Việt Nam đã chết trong chiến tranh của Hoa Kỳ ở Đông Dương, với khoảng 100.000 người chết khi Hoa Kỳ ném bom miền Bắc. Đánh giá phát biểu của Pearson ở Temple theo các khái niệm hời hợt nhất, sự phản đối ném bom miền Bắc là lời kêu gọi chấm dứt 3,3% số người chết.

Khi Pearson gặp Johnson vào ngày kế tiếp, tổng thống đang phát khùng vì các quan chức lập chính sách đối ngoại cao cấp đã tranh luận về việc tạm ngừng ném bom Bắc Việt (điều sẽ diễn ra một tháng sau đó và khi Washington tái khởi động chiến dịch ném bom thì Pearson lại công khai bảo vệ nó). Bằng phát biểu của mình, Pearson đã đứng về phía các đối thủ của Johnson trong chính quyền Hoa Kỳ sau khi Johnson ra lệnh ném bom. Theo các tài liệu nội bộ của chính quyền được tiết lộ trong Hồ Sơ Lầu Năm Góc, vào tháng 5 năm 1964, Pearson đã đồng ý với yêu cầu của Johnson về việc có các thanh sát viên Canada trong Ủy Ban Kiểm Soát Quốc Tế, vốn được coi là để giám sát việc triển khai Hiệp Định Geneva và thống nhất hòa bình Việt Nam, để chuyển thông điệp đe dọa ném bom của Hoa Kỳ cho các lãnh đạo Bắc Việt. Khi làm điều đó, chủ nhân giải Nobel Hòa Bình của Canada đã tiếp tay cho tội ác chiến tranh nghiêm trọng. 

Câu chuyện về việc Johnson phản đối Pearson vào ngày kế tiếp chỉ được phơi bày một thập kỷ sau đó, khi hành động của Hoa Kỳ ở Việt Nam đã hoàn toàn tai tiếng. Vào năm 1974, cựu đại sứ Canada ở Washington Charles Ritchie viết, “tổng thống bước về phía ông ta và nắm lấy ve áo khoác của ông ta, đồng thời đưa tay kia lên trời.” Ritchie tường thuật Johnson đã nói: “Mày đừng có đến đây và đái ra chăn của tao.”

Trong khi mô tả của vị đại sứ hầu như là một sự cường điệu, các nhà bình luận sau đó đã tô vẽ cho lời kể của Ritchie. Một người nói Johnson “tóm lấy ve áo khoác của Pearson và lắc ông ta rất mạnh.”

Dĩ nhiên là một câu chuyện giải trí nhưng không phải là sự thật, cũng như việc nói rằng Lester Pearson phản đối chiến tranh là sự dối trá.

Trong khi đối với những người tạo ra huyền thoại quốc gia logic và sự kiện không cần phù hợp thì điều quan trọng là chúng ta hiểu thực tế của quá khứ nếu như chúng ta muốn xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn.

Yves Engler là tác giả của cuốn sách The Ugly Canadian: Stephen Harper’s Foreign Policy

Thursday, March 10, 2016

Bóc mẽ các huyền thoại chống phúc lợi xã hội

Bài A Citizen’s Guide to Combating Election Propaganda: Debunking Anti-Welfare Myths của Anthony DiMaggio có hai khía cạnh đáng chú ý, thứ nhất là ngay cả khi nhận trợ cấp xã hội thì người nghèo vẫn cứ nghèo, thứ hai là người nghèo thực sự không lười biếng và nghiện ngập như truyền thông vẫn rêu rao. Điểm sau có thể liên hệ với Việt Nam, khi mà phong trào bôi nhọ người nghèo là lười biếng, ngu dốt, nghiện ngập đang ngày càng trở nên phổ biến, thậm chí còn trở thành mốt để câu view trên mạng xã hội của một số người. 

Một hướng dẫn chống lại tuyên truyền bầu cử cho công dân: Bóc mẽ các huyền thoại chống phúc lợi xã hội 

Sự thành công của giới thượng lưu kinh tế và chính trị trong việc tạo ra sự ngu dốt phổ biến trở thành thứ cản trở lớn nhất đối với sự trao quyền dân chủ hiện nay. Xúi giục sự sợ hãi và khinh bỉ đối với “người khác” – bao gồm cả người thiểu số và người nghèo, là chiến thuật phổ biến được áp dụng trong bầu cử để thu được sự ủng hộ của cử tri. Đó là mục đích của việc xúi giục sự ngạo mạn – như được thấy trong việc bôi nhọ người nghèo và trong sự tán dương những người ‘làm việc’ trái ngược với những người (được cho là) “không làm việc”. Không may thay, hàng sa số người Mỹ trở thành nạn nhân của kỹ thuật chia rẽ và chinh phục mà giới thượng lưu sử dụng. Mục đích trước mắt phải là tạo ra các công dân có tư duy phê phán, để quần chúng không dễ dàng “chấp nhận những gì họ nghe thấy” mỗi bốn năm từ những bộ mặt xinh đẹp đang tranh cử. Những điều viết dưới đây là một chỉ dẫn cho độc giả để giúp họ đối thoại với bạn bè, hàng xóm, người quen và gia đình, để chống sự tuyên truyền phát xít, phân biệt thường xuyên được áp dụng chống lại các nhóm bất lợi ở Hoa Kỳ.

Ở đây, tôi tập trung vào các mẫu rập khuôn chống phúc lợi được các ứng cử viên chủ chốt của năm nay sử dụng. Donald Trump và Tech Cruz, bên cạnh đó là Hillary Clinton, dựa vào các mẫu rập khuôn cũ kỹ, bôi nhọ người nghèo nhằm cắt giảm chi tiêu phúc lợi xã hội. Hình mẫu của Clinton bắt nguồn từ những năm 1990, khi bà ta và chồng thành công với Luật Điều Hòa Trách Nhiệm Cá Nhân và Cơ Hội Nghề Nghiệp (PRWORA), xóa bỏ chương trình trợ cấp của chính quyền quốc gia cho các gia đình có trẻ em phụ thuộc (một sáng kiến chống nghèo khổ thành công bắt nguồn từ Đại Khủng Hoảng). Sự ủng hộ của Clinton đối với PRWORA được biện minh bằng giả định là người nghèo tìm cách hưởng lợi miễn phí từ hệ thống phúc lợi và từ chối làm việc, so với hầu hết người Mỹ đang kiếm sống bằng cách làm việc chăm chỉ và hy sinh.

Cruz và Trump tiếp tục sự đả kích của Clinton đối với người nghèo. Cruz đả kích chương trình phiếu thực phẩm (Chương Trình Hỗ Trợ Dinh Dưỡng Bổ Sung,hay SNAP) cho “hàng triệu người mắc kẹt trong sự phụ thuộc dài hạn”, đồng thời Trump lên án các chương trình phúc lợi tạo ra “phần thưởng” cho bộ phận người nghèo “không làm việc”. Trump nhắc lại phát biểu cũ của Romney trong cuộc tranh cử tổng thống năm 2012, cho rằng “chúng ta có một xã hội ăn không ngồi rồi. 50% không thể cáng đáng, và thật bất công đối với họ, nhưng không thể cáng đáng cả 50% còn lại.”

Từ lâu tôi đã thất vọng về “kiến thức phổ thông” liên quan tới các chương trình phúc lợi của Hoa Kỳ. Nhiều người bảo thủ mà tôi biết chấp nhận “kiến thức” này chỉ bởi vì họ nghe được từ bố mẹ, bạn bè và giới thượng lưu chính trị, mà không hề xem xét các bằng chứng thực tế. Sự rối loạn nhận thức là vấn đề chủ chốt, công dân ngày càng bám chặt lấy niềm tin của họ khi đối mặt với các bằng chứng hiển nhiên phủ nhận những định kiến có sẵn của họ. 

Về mặt lịch sử thì Hoa Kỳ là nước ít giảm thuế và chi tiêu cho tất cả các loại chương trình xã hội nhất trong số các quốc gia giàu có, mặc dù người ta sẽ khó có thể biết được điều này khi xem truyền thông đại chúng và bình luận chính trị. Thế còn bao nhiêu khẳng định chống phúc lợi được đưa ra trong các bài diễn văn ở Hoa Kỳ thì sao? Tôi sẽ liệt kê chúng ở dưới, giúp các bạn thấy rằng hầu hết những gì mà giới thượng lưu chính trị nói với bạn về người hưởng phúc lợi đều sai.

Huyền thoại “người hưởng phúc lợi lái xe Cadillac và ăn tôm hùm” 

Những khẳng định này phổ biến từ thời Reagan. Chúng ta được nghe rằng, những người hưởng phúc lợi đã khéo léo thao túng hệ thống và có nhiều tiền tới mức họ có thể đi xe Cadillac Escalades cũng như mua bít tết và tôm hùm, trong khi người lao động Mỹ bình thường phải nỗ lực và tránh những chi tiêu xa hoa. 

Trên thực tế, hầu hết người nghèo Mỹ đều nỗ lực để được ăn tốt hơn và có được phương tiện đi lại cơ bản. Liên quan đến tiêu thụ thực phẩm, mối liên hệ mạnh giữa nghèo khổ và béo phì ở Hoa Kỳ đã được biết rõ, người nghèo Mỹ không đủ khả năng mua các thức phẩm lành mạnh như trái cây và rau cỏ. Để so sánh, thực phẩm chế biến sẵn, thường xuyên là các sản phẩm làm từ ngô được trợ cấp của chính quyền, rất rẻ và được người nghèo tiêu thụ nhiều. Theo dữ liệu gần đây của American Journal of Clinical Nutrition, 1 dollar có thể mua 1.200 calorie của khoai tây chiên hoặc 875 calorie của soda, nhưng chỉ mua được 250 calorie của rau cỏ hoặc 170 calorie của hoa quả tươi. Cũng cần phải thấy là những bang nghèo nhất của Hoa Kỳ là những bang có nhiều người béo phì nhất. Theo bản tin của CNN, “5 bang nghèo nhất cũng nằm trong số 10 bang có nhiều người béo nhất, 8 trong số 10 bang nghèo nhất cũng nằm trong số 10 bang có tuổi thọ thấp nhất.” Ở Hoa Kỳ, số người trung bình trong một gia đình thuộc nhóm 20% nghèo nhất theo phân phối thu nhập chỉ nhận được 3,33 dollar một ngày từ chương trình SNAP để chi trả cho thực phẩm. Sự trợ cấp nghèo nàn này có nghĩa là người nghèo Mỹ bị buộc phải “co kéo chi tiêu”, thường xuyên sử dụng thực phẩm giá rẻ, nhiều muối và chất béo.

Về phương tiện đi lại, người hưởng phúc lợi hiếm khi phù hợp với định nghĩa giàu có của giới thượng lưu đi xe Cadillac. Người ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy người hưởng phúc lợi xã hội vẫn tiếp tục lái chiếc xe trông có vẻ đắt đỏ còn lại từ trước khi họ mất việc. Nhiều người Mỹ đã rớt nhanh từ sự giàu có xuống thất nghiệp sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008. Nhìn chung, người hưởng phúc lợi ít sở hữu xe hơi hơn những người không hưởng phúc lợi. Trong khi chỉ có 3% số hộ gia đình không hưởng phúc lợi không có xe hơi thì số lượng những người hưởng phúc lợi không có xe hơi chiếm gần một phần tư. Hộ gia đình trung bình hưởng phúc lợi xã hội có một xe hơi trong khi hộ gia đình trung bình không hưởng phúc lợi xã hội sở hữu hai chiếc. 

Các nghiên cứu trước đây cho biết đi lại là vấn đề của người hưởng phúc lợi xã hội. Ví dụ, một nghiên cứu của Minnesota cho biết 85% số người hưởng phúc lợi xã hội của bang coi đi lại là “vấn đề lớn” hoặc “một dạng vấn đề” khi muốn giữ việc làm. Các nghiên cứu ở Illinois và New Jersey cho biết khoảng ¼ số cư dân của bang nói vấn đề đi lại cản trở khả năng làm việc của họ. Số lượng còn cao hơn trong các nghiên cứu của Missouri và Utah, 57% và 55% số người nói rằng đi là “rào cản đối với việc làm”. Thực trạng của việc làm ở Hoa Kỳ là chúng ta có nền văn hóa lấy xe hơi làm trung tâm. Để nắm lấy một cơ hội việc làm, người ta cần có tiền cho việc đi lại. Nhiều người nghèo Mỹ đã cảm thấy sự khó khăn trong nền văn hóa xe hơi này, hoặc là không thể mua một chiếc xe hơi, hoặc là khó giữ được một chiếc xe hơi cũ kỹ. 

Huyền thoại “họ không muốn làm việc và chưa bao giờ có việc làm” 

Nhiều bạn bè, gia đình và sinh viên nói chuyện với tôi đã mặc định trong nhiều năm là phúc lợi xã hội hào phóng tới mức những người hưởng chúng không cần phải làm việc. Sự mặc định đó có thể phủ nhận bằng nhiều lý do. Thứ nhất, nếu người ta xem xét những người hưởng phúc lợi từ chương trình phúc lợi chính của nhà nước ở Hoa Kỳ - Hỗ Trợ Tạm Thời Cho Các Gia Đình Khẩn Cấp (TANF) – điều kiện về việc làm là ít nhất 30 giờ mỗi tuần cho mỗi người, hoặc 50 giờ làm việc mỗi tuần cho cả đôi, để được nhận phúc lợi. Hơn nữa, những phúc lợi này chỉ giới hạn trong 5 năm (ít hơn ở một số bang). Nói tóm lại, những người hưởng TANF không có cách nào tránh làm việc bởi tính chất cực kỳ ngắn hạn của chương trình này, cùng với các điều kiện về việc làm gắn liền trong đó. Người hưởng TANF trung bình của gia đình 3 người trong số 20% nghèo nhất Hoa Kỳ nhận được phúc lợi trung bình 42 dollar/tháng, khó có thể đủ để không phải làm việc. Sự cáo buộc rằng người nghèo được hưởng phúc lợi dồi dào tới mức họ không cần làm việc là luận điệu tuyên truyền ngớ ngẩn, ngây thơ và không có bằng chứng. Hai phần ba số người hưởng TANF tham gia chương trình ít hơn 1 năm và thời gian trung bình tham gia chương trình của người nhận phiếu thực phẩm và Mediaid là từ 1 đến 3 năm.

Huyền thoại “phúc lợi khiến người nghèo trở nên lười biếng” 

Các thống kê mới đây về người hưởng phúc lợi xã hội cho thấy đại đa số người được chia theo các nhóm nhân khẩu học cần sự trợ giúp của liên bang hay bang vì nhiều lý do rõ ràng. Đại đa số người hưởng phúc lợi không phải là những người có thể từ chối làm việc. Hơn 90% số người hưởng phúc lợi xã hội nằm trong ba nhóm sau đây. Họ là A. đang làm việc và thu nhập thấp đến mức được xếp vào nhóm “người nghèo có việc làm” và đủ điều kiện nhận trợ cấp xã hội; B. tàn phế và không có khả năng thực hiện các hoạt động nghề nghiệp như những người khỏe mạnh; hoặc C. người già và có thu nhập cố định từ lương hưu dựa trên phúc lợi 401K, An Sinh Xã Hội và các phúc lợi khác. Đại đa số những người thuộc nhóm thứ ba đã làm việc suốt thời trẻ, thế nên khẳng định về sự lười biếng là không đúng. 

Huyền thoại “họ muốn có nhiều con cái để hưởng thêm phúc lợi” 

Một trong những huyền thoại thô tục nhất chống lại những người hưởng phúc lợi xã hội là họ có nhiều con cái, để gia tăng phúc lợi và không phải làm việc. Tôi biết rất nhiều người hưởng phúc lợi (và bản thân cũng từng hưởng phúc lợi), tôi chưa từng gặp bất kỳ ai trong suốt cuộc đời mình giống như định nghĩa đó. Tuy vậy, những người phản đối phúc lợi xã hội mà tôi biết gần như là thường xuyên lặp đi lặp lại khẳng định này. Khi xem xét kỹ lưỡng về quy mô gia đình theo thu nhập, người ta có thể thấy là có ít bằng chứng về việc người nghèo Mỹ có gia đình lớn hơn. Quy mô hộ gia đình trung vị ở Hoa Kỳ là 2,54 người. 

Dữ liệu cho thấy quy mô hộ gia đình lớn hơn phổ biến nhất trong nhóm gia đình có thu nhập cao hơn, ba nhóm với tỷ lệ lớn nhất của gia đình có nhiều hơn ba người thuộc về phần có thu nhập cao nhất. Những người kiếm được ít hơn 10.000 dollar/năm là nhóm lớn thứ tư có gia đình nhiều hơn ba người, nhưng ba nhóm có số gia đình nhiều hơn ba người nhỏ nhất nằm dưới gia đình có thu nhập trung vị quốc gia 50.000 dollar. Nói tóm lại, bằng chứng ở đây cho thấy hầu hết các cá nhân với thu nhập thấp thực sự có gia đình nhỏ hơn những người có thu nhập cao và các gia đình hưởng phúc lợi xã hội không lớn hơn gia đình không hưởng phúc lợi xã hội trung bình.

Huyền thoại “phúc lợi xã hội hào phóng nên người nghèo đã trở nên giàu có” 

Huyền thoại này quá ngớ ngẩn để thảo luận, hãy xem xét khoảng cách giữa hình tượng nữ hoàng hưởng phúc lợi lái xe Cadillac và hiện thực của người hưởng phúc lợi xã hội đang sống trong nghèo khổ. Tuy vậy, những người ủng hộ các giá trị chính trị phản động rất hay lặp lại điều này. Để điều chỉnh lại sự lệch lạc này, cần phải xem xét các thống kê sau đây. 1. Đại đa số gia đình hưởng phúc lợi – 75% - là người thuê nhà, không phải là chủ nhà. Trái lại, hơn 75% số gia đình không hưởng phúc lợi sở hữu nhà. 2. Thu nhập trung bình của những người thuộc nhóm 20% dưới cùng theo thu nhập – những người hầu như phải nhận phúc lợi – là khá thấp. Thu nhập của họ một phần thuộc về người nghèo có việc làm chỉ là 11.490 dollar/năm vào năm 2012, theo Cục Thống Kê Hoa Kỳ. Thu nhập ít ỏi của họ được bổ sung bằng phúc lợi xã hội, mặc dù những phúc lợi này cũng ít ỏi. Theo Cục Thống Kê, gia đình ba người trong nhóm 20% nghèo nhất theo thu nhập, hưởng phúc lợi từ 10 chương trình phúc lợi lớn nhất, bao gồm Medicaid, Phụ Nữ và Trẻ Em Sơ Sinh, trợ cấp nhà ở công cộng, phiếu thực phẩm, TANF, bảo hiểm y tế trẻ em nhà nước, tín dụng Thuế Thu Nhập Nhận Được, tín dụng thuế trẻ em, trợ cấp bảo hiểm y tế “Obamacare” và khấu trừ thuế phụ thuộc, trung bình chỉ là 9.000 dollar/năm, hay 3.000 dollar mỗi người. Đối với hộ gia đình ba người trong nhóm 20% thu nhập thấp nhất, tổng cộng thu nhập và phúc lợi tạo ra thu nhập bình quân chỉ là 20.490 dollar/năm. Đây là một thắng lợi vang dội của tuyền truyền về việc hộ gia đình ba người với thu nhập thấp nhờ vào phúc lợi xã hội có thể trở thành một phần của giới thượng lưu Hoa Kỳ.

Huyền thoại “người hưởng phúc lợi nghiện ngập hơn là làm việc” 

Huyền thoại này cần phải bác bỏ vĩnh viễn dựa trên dữ liệu hiện thời về việc sử dụng chất gây nghiện của người hưởng phúc lợi. Khi Tennessee bắt buộc người hưởng phúc lợi xã hội phải kiểm tra chất gây nghiện, nhiều người cho rằng điều đó là một bước tiến lớn trong trách nhiệm của chính quyền. Trái lại, việc kiểm tra cho thấy sự sử dụng chất gây nghiện của người hưởng phúc lợi xã hội là không tồn tại, theo số liệu thống kê. Chỉ có 800 người hưởng phúc lợi xã hội có kết quả dương tính đối với chất gây nghiện, hoặc 1% tổng số người hưởng phúc lợi. Các bang khác, trong đó có Arizona, Kansas, Missouri, Mississippi, Oklahoma, và Utah cũng áp dụng việc kiểm tra chất gây nghiện. Việc kiểm tra ở các bang này cho biết tỷ lệ dương tính đối với chất gây nghiện trung bình là từ 2 đến 8,4% số người hưởng phúc lợi xã hội, trái ngược với các khảo sát cho thấy tỷ lệ sử dụng chất gây nghiện của quốc gia là 9,4%. Các quan chức bảo thủ khẳng định rằng kiểm tra chất gây nghiện sẽ tiết kiệm cho quốc gia hàng đống tiền nhờ tống cổ hàng sa số những kẻ nghiện ngập ra khỏi chương trình phúc lợi. Nhưng việc bôi nhọ người hưởng phúc lợi xã hội như là những kẻ nghiện ngập là hoàn toàn dối trá.

Nhiều người Mỹ sẽ từ chối xem xét lại sự thù ghét người nghèo bắt nguồn từ sự tiếp nhận thông tin sai lệch của họ. Điều đó đã ăn quá sâu vào tâm lý và cá tính của họ để có thể loại bỏ. Nhưng với tư cách những người tiến bộ, chúng ta có trách nhiệm lật tẩy những điều đó trong kỳ bầu cử này bất cứ khi nào chúng ta có thể, bất kể là từ nguồn nào. Đối với những người dựa vào trợ cấp của chính quyền bị giới thượng lưu chính trị bôi nhọ để theo đuổi nghị trình giai cấp thượng lưu hẹp hòi, sự rủi ro là rất lớn.

Đối với các độc giả quan tâm, dữ liệu trong bài báo này được trích dẫn từ các nguồn sau

Arloc Sherman, Robert Greenstein, and Kathy Ruffing, “Contrary to ‘Entitlement Society’ Rhetoric, Over Nine-Tenths of Entitlement Benefits Go to Elderly, Disabled, or Working Households,” Center on Budget and Policy Priorities, February 11, 2012, 

Bryce Covert, “Your Assumptions About Welfare Recipients are Wrong,” Think Progress, December 18, 2013, http://thinkprogress.org/economy/2013/12/18/3081791/welfare-recipient-spending/

Tax Policy Center, “Household Income Quintiles, 2000-2012,” June 25, 2014,

LZ Granderson, “Poor and Fat: The Real Class War,” com, June 8, 2012,

Glenn Kessler, “A Misleading Chart on Welfare Spending,”Washington Post, February 21, 2013,

Pew Research Center, “January 2014 Political Survey,” January 15, 2014, 

Bryce Covert and Josh Israel, “What 7 States Discovered After Spending More Than $1 Million Drug Testing Welfare Recipients,”Think Progress, February 26, 2015,

Heidi Goldberg, “State and County Supported Car Ownership Programs Can Help Low-Income Families Secure and Keep Jobs,”Center on Budget and Policy Priorities, November 28, 2001, http://www.cbpp.org/archives/11-8-01wel.htm

Darlena Cunha, “Why Drug Testing Welfare Recipients is a Waste of Taxpayer Money,” Time Magazine, August 15, 2014,

Arthur Delaney, “How Long Do People Stay on Public Benefits?” Huffington Post, May 29, 2015,

Anthony DiMaggio là tiến sĩ khoa học chính trị của trường đại học Illinois, Chicago. Ông giảng dạy ở nhiều trường cao đẳng và đại học, cũng như viết nhiều sách, trong đó có các cuốn Mass Media, Mass Propaganda (2009), When Media Goes to War (2010), Crashing the Tea Party (2011), và The Rise of the Tea Party (2011). Có thể liên hệ với ông qua thư điện tử: anthonydimaggio612@gmail.com

Wednesday, March 9, 2016

Chuyện tầm phào của một ông bộ trưởng


Mới rồi có ông bộ trưởng liên hệ tới câu chuyện động đất sóng thần xảy ra tại Nhật Bản năm 2011 nói rằng:
Truyền thông quốc tế đưa tin một cháu bé 9 tuổi phải xếp hàng chờ phát bánh mì cứu trợ. Dù được ưu tiên đưa bánh mì trước, thế nhưng cháu bé đã bước lên trả lại và quay trở lại để xếp hàng. Một đất nước như vậy mới mong phát triển được.
Câu chuyện này diễn ra chưa lâu, nhưng sau này hầu hết những người chú ý theo dõi tin tức trên mạng đều biết rằng câu chuyện về cậu bé Nhật Bản đó là sản phẩm hư cấu của một nhà văn Việt Nam thuộc dạng cực hữu, chuyên đả kích chính quyền. Đây là một câu chuyện bịa, chưa từng có ai xác thực được nó và cũng không có truyền thông quốc tế nào đưa tin ngoài mấy trang blog lề trái và đám báo mạng Việt Nam luôn sao chép chụp giật không cần kiểm chứng. Ông bộ trưởng thậm chí còn kể sai cả câu chuyện (bịa) đó, đứa bé đang xếp hàng ấy không được ưu tiên phát đồ cứu trợ (không phải bánh mỳ, một người bình thường cũng biết là người Nhật không ăn bánh mỳ) mà được một người khác cho túi lương khô nhưng lại đem bỏ vào thùng chứa đồ cứu trợ để phát cho mọi người, còn nó thì tiếp tục xếp hàng.

Câu chuyện này được ông bộ trưởng dùng để so sánh với việc cầu lộc cầu tài của quan chức và doanh nghiệp và lý giải lý do Việt Nam thua kém các nước. Đại ý của ông là do dân Việt Nam chỉ thích ăn sẵn, không chịu hy sinh và không cố gắng phấn đấu. Truyền thông Việt Nam ưa thích những câu chuyện kiểu này, đám cực hữu lề trái cũng vậy, thế nên không có gì lạ khi phát biểu cũng như bản thân ông bộ trưởng được coi là hình mẫu của sự 'nói thẳng nói thật', 'thực sự có tâm vì đất nước'. Tất nhiên, sự 'nói thẳng nói thật' có bắt đầu bằng những điều dối trá thì cũng không vấn đề gì, vì ý nghĩa của nó quan trọng hơn nhiều. 

Nhiều năm trở lại đây, người ta được chứng kiến sự xét lại điên cuồng của những kẻ cực hữu và chống chế độ ở Việt Nam đối với câu chuyện được đưa vào sách giáo khoa về một cậu bé anh hùng. Đó là câu chuyện về thiếu niên Lê Văn Tám tự châm lửa lên mình để đốt kho xăng của địch. Cả truyền thông cũng như đám lề trái đều ra sức chứng minh rằng đó là một câu chuyện bịa đặt, được dựng lên để tuyên truyền và đó là bằng chứng cho sự nói láo của chế độ cộng sản. Tất nhiên, một người 'nói thẳng nói thật' như ông bộ trưởng thì có lẽ sẽ không bao giờ lấy hình ảnh tuyên truyền như Lê Văn Tám, cho dù hình ảnh ấy có được đưa vào sách giáo khoa và là của Việt Nam, để ca ngợi tinh thần hy sinh vì đất nước hay minh họa cho phát biểu của ông, bởi vì thật nguy hiểm khi dựa vào một điều mà nhiều người cho là sự bịa đặt.

Hình ảnh Lê Văn Tám về bản chất không khác gì hình ảnh cậu bé Nhật Bản (được bịa ra) kia, họ đều hy sinh vì đất nước, đều vì cái chung mà hy sinh cái riêng. Nếu như đám quan chức và dân đen trong bài phát biểu của ông bộ trưởng cầu xin một thánh thần xa lạ nào đó ban bổng lộc cho họ mà không tự mình chịu gian khổ kiếm lấy, làm cho hình ảnh dân tộc Việt Nam trở nên xấu xí trong mắt quốc tế và cho thấy một não trạng trì trệ khó có thể phát triển, thì việc vay mượn hình ảnh nước ngoài (bịa đặt) để minh họa cho lý tưởng của mình bất chấp hình ảnh tương tự có thật và đã tồn tại lâu dài của xứ sở mình, trên thực tế, cũng tương tự như hành động khấn vái thần thánh của đám quan chức và dân đen mê muội kia. Cả hai đều không tin vào những gì mình đã có, do vậy không tin ở bản thân mình và buộc phải cầu khẩn đến những thứ xa lạ. 

Đám dân đen và quan chức mê muội thì cầu xin của thánh thần, còn những người 'nói thẳng nói thật' 'hết lòng vì dân vì nước' thì cầu khẩn những bóng ma ngoại quốc. Những câu chuyện thật là tầm phào, tất nhiên dưới những hình thức khác nhau.

Lưu ý: Một số báo sau khi đăng bài phát biểu của ông bộ trưởng có lẽ đã nhận ra vấn đề với câu chuyện em bé Nhật Bản nên đã cắt bỏ phần đó, tuy nhiên một số báo khác vẫn đăng đầy đủ.

Tuesday, March 8, 2016

Cách người giàu lấy tiền của người nghèo ở Hoa Kỳ

Qua bài 'Reverse Robin Hood: Six Billion Dollar Businesses Preying on Poor People' của Bill Quigley, chúng ta có thể thấy cách mà chế độ tư bản bóp nặn từng đồng xu nhỏ của người nghèo mà không cần đến bạo lực, chỉ cần quan hệ mua bán bình thường. 

Robin Hood đảo ngược: Sáu hoạt động kinh doanh trị giá hàng tỷ dollar kiếm tiền trên lưng người nghèo.

Nhiều người thấy những gia đình nghèo khổ và tìm cách giúp đỡ. Những người thấy những gia đình nghèo khổ và thấy cơ hội kiếm lợi.

Đây là sáu ví dụ về cách ngành công nghiệp tỷ dollar được xây dựng trên lưng những người nghèo đơn độc, nhất là người da màu, từ tiền của họ, một dạng Robin Hood đảo ngược.

Dịch vụ đổi séc ra tiền mặt 

Dịch vụ đổi séc ra tiền mặt. Đổi tờ séc 100 dollar? Ở Walmart sẽ có giá là 3 dollar. Tại ngân hàng TD, một người không phải là khách hàng sẽ phải trả 5 dollar để đổi séc ra tiền mặt. 

Gần 10 triệu hộ gia đình với 25 triệu người dân không có bất kỳ tài khoản ngân hàng nào theo thống kê của FDIC. Hầu hết là bởi vì họ không có đủ tiền để duy trì số dư tối thiểu trong tài khoản. Dịch vụ đổi séc ra tiền mặt là một phần của ngành công nghiệp trị giá 100 tỷ dollar với hơn 6.500 cơ sở đổi séc ra tiền mặt ở Hoa Kỳ, nhiều trong số đó cũng cung cấp dịch vụ chuyển tiền, thanh toán hóa đơn dịch vụ công cộng và tương tự, theo lời khai trước Quốc Hội của ngành này. 

Các cửa hàng cầm đồ 

Hơn 30 triệu người sử dụng dịch vụ cho vay của các cửa hàng cầm đồ cho khoản vay trung bình 150 dollar. Một doanh nghiệp, Cash America, có 84 trung tâm đổi séc ra tiền mặt và 859 điểm cho vay ở Hoa Kỳ, hơn 260 chỉ riêng ở Texas, kiểm soát hơn 1 tỷ dollar nợ cầm đồ. Trong báo cáo thường niên năm 2014, họ cho biết có 30% số người không bao giờ quay lại để chuộc đồ đã cầm cố và việc bán những đồ vật đó mang lại hơn một nửa doanh thu của công ty. Công ty trả hàng triệu dollar tiền phạt trong năm 2013 vì tính phí quá cao đối với nhân viên quân sự và kiện vô lý hàng ngàn vụ án. Giám đốc điều hành của công ty nhận được 6 triệu dollar vào năm 2014.

Phí vượt hạn mức 

Phí vượt hạn mức, khi không có đủ tiền trong tài khoản giao dịch hoặc thẻ tín dụng để thanh toán, là ngành công nghiệp trị giá 11 tỷ dollar đối với ngân hàng, theo thống kê của Cục Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Tài Chính. Một bài báo của tờ New York Times giải thích cách ngân hàng tính phí vượt hạn mức ngay cả khi khách hàng có đủ tiền để thanh toán và bị buộc phải trả hơn một tỷ dollar cho việc thao túng cách lệnh mua hàng để tối đa hóa cơ hội tính phí phụ trội cho khách hàng. 

Vay nóng 

Vay nóng được người dân sử dụng hơn 15 triệu lần mỗi năm và có thể dẫn đến sự nợ nần chồng chất cũng như lãi suất khủng khiếp lên đến 391% theo Cục Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Tài Chính. Pew Charitable Trusts cho biết vay nóng là ngành công nghiệp đem lại 7 tỷ dollar mỗi năm. Ủy Ban Thương Mại Liên Bang đã thắng một vụ kiện trị giá 300 triệu dollar chống lại hai công ty cho vay nóng đã lừa dối người vay tiền, ví dụ vay 300 dollar và nghĩ rằng sẽ trả lại 390 dollar nhưng thực tế là phải trả 975 dollar cho khoản vay 300 dollar. Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ cáo buộc cựu vận động viên đua xe Scott Tucker về tội hình sự trong việc điều hành một đường dây cho vay nóng quốc gia trị giá 2 tỷ dollar thường xuyên tính lãi suất từ 400 đến 700% mỗi năm đối với hơn 4,5 triệu người. Công ty cho vay nóng lớn nhất quốc gia, Advanced America, đã tính lãi suất hơn 450% đối với gần 140.000 người ở Bắc Carolina cho đến khi nhà nước ngăn họ lại.

Vay cầm cố xe hơi 

Hơn hai triệu người sử dụng vay cầm cố xe mỗi năm, trả khoảng 3 tỷ dollar tiền phí mỗi năm, với lãi suất hàng năm lên đến 300%, theo Pew Charitable Trusts. Trung Tâm Vay Nợ Có Trách Nhiệm ước lượng có hơn 7000 doanh nghiệp cho vay thế chấp bằng xe hơi, thường tính lãi suất thường niên lên đến 300%, mặc dù họ quảng cáo chỉ 25% mỗi tháng. Người vay trung bình vay 951 dollar và thanh toán 3.093 dollar.

Thu nợ 

Thu nợ là ngành công nghiệp đem lại 13 tỷ dollar mỗi năm, thu dụng hơn 140.000 nhân công với 6.000 công ty, theo Cục Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Tài Chính.

Những người thu nợ tạo ra hơn 1 tỷ (phải một tỷ) liên lạc với khách hàng mỗi năm, theo tờ tin tức của ngành. 12 triệu người (5,3% số người tiêu dùng) ít nhất đã quá hạn thanh toán 30 ngày, theo to Viện Đô Thị. 35% số người trưởng thành với hồ sơ tín dụng, 77 triệu người, có nợ phải thu được ghi trong hồ sơ của họ. Tờ Pro Publica đánh giá 5 năm các bản án của tòa án và cho biết tỷ lệ kết án cao gấp hai lần ở các khu hầu hết là người da màu so với khu hầu hết là người da trắng. 

Cục Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Tài Chính có hơn 74.000 khiếu nại về việc thu nợ không hợp lý, loại khiếu nại hàng đầu của họ, theo báo cáo mới đây của Liên Minh Vì Xã Hội Công Bằng

Không chỉ có các doanh nghiệp nhỏ mà những tên tuổi lớn như Citigroup, Capital One, JPMorgan Chase, Bank of America và Wells Fargo cũng dính líu, trên thực tế Liên Minh Vì Xã Hội Công Bằng đưa tin các doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực thu nợ đã đóng góp gần 100 triệu dollar cho các ứng cử viên liên bang và đảng phái kể từ năm 2001 và chi 208 triệu dollar cho các nhà vận động chính sách liên bang.

Citibank bị CFPB kiện lần thứ hai vì làm sai lệch hồ sơ và cung cấp thông tin không chính xác trong việc thu nợ và đồng ý dàn xếp vụ án. 

Người thu nợ với the số lượng khiếu nại lớn nhất, Encore Capital Group chuyên mua nợ từ các chủ nợ khác sau đó tiến hành hàng trăm ngàn vụ kiện đã bị buộc phải hủy bỏ hơn 4.500 bản án chống lại người vay ở New York sau khi công ty bị cáo buộc đưa ra các vụ kiện giả mạo. 

JPMorgan Chase phải trả hơn 130 triệu dollar để dàn xếp một vụ án mà công ty bị tổng chưởng lý của 47 bang đưa ra tòa vì thu nợ bất hợp lý với cái được gọi là ký tắt, các văn bản pháp lý được chấp nhận và đệ trình mà không xem xét cẩn trọng. JPMorgan đã sớm trả 389 tiền phạt và hoàn tiền cho các chủ thẻ tín dụng vì vấn đề thu nợ.

Kết luận


Đây là một số tin tức mới. phe Dân Chủ đã soạn thảo và thông qua luật Cục Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Tài Chính, đang bắt đầu thu hút được một số sự chú ý trong việc theo dõi và điều tiết các hoạt động săn đuổi lợi nhuận này. Tin tức xấu là phe Cộng Hòa như Ted Cruz đang cố gắng hủy bỏ cục và một số người thuộc phe Dân Chủ cũng cố gắng làm cục vô dụng. Cũng có một số nhóm tốt như Trung Tâm Vay Nợ Có Trách nhiệm, họ cung cấp thông tin tuyệt vời về sự lạm dụng. Nhưng vào lúc này, việc kiếm tiền từ người nghèo vẫn là ngành kinh doanh thịnh vượng.

Bill Quigley dạy luật tại đại học Loyola, New Orleans và có thể liên lạc với ông qua quigley77@gmail.com.