Showing posts with label Phân biệt chủng tộc. Show all posts
Showing posts with label Phân biệt chủng tộc. Show all posts

Tuesday, October 27, 2015

Thiên đường của tự do và nhân quyền: Phạt để kiếm tiền

Brian Platt viết về sự tồi tệ của hệ thống cảnh sát Hoa Kỳ trong bài "The Police and Court System: Neoliberal America’s Tax Collectors". Hệ thống cảnh sát và tòa án đã trở thành những kẻ tống tiền và ăn cướp chuyên nghiệp để giúp chính quyền tăng nguồn thu ngân sách. Việc tống tiền và ăn cướp đó chủ yếu nhằm vào giai cấp công nhân, những người không có quyền lực để tự bảo vệ bản thân trong xã hội tư bản. Do ở Hoa Kỳ giai cấp và chủng tộc tương đối ăn khớp với nhau nên nạn nhân của các vụ ăn cướp, tống tiền chủ yếu là người da màu và da nâu. Hệ quả là bộ máy cảnh sát ngày càng trở lên bạo lực, bởi vì nhà nước không còn kiểm soát được quyền lực ấy nữa, ngược lại nhà nước tồn tại nhờ quyền lực ấy.  

Hệ thống cảnh sát và tòa án: Những kẻ thu thuế của Hoa Kỳ tân tự do

Vào tuần trước, Biloxi, bang Mississippi là thành phố mới nhất bị ACLU kiện vì thực hiện “modern-day debtors’ prison” [bắt giam người không thể đóng tiền phạt tư pháp]. Trong hai tháng qua, các vụ kiện tương tự đã được ACLU dùng đề chống lại chính quyền của Jackson, bang Mississippi, hạt Benton, bang Washington, New Orleans, thành phố Alexander, bang Alabama, và hạt Rutherford, bang Tennessee.

Hệ thống tư pháp hình sự đang ngày càng trở thành phương thức được ưa chuộng để tài trợ cho các chính quyền thành phố trong cơn ác mộng tân tự do hiện đại ở Hoa Kỳ. Cảnh sát nhằm vào những vi phạm nhỏ nhặt của người nghèo để phạt. Khi những khoản tiền phạt này không được đóng đúng hạn, tiền phạt bổ sung sẽ được tính thêm và người dân bị quẳng vào tù. Trong nhiều vụ, các nhân viên thu nợ tư nhân được thuê để săn đuổi những người nghèo, nhưng người thường xuyên nợ tiền phạt chồng chất nhưng hiếm khi được xóa nợ. Việc bóp nặn người nghèo để kiếm tiền cho thành phố đã cho phép các chính quyền địa phương cung cấp sự miễn thuế cho cộng đồng doanh nghiệp và người giàu có. Hay nói theo cách khác là những chương trình này tạo ra một cách thức khác để phân phối tiền từ giai cấp công nhân sang giai cấp tư sản.

Trong cuộc điều tra về Ferguson, bang Missouri trước đây vào năm 2015, bộ Tư Pháp đã kết luận: “Hoạt động của lực lượng thi hành pháp luật ở Ferguson đã bị thành phố định hướng vào doanh thu hơn là nhu cầu an toàn công cộng. Sự quan trọng của doanh thu này đã lấn át cả tính chất thể chế của sở cảnh sát Ferguson… và cũng đã định hướng tòa án địa phương.” Trao đổi nội bộ giữa các quan chức thành phố và cảnh sát đã cho thấy họ âm mưu bóp nặn người nghèo để bù đắp thiếu hụt ngân sách. Tất cả đều nói rằng gần một phần tư doanh thu của Ferguson là từ tiền phạt và Ferguson không phải là kẻ thi hành xuất sắc nhất ở hạt St. Louis.

Một điều tra mới đây của NPR cho thấy rằng thực tiễn dựa vào người nghèo để bù đắp cho chính quyền địa phương – bù đắp việc miễn thuế cho người giàu – không phải là duy nhất ở Ferguson hay Biloxi. Khắp đất nước, tiền phạt được dùng để tạo doanh thu. Một phân tích của NPR cho biết có 41 bang buộc người dân phải trả tiền cho “phòng và giường” khi họ bị giam giữ, 43 bang tính phí sử dụng luật sư công cho người dân, 44 bang tính phí quản thúc, 49 bang tính phí sử dụng vòng theo dõi. Kể từ năm 2010, tất cả các bang, ngoại trừ Alaska và Bắc Dakota đã tăng các khoản phí này để tăng thêm doanh thu. Trong một tuyên bố về vụ kiện chống lại Biloxi, luật sư Nusrat Choudhury của ACLU đã tóm tắt tình hình, “Đây thực sự là tống tiền bằng nhà tù. Các thành phố trên khắp đất nước, giống như Biloxi, đều đang tranh nhau gia tăng doanh thu và họ làm điều đó trên lưng của những người nghèo.”

Do giai cấp và chủng tộc có liên hệ gần gũi với nhau ở Hoa Kỳ nên sự tập trung bóp nặn người nghèo có nghĩa là nhằm vào người da màu và da nâu. Khi xem xét dữ liệu do Bộ Tư Pháp cung cấp, tờ New York Times đã phát ra ở Ferguson, nơi có 67% dân số là da màu, 83% vụ chặn xe và 93% vụ bắt giữ là nhằm vào người da màu. Một báo cáo năm 2011 của Hội Nghị Lãnh Đạo về Dân Quyền và Nhân Quyền đề cập đến sự gia tăng chủng tộc đã tiết lộ thêm về vấn đề phổ biến này. Một nghiên cứu năm 2007 ở Arizona cho thấy số người da màu, Latino, và Mỹ bản địa bị chặn xe vì “vi phạm giao thông” cao hơn rất nhiều so với lái xe da trắng. Ở Tây Virginia, một nghiên cứu năm 2009 cho thấy lái xe da màu bị chặn xe gấp 1,64 lần so với lái xe da trắng. Những nghiên cứu tương tự ở Illinois, Minesota và Texas cũng thu được kết quả tương tự. Thậm chí khi các nhà nghiên cứu tập trung hơn vào các hạt cụ thể - như những nghiên cứu ở hạt Sacramento, bang California và hạt DuPage, bang Illinois – họ cũng thấy rằng người da màu lái xe là nguyên nhân bị chặn xe. 

Đây cũng không phải là hiện tượng mới. Một điều tra của tờ Orlando Sentinel vào năm 1992 cho biết sở cảnh sát của hạt Volusia nhằm vào lái xe da màu và da nâu dọc theo đường I-95 để tống tiền dọc đường, tại đó cảnh sát sử dụng luật tịch thu tài sản dân sự - luật này cho phép cảnh sát tước đoạt tài sản cá nhân – để chiếm đoạt tiền và tài sản. Phân tích của tờ Sentinel với camera theo dõi của cảnh sát cho thấy “gần 70% vụ chặn xe là đối với người da màu hoặc Hispanic, một con số thật sự khác thường bởi vì đại đa số lái xe trên đường liên bang là da trắng.” Sở cảnh sát đã tịch thu gần 8 triệu dollar với sự bất lương đó.

Mới đây, một loạt phóng sự của tờ Washington Post cho thấy từ năm 2001 “có 61.998 vụ tước đoạt tiền mặt trên đường cao tốc và ở những nơi khác mà không có lệnh khám xét hay cáo trạng… tổng cộng là hơn 2,5 tỷ dollar.” Viết dưới bút danh Illinois, phó thống đốc Ron Hain giải thích mục đích của việc cướp bóc đúng theo nghĩa đen trên đường cao tốc là “Tất cả các thành phố quê hương của chúng ta đều đang nằm trên mỏ vàng miễn thuế.” Đàm thoại nội bộ do tờ Post thu thập đã cho thấy rằng cảnh sát và chính quyền thành phố ở Washington DC đã lên kế hoạch gia tăng doanh thu bằng cách tịch thu tài sản dân sự trong các đề án về ngân sách tương lai. 

Để tìm hiểu cách thức tịch thu diễn ra chúng ta có thể xem xét vụ việc của Ron Henderson và Jennifer Boatright, những người bản địa Texas, lái xe cùng với hai con nhỏ của Boatright từ Houston đến Linden. Sau khi dừng tại một cửa hàng tiện lợi ở thị trấn Tenaha, họ bị cảnh sát theo đuôi vài dặm trên con đường cho đến khi họ bị cảnh sát vẫy vào. Viên cảnh sát tuyên bố rằng Henderson, người Latino, đã chạy xe trên làn trái quá lâu, một kiểu biện minh hời hợt cho việc chặn xe phổ biến mang tính phân biệt chủng tộc. Sau khi khám xét xe, viên cảnh sát tịch thu 6.037 dollar, toàn bộ tiền tiết kiệm của cặp vợ chồng, họ phải đưa cho thành phố tiền nếu không họ có thể bị bắt giữ vì tội rửa tiền và gây nguy hiểm cho trẻ em. Nữ cảnh sát tuyên bố rằng sau khi họ bị kết án thì con của Boatright sẽ bị đưa vào trại nuôi dưỡng trẻ em. Trong nước mắt, Boatright đã mua lại tự do cho con của cô từ thị trấn Tehana chỉ với hơn 6.000 dollar.

Đề án tân tự do đòi hỏi tiền phải được tái phân phối từ giai cấp công nhân cho giai cấp tư sản – một trường hợp đảo ngược của Robin Hood. Một cách để làm điều này là chuyển gánh nặng của việc tài trợ cho chính quyền từ người giàu sang người nghèo. Sử dụng nhà nước cảnh sát cảnh sát quy mô lớn được phát triển trong chiến tranh chống ma túy, các chính quyền địa phương đã tìm ra phương thức sáng tạo mới để “đánh thuế” người nghèo bằng các nỗ lực hành pháp có chủ định. Do giai cấp và chủng tộc liên hệ chặt chẽ với nhau ở Hoa Kỳ nên điều này đã ngày càng khiến người da màu và da nâu rơi vào tầm ngắm của cảnh sát. Khi tổ chức cảnh sát là một thể chế bạo lực và phân biệt chủng tộc thì điều đó lại càng tạo cho cảnh sát nhiều cơ hội hơn để giết hại người da màu và da nâu. 

Đây là bi kịch cuối cùng của câu chuyện. Ở Nam Carolina, Walter Scott được vẫy vào vì là lái xe da màu và sau đó bị cảnh sát giết hại. Ở Cincinnati, Samuel Dubose bị vẫy vào vì cái mà công tố viên hạt gọi là một “chicken crap stop” [chặn xe với lý do vớ vẩn] và khi DuBose từ chối ra khỏi xe, viên cảnh sát đã bắn thẳng vào đầu ông ở cự ly gần khiến ông chết ngay lập tức. Sandra Bland bị vẫy vào ở hạt Waller, bang Texas vì tội có quá nhiều melanin trên da, khi cô phản đối sự bất hợp pháp của vụ chặn xe, viên cảnh sát kéo cô ra khỏi xe, đập đầu cô xuống đất và bắt giữ cô. Ba ngày sau cô chết ở trong nhà giam, bị những thủ phạm vô danh hành hình theo kiểu lynch – đáng ngờ nhất là cảnh sát hạt Waller. Hàng sa số các nạn nhân ít được biết đến, ở Portland, Keaton Otis bị cảnh sát vẫy vào bởi vì, theo lời viên cảnh sát bắt giữ, “người này… có bề ngoài giống như một gã côn đồ.” Otis chỉ có một lỗi vi phạm giao thông nhỏ trong hồ sơ khi viên cảnh sát bắn anh ta 23 phát đạn và giết chết anh ta.

Cảnh sát đại diện cho độc quyền bạo lực của nhà nước. Nếu chúng ta chấp nhận rằng dưới chủ nghĩa tư bản, mọi dạng nhà nước, như Marx đã nói, đều là sự chuyên chế của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân thì cảnh sát là bạo lực có tổ chức của giai cấp tư sản. Chỉ bằng cách nhìn này thì việc hệ thống cảnh sát và tòa án bóp nặn một cách có tổ chức giai cấp công nhân cùng với những hệ quả tất yếu của nó mới có thể được thấu hiểu. Nếu chúng ta chấp nhận tiên đề này thì việc xóa bỏ cảnh sát trở thành một yêu cầu cách mạng. Xóa bỏ cảnh sát đối với chúng ta là một nhiệm vụ lịch sử cũng giống như xóa bỏ chế độ nô lệ đối với công nhân Mỹ vào giữa thế kỷ 19. Cảnh sát không thể cải tổ được, chúng chỉ có thể bị xóa bỏ. 

Brian Platt is an aerospace machinist who lives in Seattle.

Friday, January 2, 2015

Cảnh sát được tạo ra để kiểm soát người nghèo và nhân dân lao động

Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "The Police Were Created to Control Poor and Working Class People" của tác giả Sam Mitrani về vai trò của cảnh sát trong xã hội tư bản hiện đại. Theo F. Engel trong cuốn "Nguồn gốc gia đình, nhà nước và chế độ tư hữu" thì các quốc gia thời kỳ chiếm hữu nô lệ cũng đã có một dạng cảnh sát, nhưng những người tự do khinh rẻ công việc đó, công việc cảnh sát như đi tuần và bắt giữ được giao cho nô lệ làm. Như vậy sự hình thành của cảnh sát ở miền nam nước Mỹ tương đối giống với chế độc chiếm hữu nô lệ cổ xưa.

Cảnh sát được tạo ra để kiểm soát người nghèo và nhân dân lao động

Trong hầu hết các cuộc tranh luận tự do về việc cảnh sát giết hại người da màu không có vũ trang mới đây, có một giả định ngầm là cảnh sát được mong đợi bảo vệ và phục vụ dân chúng. Trên hết, đó là lý do cảnh sát được tạo ra. Nếu chỉ là việc tái thiết lập quan hệ bình thường, tử tế giữa cảnh sát và cộng đồng, vấn đề này có thể được giải quyết. Người nghèo nói chung dễ trở thành nạn nhân của tội ác hơn bất cứ ai khác, lý do này vẫn tiếp diễn theo cách này, họ có nhu cầu lớn hơn những người khác đối với sự bảo vệ của cảnh sát. Có thể là trong số họ có vài kẻ xấu, nhưng nếu chỉ là cảnh sát không phân biệt chủng tộc, hay không thực hiện các biện pháp như chặn-và-khám xét, hay không e ngại người da màu, hoặc bắn vài người không có vũ trang, họ có thể hoạt động như là một dịch vụ hữu ích mà tất cả chúng ta đều cần.

Các nhìn nhận vấn đề độc lập kiểu này dựa trên nhầm lẫn về nguồn gốc của cảnh sát và mục đích họ được tạo ra. Cảnh sát không được tạo ra để bảo vệ và phục vụ dân chúng. Họ không được tạo ra để ngăn chặn tội ác, ít nhất là không như hầu hết mọi người hiểu. Họ chắc chắn không được tạo ra để thúc đẩy công lý. Họ được tạo ra để bảo vệ một dạng mới của chủ nghĩa tư bản lao động-làm thuê phát sinh từ giữa đến cuối thế kỷ 19 khỏi nguy hiểm do con đẻ của hệ thống gây ra, đó là giai cấp lao động.

Đây là cách khẳng định thẳng thừng một sự thật nhỏ bé, mặc dù đôi khi sự nhỏ bé cũng hữu ích để làm bối rối. 

Trước thế kỷ 19, không có lực lượng cảnh sát mà chúng ta sẽ thừa nhận ở bất cứ đâu trên thế giới. Ở Bắc Hoa Kỳ, có một hệ thống các đốc quân và cảnh sát trưởng được bầu cử, chịu trách nhiệm với dân chúng theo cách trực tiếp hơn cảnh sát ngày nay. Ở miền nam, thứ gần gũi nhất với lực lượng cảnh sát là đội tuần tra nô lệ. Sau đó, khi các thành phố miền Bắc lớn lên và tràn ngập người lao động làm thuê nhập cư, những người vốn tách biệt cả về vật chất lẫn xã hội với giai cấp thống trị, tầng lớp thượng lưu giàu có đang điều hành các chính quyền thành phố đã thuê hàng trăm và sau đó là hàng ngàn người có vũ trang để thiết lập trật tự tại các các khu dân cư lao động mới.

Xung đột giai cấp bùng nổ cuối thế kỷ 19 ở những thành phố của Hoa Kỳ như Chicago, nơi trải qua nhiều cuộc bãi công và bạo loạn vào những năm 1867, 1877, 1894. Trong mỗi biến động đó, cảnh sát tấn công người bãi công cực kỳ bạo lực, thậm chí trong những năm 1877 và 1894 quân đội Hoa Kỳ đóng một vai trò lớn trong việc đàn áp tối đa giai cấp lao động. Kết quả của những phong trào đó là cảnh sát ngày càng coi bản thân họ là một vạch xanh nhỏ bảo vệ nền văn minh, họ muốn nói tới nền văn minh tư sản, khỏi sự phá hoại của giai cấp lao động. Ý tưởng về trật tự được phát triển vào cuối thế kỷ 19 vang vọng tới ngày nay – ngoại trừ hôm nay, người da màu nghèo và người Latin là mối đe dọa chủ yếu, hơn là người lao động nhập cư.

Dĩ nhiên là giai cấp thống trị không nhận được mọi thứ mà họ muốn, và cũng không thu được nhiều điểm trong việc kiểm soát người lao động nhập cư. Đó là lý do tại sao các chính quyền thành phố lùi bước trước việc cấm nhậu nhẹt vào ngày chủ nhật, và là lý do khiến họ thuê nhiều người nhập cư làm cảnh sát, nhất là người Ireland. Bất chấp những sự nhượng bộ đó, các chủ doanh nghiệp liên kết với nhau để đảm bảo rằng cảnh sát ngày càng bị tách ra khỏi sự kiểm soát dân chủ, và thiết lập hệ thống quan chức, hệ thống quản trị cũng như các quy tắc ứng xử. Cảnh sát phân biệt với dân chúng bởi đồng phục, thiết lập các quy định riêng về thuê mướn, thăng cấp và sa thải, làm việc để xây dựng một tinh thần đồng đội độc nhất, cũng như đồng nhất bản thân họ với trật tự. Bất chấp những phàn nàn về tham nhũng và thiếu hiệu quả, họ thu nhận được nhiều hơn và nhiều hơn sự ủng hộ của giai cấp thống trị, để mở rộng chuyện đó ở Chicago, một ví dụ, các doanh nhân đóng góp tiền để mua cho cảnh sát súng trường, pháo, súng Gatling, các tòa nhà và tiền để thiết lập quỹ lương hưu cho cảnh sát cũng tuôn ra từ túi của họ.

Chưa bao giờ cảnh sát của một thành phố lớn thi hành “pháp luật” một cách trung lập, hay ở bất cứ đâu đến gần lý tưởng đó (trong vấn đề này, luật pháp không bao giờ trung lập). Ở miền bắc, họ hầu hết bắt giữ người dân với các “tội ác” được định nghĩa mập mờ về gây rối trật tự và sống lang thang suốt thế kỷ 19. Điều này có nghĩa là cảnh sát có thể bắt giữ bất kỳ ai mà họ cho là mối đe dọa đối với “trật tự”. Ở miền nam thời hậu chiến, họ đảm bảo uy quyền tối cao của người da trắng và bắt giữ phổ biến người da màu bằng cách vu cáo để cung cấp nhân lực cho hệ thống lao động trong các nhà tù.

Bạo lực mà cảnh sát gây ra và sự phân biệt đạo đức của họ với những người họ giám sát không phải là hệ quả của sự tàn bạo của cá nhân viên chức cảnh sát, mà là hệ quả của một chính sách được thiết kế cẩn trọng để nhào nặn cảnh sát thành một lực lượng có thể sử dụng bạo lực để giải quyết các vấn đề xã hội đồng hành với sự phát triển của nền kinh tế lao động-làm thuê. Ví dụ, trong một thời gian ngắn, khủng hoảng sâu sắc giữa những năm 1880s, Chicago tràn ngập gái điếm làm việc trên đường phố. Nhiều cảnh sát thừa nhận rằng những gái điếm đó là các phụ nữ nghèo khổ tìm một cách sống sót, và ban đầu dung tha cho hành vi của họ. Nhưng hệ thống quan chức của cảnh sát khẳng định rằng những người tuần tra phải làm nhiệm vụ bất kể là họ cảm thấy ra sao, và bắt giữ những phụ nữ đó, phạt và đưa họ ra khỏi đường phố, đưa vào nhà thổ, nơi mà họ có thể được một số thành viên của giới thượng lưu bỏ qua và một số khác kiểm soát. Tương tự, vào năm 1885, khi Chicago bắt đầu trải qua làn sóng bãi công, một số cảnh sát có cảm tình với người bãi công. Nhưng khi hệ thống quan chức cảnh sát và thị trưởng quyết định bẻ gẫy các cuộc đình công, những cảnh sát từ chối thực hiện đã bị sa thải. Theo những cách đó và hàng ngàn cách tương tự, cảnh sát được nhào nặn thành một lực lượng sẽ thiết lập trật tự đối với giai cấp lao động và người nghèo, bất chấp cảm xúc cá nhân của các viên chức tham gia.

Mặc dù một số người tuần tra cố tỏ ra tốt tính nhưng những người khác tàn bạo công khai, bạo lực của cảnh sát trong những năm 1880 không phải là trường hợp của một vài gã xấu – cũng như ngày nay.

Rất nhiều điều đã thay đổi kể từ khi cảnh sát được thiết lập – quan trọng nhất là dòng người da màu tràn vào các thành phố miền bắc, phong trào của người da màu giữa thế kỷ 19, và sự thiết lập hệ thống giam giữ quy mô lớn hiện hành để đáp lại trong trào đó. Nhưng những sự thay đổi đó không dẫn đến sự dịch chuyển nền tảng trong ngành cảnh sát. Chúng dẫn đến các chính sách mới được thiết kế để duy trì sự tiếp tục mang tính nền tảng. Cảnh sát được tạo ra để sử dụng bạo lực hòa giải nền dân chủ đại điện với chủ nghĩa tư bản công nghiệp. Ngày nay, họ chỉ là một phần của hệ thống “tư pháp hình sự” đang tiếp tục đóng vai trò tương tự. Công việc cơ bản của họ là thiết lập trật tự đối với những người phẫn nộ hoàn toàn có lý với hệ thống – những người trong xã hội của chúng ta hiện nay đa phần là người nghèo da màu.

Một hệ thống cảnh sát dân chủ là không thể tưởng tượng – một trong số đó là cảnh sát được bầu chọn và đáng tin cậy đối với những người mà họ giám sát. Nhưng đó không phải là điều mà chúng ta có. Đó cũng không phải là điều mà hệ thống cảnh sát hiện tại được tạo ra để làm.

Nếu như có một bài học tích cực từ lịch sử nguồn gốc của cảnh sát, đó là khi công nhân tổ chức nhau, phản đối giao nộp hay hợp tác, và gây ra nhiều vấn đề đối với các chính quyền thành phố, cảnh sát buộc phải tạm ngưng những hoạt động khó chịu nhất của họ. Sát hại các cá nhân cảnh sát, như đã diễn ra ở Chicago vào ngày 3 tháng 5 năm 1886 và mới đây là ở New York vào ngày 20 tháng 12 năm 2014, chỉ khiến cho những người đó phải chịu sự đàn áp tàn nhẫn – một phản ứng mà chúng ta đã thấy ngay từ đầu. Nhưng phản kháng với quy mô lớn có thể khiến cảnh sát lưỡng lự. Điều này xảy ra ở Chicago trong những năm 1880, khi cảnh sát rút lui khỏi cuộc đàn áp bãi công, thuê các viên chức nhập cư và tái thiết lập sự tín nhiệm đối với giai cấp lao động sau khi vai trò của họ trong cuộc triệt hạ tàn bạo vào năm 1877 thay đổi đột ngột.

Cảnh sát có thể lùi bước một lần nữa nếu sự phản kháng đối với vụ giết hại Eric Garner, Micheal Brown, Tamir Rice và hàng sa số những người khác được tiếp tục. Nếu chúng được tiếp tục, đó sẽ là chiến thắng của những ngày rung chuyển này và sẽ cứu sống nhiều sinh mạng – Nhưng chừng nào mà hệ thống này còn yêu cầu cảnh sát kiểm soát bằng bạo lực đối với một phần lớn những người sống sót, mọi sự thay đổi trong chính sách cảnh sát sẽ hướng tới việc kiềm chế người nghèo một cách hiệu quả.

Chúng ta không nên kỳ vọng cảnh sát trở một thứ không phải là họ. Như các nhà sử học, chúng ta cần phải biết nguồn gốc của vấn đề, và cảnh sát được tạo ra bởi giai cấp thống trị để kiểm soát giai cấp lao động cũng như người nghèo, chứ không phải để giúp họ. Cảnh sát đang tiếp tục thực hiện vai trò của họ.

Sam Mitrani is an Associate Professor of History at the College of DuPage. He earned his PhD from the University of Illinois at Chicago in 2009. He is the author of The Rise of the Chicago Police Department: Class and Conflict, 1850-1894 (University of Illinois Press).

This essay was originally published by LAWCHA, the Labor and Working Class History Association.

Thursday, December 11, 2014

Mười một lý do khiến tôi xấu hổ khi là một người Mỹ

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Eleven reason's I'm ashamed to be an American" của tác giả Dave Lindendorf. Bài viết thể hiện tâm trạng của một người Mỹ khi chứng kiến những thất bại của đất nước mình.

Mười một lý do khiến tôi xấu hổ khi là người Mỹ

Tôi sẽ nói điều này: Tôi xấu hổ khi là công dân Mỹ. Điều này không dễ dàng, bởi vì sống ở nước ngoài và chứng kiến những chỗ bẩn thỉu trong thời đại của tôi. Tôi biết rằng đất nước này có nhiều điều vĩ đại, nhiều con người vĩ đại dã sống ở đó, nhưng cuối cùng tôi đã đi đến kết luận rằng Hoa Kỳ hiện là một quốc gia ốm yếu và méo mó, tại đó cái xấu vượt xa cái tốt.

Tôi có thể nhớ cảm giác chán ghét lần đầu tiên đối với đất nước của tôi vài lần. Vào lúc 17 tuổi, lần đầu tiên khi tôi nhận ra sự tàn bạo mà Hoa Kỳ đã gây ra đối với những người dân Việt Nam nhân danh tôi – cưỡng hiếp và giết hại, phá hủy các ngôi làng của nông dân, ném bom na-pam xuống trẻ em ở miền Nam, và ném bom rải thảm miền Bắc Việt Nam (bao gồm cả đê điều, trường học và bệnh viện). Sau đó tôi kinh hoàng và nổi loạn khi nhận ra một cách muộn màng rằng Hoa Kỳ đã dồn những người bản địa, người Mỹ gốc Nhật, người Nhật định cư hợp pháp vào các trại tập trung trong thế chiến thứ hai, và chính quyền quốc gia đã đồng lõa với đám phát xít da trắng quỷ quyệt ở California trong việc tước đoạt trang trại, nhà cửa và công việc của những người bị giam giữ đó. 

Mặc dù những tội ác đó rất kinh khủng nhưng không thấm tháp gì so với những thứ mà tôi đang được thấy ở đất nước này.

Hãy để tôi liệt kê một số cách mà đất nước này khiến tôi phát ốm: 

1. Điều đó không chỉ là lần công bố mới nhất bản báo cáo được biên tập triệt để về chương trình cố ý tra tấn của chính quyền Bush/Cheney, khởi sự vào năm 2001 sau sự kiện 11 tháng 9 và kéo dài trong nhiều năm đối với không chỉ nghi phạm khủng bố mà còn cả đối với những người được biết hay có thể là hoàn toàn vô tội. Không có gì được làm hay có vẻ như sẽ được làm để trừng phạt những người cho phép và bảo vệ cho các tội ác chiến tranh cũng như tội ác chống nhân loại. Không chỉ có vậy mà còn nhiều người Mỹ đồng tình với điều đó. Ngay cả truyền thông, như trên NPR, tôi nghe thấy các phóng viên nói rằng một trong số “các câu hỏi” về chương trình tra tấn của chính quyền là nó “có hiệu quả” hay không trong việc thu thập thông tin về hoạt động khủng bố. Hoa Kỳ và các quốc gia còn lại của thế giới đã ký một hiệp định hình sự hóa việc tra tấn sau Thế Chiến thứ II (theo luật pháp quốc tế thì hình phạt có cả tử hình). Đó là sự che giấu hay thất bại trong việc trừng phạt tội ác tra tấn.

2. Cảnh sát ở Hoa Kỳ đã bị quân sự hóa trong cả phương diện vật chất lẫn huấn luyện và tự nhận thức, khiến họ giờ đây trở thành một dạng quân đội xâm lược hơn là “viên chức hòa bình” (một khái niệm lỗi thời mà bạn không còn nghe thấy nữa). Hết lần này đến lần khác chúng ta chứng kiến cảnh sát hung hăng sử dụng vũ lực, trong đó có cả vũ lực chết người, trong các tình huống kêu gọi sự bình tĩnh và hiểu biết. Điều khiến tôi phát ốm nhất là chứng kiến một xe cảnh sát ở Cleverland lao thẳng tới ban công trong một sân chơi, nơi có cậu bé 12 tuổi Tamir Rice đang ngồi một mình, chơi với một khẩu súng đồ chơi. Trong vòng chưa tới hai giây, một cảnh sát bước ra khỏi xe và bắn cậu bé tử thương vào bụng. Hoàn toàn không có lời kêu gọi nào trong vụ xử tử này. Không có ai quanh đó bị cậu bé đe dọa. Cảnh sát phải giữ khoảng cách an toàn, đánh giá tình hình, sau đó kêu gọi Rice rời khỏi ban công và buông súng, nếu cậu bé không làm theo, họ phải chờ tăng cường lực lượng, trong đó có một chuyên gia đàm phán. Trái lại, họ chỉ lao thẳng xe tới đó như trong tình huống giải cứu con tin và hạ gục cậu bé. Sau đó họ không làm gì để giúp cậu bé. Ugh! Không có làn sóng phẫn nộ phổ biến nào về vụ sát hại tàn bạo của cảnh sát. 

Cũng không có sự phẫn nộ phổ biến với những cảnh sát can dự vào vụ giết hại Micheal Brown ở Ferguson, MO hay vụ siết cổ chết Eric Garner một cách hoàn toàn vô lý ở Staten Island, New York, cả hai kẻ giết người mặc đồng phục đều được miễn tố bởi các hội thẩm đoàn công tố hoàn toàn bị thao túng và bị lừa dối. Trái lại, chúng ta nghe thấy những người da trắng được phỏng vấn trên chương trình truyền hình nói rằng cảnh sát đã làm đúng.

3. Nhưng đó mới chỉ là một phần thôi. Tôi thấy căm phẫn khi tổng thống của chúng ta là một người không có đủ can đảm để lên án những tội ác đó và tuyên bố rằng ông ta sẽ truy tố những ai ra lệnh cho quân đội và CIA sử dụng tra tấn đối với những người bị bắt trong cái được gọi là Chiến Tranh Chống Khủng Bố. Tổng thống Obama phải yêu cầu Bộ Tư Pháp tích cực truy tố những cảnh sát giết hại thường dân không vũ trang nếu các công tố viên địa phương không làm điều đó, và ông ta phải ra lệnh truy tố bất cứ ai ra lệnh, ủy quyền, tạo điều kiện hay bao che cho việc tra tấn của các nhân viên chính quyền. (Không có gì ngạc nhiên khi tổng thống Obama được chuẩn đoán trào ngược dịch vị dạ dày: ít nhất đường ống dinh dưỡng của con người cũng có lương tâm!)

4. Tôi cảm thấy căm phẫn về tình hình tù tội. Theo như tổ chức Sáng Kiến Chính Sách Nhà Tù, Hoa Kỳ vào lúc này có khoảng 2,4 triệu tù nhân ( chỉ có 2/3 trong số họ bị kết án, với phần lớn trong số còn lại là bị tạm giam chờ xét xử vì họ không thể nộp số tiền bảo lãnh do hệ thống tòa án tha hóa của chúng ta đặt ra). Không có gì ngạc nhiên: Từ cuối những năm 80 đến năm 2008, số lượng các đạo luật liên bang có hình phạt tù đã tăng từ 3000 lên 4450, và chúng tiếp tục gia tăng khi những kẻ bất tài trong Quốc Hội tiếp tục thông qua những đạo luật tạo ra “tội hình sự” nhiều hơn để trừng phạt. Đó là chưa kể tới chính quyền bang và địa phương, điều đó giải thích tại sao Hoa Kỳ chỉ chiếm 5% dân số thế giới nhưng có số tù nhân chiếm tới 25% số tù nhân trên toàn thế giới. Chính bản thân tôi cũng bị đe dọa bỏ tù cách đây chưa lâu bởi một gã cảnh sát côn đồ ở một thị trấn ngoại ô vì xin đi nhờ xe – một hành vi mà hiện nay là hợp pháp ở bang của tôi, và điều đó nếu không phù hợp thì cũng giống hầu hết các vi phạm hành chính như đỗ xe không vé, không đáng bị bắt giữ. Không vấn đề - nếu tôi không khuất phục, gã đầu gấu trong bộ đồng phục với vũ khí cầm tay sẽ còng tay tôi, và vu cáo về những thứ như: bắt giữ vì chống cự, quấy rối trật tự hay những chuyện vớ vẩn tương tự. Chúng ta sống trong một xã hội bị ám ảnh bởi sự trừng phạt, bị giám sát bởi những cảnh sát dường như thích thú với việc cai trị công chúng.

5. Tôi phát ốm khi chứng kiến hết cộng đồng này đến cộng đồng khác thông qua những luật lệ cấm cho người vô gia cư ăn. Tại một quốc gia trong giai đoạn hậu Đại Suy Thoái, chúng ta vẫn đang có tỷ lệ thất nghiệp thực tế và lao động không đầy đủ từ 18 đến 20% tùy thuộc vào cách tính. 

6.Tôi xấu hổ và tức giận khi Wall Street về bản chất là một hiện trường tội ác khổng lồ - nơi mà hàng ngàn tỷ dollar của cải trong suốt thập kỷ qua đã bị rút khỏi túi của những thường dân Mỹ và đặt vào tay của 1% hay 5% giàu nhất, biến đất nước của chúng ta thành xã hội bất công nhất trong số 34 quốc gia phát triển của thế giới. Không có chủ ngân hàng nào trong danh sách hàng đầu của quốc gia về cái được gọi là ngân-hàng-quá-lớn-để-sụp-đổ bị buộc tội, càng ít hơn nữa bị truy tố hay bỏ tù vì trò lừa đảo lớn nhất mà thế giới từng được thấy. Trong một số dịp hiếm hoi khi Bộ Tư Pháp đã theo đuổi những tội phạm ngân hàng đó, họ đạt được “các thỏa thuận” dưới dạng những khoản phạt vô nghĩa, và chưa từng yêu cầu những giám đốc lừa đảo đó rời bỏ vị trí quyền lực béo bở, hay phải thừa nhận là họ làm sai, theo các điều khoản của thỏa thuận. Trên thực tế, những gã lừa đảo trong bộ complete vải sọc nhỏ đó thay vì bị bỏ tù thì lại thường xuyên được mời làm khách ở Nhà Trắng và Quốc Hội, được kêu gọi đóng góp “sự thông thái” của họ cho chính sách của chính quyền, sau đó họ sẽ thưởng công cho các chủ nhà hào hiệp của họ với những bổng lộc và “quyên góp chiến dịch” không khác gì hối lộ. 

7. Tôi phẫn nộ và xấu hổ khi đất nước của tôi tiêu tốn hơn một nghìn tỷ dollar mỗi năm cho quân đội và quân nhân tại 800 căn cứ trên toàn thế giới. Điều này diễn ra trong khi 50 triệu người Mỹ được đưa tin là “mất an ninh lương thực” – hay nói cách khác là 50 triệu người, nhiều trong số đó là trẻ em, đang bị đói tại những thời điểm nhất định trong năm – và khi những chương trình hỗ trợ như Phiếu Lương Thực và Trợ Cấp Thất Nghiệp đang bị cắt giảm để tiết kiệm tiền. Tồi tệ hơn, không có scandal quốc gia nào về việc đó. Trên thực tế, nhiều người Mỹ, dĩ nhiên là đa số, nghĩ rằng tất cả các khoản chi tiêu cho quân đội là tốt, bởi vì nó dường như là “bảo vệ an toàn cho chúng ta” và có thể “tạo công ăn việc làm.” Sự thật cay đắng là ngày nay, Hoa Kỳ, đất nước của tôi là quốc gia khủng bố lớn nhất thế giới – dựa trên thành tích không có đối thủ về việc xâm chiếm bất hợp pháp các đất nước khác, thực hiện giết chóc bằng máy bay không người lái ngoài biên giới, bắt cóc, tra tấn và thủ tiêu người dân, tài trợ và viện trợ cho các cuộc lật đổ chính quyền nước ngoài, thường là các chính quyền được bầu cử dân chủ.

8. Tôi phát ốm trong tâm can bởi vì một nửa thế kỷ sau khi những người Tuần Hành Vì Tự Do và những người dân địa phương can đảm đã chiến thắng và chấm dứt đạo luật Jim Crow ở miền Nam đã cấm người da đen đi bầu cử suốt nhiều thế hệ, ít nhất một nửa đất nước và không chỉ ở miền nam mà là mọi nơi, giờ đây lại đang tìm cách ngăn cản người da đen, người nói tiếng Tây Ban Nha và những người có màu da khác đi bầu cử. Hệ thống tòa án tha hóa của chúng ta ủng hộ họ trong nhiều trường hợp, ngay cả Tòa Án Tối Cao, hiện giờ đang bị thống trị bởi phát xít, phát xít nguyên thủy và phát xít tôn giáo. 

9. Tôi bối rối khi phần lớn những người Mỹ đồng bào của tôi lo lắng về chuyện họ có thể có chiếc iPhone mới nhất, hay họ có quyền do chúa ban tặng để được sở hữu một vũ khí tự động không giấy phép, hơn là về việc chúng ta vẫn có quyền riêng tư hay không, quyền không bị chính phủ theo dõi, hay các doanh nghiệp có được phép mua quan chức chính quyền trực tiếp như mua một miếng thịt bò không, hiện nay theo như Liên Minh Công Dân cho biết.

10. Tôi phẫn nộ khi nam và nữ đồng bào của tôi không còn tin rằng điều quan trọng của một xã hội là cung cấp cho mọi người các dịch vụ cơ bản, tạo ra cho tất cả mọi người một cơ hội công bằng để thoát khỏi nghèo khổ. Không còn nhận thức rằng mọi người phải có thể đi học ở một trường công được tài trợ tử tế, hay tiếp cận miễn phí một trường cao đẳng tài trợ bằng tiền thuế hay với một mức học phí thấp – mức có thể đáp ứng với một công việc bán thời gian 10 giờ. Không còn bất cứ nhận thức nào về việc mọi người Mỹ phải được quyền chăm sóc y tế chất lượng. Ngay cả thứ hỗ trợ cho cái được gọi là Luật Chăm Sóc Sức Khỏe Có Khả Năng Thanh Toán (ACA) hầu hết là từ những cá nhân ích kỷ muốn có khả năng thanh toán bảo hiểm cho bản thân, cũng chưa tạo ra được sự chăm sóc y tế chất lượng cho tất cả mọi người. Cũng giống như vậy, nếu ACA tạo cho bạn khả năng thanh toán bảo hiểm, bản ủng hộ nó, nhưng nếu bạn có bảo hiểm do chủ lao động thanh toán thì bạn chống lại ACA. Đó là sự thật cơ bản trong mọi lĩnh vực. Người Mỹ ngày nay đã đánh mất nhận thức chung về chia sẻ trách nhiệm và đấu tranh. Mọi người thường nói (không chính xác, tôi nghĩ) về thế hệ những năm 60 trở thành thế hệ của “cái tôi”. Hiện nay, có lẽ là toàn bộ Hoa Kỳ đã trở thành quốc gia của “cái tôi”.

11. Cuối cùng, tôi không thể quên vấn đề biến đổi khí hậu. Không có gì hoài nghi, Hoa Kỳ là tác nhân chính trong biến đổi khí hậu suốt thế kỷ qua, khi là một quốc gia công nghiệp hóa nhất thế giới. Ngay cả ngày nay, nếu như Trung Quốc vượt qua Hoa Kỳ về khí thải các-bon, sự thật không thể phủ nhận là tính bình quân trên đầu người, mỗi người Hoa Kỳ chúng ta thải khí các-bon vào khí quyển vượt xa bất cứ người Trung Quốc nào, gấp 5 lần hoặc hơn. Mặc dù vậy, đất nước của chúng ta là cản trở chủ yếu đối với bất cứ nỗ lực chân thật nào nhằm giảm bớt hay đảo ngược biến đổi khí hậu. Dưới chính quyền hiện tại và trước đây, Hoa Kỳ đã phá hoại thành công các nỗ lực đạt đến một hiệp định quốc tế giới hạn khí thải hiệu ứng nhà kính, thậm chí sử dụng cả năng lực do thám của Ủy Ban An Ninh Quốc Gia để theo dõi tình hình đàm phán của các quốc gia khác và để tống tiền các nhà lãnh đạo. Đơn giản là phát ốm về sự ích kỷ của người Mỹ khi họ không quan tâm một chút nào đến sự kinh khủng mà con cái chứ không phải cháu của chúng ta phải đối mặt (Ngân Hàng Thế Giới, không phải là một cái ổ cực đoan về môi trường, cảnh báo rằng thiếu niên hiện nay sẽ đối mặt với một thế giới nóng hơn từ 6 đến 8 độ F khi chúng 80 tuổi!). Đây là sự ích kỷ - hay – điên khùng trên quy mô lớn mà tôi không thể hiểu nổi. 

Tôi có thể tiếp tục nhưng tôi nghĩ rằng mười một lý do để xấu hổ về đất nước của một ai đó là quá đủ.

Đó là tôi.

Dave Lindorff is a founding member of ThisCantBeHappening!, an online newspaper collective, and is a contributor to Hopeless: Barack Obama and the Politics of Illusion (AK Press).


Tuesday, December 9, 2014

Người da màu là nạn nhân của chế độ tư bản

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Black Bodies, Broken Worlds" của tác giả Vijay Prashad. Tác giả đã phác thảo mối liên hệ giữa việc cảnh sát giết hại thường dân và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của Mỹ. Điểm hạn chế của tác giả là trông đợi vào những biện pháp cải cách kiểu tư bản như dịch vụ công miễn phí và đánh thuế thu nhập. Hiện nay, sự tích lũy của chủ nghĩa tư bản nằm ở các doanh nghiệp chứ không phải ở các cá nhân nên việc đánh thuế thu nhập các cá nhân không có tác dụng gì. Hệ thống dịch vụ công cuối cùng chỉ là một kiểu người nghèo trợ cấp cho người giàu và khiến cho gánh nặng thuế khóa của người nghèo ngày càng lớn hơn. Tiêu đề do người dịch đặt.

Những người da đen, những thế giới đổ vỡ

Tôi là ai mà dám nói với bạn về luật pháp và công lý? Tôi không có bằng cấp về luật. Tôi ở trong một căn phòng với những người như Fred Dow, người đóng vai trò rất quan trọng trong ban Quyền Công Dân của Bộ Giáo Dục dưới thời chính quyền Clinton (vợ tôi tốt nghiệp tại trường Brown, chỉ nhớ một cách trìu mến về công việc với OCR và Fred trong một dịp đặc biệt của những năm đầy nguy hiểm). Tôi cũng mất mặt khi trở thành người nhập cư – bạn không thích điều đó, hãy về nhà. Sự tin cậy mà tôi có là gì ngoài cái danh hiệu nhỏ bé của một sử gia và nhà báo đối với Hoa Kỳ? Nhưng tôi đứng trên vai những người lớn hơn tôi, vai của những người như Harry Dow, con của một người lao động nhập cư Trung Quốc, người đã giành lấy quyền được lên tiếng, người đã tìm ra cách khiến quốc gia này – được xây dựng dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa tư bản cực đoan – công bằng hơn, đáng kính trọng hơn. Điều gì khiến tôi có quyền được nói. Câu trả lời: Harry Dow.

Nước Mỹ mà chúng ta đang sống là gì? Đất nước mà cảnh sát cảm thấy được khuyến khích với sự miễn tố khi bắn người da đen, những người mà nhân tính của họ bị quăng ra lề bởi một nền văn hóa không khoan dung. Có một chuỗi dài những cái tên từ Eric Garner ở Staten Island (2014) tới Thomas Shipp và Abram Smith ở Marion, Indiana (1930) và trở về thời nô lệ. Khi theo dõi những sự kiện diễn ra ở Ferguson, Missouri và thành phố New York, tôi nhớ lại vụ bạo loạn Harlem năm 1935 – được bắt đầu khi cậu bé người Phi Puerto Rico tên là Lino Rivera bị đánh đập vì ăn trộm ở cửa hàng. Sau cuộc bạo loạn, thị trưởng New York triệu tập một buổi thẩm vấn, báo cáo The Negro in Harlem nhận định rằng các vụ bạo động là “ngẫu nhiên” và nguyên nhân của bạo loạn là “sự bất công trong phân biệt đối xử trong tuyển dụng nhân công, đàn áp của cảnh sát và sự phân chia chủng tộc.” Báo cáo của năm 2014 cũng gợi lên nhận thức tương tự của thời kỳ suy thoái.

Phản kháng sự tàn ác hàng ngày đối với người da đen đưa tôi trở lại năm 1803, khi toàn bộ nô lệ người Igbo, bị trói vào nhau, xuống tàu ở Georgia và đi bộ xuống biển dưới sự che chở của Thần Nước của họ. Trong chuỗi sự kiện những ngày qua, nhân loại bị trói buộc ở Hoa Kỳ đã tập hợp lại tại cánh đồng băng giá của hồ Shore Drive ở Chicago và bên dưới những chỏm cao của cầu Brooklyn của New York – chặn những con đường giao thông huyết mạch để bày tỏ sự bất đồng. Nhân tính đang phẫn nộ chống lại sự áp bức – nhân tính không phải là giá trị riêng của Mỹ, mà là giá trị phổ quát. Nhân tính là giá trị coi khinh việc giết người, và thiếu công lý là không thể khoan dung. Nhân dân phản đối. Họ sẽ không khoan dung nữa. Họ nói, điều đó phải chấm dứt.

Nhưng tại sao những vụ giết người đó xảy ra. Chúng không thể chỉ đổ lỗi cho các cảnh sát. Điều đó quá đơn giản. Đây là vấn đề của hệ thống. Tỷ lệ bất bình đẳng ở Hoa Kỳ đang cao lịch sử. Người giàu không chỉ từ chối đóng thuế, mà họ còn sử dụng sự giàu có cũng như quyền lực để đảm bảo rằng ý niệm về thuế được coi như là bất hợp pháp: chúng ta đang sống trong xã hội hậu thuế khóa. General Electric, Bristol Meyers Squibb và Verizon đều là các hãng không đóng thuế, trong nền kinh tế hậu thuế khóa. Một người đàn ông né thuế tiêu thụ đặc biệt cho thuốc lá bị giết chết; các hãng trong bảng xếp hạng Fortune 500 né thuế tổng thể thì được hoan nghênh. Với mức lãi suất 0%, chính quyền chuyển giao hàng tỷ dollar cho ngân hàng làm dự trữ, như là biện pháp bảo vệ chống lại sự tan rã của hệ thống tín dụng (1,8 nghìn tỷ tiền của chính quyền nằm trong “dự trự vượt hạn mức” tại các ngân hàng tư nhân). Ngân hàng ngồi trên đống tiền đó, như những người giàu có ngồi trên vận may của họ. Chúng ta có ít những khoản đầu tư nội địa để tạo công ăn việc làm cho những người bị vứt bỏ đang ngày càng gia tăng; chúng ta không có tiền cho các dịch vụ phục vụ cho những người bị quẳng ra bên lề. Thất nghiệp toàn cầu được dự đoán ở mức cao, với một tương lai “đáng báo động” cho nạn thất nghiệp, theo Báo Cáo Việc Làm Thế Giới của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế. Thanh niên thất nghiệp gần gấp ba người trưởng thành. Khoảng 6,4 triệu thanh niên đã hết hy vọng kiếm được việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên Mỹ gốc Phi giờ là 35%. Không có kể hoạch này thay đổi điều này. 

Tiền biến giao diện giữa nhân dân và nhà nước thành cảnh sát và nhà tù. Ba phần tư những người bị bỏ tù trong hai thập kỷ qua là do các tội liên quan đến ma túy nhưng không bao lực. Scandal của sự mở rộng nhà tù của Hoa Kỳ là điều này: những nhà tù đó trở thành trại giam giữ những người thất nghiệp kinh niên. Ngân sách thành phố nghèo nàn của Ferguson đã dựa ngày càng nhiều hơn vào những thứ như phạt giao thông (mục lớn thứ hai trong nguồn thu nhập của họ). Vào năm 2013, cảnh sát phát ra 32.975 lệnh bắt giữ tại thành phố Ferguson với tổng số dân là 21.135. Cảnh sát viết biên lai phạt người dân đối ngay cả các vi phạm vô hại. Các biên lai phạt có mức phạt cao, vượt quá mức lương nghèo khổ tại thành phố (tỷ lệ nghèo khổ là 20%). Khi những biên lai phạt không được thanh toán, cảnh sát phát lệnh bắt giữ - và đưa người dân vào tù. Dân chúng không phải là một phần của xã hội; họ bị coi như là mối đe dọa với luật pháp và trật tự.

Xã hội Hoa Kỳ đã bị cơ chế đó phá vỡ - tỷ lệ bất bình đẳng kinh tế cao, tỷ lệ nghèo khổ cao, không có khả năng tham gia vào hệ thống giáo dục lành mạnh, cơ hội tiến bộ kinh tế không thể đạt tới, các điều kiện hiếu chiến rõ ràng để quản lý dân chúng được coi như tội phạm chứ không phải là công dân. Nhóm quá trình ăn mòn đó khiến cho chúng ta hoàn toàn thất vọng. Những cái tên như Martin, Brown, Garner là của hiện tại. Ở đâu đó tại Hoa Kỳ tối nay, một người khác sẽ bị sát hại – một người nghèo bị cảnh sát coi là mối đe dọa. Ngày mai là một người khác, và sau đó lại một người khác. Những cái chết đó không phải là sự xúc phạm đối với hệ thống này. Chúng là bình thường đối với hệ thống này.

Nhiều người trong chúng ta là người Mỹ gốc Châu Á, một nhánh chính trị nổi lên từ phong trào người Mỹ gốc Á. Khái niệm được phát triển như là cách để khẳng định đầu tiên là người Mỹ và sau đó lưu giữ vị trí đặc biệt của chúng ta là người Châu Á ở Mỹ. Có một lịch sử lâu dài kể từ khi phong trào Dân Quyền kết thúc khiến người Mỹ gốc Á chống lại người Mỹ gốc Phi, để phỏng đoán rằng chúng ta là mô hình thiểu số chống lại vấn đề thiểu số. Hãy nhìn xem, chúng ta đôi khi nói rằng bạn không cần sự hỗ trợ của nhà nước và bạn thành công! Tại sao người Mỹ gốc Phi không thể giống như người Mỹ gốc Á, có phải là một câu hỏi nực cười? Mười lăm năm trước đây, tôi viết một cuốn sách có tên là The Karma of Brown Folk, lập luận rằng lịch sử nhập cư của chúng ta và hệ thống cấp bậc chủng tộc có liên hệ chặt chẽ với thành quả. Sự lựa chọn cẩn trọng của nhà nước đối với người Châu Á – với thành tích giáo dục và quyết định cá nhân – cho phép các cộng đồng Châu Á ở Hoa Kỳ tạo ra nhiều thành quả vượt trội không chỉ so với các nhóm thiểu số ở Hoa Kỳ mà còn cả so với dân cư ở quê hương họ (ví dụ, tất cả mọi người ở Ấn Độ và Trung Quốc không phải là bác sĩ, kỹ sư, hay luật sư). Sự lựa chọn nhà nước chứ không phải sự lựa chọn tự nhiên đã tạo ra ưu thế. Chuyện ngược lại là về người Mỹ gốc Phi. Nếu chúng ta không nhạy cảm đối với những lịch sử khác và sử dụng đầy mạo hiểm một cộng đồng này chống lại một cộng đồng khác, chúng ta sẽ phản bội không chỉ di sản của phong trào người Mỹ gốc Á tiến bộ, mà còn phản bội cả phẩm giá của chúng ta. Bạo lực chống lại người Mỹ gốc Phi là đặc biệt; chúng không đồng nhất với chủng tộc mà người Mỹ gốc Á đối mặt. Nhưng điều đó không làm giảm nhẹ đóng góp của chúng ta cho công lý rộng mở nhất trong thế giới của chúng ta 

Chúng ta đã thiếu giai cấp chính trị. Từ khi nào chúng ta thấy những người lãnh đạo không biện giải đứng về phía đúng đắn của lịch sử - những người kêu gọi giáo dục công công, chăm sóc y tế công cộng và công khai điều đó, tài trợ bằng thuế lũy tiến cao đánh vào thu nhập và thừa kế? Tại sao chúng ta co rúm mình lại khi phải làm rõ rằng chúng ta không đồng ý với việc một nhóm nhỏ gia đình tận hưởng thật ghê ghớm sự giàu có của xã hội? Coi công lý như thủ tục để đưa vào bản kiến nghị khi ai đó bị giết là không đủ; còn về công lý trong tim của đời sống xã hội. Đâu là công lý trong việc từ chối quyền đến trường học tử tế, công việc tử tế của trẻ em? Michael Brown sẽ làm nghề gì nếu câu ta được phép đến trường cao đẳng nghệ thuật tự do? Eric Garner sẽ đặt tên cửa hàng nhỏ của ông ấy là gì?

Sự thất vọng đã lan tới các đường phố. Nhưng ai đang ở trên đường phố? Những người phồn tạp đủ loại, được nuôi dưỡng bởi hiện tại. Họ phải từ chối Hôm Nay; họ muốn Ngày Mai. Điều gì dẫn dắt họ? Một quan điểm chung: Cuộc Sống Của Người Da Đen Quan Trọng, thứ còn hơn là một từ khóa. Đó là nguyên lý đầu tiên. Điều đó mâu thuẫn với Luật Hình Sự, Cải Cách Phúc Lợi, Cuộc Chiến Chống Ma Túy và Khủng Bố. Điều đó cho rằng Cuộc Sống quan trọng hơn sự tin cậy của thị trường tư bản. Trên đường phố là những người đã từng tham gia phong trào Chiếm Đóng, cũng như những người đã mang mặt nạ nặc danh để chiếm đóng mạng Internet. Có những sinh viên đại học đã thừa nhận rằng hiện tại nuôi dưỡng bằng nợ nần chỉ kết thúc trong một tương lai chất nặng nợ nần. Có những người tiếp tục cắm rễ sâu vào sự sống sót của giai cấp lao động với phong trào chống thu hồi tài sản. Trong đám đông, chúng ta nhìn thấy các nhà hoạt động cho quyền của người nhập cư, những Người Mơ Ước, đứng bên những Người Bảo Vệ Giấc Mơ từ thành phố quê hương của Trayvon Martin. Đây là đa số đang lớn lên. Đâu là nơi đa số này sẽ tới, ai biết được? Song họ đang di chuyển. 

Vào năm 1968, ngay trước khi bị sát hại, Martin Luther King, Jr. đã nói, “Chỉ khi trời đủ tối, bạn mới nhìn thấy những vì sao.”

Giờ thì trời đã đủ tối.

Vijay Prashad is the author of No Free Left: The Futures of Indian Communism (forthcoming from Left Word Books, New Delhi). He is a contributor to Killing Trayvons: an Anthology of American Violence.

Wednesday, October 22, 2014

Hoa Kỳ: Cảnh sát bảo vệ hay xâm lược cộng đồng?

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Ferguson Killing Exposes the Reality Of Militarized, Racist Policing directed against African Americans" của hai tác giả Kevin Zeese and Margaret Flowers bình luận về chính sách quân sự hóa cảnh sát ở Hoa Kỳ sau sự kiện ở thành phố Ferguson. Tiêu đề bài viết do người dịch đặt.

Vụ giết người ở Ferguson cho thấy hiện thực phân biệt chủng tộc và quân sự hóa cảnh sát trực tiếp chống lại người Mỹ gốc Phi

Vụ giết hại Michael Brown do một sĩ quan cảnh sát, người được xác định vào thứ sáu là Darren Wilson, và cuộc bạo động trong đó cảnh sát vũ trang và bạo lực được sử dụng để đối phó với người biểu tình ôn hòa cũng như phóng viên cho thấy những thứ đã được tích tụ trong suốt nhiều năm. Nhiều người đã viết về quân sự hóa cảnh sát và tác động bất thường của nó đối với người da màu, nhưng giờ đây nhiều người Mỹ hơn đã được chứng kiến sự thật đó và không thể thoát khỏi nó.

Michael Brown là một trong số bốn người da đen không có vũ trang bị cảnh sát giết hại vào những tháng trước. Vào ngày 17 tháng 7, Eric Garner bị giết bằng một đòn khóa bất hợp pháp ở New York. Vào ngày 5 tháng 8, John Crawford bị bắn tại một cửa hàng ở Beavercreek, OH. Ngay sau cái chết của Brown, vào ngày 9 tháng 8, Ezell Ford, một thanh niên bị bệnh thần kinh đã bị bắn ở Los Angeles. Đó là bốn trong số rất nhiều trường hợp, theo một nghiên cứu mới đây, cứ mỗi 28 giờ lại có một người da đen bị cảnh sát, nhân viên an ninh hay dân phòng giết hại. Cả quốc gia đang chứng kiến những thảm kịch này; hiện thực đã được cưỡng bức áp đặt cho chúng ta. 

Phản ứng của công chúng trước sự kiện đã phổ biến nhanh chóng. Vào tối thứ năm biểu tình được tổ chức từ bờ này đến bờ kia đại dương thể hiện tình ái hữu với người dân Ferguson và sự đau buồn trước cái chết của Michael Brown cũng như những cái chết do cảnh sát gây ra trên khắp cả nước. Lời kêu gọi phi quân sự hóa cảnh sát của Tổng Chưởng Lý và các quan chức dân cử đang được thúc đẩy. Bộ Tư Pháp (DOJ) đã công bố một cuộc đánh giá rộng rãi về các hoạt động cảnh sát dẫn đến thiệt hại nhân mạng. Người dân đang kêu gọi gây sức ép buộc DOJ phải hành động, xin hãy xem: Yêu cầu Bộ Tư Pháp chấm dứt cảnh sát phân biệt chủng tộc và quân sự hóa.

Đây là thời điểm đáng chú ý và là cơ hội để thúc đẩy việc thay đổi ngành cảnh sát. Hàng trăm ngàn người Mỹ theo dõi sự kiện bộc lộ ở Ferguson. Công chúng thấy cảnh sát bắn hơi cay vào cộng đồng trong đám tang, bắn đạn cao su và dùng loa công suất lớn để giải tán họ. Công chúng thấy cảnh sát theo kiểu quân đội lùa họ vào các khu dân cư để tiếp tục bắn hơi cay và đạn cao su. Công chúng thấy các phóng viên bị ngược đãi và bị bắt giữ khi đội SWAT chiếm nhà hàng McDonald, nơi họ đang tường thuật tin tức và các phóng viên khác bị tấn công bằng hơi cay, sau đó cảnh sát tước các trang thiết bị của nhà báo.

Những sự kiện này khiến cho các trang tin tức tường thuật về hoạt động của cảnh sát cấp tập hơn. Trả lời về vụ bắt giữ một trong số các phóng viên của họ, Ryan Grim viết trên tuyên bố chính thức của Huffington Post về việc bắt giữ nhà báo nêu một điểm chính yếu: “Quân sự hóa cảnh sát là một trong những sự phát triển tự mãn và thiếu được chú ý nhất trong thời đại chúng ta.” Cảnh sát Ferguson đã tỏ ra xuất sắc trong việc thu hút sự chú ý của quốc gia đối với hiện thực cảnh sát của thế kỷ 21 và nhu cầu thay đổi cấp thiết đối với phương hướng của nó.

Hùng biện về “cuộc chiến” chống ma túy cũng như “cuộc chiến” chống tội phạm từ lâu không còn là hùng biện. Trong một số thập kỷ qua, lực lượng cảnh sát ở Hoa Kỳ, cả cảnh sát ở các thị trấn nhỏ, đã được chính phủ liên bang quân sự hóa. Quân sự hóa là một phần của sự leo thang đàn áp bất đồng chính kiến; và mục tiêu của hoạt động cảnh sát cực đoan là các cộng đồng da màu. Các thực tiễn như “chặn và khám xét” và “lái xe khi da đen”, cũng như hoạt động cảnh sát nhắm vào người Arab và người Hồi giáo, đã cho thấy sự phân biệt chủng tộc là một chính sách có chủ ý về cảnh sát trên khắp đất nước.

Phần lớn điều đó diễn ra tại các sở cảnh sát trong bí mật và không minh bạch hay có sự tranh luận công khai. Liệu công chúng có muốn lực lượng cảnh sát quân sự hóa khi họ có tiếng nói trong việc ra quyết định? Thiếu vắng quy trình dân chủ, Hoa Kỳ dường như đã tạo ra đội quân thường trực xâm phạm các nền tảng của của Hiến Pháp Hoa Kỳ. Cảnh sát quân sự hóa áp dụng luật lệ không công bằng, vi phạm các luật bảo vệ quyền bình đẳng cũng như hủy hoại hệ thống tư pháp khi cảnh sát vừa là quan toà vừa là người thi hành.

Chúng ta rơi vào tình trạng này ra sao? 

Cảnh sát phân biệt chủng tộc không hề mới. Như Victor E. Kappeler chỉ ra, “cảnh sát St. Louis đã được thành lập để bảo vệ các cư dân trước dân bản địa tại thành phố biên giới” và “vào năm 1704, thuộc địa của Carolina đã thàng lập đơn vị tuần tra nô lệ đầu tiên của quốc gia”. Những đơn vị tuần tra đã phát triển thành các đơn vị cảnh sát. Mục tiêu của cảnh sát ban đầu là kiểm soát nô lệ và bảo vệ lợi ích tài sản của chủ nô. Di sản phân biệt chủng tộc đó còn tiếp tục tới ngày nay. 

Ferguson không phải là bất thường khi đề cập tới sự bất bình đẳng chủng tộc trong hoạt động cảnh sát, sự căng thẳng giữa cảnh sát và cộng đồng người Mỹ gốc Phi đã tích tụ nhiều năm. Một cộng đồng có 2/3 là người Mỹ gốc phi, nhưng chỉ có 3/53 sĩ quan cảnh sát là người da màu. Theo báo cáo hàng năm của Tổng Chưởng Lý Missouri về hoạt động cảnh sát, mặc dù chiếm 63% dân số Ferguson nhưng người da màu chiếm tới 86% các vụ bị chặn xe. Người da màu bị khám xét gần gấp đôi và bị bắt gấp hai lần so với người da trắng mặc dù người da trắng mang hàng lậu thường xuyên hơn. So với các thống kê tồi tệ đó thì tình trạng ở Missouri còn tồi tệ hơn. Tổ chức NAACP cáo buộc St. Louis về sự phân biệt chủng tộc trong việc chặn xe. Một cư dân nói với tờ Washington Post: “Mọi người trong thành phố này là nạn nhân của DWB [lái xe khi là da đen]”.

Quân sự hóa cảnh sát đang là hiện tượng rõ nét hơn. Peter Kraska của Đại Học Miền Đông Kentucky đã viết về hiện tượng này từ đầu những năm 1990. Ông ấy ghi nhận sự gia tăng nhanh chóng của các đơn vị cảnh sát bán quân sự (PPU, đội SWAT không chính thức) được mô phỏng theo các đơn vị đặc nhiệm trong quân đội. PPU đã không tồn tại ở bất cứ đâu cho đến năm 1971, khi Los Angeles dưới sự lãnh đạo của cảnh sát trưởng Daryl Gates, tổ chức đơn vị đầu tiên và sử dụng nó để đột kích các ngôi nhà với xe bọc thép trang bị cọc lao. Vào năm 2000, có 30.000 đội cảnh sát SWAT; báo cáo của Kraska cho biết cuối những năm 1990, 89% sở cảnh sát thành phố hơn 50.000 dân có PPU, hầu hết tăng gấp đôi số lượng so với giữa những năm 80; và ở các thị trấn nhỏ giữa 25.000 và 50.000 dân, 80% sở cảnh sát có PPU tăng gấp bốn lần so với 20% vào giữa những năm 80.

Kraska cho biết đội SWAT đã thực hiện 45.000 nhiệm vụ trong năm 2007 so với 3.000 vào đầu những năm 80. Ông chỉ ra nhiệm vụ thông thường nhất là thực hiện lệnh khám xét ma túy, chiếm 80% số lần, nhưng họ cũng được gia tăng sử dụng trong tuần tra khu dân cư. Những con số này phù hợp với báo cáo mới đây của ACLU.

Một trong những nhà sử học quan trọng khác về sự gia tăng quân sự hóa trong cảnh sát là Radley Balko, tác giả của cuốn sách Rise of the Warrior Cop: The Militarization of America’s Police Forces. Ông cho biết “việc sử dụng đội SWAT gia tăng 1.500% trong hai thập kỷ qua” và viết trên tờ ABA Journal vào năm 2013 rằng “đội SWAT đột kích đầy bạo lực vào nhà tư nhân hơn 100 lần mỗi ngày.” Việc họ dùng lựu đạn choáng gây ra tổn thương cho trẻ em và một bé gái bẩy tuổi bị bắn chết lúc đang ngủ khi đội SWAT đột kích nhầm nhà. Có rất nhiều ví dụ tương tự như vậy. 

Colin Jenkins đã chỉ ra trong bài Coming Home to Roost: American Militarism, War Culture, and Police Brutality, rằng đó là quá trình diễn ra dần dần. Chưa bao giờ có tranh luận về việc quân sự hóa cảnh sát, thay vào đó là hàng loạt các quyết định về phong trào biểu tình những năm 60, cuộc chiến chống ma túy và hoạt động cảnh sát sau ngày 11 tháng 9. Xu hướng trở nên đặc biệt đáng chú ý vào những năm 1980, khi cuộc chiến chống ma túy dưới thời Reagan tạo ra ngoại lệ đối với Luật Posse Comitatus, một luật về thời kỳ tái cấu trúc buộc quân đội đứng ngoài việc hành pháp nội địa. Đó là khi đội SWAT bắt đầu được sử dụng để thực hiện lệnh khám xét ma túy. Kỷ nguyên hậu 9 tháng 11 đã mang lại cho cảnh sát quyền lực lớn hơn với Luật Yêu Nước và có vẻ như là nguồn lực không giới hạn để chống khủng bố. Dĩ nhiên quân sự hóa cảnh sát hiếm khi được sử dụng chống khủng bố nội địa bởi thực sự là không có nhiều khủng bố ở Mỹ.

Jenkins chỉ ra hàng tỷ dollar thiết bị quân sự đã chảy vào các sở cảnh sát trên khắp đất nước: “Họ có mọi thứ từ áo giáp, vũ khí hỏa lực mạnh cho tới xe bọc thép, thậm chí cả máy bay không người lái”. Ông hỏi tại sao, chỉ ra rằng đó không phải bởi vì sự an toàn, ghi nhận là có 50 thiệt mạng hàng năm trong số 900.000 sĩ quan cảnh sát trên cả nước. Có nghĩa là chỉ có 1 trong số 18.000 cảnh sát bị giết mỗi năm (sự kỳ quặc là bị chết bởi sét đánh trong đời bạn có tỷ lệ là 1/3.000). Ông lên án văn hóa chiến tranh Mỹ và tin rằng cảnh sát trở thành quân sự bởi họ chuyển từ phòng thủ sang tấn công vào những nơi họ đối đầu và đàn áp nhân dân, hơn là bảo vệ và phục vụ cộng đồng.

Vấn đề có thể bị làm tồi tệ thêm bởi những chương trình như của Phòng Thương Mại, ‘Thuê Những Người Hùng Của Chúng Ta’, nhằm tuyển mộ những lính đương nhiệm và cựu binh vào các sở cảnh sát. DOJ có một chương trình được gọi là ‘COPS’ xét tuyển nhanh các thành viên của quân đội tham gia vào hoạt động cảnh sát. Sở Cảnh sát San Antonio kiêu hãnh về các thành viên quân đội chuyển đổi dễ dàng vào công việc cảnh sát. Dĩ nhiên là đơn giản bởi vì họ đang sử dụng cùng một trang thiết bị và kỹ thuật. Điều đó dấy lên sự lo ngại về tác động của hoạt động cảnh sát trong môi trường quân sự hóa đối với những cựu binh đã trải qua Rối Loạn Căng Thẳng Hậu Chấn Thương. Đó là vấn đề về sử dụng steroid trong cảnh sát, có tác động tâm lý, được gọi là “điên khùng roid.”

Huấn luyện quân sự cho sĩ quan cảnh sát có thể tạo ra việc các chiến thuật hung hãn được thi hành đối với cộng đồng. Báo cáo của ACLU cho biết Vệ Binh Quốc Gia đang huấn luyện cảnh sát, và đó cũng là chương trình huấn luyện do Lực Lượng Phòng Vệ Israel tổ chức.

Newsweek tường thuật trang thiết bị quân sự là do sự phình ra của quân đội Hoa Kỳ. Ngân sách của họ chiếm hơn nửa chi tiêu khả biến và vào năm 1990 Quốc hội bổ sung vào Luật Ủy Quyền Phòng Vệ Quốc Gia một điều khoản, mục 1033, cho phép Bộ Quốc Phòng (DoD) chuyển giao các trang thiết bị quân sự không còn cần thiết sang các đơn vị liên bang và bang để hỗ trợ cuộc chiến chống ma túy.

ACLU cho biết 4,3 tỷ dollar trang thiết bị đã được chuyển giao theo điều khoản này. Chương trình bao gồm 17.000 đơn vị hành pháp của tất cả các bang và lãnh thổ. Chương trình được mở rộng từ 1 triệu dollar năm 1990 lên 450 triệu dollar vào năm 2013. Sự lãng phí trong ngân sách của DoD được tiết lộ qua sự thật là 36% số trang thiết bị được chuyển giao chưa từng được quân đội sử dụng.

ACLU nghiên cứu tại 20 bang với 800 đội SWAT trong năm 2011-2012. Họ thấy rằng “tổng số 15.054 vật phẩm đồng phục chiến đấu hoặc trang bị bảo vệ cá nhân được cấp cho 63 đơn vị hồi đáp… và khoảng 500 đơn vị hành pháp nhận được loại xe chống mìn phục kích, được chế tạo để chống lại bom xuyên giáp trên mặt đường”. Đội SWAT sử dụng chủ yếu (79% số lần) trong việc khám xét ma túy, báo cáo cũng kết luận rằng quân sự hóa cảnh sát tác động chủ yếu tới người da màu. Khi cảnh sát có các trang thiết bị dạng này, không có gì ngạc nhiên là họ sử dụng chúng và các hoạt động của họ có tính quân sự hơn.

Rất quan trọng khi nhấn mạnh rằng chúng ta rơi vào tình trạng này mà không có tranh luận công khai. Trong thực tế các nỗ lực thu thập thông tin về quân sự hóa cảnh sát và đội SWAT thường xuyên bị ngăn chặn. Ở Massachusetts, nhóm Privacy SOS của ACLU cố gắng thu thập thông tin thông qua yêu cầu ghi nhận thông tin công khai. Họ được cho biết là đội SWAT được miễn trừ bởi vì đó là thực thể cá nhân, Hội Đồng Thực Thi Pháp Luật, không phải là đối tượng của luật ghi nhận thông tin công khai. Họ sẽ không cung cấp các thông tin cơ bản như số vụ đột kích mà họ thực hiện. 

Rất nhiều hoạt động thực thi pháp luận bán quân sự được thực hiện với các lực lượng liên ngành, thiếu sự minh bạch. Nhóm Privacy SOS cho biết công việc được hoàn thành thông qua Khu Vực Buôn Bán Ma Túy Cường Độ Cao New England (NEHIDTA). Khi được yêu cầu về tài liệu, họ từ chối với lý do rằng “HIDTA không phải thực thể hợp pháp có thể cung cấp bất cứ thông tin gì. Hơn nữa HIDTA là sự phối hợp của nhiều đơn vị chức năng bộ và ngành. Mọi thông tin truyền qua HIDTA được coi là tài sản duy nhất của đơn vị ban đầu, và không phải là là tài sản của HIDTA”. Nhóm Privacy SOS chỉ ra rằng việc quân sự hóa cảnh sát đã được thực hiện song song với liên bang hóa cảnh sát địa phương và cả hai đều không gặp phải bất cứ cuộc tranh luận công khai nào. Cảnh sát tự trị, hơn là bị cai trị bởi nhân dân theo bất cứ cách dân chủ nào.

Một khu vực khác nơi cảnh sát bị quân sự hóa được sử dụng để đàn áp bất đồng chính trị. Trong các cuộc cắm trại chiếm đóng, cảnh sát quân sự hóa được sử dụng rất hung hãn trên khắp cả nước để cưỡng bức dỡ bỏ trại. Một lần nữa, điều này xảy ra diễn ra thông qua liên bang hóa cảnh sát địa phượng trong Lực Lượng Thực Thi Hỗn Hợp với các đơn vị liên bang như FBI hay An Ninh Nội Địa. Nó không chỉ tác động tới Chiếm đóng mà quân đội đã được cả Đại Hội Đảng Dân Chủ cũng như Đảng Cộng Hòa vào năm 2012 kêu gọi một lần nữa hợp tác với cảnh sát địa phương dưới sự bảo trợ của Lực Lượng Thực Thi Hỗn Hợp trong phạm vi Tư Lệnh Quân Sự Miền Bắc. 

Cần điều gì để chấm dứt quân sự hóa hoạt động cảnh sát? 

Một khảo sát của Reason Rupe vào tháng 12 năm 2013 cho thấy 58% người Mỹ đồng ý rằng cảnh sát đã đi quá xa khi họ sử dụng các trang thiết bị quân sự. Giờ đây khi mọi người khám phá ra sự lạm dụng sở Ferguson, con số đó sẽ tăng lên. Chúng ta có thể thấy sự gia tăng của phe đối lập đối với việc quân sự hóa cảnh sát và phân biệt chủng tộc trong cuộc biểu tình từ bờ này đến bờ kia đại dương diễn ra tuần này.

Các cựu chiến binh đang lên tiếng. Paul Szoldra một lính thủy nghỉ hưu đã từng phục vụ ở Afghanistan, biết tại sao bạn cần bộ đồ rằn ri trong hoạt động quân sự, nhưng không phải là trong hoạt động cảnh sát và kết luận “dường như các sĩ quan cảnh sát đã cởi bỏ bộ đồng phục xanh để mặc đồng phục và trang bị quân sự, đang mang theo tâm trạng đó cùng với nó”. Ông viết, thông điệp mà người lính mặc đồng phục ở Afghanistan là: “’Chúng tôi là quân đội, và chúng tôi đang kiểm soát’. Nhiều người Afghanistan nhìn chúng tôi như những kẻ chiếm đóng”. Đâu là thông điệp mà cảnh sát Hoa Kỳ đang chuyển tới cộng đồng mà họ phải “bảo vệ và phục vụ”?

Andrew Exum, cựu sĩ quan bộ binh tóm tắt tình hình trong một tweet: “Quân sự hóa lực lượng hành pháp là trái ngược với hoạt động cảnh sát nội địa và cần phải chấm dứt”. Chúng ta kỳ vọng đây là lúc ý kiến của công chúng phát tán nhanh chóng tại Hoa Kỳ. Điều gì cần phải làm để điều chỉnh, để phi quân sự hóa và mang lại nhận thức thông thường đối với hoạt động cảnh sát?

Những lời kêu gọi phi quân sự hóa hoạt động cảnh sát đang gia tăng kể từ khi các sự kiện nổ ra ở Ferguson của Tổng Chưởng Lý Holder và thượng nghị sĩ Cộng Hòa Henry Johnson (D-GA) đã gửi một lá thư “Các đồng nghiệp kính mến” mời các nghị sĩ cùng tham gia với ông hạn chế trang bị quân sự cho các sở cảnh sát. Ông viết: 

“Chúng ta phải tỏ ra quan ngại về việc chúng ta cung cấp một số lượng không hạn định trang thiết bị quân sự  cho cảnh sát địa phương và khuyến khích sử dụng chúng nhằm thực thi các hoạt động hành pháp thông thường. Đó là lý do tại sao tôi sẽ sớm triển khai chương trình cải tổ “Chấm Dứt Quân Sự Hóa Hoạt Động Hành Pháp”. Dự luật của tôi sẽ giải thực hiện hai điều. (1) Giới hạn kiểu trang thiết bị có thể chuyển giao. (2) Yêu cầu các bang xác nhận rằng họ có thể thống kê toàn bộ các trang thiết bị. 

Chúng ta vui lòng thấy Bộ Tư Pháp cuối cùng cũng thông báo một cuộc đánh giá rộng rãi về hoạt động cảnh sát. Mặc dù trong nhiệm kỳ của tổng thống Obama thường xuyên có các vụ giết hại người Mỹ gốc Phi. Cuối cùng thì DOJ thông báo họ sẽ đánh giá các hoạt động cảnh sát dẫn đến lạm dụng. Trong phạm vi điều tra có việc sử dụng lực lượng sát thương, hành xử của cảnh sát với người bị bệnh thần kinh và các công nghệ mới được cảnh sát sử dụng. Người dân có thể thoải mái liên lạc với Bộ Tư Pháp về những quan ngại (địa chỉ email của họ là AskDOJ@usdoj.gov.). Vì một hoạt động dân chủ, người dân cần tham gia, hợp tác và biểu lộ quan điểm. 

Một số đang chống lại các vụ sát hại mang tính phân biệt chủng tộc của cảnh sát trên vũ đài quốc tế. Ron Davis, bố mẹ của một thanh niên da màu bị sát hại khác, đang giận dữ về những kẻ thủ ác không bị trừng phạt trên cả nước. Ông ấy sử dụng cuộc họp thứ 85 của Ủy Ban Xóa Bỏ Phân Biệt Chủng Tộc ở Geneva, Thụy Sĩ để gây sức ép buộc Washington phải chấm dứt việc “tội phạm hóa chủng tộc” ở Hoa Kỳ. Trong cuộc họp, Hoa Kỳ bị buộc phải trả lời các câu hỏi về vấn đề nỗ lực thực hiện trách nhiệm của Hoa Kỳ.

Chúng tôi đã viết một bài báo cho Green Shadow Cabinet về trách nhiệm lành mạnh đối với một dịch bệnh như nạn giết hại thanh niên da màu. Thay vì quân sự hóa cảnh sát gia tăng căng thẳng trong các cộng đồng bị tổn thương, cảnh sát và các cơ quan chính quyền khác nên ủng hộ các cuộc biểu tình hòa bình; điều đó sẽ gia tăng sự minh bạch về chi tiết và điều tra đối với các sự kiện cũng như các nhân viên xã hội và chuyên gia tâm lý học nên sẵn sàng hỗ trợ cho các thành viên cộng đồng.

Chúng tôi đồng tình với khuyến nghị của tổ chức ACLU, mà chúng tôi tóm tắt như sau:

Các cải tổ ngành cảnh sát phải theo hệ thống, đây không phải là một vài trái táo thối mà là vấn đề về hoạt động cảnh sát cấp độ quốc gia. Chính phủ liên bang có quyền lực để đảm bảo các trang thiết bị quân sự không được sử dụng trong hoạt động cảnh sát thông thường, như khám xét ma túy hay tuần tra đường phố, chỉ giới hạn trong những tình huống thực sự nguy hiểm, như cố thủ, tình huống con tin hay có kẻ bắn chủ động. Chính quyền liên bang nắm giữ nguồn cung và kiểm soát trang thiết bị quân sự do đó họ có thể có tạo ra ảnh hưởng lớn bằng cách cắt giảm hay thậm chí ngừng chuyển giao trang thiết bị quân sự cho các bang.

Nhà nước và chính quyền địa phương phải giới hạn việc sử dụng các đội SWAT cho các tình huống đặc biệt. Các tiêu chuẩn cần được thiết lập rõ ràng để các quyết định chủ quan của cảnh sát không dẫn đến việc dùng sai đội SWAT. 

Đội SWAT không bao giờ được triển khai đơn nhất dựa trên cơ sở là khả năng hiện diện ma túy. Sự hiện diện của ma túy không thể đánh đồng với bạo lực và nhiều vụ lạm dụng của đội SWAT đã dẫn đến giả định sai lầm đó. Đội SWAT chỉ thích hợp nếu tình huống được chỉ ra rằng cảnh sát thông thường sẽ không thể thực hiện lệnh một cách an toàn.

Khi đội SWAT được sử dụng thì cần phải có tỷ lệ thích hợp. Một đội SWAT hoàn chỉnh là 20 sĩ quan và trong nhiều trường hợp triển khai một phần là thích hợp hơn cũng như không gây leo thang căng thẳn hay gây nguy hiểm đối với công dân. 

Các chương trình huấn luyện thúc đẩy tinh thần “chiến binh” cần được hạn chế.

Cần có sự minh bạch để công chúng biết được cách cảnh sát bảo vệ cộng đồng của họ và có cơ hội tham gia vào quá trình ra quyết định. Một ánh sánh mạnh cần soi tỏ những chính sách này, hành động và trang thiết bị, cần phải đặt dưới sự giám sát của công chúng. Điều này đòi hỏi thu thập dữ liệu về trang thiết bị nhận được, chúng ở đâu và được sử dụng ra sao. Ngay hiện giờ không có lưu trữ thường xuyên được thực hiện.

Cuối cùng chúng tôi thúc giục các cá nhân sĩ quan cảnh sát, những người thừa nhận rằng quân sự hóa hoạt động cảnh sát là hủy hoại khả năng khiến họ trở thành một phần của cộng đồng, để phục vụ công dân và bảo vệ họ, hãy lên tiếng. Chúng tôi đã chứng kiến tác động của hoạt động cảnh sát thông minh khi thống đốc Nixon giao trọng trách cho Tuần Tra Đường Cao Tốc Bang và đại úy Ron Johnson tham gia đoàn tuần hành và bỏ mũ sắt. Tất nhiên một nỗ lực lớn hơn để phi quân sự hóa cảnh sát sẽ khởi đầu với các sĩ quan cảnh sát về hưu, nhưng điều quan trọng đối với đa số cảnh sát im lặng, những người chứng kiến vấn đề của việc quân sự hóa, là nói ra. Hãy để đồng nghiệp của bạn biết rằng cảnh sát là một phần của cộng đồng, không phải kẻ chiếm đóng cộng đồng.

Thursday, August 28, 2014

Đoạn ghi âm làm sáng tỏ vụ giết hại Micheal Brown ở thành phố Ferguson

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Audio recording sheds light on the murder of Michael Brown" của tác giả Niles Williamson, bình luận về vụ giết hại thanh niên da màu Michael Brown ở thành phố Ferguson, vụ việc đã dẫn đến bạo loạn ở thành phố này suốt thời gian vừa qua.

CNN công bố một đoạn ghi âm vào thứ hai cho thấy viên sĩ quan cảnh sát Darren Wilson tạm ngừng giữa hai loạt súng khi giết hại chàng thanh niên 18 tuổi Michael Brown ở Ferguson, Missouri vào ngày 9 tháng 8.

Âm thanh về vụ nổ súng được một cư dân Ferguson vô tình ghi âm lại khi ông ta chat video trong căn hộ của mình gần nơi diễn ra vụ nổ súng.

Đoạn ghi âm cho thấy rằng Brown bị quan cảnh sát Darren Wilson bắn ít nhất mười phát súng. Ít nhất có sáu phát súng được nghe thấy liên tiếp rất nhanh, tiếp theo là một khoảng tạm ngừng ngắn, và sau đó là bốn phát súng nữa.

“Tôi đã rất lo lắng về khoảng tạm ngưng… không phải vì số phát súng, mà là vì cách mà họ bắn. Có sự phù hợp rõ ràng với cách mà vụ đó kết thúc”, luật sư của nạn nhân Lopa Blumenthal nói trên CNN. 

Một khám nghiệm độc lập thi thể của Brown do chuyên gia pháp y đã nghỉ hưu của New York, bác sĩ Michael Baden và nhà nghiên cứu bệnh học của tòa án Shawn Parcells vào ngày 17 tháng 8 xác nhận rằng Brown đã bị bắn ít nhất sáu phát.

Bốn viên đạn mà Darren Wilson bắn ra đã găm vào tay phải và vai của Brown, còn hai viên khác găm vào đầu. Một viên đạn gây ra vết thương trên cẳng tay cho thấy Brown đã bị bắn khi bỏ chạy khỏi cảnh sát hoặc giơ tay lên đầu trong tư thế “đừng bắn”, như nhân chứng đã xác nhận.

Bác sĩ Baden nói rằng chỉ có viên đạn cuối cùng, được bắn thẳng vào đỉnh đầu Brown, là “tử thương”. Cần biết là Brown cao 1m96, viên đạn gây ra thương tích trên đỉnh đầu cho thấy Brown bị Wilson bắn phát kết liễu khi đã cúi xuống hoặc đang quỳ gối, theo kiểu xử tử.

Một hội thẩm đoàn đã được triệu tập để xem xét các bằng chứng của vụ án và quyết định xem có đưa ra cáo trạng chống lại Wilson hay không. Dự định sẽ kéo dài ít nhất hai tháng để mười hai hội thẩm có thể đưa ra quyết định về cáo trạng. Nếu hội thẩm đoàn quyết định rằng bằng chứng đã được đưa ra chứng minh một vụ án hình sự thì ủy viên công tố liên bang có thể đưa ra cáo trạng giết người, ngộ sát, hay một tội tấn công nhẹ hơn đối với Wilson. 

Thống đốc Dân Chủ Missouri Jay Nixon hoài nghi về khả năng đưa ra cáo trạng đối với Wilson trong cuộc phỏng vấn với CNN vào ngày chủ nhật. “Mọi thứ đều có thể xảy ra”, ông ta trả lời khi được hỏi về phạm vi các kết quả có thể xảy ra, bao gồm cả khả năng không có cáo trạng nào được đưa ra.

Nixon cũng bảo vệ ủy viên công tố Robert McCulloch, người đã thất bại trọng việc thuyết phục hội thẩm đoàn đưa ra cáo trạng đối với hai sĩ quan đã giết chết hai người Mỹ gốc Phi không có vũ khí khi hoạt động bí mật trong vụ án nổi tiếng “Jack in the Box” mười bốn năm trước đây. “Ông ấy đã được mọi người bầu chọn. Và anh biết đấy, anh không muốn có định kiến về điều đó”, Nixon nói.

“Tôi không nghĩ là ông ta thuyết phục được”, luật sư Chris Chestnut nói, luật sư của gia đình Jonathan Ferrell, một người đàn ông da màu không vũ khí bị một sĩ quan cảnh sát da trắng giết chết vào năm ngoái ở Bắc Carolina.

“Hội thẩm đoàn được giao – hay hạn chế - các bằng chứng được đưa ra, và tôi không hài lòng khi họ đưa tất cả các bằng chứng ra trước hội thẩm đoàn”.

Bộ Tư Pháp cũng đã bắt đầu điều tra quyền công dân liên bang đối với vụ giết hại Brown. Để đạt được cáo trạng liên bang thì chính quyền phải chứng minh rằng Wilson hành động với sự thù địch mang tính chủng tộc chống lại Brown, dựa vào đó để tước quyền công dân của Wilson.

Đó là khả năng nhỏ nhoi còn lại về cáo trạng liên bang và phiên tòa liên quan tới việc xâm phạm quyền công dân của Michael Brown. Nhưng theo tổ chức Transactional Records Access Clearinghouse tại trường đại học Syracuse thì hơn ba phần tư các đề xuất về xâm phạm quyền công dân liên bang kết thúc mà không có hoạt động xét xử nào vào năm ngoái.