Showing posts with label Nhân quyền. Show all posts
Showing posts with label Nhân quyền. Show all posts

Sunday, August 26, 2018

Tin tức về một tay giặc lái

Ảnh: Bia John McCain ở hồ Trúc Bạch
Nguồn: Internet
Mục sư nói với người nhà của thượng nghị sĩ John McCain quá cố:
-Tôi có tin tốt lành cho các vị đây: McCain đang được bay lên thiên đường với đức Chúa Trời.
- Ông ấy đã tới nơi chưa, thưa cha? Một người hỏi.
Mục sư nói tiếp:
- Còn đây là tin xấu: Tụi Việt Cộng đã bắn rơi máy bay của ông ấy.

(Chuyện bịa, nhưng không nhất thiết phải khác với sự thật)

P/s: Nhiều năm nữa người ta sẽ quên John McCain, như đã quên Bill Clinton, nhưng tấm bia hồ Trúc Bạch sẽ luôn còn đó, nhắc nhở người Việt Nam về những gì họ đã phải làm để giành lấy độc lập, tự do và phẩm giá.

Monday, December 26, 2016

Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam

Các phe phái chống cộng đều có một lập luận chung rằng: Chủ nghĩa xã hội là một ảo tưởng chỉ có chủ nghĩa tư bản là hiện thực vì vậy Việt Nam cần phải từ bỏ ảo tưởng và đi theo hiện thực. Hoặc tinh vi hơn thì sẽ sử dụng hình mẫu các nước Bắc Âu để nói rằng có một con đường thứ ba, kết hợp giữa chủ nghĩa tư bản và dân chủ hay nhân quyền, tạo ra hạnh phúc ấm no. Tóm lại, tất cả những gì cần thiết là đi theo chủ nghĩa tư bản dưới hình thức này hay hình thức khác.

Đối với các vị tư sản thì trước kia có lịch sử nhưng khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện thì lịch sử chấm hết. Loài người mãi mãi dừng lại chủ nghĩa tư bản. Hãy thử tưởng tượng, bạn quay về đế quốc La Mã và nói với họ rằng xã hội chiếm hữu nô lệ trên đỉnh cao văn minh nhân loại của họ sẽ bị các bộ tộc German dã man đánh bại và thay thế nó bằng một chế độ khác. Những người La Mã văn minh ấy sẽ trả lời bạn hệt như các vị tư sản ngày nay. Hoặc gần hơn nữa, hãy nhớ lại lập luận của các vị tư sản khi họ treo cổ đám vua chúa phong kiến lên, mặc dù đám vua chúa và quý tộc phong kiến ấy giàu sang và có học hơn họ nhiều. Lúc đó nếu ai dám nói với họ rằng chế độ tư bản chỉ là ảo tưởng, chỉ có các triều đình phong kiến là hiện thực thì chỗ của người đó sẽ là trên giá treo cổ, bên cạnh vua chúa và quý tộc các loại.

Trước hết, chủ nghĩa xã hội không phải là ý tưởng kỳ quái từ đâu đó sinh ra, đó là quy luật của xã hội loài người, đó là quy luật của lịch sử, nó sinh ra khi chủ nghĩa tư bản đạt đến mức độ phát triển nhất định, ngay chính trong lòng xã hội tư bản với tư cách là sự thay thế chế độ tư bản. Quy luật ấy sẽ phải được thể hiện bằng sự lựa chọn của một số quốc gia nhất định bởi vì chủ nghĩa tư bản đã củng cố và tạo ra các biên giới quốc gia thống nhất thay cho các lãnh địa phong kiến tản mạn xưa kia.

Tại sao người Việt Nam lựa chọn chủ nghĩa xã hội mà không chọn chủ nghĩa tư bản?

Chủ nghĩa tư bản phát triển đến mức độ nhất định tại một số quốc gia thì nó sẽ phá hoại những điều kiện phát triển bình thường tại một số quốc gia khác khiến cho những quốc gia bị phá hoại không thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản được nữa. Nếu các ngài tư sản có nói với bạn rằng hãy chọn con đường tư bản để được giàu có và hạnh phúc thì bạn hãy chỉ cho các ngài ấy thấy ngoài Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản, chủ nghĩa tư bản chưa từng thành công ở bất cứ đâu, đa phần các nước khác hoặc là chìm trong đói nghèo lạc hậu của một xã hội đứng ở ngưỡng cửa của chủ nghĩa tư bản hoặc phải sử dụng một phiên bản không hoàn thiện của chủ nghĩa tư bản. Việt Nam là một nạn nhân của chủ nghĩa tư bản thời đại đế quốc, bom đạn, văn minh, dân chủ, nhân quyền phương Tây đã gần như đưa xứ sở của chúng ta về thời đồ đá, rất tiếc là họ không được như ý vì chúng ta đã tiến vào thời đại đồ nhôm. Con đường chủ nghĩa tư bản đã khép lại từ lâu và không hứa hẹn đem lại bất cứ thứ gì tốt đẹp cho Việt Nam. Lịch sử đã không cho chúng ta chọn chủ nghĩa tư bản.

Kể từ khai sinh cho đến nay, chủ nghĩa tư bản đã đạt đến độ chín của nó. Hãy nhớ rằng khi La Mã bị người German dã man đánh bại thì La Mã phát triển hơn German rất nhiều, sở dĩ có điều đó là bởi vì chế độ chiếm hữu nô lệ của La Mã đã mất hết động lực phát triển và trở thành gánh nặng. Chủ nghĩa tư bản ngày nay cũng vậy, các nước tư bản vẫn giàu có hùng mạnh và có thể hùng hổ bắt nạt cả thế giới, nhưng trong căn nguyên của chủ nghĩa tư bản thì cái quan hệ sản xuất của nó đã lạc hậu và mất hết động lực phát triển. Xưa kia khi quan lại phong kiến cố gắng bám lấy chế độ phong kiến trước sự đe dọa của chủ nghĩa tư bản bằng những lý lẽ nào thì giờ các vị tư sản lại bám lấy chế độ tư bản bằng những lý lẽ y hệt. Lý trí sáng suốt nào lại cho phép chúng ta bám lấy những gì đang suy tàn mà từ bỏ cái mới tốt đẹp hơn đang hình thành. Không, chính lý trí đã giúp người Việt có được sự lựa chọn sáng suốt. Cũng cần phải nói thêm rằng nếu không có cái lý trí sáng suốt ấy thì người Việt Nam cũng như nước Việt Nam thậm chí còn không tồn tại. Nỗi nhục nước bị xóa tên trên bản đồ, người Việt phải nói tiếng Pháp thay cho tiếng mẹ đẻ chẳng phải là mới ngày hôm qua thôi sao?

Chủ nghĩa tư bản phát triển dựa trên quan hệ giữa các cá nhân độc lập với tư cách chủ sở hữu hàng hóa, quan hệ giữa họ là mua bán. Những phương thức sản xuất khác thì không dựa trên việc mua bán hàng hóa nên buộc phải dựa vào các mối quan hệ gia tộc, huyết thống và sự mở rộng nhất định của các thiết chế mang tính tập thể. Khi các chủ nghĩa tư bản phát triển thì Việt Nam mới ở vào giai đoạn tan rã của chế độ phong kiến vì vậy các quan hệ xã hội và thiết chế mang tính tập thể của người Việt Nam vẫn còn rất mạnh. Chính yếu tố đó khi được trui rèn trong lò lửa của cách mạng vô sản và các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc suốt nửa sau thế kỷ 20 đã nuôi dưỡng trong lòng xã hội Việt Nam cái hạt nhân mạnh mẽ của chủ nghĩa xã hội. Lý trí của người Việt bắt nguồn từ hiện thực của người Việt chứ không phải là một ảo tưởng sùng bái vĩ nhân hay học thuyết ngoại lai nào đó. 

Nói tóm lại, lịch sử đã chọn con đường xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam vì trong lòng xã hội Việt Nam đã mang sẵn những mầm mống của nó, cho dù nước Việt Nam vẫn còn chưa được giàu mạnh. Hãy nhìn lại lịch sử! Chẳng phải các bộ tộc người German dã man đã đánh bại La Mã thần thánh đó sao? Chẳng phải thương nhân Hà Lan đã đánh bại cả triều đình Habsburg lẫn đế quốc Tây Ban Nha hùng mạnh để giành độc lập sau 80 năm kháng chiến gian khổ ngay giữa lúc chế độ phong kiến châu Âu đạt tới đỉnh cao đó sao? Cần phải nói thêm rằng cũng chính người Hà Lan đã đưa William Orange lên ngai vàng nước Anh (để làm đồng minh chống lại Tây Ban Nha), mở đường cho nước Anh rệu rã sau này trở thành đế quốc của thời đại tư bản.

Để hình thành xã hội tư sản thì giai cấp tư sản của nó phải đủ mạnh, nhưng chính bản thân giai cấp tư sản ở Việt Nam lại chưa bao giờ đủ mạnh và độc lập. Giai cấp tư sản Việt Nam hình thành nhờ vào vai trò trung gian giữa đế quốc và người bản địa, thế nên dưới chế độ thuộc địa thì giai cấp tư sản hoàn toàn lệ thuộc vào đế quốc. Khi chế độ thuộc địa bị đập tan thì giai cấp tư sản cũng nhanh chóng tan rã, những mảnh còn lại của nó buộc phải bám lấy giới tiểu thương thành thị, nông dân giàu và trí thức. Sau này, khi kinh tế thị trường được phát triển trở lại ở Việt Nam, giai cấp tư sản bắt đầu hồi phục, nhưng vì không có truyền thống thống trị độc lập nên hệ tư tưởng của giai cấp này cũng không độc lập, nó phân tán và chịu đủ sự chi phối từ các tầng lớp khác, khi phải đối mặt với sự tổ chức và tính kỷ luật đã được rèn rũa bằng cách mạng của giai cấp vô sản thì nó hoàn toàn bất lực. Chính hoàn cảnh lịch sử này đã phản ánh vào tâm thức của một bộ phận tầng lớp trí thức ở Việt Nam. Trên thực tế họ là cái loa của giai cấp tư sản do đã bị tư sản hóa, do những mảnh của giai cấp tư sản ẩn náu trong họ. Sự yếu đuối bế tắc, không có tư tưởng độc lập của giai cấp tư sản được thể hiện thành những luận điệu lải nhải về sự ngu dốt thấp kém của người Việt nói chung, mặc dù đó thực ra là của giai cấp tư sản Việt Nam.

Chính người lao động Việt Nam đã chứng minh được trí tuệ và bản lĩnh của họ trong suốt nửa thế kỷ qua, những người nông dân chân lấm tay bùn, những người thợ nhem nhuốc dầu mỡ, những anh giáo làng nhút nhát đã bằng chính đôi tay của mình quật ngã những đế quốc sừng sỏ nhất của thế kỷ 20, ngay giữa thời đại phát triển thịnh vượng nhất của họ. Đó chẳng phải bản lĩnh và trí tuệ đó sao? Để làm được điều đó thì chẳng phải cần đến sự tổ chức cũng như kỷ luật sắt đá đó sao? Hãy nhớ rằng đó là kỷ luật của máu, còn cao hơn kỷ luật của ngọn roi cá đuối thời đại chiếm hữu nô lệ và kỷ luật của cái đói trong chế độ tư bản! Thật nực cười khi nói rằng người Việt Nam không biết tổ chức cũng như không có kỷ luật. Hãy nhớ rằng khi những kẻ giàu có đu càng máy bay trực thăng chạy trốn thì chính những người lao động lầm than đã xây dựng lại đất nước Việt Nam từ đống tro tàn trong cảnh bị đe dọa, bao vây, cấm vận và vẫn phải cầm khẩu súng chiến đấu. Giai cấp vô sản Việt Nam hình thành chậm hơn và thiếu sự phát triển hơn so với giai cấp vô sản ở các nước tư bản phát triển nhưng họ mang trong mình hạt nhân cách mạng mà ít có giai cấp vô sản ở các quốc gia khác có được, đó là lý do khiến nước Việt Nam vẫn còn đứng vững đến nay, ngay cả khi hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ.

Hoàn cảnh lịch sử ấy cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin đã đẩy xã hội Việt Nam vào một giai đoạn đặc biệt đáng chú ý trong lịch sử, có thể gọi nôm là "đánh võ mồm" hay "bàn phím chiến".

Sợ hãi trước trí tuệ và bản lĩnh của người lao động Việt Nam, giai cấp tư sản cũng như những kẻ tay sai của họ không ngừng tìm cách bôi nhọ người Việt Nam (nực cười thay, khi đó họ không xem bản thân là người Việt, hệt như Chí Phèo chửi cả làng Vũ Đại). Họ không ngừng lôi ra những cái gọi là thói hư tật xấu của người Việt Nam và so sánh với những gì gọi là văn minh, tốt đẹp của phương Tây (theo chủ nghĩa tư bản). Chuyện này đã khiến rất nhiều người bị nhầm lẫn. Nhưng hãy hình dung bằng một ví dụ đơn giản, một đứa bé đang tuổi ăn tuổi lớn, bố mẹ nó không khá giả lắm thì sẽ mua cho nó bộ quần áo rộng một chút để nó có thể mặc được lâu. Đứa bé mặc bộ quần áo rộng thùng thình thì trông sẽ rất xấu xí, không thể so sánh với những đứa bé con nhà giàu mặc bộ quần áo vừa vặn được. Nhưng những người hiểu biết liệu có chê bai chế nhạo đứa bé kia về bộ quần áo rộng và bộ dạng chả mấy đẹp đẽ của nó không? Chắc chắn không có người hiểu biết nào lại làm cái điều ngớ ngẩn đó. Xã hội Việt Nam đang phát triển rất nhanh, nó tạo ra hàng sa số những xung đột giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội, hàng sa số những vấn đề mà hiện tại không có cách nào giải quyết được, nhất là khi các điều kiện cần thiết để giải quyết chúng chưa xuất hiện. Những hiện tượng đó cho thấy xã hội Việt Nam đang chuyển mình nhanh chóng. Tranh luận và cãi cọ về những thứ đó chỉ tốn thời gian và chẳng đem lại lợi ích gì. Thậm chí chính tư duy của cái bộ phận dân cư không ngừng nguyền rủa và hạ nhục người Việt nói chung kia cũng là sản phẩm của hoàn cảnh ấy, nó thể hiện sự bất lực và thiếu hiểu biết của họ trước những xung đột xã hội và nó cũng sẽ tan biến khi những xung đột ấy chấm dứt. Ở đây lý trí của người vô sản bình thường sẽ mách bảo cho bạn biết rằng những gì bạn cần làm lúc này là chọn xem vấn đề nào giải quyết được và giải quyết vấn đề đó chứ không phải đứng đó gào thét và chửi bới cái mớ hỗn độn quanh bạn. 

Cần phải trả lời cái luận điệu "Phương Tây là văn minh và tốt đẹp, hãy học họ để văn minh và tốt đẹp chứ đừng biện minh cho bản thân bằng những vấn đề của họ" ra sao? Rất đơn giản, luận điểm đó dựa trên hai giả định, thứ nhất là phương Tây văn minh tốt đẹp hơn Việt Nam, thứ hai là những cái văn minh và tốt đẹp ấy không gắn liền với các vấn đề của họ. Điều thứ nhất bạn có thể chứng minh rằng đó là tâm thức của những kẻ nô lệ, không có bất cứ bằng chứng nào cho thấy phương Tây văn minh tốt đẹp hơn và phải "Thoát Á" hay "Thoát Trung", đó là điều nhảm nhí. Cái tâm thức ấy rất điển hình của giai cấp tư sản và một bộ phận trí thức Việt Nam, họ làm trung gian giữa các đế quốc phương Tây và người Việt thế nên sự siêu việt của văn minh phương Tây đảm bảo cho địa vị đặc quyền của họ và do đó họ sẽ phủ nhận mọi sự tốt đẹp của người Việt (vì điều đó đe dọa địa vị của họ). Phần thứ hai cũng có thể chứng minh đơn giản, các vấn đề của phương Tây gắn liền với những cái gọi là văn minh và tốt đẹp của phương Tây, đi theo con đường của phương Tây (hay chủ nghĩa tư bản) là chấp nhận những thứ đó. Hãy vạch mặt giai cấp tư sản và tay sai của giai cấp tư sản bằng cách ấy. Hãy hiểu rằng cái mà giai cấp tư sản Việt Nam muốn là chủ nghĩa tư bản phương Tây, còn tất cả những gì tệ hại như thất nghiệp, bần cùng, tội phạm, tàn phá môi trường, khủng hoảng kinh tế, sự tha hóa của nhân cách thì giai cấp vô sản sẽ phải gánh chịu, thế nên chúng sẽ luôn phớt lờ những mặt trái của xã hội phương Tây để ca ngợi những thứ phù hợp với lợi ích của chúng. Hãy luôn nhớ rằng giai cấp công nhân và nông dân sẽ phải gánh chịu toàn bộ những thảm họa đó, nếu giai cấp tư sản thành công trong việc thay đổi hướng đi của đất nước này.

Sunday, October 16, 2016

Xã hội và quan hệ xã hội

Cách đây không lâu, rất nhiều trang mạng nước ngoài và quốc tế phát tán một câu chuyện kiểu giả khoa học xuất phát từ một mạng xã hội chuyên về chuyện hài hước mô tả một thí nghiệm về khỉ và dùng nó để minh họa cho việc đàn áp vô lý các ý kiến khác biệt trong xã hội loài người. Dưới đây là câu chuyện ấy.

Đọc toàn bộ câu chuyện ở đây
Điều căn bản phi lý trong câu chuyện này chính là giả định đám khỉ sẽ đánh con khỉ nào muốn leo lên lấy chuối. Đó là điều không bao giờ xảy ra trong xã hội loài người và chính điều đó đã ngầm giả định sự đàn áp các quan điểm khác biệt. Câu chuyện này trở thành một mớ nhảm nhí theo kiểu sự đàn áp tồn tại vì có sự đàn áp và giải pháp của nó là một thứ khôi hài không tưởng theo kiểu hành vi tâm thần của sự nghiện ngập "like và share" trên mạng xã hội: Hãy chia sẻ và mọi người sẽ nghĩ khác, khi mọi người nghĩ khác thì mọi thứ sẽ khác!

Quan hệ giữa những con người là quan hệ xã hội và quan hệ xã hội sẽ trở thành một phần của bản chất tự nhiên trong con người. Hãy chú ý điều này: Kinh tế học luôn giả định con người là homo economicus, tức là một kiểu con khỉ vị kỷ chỉ biết đến bản thân khi so sánh giữa chuối và nước lạnh, khi làm điều đó nó buộc phải giả định rằng vị tha không tồn tại, tức là một ông bố sẽ không hy sinh gói thuốc lá của mình để mua sữa cho đứa con nhỏ đang đói. Thứ giả khoa học của chủ nghĩa tư bản hình dung con người là một con vật vị kỷ, do vậy nó dùng con vật để thay thế cho con người trong mọi câu chuyện.

Xã hội con người sẽ hoàn toàn khác với xã hội khỉ được mô tả trong thí nghiệm giả khoa học kia.

1-Xã hội có giai cấp 

Khi đám khỉ biết rằng một con khỉ trèo lên lấy chuối thì những con còn lại sẽ bị xịt nước lạnh, chúng sẽ làm gì? Chúng sẽ cắt cử một con khéo léo nhanh nhẹn nhất leo lên thật nhanh lấy chuối xuống để chia cho tất cả cùng ăn, cả đám còn lại sẽ cùng chịu nước lạnh và sau đó cùng ăn chuối.

Chuyện đó là bình thường cho đến khi con khỉ chuyên lấy chuối kia tưởng rằng chuối có được là nhờ sự thông minh khéo léo của nó còn những kẻ còn lại chỉ là những kẻ khốn khổ ăn bám không hơn không kém. Nó sẽ thể hiện uy quyền bằng cách ăn phần lớn chuối và chỉ chia phần nhỏ cho những con còn lại. Tất nhiên những con khỉ còn lại sẽ bất bình, chúng sẽ tìm cách thay thế con khỉ đó bằng một con khỉ khác công bằng hơn. Song cái cơ chế đó đã hình thành, những con khỉ đi lấy chuối bao giờ cũng là tầng lớp đặc quyền và đặc quyền đó được xây dựng dựa trên sự chịu đựng đau khổ của đông đảo quần chúng. Mọi con khỉ đi lấy chuối có công bằng vô tư đến đâu thì cái cơ chế xã hội tồn tại vẫn luôn đảm bảo địa vị đặc quyền của chúng và sẽ luôn tạo điều kiện thuận lợi cho những kẻ ăn bám cặn bã. Điểm mấu chốt này giải thích sự duy tâm và bảo thủ của câu chuyện giả khoa học về lũ khỉ trong bức hình minh họa nói trên. Một mặt, nó thay thế quan hệ xã hội bằng lợi ích và niềm tin cá nhân. Mặt khác, nó khẳng định lối thoát là sự giải phóng của lợi ích và niềm tin cá nhân. Sự phi lý nằm ở chỗ: Nó giả định sẵn cái mà nó cần phải chứng minh. Sự bảo thủ của nó nằm ở chỗ: Nó lảng tránh quan hệ xã hội, coi quan hệ xã hội là một thuộc tính tự nhiên vĩnh viễn không thể thay đổi, do vậy nó thần thánh hóa và bảo vệ cái trật tự mà nó vờ như đang chống lại.

2-Xã hội không giai cấp

Khi xã hội loài khỉ tiến hóa đến một mức độ nhất định, lũ khỉ sẽ thay đổi cách tổ chức. Mỗi con khỉ sẽ đều phải lần lượt leo lên lấy chuối xuống chia cho cả nhóm cùng ăn và tất nhiên là con nào cũng chịu bị phun nước lạnh. Chúng sẽ cười vào mũi đám nhà khoa học dốt nát đang cố tìm hiểu chuyện gì xảy ra, đôi khi chúng sẽ thí nghiệm trở lại xem đám nhà khoa học kia sẽ làm gì khi chúng dự trữ chuối để ăn hay không thèm leo lên lấy chuối ngay cả khi bị phun nước lạnh, từ đó chúng sẽ thay đổi cách tổ chức hành động cho hiệu quả hơn. Mỗi con khỉ đều đạt tới trạng thái tự do khi tham gia vào mọi công việc chung của xã hội. Một mặt chúng có những quyền lợi và nghĩa vụ, thậm chí cả sự đau khổ ràng buộc với xã hội, nhưng mặt khác chúng không còn lệ thuộc vào những cá thể nhất định nữa. Sự xung đột chấm dứt, không còn bất cứ con nào phàn nàn về nước lạnh hay vấn đề công bằng khi chia chuối. Mọi ý kiến bất đồng đều nhanh chóng được giải quyết do mỗi thành viên trong xã hội đều có đầy đủ trải nghiệm và công cụ để kiểm chứng những ý kiến đó, chỉ trên cơ sở đó, những ý kiến khác biệt mới được tôn trọng triệt để. Đây là xã hội có ý thức, con người đã tách hoàn toàn khỏi trạng thái nguyên thủy. 

Để chống lại tình trạng những kẻ đặc quyền đặc lợi ăn bám vào xã hội thì mấu chốt không phải là thay thế kẻ đặc quyền này bằng kẻ đặc quyền khác, mà là xóa bỏ mọi đặc quyền. Việc xóa bỏ đặc quyền đòi hỏi phải tổ chức lại xã hội khiến cho tất cả mọi người đều phải tham gia vào mọi công việc chung của xã hội và được hưởng lợi ích từ đó. 

3-Cuộc đấu tranh giữa các hệ tư tưởng

Từ khi một xã hội không giai cấp, chấm dứt mọi đặc quyền bắt đầu hình thành thì tầng lớp đặc quyền sẽ không thể ngồi yên, chúng sẽ tìm mọi cách chống lại điều đó để bảo vệ địa vị của mình. 

Khi những con khỉ bắt đầu tổ chức theo xã hội không giai cấp thì tất cả những thành phần tinh hoa của xã hội cũ sẽ gào thét, chúng sẽ ồn ào về sự phi lý, những hậu quả của hành động trái ngược với bản chất tự nhiên, với sự khéo léo của những con khỉ chuyên lấy chuối, với sức chịu đựng bền bỉ của những con khỉ chuyên chịu nước lạnh. Một mặt chúng sẽ đề cao sự công bằng bình đẳng, mặt khác chúng tuyên bố cái trật tự hiện có là tự nhiên, bất cứ ý kiến nào đòi thay đổi cái trật tự đó đều là ngu xuẩn và độc ác. Mọi sự tiến bộ đều có thể tiến lên bằng cách thay đổi tư duy hay nhận thức của mỗi cá thể chứ không phải là thay đổi quan hệ xã hội giữa các cá thể đó. Hãy đừng ngạc nhiên khi thấy có những xã hội đề cao ý kiến cá nhân nhất cũng chính là những xã hội đàn áp ý kiến cá nhân bậc nhất, bởi vì sự tự do đó không dành cho tất cả mọi người.

Không phải ở đâu những con khỉ thuộc tầng lớp đặc quyền cũng có thể to tiếng, nhất là khi những con khỉ còn lại đã có tổ chức tốt, việc tạo dựng xã hội mới cũng đồng nghĩa với việc đánh bại, đàn áp những kẻ thống trị bảo thủ của xã hội cũ. Đó là điều không thể tránh khỏi. Ở đây sẽ xuất hiện một bộ phận phản động bậc nhất, chúng sẽ nhân danh tự do ngôn luận, tự do bất đồng chính kiến để chống lại việc xây dựng xã hội mới. Tự do ngôn luận, tự do bất đồng chính kiến có nghĩa là tự do bảo vệ trật tự xã hội cũ của những kẻ đặc quyền và do vậy đối với những kẻ đặc quyền sẽ là giá trị tốt đẹp nhất của xã hội hiện tại. Lúc này, mấu chốt để xây dựng xã hội mới không phải là đấu tranh cho tự do ngôn luận hay bất đồng chính kiến mà là tiêu diệt chúng.

4-Lời kết

Quay trở lại với câu chuyện trong hình minh họa, tất cả thực tiễn của xã hội đã bị xóa bỏ, chỉ còn lại sự phi lý trong việc đàn áp ý kiến khác biệt được minh họa bằng một thí nghiệm giả tưởng với khỉ, do vậy, chìa khóa để thay đổi là mọi ý kiến khác biệt đều phải được tôn trọng và khuyến khích. Song chỉ khi nào người ta đặt câu chuyện giả khoa học theo kiểu ngụ ngôn này vào bối cảnh lịch sử của xã hội loài người thì ý nghĩa xã hội của nó mới bộc lộ rõ, cả sự bảo thủ cũng như phản động của nó. 

Cách đây hơn một thế kỷ, những người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học đã nhấn mạnh rằng: Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức! Chỉ có thực tiễn mới kiểm nghiệm được nhận thức và quyết định được nhận thức, do vậy dưới chủ nghĩa tư bản, một bộ phận dân chúng bị tha hóa và tách ra khỏi hiện thực xã hội, mất đi khả năng kiểm chứng nhận thức của bản thân và bị lệ thuộc vào nhận thức của kẻ khác (một ví dụ cụ thể: đám đông bị truyền thông định hướng). Trong hoàn cảnh ấy, tự do ngôn luận hay tự do bất đồng chính kiến thực ra là sự mất tự do về ngôn luận và sự mất tự do về bất đồng chính kiến. Việc đề cao tự do ngôn luận hay tự do bất đồng chính kiến lúc này luôn đi cùng với sự phê phán ý thức thấp kém, lệ thuộc, quần chúng ngu dốt hay các tệ nạn a dua, anh hùng bàn phím, giống như hai mặt của một đồng xu vậy. Khi các quyền tự do bị tách ra khỏi cơ sở thực tiễn xã hội thì chúng trở thành sự bảo thủ và phản động, chúng sẽ giúp cho những thế lực thống trị của xã hội tiếp tục duy trì sự nô dịch đối với quần chúng lao động, buộc quần chúng lao động phải phụ thuộc vào chúng. Khi sự phê phán ý thức tách rời khỏi thực tiễn xã hội (tức là không đi cùng với sự giải phóng người lao động) thì chúng cũng trở thành phản động vì chúng không thay đổi nhận thức của quần chúng lao động để phục vụ cho việc giải phóng họ mà ngược lại củng cố sự thống trị của tầng lớp có đặc quyền về ý thức và giáo dục. Điều khôi hài ở chỗ này mà có thể người ta đã lờ mờ nhận ra, chính là chủ nghĩa giáo dục mang tính khai sáng kiểu tư sản (hiện đang được phe dân chủ đề cao ở Việt Nam) lại gắn liền với chủ nghĩa ngu dân phản động bậc nhất, có nghĩa là "khai dân trí" để dân chúng biết rằng họ lệ thuộc vào ý thức của một tầng lớp tinh hoa có đặc quyền về trí tuệ chứ không phải để họ tự giải phóng bản thân mình và có được sự độc lập về ý thức. 

Monday, April 11, 2016

Tại sao Singapore giàu còn Việt Nam thì chưa?

Singapore có dự án xây dựng đường sắt cần phải chặt hạ 1.000 cây xanh. Tụi cây quyền ở Singapore gom được ba mống đi biểu tình phản đối. Cảnh sát đến giải tán, đánh cả lũ một trận nhừ tử rồi đưa ra tòa với một lô một lốc trọng tội như gây rối trật tự công cộng, biểu tình bất hợp pháp, chống người thừa hành công vụ, cố ý gây thương tích, tuyên truyền tôn giáo trái phép, xúc phạm chính quyền, dụ dỗ trẻ vị thành niên, trốn thuế…tòa tống cả đám vào tù với dăm cái án chung thân và khoản tiền phạt khổng lồ. Cây bị đốn sạch và đường sắt được làm xong.

Việt Nam cũng có dự án xây dựng đường sắt phải chặt hạ 1.000 cây xanh. Việc chặt cây xanh được thông báo trước hai năm để lấy ý kiến dân chúng, không có đứa nào ý kiến ý cò gì hết. Đúng ngày khởi công chặt cây, tụi cây quyền thuê một mớ dân oan đi biểu tình với sự hộ tống của một bầy đông đảo báo chí kền kền quốc tế. Cảnh sát không dám đến giải tán vì ngán tụi nó kêu đàn áp nhân quyền. Báo chí nhào vô khóc mướn cho cây xanh um xùm. Một ông nghị ngẫn tuyên bố việc gì cũng phải tôn trọng ý kiến dân chúng. Việc chặt cây bị tạm đình lại. Ban quản lý dự án phải họp báo giải thích. Báo chí lại loan tin có doanh nghiệp Trung Quốc tham gia móc ngoặc dự án. Ban quản quản lý dự án lại phải họp báo thanh minh. Báo chí lại đăng tin có tham nhũng trong dự án. Ban quản lý dự án lại phải họp báo thanh minh. Nhà thầu thấy dự án bị đình trệ lâu mà báo chí lại hay săm soi bới móc đủ lỗi lớn nhỏ, họ bỏ chạy không làm nữa. Các nhà thầu khác cũng không dám nhận. Dự án đường sắt một đống tiền nằm chết dí đó không biết bao giờ mới xong.

Tụi cây quyền Việt Nam lên mạng ca ngợi nước Singapore là dân chủ và tôn trọng nhân quyền nên giàu có, còn Việt Nam là độc tài, tham nhũng và không tôn trọng nhân quyền nên nghèo đói.

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí nhưng không nhất thiết khác với sự thật)

Wednesday, December 16, 2015

Chủ nghĩa Marx đối đầu với chủ nghĩa đạo đức về nạn mại dâm

Khi cuộc tranh luận về việc hợp pháp hóa mại dâm diễn ra ở Việt Nam mới đây, thật kỳ lạ là hoàn toàn không có ai sử dụng chủ nghĩa Marx để phân tích vấn đề đó. Dường như chủ nghĩa Marx đang bị hắt hủi trong thực tiễn ở Việt Nam (một nước công khai theo chủ nghĩa Marx-Lenin), có lẽ điều đó khiến cánh cực hữu và những kẻ thờ phụng chủ nghĩa đế quốc phương Tây vui mừng hơn nhiều so với sự bôi nhọ chủ nghĩa Marx một cách bỉ ổi hàng này của họ.

Việc sử dụng chủ nghĩa Marx để phân tích các vấn đề thực tế không phải là hiếm hoi trên thế giới ngược lại nó đang ngày càng trở thành vũ khí đấu tranh sắc bén hơn của người lao động trên khắp thế giới.

Cũng về vấn đề mại dâm, Helen Ward trong bài "Marxism versus Moralism on Prostitution", đăng trên Permanent Revolution Winter 2007, đã dựa trên luận điểm Marxist cho rằng mại dâm là mặt trái của chế độ hôn nhân một vợ một chồng (chỉ đối với phụ nữ), phân tích việc biến mại dâm thành hàng hóa trong xã hội tư bản và cấu trúc giai cấp của mại dâm. Mỗi bộ phận trong lĩnh vực mại dâm thuộc về một giai cấp khác nhau, tương ứng với cấu trúc giai cấp của xã hội tư sản, do vậy khi đấu tranh chống lại nạn mại dâm thì cũng cần có phương thức liên kết và đấu tranh thích hợp với cấu trúc giai cấp đó. 

Nếu như ở nước Anh mại dâm là hợp pháp thì công việc của người vô sản anh là đoàn kết với công nhân tình dục để chống lại sự áp bức của giai cấp tư sản thì ở Việt Nam, nơi mà mại dâm là bất hợp pháp, thì công việc của người vô sản không phải là đấu tranh để hợp pháp hóa nó mà ngược lại phải tìm cách xóa bỏ nó. Do ở những nước như Anh, khi mà mại dâm được hợp pháp hóa thì trong những điều kiện của chủ nghĩa tư bản điều đó có nghĩa là nạn mại dâm đã trở lên phổ biến và biến thành chế độ làm thuê phổ biến, cách thức đấu tranh hợp lý là đoàn kết với những người bị áp bức. Còn ở Việt Nam, nạn mại dâm vẫn chưa đạt đến quy mô công nghiệp, vẫn chỉ hạn chế chủ yếu ở giai cấp tiểu tư sản và tầng lớp vô sản lưu manh, thì điều tiên quyết là chống lại mọi mưu toan công nghiệp hóa nó, phát triển nó thành một dịch vụ phổ biến, bởi vì sự hủy hoại ấy trước hết sẽ nhằm vào những người lao động.

Chủ nghĩa Marx đối đầu với chủ nghĩa đạo đức về mại dâm

“Mại dâm chỉ là một biểu hiện cụ thể của nạn mại dâm phổ biến của người lao động.”[1] Câu trích dẫn này của Marx có thể cho thấy rằng đối với những người xã hội chủ nghĩa thì mại dâm là một vấn đề rất rõ ràng, nhưng thay vì được chứng minh trong các cuộc đấu tranh thực tế, cánh tả thường dao động giữa việc biện minh cho sự áp bức và xóa bỏ, hay hình sự hóa và công đoàn hóa.

Phần lớn các tranh luận mới đây tập trung xem xét về việc mại dâm có thể được coi là công việc hay là một dạng áp bức đối với phụ nữ.[2] Hai phe đối lập đã dẫn đến hai chiến lược đối lập hoàn toàn. Nếu như mại dâm là công việc thì đấu tranh cho việc tự tổ chức và các quyền là vấn đề chủ chốt của những người xã hội chủ nghĩa. Nhưng nếu như mại dâm là sự áp bức và nô lệ hóa thì những người tham gia là nạn nhân cần phải được giải thoát. Kathleen Barry, nhà tổ chức của hội nghị nữ quyền quốc tế về buôn bán phụ nữ vào năm 1983, đã theo đuổi quan điểm thứ hai khi bà từ chối tranh luận với nhà hoạt động của lao động tình dục Margo St. James, lập luận rằng “hội nghị là về nữ quyền và không ủng hộ thiết chế mại dâm…(sẽ là)…không thích hợp để thảo luận về nô lệ tình dục với phụ nữ bán dâm.”[3] Gần đây hơn, nhà văn Julie Bindell đã ủng hộ quan điểm này, viết về quyết định mở một chi nhánh cho lao động tình dục của GMB, bà lập luận, “làm sao một công đoàn có thể vừa chống lại việc áp bức phụ nữ lại vừa dung nạp điều đó? Thay vì để xã hội coi đó là một sự lựa chọn nghề nghiệp, mại dâm cần phải được thể hiện đúng bản chất – sự áp bức đối với phụ nữ. Công đoàn hóa không thể bảo vệ phụ nữ trong ngành công nghiệp đồi bại này.”[4] Mới đây nhất Đảng Xã Hội Chủ Nghĩa Scottland (SSP) đã gia nhập chiến tuyến và tuyên bố rằng mại dâm là sự áp bức đối với phụ nữ [xem trang 17].

Một quan điểm Marxist về mại dâm 

Mại dâm là trao đổi tình dục lấy tiền. Mặc dù vậy, khi mà có sự trao đổi này diễn ra trong những bối cảnh khác nhau – ví dụ như trong một số dạng hôn nhân – hầu hết các định nghĩa của từ điển đều rộng hơn một chút. Trong Từ Điển Tiếng Anh Oxford, một gái bán dâm là “một phụ nữ cho thuê cơ thể để phục vụ cho bất kỳ quan hệ tình dục nào.” 

Từ điển Encyclopaedia Britannica có định nghĩa rộng hơn, mại dâm là “sự tham gia vào hoạt động tình dục, thường xuyên là với các cá nhân khác không phải là vợ chồng hay bạn tình, để đổi lấy khoản thanh toán tức thời dưới dạng tiền hay các vật đáng giá khác.” Những định nghĩa này bổ sung thêm từ “bất kỳ” hay “không phải vợ chồng” để cố gắng tóm lược điều mà chúng ta đều ngầm hiểu – mại dâm là tình dục nằm bên ngoài những mối quan hệ mà trong đó tình dục thường được chấp nhận. 

Khái niệm mại dâm có lẽ hàm chứa nhiều người khác nhau cũng nhiều mối quan hệ khác nhau theo thời gian. Những nữ tu của Hy Lạp cổ đại, geisha của Nhật Bản, kỹ nữ của Châu Âu, gái đứng đường khu Soho và công nhân nhà thổ ở Mumbai, tất cả đều mang tên gái mại dâm. Vẻ bề ngoài tồn tại phi thời gian, nằm trong câu sáo ngữ về “nghề cổ xưa nhất”, che giấu nhiều quan hệ xã hội khác nhau. Những phụ nữ đó đều có một thứ chung đó là họ thực hành quan hệ tình dục bên ngoài khuôn khổ gia đình, tức là tình dục không gắn kết với sự tái sản xuất và duy trì một hộ gia đình.

Đây chính là thứ quan trọng để tiến đến cốt lõi của vấn đề - mại dâm chỉ có thể được khám phá trong mối quan hệ với chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Như Engels đã viết, “Chế độ một vợ một chồng và mại dâm thực sự mâu thuẫn nhau nhưng là sự mâu thuẫn không thể tách rời, là hai cực của cùng một trạng thái xã hội.”[5] Bebel, viết về phụ nữ và chủ nghĩa xã hội vào những năm 1880, đã giải thích, “Mại dâm trở thành một thiết chế xã hội cần thiết của xã hội tư sản, cũng giống như cảnh sát, quân đội thường trực, nhà thờ và giai cấp tư sản.”[6] Để hiểu được sự biện chứng này, tức là “sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập”, trước hết chúng ta cần phải xem xét bản chất của mại dâm trong chủ nghĩa tư bản, xem xét sự biến đổi của nó theo phương thức sản xuất và sau đó quay trở lại khám phá quan hệ giữa tình dục riêng tư và công cộng cũng như sự áp bức phụ nữ.

Mại dâm: hàng hóa 

Giống như hầu hết các giao dịch thương mại của chủ nghĩa tư bản, mại dâm dựa trên việc bán và mua một hàng hóa. Theo nhận thức thông thường, gái bán dâm bán “cơ thể của cô ta”. Nhưng đây là một sự hiểu lầm, do khi kết thúc giao dịch thì khách hàng không “sở hữu” cơ thể của gái mại dâm. Thứ mà khách hàng mua là là dịch vụ tình dục. Một số nhà nữ quyền và người xã hội chủ nghĩa phản đối ý tưởng cho rằng phụ nữ bán dịch vụ chứ không phải bán cơ thể, nhưng cũng thừa nhận rằng việc bán đó chỉ là tạm thời, mô tả việc bán là để sử dụng cơ thể gái bán dâm để đem lại sự thỏa mãn tình dục cho khách hàng.

Nhưng ngay cả trong trường hợp đó thì vẫn là sự nhầm lẫn. Nếu anh đến bất cứ nơi nào có mại dâm, bất kể là trên đường phố, trong một nhà thổ hay thông qua một kẻ môi giới, anh sẽ thấy có bảng giá cụ thể. Thông thường chúng không được liệt kê vì lý do pháp luật nhưng rõ ràng là có giá cả cho việc phục vụ bằng tay, giá sẽ cao hơn khi phục vụ bằng miệng, giao hợp bình thường và giao hợp đường hậu môn. Một dịch vụ hộ tống sẽ tính tiền theo giờ, nhưng cũng nói rõ rằng dịch vụ tình dục bao gồm những gì và không bao gồm những gì, tất nhiên là kèm theo mức phí đã được tính. Hàng hóa là tình dục – hay chính xác hơn là một dịch vụ tình dục cụ thể.

Việc tình dục bị biến thành hàng hóa được nhiều người coi là “tội” tổ tông của mại dâm. Mhairi McAlpine của SSP viết, “mại dâm là việc thương phẩm hóa quan hệ tình dục, tách ra khỏi phạm vi thỏa mãn lẫn nhau và đưa vào phạm vi của thị trường.”[7] Tôi cũng có những cuộc thảo luận tương tự về chủ đề này với nhiều đồng chí trong nhiều năm – liệu có chắc chắn là hành vi thân mật đó không bao giờ nên bị biến thành thứ xa lạ có thể bị đem mua bán? Quan điểm lãng mạn cho rằng tình dục là sự thỏa mãn lẫn nhau đã cho thấy sự trừu tượng hóa từ các mối quan hệ xã hội. Dưới chủ nghĩa tư bản và các xã hội phân chia giai cấp trước đó, tình dục được điều tiết chặt chẽ và có khuynh hướng kinh tế. Sự điều tiết dựa trên nhu cầu bảo vệ sở hữu tư nhân thông qua thừa kế.

Trong cuốn sách “Nguồn Gốc Gia Đình, Chế Độ Tư Hữu Và Nhà Nước”, Engel đã phác họa cách thức chế độ một vợ một chồng (đối với phụ nữ) phát triển cùng với sở hữu tư nhân. Gia đình một vợ một chồng “thoát ra từ gia đình đối ngẫu…Nó dựa trên sự thống trị của đàn ông, thể hiện mục đích tạo ra con cái mà không có sự tranh chấp về quan hệ cha con; quan hệ cha con này là cần thiết bởi vì con cái sau này sẽ trở thành người thừa kế tài sản tự nhiên của người cha.”[8]

Hình thức gia đình đã thay đổi qua các dạng xã hội phân chia giai cấp khác nhau nhưng không phải là tôn giáo và phong tục đã đảm bảo cho sự tập trung của chế độ một vợ một chồng đối với phụ nữ, khi chế độ đó giải thích về phạm vi và các luật lệ ổn định. Không phải mại dâm thực hành tình dục “bên ngoài phạm vi của sự thỏa mãn lẫn nhau” mà chính gia đình một vợ một chồng được dùng để bảo vệ sở hữu tư nhân. Những cô con gái trở thành tài sản để được mua cũng như đem bán cái khả năng tạo ra người thừa kế của họ nhằm đổi lấy đất đai, gia súc hay tiền bạc.[9]

Mại dâm cũng phát sinh từ quá trình đó, do không có bất cứ xã hội nào có thể áp đặt chế độ một vợ một chồng cho nam giới cũng như nữ giới. Demosthenes, một nhà hùng biện Hy Lạp, đã tóm tắt vị thế của phụ nữ trong xã hội chiếm hữu nô lệ của Athen, “Chúng ta thỏa mãn bằng kỹ nữ, có những nàng hầu đáp ứng nhu cầu hàng ngày và cưới nhiều vợ để sinh cho chúng ta những đứa con hợp pháp cũng như làm người bảo vệ đáng tin cậy cho sức khỏe của chúng ta.”[10] 

Liệu quan điểm này đã lỗi thời chưa? Liệu có chắc chắn là vào thế kỷ 21 thì tình dục chủ yếu là để thỏa mãn lẫn nhau thay vì tạo ra người thừa kế hay đổi lấy tiền mặt? Trước đây hơn bốn mươi năm đã có một sự giải phóng tình dục, do sự thay đổi trong địa vị xã hội của phụ nữ và sự phát triển của các biện pháp tránh thai hiệu quả, mại dâm không phải là dạng tình dục ngoài hôn nhân duy nhất. Mặc dù vậy, các cấu trúc xã hội vẫn tiếp tục ủng hộ quan hệ tình dục một vợ một chồng liên quan tới sở hữu, phụ nữ khắp thế giới vẫn bị coi là đĩ điếm khi họ công khai tìm kiếm quan hệ tình dục không mang tính chất một vợ một chồng.

Cấu trúc giai cấp của mại dâm 

Bề ngoài của mại dâm không phù hợp với các phân loại kinh tế tiêu chuẩn. Một nhà sử học đã viết: 

“…gái mại dâm không hành xử giống như bất kỳ hàng hóa nào khác; cô ta chiếm một vị trí độc nhất, tại trung tâm của một hệ thống kinh tế phi thường và đồi bại. Cô ta có thể đại diện cho mọi khái niệm trong phạm vi sản xuất tư bản chủ nghĩa; cô ta đồng thời là người lao động, đối tượng trao đổi và người bán. Cô ta đóng vai trò như công nhân, hàng hóa và nhà tư bản, cô ta xóa mờ các phân loại kinh tế tư sản theo cùng cách thức mà cô ta thách thức những ràng buộc của đạo đức tư sản…Do vậy, khi là hàng hóa, gái mại dâm vừa củng cố vừa xuyên tác mọi đặc trưng truyền thống của kinh tế học tư sản.”[11]

Không chỉ sai lầm về việc một gái mại dâm có thể đại diện cho mọi yếu tố của sản xuất tư bản chủ nghĩa mà nhà sử học cũng không chỉ ra được những vai trò khác nhau của gái mại dâm. Họ thực sự có thể xuất hiện như là công nhân, hàng hóa, người bán và thậm chí là nhà tư bản, nhưng những gái mại dâm khác nhau có thể có những quan hệ khác nhau với hàng hóa mà họ bán.

Hàng hóa có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng trong mại dâm là thỏa mãn sự ham muốn của khách hàng, cung cấp sự thỏa mãn tình dục. Giá trị trao đổi là lao động xã hội kết tinh trong hàng hóa, có nghĩa là lao động thể chất và tinh thần liên quan đến việc cung cấp dịch vụ tình dục. Giá trị này tương đương với thứ mà công nhân tình dục cần để tái sản xuất bản thân dưới các điều kiện xã hội trung bình đối của ngành này.

Giống như nhiều dịch vụ và một số lĩnh vực sản xuất khác của chủ nghĩa tư bản, mại dâm diễn ra theo nhiều cách khác nhau, gái mại dâm cũng có mối quan hệ khác đối với tư liệu sản xuất và mua bán mỗi loại tư liệu sản xuất. Nhiều gái mại dâm là lao động làm thuê: họ được một cá nhân, doanh nghiệp thuê và buộc phải làm việc trong một số giờ nhất định. Đây là tình cảnh của hàng triệu phụ nữ đang làm việc trong các nhà thổ, quán xông hơi và quán bar khắp thế giới. Họ được trả lương theo số giờ làm việc hoặc số khách hàng phải tiếp.

Trong trường hợp này họ không trực tiếp bán dịch vụ tình dục cho khách hàng – họ bán sức lao động cho chủ. Chủ của họ (tú ông, tú bà, chủ nhà thổ hoặc quán bar) nhận tiền từ khách hàng và chia một phần cho công nhân tình dục (hoặc đòi một phần phí mà công nhân tình dục nhận được). Theo nghĩa này thì công nhân tình dục cũng giống như các lao động làm thuê khác, có thể nói rằng họ “bán thân thể”, tức là họ bán khả năng lao động. Tuy vậy, như Marx đã giải thích trong Quyển I của bộ Tư Bản, đây không phải là bán thân: 

“…chủ sở hữu của sức lao động [công nhân – HW] chỉ bán nó trong một khoảng thời gian xác định, nếu như anh ta bán nó vĩnh viễn thì anh ta cũng bán luôn bản thân mình, biến anh ta từ một người tự do thành một nô lệ, từ chủ sở hữu một hàng hóa thành một hàng hóa.”[12]

Thực sự là hiện nay có những lao động tình dục sống trong các điều kiện nô lệ - khi mà bản thân họ bị bán và mua như hàng hóa và sau đó làm việc cho các chủ sở hữu nô lệ. Sự hồi sinh của chế độ nô lệ hiện đại, hầu hết được tường thuật trong hoạt động mua bán người, không phải là chỉ riêng đối với mại dâm mà còn diễn ra trong công việc nội trợ và hầu hạ. Thực tế về chế độ nô lệ tồn tại trong một số bộ phận của công nghiệp tình dục không bác bỏ thực tế là đa số hoạt động mại dâm diễn ra trong điều kiện thông thường của chế độ nô lệ làm thuê.

Hầu hết công nhân tình dục không phải là nô lệ hay công nhân làm thuê – phần lớn bởi vì sự cấm đoán của luật pháp nhằm hạn chế sự bành trướng của ngành công nghiệp “chính đáng” và đặt nó dưới bóng tối của thị trường bất hợp pháp và kinh tế tội phạm. Nhiều công nhân tình dục là người bán hàng trực tiếp; họ không làm việc cho ai mà trực tiếp giao dịch với khách hàng. Trong trường hợp này thì họ vẫn bán hàng hóa nhưng không phải là sức lao động mà là hàng hóa chứa đựng lao động kết tinh của họ, tức là dịch vụ tình dục, họ cũng bán dịch vụ này trực tiếp cho khách hàng. Trên thực tế, họ là người tự kinh doanh, mặc dù tại hầu hết các quốc gia họ không thể đăng ký một cách hợp pháp. Một số người có của cải và sở hữu hoặc thuê các tư liệu sản xuất – như nhà ở, điện thoại và các công cụ thương mại khác. Họ thuộc giai cấp tiểu tư sản.

Nhưng đa số các phụ nữ trong trường hợp đã nêu khó có thể mang hình ảnh của tầng lớp trung lưu, người tự kinh doanh. Hầu hết họ đều nghèo với một ít của cải và đối với một số người thì sự trao đổi có dạng rất sơ khai. Ví dụ khi dịch vụ tình dục được trực tiếp trao đổi lấy hiện vật, như thực phẩm và nơi ở, hay ma túy. Những người này chỉ tham gia một cách hời hợt vào nền kinh tế tư bản – họ là một phần của thứ mà Marx gọi là tầng lớp vô sản lưu manh.

Cũng có những gái mại dâm thuê người khác làm việc cho họ. Một số công nhân tình dục tự tổ chức công việc kinh doanh của họ, đóng vai trò như là tú bà và chủ nhà thổ. Khi làm chủ thì họ sở hữu các tư liệu sản xuất và bóc lột lao động của người khác, trong khi vẫn thường xuyên tiếp tục, mặc dù không liên tục, bán dâm. Như vậy, một số gái mại dâm là công nhân, một số là nô lệ, đa số là tiểu tư sản và một số ít là tư sản.[13]

Bóc lột hay áp bức?

Ở mức độ trừu tượng hóa rất cao – của hàng hóa, giá trị sử dụng và giá trị trao đổi – mà Marx coi là bản chất của sự bóc lột. Công nhân bị nhà tư bản bóc lột không phải bằng lừa dối hay gian lận mà dựa vào bản chất của chế độ làm thuê: công nhân đổi một hàng hóa lấy tiền lương. Hàng hóa không phải là sản phẩm của lao động của họ mà là năng lực lao động, tức là sức lao động của họ.

Sự bóc lột tồn tại trong sự khác biệt giữa giá trị của sức lao động và giá trị của hàng hóa mà họ sản xuất ra trong thời gian sức lao động của họ được nhà tư bản sử dụng. Sự bóc lột là kết quả của thực tế là công nhân không sở hữu sản phẩm của lao động của họ mà chỉ sở hữu năng lực lao động của họ. Ngay cả khi tiền lương được trả đúng bằng giá trị của sức lao động, một sự trao đổi công bằng theo khái niệm tư bản chủ nghĩa, người công nhân vẫn bị bóc lột.

Roberta Perkins, viết về công nghiệp tình dục ở Australia, cung cấp một định nghĩa hữu ích về cách thức điều này vận hành trong lĩnh vực kinh doanh tình dục:

“Nhà thổ, hay nhà chứa (bordellos, bagnios, stews, seraglios) cũng tương tự như các nhà xưởng cỡ nhỏ và vừa, một khách sạn hoặc một tòa nhà khác được sử dụng làm nơi làm việc, đòi hỏi một khoản tư bản ứng trước lớn, chi phí cao và một khoản lợi nhuận định kỳ lớn. “Chủ sở hữu tư liệu sản xuất” có thể là cá nhân, liên doanh hoặc một doanh nghiệp cổ phần, thuê mướn nhân công hỗ trợ như quản lý, lễ tân, người đứng quầy bar, hoặc người dọn vệ sinh và nhân viên bán hàng hoặc gái mại dâm. Gái mại dâm làm việc theo kiểu vô sản truyền thống, tức là lao động của họ được thuê và được trả tiền. Giá trị trao đổi của gái mại dâm thường là bằng nửa giá trị trao đổi của hàng hóa (tình dục) được khách mua (khách hàng hay người tiêu dùng). Tiền hoa hồng [hay tiền lương – HW] của cô ta theo thỏa thuận phân chia với chủ, người có sở hữu phần giá trị thặng dư, từ phần giá trị thặng dư đó chủ sẽ trả lương cho người lao động hỗ trợ, thanh toán tiền thuê nhà, tiền điện, tiền điện thoại, quảng cáo và các chi phí khác, cũng như tích lũy tư bản để tái đầu tư cho công việc kinh doanh (ví dụ, cải tiến hoặc mở rộng). Phần còn lại của giá trị thặng dư là lợi nhuận của chủ.”1[14]

Cũng như đối với các lao động làm thuê khác, sự bóc lột và lợi nhuận nằm trong sự chênh lệch giữa chi phí thuê công nhân tình dục và thu nhập mà cô ta có thể tạo ra bằng cách cung cấp hàng hóa. Đối với những người tiểu tư sản thì không có sự bóc lột theo nghĩa này và lợi nhuận được tạo ra bằng cách nâng giá bán cao hơn chi phí kinh doanh. 

Phân tích này bị các nhà nữ quyền phản đối, họ cho rằng khách hàng trực tiếp bóc lột công nhân tình dục. Dĩ nhiên trong mối quan hệ gái mại dâm-khách hàng thì khách hàng luôn có vị thế đặc quyền về kinh tế nhưng anh ta không bóc lột gái mại dâm. Vai trò của anh ta trong mối quan hệ này là người tiêu dùng. Có nhiều người khác bóc lột cô ta – chủ của cô ta có thể là tú ông, doanh nghiệp hay tú bà – nhưng theo nghĩa kinh tế thì chắc chắn không phải là khách hàng.[15] 

Sự liên hệ của Engel giữa mại dâm với chế độ một vợ một chồng là chính xác. Trong gia đình thì người chồng có nhiều lợi thế về quyền lực trong phạm vi gia đình đối với người vợ, thu nhập sẵn có và thoát khỏi nhiều công việc tầm thường. Nhưng nhìn chung anh ta không đạt được điều này bằng cách bóc lột kinh tế vợ của mình – anh ta “được thừa hưởng” điều đó từ địa vị chung của nam và nữ giới trong phạm vi chủ nghĩa tư bản.

Khi cho rằng gái mại dâm không bị khách hàng bóc lột thì không có nghĩa là họ không bị khách hàng áp bức. Nhiều công nhân tình dục bị khách hàng áp bức tàn bạo, họ thường làm nhục hoặc dùng bạo lực với gái mại dâm. Nhà nước cũng đối xử với công nhân tình dục theo cách đó, thường xuyên phủ nhận các quyền con người và pháp lý cơ bản của họ. Ví dụ, cho đến gần đây ở Anh, một phụ nữ có tiền án mời chào mua dâm vẫn được coi là “gái mại dâm công khai”. Một khi điều đó đã được ghi vào hồ sơ thì cô ta có ít quyền hơn bất cứ người nào khác. Các truy tố khác sẽ không cần đến hai nhân chứng mà chỉ cần sự khẳng định của một viên cảnh sát và tiền án của cô ta sẽ được trưng tại tòa án.

Ở nhiều nước, phụ nữ với tiền án mại dâm bị cấm đi lại, họ không được quyền nuôi con và hiện nay thì gái mại dâm đứng đường ở Anh sẽ bị kết án có hành vi phản xã hội, tức là có thể bị quản thúc về một tội thực sự không mang tính chất hình sự. Ví dụ khắc nghiệt nhất về sự áp bức đối với gái mại dâm là tỷ lệ sát nhân và tấn công bạo lực cao, cũng như cách thức hằn học mà truyền thông đưa tin về gái mại dâm. Phụ nữ “bị coi” là gái mại dâm có thể bị gia đình và bạn bè xa lánh, mất quyền nuôi con và không bao giờ kiếm được công việc “bình thường”. Họ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Những sự trừng phạt về pháp lý và xã hội không chỉ tác động đến phụ nữ đứng đường; chúng vươn sang cả những phụ nữ bị coi là “đĩ”. Nhưng rõ ràng những phụ nữ dễ tổn thương nhất – những người không có tiền bạc, ít học và ít được hỗ trợ về mặt xã hội – là những người phải gánh chịu đau khổ nhiều nhất. Họ bị xô đẩy từ mọi phía. Không có gì đáng ngạc nhiên khi nhiều người trong số họ nghiện ma túy hoặc rượu và có các vấn đề về tâm thần khác. Nhưng kiểu phụ nữ rập khuôn phổ biến như bị lạm dụng khi còn bé rồi trở thành gái mại dâm để “thỏa mãn” sự nghiện ngập không phải là tình huống phổ biến nhất.

Thông thường là sự kết hợp giữa các tình thế đưa đẩy phụ nữ đến với mại dâm và nguyên nhân phổ biến không phải là nghiện ma túy hay sự lạm dụng, mặc chúng là động cơ, mà là thiếu tiền. Sự thiếu tiền có thể là tuyệt đối hoặc tương đối – nhiều phụ nữ tìm thấy ở ngành công nghiệp tình dục một sự lựa chọn tốt hơn so với những công việc lương thấp và bị bóc lột dữ dội ở các lĩnh vực thông thường.

Tình hình này cũng phổ biến ở các quốc gia khác. Công nhân tình dục ở Ấn Độ đưa ra tuyên ngôn vào năm 1997, trong đó có giải thích về lý do phụ nữ bán dâm:

“Phụ nữ bán dâm vì lý do tương tự như khi họ lựa chọn bất cứ sinh kế có sẵn nào. Trường hợp của chúng tôi không khác biệt gì so với công nhân từ Bihar đến kéo xe tay ở Calcutta, hay công nhân từ Calcutta làm việc bán thời gian tại một nhà máy ở Bombay. Một số người trong chúng tôi bị bán vào ngành này. Sau khi bị ràng buộc với tú bà đã mua chúng tôi trong một số năm thì chúng tôi có được mức độ độc lập nhất định trong ngành công nghiệp tình dục. [Chúng tôi] đi đến bán dâm sau khi trải qua nhiều kinh nghiệm trong đời, thường là miễn cưỡng, không hoàn toàn hiểu biết về mọi tác động của việc trở thành gái mại dâm. Nhưng từ khi nào đa số phụ nữ chúng tôi có sự lựa chọn trong và ngoài phạm vi gia đình? Liệu chúng tôi có tình cờ tự nguyện trở thành lao động nội trợ? Liệu chúng tôi có thể lựa chọn người mình muốn kết hôn và khi nào kết hôn? “Sự lựa chọn” hiếm khi là hiện thực đối với hầu hết phụ nữ, nhất là phụ nữ nghèo.”[17]

Công và tư 

Phân tích mang tính Marxist này thể hiện rằng mại dâm xuất hiện như là mặt trái của chế độ một vợ một chồng, một chế độ sinh ra để bảo vệ sở hữu tư nhân và quan hệ tình dục không thể hoàn toàn tách khỏi quan hệ kinh tế trong xã hội phân chia giai cấp. Sự áp bức đối với phụ nữ bắt nguồn từ sự tác biệt công việc nội trợ và tái sản xuất tư nhân khỏi sản xuất xã hội và đời sống xã hội.

Mại dâm tạo thành sự đe dọa đối với xã hội bởi vì nó đe dọa xóa mờ sự phân chia rõ ràng – tách tình dục ra khỏi gia đình và ném vào thị trường. Sau đó nó cho thấy rằng dưới chủ nghĩa tư bản thì gái mại dâm không phải là một tầng lớp đơn lẻ. Chương trình của chúng ta về mại dâm phải phản ánh sự hiểu biết này và không nên dựa trên ý tưởng lãng mạn về tình dục cũng như sự kinh hoàng của chúng ta về sự bóc lột thậm tệ nhất đối với công nhân tình dục.

Công nhân tình dục tự tổ chức 

Trong những năm gần đây có một sự phát triển lớn lao trong các tổ chức của công nhân tình dục. Ở Bắc Mỹ và Châu Âu có nhiều tổ chức đã phát triển từ các nhóm phụ nữ và các phong trào xã hội khác, nhưng phải đoạn tuyệt với lập trường nữ quyền về công việc tình dục để bảo vệ quyền của họ. Nhiều nhà nữ quyền muốn xóa bỏ mại dâm, coi đó chỉ đơn giản là sự áp bức đối với phụ nữ. Họ cho rằng điều đó phải được xóa bỏ bằng cách trừng phạt những người quản lý và khách hàng cũng như tiến hành cách cuộc giải cứu gái mại dâm. Nhiều tổ chức sẽ không nói về gái mại dâm, hay nói về công nhân tình dục, mà sử dụng khái niệm “phụ nữ bán thân”. Thứ ngôn ngữ kẻ cả của họ đã cho thấy thái độ của họ - họ coi công nhân tình dục là người bị lừa bịp và theo họ thì không có vai trò gì trong việc giải phóng bản thân khỏi sự áp bức hay sự bóc lột đang phải chịu đựng.

Sự xung đột giữa những cứu tinh nữ quyền và các nhóm đấu tranh cho quyền của lao động tình dục rất sâu sắc nên hiếm khi họ có chung một cương lĩnh. Thư Viện Phụ Nữ ở London gần đây đã tổ chức trưng bày về mại dâm và không cho phép bất cứ sự xuất hiện nào của các tổ chức công nhân tình dục, dẫn tới biểu tình của Công Đoàn Công Nhân Tình Dục Quốc Tế (IUSW) ở bên ngoài.18 Lập trường cực đoan nhất là của nhà văn Julie Burchill, người đã viết, “Mại dâm là chiến thắng tối thượng của chủ nghĩa tư bản. Khi cuộc chiến tranh tình dục kết thúc, gái mại dâm sẽ bị xử tử vì sự phản bội khủng khiếp của họ đối với tất cả phụ nữ, vì đám hắc ín và lông gà đạo đức mà họ đã mang đến cho phụ nữ bản địa, những người kém may mắn phải sống trong cái mớ hỗn độn mà họ đã tạo ra.”[19] 

Các tổ chức của công nhân tình dục bị phê phán về việc lãng mạn hóa mại dâm và chỉ đại diện “nghề nghiệp” của tầng lớp trung lưu. Nhưng ở Ấn Độ có một tổ chức quần chúng của công nhân tình dục tồn tại và mang quan điểm tương tự. Ủy Ban Durbar Mahila Samanwaya (hay “Durbar”, theo tiếng Bengali có nghĩa là không lùi bước hoặc không thể khuất phục) được thiết lập ở Tây Begal, Ấn Độ và phát triển từ sáng kiến Sonagachi nhằm ngăn chặn bệnh AIDS. Durbar có 65.000 thành viên, làm việc tại những khu vực nghèo khổ nhất của quốc gia: 

“Durbar bày tỏ rõ ràng mục tiêu chính trị, đấu tranh đòi công nhận lao động tình dục là một công việc và công nhân tình dục được coi là công nhân, cũng như đảm bảo an sinh xã hội cho công nhân tình dục và con cái của họ. Durbar yêu cầu phi hình sự hóa dịch vụ tình dục và vận động thay đổi các luật hạn chế nhân quyền của công nhân tình dục, vốn có khuynh hướng hình sự hóa và hạn chế các quyền công dân của họ.”[20] 

Tuyên ngôn năm 1997 của họ, đã được trích dẫn trước đây, thể hiện một sự hiểu biết về áp bức tình dục có thể khiến nhiều người xã hội chủ nghĩa phải xấu hổ: 

“Sở hữu tài sản tư nhân và duy trì chế độ gia trưởng đòi hỏi phải có sự kiểm soát đối với sự tái sản xuất của phụ nữ. Từ khi tài sản được duy trì bằng những người thừa kế hợp pháp và chỉ có quan hệ tình dục giữa đàn ông và đàn bà là tạo ra sự sinh sôi, những sự trừng phạt của chế độ gia trưởng tư sản chỉ áp dụng cho sự kết nối này. Tình dục được coi là phương tiện căn bản và hầu như là duy nhất để tái sản xuất, phủ nhận mọi phương diện khoái lạc và khát khao bản năng đối với nó…Những thanh niên tìm kiếm sự gần gũi thể xác, những người đàn ông đã kết hôn tìm kiếm sự tương tác với phụ nữ “khác”, những công nhân nhập cư bị tách ra khỏi vợ, đang cố tìm kiếm sự ấm áp và sự chiều chuộng ở khu phố đèn đỏ, đều không thể bị coi là đáng nguyền rủa hay hư hỏng, để làm điều đó thì sẽ phải xóa bỏ toàn bộ lịch sử tìm kiếm khoái lạc, sự âu yếm và nhu cầu của loài người.” 

Các tổ chức của công nhân tình dục là chìa khóa để chống lại sự bóc lột cũng như áp bức. Khi có sự phân chia giai cấp trong mại dâm, những tổ chức này cần được công nhân tình dục vận hành để phục vụ cho công nhân tình dục, những người được thuê mướn hoặc tự kinh doanh, cũng như tạo ra khuôn khổ tuyển dụng cho những người muốn thuê mướn và bóc lột người khác. Công đoàn và các tổ chức cộng đồng của công nhân tình dục cần phải có mối liên hệ mạnh mẽ với các tổ chức công nhân khác – khi là một phần của phong trào công nhân thống nhất và hùng mạnh, họ sẽ có thể chiến đấu tốt hơn chống lại các định kiến phổ biến.

Trong suốt thập kỷ qua, một số công đoàn đã đồng ý tổ chức và đại diện cho công nhân tình dục. Ở Anh, IUSW đã thuyết phục tổng liên đoàn GMB thành lập chi nhánh công nghiệp tình dục ở Soho và họ đã công đoàn hóa thành công một nhà thổ cũng như đàm phán được thỏa thuận công nhận ở các câu lạc bộ thoát y vũ. Công nhân tình dục cũng được gộp chung vào tổng liên đoàn ở Đức (Verdi) và Hà Lan (FNV).[21]

Mại dâm và chủ nghĩa xã hội 

Cuộc sống của công nhân tình dục thường khó khăn và nguy hiểm, ít nhất là bởi vì những công nhân tình dục tố cáo sự lạm dụng của tú bà và khách hàng bị truy tố và đàn áp. Nhiều công nhân tình dục không hạnh phúc với công việc của họ và sẽ rời bỏ nếu như có một cơ hội thực tế nào khác. Nhưng đó cũng sẽ là một dạng lao động bị tha hóa như mọi loại lao động khác trong chủ nghĩa tư bản.

Mại dâm dưới dạng này sẽ không tồn tại trong một xã hội xã hội chủ nghĩa, cũng như cả gia đình và công việc dưới dạng hiện thời của chúng. Những chuyên gia hoặc diễn viên tình dục chuyên biệt có thể tồn tại, nhưng được giải phóng khỏi mối quan hệ với sở hữu tư nhân và tình trạng một vợ một chồng được thần thánh hóa hay áp đặt, quan hệ tình dục sẽ tiến hóa theo những cách thức mà chúng ta chỉ có thể dự báo. Vấn đề chủ chốt là sự tách biệt giữa công và tư, theo nghĩa là công việc xã hội công cộng và tái sản xuất tư nhân, sẽ bị xóa bỏ và trong quá trình đó phụ nữ sẽ thực sự được giải phóng.

Về tác giả 

Helen Ward, là một người ủng hộ PRN, một bác sĩ sức khỏe cộng đồng và nhà nghiên cứu đã làm việc với nhiều công nhân tình dục ở London và Châu Âu trong hơn 20 năm. Cùng với nhà nhân học Sophie Day, bà đã nghiên cứu HIV và các bệnh khác, sự biến đổi mang tính nghề nghiệp và vòng đời trong công việc tình dục, thiết lập một trong những dự án lớn nhất cho công nhân tình dục ở Anh. Bà là người ủng hộ Công Đoàn Công Nhân Tình Dục Quốc Tế.

Chú thích của tác giả

1. Marx K. Bản thảo kinh tế triết học, 1844. Đoạn trích này và các đoạn trích kinh điển khác có đăng tại : www.marxists.org

2. Trong bài báo này, tôi sử dụng khái niệm mại dâm và công việc tình dục. Một cuộc tranh luận nghiêm túc về vấn đề này rất được hoan nghênh, công việc tình dục nói chung được các nhà hoạt động sử dụng và đề cập tới một nhóm lớn người rộng hơn tham gia vào công nghiệp tình dục. Mặc dù vậy, các cuộc tranh luận trong lịch sử và gần đây về vai trò của tình dục thương mại trong xã hội có khuynh hướng đề cập tới mại dâm (ví dụ trao đổi tình dục hơn là khiêu dâm) và do vậy tôi cho rằng cần phải tiếp tục sử dụng nó. Tôi cũng chỉ đề cập tới công nhân tình dục nữ và khách hàng nam khi trình bày về những đặc tính chung của mại dâm, bởi vì đây là dạng thống trị và có liên hệ gần gũi nhất với sự áp bức tình dục nói chung. Mặc dù vậy, điều này không có nghĩa là phủ nhận một số lượng lớn nam giới cũng bán dâm. Chính phủ Anh ước tính hiện nay có khoảng 70.000 công nhân tình dục ở Anh. 

3. R. S. Rajan, “Những câu hỏi về mại dâm. Nhân viên (nữ), tình dục và công việc" trong Buôn bán, công việc tình dục, mại dâm , Tái bản 2, 1999

4. J. Bindell, The Guardian, 7 July 2003

5. F. Engels, Nguồn gốc gia đình chế độ tư hữu và nhà nước Chương II phần 4, Lawrence and Wishart, 1972

6. A. Bebel, Phụ nữ dưới chủ nghĩa xã hội, Schocken Books, 1971

7. Mạng Lưới Phụ Nữ Đảng Xã Hội Chủ Nghĩa Scottland (SSPWN) “Mại dâm: một đóng góp tranh luận”, 2006, tại www.scottishsocialistparty.org/pages/prostitution.html

8. F. Engels, op cit

9. Phong Trào Cộng Sản Cách Mạng Quốc Tế 1986, “Nguồn gốc và bản chất sự thay đổi sự áp bức đối với phụ nữ”, Trong Luận Đề về Sự Áp Bức đối với Phụ Nữ, tại www.permanentrevolution.net/?view=entry&entry=375

10. J. A. Symonds, “Một vấn đề trong đạo đức Hy Lạp”, 1901, tại: www.sacredtexts.com/lgbt/pge/pge00.htm

11. S. Bell S., Đọc, viết và viết lại về phụ nữ mại dâm, Indiana University Press, 1994

12. K Marx, Capital, Volume 1, Penguin, 1976 (emphasis added).

13. Tính không đồng nhất giai cấp này không phải độc nhất đối với mại dâm. Điều này có thể liên hệ với nông dân, bao gồm từ nông nô bị gắn chặt vào đất đai, tiểu nông chỉ dựa vào sức lao động của bản thân (cộng với gia đình) để bán các sản phẩm, hay các nông dân giàu có thuê người khác làm việc. 

14. R. Perkins, Lao động nữ: gái mại dâm, cuộc sống và sự kiểm soát xã hội, Australian Institute of Criminology, 1991

15. Dĩ nhiên khách hàng có thể và thường áp bức gái mại dâm bằng cách không trả tiền cho dịch vụ tình dục mà họ nhận được nhưng đây là trộm cắp chứ không phải là bóc lột.

16. Trường hợp ngoại lệ là khi gia đình đóng vai trò của một đơn vị sản xuất, rất phổ biến trong các xã hội nông nghiệp và tiền công nghiệp, người chồng vừa là chủ của gia đình vừa là chủ của công việc kinh doanh, làm việc cùng với vợ và con cái. 

17. Dự án Sonagachi, Tuyên ngôn của công nhân tình dục, Calcutta, 1997, at www.bayswan.org/manifest.html

18. Chi tiết hơn về cuộc triển lãm này, được kéo dài tới cuối tháng 3 năm 2006, xem tại: 

19. http://en.wikiquote.org/wiki/Julie_Burchill

20. Durbar Mahila Samanwaya Committee www.durbar.org

21. G Gall, Tổ chức công đoàn của công nhân tình dục, Palgrave Macmillan, 2006

Sunday, December 6, 2015

Hoa Kỳ biện minh cho chủ nghĩa quân phiệt bằng cách kỷ niệm chiến tranh xâm lược Việt Nam

Hoa Kỳ đang tiếp tục triển khai chương trình kỷ niệm 50 năm chiến tranh xâm lược Việt Nam, chính quyền Hoa Kỳ đang tìm cách sửa chữa các thông tin về chiến tranh xâm lược Việt Nam để biện minh cho chủ nghĩa quân phiệt, nhưng không phải người Mỹ nào cũng khờ khạo đến mức tin vào họ. Robert Fantina trong bài "Whitewashing Militarism, Vietnam-War Edition" đã phân tích từng mục tiêu của chương trình kỷ niệm và chỉ ra những khía cạnh bị che dấu.

Biện minh cho chủ nghĩa quân phiệt, xã luận về chiến tranh Việt Nam
Hình minh họa: Bôi xóa sự thật về chiến tranh xâm lược Việt Nam
Nguồn: Internet
Năm nay đánh dấu 40 năm sự kiện người Việt Nam chiến thắng Hoa Kỳ, trong cuộc chiến tranh đã tàn phá Việt Nam và gây ra những tổn thương và chia rẽ không thể kể hết ở Hoa Kỳ. Có thể thấy rằng sau khi người dân Việt Nam có thể chống lại cỗ máy quân sự hùng mạnh nhất thế giới, Hoa Kỳ cần phải suy nghĩ lại về việc gây chiến tranh và xâm lược quân sự, cũng như chuyển sang ngoại giao trước khi dùng đến bom đạn. Bài học về Việt Nam cần phải được ghi nhớ. 

Không có nhà sử học nào nhận ra rằng những bài học của cuộc chiến tranh thảm họa ấy đều đã nhanh chóng bị quên lãng. Điều đó không chỉ được khẳng định bằng hầu hết sự gây chiến thường xuyên của Hoa Kỳ kể từ khi họ bại trận ở Việt Nam, mà hiện giờ chính quyền cũng “kỷ niệm” thảm họa đế quốc chết chóc ấy. Để kết thúc, họ đã tổ chức một chương trình kỷ niệm trong 13 năm cho mốc 50 năm chiến tranh ở Việt Nam. Chương trình được bắt đầu vào năm 2012 và cả đất nước sẽ phải theo dõi nó, dưới hình thức này hay hình hay hình thức khác, cho đến năm 2025.

Trên trang web của chương trình kỷ niệm có đăng 5 mục tiêu được đặt ra. Mỗi mục tiêu là đều rối rắm hơn mục tiêu trước đó. Chúng ta sẽ xem xét chi tiết từng mục tiêu. 

“Để cảm ơn và vinh danh cựu chiến binh Chiến Tranh Việt Nam, bao gồm cả những người bị bắt làm tù binh chiến tranh (POW), hoặc bị coi là mất tích trong khi hành động (MIA), vì sự phục vụ và hi sinh của họ theo mệnh lệnh của Hoa Kỳ cũng như cảm ơn và vinh danh gia đình của những cựu chiến binh đó.”

Hoa Kỳ có một cách cảm ơn các cựu chiến binh thật kỳ quặc, nếu như họ tin rằng sự phô trương mang tính chất tình thế ấy sẽ lừa gạt được người khác. Cựu chiến binh, trong đó có một số lượng lớn những người đã “phục vụ” (sẽ nói chi tiết hơn về khái niệm nực cười này sau) ở Việt Nam, có tỷ lệ trầm cảm, tự tử, vô gia cư, nghiện ma túy và bạo lực gia đình cao hơn mức trung bình. Nạn nhân của chất độc màu da cam, chất diệt cỏ được sử dụng phổ biến ở Việt Nam, gây ra những vấn đề không thể kể hết về thể chất cho cựu chiến binh và con cái của họ, đã đấu tranh trong nhiều năm để buộc chính quyền thừa nhận bệnh tật của họ là do những hóa chất đó gây ra. Các bệnh viện của cựu chiến binh đã đưa ra những danh sách chờ đợi dài dặc và những tình trạng tệ hại. 

“Để nhấn mạnh sự cống hiến của lực lượng vũ trang trong chiến tranh Việt Nam và sự đóng góp của các cơ quan liên bang và các tổ chức chính phủ cũng như phi chính phủ đã phục vụ cùng với, hoặc hỗ trợ, lực lượng vũ trang.”

Người ta sẽ thấy ngạc nhiên khi có ai đó muốn nhấn mạnh hoạt động của những tổ chức đã giúp cho việc giết hại những người đàn ông, đàn bà và trẻ em vô tội dễ dàng cũng như hiệu quả hơn.

“Để bày tỏ sự tôn kính đối với những đóng góp tại mặt trận quê nhà của những người dân Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam.”

Có lẽ bất cứ ai có kiến thức sơ đẳng về cuộc sống ở Hoa Kỳ trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam đều biết rằng quốc gia phải bày tỏ sự tôn kính đối với đóng góp của những người đã phản đối chiến tranh. Hàng chục ngàn thanh niên đã bỏ trốn để không trở thành nạn nhân của việc buôn nô lệ của Hoa Kỳ với cái được gọi là nhập ngũ bắt buộc. Hàng sa số những người khác đến Việt Nam rồi trở về quê nhà và tích cực chống chiến tranh. Hàng sa số những người khác đã bị bỏ tù khi những hoạt động phản đối có lương tâm của họ bị từ chối, hay khi họ công khai đốt bỏ thẻ quân dịch. Thậm chí ngay cả truyền thông thuộc sở hữu của doanh nghiệp cũng như nhiều chính khách cũng coi những hành động đó là chính đáng và vinh danh chúng. Nhưng trong chương trình kỷ niệm bất tận này, tất cả những điều đó bị lảng tránh.

“Để nhấn mạnh sự tiến bộ trong công nghệ, khoa học và y tế của các nghiên cứu quân sự được thực hiện trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam”.

Dĩ nhiên là giờ thì chúng ta thấy cốt lõi của vấn đề. “Sự tiến bộ” đó chủ yếu phục vụ cho một nhóm nhỏ tài phiệt làm giàu từ chiến tranh. Mọi con bê vàng đều luôn được tôn sùng ở Hoa Kỳ. Nếu như có nhiều tiến bộ về công nghệ, khoa học và y tế bắt nguồn từ chiến tranh Việt Nam thì tại sao các cuộc chiến khác lại không tạo ra chúng và tại sao lại không nhìn nhận những tiến bộ bổ sung đã được tạo ra?

“Để ghi nhận những đóng góp và hy sinh của các đồng minh của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam.”

Thật phi lý khi cho rằng những đồng minh này sẽ sớm quên tất cả mọi chuyện. Tất cả các lưu ý về sự can dự rồ dại của Hoa Kỳ ở Việt Nam đều được so sánh với những sai lầm của Hoa Kỳ khi xâm lược Iraq với biện minh tương tự (hãy hiểu là: không tương tự). Thế nên vụ tưởng niệm vui vẻ này có thể không phải là thứ mà các đồng minh sẽ chào đón.

Giờ thì chúng ta sẽ xem xét khái niệm “phục vụ quân sự”, một phép nghịch hợp ngay cả khi chỉ có một. Chủ nghĩa quân phiệt, như đã được Hoa Kỳ phô bày thừa thãi trong hơn hai thế kỷ qua, đem đến chết chóc, nghèo đói, áp bức, phủ nhận nhân quyền, cũng như hàng sa số tổn thương khác cho những người đàn ông, đàn bà và trẻ em vô tội. Đây là sự thật kể từ chiến tranh 1812 cho đến tận ngày nay, khi Hoa Kỳ và đồng minh của họ ném bom Syria, cũng như phát tán sự thương vong ở đó, đồng thời gia tăng sự thù ghét đối với Hoa Kỳ. Việc giết hại người vô tội có thể được gọi là “thiệt hại liên đới”, nhưng người vô tội đã bị thương và chết nhiều hơn “những kẻ thù” mà Hoa Kỳ đã tự đặt ra.

Liệu những điều này có liên quan gì đến sự phục vụ? Từ đó, trừ khi bị xuyên tạc bằng cách gắn vào với từ “quân đội”, hàm ý về một sự hỗ trợ mang tính vị tha, hoạt động giúp đỡ những người bị thương, hoặc bất hạnh hơn những người đang phục vụ. Những tình nguyện viên tại nhà tạm cho người vô gia cư, tại ngân hàng thực phẩm, chương trình trường học cũng như tại những cơ sở khác mà người dân nhận được sự trợ giúp, có thể được gọi là phục vụ. Những giáo viên cống hiến cả cuộc đời để dạy học, bất chấp đồng lương thấp, cũng là phục vụ. Nhưng binh lính xâm lược một quốc gia độc lập và giết hại thường dân của quốc gia đó thì không phải là phục vụ; đó là từ ngữ để chỉ việc giết người và không phải là “phục vụ”. 

Nhưng ngày nay và cũng như trong nhiều năm tới, dường như tổng thống và nhiều chính khách khác sẽ ca tụng sự vĩ đại của nguyên nhân dẫn đến chiến tranh Việt Nam, với cặp kính mắt màu hồng 40 năm tuổi và ca ngợi điều đó như là một ví dụ về sự vĩ đại của Hoa Kỳ. Không ai đề cập đến sự nổi giận của các trường đại học, thường xuyên dẫn đến việc cảnh sát đàn áp sinh viên cực kỳ dã man. Thanh niên bỏ trốn khỏi đất nước để tránh bị cưỡng bách tham gia một cuộc chiến tranh vô đạo đức cũng bị lảng tránh. Những công dân khờ khạo cũng sẽ quên cảnh người Mỹ bỏ chạy một cách tuyệt vọng khỏi Sài Gòn khi Việt Cộng tiến quân vào, sẽ đặt tay lên ngực, thề trung thành với lá cờ và ngồi xuống khi Hoa Kỳ tiếp tục vận hành cỗ máy giết chóc ghớm ghiếc nhất hành tinh.

Robert Fantina’s latest book is Empire, Racism and Genocide: a History of US Foreign Policy (Red Pill Press).

Tuesday, December 1, 2015

Những giới hạn của giáo dục kibbutz

Giáo dục phục vụ cho một xã hội nhất định nhưng nó không dẫn đến sự thành công hay thất bại của xã hội đó mà ngược lại, xã hội sẽ quyết định sự thành công của giáo dục. Khi một xã hội suy sụp thì giáo dục của nó cũng sẽ thất bại. Tác giả đã cố gắng tìm kiếm câu trả lời cho sự sụp đổ của kibbutz ở sự thất bại của giáo dục nhưng những gì tác giả đã trình bày cho thấy điều ngược lại.

Dưới đây là nội dung bản dịch chương 7 "The Limits of Education" trong cuốn "The Kibbutz: Awakening From Utopia" của Daniel Gavron do nhà xuất bản Rowman&Littlefield phát hành năm 2000. 

Những giới hạn của giáo dục 

Sự kiện các thủ quỹ của kibbutz đầu cơ trên thị trường chứng khoán Tel Aviv đã cho thấy dấu hiệu về sự lêch lạc của hệ thống giáo dục kibbutz. Những người sáng lập không bao giờ nghĩ đến hành vi đó. Ngay cả những người thực dụng nhất cũng không tưởng tưởng được việc kiếm tiền mà không cần phải làm gì. Ngay cả người nhẫn tâm nhất cũng không quyết định tài nguyên của cộng đồng mà không đưa quyết định đó ra đại hội của kibbutz.

Mặc dù một số thành viên kibbutz thuộc thế hệ thứ ba và thứ tư vẫn tuân thủ các quy định đạo đức của lối sống cộng đồng, một số lớn, đặc biệt là ở cấp quản lý, chỉ còn trung thành với kibbutz của họ. Mục tiêu của họ là phát triển và cải thiện kibbutz của họ mà không quan tâm quá nhiều đến các nguyên lý của kibbutz. Nhiều người học kinh tế học và quản lý kinh doanh tại các trường đại học của Israel và nước ngoài, chịu ảnh hưởng của lý tưởng về cạnh tranh và quản trị hiệu quả hơn là lý tưởng về bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau. Ngay cả trường đại học Ruppin của liên minh kibbutz, đào tạo nhiều nhà quản lý tiềm năng của các kibbutz, cũng dạy các phương pháp kinh doanh hiện đại, còn kinh tế học hợp tác chỉ là khóa học tùy chọn. Các nhà quản lý đó quay trở về nhà để điều hành các chi nhánh nông nghiệp, hoặc nhà máy, hoặc toàn thể kibbutz, chịu ảnh hưởng mạnh của khái niệm lợi nhuận, hiệu quả, bảng kết toán, kế toán chi phí và chiến lược marketing.

Có nhiều người phản đối luận điểm này, họ cho rằng các kibbutz không chịu ảnh hưởng của những ý tưởng đó và vẫn tiếp tục tự vận hành một các lạc hậu, theo phương thức cũ kỹ, mang tính cộng đồng và bình đẳng. 

Mặc dù vậy, vụ khủng hoảng cổ phiếu ngân hàng và Balas là bằng chứng cho thấy một phần đáng kể lãnh đạo kinh tế của các liên minh kibbutz đã bỏ qua các lý tưởng và nguyên lý truyền thống. Trong môi trường ngày càng mang tính tư bản hơn thì các kibbutz rõ ràng phải hợp tác với ngân hàng và các thể chế tư bản khác, đó là một con đường dài từ đầu tư với tiền vay mượn bằng cách đầu cơ trái thẩm quyền vào một đối tượng đáng ngờ. 

Nhìn chung giáo dục kibbutz có thể coi là một câu chuyện thành công, chỉ có một số hạn chế nhỏ. Mặc dù tội phạm thiếu niên đã tồn tại trong các kibbutz nhiều năm và vấn đề nghiện ngập của thiếu niên cũng kéo dài hơn ba thập kỷ, song trẻ em kibbutz không phải là toàn bộ vấn đề. Kibbutz cũng có những kẻ sát nhân và những vụ án ngược đãi trẻ em, trong đó có việc cha lạm dụng tình dục con gái, thậm chí là hiếp dâm tập thể, nhưng tỷ lệ tội phạm của kibbutz nằm dưới mức trung bình của quốc gia. Ngay từ ban đầu, kibbutz đã giải quyết các vụ việc của họ hầu như không cần đến sự can thiệp của cảnh sát. Mặc dù các vụ án cần gọi đến cảnh sát nhiều hơn trong những năm gần đây nhưng các kibbutz vẫn rất yên bình và tuân thủ pháp luật.

Không chỉ đáng chú ý về việc không có các hành vi tiêu cực, trẻ em kibbutz hầu hết là thân thiện, hữu ích, xây dựng, chăm chỉ, yêu nước và tương đối lý tưởng. Nhiều trẻ em đã tham gia thêm một năm làm thủ lĩnh thanh niên tại các thị trấn nhỏ và khu dân cư nghèo khắp đất nước trước khi làm nghĩa vụ quân sự. Chúng thường xuất hiện tại các cuộc biểu tình ủng hộ hòa bình với các nước láng giềng của Israel, cắm trại về dân quyền hoặc vận động cho các vấn đề môi trường. Chúng vẫn tình nguyện trở thành sĩ quan quân đội hoặc phi công cũng như phục vụ trong các đơn chiến đấu tinh nhuệ của quân đội Israel với số lượng vượt xa tỷ lệ tương đối của chúng trong xã hội. Trên quy mô tổng thể, giáo dục kibbutz có thể đánh giá là B+.

Tuy vậy, bất chấp nhiều thập kỷ giáo dục – một số người sẽ gọi là truyền giáo – một số ít trẻ em kibbutz hiện nay không mấy tin vào các nguyên lý của kibbutz. Kết quả trái ngược với mục tiêu được đề ra về việc tạo ra một nhân loại mới bằng giáo dục các giá trị cộng đồng, thậm chí giáo dục kibbutz không được coi là đạt yêu cầu. 

Cho đến nay, liên minh kibbutz Artzi cánh tả đã thất bại trong vấn đề này. Nguyên nhân của nó đã được phác thảo trong chương về Givrat Brenner, nhưng năm kibbutz đã được đề cập không phải là tất cả các thành viên của Liên Minh Kibbutz Thống Nhất (UKM). Đây là lý do cho việc này: mặc dù quá trình thay đổi quét qua phong trào kibbutz cũng ảnh hưởng tới kibbutz Artazi, một liên minh kibbutz, hầu như là nửa vời phía sau UKM, có nghĩa là các kibbutz của họ không hình dung được sự chuyển biến hiện tại. Tuy vậy, hiện giờ chúng ta đang xem xét giáo dục kibbutz, kibbutz Artzi đóng vai trò trung tâm, trong vấn đề giáo dục thì liên minh này đứng trên những nơi khác về việc thực hiện giáo dục hướng tới các giá trị bình đẳng và hợp tác. Do vậy, việc xem xét lý do khiến kibbutz Artzi không còn duy trì được cho trẻ em của họ các giá trị cộng đồng và bình đẳng là rất đáng chú ý.

Nguồn gốc của kibbutz Artzi được tìm thấy ở “Cộng Đồng Của Chúng Ta”, các thành viên của phong trào thanh niên Hashomer Hatzair đã sáng lập “trật tự tu viện không có Chúa”. Vào cuối năm 1922, các thành viên của “Cộng Đồng Của Chúng Ta” còn lại trong nhóm chuyển từ đỉnh đồi phía trên hồ Kinneret xuống khu định cư ở Beit Alpha ở đồng bằng Jezreel.

Các thành viên của Degaina, nhưng chúng ta đã thấy, coi kvutza là lối sống không chỉ thích hợp cho mọi người hay đa số. Kibbutz Meuhad, mà Givat Brenner vốn là một phần trước kia, coi bản thân là hạt nhân của một kibbutz khổng lồ sẽ hấp thụ toàn bộ cộng đồng người Do Thái ở Palestine. Kibbutz Artzi coi các kibbutz của họ là những tế bào cách mạng. Trước hết, những tế bào này sẽ hợp tác với các thành phần Zionist [Chủ nghĩa phục quốc Do Thái] khác (trong đó có các nhóm “tư sản”) để tạo ra quốc gia Do Thái, nhưng vào một thời gian nhất định, họ sẽ trở thành mũi nhọn cách mạng để thiết lập một xã hội không giai cấp ở Palestine. Như vậy họ coi bản thân là một bản mẫu của xã hội đang hình thành và nỗ lực tạo ra những lối sống mới, trong đó có các quan hệ kiểu mới giữa nam và nữ cũng như quan niệm mới về gia đình. 

Có nhiều bản tin mâu thuẫn về quan hệ cá nhân giữa các thành viên của kibbutz sơ khai. Một số chuyện kể mô tả bầu không khí áp bức và khắc khổ: một số khác đề cập đến thời kỳ “yêu đương tự do”. Theo bằng chứng của các câu chuyện đương thời, có vẻ như các thành viên của kibbutz đầu tiên không quá lý tưởng. Ví dụ, tại Beit Alpha có một thời gian ngắn khi chưa kịp phân chia lều ở, nhiều số cặp vợ chồng và các thành viên độc thân đã cùng ngủ trong một phòng tập thể, nhưng sự phân chia đã thực hiện chỉ ít tháng sau đó.

Tại các kibbutz của tất cả các liên minh, tập quán “primus” cũng được ghi nhận. Vào thời kỳ mà các thành viên vẫn còn ngủ trong lều, chuyện một cặp vợ chồng ở cùng lều với một đồng chí khác (được gọi là primus) là bình thường, nhưng chuyện này chỉ hoàn toàn mang tính tạm thời, do sự thiếu thốn nơi ở gây ra. Không có bằng chứng nhỏ nào về tình dục tập thể. Có thể là bất chấp sự nổi loạn chống lại thế giới của cha mẹ, những người tiên phong vẫn chịu ảnh hưởng từ truyền thống của cộng đồng Do Thái ở Đông Âu, nơi họ đã trưởng thành, trong đời sống cá nhân.

Tại tất cả các kibbutz, những đứa trẻ đầu tiên xuất hiện ở Beit Alpha xác nhận sự tồn tại của gia đình hạt nhân. Các thành viên của Degania chấp nhận đơn vị gia đình là tự nhiên, mặc dù họ cũng coi kvutza là một gia đình mở rộng. Ở Givat Brenner, Enzo Sereni khẳng định rằng kibbutz lớn sẽ là “một cộng đồng của các gia đình”. Tại Kibbutz Artzi, sự chấp nhận đơn vị gia đình hạt nhân có vẻ như là miễn cưỡng. “Gia đình tư sản” bị phỉ nhổ và có nhiều nỗ lực làm giảm mức độ quan trọng của nó. Ví dụ, tại hầu hết các kibbutz trong những năm đầu thì việc chồng và vợ ngồi cạnh nhau trong nhà ăn tập thể sẽ gây khó chịu, khi gặp một nhóm trẻ em thì bố mẹ phải chào đón con cái của họ cuối cùng. Phương thức tiếp cận cách mạng hơn của kibbutz Artzi là kết quả của mối liên hệ với phong trào thanh niên Hashomer Hatzair. Phong trào thanh niên Zinonist [chủ nghĩa phục quốc Do Thái], bắt nguồn ở Châu Âu từ những năm 1920, mang truyền thống của phong trào thanh niên Đức, đồng thời hướng tới các kibbutz sơ khai ở Palestine. Các thành viên thanh niên cắm trại dưới bầu trời sao, hành quân trên những ngọn đồi và rừng rậm, tham gia vào các cuộc thảo luận thâu đêm, hát các bài dân ca, nhảy các điệu nhày dân gian. Họ tin vào sự đơn giản, bình đẳng, tình đồng đội và tìm cách xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, ngay cả khi phải làm điều đó trên tro tàn của thế giới cũ.

Kibbutz Artzi và Hashomer Hatzair đại diện cho trường hợp lý tưởng kibbutz được đẩy tới cực đoan. Kibbutz và phong trào thanh niên bện chặt lấy nhau và cộng sinh, thế nên khi trẻ em được sinh ra tại kibbutz, hệ thống giáo dục chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của phong trào thanh niên. Khi mà kibbutz Artzi có thêm các khu định cư và phong trào lớn lên, sự ảnh hưởng của họ có khuynh hướng đi theo một lối khác, với quyết định thuộc về kibbutz, nhưng các kibbutz không bao giờ quên rằng họ là hiện thân của phong trào thanh niên và giá trị của nó.

Các thành viên kibbutz và đặc biệt là kibbutz Artzi, hướng tới mục tiêu giải phóng phụ nữ khỏi cái mà họ là “bi kịch sinh học”, nghĩa vụ của phụ nữ phải sinh đẻ và nuôi dưỡng trẻ em, khiến cho họ không còn thời gian cho việc khác. Mặc dù kibbutz không thể giải phóng phụ nữ khỏi việc sinh đẻ, họ cố gắng giải phóng phụ nữ khỏi việc nuôi dưỡng trẻ em. Tập thể phải gánh trách nhiệm về việc đó. Họ cũng xóa bỏ sự phụ thuộc về kinh tế của phụ nữ vào người chồng. Phụ nữ là thành viên bình đẳng của kibbutz, không khác gì so với người chồng về tình trạng kinh tế. Cho tới tận bây giờ, một cựu thành viên của kibbutz Artzi vẫn gọi chồng là is hi (người đàn ông của tôi) thay vì ba ‘ali (chồng tôi, có nghĩa là chủ của tôi theo tiếng Do Thái).

Từ khi sinh ra, trẻ em được nuôi dưỡng trong các căn nhà biệt lập với các nhân viên được đào tạo về chăm sóc trẻ em. Mẹ của chúng sẽ tới thăm chúng để cho bú theo các khoảng thời gian định kỳ. Sau khi được cai sữa, trẻ em sẽ được thăm bố mẹ hai giờ vào buổi chiều. Vào buổi tối, trẻ em quay trở lại nhà trẻ em của chúng và được các nhân viên chăm sóc trẻ em cho đi ngủ. Mối liên hệ giữa con cái và bố mẹ được chủ ý hạ thấp. Trẻ em không được coi là của cải riêng của bố mẹ về mặt sinh học; chúng thuộc về toàn bộ cộng đồng. Sự mâu thuẫn chủ yếu đối với mệnh đề này là ý tưởng về việc cha mẹ và con cái có thể tham gia một mối quan hệ tốt hơn trong khuôn khổ cộng đồng. Cha mẹ có thể cho con cái tình yêu, không bị ngăn cản bởi yêu cầu tuân thủ kỷ luật, vốn là nhiệm vụ của các nhân viên chăm sóc trẻ em, bảo mẫu và sau này là các giáo viên. 

Ở liên minh kibbutz Artzi, ý tưởng về việc tạo ra một “Xã Hội Trẻ Em” tác biệt, dưới dạng trường học nội trú được gọi là Mossad Hinuchi, dành cho trẻ em trên 12 tuổi. Mossad đầu tiên được thành lập ở Mishar Haemek tại đồng bằng Jezreel và các trường khác được thành lập sau đó. Mossad luôn luôn phục vụ cho một vài kibbutz, có nghĩa là những trẻ em lớn tuổi hơn phải sống xa cha mẹ chúng. Chương trình giáo dục của Mossad cố gắng kết hợp ý tưởng của John Dewey, Karl Marx và Sigmund Freud, cùng với những ý tưởng của A. D. Gordon, “tiên tri của người lao động” từ Degania và Ber Borochov, một nhà tư tưởng xã hội Zionist người Nga. Mục tiêu chủ yếu của Xã Hội Trẻ Em là phá hủy các “ảnh hưởng có hại” của thế hệ già hơn và đặc biệt là xóa bỏ “vai trò thẩm quyền của người cha”.

Một trong những nhà giáo dục sơ khai của kibbutz Artzi, Shmuel Gollan, đã liệt kê các tính cách của “người kibbutz” mới. Anh ta phải là người công nhân chăm chỉ, có giáo dục, nhạy cảm, có đạo đức, tích cực và trung thành với tập thể. Các nhóm bình đẳng, thay vì các “gia đình sinh học”, là trung tâm của đời sống trẻ em; tập thể trung thành hơn cá nhân. Thành tích trí tuệ bị hạ thấp; các giá trị lý tưởng, xã hội, đạo đức và thẩm mỹ được coi là quan trọng hơn “sự thành thạo kỹ thuật”. Thành tích nhóm được đặt trên thành tích cá nhân; hợp tác là giá trị cao hơn cạnh tranh. Các dự án được viết ra cao hơn các kiểm tra. Giúp đỡ các thành viên yếu đuối trong nhóm quan trọng hơn khuyến khích những người thông minh.

Trên phương diện “thẩm quyền” của giáo viên về kiến thức, kibbutz tìm cách tạo ra một môi trường mà nhà giáo dục là kênh hai chiều giữa trẻ em và cộng đồng. Xã Hội Trẻ Em là tự chủ và trẻ em được tự do cũng như có trách nhiệm; trên thực tế sự ảnh hưởng (bị che dấu) của người lớn đã dẫn đến việc dạy các thành viên tương lai của kibbutz các thức điều hành kibbutz của chúng.

Trong bài viết ở cuốn sách Giáo Dục Tại Kibbutz Đang Thay Đổi (mà ông cũng là người biên tập), Yeheskel Dar đã chỉ ra rằng tái sản xuất và sáng tạo là các mục tiêu mâu thuẫn trong giáo dục. Sự truyền tải định hướng văn hóa và xã hội từ thế hệ già sang thế hệ trẻ mâu thuẫn với khát vọng phát triển tư duy sáng tạo và giá trị. Nguyện vọng tập thể và các thông điệp nhân bản mạnh mẽ tán thành tự do cá nhân và tự biểu lộ cũng có mâu thuẫn. Theo lời của một người có thẩm quyền ở kibbutz Artzi sơ khai, mục tiêu của giáo dục kibbutz là 

phát triển một thế hệ sẽ nhận thức được sự vững chắc của tầm nhìn, sự hoàn thiện và vinh quang của cộng đồng và sẽ được chuẩn bị để hiến dâng cuộc sống cho sự kế tục công việc của những người sáng lập.

“Mục tiêu của chúng ta là gì?” một thành viên của Beit Alpha hỏi. “Con cái của chúng ta phải theo con đường của chúng ta… khi mọi một điều không tưởng khác thất bại và cả điều này cũng sẽ thay đổi, nhưng chúng ta sẽ thành công nếu chúng ta đào tạo cho con cái đi theo con đường của chúng ta.” 

Nhiều tác động khác đã diễn ra ở trường nội trú Mossad ban đầu, vốn mạnh nhất và có ảnh hưởng nhất vào những năm 1940 và 1950: thiếu chủ nghĩa độc đoán và hệ thống dự án từ giáo dục tiến bộ; sự tập trung vào lao động thủ công của Gordon và Borochov; quan niệm rằng tất cả mọi trẻ em đều tương tự như nhau ngoại trừ một số khác biệt do hệ thống tư bản chủ nghĩa gây ra của Marx; tầm quan trọng của việc giải phóng trẻ em khỏi mặc cảm Oedipus của Freud.

Một tài liệu giáo dục đương thời khẳng định: 

Chúng ta đã thành công trong việc chống lại các khuynh hướng sống gia đình, nguy cơ của chúng, theo tâm lý học hiện đại, là rõ ràng. Các khuynh hướng sống độc lập đối với trẻ em là sự đảm bảo về giáo dục giới tính đúng đắn:
1. Trẻ em tránh xa các tác động tổn thương từ giới tính của cha mẹ
2. Mặc cảm Oedipus, nguyên nhân của đa số bệnh thần kinh, được giảm bớt.
3. Cha mẹ có thể cung cấp tình yêu tươi mới theo nhu cầu, xây dựng mối quan hệ hài hoài giữa cha mẹ và con cái. 

Trái lại, sự hợp lý của việc ngủ tập thể ở nhà trẻ em lại hầu như là kỳ cục theo lời của Shmuel Gollan: 

Tình yêu của cha mẹ có thể bị phóng đại. Đó là nhu cầu của cha mẹ hơn là của con cái. Nó có thể dẫn tới tổn thương và mặc cảm Oedipus. Khi chúng ta tách trẻ em ra khỏi các mối quan hệ gần gũi với cha mẹ, chúng ta phải giảm bớt và kiểm soát tình yêu của cha mẹ đối với con cái. Chúng ta không chấp nhận ôm ấp, hôn, âu yếm tự do.

Ngay cả khi những lý thuyết về nuôi dưỡng trẻ em này là đúng – và theo những gì được chấp nhận nói chung hiện nay thì chúng không đúng – thực tiễn thường xuyên cho thấy sự thất bại. Có nhiều lý do dẫn đến sự thay đổi thường xuyên các giáo viên và nhân viên chăm sóc trẻ em. Ốm đau, thai sản, học hành và các công việc thay thế thường xuyên mang các giáo viên, bảo mẫu và nhân viên chăm sóc trẻ em ra khỏi nhóm của họ. Cũng quá thường xuyên là các nhân viên tạm thời không phù hợp được đưa vào nhà trẻ em. Do vậy kết quả giáo dục của kibbutz không phải luôn luôn đạt được được kỳ vọng.

Các nhà giáo dục kibbutz bị nhà nhân học người Mỹ Melford E. Spiro phản đối trong cuốn sách Trẻ Em Của Kibbutz, xuất bản năm 1958, và nhà tâm lý học Bruno Bettelhiem trong cuốn Trẻ Em Trong Mơ (1969) cũng vậy. Mỗi người đều kết luận, theo những cách không mấy khác nhau, rằng kết quả của sự thiếu liên hệ với cha mẹ - đặc biệt là với mẹ - là trẻ em kibbutz thường tuân phục, thiếu tự tin, nông cạn về cảm xúc và cảm thấy khó khăn khi thiết lập các mối quan hệ nghiêm túc khi trưởng thành. “Sự thân mật thật sự không có đất để sinh sôi ở kibbutz,” Bettelheim kết luận.

Ông cũng chỉ ra sự thiếu khát vọng và thành tích cá nhân của trẻ em kibbutz. “Chúng không tự thể hiện bản thân”, ông tuyên bố. “Chúng sẽ không trở thành nhà lãnh đạo hoặc triết gia hay đạt được bất cứ thứ gì trong khoa học cũng như nghệ thuật.”

Mặc dù vậy, trong bài báo mới đây có tiêu đề “Quay Trở Lại Trẻ Em Trong Mơ”, một nhà báo đến thăm Ramat Yohanan đã phát hiện ra rằng lớp học mà Bettelheim nghiên cứu ba thập kỷ trước đây đã có thành tích tốt. Một học sinh đã kể tên từng bạn học, liệt kê một nhà quản lý công nghiệp, một nghệ sĩ và nhà thơ, một nhà soạn nhạc mới được nhận giải thưởng của thủ tướng về nhạc cổ điển, một nhà địa lý, một giáo sư toán học, một nhà vật lý vũ trụ với danh tiếng quốc tế, hai giám đốc bán hàng của doanh nghiệp lớn, quản lý một công ty công nghệ cao, một cựu phi công hiện nay là nhà văn viết cho trẻ em rất thành công, cũng như cựu thư ký, thủ quỹ và quản lý nông trại của kibbutz. “Bettelheim đã hoàn toàn sai”, ông kết luận, với một sự điều chỉnh lớn.

Có vẻ như ngẫu nhiên mà Spiro chọn Beit Alpha để nghiên cứu còn Bettelheim thì đến Ramat Yohanan. Vào năm 1939, hai kibbutz này đã áp dụng việc trao đổi một phần cư dân với nhau, sau một xung đột về thành viên của kibbutz Artzi. Do vậy, cả hai nhà nghiên cứu đã tiếp xúc với hậu duệ của cộng đồng tinh túy đó, Cộng Đồng Của Chúng Ta. Mặc dù cả hai tác giả giấu tên của các kibbutz song không có bí mật nào giữ được lâu ở Israel, danh tính của hai kibbutz đã sớm bị nhận ra.

Bettelheim, người chỉ ở lại kibbutz Ramat Yohanan sáu tuần, đã bị các nhà giáo dục kibbutz phủ nhận vì sự nông cạn, nhưng Spiro, người đã ở lại Beit Alpha gần một năm, với vợ và trợ lý nghiên cứu, sau đó quay trở lại trong nhiều khoảng thời gian ngắn, thì khó có thể phủ nhận. Quan sát của ông được thực hiện nghiêm túc ít nhất là một phần bởi vì ông ấy nói chung là tích cực về kibbutz. Sau chuyến thăm vào năm 1974, ông kết luận, “Với tất cả sự cố chấp, cộng đồng tự nhận là kibbutz. Đây là kết quả của sự vật và ở đây, nếu những người sáng lập có thể thừa nhận điều đó, là kết quả thành công của họ …. Không có gì hoài nghi về sự đóng góp [của trẻ em] vào sự bất diệt của kibbutz.” Phán quyết cuối cùng của ông về các cá nhân được kibbutz nuôi dường là “con người nồng ấm, nhạy cảm, hòa nhã”. 

Bất chấp kết luận nhìn chung là tích cực của Spiro, nhiều thanh niên kibbutz hiện giờ cho rằng giáo dục của kibbutz hướng tới sự tầm thường và các nghiên cứu của Israel, trong đó có nhiều nghiên cứu của các thành viên kibbutz, có khuynh hướng xác nhận những phát hiện ban đầu của hai người Mỹ. Tóm lược bảy mươi năm giáo dục cộng đồng trong một tiểu luận của cuốn Giáo Dục Tại Kibbutz Đang Thay Đổi, Ora Aviezer kết luận rằng kibbutz không chỉ thất bại trong việc tạo ra “con người mới”, mà các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng trẻ em được kibbutz nuôi dạy rất khác với trẻ em Israel bình thường. Hơn nữa, hệ thống ngủ tập thể đã được chứng minh là một khuôn khổ không thích hợp để nuôi dạy trẻ em, có tác động tiêu cực đối với sự phát triển cảm xúc của trẻ em kibbutz.

Có một chút hoài nghi là việc ngủ tập thể ở nhà trẻ em tác động đến một nửa dân số kibbutz này hơn là một nửa khác. Cả mẹ và con gái, phụ nữ đã bị hệ thống do nam giới thiết kế làm tổn thương. Điều này được minh họa trong Shira! Hadeshe (Khúc Hát Của Bãi Cỏ, 1991) được viết bởi Nurit Leshem, một nhà tâm lý học của kibbutz và là con gái của thế đầu tiên của kibbutz. Cuốn sách là một tập hợp các cuộc phỏng vấn với mười lăm thành viên của thế hệ phụ nữ đầu tiên lớn lên ở kibbutz, hầu hết là từ kibbutz Artzi. Tất cả phụ nữ, chỉ trừ có hai người, đều vẫn là thành viên của kibbutz. Leshem đã thừa nhận rằng sách của bà không phải là nghiên cứu khoa học.

“Tôi yếu về thống kê”, bà thừa nhận. “nhưng tôi nghe tốt các câu chuyện của con người.”

Điều mà cuốn sách của bà thể hiện là kibbutz, một xã hội khát khao tạo ra sự bình đẳng tuyệt đối, đã thất bại về bình đẳng giới tính. Về chủ đề này, kibbutz Artzi trước đó đã tuyên bố: 

Chúng tôi đã tạo ra [cho phụ nữ] các quyền bình đẳng; chúng tôi đã giải phóng phụ nữ khỏi sự phụ thuộc kinh tế; chúng tôi đã giải phóng phụ nữ khỏi gánh nặng chăm sóc con cái; chúng tôi đã giải phóng phụ nữ khỏi cảm giác “phụ thuộc” vào người chồng, người cung cấp và người ra lệnh; chúng tôi đang mang đến cho phụ nữ một xã hội mới; chúng tôi đã bẻ gẫy những xiềng xích trên đôi tay của phụ nữ. 

Những điều này có thể đúng về nghĩa đen, nhưng khi áp đặt cho nữ thành viên kibbutz một sự bình đẳng nhân tạo với chồng của họ, hệ thống kibbutz đã dẫm đạp lên cảm giác về tình mẫu tử, nữ tính và sự thể hiện nữ tính.

Trong lời giới thiệu, Leshem viết: 

Được phép bú bốn giờ một lần, bị bỏ mặc cho la hét đến vỡ phổi, chúng ta lớn lên mà không có sự an toàn căn bản của sự sinh tồn. Ngồi trên cái bô trong một khoảng cách quy định cạnh đứa trẻ khác đang làm điều tương tự, chúng ta được giáo dục để trở thành giống nhau; nhưng chúng ta lại thực sự khác nhau. Chúng ta cố gắng san bằng sự cách biệt và học cách thể hiện giống nhau: quần áo, giày dép, thực phẩm, khát khao, tất cả đều giống nhau. Chúng che dấu nỗi đau sau những bức tường cao.
Vào ban đêm, khi người lớn ra về và tắt tất cả đèn. Anh biết rằng anh sẽ đái dầm ra giường vì sợ phải đi tới phòng vệ sinh….
Trẻ em giấu bộ pajamas, nhân viên chăm sóc trẻ em sẽ tìm thấy chúng tát đứa trẻ…. Người hùng của Đất Nước Israel không được khóc, cô chạy ra sau tòa nhà để khóc ở chỗ không ai có thể nhìn thấy cô.
Từng người phụ nữ mô tả sự tuyệt vọng của mình. Deganit nhớ lại, “Không ôm ấp, hay hôn, hoặc sự nồng ấm về thân thể. 

Ziva nhớ đến quy tắc sắt đá: “Không bao giờ khóc. Giống như một đứa trẻ để lộ sự sợ hãi: Để lộ ra và thế là xong. Không bao giờ yêu cầu giúp đỡ, không bao giờ chống đối…. bất kể là anh làm điều gì – chỉ làm những điều mà “họ” bảo anh làm.”

“Việc bỏ phí thức ăn bị cấm,” Hannah nói. “Nếu anh nôn ọe, anh sẽ phải ăn những gì dã nôn ra. Khi tôi bị bệnh vàng da, tôi đã ốm trong nhà vệ sinh. Bảo mẫu đã tát tôi. Tôi biết rằng bố mẹ tôi sẽ không bao giờ can thiệp.” 

Esty nhớ lại việc cô muốn học đại học và đưa ra yêu cầu tại đại hội của kibbutz chỉ để bị dìm đi. Mẹ cô thậm chí còn không tham dự đại hội.

Ahuva mô tả mẹ cô là “mạnh mẽ và tàn nhẫn, dẫm nát bất cứ ai mà bà muốn, nhưng luôn là vì cộng đồng – không bao giờ vì bản thân hay gia đình”.

Hagit nói, “Ngày nay, khi con cái của tôi rời khỏi nhà, tôi sợ bị bỏ rơi.”

Carmela viết: 

Thời thơ ấu là một sự hành xác liên tục. Không có tình yêu…. Tôi cần tình yêu đến tuyệt vọng, nhưng tôi không được phép có nó. Nữ tính của tôi bị đè nén…. Tôi lớn lên như một đứa trẻ mồ côi. Cha mẹ tôi không bao giờ hôn tôi cho đến khi tôi ba mươi tuổi!
Cha mẹ tôi không phải là hình tượng ước mơ, cũng giống như giáo viên của tôi. Các ngôi sao điện ảnh, bất chấp việc chúng tôi dạy rằng họ là “đồi trụy”, tôi muốn được giống như người Anh và người Mỹ, bất chấp việc giáo viên của tôi khinh miệt họ. 

Đây là chuyện của Efrat: 

Một lần mẹ nghe thấy tôi khóc. Bà đứng cả giờ bên ngoài nhà trẻ, không dám can thiệp. Tôi bị bỏ quên ở ngoài sân. Tôi đã bị mất nước. Mặc dù vậy, họ vẫn nói rằng cha mẹ không đủ trình độ để chăm sóc trẻ như các nhân viên chăm sóc trẻ em được đào tạo.

Efrat cũng nhớ lại lần ba thăm một “gia đình thực” ở moshave. Bà nói với cha mẹ rằng đó “giống như thiên đường.”

Cuối cùng, một đoạn phim: 

Một hôm, khi tất cả trẻ em chơi trên sân, một bé gái vẫn ở trong tòa nhà. Cô đi đến góc chứa búp bê. Cô biết rằng không được lấy búp bê. Chỉ có nhân viên chăm sóc trẻ em được phép lấy búp bê, nhưng cô lấy một con, ôm nó và hôn nó. Cô mở áp và làm bộ cho con búp bê bú trên bộ ngực phẳng của mình, áp nó vào tai nghe tất cả những lời thì thầm mà cô ước được nghe. Cô ôm ấp, âu yếm và yêu mến con búp bê. Cô không nhận ra nhân viên chăm sóc trẻ em, rón rén lại gần và tát vào mặt cô: “Con đĩ, đồ phóng đãng, không bao giờ, không bao giờ được làm điều đó nữa!”

Đó chỉ là một số trích đoạn từ các cuộc phỏng vấn, được dịch từ bản gốc tiếng Do Thái. Sách của Leshem gây ra một sự xúc động mạnh. Tác giả nhận được một núi thư, nhiều thư bổ sung thêm những câu chuyện mà bà đã ghi nhận. Một số thư viết trong “nghẹn ngào nước mắt”. Nhiều người thú nhận rằng họ đã nghĩ rằng họ là trường hợp độc nhất cho đến khi đọc cuốn sách.

Một phiên bản bi kịch của Shira! Hadeshe được trình chiếu năm 1992, lên đến đỉnh điểm với sự kiện cay đắng về con búp bê. Sau đó là thảo luận ở một kibbutz, với sự tham gia của các thành viên ở đó và nhiều kibbutz khác. Một người tham dự, bà là thành viên của kibbutz thế hệ đó, yêu cầu được biết tại sao bà và những người cùng thời đã giữ im lặng lâu đến vậy, tại sao họ giữ tất cả bí mật đó trong lòng. Một số người phủ nhận sự thật trong hình ảnh của Leshem, khẳng định rằng họ đã thảo thuận với các thành viên cùng thế hệ và không có ai nhớ gì về những cay đắng và đau khổ như vậy. Một dấu hiệu đáng chú ý là tất cả những người phát biểu đều là nam giới và không có ai thừa nhận. “Kibbutz được coi là cung cấp một giải pháp cho cả nam giới và phụ nữ, nhưng người chịu đựng chủ yếu là phụ nữ. Thế nên kibbutz đã thất bại về điều đó.”

Các nhà báo sau đó đã chỉ ra rằng những năm 1940 là thời kỳ khó khăn đối với nhiều cộng đồng Do Thái ở Palestine, với các điều kiện khắc nghiệp và sự thiếu thốn hàng hóa vật chất. Đó là sự thật đối với nhiều trẻ em tại thành thị và làng quê của Israel, chứ không chỉ trẻ em của kibbutz. Một nhà văn thừa nhận rằng mặc dù sợ hãi nhưng hồi ức của bà hầu như chỉ là phần hạnh phúc: “Tôi yêu nhà trẻ em, được đi ngủ theo nhóm. Thật là vui khi cùng nhau.”

Một người khác (nam) viết về sự tập hợp nồng ấm đầy hoài niệm của nhóm, cảm giác về tình đồng đội và mục đích, của hành quân, lều trại, ra dấu và nhảy múa, những đêm vui đùa và cười lớn. Một phụ nữ viết rằng sách của Leshem minh họa sự chiến thắng của tinh thân nhân bản trước lý tưởng, chiến thắng của cảm giác nhân bản và tính sáng tạo tự nhiên, mà không có thể chế nào có thể vượt qua: “Vượt lên mọi sự đau khổ, áp bức, cô đơn, anh phải thể hiện trong sách của mình người phụ nữ mạnh mẽ, với sức mạnh nội tại mạnh mẽ, đó là người thể hiện rằng họ sở hữu sức mạnh đó. Đó là người có đặc quyền.” 

Sách của Leshem mô tả một thời kỳ đặc biệt mà sự thất vọng và hy sinh cho công đồng mang đến không chỉ cho các kibbutz mà rõ ràng là toàn bộ cộng đồng người Do Thái ở Palestine. Các thế hệ sau, sống trong những thời gian dễ chịu hơn, có những hồi ức hạnh phúc. Trong nhiều cuộc đối thoại ở Degania, Givat Brenner, Hasolelim, Neve Yam, Hatzerim và một số kibbutz khác mà không cần phải mô tả cụ thể, các thành viên lớn lên với ngủ tập thể khẳng định rằng trải nghiệm nói chung là tích cực. Trong khi đa số những người nặc danh khẳng định rằng họ muốn con cái ở nhà thì những người khác cho rằng họ có một thời thơ ấu tuyệt vời và khi sống ở nhà con cái của họ sẽ không có những trải nghiệm tuyệt vời mà họ đã có. 

Aviva Zamir của kibbutz Maagan Michael cũng thực hiện một nghiên cứu về phụ nữ của kibbutz, Mẹ và Con Gái, xuất bản năm 1986. Các cuộc phỏng vấn của bà, giới hạn trong một kibbutz, tập trung vào chủ đề công việc của phụ nữ và quan niệm về bình đẳng giới trong kibbutz hơn so với các chủ đề khác về tình mẫu tử và ngủ tập thể. Hơn nữa, chúng được thực hiện vào thời gian mà kibbutz đang phải đối mặt với vấn đề chuyển từ ngủ tập thể sang ngủ ở nhà. Do vậy, chúng có khuynh hướng không chú trọng vào các câu hỏi về việc nuôi dạy trẻ em tập thể, song một số câu trả lời lại ủng hộ cho các nội dung trong cuốn sách của Leshem. Sarah, một bà mẹ 56 tuổi của kibbutz, nhớ lại, “Tôi rất muốn con cái ở cùng với mình. Khi tôi không thể chịu đựng điều đó nữa, tôi thường mang chúng tới chỗ mẹ tôi trong thị trấn. Tôi rất thỏa mãn khi được ngủ cùng với con cái trong vài đêm.”

Sau đó, “Khi Orit còn nhỏ, tôi không được phép cho cô con gái nhỏ của mình đi ngủ. Nhân viên chăm sóc trẻ em nói rằng tôi có thể nhìn nó qua cửa sổ.” Yael, một bà mẹ 33 tuổi, kể lại, “Ngủ tập thể là rất bất bình thường, nhưng tôi không phải chịu đựng điều đó khi còn nhỏ. Khi làm mẹ thì tôi rất muốn con mình ngủ ở nhà.”

Mặt khác, Hannah, một cựu thành viên, khẳng định, “Ngủ tập thể là một sự sắp xếp lành mạnh kỳ lạ. Tôi có thể ở riêng với chồng. Tôi có thời gian cho mọi loại hoạt động. Các con gái của tôi không biết chúng đã tham gia vào việc đó vì cái gì!”

Trong một cuộc phỏng vấn được thực hiện ngay sau khi trẻ em trở về nhà, Hagit, một bà mẹ trẻ ở độ tuổi hai mươi, nói rằng, “Hiện giờ chúng tôi thoải mái hơn nhiều khi con cái ngủ ở nhà. Chúng tôi không phải đến nhà trẻ em cả ngày để có được chút ít thời gian với con cái.” Khi tự phỏng vấn ở kibbutz của mình, Zamir đồng ý rằng phụ nữ kibbutz thường xuyên phẫn nộ trong vai trò của bà mẹ. 

Tôi đặc trưng cho thế hệ mà theo đó tôi đẩy vấn đề qua một bên, tôi tin tưởng vào kibbutz về tổng thể, tôi chấp nhận sự lầm lạc này. Cho đến giờ tôi vẫn nhớ đã chạy nửa dặm đường trong đêm mùa đông để cho con gái ăn, sau đó quay về, “Đây là thế hệ nô lệ cuối cùng!” Tất cả là như vậy. Thế hệ con gái của tôi cởi mở hơn và ít vị tha hơn, chúng đã thay đổi điều đó. 

Sau khi nói chuyện với Yeheskel Dar ở Degania và đọc cuốn Giáo Dục Tại Kibbutz Đang Thay Đổi, tôi tìm ông thể thảo luận tiếp trong văn phòng tại đại học Hebrew ở Jerusalem. Dar, một giáo sư xã hội học về giáo dục, cho biết là nhiều phụ nữ được phỏng vấn ở Shirat Hadeshe đang được điều trị tâm lý.

“Tôi không biết nhiều về hệ thống và cá nhân”, ông nói. “Rõ ràng là có sự tác động qua lại, nhưng tôi không cho rằng giáo dục kibbutz nói chung là có hại. Nó tác động tiêu cực đến một số trẻ em nhạy cảm, nhưng không phải là tổn hại đối với đại đa số.” Tôi hỏi Dar tại sao bốn thế hệ của giáo dục kibbutz không truyền tại được các giá trị cộng đồng theo cách mà Yosef Bussel đã tiên đoán. Ông trả lời rằng hệ thống giáo dục kibbutz – ngay cả của kibbutz Artzi – đều chủ yếu dựa trên các ví dụ.

“Họ cho rằng duy trì nó là đủ”, ông nói. “Họ không thật sự dạy lối sống kibbutz với sách giáo khoa về sự bình đẳng và cộng đồng, theo cách mà các nhà giáo dục tôn giáo duy trì tôn giáo với kinh thánh và sách Talmud. Họ hoàn toàn đánh giá thấp sự ảnh hưởng của cấu trúc xã hội.” Ông cho cũng cho rằng Bussel hoàn toàn đánh giá thấp sự quan trọng của cách mạng cá nhân mà ông và các đồng chí đã thực hiện.

Kinh nghiệm về việc nổi loạn chống lại môi trường xã hội, bị trở thành người ngoài, mặc dù vậy được củng cố bằng một hàng ngũ các nhóm bạn bè có cùng giá trị, là rất mạnh mẽ. Những người sáng lập kibbutz đã chọn cách gia nhập nhóm và tạo ra lối sống dựa trên đạo đức khác biệt với những người mà họ cùng trưởng thành. Những người sinh ra trong kibbutz có mặt một cách ngẫu nhiên. Do vậy,sự thật trái ngược với những điều mà Bussel đã viết: những người có sự lựa chọn cách mạng có thể sống theo lối sống cộng đồng; những người lớn lên như là thành viên cộng đồn lại ít có khả năng sống trong một cộng đồng.

Một lý do quan trọng khác khiến giáo dục kibbutz “thất bại” là sự thay đổi trong môi trường chung. Xã hội không đứng yên, như Dar đã chỉ ra; tập thể mang tính chất chủng tộc của cộng đồng Do Thái ở Palestine ngày càng bị thay thế bằng phương thức tiếp cận cá nhân hơn trong quốc gia Israel. Ông không cho rằng kibbutz sẽ thành công hơn nếu họ đoạn tuyệt với xã hội. Xã hội xung quanh đã mang đến cho kibbutz cảm giác về sự quan trọng. Xã hội cũng đảm bảo cho kibbutz các tài nguyên để duy trì mức sống tương đối cao. Mặc dù ông đồng ý rằng các trường học kibbutz có thể trở thành giống như các trường học khác nhưng ông vẫn hy vọng rằng truyền thống dân chủ và một số thứ của hệ thống dự án vẫn sẽ được duy trì.  
Toàn bộ câu hỏi về giáo dục kibbutz đã soi rọi sự mẫu thuẫn của phong trào kibbutz trong mối quan hệ với xã hội bên ngoài. Như chúng ta đã quan sát, kibbutz từ việc chối rút khỏi xã hội theo phương thức tiếp cận cộng đồng truyền thống, thay vì hướng tới dẫn dắt và thúc đẩy nó. Tuy vậy, trường học kibbutz thuở sơ khai được coi là một chính sách ngoại lệ. Mặc dù chúng tiếp nhận trẻ em bên ngoài kibbutz, kiểm soát giáo dục vẫn do kibbutz thực hiện, cũng như đa số tuyệt đối giáo viên là thành viên của kibbutz. 

Vào những năm 1970, khi khoảng cách xã hội giữa những người Israel kỳ cựu và những người nhập cư mới – đặc biệt là những người đến từ các quốc gia Trung Đông – gia tăng so với những năm 1950, bộ giáo dục đã ban hành một chính sách hội nhập bắt buộc tất cả các trường học phải tiếp nhận trẻ em theo khu vực địa lý mà không xét đến tình trạng xã hội hay kinh tế của chúng. Các kibbutz bảo vệ sự ngoại lệ của họ trước chính sách này với lý do họ chỉ giáo dục các giá trị của kibbutz. Đây là một trong những lý do khiến một bộ phận lớn công chúng Israel oán giận các kibbutz. Các kibbutz có thể coi đó là quyền truyền thụ những giá trị của họ; nhiều người Israel coi đó là chủ nghĩa thượng lưu hợm hĩnh.

Mặc dù vậy, ngày nay, cùng với sự mở cửa của các kibbutz đối với xã hội bên ngoài, các trường học kibbutz rất phổ biến với công chúng nói chung. Đa số các điểm bán hàng của khu dân cư mới là do một số kibbutz xây dựng, như Givat Brenner và Hasolelim, trên phương diện giáo dục cho trẻ em tại một trường học của kibbutz. Tuy kibbutz Artzi duy trì chính sách ngoại lệ lâu hơn các kibbutz khác song hệ thống trường học của họ cũng đã mở cửa cho bên ngoài. Trong ba thập kỷ qua, Shikma Mossad ở miền tây sa mạc Negev đã đón nhận trẻ em hàng ngày từ các thị trấn và moshav trong vùng, cũng như nhiều học sinh hơn từ ba kibbutz và một số nhóm nhập cư trẻ. Nằm tại kibbutz Yad Mordechai, cách thị trấn bờ biển Ashkelon 6 dặm về phía nam, Mossad có khuôn viên riêng ở một góc của kibbutz.

Một trong những lý do khiến Shikma trở thành trường địa phương là tài chính: kibbutz không còn đủ khả năng tài trợ cho trường học chỉ phục vụ các thành viên của họ. Thậm chí là với 100 trong số 260 học sinh hàng ngày, lớp học vẫn tương đối nhỏ, khoảng 22-23 học sinh mỗi lớp. Công dân của Ofakim, Sderot, Netivot, các thị trấn chủ yếu là người nhập cư phương đông vào những năm 1950 đều sẵn lòng gửi con cái tới Shikma và hiện nay trường kibbutz rất vui mừng đón nhận chúng.

Shikma không thật sự là trường học kibbutz nữa, chưa nói là Mossad truyền thống của kibbutz Artzi. Họ dạy theo chương trình của bộ giáo dục, họ tuyển dụng giáo viên cả từ kibbutz và bên ngoài, đa số giảng dạy theo phương pháp đối mặt truyền thống, tất cả trẻ em đều tham gia các kỳ thi xét tuyển đại học quốc gia. Tuy vậy, dấu vết của Xã Hội Trẻ Em vẫn còn được thấy rõ. 

Ronnie Bassin, một người đàn ông trung tuổi thân thiện và hoạt bát, thành viên của Zikkim, một không có trẻ em ở Shikma. Ông dạy văn học và giáo dục công dân ở trường nhưng cũng hướng dẫn học sinh cách thực hiện các dự án nghiên cứu cá nhân – các sử dụng cơ sở dữ liệu máy tính, sách và các tài liệu khác. Dự án nghiên cứu cá nhân theo tinh thần của Mossad cũ, kết hợp hoạt động cá nhân và nhóm bên ngoài cấu trúc lớp học. Giữa học sinh và giáo viên không có mối quan hệ ít chuẩn mực hơn so với trường của thị trấn, ông khẳng định, nhưng ông cũng ghi nhận rằng giáo dục lý tưởng theo kiểu cũ đã kết thúc. Ở Shikma, khuynh hướng níu kéo những học sinh nổi trội không còn, thành tích cá nhân là mục tiêu giống như bất kỳ trường học nào khác.

Cựu giáo viên Hanoch Lekach là từng là thành viên của Kanniya, một kibbutz khác có trẻ em học ở Shikma, khoảng 45 tuổi. Với đôi mắt buồn bã màu xám, tóc xám thưa thớt và lộn xộn, ria mép xám, giọng nói thanh tao và phát ngôn chuẩn mực, Lekach là hình mẫu của cựu thành viên kibbutz. Ông tới Mossad Shikma vào những năm 1960, khi kibbutz Artzi truyền thống – các giá trị Hashomer Hatzair vẫn đang thống trị. “Chúng tôi có một phương thức tiếp cận hữu cơ bản thể”, ông nhớ lại. “Chúng tôi dạy theo chủ đề, xem giáo dục và xã hội là các phần của một tổng thể. 

Một giờ rưỡi làm việc cấp tốc trong một dự án nghiên cứu là phần trung tâm của ngày học. Học sinh trở về nhà vào buổi chiều ở kibbutz để làm công việc nông nghiệp trước khi trở về Mossad vào buổi tối. Học sinh vẫn về nhà bố mẹ vào buổi chiều, nhưng hiện nay chúng chỉ làm việc một tuần một lần. Chương trình học được phòng giáo dục của kibbutz Artzi cung cấp. Phòng vẫn tồn tại, nhưng ít có ảnh hưởng. Hiện nay, việc dạy học được thực hiện theo chương trình của bộ giáo dục.

“Theo ý kiến của tôi”, Lekach nói, “giáo dục lý tưởng của chúng tôi đã bị yếu đi sau Đại Hội thứ 20 của Đảng Cộng Sản Soviet, khi mà Nikita Khruschev lên án Stalin về chế độ khủng bố. Sau đó thì việc giáo viên chứng tỏ rằng họ có tư duy cởi mở trở nên quan trọng.”

Khi nhiều các giáo viên được đào tạo đại học tham gia vào Mossad hơn, họ cũng có các tác động sâu sắc. Mossad trở nên “hàn lâm hóa”. Sự khác biệt với giáo dục tôn giáo là ở chỗ, trong khi kibbutz Artzi thừa nhận sự kiểm soát của bộ giáo cụ, lĩnh vực tôn giáo vẫn duy trình chương trình độc lập của họ.

Lekach thừa nhận rằng ông và đồng nghiệp đã sai về rất nhiều thứ. Họ đã hoàn toàn ngây thơ, mặc dù vậy toàn bộ hệ thống vẫn hoạt động tương đối tốt. Tuy vậy, ông vẫn tin tưởng hoàn toàn vào các giá trị của kibbutz và cố gắng giáo dục học sinh giúp đỡ người khác trong khi phát triển bản thân, ông khẳng định rằng không bao giờ hình dung rằng việc tạo ra “con người mới” là khả thi.

Ở kibbutz của ông, Karrmiya, Xã Hội Trẻ Em vẫn được duy trì cho đến những năm 1970. Đến năm 1974, nhân viên chăm sóc trẻ em và giáo viên cho trẻ em đi ngủ, thậm chí ngay cả sau khi cha mẹ chúng đảm nhiệm vai trò đó, đó là vài năm trước khi trẻ em nhỏ hơn bắt đầu ngủ ở nhà. Trẻ em Mossad, lớn hơn 12 tuổi, thường ngủ ở trường nội trú. Lekach coi sự ảnh hưởng của cha mẹ đối với con cái luôn mạnh hơn của giáo viên hay nhân viên chăm sóc trẻ em. Ngay cả khi hệ thống hoàn toàn là cộng đồng, nhà của cha mẹ vẫn là nguồn ảnh hưởng chủ yếu. 

Giọng nói truyền cảm của ông gợi cho tôi nhớ đến cuộc nói chuyện trước đó với một giáo viên khác, Ruth Dotan, của Ayelet Hashahar ở Galilee Thượng. Ruth đã dành cả cuộc đời của bà cho giáo dục kibbutz, mặc dù không phải ở kibbutz Artzi.

“Ở nhà mà bố mẹ đọc thì con cái cũng đọc,” bà khẳng định. “Truyền hình và máy tính không làm ngừng việc đọc ở một ngôi nhà có nhiều sách. Điều đó cũng giống như giá trị. Bất kể là khuôn khổ tập thể mạnh đến đâu; nếu như cha mẹ không hỗ trợ thì nó sẽ không có tác dụng.” 

Bà quyết liệt phủ nhận cáo buộc về việc trường học kibbutz giáo dục sự tầm thường. Kibbutz đã nhiều năm đứng đầu trong thời của nó về việc công nhận nhu cầu khác nhau của trẻ em có tài năng đặc biệt. Bản thân bà đã quen với việc đưa những đứa trẻ buồn chán ra khỏi lớp và hướng dẫn các dự án tự nghiên cứu trong thư viện.

“Mỗi đứa trẻ đều nhận được sự hỗ trợ tối đa phù hợp với tài năng cá nhân của chúng”, bà khẳng định. 

Tôi luôn làm việc theo nguyên tắc đó. Những đứa trẻ tinh hoa luôn xuất hiện và chúng không thể bị loại bỏ. Câu hỏi là những cá nhân sáng dạ có phục vụ xã hội không, hay chỉ xoay sở cho bản thân mình? Một học sinh của tôi quan tâm đến thực vật học, cây cối lên ra sao, chúng cần bao nhiêu nước. Sau này, cậu ấy trở thành người thành lập công ty nước quốc gia của Israel.

Ruth phủ nhận việc coi giáo dục kibbutz – hay kibbutz nói chúng – là một thất bại. “Hiện giờ chúng đan thất bại một phần”, bà thừa nhận, “nhưng trong gần một trăm năm chúng tôi đã chứng minh rằng con người không cần phải sống theo nguyên lý "ăn thịt lẫn nhau”. Lịch sử là tuần hoàn. Lý tưởng kibbutz sẽ quay trở lại vào một ngày nào đó, mặc dù là có thể dưới một dạng khác.” 

Hanoc Lekach mô tả bản thân như là “ở chốn lưu đày trong giấc mơ của tôi”. Nếu ông có điều gì hối tiếc thì đó là việc ông không nhận ra lý tưởng kibbutz đã thoái trào khi ông trở thành thành viên của kibbutz vào những năm 1950. Khi nhìn lại, ông cảm thấy rằng hệ thống kibbutz đã đổ vỡ từ lâu trước khi có bất cứ ai nhận ra. Bất chấp điều đó, cuộc đời giáo viên đã mang lại cho ông sự hài lòng. Ông thừa nhận rằng nhiều trẻ em lớn lên ở kibbutz đã nói rằng chúng không hạnh phúc trong một khuôn khổ cộng đồng quá lớn khiến chúng không có cơ hội phát triển cá nhân, nhưng ông cũng cho rằng mình đã luôn cố gắng xem xét mỗi đứa trẻ như là một cá nhân và giúp đỡ học sinh theo cách phù hợp.

“Chúng tôi không đạt được những gì đã hy vọng”, ông thừa nhận, “nhưng về tổng thể hệ thống đã tạo ra các kết quả tốt. Tôi vẫn cố gắng truyền tải các giá trị tự do, nhân bản và khoan dung.”

Một nhóm học sinh cấp ba từ Shikma nằm trên bãi cỏ bên ngoài lớp học. Chúng mặc như các thiếu niên ở mọi nơi khác: quần jeans, áo phông, giày đế mềm hoặc chân trần. Hai đứa có khuyên tai, một đứa hút thuốc. Chúng đều đến từ Zikkim, kibbutz nhỏ nhất cách Mossad vài dặm về phía bắc, nhưng chỉ một đứa là trẻ em kibbutz. Hai đứa nhập cư từ Nga, ở cùng với bố mẹ tại một thị trấn phát triển; một đứa từ Tel Aviv. Cả ba học sinh bên ngoài đều được các gia đình ở Zikkim nhận nuôi, chúng tới thăm họ mỗi buổi chiều. Chúng sẽ thăm gia đình thật của mình hai tuần một lần. 

“Cháu có phải là “con người mới” không? Tôi hỏi Jonathan, một cậu bé gầy và cao lêu nghêu đeo kính, con của người nhập cư từ Argentina. “Cháu chỉ là người bình thường,” cậu trả lời với nụ cười, “một người yêu căn nhà và lối sống của mình. Thế thôi.”

“Cậu ta khác với những đứa trẻ thành phố”, Yaron bình luận. Tóc dài và da ngăm đen, cậu là người đến từ Tel Aviv. Ông nội cậu đến Israel từ Iraq.

“Yaron nói đúng”, Marx khẳng định, cậu sinh ra ở Moscow. Cậu có khuôn mặt phẳng, đẹp tự nhiên, đeo khuyên tai và nặng căn hơn nhiều những người khác. “Thêm nữa. Hiện giờ cháu cũng khác. Tụi cháu ít hư hỏng hơn đám trẻ em thành phố. Nếu tụi cháu đi dã ngoại, tất cả những gì tụi cháu cần là túi ngủ và một ít café. Tụi cháu không cần phòng có điều hòa nhiệt độ; tụi cháu thoải mái khi ngủ ngoài trời.”

“Cậu ấy bắt đầu đi chân đất vào mùa hè năm ngoái”, Yaron nói và cười.

“Cậu ấy vẫn chưa là người kibbutz”.

Không có cậu bé nào sẵn sàng trả lời rằng họ chắc chắn sẽ ở lại Zikkim. Max nói rằng cậu thích nơi này những không muốn trở thành thành viên của kibbutz. Nếu Zikkim trở thành một làng bình thường thì cậu sẽ thích ở lại hơn. Cậu muốn học tâm lý học sau khi đi nghĩa vụ quân sự.

Nicolai, người đến từ vùng phụ cận Moscow, cho rằng cậu sẽ có sự nghiệp trong quân đội. Yaron tìm cách học kiến trúc và thích đi du lịch. Max muốn trở về Nga để xem có chuyện gì đã diễn ra.

Tất cả đều hoàn toàn tích cực về Shikma. Yaron công nhận rằng mối quan hệ với giáo viên ít chuẩn mực hơn so với trường học của cậu ở Tel Aviv. Anh có thể chơi bóng đá với một giáo viên và ngồi cạnh giáo viên trong nhà ăn cộng đồng, cậu kể. Nicolai và Max thậm chí còn đi xa hơn nữa, họ thú nhận rằng khi lần đầu tiên tơi Shikma, họ đã bị sốc. Ở Nga, giáo viên có uy quyền tuyệt đối. Học sinh phải giữ im lặng trong lớp học. Nếu chúng muốn nói điều gì thì chúng phải giơ tay và đợi cho đến khi được cho phép. Ở Nga, chúng sợ giáo viên và chúng kinh ngạc trước việc Mossad thiếu kỷ luật chuẩn mực.

Trường học không có giáo dục chính trị, song vào buổi tối thì phong trào thanh niên Hashomer Hatzair có các hoạt động của họ. Lũ trẻ nói rằng phong trào khuyến khích sự hợp tác và chủ nghĩa nhân bản giải phóng nhưng không đặc biệt đào tạo hướng tới đời sống kibbutz. Tất cả chúng đều thể hiện chính trị ôn hòa trước câu hỏi về Palestine. Chúng cho rằng Israel nên rút khỏi nhiều lãnh thổ hơn và đồng ý với việc thiết lập nhà nước Palestine ở Bờ Tây và Gaza. Chúng đều khẳng định rằng có vẻ chịu ảnh hưởng của môi trường ở Shikma, mặc dù Yaron cho rằng cậu chịu ảnh hưởng của gia đình ở Tel Aviv nhiều hơn. Cũng cần phải thấy rằng chúng thể hiện những quan điểm đó trong khi Israel vẫn có một chính quyền cánh hữu, cực lực phản đối nhà nước Palestine.

Jonathan, sinh ra ở Zikkim, rất tin tưởng vào các giá trị bình đẳng và hợp tác nhưng cũng muốn thử các lối sống khác trước khi quyết định định cư ở đâu đó. Cậu có kế hoạch dành “một năm nghĩa vụ” cho vai trò thủ lĩnh thanh niên ở một thị trấn trước khi tham gia quân đội. Cậu khẳng định rằng kibbutz của cậu sẽ thay đổi. Điều đó diễn ra chậm rãi nhưng không còn có cách nào khác. Kibbutz vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng sẽ mang tính tư nhân nhiều hơn, ít tính tập thể đi. Nếu cậu ở lại Zikkim thì đó là bởi vì chất lượng cuộc sống. Cậu không chấp nhận được những thứ cậu đã thấy trong đời sống thành thị. “Tiền, tiền, tiền”, cậu nói một cách khinh miệt. “Tôi không theo đuổi thứ đó”. Mặt khác, cậu cũng nói, “Lý tưởng là vớ vẩn!”. Cậu và Max đồng ý rằng một trong những thứ khó chịu nhất về kibbutz là một số thành viên làm việc rất chăm chỉ trong khi những người khác lại để mặc cho kibbutz phải cáng đáng họ. Cả hai đều tỏ ra rất bất bình về điều đó. Max phản đối thêm rằng “tất cả mọi người đều biết anh ngủ ở đâu và với ai!”

Có thể điều tích cực nhất trong cuộc trao đổi này là bầu không khí thân thiết giữa những cậu bé có nguồn gốc khác nhau. Ít nhất thì trong chuyện này kibbutz vẫn tiếp tục có một đóng góp đáng giá.

Trong một xã hội mà hình mẫu đóng vai trò quan trọng trong giáo dục thì không thể không đề cập tới hai nhóm bên ngoài: Nahal và tình nguyện viên. Hàng ngàn tình nguyện viên nước ngoài đã sống và làm việc tại các kibbutz trên khắp Israel; các đơn vị quân đội Nahal đóng quân tại các kibbutz trong vài tháng của thời gian nghĩa vụ quân sự. 

Mặc dù các khách viếng thăm bị thu hút bởi trải nghiệm về đời sống cộng đồng ngay từ những ngày đầu của kibbutz, song người ngoài chỉ bắt đầu đến với quy mô lớn sau cuộc chiến tranh Sáu Ngày vào năm 1967. Trong nhiều tháng trước chiến tranh, khi quân đội dự bị của Israel được động viên cho một thời gian dài, các tình nguyện viên – chủ yếu là tình nguyện viên Do Thái – đến với số đông để thay thế những người đàn ông bị gọi vào quân ngũ. Đầu tiên thì một số tình nguyện viên ở lại kibbutz; một số khác làm việc tại moshav; một số làm việc ở các bệnh viện hoặc khu khai quật khảo cổ. Điều đó nhanh chóng trở thành bằng chứng cho thấy cấu trúc kibbutz đặc biệt thích hợp để cung cấp cho họ nơi ăn ở. 

Khả năng sống và làm việc tại kibbutz dường như đã được truyền miệng, do ban đầu thì các liên minh kibbutz không làm gì để khuyến khích việc đó. Nhưng dần dần phong trào tình nguyện trở nên có tổ chức, “bàn kibbutz” được mở tại nhiều nước phương Tây. Tuy nhiều tình nguyện viên chỉ ở lại vài tháng song việc thanh niên sống tại kibbutz một năm sau khi tốt nghiệp trung học và trước khi vào đại học trở thành mốt. Vào lúc đó, tỷ lệ tình nguyện viên Do Thái giảm xuống còn 15%. Đại đa số tình nguyện viên đến từ Tây Âu, dưới 10% đến từ Hoa Kỳ và tỷ lệ tương tự đến từ Nam Phi, Australia và Nam Mỹ. Vào thời kỳ đỉnh điểm, phong trào tình nguyện viên thu hút được 50.000 người mỗi năm và trong hai thập kỷ sau năm 1967 có khoảng nửa triệu thanh niên đã thưởng thức trải nghiệm tại kibbutz. Trên thực tế, “thưởng thức” là chính xác, khi hơn 70% thường xuyên trả lời các khảo sát và thể hiện rằng họ hài lòng hoặc rất hài lòng, một tỷ lệ tương tự cũng ca ngợi lối sống kibbutz. Họ sống và làm việc tại kibbutz; nhận được nơi ở, thực phẩm, tiền tiêu vặt khoảng 70 dollar mỗi tháng; nghe giảng và đôi khi tham gia các khóa học kéo dài cả tuần tại trường đại học của kibbutz; du lịch quanh đất nước; nói chung là có một thời gian dễ chịu.

Hầu hết khách muốn làm việc nông nghiệp, ban đầu có một nửa số họ làm, chủ yếu là các công việc thời vụ như thu hoạch trái cây, nhưng nông nghiệp Israel bắt đầu cơ giới hóa hơn, gia tăng số lượng tình nguyện viên làm các công việc dịch vụ, như nhà bếp cộng đồng và nhà ăn. Một số thành viên kibbutz cảm thấy có lỗi khi họ bóc lột các tình nguyện viên. Tuy vậy, như đã đề cập phía trên, đại đa số tình nguyện viên của kibbutz thưởng thức trải nghiệm của họ. Một số ít thậm chí còn cố gắng xây dựng cộng đồng hay hợp tác xã của mình khi họ trở về nhà.

Trên mạng Internet, một cựu tình nguyện viên đã nói:

Anh có thể phân chia một ngày thành ba giai đoạn chính:
Sáng và Trưa, đó là thời gian anh làm việc.
Chiều, khi hầu hết mọi người thư giãn bằng cách bơi hoặc ngủ ngắn. Dĩ nhiên anh có thể đi vào thị trấn để được vẽ tranh, hoặc chỉ ngồi ở ngoài và tán chuyện với những người khác. Anh có thể muốn chơi tennis hoặc thư giãn với một cuốn sách mà anh tìm thấy trong thư viện của kibbutz.
Buổi tối và ai biết được muộn đến mức nào, khi mọi thứ đều vui vẻ. Buổi tối có thể không mấy khi ồn ào cũng như yên tĩnh. Đôi khi có rất nhiều rượu và khiêu vũ, đôi khi là với đàn ghi ta và lửa trại. 

Anh ta nói thêm:

Các tình nguyện viên uống rượu là chuyện chấp nhận được với giới hạn hợp lý. Anh có thể vui vẻ nhưng say sưa quá mức thì sẽ là chiếc vé một chiều đến thị trấn gần nhất. Nếu anh hút cần sa thì hãy thận trọng và quên các ma túy nặng đô đi. Điều đó sẽ là vé một chiều đến sở cảnh sát gần nhất và có thể là bị trục xuất.

Dòng tình nguyện viên bắt đầu giảm xuống vào những năm 1980, khi hình ảnh của Israel bị xấu đi với Intifada, sự nổi dậy của người Palestine. Vào cùng lúc đó, kibbutz cảm thấy ít có nhu cầu về tình nguyện viên, do ít có khả năng chi trả và bắt đầu có cảm giác tiêu cực về họ. Tuy kibbutz luôn là một xã hội mở song các tình nguyện viên đại diện cho thế giới bên ngoài đã xâm nhập ngoài sự mong đợi. Trẻ em kibbutz bị ném vào các tiếp xúc xã hội thân mật với số đông thanh niên tự do, đơn giản, ưa khoái lạc từ các nước phương Tây. Thật là không công bằng khi lên án các tình nguyện viên về tội phạm vị thành niên và vấn đề nghiện ngập của thanh thiếu niên kibbutz, nhưng đoạn trích dẫn Internet ở trên đã cho thấy có một mối liên hệ. Hơn nữa, trẻ em nước ngoài xuất hiện khiến trẻ em kibbutz có mốt đi ra nước ngoài dài ngày sau khi thực hiện nghĩa vụ quân sự.

Có hai lý do cơ bản cho khuynh hướng này: sự thịnh vượng của kibbutz và xã hội Israel nói chung, điều đó cho phép chúng kiếm đủ tiền cho chuyến đi, sự gia tăng của vai trò tích cực mà những người lính trẻ phải thực hiện sau chiến tranh Sáu Ngày. Những trận đánh với quân xâm nhập biên giới, đấu pháo với Jordan và Kênh Suez, dẫn tới chiến tranh Yom Kippur năm 1973. Sau đó là chiến tranh kéo dài ở Lebanon và Intifada. Nhiều thanh niên Israel, nhất là những người thuộc đơn vị chiến đấu, đã tham gia các cuộc chiến và chiến dịch này. Họ cảm thấy cần phải được giải thoát sau những căng thẳng và kỷ luật của quân đội.

Cựu binh lính thường đi tới Châu Á, Bắc và Nam Mỹ. Tuy hầu hết chỉ ở nước ngoài vài tháng song cũng có nhiều người ở lại lâu hơn. Do vậy, các tình nguyện viên nước ngoài thế chỗ nam nữ thanh niên của kibbutz vẫn còn có ý nghĩa. Họ thay thế người của kibbutz làm nhân viên và trong một xã hội chủ yếu giáo dục bằng hình mẫu, tình nguyện viên trở thành hình mẫu đối với trẻ em kibbutz, vốn có anh chị lớn hơn đã đi ra nước ngoài. 

Dĩ nhiên tình ái và hôn nhân cũng diễn ra giữa hai nhóm. Trong một số trường hợp, tình nguyện viên tham gia kibbutz; trong một số trường hợp khác, thanh niên kibbutz theo tình nguyện viên về nước của họ. Không có gì đáng hoài nghi, kết hôn qua lại gây ra sự lo ngại, đó là một lý do khiến kibbutz ít sẵn sàng tiếp nhận tình nguyện viên hơn, nhưng hiện tượng này chỉ là cá biệt. Quan trọng hơn là sự ảnh hưởng nói chung của tình nguyện viên và bầu không khí mà họ tạo ra. Sự hiện diện của họ tại kibbutz trong hai thập kỷ đã góp phần làm xói mòn các giá trị truyền thống của kibbutz trong lòng thế hệ trẻ.

Về mặt lý thuyết, đơn vị Nahal của quân đội Israel có một ảnh hưởng ngược lại. Nahal (tiếng viết tắt Do Thái có nghĩa là “Thanh Niên Chiến Đấu và Làm Việc”) được thành lập năm 1949, là một bộ phận của quân đội Israel. Đội quân thời tiền nhà nước Israel theo truyền thống của Palmah thường đóng quân tại kibbutz. Ý tưởng là động viên các thành viên của phong trào thanh niên Israel tham gia quân đội theo nhóm, canh gác khu vực biên giới và dành một phần thời gian nghĩa vụ quân sự để làm nông nghiệp.

Trước khi tự thành lập kibbutz của mình, thanh niên được huấn luyện vài tháng ở kibbutz có sẵn. Tuy Nahal là một câu chuyện thành công, thành lập hơn một trăm kibbutz mới, vào những năm 1970 thì phong trào thanh niên suy yếu và lý tưởng dần dần trở nên ít quan trọng trong kibbutz cũng như Israel nói chung. Các nhóm Nahal trở nên nhỏ hơn và chỉ có một thiểu số rất nhỏ thành viên kibbutz ở lại sau khi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Vào lúc mà tình nguyện viên xuất hiện, các nhóm Nahal suy yếu không thể chống lại được ảnh hưởng mạnh mẽ của tình nguyện viên. Nếu có bất cứ điều gì thì họ cũng chịu ảnh hưởng văn hóa của tình nguyện viên. 

Mặc dù vậy, ảnh hưởng của tình nguyện viên không phải là điều khiến thế hệ lớn tuổi của kibbutz lo ngại nhất. Họ lo ngại hơn về dòng người đi theo hướng ngược lại, chỉ có liên hệ không đáng để với tình nguyện viên. Một số ít thanh niên kibbutz kết hôn với tình nguyện viên nhưng hàng ngàn người khác đã ở lại nước ngoài sau chuyến đi hậu nghĩa vụ quân sự.

Trong trường hợp Ấn Độ, Thái Lan, Venezuela, thanh niên thường trở về sau vài tháng hoặc nhiều lắm là vài năm, nhưng những người đến Tây Âu và nhất là Bắc Mỹ, thường ở lại vĩnh viễn. Bờ Tây của Hoa Kỳ đặc biệt hấp dẫn. Nhiều thanh niên kibbutz định cư ở Los Angeles đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhà xã hội học Naama Sabar của Tel Aviv, trong cuốn Kibbutz L.A.

Một số lượng nhỏ nhưng quan trọng bởi vì một phần là do sự sụp đổ kinh tế đã được mô tả ở chương trước, nguy cơ chủ yếu mà hiện nay kibbutz phải đối mặt là sự thất bại trong việc giữ chân thế hệ mới nhất. Ngay cả Hatzerim, một kibbutz thành công và thị vượng, cũng chỉ giữ chân được một nửa số thanh niên. Kibbutz L.A., dựa trên các cuộc phỏng vấn người Israel từ độ tuổi ngoài 20 đến giữa 40, đa số họ sống ở thung lũng San Fernando vào cuối những năm 1980, cho chúng ta biết về lý do khiến thanh niên rời khỏi kibbutz cũng như rời khỏi Israel.

Những người di cư đều có câu chuyện riêng, nhưng một số bối cảnh nhất định lặp lại. Cha mẹ của họ lạnh lùng hoặc xa cách, hay quá sát sao. Đời sống cộng đồng quá khắc nghiệt; ít có tính riêng tư và không khuyến khích nỗ lực cá nhân. Nhiều người mới nhận ra sự đau khổ của cha mẹ với cuộc sống kibbutz và nhiều người cảm thấy họ được cha mẹ khuyến khích một cách gián tiếp về việc ra đi. Bản thân họ cũng cảm thấy bị cấu trúc cộng đồng kìm hãm. Không chỉ một người kể về việc trở nên có khả năng hành động quyết đoán và ra quyết định trong thời gian thi hành nghĩa vụ quân sự, sự thừa thãi của các ủy ban ở kibbutz đã đánh bại họ khi họ trở về nhà.

“Tôi yêu cuộc sống kibbutz”, một người nói, “nhưng tôi đi theo một hướng khác. Tôi có thể thấy trước hai bước và cảm thấy phiền là những người khác không thấy. Tôi phát bực vì sự thờ ơ.”

Định cư ở Los Angeles là tương đối đơn giản đối với nhiều người kibbutz, khi họ được các đồng bào khác ở sân bay, giúp họ kiếm việc làm và nơi ở. Điều kỳ cục là thành công trong việc giáo dục trẻ em về sự chăm chỉ của kibbutz lại giúp chúng dễ dàng hòa nhập vào môi trường mới. Bên ngoài kibbutz, một số người cảm thấy xã hội Israel cũng quá thô bạo, áp đặt, chỉ trích. Hoa Kỳ và nhất là Los Angeles lại tự do, cởi mở và không áp đặt. Không ai soi mói họ. Họ có chỗ để thở

Cần phải khẳng định rằng đây đa số là những thanh niên nổi bật, có tài năng, hoạt bạt và khỏe mạnh. Đối với họ Hoa Kỳ là miền đất của những khả năng vô tận. Không phải sự giàu có mà nhiều người đã đạt được mà là cảm giác được theo đuổi con đường của mình bằng khả năng và sự nỗ lực của bản thân đã khiến họ hài lòng.

“Ở đây có một bầu không khí khác”, một cựu thành viên từng điều hành nông trại của kibbutz nói. “Không có nghĩa vụ. Tôi gặp bất cứ ai mà tôi muốn. Tôi có sự riêng tư, tự do và trên hết là độc lập.”

Một cô gái, rời khỏi kibbutz sau khi ước muốn được học làm huấn luyện viên thể thao của cô bị từ chối, đến Los Angeles vài tháng và cảm thấy đời sống xã hội của cô thật sự thay đổi.

“Tôi xấu hổ và cô đơn ở Israel”, cô nói. “Ở đây điện thoại của tôi không bao giờ ngừng đổ chuông.”

Sau khi đọc cuốn Kibbutz L.A., tôi nói chuyện với Avery Glick trong căn hộ tầng trệt được bao quanh với cây cối và bãi cỏ của ông tại vùng ngoại ô dễ chịu của Los Angeles. Ông làm mát-xa và điều trị bằng phương pháp Feldenkreis mà ông đã học ở Israel và Los Angeles. Người vợ gốc Đức của ông, Moopie, ông đã gặp vợ ở Los Angeles, tham gia một công việc kinh doanh nhỏ với bạn, họ sản xuất chao đèn có trang trí. Khi chúng tôi nói chuyện ở hành lang nhà, Joey, đứa nhỏ mũm mĩm của ông, tám tháng tuổi, bôi đầy nước dãi lên áo sơ mi của ông. Avery thừa nhận rằng ông có thể thực hành liệu pháp Feldenkreis tại kibbutz của ông (họ đã chi tiền cho khóa học ban đầu của ông) nhưng cho rằng đầu óc của ông theo đuổi chuyện khác. Ông muốn tự tạo ra con đường riêng của mình.

“Ở kibbutz, anh phải tuân thủ các luật lệ”, ông giải thích.

“Ở bên ngoài thì anh tự tạo ra luật lệ. Tôi thích việc có thể tự quyết định khi nào đi làm và làm với ai.”

Ông sống ở Tel Aviv sáu tháng nhưng cảm thấy cái năm thi hành nghĩa vụ quân sự là không thể chịu nổi. Tất nhiên điều đó không tốt cho công việc nhưng điều tồi tệ nhất là ông phục vụ tại lãnh thổ bị chiếm đóng trong thời kỳ Intifada của người Palestine. 

“Công việc bình thường của tôi là điều trị cho mọi người”, ông nói. “Trong quân đội thì tôi làm hại mọi người. Họ thực sự khuyến khích chúng tôi đánh đập những người nổi dậy bị chúng tôi bắt được. Tôi không thể chịu được điều đó.”

Avery 37 tuổi. Ông có một em trai và hai chị gái, tất cả đều rời khỏi kibbutz Galilee của họ. Một chị gái ở vài năm ở Ấn Độ trước khi quay lại Israel và tới Judaism. Hiện giờ bà sống trong một cộng đồng chính thống giáo ở Galilee. Avery vẫn liên hệ với gia đình qua thư điện tử, nhận được nguyệt san của kibbutz và nói chung là vẫn cập nhật tình hình. Cha mẹ ông đến Israel từ nước Anh và đã tạo ra một cộng đồng tuyệt vời, ông kể. Mục tiêu của họ là xây dựng một xã hội mới với các giá trị mới và giấc mơ của họ trở thành hiện thực theo nhiều cách. Họ luôn trân trọng nghĩ rằng họ tạo dựng môi trường tốt nhất cho con cái và họ thực sự ngạc nhiên khi thấy con cái của họ quyết định sống ở nơi khác.

“Ông bà của tôi đến nước Anh từ Nga”, Avery nói. Cha mẹ tôi rời nước Anh để đến sống ở Israel. Tôi đến Los Angeles. Joey sẽ sống ở đâu? Tôi không biết.”

Cha mẹ của ông cũng như thế hệ của họ đã ngây thơ và có đôi chút mù quáng, ông nghĩ như vậy. Kibbutz rất phù hợp khi chúng được sáng lập nhưng đã không thích nghi đủ nhanh với sự phát triển chung của xã hội Israel.

“Khi những sự thay đổi xuất hiện ở kibbutz của chúng tôi, thế hệ sáng lập đã ngăn chặn chúng”, ông nhớ lại. “Nếu họ cho phép thay đổi thì rất nhiều thanh niên có thể đã ở lại.”

Avery tin rằng kibbutz phải đi theo hướng tư bản hơn, không chỉ là bởi vì điều đó không thể tránh được mà còn bởi vì điều đó có ý nghĩa. Bình đẳng là ý tưởng tốt đẹp song ông cho rằng điều đó sẽ không bao giờ đạt được.

“Tôi không biết cách cân bằng giữa ý tưởng về bình đẳng và hỗ trợ qua lại với kinh doanh cá nhân và sáng kiến”, ông thừa nhận.

“Đó là điều khó khăn đối với kibbutz, nơi duy nhất thuần túy cộng sản trên thế giới.” Avery và Moopie không có kế hoạch quay trở lại Israel. Moopie nói rằng bà đã chuẩn bị để sống một năm ở kibbutz của Avery song bà không muốn nuôi dưỡng con cái ở đó.

“Chúng tôi không thấy nơi thích hợp để nuôi dưỡng con cái”, bà nói. “Chúng tôi tìm kiếm một cộng đồng nhỏ, nơi mà các hàng xóm dành thời gian cho nhau, nơi mà họ thực sự giúp đỡ lẫn nhau, nơi mà trẻ em có thể đi xe đạp hoặc chạy quanh với chân đất mà không gặp nguy hiểm. Có thể là một thị trấn nhỏ nào đó ở California sẽ phù hợp.”

“Bà có nhận ra là bà đang tìm kiếm kibbutz của mình không?” Tôi hỏi họ.

Avery trả lời không đắn đo.

Dĩ nhiên! Tôi thích được lớn lên ở kibbutz. Đó là môi trường tốt nhất. Tôi muốn thứ gì đó giống như kibbutz nhưng có khuynh hướng về thành tích cá nhân hơn. Ông bà của tôi vẫn sống tại kibbutz và họ yêu nó. Kibbutz là nơi tuyệt vời cho người già và trẻ em. Nhưng với người trưởng thành thì có vấn đề, do nó không tạo ra đủ cơ hội để người ta tìm thấy con đường riêng.

Nir Pearlson là một kiến trúc sư ở Eugene, Oregon, nhưng quay trở lại kibbutz của mình trong sáu tháng. Ông và bà vợ người Mỹ, Mimi, muốn con cái học tiếng Do Thái và tiếp xúc với kibbutz, nhưng họ không muốn sống ở đó.

“Tôi không từ chối hoàn toàn nhưng khi ở đây tôi thấy rõ rằng đây không phải là nơi tôi muốn sống. Bi kịch là ở chỗ xuất hiện tinh thần buông xuôi bởi vì có nhiều điều tốt”, ông nói.

Nir cảm thấy rằng một số thành viên tốt nhất đã gánh vác cả kibbutz trong hai thập kỷ qua, nhưng giờ họ đã kiệt sức và tìm kiếm công việc thú vị bên ngoài kibbutz. Ông cảm thấy sự trì trệ trong kibbutz, một quán tính nhất định. Ở Eugene, ông và Mimi lựa chọn nơi mà họ muốn sống và họ tiếp xúc với người mà họ muốn, trong khi ở kibbutz mọi người ép buộc lẫn nhau.

“Dĩ nhiên vấn đề với kibbutz là cha mẹ không thể truyền tải các giá trị của họ cho con cái giống như gen di truyền”, Nir nói. “Việc truyền tải các giá trị bằng giáo dục không phải lúc nào cũng dễ dàng”.

Đối với Mimi, kibbutz của chồng bà là “nơi được bà yêu thích trên thế giới”, nhưng bà sẽ không sống ở đó lâu dài. Bà cảm thấy có sự cằn cỗi nhất định.

“Nó làm tôi nhớ đến khu bảo tồn thổ dân ở Hoa Kỳ. Đó là một khu “bảo tồn lý tưởng” với tất cả những lý tưởng của quá khứ”, bà nói.

Khi chúng tôi nói về những thất bại tương đối của kibbutz trong việc truyền tải các giá trị cho thế hệ thừa kế, vấn đề các thành viên nữ cũng được nhắc đến. Nhiều thanh niên rời khỏi kibbutz của họ (như chúng ta đã thấy, trong đó có những người ở Los Angeles) đều nhận ra rằng cha mẹ họ không hài lòng với lối sống kibbutz mà đặc biệt là sự bất hạnh của những bà mẹ. Đây là điều đáng chú ý khi chúng ta biết rằng các thành viên nữ như bà mẹ, nhân viên chăm sóc trẻ em, giáo viên, bảo mẫu, đảm nhận gánh nặng của giáo dục kibbutz. Hầu hết nhân viên chăm sóc trẻ em và bảo mẫu là phụ nữ và đa số giáo viên, nhất là giáo viên của trẻ nhỏ, cũng là phụ nữ. Sự thất bại của kibbutz trong việc tạo ra một cuộc sống đáng hài lòng cho havera (thành viên nữ của kibbutz) đã được biết đến và ghi nhận. 

Nghiên cứu đầy đủ nhất là của Lionel Tiger và Joseph Shepher, Phụ Nữ ở Kibbutz. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng kibbutz thành công trong các mục tiêu kinh tế, xã hội, tư tưởng và chính trị - cuốn sách được xuất bản năm 1975 – trừ sự phân công lao động, thất bại là “phổ biến và nổi bật”.

Với tư cách nhà khoa học xã hội, chúng ta đã khẳng định kibbutz là thứ mà các nhà sáng lập và công dân của nó coi là không tưởng: một thí nghiệm xác nhận các khả năng thay đổi cực đoan về loại hình xã hội và sự cam kết của người này đối với người khác. Chúng ta đã thấy rằng phương diện thí nghiệm có liên quan đến sự thay đổi lớn lao trong cuộc đời của phụ nữ đã ít thành công hơn những phương diện khác.

Nghiên cứu trên phạm vi rộng của họ, bao gồm vài nghìn phụ nữ kibbutz, đã cho thấy rằng ở các kibbutz sơ khai hơn một nửa số phụ nữ làm việc trong lĩnh vực sản xuất với thời gian đáng kể; sau đó là một sự phân hóa chậm rãi nhưng liên tục, cho đến khi chỉ có 20% phụ nữ làm việc trong lĩnh vực sản xuất. Việc phụ nữ làm công việc chăm sóc trẻ em nhưng chăm sóc cho con của phụ nữ khác là một nghịch lý. Phụ nữ làm việc ở nhà bếp cộng đồng và nhà ăn, trong giặt là và cửa hàng quần áo, đảm nhiệm các dịch vụ này cho toàn bộ cộng đồng, tuy vậy họ lại bị tước đoạt vai trò bà nội trợ truyền thống trong gia đình.

Hơn nữa, bất chấp sự bình đẳng hình thức, phụ nữ ít tham gia vào việc điều hành kibbutz. Họ ít tích cực tại các buổi họp toàn thể kibbutz. Trong khi xuất hiện quá đông ở các ủy ban về văn hóa và xã hội thì họ lại quá ít xuất hiện ở các ủy ban về kinh tế, việc làm, an sinh và chính sách chung. Bất chấp sự thật ra nữ thành viên được đi học nhiều năm hơn nam giới chút ít, chỉ có 14% phụ nữ giữ các vị trí lãnh đạo. Các vị trí đó là tình nguyện, như các tác giả đã chỉ ra. Nam giới không có âm mưu ngăn chặn phụ nữ khỏi các công việc hàng đầu – thực ra là ngược lại. Nam giới muốn lựa chọn phụ nữ; phụ nữ thường từ chối ứng cử và thường xuyên từ chức ngay sau khi được chỉ định vào các vị trí lãnh đạo. 

Mặc dù vậy, các tác giả cũng cho biết rằng về mặt lịch sử các thành viên nam giới, vốn thống trị ở kibbutz, có ảnh hưởng mạnh đối với chính sách chăm sóc trẻ em cơ bản. Khi phụ nữ tham gia nhiều hơn, sự tách rời mối liên hệ mẹ-con có thể ít cực đoan hơn, họ phỏng đoán. 

Aviva Zamir đã dùng nhiều năm để nghiên cứu vấn đề bình đẳng giới ở kibbutz. Trong cuốn sách Mẹ và Con Gái, bà đã trích dẫn được sự đồng ý một số luận điểm của Nava, một nữ thành viên kibbutz. Nava cho rằng khái niệm bình đẳng nguyên thủy được thể hiện bằng các công việc đồng nhất – có nghĩa là nữ giới cũng làm công việc như nam giới. Điều đó không kéo dài lâu và đằng nào đó cũng là một khái niệm sai lầm. Theo Nava, sự bình đẳng thực sự là “bình đẳng trong phạm vi sự đa dạng, một quyền bình đẳng để tự thực hiện trong phạm vi khuôn khổ bình đẳng tập thể của kibbutz”. Nava hài lòng rằng giáo dục kibbutz hiện nay được hướng tới “bình đẳng giới tính và tôn trọng lẫn nhau”. Nhưng bà cũng cho rằng “con đường để thay đổi các khái niệm cơ bản vẫn còn dài. Nếu nguyên lý của kibbutz là “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” thì chúng ta sẽ phải tìm ra nhu cầu thật sự là gì – cả nhu cầu tự nhiên cũng như nhu cầu do xã hội sinh ra.

Mặc dù Zamir đã chỉ ra rằng có rất ít các vị trí kinh tế và điều hành trung tâm của kibbutz do phụ nữ nắm giữ, ngay cả cho đến nay, khái niệm của Nava về bình đẳng có thể cho thấy kibbutz đang đến gần hơn với cái mà bà gọi là “sự bình đẳng về giới tính”, nếu không nói là sự bình đẳng.

Tuy vậy, sự đột phá – nếu như đó là sự đột phá – diễn ra quá muộn. Các lãnh đạo nam giới của phong trào kibbutz có thể có ý đồ tốt nhưng họ đi quá xa và quá nhanh, cố gắng đạt quá nhiều mục tiêu. Họ đưa ra tầm nhìn quá cao và không tiếp nhận các cảm giác nhân bản. Trong khi tiến hành cách mạng, họ đã quá vội vã quyết định điều gì đó tốt đối với người khác. Trên hết, họ đã tiếp tục thể hiện sự thiếu nhạy cảm đối với cảm xúc của các nữ đồng chí trong nhiều năm. 

Do vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi các nhà giáo dục (đa số là phụ nữ) hầu như không truyền tải được thông điệp cho thấy cuộc sống cộng đồng vượt trội các lối sống khác. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi khủng hoảng xuất hiện, phụ nữ của kibbutz đã khóc ít hơn nam giới về cuộc khủng hoảng sinh tồn của xã hội, cho thấy những nhu cầu không được đáp ứng của họ. Không chỉ có một người cố vấn cho kibbutz về quá trình thay đổi báo cáo rằng phụ nữ “cởi mở hơn nam giới” đối với sự thay đổi. Phản ứng này cũng không có gì đáng ngạc nhiên.

Do được nuôi dưỡng trong các nhóm bình đẳng, được khuyến khích các hoạt động hợp tác, được thúc giục tuân thủ nhóm và giúp đỡ các thành viên yếu đuối, được dạy cách làm việc và chịu trách nhiệm, trẻ em kibbutz nói chung là các công dân chăm chỉ, có tổ chức, có trách nhiệm và có tính xây dựng. Nhưng chúng không thấm nhuần các lý tưởng của cha mẹ. Ngược lại kinh nghiệm với đời sống nhóm đã khiến chúng quay lưng lại với nhóm và khuyến khích chúng theo đuổi các giá trị cá nhân. Chúng cảm thấy bình đẳng và hợp tác là nhàm chán; chúng thích thú hơn với thành tích cá nhân.

Mặc dù có quan điểm nhân bản về con người song người được kibbutz giáo dục có khuynh hướng hoài nghi về chúng. Trong khi họ không khát khao tạo ra một xã hội chạy đua vật chất thì họ thường xuyên phủ nhận quan niệm mọi thành viên trong xã hội có thể - như họ đã nói – “là một thế giới riêng”. Họ muốn có thêm khuôn khổ cho sáng kiến cá nhân và phần thưởng lớn hơn cho điều đó. Họ khinh bỉ “phức cảm metapelet”, sự phụ thuộc quá mức của một cá nhân vào nhóm hay cộng đồng. Họ cũng rất khó tính đối với “kẻ ăn bám”, những thành viên không chịu cố gắng hết sức.

Rất khó để chỉ ra lý do thất bại trong việc truyền tải các giá trị của kibbutz cho thế hệ trẻ, điều đó không thể chỉ giải thích bằng – hay thậm chí chỉ bằng – sự thiếu sót đã được mô tại chương này. Một sự phụ thuộc thái quá vào lý thuyết, thiếu tính nhân bản, ngạo mạn, biệt lệ, áp bức cá nhân cũng như sự thất bại trong việc mô tả những nhu cầu thực của nữ giới trong kibbutz, tất cả đều đã được ghi nhận và phê phán. Nhưng dường như hệ thống giáo dục kibbutz có thể sẽ thất bại khi so sánh với tham vọng của nó, ngay cả khi không có những sai lầm đã nêu. 

Trên hết, kibbutz quá yếu để chống lại môi trường mà nó tồn tại trong đó. Ảnh hưởng của xã hội bên ngoài kibbutz, tác động tới cuộc sống của kibbutz thông qua các hoạt động kinh tế, tiếp xúc xã hội, sách, báo, radio, truyền hình và điện ảnh là quá mạnh. Một mặt, trẻ em kibbutz đã thực hiện cuộc nổi loạn chống lại cha mẹ; mặt khác, chỉ với một số ngoại lệ ít ỏi, chúng thích nghi với những giá trị tầm thường của xã hội Israel, vốn bị văn hóa và giá trị của Châu Âu và Bắc Mỹ thống trị.

“Giáo dục không phải là phương thuốc bách bệnh như chúng ta vẫn nghĩ”, Aharon Yadlin thừa nhận buồn bã. “Năng lực của nó có giới hạn. Bất kể giáo dục mà chúng nhận được ra sao, mọi thế hệ trẻ đều sẽ nổi loạn theo cách của chúng”. “Con người mới đã không xuất hiện”, Amir Helman nói với nụ cười. “Con người là kẻ ích kỷ. Có lẽ chúng ta cần thêm nhiều triệu năm nữa để tạo ra các gien di truyền mới”.

Chuyến viếng thăm 5 kibbutz của chúng ta, việc mổ xẻ cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra vào năm 1985, cũng như sự đánh giá các phương diện của giáo dục kibbutz cho thấy không phải tất cả công việc nội bộ của kibbutz đều tốt. Đây là một câu hỏi nghiêm túc về kết luận cơ bản và một số sự thay đổi lớn đã diễn ra. Đồng thời, như chúng ta đã thấy, không phải là lần đầu tiên những sự phát triển đó xuất hiện. Kibbutz đã trải qua sự thay đổi trong suốt 9 thập kỷ tồn tại. Liệu sự thay đổi hiện tại trong kibbutz có tương đồng với những sự thích nghi đã diễn ra trong 90 năm qua? Hay chúng ta đang chứng kiến điều gì đó lớn hơn, có nghĩa là sự kết thúc của kibbutz mà chúng ta đã biết?

Để tiếp tục tìm kiếm câu trả lời, chúng ta sẽ tới thăm 5 khu định cư khác và cố gắng phác thảo hình dạng tương lai – hay diện mạo – của từng kibbutz.