Showing posts with label Luật pháp. Show all posts
Showing posts with label Luật pháp. Show all posts

Sunday, April 16, 2017

Sự trỗi dậy của miền Trung và hệ quả

Bài viết ngắn này được rút ra từ những chuyến đi qua nhiều tỉnh của tôi và nhằm mục đích trình bày mâu thuẫn giai cấp ở Việt Nam liên quan đến vùng miền dưới dạng phổ thông nhất cho đại đa số người đọc. 

Sự bất ngờ từ khu vực miền Trung

Thời gian vừa qua tôi đi đến các tỉnh của Việt Nam khá nhiều để khảo chất lượng dịch vụ tại các chi nhánh của một doanh nghiệp lớn. Doanh nghiệp này cung cấp loại sản phẩm rất đắt tiền, khách hàng của họ là hầu hết là những người giàu và có thu nhập cao ở Việt Nam. Điều này có nghĩa là yêu cầu về chất lượng dịch vụ cũng rất cao

Nhiều người khi đối mặt với câu hỏi “Chất lượng dịch vụ ở đâu tốt nhất?” hầu như đều cho rằng chất lượng dịch vụ ở miền Nam là tốt nhất, sau đó đến miền Bắc và không ai cho rằng chất lượng dịch vụ ở miền Trung là tốt nhất cả, đặc biệt là chất lượng của những dịch vụ cao cấp. Đa số người miền trung mà tôi gặp cũng nghĩ như vậy.

Nhưng kết quả khảo sát đã làm tôi thực sự bất ngờ, chất lượng dịch vụ của khu vực miền Trung là tốt nhất, vượt trội hẳn so với miền Nam và miền Bắc. Người lao động và các chi nhánh miền Trung tuân thủ rất tốt các quy định về chất lượng dịch vụ.

Sự kiện này có ý nghĩa rất lớn đối với môi trường kinh doanh ở miền Trung, điều đó có nghĩa là khách hàng sẽ hài lòng hơn, mua nhiều hàng hóa hơn và doanh nghiệp ở miền Trung sẽ nhận được các khoản đầu tư lớn hơn. Điều này cũng cho thấy sự trỗi dậy mạnh mẽ của người lao động và doanh nghiệp miền Trung, họ đang trên đà cất cánh.

Mâu thuẫn trong kinh tế thị trường

Chủ nghĩa tư bản hay kinh tế thị trường tồn tại dựa trên sự cạnh tranh không ngừng, giữa các doanh nghiệp, giữa các địa phương, cũng như giữa nông thôn và thành thị. Khi khu vực miền Trung vươn lên, trở nên mạnh mẽ và độc lập hơn về kinh tế thì tất yếu vị thế thống trị từ trước tới nay của các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội và Hồ Chí Minh sẽ bị ảnh hưởng. Thứ nhất, các nguồn đầu tư lớn hơn sẽ đổ vào miền Trung thay vì các trung tâm kinh tế lớn. Thứ hai, các doanh nghiệp miền Trung sẽ giành được thị phần lớn hơn từ các doanh nghiệp ở hai đầu đất nước.

Liệu các doanh nghiệp và các địa phương ở hai đầu đất nước sẽ đứng yên nhìn điều đó? Không, họ sẽ tìm mọi các chống lại điều đó. Ngoài việc gia tăng đầu tư thì họ cũng sẽ tìm cách chống lại sự tăng trưởng của miền Trung bằng những hàng rào kỹ thuật. Ví dụ, vận động chính quyền trung ương áp đặt các quy tắc nghiêm ngặt hơn về bảo vệ môi trường cho khu vực miền Trung, điều này sẽ khiến các việc đầu tư vào công nghiệp ở miền Trung có chi phí cao hơn ở các khu vực khác, tức là giảm bớt sự hấp dẫn của khu vực miền Trung.

Từ kinh tế đến chính trị

Đó là mâu thuẫn tất yếu của kinh tế thị trường và rất nhiều thế lực khác nhau sẽ sống ký sinh vào mâu thuẫn đó. Ví dụ, báo chí quảng cáo cho các doanh nghiệp ở miền Bắc và miền Nam sẽ rất sốt sắng khi đưa tin tức về những rối loạn của môi trường kinh doanh hay sự tham nhũng của quan chức chính quyền các tỉnh miền Trung. Hãy lưu ý, sự định hướng là rõ ràng ngay cả khi báo chí đưa tin trung thực và chính xác, chưa cần đến việc họ xuyên tạc hay bóp méo sự việc. Trên chính trường, người ta thường xuyên bắt gặp hơn những vận động chính trị liên quan đến của miền Trung, sẽ không ai thấy làm lạ khi các đại biểu Quốc Hội ở khu vực phía Bắc hay phía Nam bắt đầu chú ý và đòi làm rõ sai lầm tại các tỉnh miền Trung. Ngay cả khi việc này là minh bạch và đúng đắn thì nó cũng làm phân tán nguồn lực và khiến cho lãnh đạo các tỉnh miền Trung phải bảo thủ hơn trong các quyết định của mình, nhất là các quyết định liên quan đến môi trường kinh doanh.

Việt Nam đang trong tiến trình của một nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chấp nhận kinh tế thị trường tức là chấp nhận những mâu thuẫn của kinh tế thị trường và cần phải kiểm soát được những mâu thuẫn ấy. Sự vận động và phát triển của quốc gia cũng sẽ gắn liền với việc kiểm soát những mâu thuẫn đó.

Các thế lực phản động tại Việt Nam hiện nay cũng tồn tại bám vào những mâu thuẫn của cơ thế thị trường cũng như khoảng trống do sự vận động mà các mâu thuẫn đó tạo ra. Ví dụ, khi vấn đề môi trường ở miền Trung đang nóng bỏng thì không có lãnh đạo nào dại dột đi xử lý mạnh tay một nhúm biểu tình về môi trường, mặc dù biết rằng đó là những kẻ phá hoại mượn danh bảo vệ môi trường. Lý do rất đơn giản: anh tự đưa mình vào thế bất lợi khi làm việc đó, anh sẽ khiến công chúng tin rằng anh bảo kê cho sự phá hoại môi trường. Chính việc sống ký sinh này khiến cho một số người ngộ nhận và cố tình ngộ nhận rằng các nhóm phản động là do chính quyền nuôi dưỡng. Sự ngộ nhận này khiến cho họ trở thành một phần của thế lực phản động, họ luôn cho rằng muốn chống lại những kẻ phản động thì trước hết phải chống lại chính quyền nói chung. Đó là một lập luận vô cùng kỳ quặc và chống lại giai cấp vô sản vì chính quyền là công cụ duy nhất để giai cấp vô sản thực hiện cuộc cách mạnh của mình. Hãy lưu ý rằng mục đích của các thế lực phản động luôn là lợi dụng các mâu thuẫn sẵn có để lật đổ chế độ hiện tại, vậy thì những người kia khác gì với chúng?


Kết luận

Miền Trung đang vươn lên mạnh mẽ và các lãnh đạo ở đây cũng sẽ phải học cách chung sống với những cạnh tranh gay gắt hơn cả về kinh tế lẫn chính trị. Miền đất sắt đá nhất trong cách mạng giải phóng dân tộc giờ đây sẽ phải học cách đương đầu với những mâu thuẫn đòi hỏi phải xử lý bằng nghệ thuật ứng xử chính trị tinh tế hơn là cách làm dân vận truyền thống. Điều này có lẽ là một cơ hội hơn là thách thức.

Wednesday, August 24, 2016

Bàn về bản chất của tham nhũng

Từ khi nhà nước hình thành thì một bộ phận dân cư đã tách ra, chuyên làm công việc hành chính. Những người này ban đầu đều là nô lệ hoặc gia nhân của vua chúa, từ “civil servant” (công chức) bắt nguồn từ hiện thực đó. Trước kia, vua chúa đều dùng nô lệ hoặc gia nhân của họ để thực thi các chức năng hành chính thay cho họ mà không dùng quý tộc hay người tự do vì những người đó độc lập và là đối tượng thường có xung đột quyền lợi với vua chúa.

Do vậy, công chức mang trong mình một mâu thuẫn sâu sắc. Một mặt, họ là nô lệ hay gia nhân, tức là mang địa vị thấp kém hơn thường dân hay quý tộc, nói theo ngôn ngữ hiện đại thì họ là đầy tớ của nhân dân. Mặt khác, họ đảm nhiệm chức năng hành chính, được vua chúa trao quyền lực, do vậy họ có quyền lực rất lớn đối với cả thường dân lẫn quý tộc. Địa vị thấp kém khiến họ không được coi trọng song quyền lực của họ lại bao trùm lợi ích của dân thường, điều này tạo ra thái độ thù ghét công chức của thường dân.

Tuy công chức đảm nhiệm chức năng hành chính nhưng những chức năng này hình thành từ việc được vua chúa trao quyền, do vậy vua chúa cũng đặt ra các cơ chế để kiểm soát quyền lực được trao cho công chức. Công chức chịu trách nhiệm về quyền lực trước vua chúa, người đứng đầu nhà nước, cũng như các nguyên tắc nhà nước đã được xác định chứ không chịu trách nhiệm về quyền lực đó trước dân thường. Dân thường không trực tiếp trao quyền lực cho công chức. Điều đó cũng đúng với nhà nước hiện đại, cho dù là nhiều vị trí công chức cấp cao cũng được bầu cử như chức vụ chính trị thì việc đó cũng không thay đổi nhiều. Điều này tạo ra cho công chức một sự độc lập tương đối trong việc thực thi pháp luật đối với dân thường. Sự độc lập đó là cơ sở cho sự quan liêu cũng như sự thân thiện đối với dân thường của công chức tồn tại. Ví dụ, công chức cần phải tuân thủ một thủ tục hành chính xác định thì họ sẽ phải thực thi đúng như vậy, bất kể là điều đó có khả thi đối với dân thường hay không. Ngược lại, nếu thủ tục hành chính đó chưa bao quát hết các lợi ích của thường dân thì họ cũng có thể lựa chọn những điều có lợi cho thường dân mà không bị coi là vi phạm luật.

Sự độc lập của giới công chức đối với dân thường là cơ sở để duy trì quyền lực nhà nước và do đó cũng tạo ra những khoảng trống để giới công chức làm giàu và có mức sống khá hơn người lao động nói chung. Đây cũng chính là cơ sở để nạn tham nhũng của công chức tồn tại. Phạm vi và nội dung của tham nhũng nói chung rộng hơn khái niệm ăn cắp của công hạn hẹp theo cách nhìn thông thường, nó bao gồm các hành vi như tham ô, hối lộ, hối lộ chính trị, mua bán chức quyền hay bổ nhiệm người thân… và nhìn chung không phải khi nào cũng là ăn cắp của công hoặc làm thiệt hại đến tài sản công nhằm mục đích tư lợi. Trong chế độ tư hữu thì ăn cắp bị coi là hành vi tội ác xấu xa nhưng tội ác xấu xa đó không mâu thuẫn với chế độ tư hữu, ngược lại nó lại đòi hỏi rằng chế độ tư hữu phải tồn tại, hành vi ăn cắp chỉ là thay đổi chủ sở hữu nhưng không phủ nhận hay tạo ra chế độ tư hữu. Quan điểm coi tham nhũng chỉ là hành vi ăn cắp của công đơn thuần chính là thể hiện lập trường tư sản hạn hẹp, thay vì thực sự đặt hành vi tham nhũng vào bối cảnh lịch sử cụ thể và giải quyết nó thì quan điểm tư sản hẹp hòi lại quy kết nó thành một tội lỗi của chế độ tư hữu, thực chất là ngầm thỏa hiệp với hành vi đó. Sự thỏa hiệp đó thể hiện thành quan điểm phổ thông đầy nực cười: Quan chức nào cũng ăn nhưng ở Tây thì quan chức ăn ít hơn ở ta hoặc ở Tây quan chức cũng ăn nhưng làm được việc còn quan chức ở ta ăn nhưng chỉ phá. 

Theo quan điểm nêu trên thì tham nhũng là hành vi ăn cắp của công, hay trấn lột bằng quyền lực và do đó làm nghèo đất nước. Hành vi ăn cắp không làm của cải biến mất hay tăng thêm, nó chỉ làm số của cải đó đổi chủ, số lượng của cải vẫn như vậy. Công chức ăn cắp của công sẽ làm nhà nước nghèo đi nhưng tổng số tài sản quốc gia thì vẫn không thay đổi vì của cải chỉ chuyển từ túi nhà nước sang túi tư nhân. Một phiên bản khác của lập luận này là việc ăn hối lộ (giống như phân phối thu nhập) sẽ cản trở doanh nghiệp phát triển vì làm tăng chi phí hoặc làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Song trong nền kinh tế thị trường thì lợi nhuận là thứ được tạo ra trước và sẽ quyết định mức độ phân phối lợi nhuận, người ta không thể phân phối một thứ chưa được tạo ra. Trên thực tế, tham nhũng giống như một rào cản lợi nhuận khiến cho những doanh nghiệp có lợi nhuận thấp không thể gia nhập thị trường, như vậy là đảm bảo sự độc quyền cho những doanh nghiệp có mức lợi nhuận cao. Tham nhũng do đó giả định là hoạt động đầu tư tư nhân mang lại lợi nhuận cao và lợi nhuận cao đó nuôi dưỡng tham nhũng. Quan điểm coi tham nhũng là ăn chặn hay trấn lột bằng quyền lực lại vô hình chung khẳng định rằng tham nhũng sẽ nuôi dưỡng những nguồn tạo ra lợi nhuận cao. Từ đó, quan điểm này phải bố sung thêm lập luận về sự không công bằng hoặc thiếu hiệu quả, cho rằng việc tham nhũng trong cấu kết với doanh nghiệp sẽ dẫn đến các dịch vụ công hay cơ sở hạ tầng kém chất lượng hoặc sự bất bình đẳng về thu nhập. Câu chuyện được kể đơn giản là quan chức ăn hối lộ của doanh nghiệp và doanh nghiệp ăn bớt tiền xây dựng công trình công cộng khiến công trình này chóng hư hỏng. Việc này có thể diễn ra một cách đơn lẻ nhưng nếu nó diễn ra phổ biến thì chính công chức nhà nước và doanh nghiệp gặp rắc rối lớn, họ sẽ phải tốn tiền sửa chữa các công trình đó vì chính công trình công cộng là một phần trong quyền lực của giới công chức. 

Nạn tham nhũng trong bộ máy nhà nước không phải là đặc trưng của chế độ đa đảng hay độc đảng, cũng như bất kỳ hình thái chính trị nào, chừng nào mà vẫn còn một bộ phận dân cư chỉ chuyên làm công việc nhà nước. Lập luận tư sản phổ biến cho rằng nếu có nhiều đảng phái giám sát lẫn nhau thì công chức nhà nước sẽ phải cẩn trọng, không dám tham nhũng. Luận điểm này ngầm giả định rằng các đảng phải sẽ cạnh tranh nhau để giành quyền lực do đó sẽ kiểm soát công chức chặt chẽ hơn và sẽ giảm được tham nhũng. Song điều đó không có nghĩa là sự kiểm soát ấy sẽ phù hợp với lợi ích của toàn bộ dân chúng, trên thực tế nó không bao giờ phù hợp vì trong một xã hội có các giai cấp mâu thuẫn nhau thì những điều kiện để hình thành nguyên tắc quản lý nhà nước bao giờ cũng là lợi ích của giai cấp thống trị và do vậy nó luôn trái ngược với lợi ích của giai cấp bị thống trị. Cuối thời kỳ trung cổ, bất chấp những nỗ lực kiểm soát chặt chẽ của giới quý tộc nắm chính quyền, giới công chức đã bị giai cấp tư sản đang lên mua chuộc. Điều này một phần ảnh hưởng trở lại giới quý tộc, khi thất bại trong việc kiểm soát bằng luật pháp hay vũ lực thì họ cũng cố gắng dùng tiền để gây ảnh hưởng với giới công chức. Do vậy vào thời kỳ bình minh của chế độ tư bản, người ta được chứng kiến một thời kỳ mà giới công chức tham nhũng kinh khủng, trong khi các đảng phái mải mê đấu đá tranh giành quyền lực ở nghị viện. Họ thường xuyên lên án nhau về tham nhũng nhưng cũng không hề đỏ mặt khi phải dùng tiền để mua chuộc các công chức cũng như các nghị sĩ đảng phái khác. Chế độ đa nguyên đa đảng đã bắt đầu bằng sự tham nhũng kinh hoàng như vậy, nó chỉ giảm bớt đi khi mà giai cấp quý tộc hoàn toàn thất bại và biến mất khỏi lịch sử. 

Lập luận phổ biến thứ hai về tham nhũng là tiền lương thấp nên công chức buộc phải tham nhũng để sống. Lập luận này giả định rằng nếu có tiền lương đủ cao thì công chức sẽ không có động cơ tham nhũng hoặc nói theo kiểu hiện đại hơn thì tiền lương cao sẽ khiến cho chi phí mất việc của công chức cao hơn lợi ích thu được từ tham nhũng. Lập luận này là một câu chuyện khôi hài khó tin. Bạn ra đường gặp một kẻ trấn lột và trả tiền cho hắn để khỏi bị trấn lột? Tức là đằng nào bạn cũng sẽ bị trấn lột, hoặc là bí mật hoặc là công khai. Lập luận này bắt nguồn từ thực tế là tại một số quốc gia như Pháp và Singapore thì một bộ phận của giai cấp tư sản trực tiếp nắm lấy các vị trí hành chính và chính trị, thu nhập của họ được phân chia thông qua hệ thống lương bổng thay vì dựa vào lợi nhuận từ kinh doanh của bản thân, do vậy các hành vi tham nhũng để tư lợi cá nhân được hạn chế. Song tại chính những quốc gia đó thì nạn mua quan bán chức và bổ nhiệm người thân quen vào các chức vụ béo bở lại không có cách nào giải quyết được. Quan điểm này lảng tránh nguồn gốc của sự tham nhũng là quyền lực độc lập tương đối của công chức, do vậy thực chất quan điểm này bảo vệ cho tầng lớp công chức, gia tăng các đặc quyền đặc lợi của họ. 

Một phiên bản phụ của lập luận tiền lương là lập luận về nạn mua quan bán chức quyền. Quan điểm này cho rằng do nạn mua quan bán chức hoành hành nên những người mua chức quyền phải tham ô hay ăn hối lộ để kiếm tiền bù đắp lại chi phí mua chức quyền. Dưới chế độ phong kiến ở phương Đông, các gia đình thường dân giàu có thường hay mua những chức quan nhỏ để tránh phải làm các công việc phu phen tạp dịch của thường dân. Một ví dụ khác trong thời cận đại là vua Pháp bán các chức quan cho giới tư sản để lấy tiền chi tiêu cho chiến tranh với giới quý tộc. Song điều đó không có nghĩa là những người đó sẽ kiếm được tiền từ chức vụ của mình, ngược lại chức vụ đó chỉ như là sự bảo đảm cho nguồn thu nhập sẵn có của họ. Việc mua bán chức quyền thể hiện rằng những đặc quyền của giới công chức không còn có ích gì để giúp cho cuộc sống của họ khá hơn nhưng những đặc quyền đó lại cần thiết đối với những người giàu có mới nổi và có địa vị xã hội thấp kém. Lập luận này cũng đảo ngược quan hệ nhân quả giữa việc mua bán chức quyền và tham nhũng. Sở dĩ có mua bán chức quyền là vì tham nhũng đã tồn tại và hứa hẹn sẽ đem lại lợi nhuận, tức tham nhũng quyết định việc mua bán chức quyền chứ không phải ngược lại. 

Lập luận phổ biến thứ ba là vô đạo đức dẫn đến tham nhũng. Người ta cho rằng tham nhũng là do công chức vô đạo đức. Đạo đức là một lĩnh vực đầy mâu thuẫn. Một người cha tốt, nuôi dạy con cái chu đáo, chăm lo cha mẹ tử tế, có tình nghĩa với anh em bạn bè không có nghĩa là ông ta không tham nhũng. Một công chức thanh liêm có thể không nhận hối lộ nhưng sẽ lại luôn sẵn sàng đưa hối lộ để làm được việc. Như đã nói ở trên về việc ăn cắp của công, việc ăn cắp là một hành vi vô đạo đức đối với chế độ tư hữu song nó giả định là chế độ tư hữu phải tồn tại, do vậy đạo đức luôn là đạo đức của một chế độ kinh tế nhất định chứ không phải là phổ quát, khi một chế độ kinh tế khác nảy sinh thì tất yếu sẽ nảy sinh những đạo đức phù hợp với nó. Dưới chế độ phong kiến, khi mà quyền lợi của giai cấp quý tộc là duy trì các đảm phụ phong kiến đối nông dân thì đạo đức là phải duy trì những đảm phụ đó một cách ôn hòa, nhưng khi chế độ tư bản xuất hiện, đồng tiền là thước đo của mọi giá trị thì đạo đức của giai cấp quý tộc buộc họ phải tìm mọi cách bóp nặn nông dân đến đồng xu cuối cùng. Sự vô đạo đức không phá hoại chế độ kinh tế sinh ra nó mà ngược lại là một phần của chế độ đó. Sự độc lập tương đối của tầng lớp công chức khiến họ có thể ngả theo những giai cấp mạnh hơn trong xã hội và do đó có thể áp dụng các tiêu chuẩn về đạo đức khác nhau cho cùng một hành vi. Một phiên bản của lập luận về đạo đức là công tác cán bộ. Lập luận này cho rằng tham nhũng là do công tác tuyển chọn công chức yếu kém, tức là để cho những người vô đạo đức lọt vào bộ máy công chức. 

Vấn đề tham nhũng bao giờ cũng được giới công chức quan tâm hàng đầu vì nó gắn liền với sự độc lập của họ. Thông thường dân chúng theo dõi vấn đề này vì mang sẵn thái độ không mấy thiện cảm với giới công chức hơn là về những hệ quả của nó. Nhà nước Việt Nam vốn là nhà nước của giai cấp lao động, giai cấp tư sản không được tham gia nắm quyền chính trị, song giai cấp tư sản đang dần dần mạnh lên về kinh tế. Trước tình hình đó tầng lớp công chức bắt đầu lung lay, một phần đã ngả theo giai cấp tư sản. Sự chia rẽ của tầng lớp công chức đến từ nhiều nguồn khác nhau. Việc bắt tay với giai cấp tư sản để kinh doanh đã giúp một bộ phận công chức, thường là cấp cao, trở nên giàu có và trở thành tư sản. Chế độ thi tuyển công chức cũng mở đường cho con cái của các gia đình giàu có (với đặc quyền tiếp cận giáo dục nhờ vào tiền bạc) trở thành công chức nhà nước. Mâu thuẫn giữa tầng lớp công chức cũ xuất thân từ các tầng lớp lao động và tầng lớp công chức mới dần dần trở nên gay gắt. Một trong những biểu hiện của mâu thuẫn đó chính là vấn đề tham nhũng.

Thành phần cực đoan nhất trong vấn đề tham nhũng thường là tầng lớp công chức bậc trung và thấp có xuất thân tiểu tư sản hoặc trí thức không mấy giàu có. Địa vị xã hội của những người này vốn chủ yếu vào các đặc quyền của giới công chức, song các đặc quyền này dần dần mất giá trị trước sự biến đổi của chế độ kinh tế, họ cũng không thể cạnh tranh được trong việc thăng tiến với tầng lớp công chức mới có xuất thân từ các gia đình giàu có (có mối quan hệ chặt chẽ với doanh nghiệp và được hưởng giáo dục tốt hơn). Sự giàu có và quyền lực của bộ phận công chức mới cũng như sự suy yếu của bản thân được gán cho tham nhũng và cuộc chiến chống lại tham nhũng trở thành biện pháp cốt yếu để củng cố địa vị công chức của họ. Việc chống tham nhũng của họ không thể không dựa trên đạo đức và các giá trị truyền thống. Ngược lại, đối với bộ phận công chức mới thì các tiêu chuẩn đạo đức của họ hoàn toàn khác, họ chống lại những thứ đặc quyền đặc lợi nhỏ nhặt, những thứ thủ tục phân tán chồng chất cản trở việc kinh doanh và tìm cách mở cửa những vị trí công chức cấp cao cho bản thân.

Thursday, January 28, 2016

Hối lộ chính trị ở Nhật Bản - Nhật Bản "Mới"

Các chương đã được dịch của cuốn sách:







6. Nhật Bản “Mới” 



Hối Lộ Chính Trị ở Nhật Bản - Chương 6: Nhật Bản "Mới"  


Vào ngày 28/4/1952, Nhật Bản trở thành quốc gia có chủ quyền dưới sự thống trị của các lực lượng chính trị và kinh doanh bảo thủ. Một đặc điểm nổi bật của sự kết hợp giữa chính trị và kinh doanh này là thường xuyên xảy ra các vụ án hối lộ chính trị. Ví dụ, trong giai đoạn 1955 – 1993, các tờ báo lớn đưa tin trung bình hơn một vụ bê bối chính trị mỗi năm. [1]

Vào năm 1952, các doanh nhân quan trọng có truyền thống hỗ trợ đảng cầm quyền, đã không ngần ngại điều chỉnh nguồn tài trợ chính trị; họ muốn giảm chi phí đóng góp chính trị và ngăn chặn các vụ bê bối hối lộ nhạy cảm, vốn thu hút sự chú ý của công chúng vào các hành động phi pháp và bất lương. Do vậy, các doanh nhân chủ chốt thúc giục các chính khách bảo thủ đang đối đầu nhau ổn định chính giới bằng cách thành lập một đảng thống nhất. Bị hấp dẫn bởi viễn cảnh sẽ thu hút được các khoản quyên góp chính trị lớn và lo ngại phong trào thống nhất cả các chính khách xã hội chủ nghĩa, các đảng Tự Do và Dân Chủ Nhật Bản đã thống nhất thành đảng Dân Chủ Tự Do vào tháng 11/1955. Đây là sự khởi đầu cho “hệ thống 1955” tồn tại lâu dài. Vào đầu năm đó, một Hội Đồng Tái Thiết Kinh Tế, do giới kinh doanh thiết lập, đã hứa hẹn sẽ cung cấp các quỹ bầu cử cho các chính khách bảo thủ. [2] Giữa những vận động chính trị dẫn đến đảng bảo thủ mới, điều mà giới kinh doanh lo ngại đã xảy ra khi nội các thứ 5 của Yoshida (21/5/1953 – 10/12/1954) phải gánh chịu một vụ bê bối chính trị lớn khiến công chúng nhớ đến vụ bê bối của công ty Showa Electric và sự sụp đổ của nội các Ashida. 

Vụ bê bối đóng tàu, thu hút được sự chú ý của công chúng vào mùa xuân năm 1954, bắt nguồn từ một vụ kiện giữa ba doanh nhân tại Tòa án Quận Tokyo vào tháng 8/1953. Công tố viên điều tra vụ án đã phát hiện ra hai tín phiếu thương mại rất lớn (mỗi cái lên đến 10 triệu yen và mang tên công ty Tàu Thủy Yamashita) mà người hưởng là Inomata Osamu. Hơn nữa, họ còn khám phá ra rằng Inomata đã nhận được khoản vay 185 triệu yen từ công ty Tàu Thủy Yamashita. Sổ kế toán của công ty không ghi chép gì về cả tín phiếu cũng như khoản vay. Họ cũng sớm phát hiện ra rằng Inomata đã vay 33,5 triệu yen từ công ty Vận Tải Biển Nhật Bản và 90 triệu yen từ công ty Vận Tải Nhật Bản. Công tố viên xác định được ít nhất 100 triệu yen đã được một hãng đóng tàu giảm trừ cho công ty Tàu Thủy Yamashita và khoản tiền đó được dùng để hối lộ các chính khách cũng như viên chức. [3]

Sau khi sự bùng nổ kinh tế nhờ chiến tranh Triều Tiên xẹp đi, các công ty vận tải và đóng tàu đã thúc ép chính phủ phải hỗ trợ tài chính, viện cớ chi phí lãi suất ngân hàng và các khoản thuế quá cao. Các đại diện của những công ty này phân phát tiền cho các viên chức và chính khách chủ chốt để nhận được các khoản vay ưu đãi. Tiền dùng cho hối lộ đến từ các khoản lại quả bí mật của các công ty đóng tàu cho công ty vận tải. Thông thường, công ty đóng tàu sẽ lại quả khoảng 3 – 5% giá tàu cho công ty đặt hàng. Việc bôi trơn các viên chức chính phủ có thẩm quyền sẽ được bù đắp bằng việc thông qua Luật Trợ Cấp Lãi Suất và Bảo Hiểm Chống Lại Những Tổn Thất Của Ngành Đóng Tàu Biển vào tháng 1/1953. Điều khoản quan trọng của luật này là cho phép vay tiền ngân hàng với lãi suất 7,5% (lãi suất ngân hàng thông thường là 11%), chính phủ cam kết sẽ thanh toán 3,5% chênh lệch cho ngân hàng. Các công ty vận tải muốn sự hỗ trợ của chính phủ được mở rộng, do vậy đạo luật được sửa đổi vào tháng 8/1953. Theo luật mới, chính phủ cam kết sẽ trả tới 30% khoản nợ của các công ty vận tải. Ước tính là đã có khoảng 50 triệu yen được phân phát cho các chính khách và viên chức trong quá trình vận động sửa đổi luật. [4]

Trong cuộc điều tra Inomata Osamu, công tố viên của Tòa Án Quận Tokyo đã vô tình tóm được người môi giới liên quan đến khoản lại quả và mạng lưới hối lộ. Sử dụng bằng chứng thu thập được từ hồ sơ của Inomata, các công tố viên bắt giữ Yokota Aizaburò, chủ tịch của công ty Tàu Thủy Yamashita và hai viên chức khác. Thêm nhiều bằng chứng bị thu giữ, trong đó có ghi chép của Yokota, liệt kê hơn 30 chính khách và viên chức nổi tiếng. Yokota không chỉ ghi lại ngày tháng và tên tuổi mà còn ghi lại chi tiết về mục đích của mỗi cuộc gặp. Dĩ nhiên, sổ ghi chép là một danh sách những “khoản quyên góp” (tức là hối lộ) cho việc thông qua luật tháng 1/1953. Trong số những người được nêu tên có phó thủ tướng Ogata Taketora; tổng thư ký đảng Tự Do Satò Eisaku; Ikeda Hayato, chủ tịch của Hội Đồng Nghiên Cứu Chính Sách Đối Nội của Đảng (đảng Tự Do); và bộ trưởng Bộ Vận Tải Ishii Mitsujirò. Các công tố viên ước tính số lượng bôi trơn được bơm vào cỗ máy chính trị khoảng 100 triệu yen; tất cả các công ty vận tải lớn đều đóng góp. Trong số đó, đảng Tự Do nhận được phần lớn nhất (30,5 triệu yen) để sử dụng trong tổng tuyển cử tháng 4/1953. Satò nhận 20 triệu yen khác cho quỹ của đảng Tự Do và bản thân ông ta nhận được 2 triệu yen nữa. [5]

Trong cuộc điều tra này, công tố viên thẩm vấn hơn 150 người; trước khi vụ án kết thúc, nó đã trở thành vụ bê bối hối lộ chính trị lớn nhất cho đến nay. Yokota của công ty Tàu Thủy Yamashita và ba nhân viên khác đã bị cáo buộc đưa và nhận hối lộ. Chủ tịch và nhân viên của các công ty vận tải biển và đóng tàu khác cũng bị kết án. Trong số những người bị kết án nhận hối lộ có Tsuboi Genkò, trưởng Văn Phòng Bộ Vận Tải; Kuniyasu Seiichi, trưởng Ban Điều Phối Hàng Hải của bộ; và 15 nhân viên khác của bộ. Hạ nghị sĩ và phó tổng thư ký của đảng Tự Do Arita Jirò bị kết ản cả nhận và đưa hối lộ. Các hạ nghị sĩ của đảng Tự Do là Sekiya Katsutoshi và Okada Gorò cũng bị kết án. [6]

Trong cuộc điều tra, các công tố viên đã ghi nhận là cả Satò Eisaku và Ikeda Hayato đều nhận 2 triệu yen “quyên góp”. Khoản tiền đó không phải là hối lộ, Satò nói, ông ta lên án việc kế toán liên quan tới các khoản quyên góp chính trị cho đảng Tự Do không hợp lý. Hơn nữa, ông ta chỉ ra rằng ông ta không nhận được các lợi ích tài chính cá nhân nào. Các công tố viên bác bỏ sự bào chữa này và lập luận rằng tiền được đưa để tác động tới sự sửa đổi luật tháng 1/1953. Do đó, Satò đã vi phạm khoản 4 điều 197 của Luật Hình Sự. Trong vụ án của Ikeda, công tố viên đã chấp nhận lập luận rằng tiền là “quà tặng” tiễn chân trước chuyến đi tới Hoa Kỳ. Vào ngày 21/4/1954, tổng chưởng lý Satò Tòsuke yêu cầu bộ trưởng Bộ Tư Pháp Inukai Takeru (còn được gọi là Inukai Ken) xin phép Hạ Viện bắt giữ Satò. Dưới sức ép của thủ tướng Yoshida và phó thủ tướng Ogata, Inukai từ chối xin phép Hạ Viện, viện dẫn thẩm quyền của ông ta theo Điều 14 của Luật Công Tố (Luật số 61, 16/4/1947). Inukai từ chức vào ngay ngày hôm sau, sau khi thực hiện thẩm quyền chưa từng có tiền lệ. [7]

Tại sao Inukai lại tự sát chính trị để cứu Satò? Inukai nói với báo chí rằng vai trò của Satò đối với các dự luật ở Quốc Hội là rất quan trọng, do tình thế đặc biệt này nên việc bắt giữ có thể được trì hoãn tới khi kỳ họp kết thúc. Trên thực tế, Inukai nợ Yoshida một khoản nợ chính trị lớn và vì lý do đó đã sẵn sàng hy sinh. Vài năm trước, Yoshida đã hứa hẹn với Inukai, người không thuộc đảng Tự Do, một vị trí trong nội các; việc giữ lời hứa là rất khó bởi vì những thành viên quan trọng của đảng Tự Do đều không thích Inukai. Trong khi vấn đề này được xử lý, Inukai đi ra nước ngoài với sự tài trợ của những người ủng hộ tài chính của Yoshida. Cuối cùng, Inukai nhận vị trí ở bộ Tư Pháp vào tháng 10/1952 và do vậy mắc nợ Yoshida. [8]

Hành động của Inukai không chỉ khiến công chúng phẫn nộ mà còn làm mất tinh thần của các công tố viên Tokyo. Tinh thần đã được cải thiện khi bộ trưởng Bộ Tư Pháp Katò Ryògorò (22/4 – 19/6) lưu ý tổng chưởng lý Satò rằng sau sự giải tán Hạ Viện vào ngày 19/6 thì Satò Eisaku không còn quyền miễn tố nữa. Vào lúc đó, công tố viên cho rằng cáo buộc hối lộ đối với Satò sẽ không thể chứng minh được bởi vì sự trì hoãn đã buộc họ phải thả hơn 17 người, những người này sau đó sẽ bàn bạc với nhau về những gì họ đã nói với công tố viên. Tuy vậy, công tố viên cho rằng có bằng chứng cho thấy Satò vi phạm Luật Điều Chỉnh Quỹ Chính Trị, do đó họ truy tố ông ta. Việc bắt giữ Satò đã châm ngòi cho việc từ chức của bộ trưởng Katò; ông ta bị thay thế bởi cựu bộ trưởng Bộ Tư Pháp Ohara Naoshi. Khi Ohara cố gắng trấn an các công tố viên giận dữ, thủ tướng Yoshida đã thông báo rằng không có gì sai khi chính phủ can thiệp vào vụ bê bối đóng tàu: việc bộ trưởng Bộ Tư Pháp sử dụng thẩm quyền là khá chính xác. Hơn nữa, thủ tướng nói rằng việc kế toán không hoàn hảo của Satò là một điều bình thường; bắt giữ ông ta vì một cuốn sổ kế toán ghi chép thiếu rõ ràng về tiền nong là một hành động phá hoại chính trị đảng phái. [9]

Trong vụ bê bối hối lộ này, 71 doanh nhân và chính khách đã bị bắt giữ (34 người bị truy tố) và 34 viên chức Bộ Vận Tải bị bắt giữ (17 người bị truy tố). Đa số các con cá lớn đã lọt lưới pháp luật. Chỉ có các chính khách Arita, Sekiya và Okada của đảng Tự Do cùng với các viên chức của Bộ Vận Tải là Tsuboi, Kuniyasu và ba đồng nghiệp khác nhận án tù. Tất cả 8 người đều được hoãn thi hành án (bản án của tòa phúc thẩm cho hai phiên tòa được tuyên vào ngày 28/1/1960 và 1/5/1962). Đối với Satò Eisaku, bị xét xử ở Tòa Án Quận Tokyo vào ngày 18/12/1954, số phận cũng tương tự: ông ta được cứu thoát bằng đại ân xá ngày 19/12/1956, khi Nhật Bản gia nhập Liên Hiệp Quốc. [10] Do vậy, bộ máy chính trị bảo thủ đã thoát khỏi vụ bê bối đóng tàu mà không có thiệt hại lớn: Satò và Ikeda Hayato trở thành thủ tướng vào đầu những năm 1960.

Mặc dù việc phơi bày vụ hối lộ chính trị không khiến nội các thứ 5 của Yoshida sụp đổ, nhưng nó cũng đóng góp vào sự sụp đổ của nội các trong tháng 12/1954. Các lãnh đạo doanh nghiệp lớn, vốn ủng hộ mạnh mẽ việc thành lập nội các mới, vào mùa hè năm 1954 đã sẵn sàng bỏ rơi Yoshida. Vào mùa xuân, báo chí đăng các bản tin trang nhất về sự cấu kết bẩn thỉu giữa doanh nhân và chính khách. Trong xã luận ngày 18/4, tờ Asashi Newspaper khẳng định rằng sự từ chức của Yoshida là cách duy nhất để khôi phục niềm tin của công chúng đối với chính quyền. [11] Một khảo sát được thực hiện vào ngày 28/2 ở khu vực nội đô Tokyo hỏi, “Bạn có cho rằng nội các Yoshida phải chịu trách nhiệm về những vụ hối lộ chính trị gần đây?” Gần 70% người tham gia đã trả lời “có”. Một khảo sát khác vào ngày 18 – 19/3 ở Tokyo, Osaka và Yokoham hỏi, “Bạn có nghĩ nội các Yoshida phải chịu trách nhiệm về những vụ bê bối gần đây liên quan đến viên chức chính quyền?” Tỷ lệ trả lời “Có” cũng tương tự. [12] Sự giận dữ của công chúng, như các khảo sát ý kiến đã cho thấy, đã tiếp tục được duy trì trong nửa năm tiếp theo, kêu gọi Yoshida từ chức. [13] Bất chấp việc Yoshida mất uy tín, chính phủ không cho thấy là sẽ từ chức. Một người quan sát đương thời viết, “[Yoshida] và những người dưới quyền trong Quốc Hội cảm thấy rằng đằng sau những sự ồn ào do báo chí khuấy lên, thành phần cốt lõi ủng hộ họ mới chỉ bị quấy rối nhẹ bởi những yếu tố phi lý như sự không hợp lý về tiền bạc, khi mà sự ủng hộ đó không dựa trên những nền tảng kém ổn định như lý tưởng về sự đoàn kết của chính khách.” [14] Tác giả này nhắc tới hệ thống chính trị jiban truyền thống mà sự trung thành cá nhân (được củng cố bằng tiền) đã bảo vệ các chính khách trước sự chỉ trích của công chúng. Việc gần như hoàn toàn miễn dịch với sự chỉ trích của công chúng không bảo vệ Yoshida khỏi bộ máy doanh nghiệp lớn đang giận dữ. Vào mùa thu năm 1954, các lãnh đạo doanh nghiệp lớn đã quyết định Yoshida phải từ chức để cải thiện tình hình chính trị và kinh tế. Đối mặt với một sự cắt giảm quyên góp chính trị của doanh nghiệp lớn và sự nổi loạn trong nội các, chính phủ Yoshida sụp đổ vào ngày 10/12/1954.

Một kết quả của năm khủng hoảng 1954 là quyết định của Liên Hiệp Các Tổ Chức Kinh Tế (Keizai Dantai Rengòkai hay Keidanren) về việc tránh các bê bối xấu xí bằng cách tìm ra một nguồn tiền đáng tin cậy cho phe bảo thủ. Vào ngày 11/1/1955, phó chủ tịch Uemura Kogorò của Keidanren đề xuất với ban điều hành về một tổ chức mới được tạo ra để gây quỹ chính trị. Một hiệp hội được gọi là Hội Đồng Tái Thiết Kinh Tế được sinh ra. Mục tiêu của nó là ngăn chặn những người xã hội chủ nghĩa kiểm soát chính quyền và hỗ trợ sự thống nhất của các chính khách bảo thủ. Hiệp hội mới, được đăng lý là tổ chức chính trị, sẽ không phải đóng thuế. Các khoản quyên góp chính trị của giới kinh doanh sẽ được miễn thuế đến một mức nhất định. [15] “Mục đích của phương pháp tài trợ chính trị mới…là rất rõ ràng. Tình hình kinh doanh gợi nhớ đến năm 1931 khi bị những kẻ cuồng tín cánh hữu tấn công….Nhưng vào năm 1955, giới kinh doanh phải đối mặt với những địch thủ cánh tả trong các công đoàn và đảng xã hội chủ nghĩa, họ thông minh hơn, có tổ chức tốt hơn và do vậy ghê ghớm hơn trong dài hạn.” [16]

Trong một bài phỏng vấn nhiều năm sau đó, Hanamura Nihachirò, trưởng bộ phận tổng hợp của Keidanren, khẳng định rằng sau vụ bê bối đóng tàu ông ta được phó chủ tịch Uemura Kogorò cho biết rằng nguồn “tiền sạch” phải được tạo ra để hỗ trợ các chính khách bảo thủ. Điều mà Uemura nghĩ là “các khoản quyên góp của những doanh nhân không đòi hỏi lợi ích đặc biệt cho sự hào phóng mình. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa không thể tham gia vì họ luôn muốn có lợi ích tức thời cho các đầu tư chính trị của họ…Các doanh nghiệp lớn phải được thuyết phục đóng góp mà không cần sự đáp lại.” [17] Trong nhiều năm sau, các doanh nghiệp lớn sẽ nhìn thấy sự thông thái của việc đóng các khoản bảo hiểm chính trị và ký tên trong danh sách của Hanamura. Hiệp hội mới điều tiết dòng tiền với mục tiêu cung cấp cho các đảng chính trị và không cung cấp cho các phe phái cũng như cá nhân. [18]

Cựu thủ tướng Yoshida viết trong hồi ký rằng vụ hối lộ đóng tàu và “các cáo buộc vô cớ” xuất hiện vào lúc đó vẫn là những hồi ức khó quên nhất trong sự nghiệp chính trị của ông. “Tôi không bao giờ có thể tìm hiểu toàn bộ vụ việc,” ông ta viết, “nhưng, từ những gì tôi đã biết được liên quan đến sự đồng lõa của Satò, tôi hiểu rằng tòa án có thể đặt ra câu hỏi có hay không việc vi phạm Luật Điều Chỉnh Quỹ và Chi Tiêu Chính Trị, nhưng không bao giờ Viện Công Tố giải thích trước tại sao ngài Satò phải bị bắt giữ.” Đạo luật hỗ trợ công nghiệp đóng tàu, ông ta tiếp tục, “có tầm quan trọng quốc gia và không nên – không bao giờ nên - có bất cứ câu hỏi nào về sự ảnh hưởng của tiền bạc đối với sự thông qua hay phủ quyết nó; sự đóng góp cho quỹ của đảng Tự Do được những người có trách nhiệm trong giới tài chính và các thành viên của ngành công nghiệp đóng tàu sắp xếp, không có nghĩa là chỉ những người hưởng ứng sự kêu gọi của đảng.” Tiếp đó, Yoshida cáo buộc rằng các công tố viên, thay vì thu thập “các bằng chứng khách quan”, đã dùng các phương pháp “trung cổ” bằng cách ép cung các nghi phạm. “Câu hỏi về việc bắt giữ ngài Satò xuất hiện,” ông ta viết tiếp, “…khi tiến trình ở Hạ Viện đã đạt đến điểm quyết định….[K]hông có lý do nào đủ mạnh để cho phép một sự gián đoạn nghiêm trọng công việc của chính phủ như việc bắt giữ ông ấy gây ra.” Quyết định ngăn cản việc bắt giữ Satò cho đến sau khi kết thúc kỳ họp Quốc Hội, Yoshida viết, “được coi là một nỗ lực gây sức ép bất hợp pháp của chính phủ đối với cuộc điều tra…và dấy lên làn sóng chỉ trích từ mọi phía, mặc dù vậy, khi kỳ họp Quốc Hội kết thúc…[công tố viên] đã kiềm chế - vì những lý do khó hiểu của họ - không có bất cứ hành động nào.” Yoshida kết luận rằng hành động của công tố viên không làm ông ta thấy buồn bằng “cách mà một số…chính khách, biết rõ tình hình thực tế liên quan đến vụ việc, đã sử dụng vụ việc để làm vũ khí chính trị…và làm vậy để nhận được sự hoan nghênh của công chúng.” [19]

Các phàn nàn về những đối thủ bẩn thỉu, sử dụng vụ bê bối hối lộ này để làm vũ khí chống lại Yoshida có vẻ là sai, theo kinh nghiệm của một chính khách dày dạn; Yoshida sẽ làm điều tương tự với những người xã hội chủ nghĩa. Về phía công tố, các động cơ chính trị của những người liên quan đến vụ án này vẫn chưa rõ, nhưng trong phạm vi Bộ Tư Pháp, công tố viên không chỉ có quyền pháp lý theo đuổi các cuộc điều tra mà họ thấy là phù hợp mà còn tự hào về truyền thống độc lập. [20] Tuy vậy, hành động của một số công tố viên trong các cuộc điều tra thời tiền 1945 (cụ thể là vụ Teijin) đã làm xấu hình ảnh của các điều tra viên với việc ép cung. Yoshida nhận được sự đồng cảm của độc giả bằng cách nhắc nhở họ về những chiến thuật cưỡng ép trong quá khứ. Dường như quan sát của Yoshida về việc công tố viên hủy bỏ vụ án hối lộ của Satò “vì những lý do khó hiểu của họ” cũng nhận được sự đồng cảm của độc giả. Đây là một chuyển biến kỳ lạ của sự việc, khi mà khoảng thời gian giữa sự can thiệp của bộ trưởng Bộ Tư Pháp Inukai và kết thúc kỳ họp Quốc Hội chỉ là vài tuần. Giải thích của tổng chưởng lý Satò, được đưa ra vào ngày 16/6, về việc tất cả những nghi phạm hối lộ bị thẩm vấn đã được thả, là không rõ ràng. [21] Một số nghi phạm phải ký vào bản cung khai, những tài liệu đó phải được sử dụng. Mặt khác, các công tố viên cũng không có đủ bằng chứng để truy tố tội hối lộ. Những người quan sát vụ bê bối này cũng ngạc nhiên về việc tổng chưởng lý Satò không từ chức khi đối mặt với sự can thiệp của bộ trưởng Bộ Tư Pháp Inukai: việc từ chức có thể giữ được danh dự cho đội ngũ công tố viên. Cuối cùng, sự suy đoán xem động cơ nào đã khiến công tố viên hăng hái điều tra các vụ hối lộ thời hậu chiến đến như vậy cũng cần phải được tính đến. Một phần của câu trả lời là xung đột giữa cảnh sát và công tố viên về việc ai sẽ kiểm soát điều tra là vấn đề lâu dài có từ trước cả thời Showa, nhưng vào những năm 1930, công tố viên đã chiến thắng trong cuộc đua này, đặc biệt là trong các vụ án chính trị. Luật Tố Tụng Hình Sự năm 1948 đã chuyển sự kiểm soát lại cho cảnh sát. Công tố viên chống lại sự thay đổi này bằng cách cố gắng giành lại quyền lực và uy thế đã mất. Cuối cùng, sự nhượng bộ của cảnh sát đã đặt công tố viên vào vị trí chỉ huy trong việc điều tra các vụ án hối lộ nghiêm trọng. [22] Nếu xung đột này được tính đến, sự quyết đoán bền bỉ trong việc theo đuổi các chính khách và doanh nhân tham nhũng của công tố viên trở nên dễ hiểu hơn.

Việc bộ trưởng Bộ Tư Pháp Inukai sử dụng Điều 14 để can thiệp vào điều tra đã dẫn đến một cuộc tranh luận pháp lý gay gắt giữa các học giả. Vài năm sau, ba viên chức tư pháp được phỏng vấn và nêu ý kiến của họ. Cựu bộ trưởng Bộ Tư Pháp Ohara Naoshi nhắc đến những lập luận gay gắt về việc sử dụng điều này nhưng cho biết rằng đó không phải là lần đầu tiên một bộ trưởng Bộ Tư Pháp thực hiện quyền chỉ đạo liên quan đến cuộc điều tra đặc biệt. Ohara cho biết, quyền này được dựa trên cấu trúc luật pháp hỗ trợ Bộ Tư Pháp. Do vậy, hành động của Inukai không sai về mặt pháp lý. [23] Cựu tổng chưởng lý Satò Tòsuke khẳng định “Dĩ nhiên, anh có thể nói là nếu tôi từ chức vào lúc đó thì có thể tốt hơn, song nếu tôi làm vậy thì tinh thần của công tố viên sẽ suy sụp. Điều đó sẽ tạo ra hỗn loạn. Bên cạnh đó, điều này sẽ tạo ra một tiền lệ rất xấu.” [24] Khi được hỏi Điều 14 có nên bị xóa bỏ không, Satò trả lời rằng nó nên được giữ lại để kiểm soát các công tố viên quá hung hăng nhưng không nên được sử dụng thường xuyên. Hanai Tadashi, chưởng lý của Tòa Phúc Thẩm Tokyo, nói rằng sau khi Điều 14 được sử dụng thì cáo trạng của nghi phạm thay đổi. Ông ta cho rằng, nếu không sử dụng điều luật đó thì vụ án sẽ được mở rộng hơn nhiều và sẽ làm nội các Yoshida sụp đổ. [25]

Sự hợp nhất của các lực lượng bảo thủ vào tháng 11/1955 (đảng Dân Chủ Tự Do) đã đánh dấu sự khởi đầu của sự thống trị một đảng kéo dài gần bốn thập kỷ. Mặc dù các thành viên của đảng mới đồng ý thống nhất xây dựng một chính phủ bảo thủ và kinh tế ổn định song cuộc hôn nhân chính trị kiểu súng săn của họ đã không ngăn chặn được cả cuộc chiến chính trị tàn phá đôi bên lẫn sự mở rộng của chính trị tiền bạc. Chính đảng mới ngay từ đầu đã là một tập hợp phe phái, nhưng chủ nghĩa phe phái không được thể chế hóa cho đến cuộc bầu cử chủ tịch vào năm 1956, tổng bí thư Kishi Noboshuke đã mất bảy phiếu vào tay Ishibashi Tanzan. Vào đỉnh điểm của cuộc bầu cử, bên cạnh chức thủ tướng là sự bảo trợ và khả năng thu hút một số tiền lớn mà người thắng sẽ giành được. Hơn nữa, phe phái chính trị trong sự kiểm soát của chính phủ đã phát triển và trở thành chính trị thống trị. [26] Hơn nữa, việc bầu cử đảng này đã “tạo ra tiền lệ cho việc chi một số tiền lớn vào cuộc tranh cử chức chủ tịch”. Ước tính là “phái Kishi đã chi 300 triệu yen cho cuộc tranh cử, phái Ishibashi chi 150 triệu yen và phái Ishii Mitsujirò chi 80 triệu yen. Tổng số tiền này, khổng lồ vào thời đó, được các ứng cử viên chi cho các thủ lĩnh phe phái”. Không có gì ngạc nhiên khi “bầu cử chủ tịch được coi là “chính trị tiền bạc””. Khi bầu chủ tịch đảng vào năm 1964 (Ikeda Hayato thắng) thậm chí một số chính khách bảo thủ “còn cảm thấy rằng sự tranh cử đã theo kịch bản hối lộ và chiêu đãi đắt tiền”. [27]

Công nghiệp hóa thần tốc vào những năm 1950 đã làm suy yếu jiban cũ; để thích nghi với tình hình mới, một số chính khách đã tổ chức kòenkai (nhóm ủng hộ chính trị thường trực) nhằm củng cố jiban. Bên cạnh sự củng cố jiban này, các chính khách cũng mở rộng ảnh hưởng của họ bằng cách bán rao các dự án chi tiêu ngân sách. Trong số đó có các dự án kỹ thuật dân sự, được chính sách kinh tế của nội các Ikeda khuyến khích vào đầu những năm 1960. [28] Chính sách thiếu kỷ luật này có hai mục tiêu: một dòng tiền chảy vào ngân sách tranh cử của chính khách và sự ủng hộ của cử tri.

Mặc dù thời kỳ này không tạo ra bê bối chính trị lớn như vụ Showa Electric hay vụ đóng tàu song tham nhũng diễn ra dưới thời thủ tướng Satò cũng đủ để chính quyền này nhận danh hiệu “màn đen”. Vụ hối lộ nghiêm trọng nhất liên quan đến công ty tinh chế đường Kyòwa. Vào năm 1966, công chúng phát hiện các nhân viên Kyòwa đã quyên góp nhiều khoản lớn cho chính khách đảng Dân Chủ Tự Do (sau đó Aizawa Shigeaki, một người xã hội chủ nghĩa, cũng bị phát hiện nhận tiền) để được vay tiền của ngân hàng Hợp Tác Nông Lâm Nghiệp Trung Ương. Trong số những người nhận “quyên góp” có Shigemasa Seishi, cựu bộ trưởng Bộ Nông Lâm Nghiệp, từng là chủ tịch của Kyòwa trước khi được bổ nhiệm. Trong cuộc điều tra, các công tố viên phát hiện ra khoảng 120 triệu yen đã được sử dụng để bôi trơn bộ máy chính trị và đảng viên xã hội chủ nghĩa Aizawa, một thành viên của Ủy Ban Kiểm Tra Thượng Viện, đã nhận 1 triệu yen. Sau khi thẩm vấn hàng tá hạ nghị sĩ, các công tố viên đã chỉ truy tố Aizawa. Sau khi bị kết án, ông ta nhận hình phạt 2 năm tù vì tội nhận hối lộ và các tội khác. Bị báo chí dồn ép, đảng xã hội chủ nghĩa lên án vụ bê bối và yêu cầu bầu cử quốc gia; các đối thủ của phe Satò cũng hy vọng sử dụng vụ án này để lật đổ chủ tịch đảng. Bất chấp sự tấn công từ bên ngoài và bên trong, đảng Dân Chủ Tự Do vẫn kiểm soát được chính phủ sau cuộc bầu cử tháng 1/1967 và Satò vẫn làm chủ tịch đảng. [29]

Mặc dù đảng Dân Chủ Tự Do bị đảng xã hội chủ nghĩa tấn công, họ lên án chính phủ là tham nhũng và kiếm lợi nhờ nội chiến, cũng như một số đảng viên tranh cử bằng cương lĩnh chống tham nhũng, song phe bảo thủ vẫn an toàn trong bão tố chính trị. [30] Đảng Dân Chủ Tự Do đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng này bởi vì “quần chúng quốc gia hài lòng với thành tích kinh tế của chính quyền bảo thủ.” Nông dân hạnh phúc với “giá cả sản phẩm chính yếu của họ, gạo, chủ yếu là nhờ vào trợ cấp hào phóng của chính phủ.” Nhiều công nhân thành thị cũng hài lòng với việc lương tăng đều đặn, vào năm 1970 “tính trung bình gấp 2,3 lần năm 1955”. Do vậy, đảng bảo thủ thắng lợi bởi vì cử tri không sẵn sàng lật đổ các chính khách “đứng đằng sau sự thần kỳ kinh tế”. [31]

Tanaka Kakuei trở thành chủ tịch của đảng Dân Chủ Tự Do vào năm 1972 và thành lập nội các vào ngày 7/7. Tanaka là chủ sở hữu một công ty xây dựng, ông ta đã sử dụng các công việc quản lý kỹ thuật dân sự và công trình công cộng để tạo ra cơ sở cho sức mạnh chính trị ở quận Niigata. Trong những năm 1960, thời kỳ kinh tế tăng trưởng thần tốc đã được kích thích bởi chính sách của nội các Ikeda (Tanaka là bộ trưởng Bộ Tài Chính hai lần trong ba sự thay đổi nội các), Tanaka “thích nghi sự bùng nổ với kỹ năng vượt trội…và leo lên đỉnh cao chính trị bằng cách phân phát tiền kiếm được từ đầu cơ đất đai, các công ty bình phongvà công việc xây dựng….Ông ta cũng mở rộng mạng lưới tới mọi phần của cấu trúc phân phối lợi ích, kiêu hãnh rằng phe cánh của ông ta là “bệnh viện chung” có khả năng chăm sóc mọi nhu cầu.” [32] Cũng giống như thủ tướng Hara Kei nửa thế kỷ trước đó, Tanaka hiểu rõ vai trò của tiền bạc trong hệ thống chính trị. “Mọi người đều cần tiền – cho chiến dịch tái tranh cử, cho phe cánh, để chiêu đãi và chăm sóc các viên chức có các quyết định sống còn – mọi người đều cần nhiều tiền hơn so với các quy định của luật pháp về quỹ chính trị. Tanaka có rất nhiều tiền và ông ta sử dụng chúng – không phải cho bản thân...hay chỉ riêng cho những người ở Niigata, mà để hoàn thành mọi việc.” [33]

Một bài kiểm tra đối với chính trị tiền bạc của Tanaka xuất hiện vào ngày 7/7/1974, cuộc bầu cử Thượng Viện. Nhiều người quan sát đều dự đoán đảng bảo thủ sẽ thất bại, do sự ủng hộ suy giảm rõ rệt đối với đảng Dân Chủ Tự Do và suy thoái kinh tế do khủng hoảng dầu mỏ thế giới. [34] Tanaka phản ứng lại dự đoán này bằng cách thúc ép các doanh nghiệp lớn cung cấp thêm tiền và các hỗ trợ tranh cử khác. Theo Hanamura Nihachirò, cựu phó chủ tịch của Keidanren, có 34 năm làm người trung gian để chuyển tiền cho các chính khách, Tanaka đã sử dụng bóng ma sự nổi loạn của những người xã hội chủ nghĩa cực đoan để moi thêm tiền từ doanh nhân. [35] Kết quả là gần như tất cả các ứng cử viên quốc gia của đảng bảo thủ đều nhận được sự hậu thuẫn của doanh nghiệp. Cách thức này không phải là mới, như quy mô và bản chất không che giấu của nó. [36] Trận chiến tranh cử này bị nhiều người coi là tốn kém và bẩn thỉu nhất trong chính trị thời hậu chiến. [37] Từ năm 1955, đảng Dân Chủ Tự Do đã vượt qua hàng sa số bê bối hối lộ và cáo buộc tham nhũng bầu cử với những lời hứa cải cách mập mờ, song lần này thì khác. Trong một bài báo (“Một nghiên cứu về Tanaka Kakuei – Cơ sở quyền lực tài chính và mạng lưới cá nhân của ông ta”) vào tháng 11/1974 trên tờ Bungei shunjû, Tachibana Takashi, theo cách rất chi tiết, đã mô tả cách tiền chảy vào và ra khỏi tổ chức của Tanaka. Tạp chí và báo hàng tuần đã theo sát với đủ thông tin để đáp ứng sự quan tâm của công chúng. Sự quan tâm của công chúng cũng được hướng tới việc Tanaka sử dụng hào phóng tiền bạc để giành chức chủ tịch đảng và phân phát tiền trong cuộc bầu cử năm 1974. Tài chính cá nhân của thủ tướng cũng được tường thuật. Điều khiến Tanaka khác biệt với các chính khách khác trong “trò chơi tiền bạc” là quy mô khổng lồ của số tiền mà ông ta đã thu gom và chi tiêu. Trong việc chi tiêu, Tanaka không chỉ hỗ trợ phe cánh của bản thân và các đảng viên Dân Chủ Tự Do khác mà còn cung cấp tiền cho viên chức và có lẽ là cả các chính khách đối lập. Hầu hết các nhà quan sát chính trị cho rằng Tanaka bằng cách nào đó sẽ duy trì sự cân bằng chính trị của ông ta, nhưng thành tích nghèo nàn trong cuộc bầu cử năm 1974 và sự gia tăng nhanh của lạm phát đã làm lung lay ghế thủ tướng của ông ta. Các phe phái khác cũng muốn đẩy ông ta ra khỏi ghế thủ tướng: không có bạn học nào trong các trường đại học hàng đầu, không có quan hệ hôn nhân với giới thượng lưu kinh doanh, không có mối quan hệ gần gũi với các gia đình thế lực cũ. [38] Cuối cùng, Tanaka, tuyên bố là sức khỏe yếu, đã từ chức thủ tướng; người thay thế ông ta là Miki Takeo, một trong những chính khách bảo thủ hiếm hoi có hình ảnh chính trị “trong sạch”. Miki, từ chức phó thủ tướng khi phản đối chiến dịch tranh cử năm 1974, được các lãnh đạo đảng coi là sự lựa chọn biểu tượng hoàn hảo. [39] Thủ tướng Miki khẳng định, “Tôi sẽ thực hiện cải cách cơ bản về cách thức thu thập và sử dụng quỹ chính trị.” [40] Ngay cả những nhà chỉ trích quyết liệt nhất, biết rõ về danh tiếng trong sạch của Miki, cũng tin rằng cải cách chính trị thực sự đang được thực hiện. [41]

Thủ tướng Miki và các nhà cải cách khác cố gắng áp đặt một cuộc cải cách cực đoan để ngăn chặn chính trị tiền bạc. Cuối cùng, khi sự quan tâm của công chúng hướng sang chủ đề khác, các chính khách chống cải cách đã thông qua một đạo luật cải cách bị pha loãng, được ban hành vào ngày 1/1/1976. Trên thực tế, việc cải cách Luật Điều Chỉnh Quỹ Chính Trị “thực sự tạo đã hợp pháp hóa và hợp lý hóa các hoạt động vốn phải nhận sự chỉ trích nặng nề trong những năm qua. Các kênh tài chính…được tạo ra để thu thập và quyên góp hàng tỷ yen…hiện giờ được hợp pháp hóa và mỗi chính đảng đều được phép lập ra một tổ chức để thực hiện việc gây quỹ của họ. Khoản quyên góp của doanh nghiệp hoàn toàn được hợp lý hóa và do vậy được hợp pháp hóa, ngay cả khi tỷ lệ thực tế đã được quy định.” [42] Theo luật sửa đổi, một tổ chức có thể tài trợ cho nhiều nhóm hoặc chính đảng tối đa là 7,5 – 100 triệu yen hàng năm (tùy thuộc vào quy mô tổ chức) và chỉ một nửa số đó được phép quyên góp cho các cá nhân hoặc phe phái; một cá nhân không được quyên góp hơn 20 triệu yen cho nhóm gây quỹ hay chính đảng, chỉ một nửa số đó có thể được quyên góp cho cá nhân hay phe phái. Người nhận phải báo cáo. [43] Mục đích chính của việc sửa đổi luật này và sự sửa đổi Luật Bầu Cử Chức Vụ Công là chuyển từ sự tập trung vào chính khách cá nhân, người sử dụng các mối quan hệ cá nhân để vận động cử tri, sang tập trung vào các cương lĩnh của đảng. Hơn nữa, những người cải cách muốn hướng dòng tiền thông thường đang chảy vào các phe phái sang các chính đảng và khuyến khích các khoản quyên góp cá nhân nhỏ hơn của công chúng. [44] Những cải cách này “không mang lại sự thay đổi cơ bản như mục tiêu của chúng. Các chính khách Nhật Bản chống lại những cải cách bằng tìm ra các lỗ hổng trong luật cho phép họ không phải thay đổi cách làm truyền thống.” [45] Ví dụ, các ứng cử viên đã lợi dụng việc luật không yêu cầu báo cáo tên của người quyên góp ít hơn 1 triệu yen mỗi năm. Hơn nữa, do luật không giới hạn số lượng tổ chức mà một chính khách có thể thành lập nên các chính khách có thể gom quỹ từ nhiều tổ chức. Cuối cùng, các phe phái và cá nhân có thể dựa vào những người gây quỹ đặc biệt (thường là một chính đảng trung gian) do thu nhập từ những nguồn này không được coi là quyên góp chính trị. [46]

Một nghiên cứu sâu về chương trình cải cách của Miki đã kết luận rằng nó hầu như không ảnh hưởng đến chính trị tiền bạc. Chương trình cải cách đảng phái của Miki dựa trên ba trụ cột: giải phóng đảng phái khỏi sự phụ thuộc vào doanh nghiệp lớn, xóa bỏ sự thống trị của chủ nghĩa bè phái và tạo ra thành viên quần chúng để ủng hộ đảng phái. Các nhà cải cách lập luận rằng nếu thành viên quần chúng được phép bầu chủ tịch thì việc mua phiếu bầu sẽ vô dụng. Số lượng thành viên đông đảo sẽ bù đắp cho sự tổn thất quỹ từ doanh nghiệp lớn và các nhóm lợi ích đặc biệt. [47] Họ hy vọng rằng việc bầu cử chủ tịch được chuyển từ các hạ nghị sĩ của đảng cho “thành viên quần chúng, những người không thể bị hối lộ, việc các phe phái tổ chức và ưu tiên cho mục tiêu tranh cử lãnh đạo trong nội bộ đảng phái sẽ suy giảm và chính đảng sẽ hướng tới chính sách hơn.” [48] Cuộc cải cách tháng 1/1977, ít nhất là ở giai đoạn đầu, đã có tác dụng, với một sự nhảy vọt trong trong số lượng thành viên, lên đến 1,5 triệu trong vòng một năm rưỡi. Trong cuộc bầu cử chủ tịch vào cuối mùa thu năm 1978, hành vi của cử tri quần chúng không cho thấy sự thay đổi so với các cử tri bị giới hạn của hệ thống cũ. Như thường lệ, các nghị sĩ của đảng chia là hai phái. Chỉ có một số ít thành viên quần chúng thống nhất với đảng; trái lại, đa số thống nhất với một nghị sĩ cụ thể. [49] Như một học giả đã viết, “Lòng trung thành của thành viên [nhóm ủng hộ địa phương] đối với MP là cá nhân, địa phương và tuyệt đối.” Do tình hình này, các nghị sĩ có thể “tôi luyện thành viên quần chúng được mở rộng này trong cuộc bỏ phiếu ban đầu….Đấu tranh phe phái truyền thống không bị yếu đi; trái lại, nó gia tăng và mở rộng phạm vi tới các thành viên quần chúng ở cấp cơ sở.” [50] Do vậy, kỳ bầu cử chủ tịch đầu tiên (Òhira Masayoshi thắng) không cho thấy nhiều sự thay đổi trong cách bầu cử chủ tịch 
cả trong nội dung chính trị, hành vi của cử tri, hiệu lực của phe phái, tính chất của ứng cử viên, kịch bản hối lộ lẫn kết quả. Trái lại, nó nhấn mạnh thế mạnh của động cơ và logic của chủ nghĩa bè phái….Chính trị phe phái được chứng minh là thích nghi một cách đáng ngạc nhiên với các quy định mới…và cho thấy năng lực lớn lao của nó trong việc hấp thụ số lượng cử tri phổ thông lớn. Các quan hệ nội bộ của đảng cũng như những mối quan hệ với…các lợi ích lớn đặc biệt vẫn nguyên vẹn là tính chất cơ bản. [51]
Sự từ chức của Tanaka Kakuei cùng với các biện pháp cải cách chính trị mà Quốc Hội thông qua đã không trấn an được những cử tri giận dữ vì sự xuất hiện của vụ bê bối hối lộ Lockheed vào đầu tháng 2/1976 sau một cuộc điều tra của Quốc Hội Hoa Kỳ, khi A. Carl Kotchian, phó chủ tịch của Tập Đoàn Máy Bay Lockheed, thú nhận rằng công ty đã chi hơn 22 triệu dollar hối lộ để bán các máy bay phản lực cho Nhật Bản. Các công tố viên Tokyo phản ứng với tin tức này bằng cách bắt đầu điều tra hình sự vào giữa tháng, tìm kiếm tội trốn thuế. Trong vài tháng tiếp theo, vụ án hình sự đã lan sang nhiều doanh nhân lớn, chính khách và văn phòng thủ tướng. Vào ngày 16/8, cựu thủ tướng Tanaka bị truy tố vì nhận hối lộ và vi phạm Luật Ngoại Hối; 15 người khác bị truy tố vì nhận hối lộ và các hành vi phạm tội khác. [52]

Lời khai của Kotchian về vụ việc này được đăng trên tờ Asahi Evening News từ ngày 23 đến 27/8/1976. Theo Kotchian, vào tháng 8/1972, ông ta đề xuất với Hiyama Hiro, nhân viên của công ty Marubeni, một công ty thương mại và đại lý bán hàng của Lockheed, rằng chất lượng vượt trội của máy bay chở khách Lockheed cần phải được thủ tướng Tanaka chú ý. Ngày hôm sau, Òkubo Toshiharu, giám đốc điều hành của công ty, nói rằng khoản đóng góp theo tập quán của giao dịch này là 500 triệu yen. Cùng ngày, Kotchian đến trụ sở của Kodama Yoshio, điệp viên của Lockheed từ năm 1958. Kodama, dĩ nhiên là một người hoạt động có tiếng của thế giới kinh doanh-chính trị ngầm, giới thiệu Kotchian với Osano Keiji, một doanh nhân quyền lực và là người tâm phúc lâu năm của Tanaka. Nếu Lockheed nghiêm túc về việc bán máy bay thì họ cần phải xây dựng một cầu nối với thủ tướng thông qua Osano. Một lần nữa, Kotchian hứa sẽ chi 500 triệu yen. Do đó, chỉ trong một ngày Lockheed đã chi tới 1 tỷ yen. Tiền đã được chi và Lockheed đã giành được hợp đồng bán máy bay. [53]

Công tố viên, những người nhiệt tình theo đuổi việc truy tố, đã nhận được phần thưởng là sự thú tội của hầu hết các bị cáo. Tại phiên tòa (có bốn phiên tòa khác nhau, dựa trên dòng tiền do công tố viên xác định), các bị cáo đã phủ nhận lời thú tội, khẳng định rằng công tố viên đã ngụy tạo chúng. Tanaka là ngoại lệ: ông ta không chỉ khẳng định không biết gì về thỏa thuận bí mật để bán máy bay mà còn khẳng định rằng không nhận tiền. Quan tòa quyết định rằng Tanaka đã được hối lộ và với vai trò là thủ tướng thì ông ta ở vị thế ảnh hướng tới việc mua máy bay. Vào ngày 12/10/1983, Tanaka bị tuyên án bốn năm tù và bị phạt 500 triệu yen; Òkubo nhận án 2 năm tù, hoãn thi hành án 4 năm; Enomoto Toshio (thư ký của Tanaka) nhận 1 năm tù, hoãn thi hành án 3 năm; Hiyama Hiro (người của Lockheed liên hệ với công ty Marubeni) nhận 2 năm tù. Tất cả những bản án này đều bị kháng cáo vào ngày 29/5/1985. Chỉ có bản án của Itò được điều chỉnh thành 2 năm tù, hoãn thi hành án 4 năm. [54] Đối với Tanaka, việc kháng án tại Tòa Án Tối Cao là không có ý nghĩa khi ông ta chết vào ngày 16/12/1993.

Trong số những người liên quan đến các phiên tòa còn lại có Hashimoto Tomisaburò, cựu bộ trưởng Bộ Vận Tải và Satò Takayuki, cựu thứ trưởng của Bộ Vận Tải. Cả hai người đều bị kết án nhận hối lộ. Hashimoto bị cáo buộc nhận 50 triệu yen thông qua Marubeni; nhóm bào chữa của ông ta lập luận rằng ông ta không nhận được tiền và không liên quan đến quyết định mua máy bay. Sự bào chữa của Satò cũng tương tự: không nhận hối lộ và không liên quan đến quyết định mua máy bay. Vào ngày 8/6/1982, Hashimoto nhận án 2 năm rưỡi tù, hoãn thi hành án 3 năm và bị phạt 50 triệu yen; Satò nhận án hai năm tù, hoãn thi hành án 3 năm và bị phạt 20 triệu yen. Phiên tòa đã kết thúc với Satò vào tháng 7/1986 (ông ta không kháng án lên Tòa Án Tối Cao) và kết thúc với Hashimoto vào tháng 1/1990 (ông ta chết). Wakasa Tokuji, cựu chủ tịch của hãng hàng không All Nippon cũng bị kết án hối lộ Hashimoto và Satò và nhận 3 năm tù, hoãn thi hành án 5 năm. Kodama và Osano cũng bị truy tố nhưng không vì tội hối lộ (cụ thể là vi phạm luật thuế). Kodama chết trong khi Tòa Án Quận Tokyo xét xử và Osano chết sau khi tòa phúc thẩm giảm bản án của ông ta xuống 10 tháng tù, hoãn thi hành án 3 năm. [55]

Cựu thủ tướng Tanaka kết luận về bản án tại phiên tòa đầu tiên “rằng ông ta đã bị các đối thủ chính trị và hệ thống báo chí có khuynh hướng cánh tả của Tokyo biến thành con tốt thí vì những hoạt động…[là] thông thường trong đời sống chính trị Nhật Bản.” Hơn nữa, ông ta cho rằng “các đối thủ chính trị đã thay đổi quy định đối với ông ta trong vụ án đặc biệt này.” [56] Sự cay đắng và tức giận của Tanaka là có thể hiểu được; quan điểm của ông ta cho rằng các đối thủ chính trị đứng sau vụ truy tố cũng giống như phó chủ tịch Ogawa Heikichi của Seiyûkai, bộ trưởng duy nhất bị vào tù vì bản án hối lộ thời tiền 1945.

Cũng như những vụ bê bối hối lộ chính trị trước đây, đánh giá tác động của vụ Lockheed đối với công chúng là rất khó; thái độ phổ biến cho rằng đó chỉ là chương xấu xí mới nhất trong câu chuyện bất tận và hệ thống chính trị tất yếu sẽ tạo ra những kết quả đó. Tuy vậy, nếu như kết quả bầu cử được sử dụng để làm thước đo thì vụ bê bối đã làm suy yếu sức mạnh của đảng Dân Chủ Tự Do tại Hạ Viện trong các cuộc bầu cử năm 1976 và 1979. Khuynh hướng suy giảm này đã bị đảo ngược vào năm 1980, nhưng sau bản án của Tanaka vào năm 1983, đảng đã thất bại ở Hạ Viện. Đối mặt với sự bế tắc của đảng, Tanaka, đã sớm rút khỏi đảng Dân Chủ Tự Do, đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của cử tri Niigata; trong cuộc bầu cử ngày 18/12/1983, hai tháng sau bản án của phiên tòa thứ nhất, ông ta đã thắng lớn trong cuộc bầu cử. Hơn nữa, sáu người dưới quyền của ông ta đã tham gia nội các thứ hai của Nakasone Yasuhiro. [57]

Mặc dù một thập kỷ đã trôi qua trước khi công chúng chứng kiên một vụ hối lộ lớn khác, trận chiến pháp lý của Tanaka và sự chia rẽ bè phái nghiêm trọng (Tanaka bị đánh bại và đánh mất sự kiểm soát) đã khiến công chúng dõi theo vụ bê bối. Hơn nữa, hai vụ án hối lộ chính trị khác cũng xảy ra, thu hút sự chú ý của công chúng về chủ đề này. Đầu tiên, vào tháng 5/1979, tại Tòa Án Quận Tokyo, cựu phó chủ tịch Kaifu Hichirò của công ty Thương Mại Nisshò-Iwai bị xét xử vì vi phạm Luật Ngoại Hối và khai man. Trong phiên tòa, tên của Matsuno Raizò, cựu giám đốc của Cục Phòng Vệ, xuất hiện liên quan tới khoản chi 500 triệu yen. Công ty Douglass McDonnell bị cáo buộc đã chi số tiền đó thông qua công ty thương mại cho Matsuno để được bán các chiến đấu cơ phản lực cho Nhật Bản. Matsuno thừa nhận đã nhận tiền khoảng giữa năm 1967 và 1971 nhưng khẳng định rằng đó là khoản quyên góp chính trị. Ông ta không bị kết án. [58] Thứ hai, vào tháng 10/1979, báo chí đưa tin công ty đại chúng về viễn thông quốc tế (Kokusai Denshin Denwa Kaisha) đã chiêu đãi rất xa hoa, tặng quà và tiền cho nhiều chính khách và viên chức. Mặc dù hai viên chức bị kết án nhận hối lộ nhưng không chính khách nào bị kết án. [59]

Vào năm 1989, một vụ động đất chính trị khác nổ ra: vụ bê bối Recruit. Cũng giống như vụ Teijin trước đó nửa thế kỷ, vụ bê bối mới liên quan đến việc chuyển nhượng cổ phiếu và hối lộ chính trị, cũng giống như sự kiện trước đó, nó liên quan đến doanh nhân, chính khách và viên chức. Khi vụ bê bối được khám phá, công chúng không chỉ thấy số tiền khổng lồ được dùng để gây ảnh hưởng tới các chính khách mà cả sự tham nhũng của các viên chức cao cấp trong các cơ quan của chính quyền trung ương. Bị bối rối vì vụ bê bối đã làm tổn thương danh tiếng của cựu thủ tướng Nakasone và các đảng viên Dân Chủ Tự Do cấp cao khác, thủ tướng Takeshita Noboru đã từ chức vào tháng 6/1989.

Trung tâm của vụ bê bối là Ezoe Hiromasa, chủ tịch của công ty Recruit rất thành công, một doanh nghiệp trong lĩnh vực thông tin. Khởi đầu vào năm 1960 như một công ty nhỏ xử lý các quảng cáo trên tạp chí trường đại học, công ty của Ezoe tham gia vào tổ chức quốc gia cung cấp các thông tin tuyển dụng nhân sự cho sinh viên đại học và hướng dẫn về đại học và cao đẳng cho học sinh trung học. Recruit Cosmos, một chi nhánh bất động sản, được thành lập vào năm 1964. Vào năm 1987, đế chế kinh doanh của Recruit bao gồm 27 chi nhánh với hơn 6.000 nhân viên. [60] Con đường phát triển công ty thuận lợi của Ezoe được đảm bảo bằng “quà tặng” cho các chính khách và viên chức. Một khoản chi được đề xuất cho việc bán cổ phiếu (người mua được vay tiền) của chi nhánh bất động sản trước khi mở bán trên thị trường: lợi nhuận khổng lồ sẽ được tạo ra khi cổ phiếu được niêm yết chính thức. Phương thức kinh doanh của Recruit đã thu hút được sự chú ý của công chúng vào tháng 6/1988 khi tờ Asahi Newspaper đăng một bài báo về việc phó thị trưởng của một thành phố đã nhận được cổ phiếu chưa niêm yết của Recruit. Vào tháng 7, vụ bê bối nhỏ đã lan rộng, khi cựu thủ tướng Nakasone và Takeshita được xác định là người nhận cổ phiếu của Recruit. Bộ trưởng Bộ Tài Chính cũng vướng lưới bê bối vào tháng 10 và bị buộc phải từ chức vào tháng 12. Bộ trưởng Bộ Tư Pháp Hasegaw Takashi và Harada Ken, tổng giám đốc của Cục Kế Hoạch Kinh Tế, cũng nhanh chóng theo chân Miyazawa. Vụ bê bối đã chạm đến phần lớn bộ máy chính quyền. [61] “[ấ]n tượng mà truyền thông cho thấy vào giữa năm 1989 là tất cả mọi người, có thể là bất kỳ ai, đều có liên quan và…không có lý do gì để tin rằng chỉ mình Recruit bơm tiền.” [62]

Vào ngày 12/6/1989, khi báo cáo của Bộ Tư Pháp về vụ bê bối Recruit được nộp cho Hạ Viện, dường như tất cả những lãnh đạo hàng đầu của đảng Dân Chủ Tự Do và thậm chí là cả các đảng đối lập đều bốc mùi “quà tặng” của Ezoe. Tuy vậy, không có chính khách lớn nào bị kết án. Trong số 11 chính khách và viên chức phải ra tòa thì chỉ có 4 người bị kết án nhận hối lộ: Shinto Hisashi, cựu chủ tịch của công ty Điện Tín và Điện Thoại Nhật Bản (NTT); Shikiba Ei, một lãnh đạo khác của NTT; và Katò Takashi, thứ trưởng Bộ Lao Động. [63]

Đảng Dân Chủ Tự Do phản ứng lại vụ Recruit bằng việc hứa hẹn cải cách căn bản hệ thống quỹ chính trị và lựa chọn thủ tướng không bị tai tiếng vì bê bối hối lộ. Người được chọn để đại diện cho hình ảnh trong sạch mới của đảng là ngoại trưởng Uno Sòsuke, người được công ty Recruit coi là không quan trọng nên đã không hối lộ bằng cổ phiếu. [64] Phát biểu trong phiên họp toàn thể của Quốc Hội, Uno khẳng định, “Vụ bê bối Recruit đã châm ngòi cho sự thiếu tin tưởng phổ biến vào chính trị và khiến cho nền dân chủ của chúng ta rơi vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Nội các Uno tin rằng vật lộn với cải cách chính trị là nhiệm vụ quan trọng nhất của chính phủ để khôi phục niềm tin của công chúng vào chính trị.” [65] Mặc dù các nhà bình luận chính trị không đồng tình với quan điểm cho rằng thủ tướng chỉ là con rối của Nakasone hay Takeshida song họ đồng ý rằng nội các của ông ta sẽ chỉ có tuổi thọ ngắn. Không ai dự đoán được rằng nó sẽ sụp đổ trong hai tháng. Ngay sau khi Uno nhậm chức, vợ của ông ta bắt đầu phàn nàn về tính cách keo kiệt của ông ta. Việc đả kích tính cách của thủ tướng đã bị các tờ báo lớn bỏ qua cho đến khi một bài báo xuất hiện trên tờ Washington Post. Sau đó, vụ bê bối tình dục đã trở thành chủ đề nóng không chỉ đối với những tờ báo lá cải Nhật Bản mà cả đối với truyền thông chính thống. [66]

Khi Uno bị truyền thông làm nhục, công chúng được khảo sát vào cho cuộc bầu cử Thượng Viện ngày 23/7/1989 và lần đầu tiên đã không đem lại cho đảng Dân Chủ Tự Do đa số truyền thống (đảng nhận được 109/252 ghế). [67] Vụ bê bối Recruit chỉ là một nhân tố trong sự thất bại này và có lẽ chỉ là phần rất nhỏ. Mặc dù các đảng đối lập cũng như truyền thông tập trung vào bê bối tình dục, song một luật thuế giá trị gia tăng (VAT) không được ưa thích được thông qua vào ngày 24/12/1988 (có hiệu lực vào ngày 1/4/1989) được cử tri quan tâm hơn. [68] “Điều làm gia tăng sự bất mãn của công chúng là luật thuế có hình ảnh giống như là việc các nghị sĩ của LDP áp đặt gánh nặng mới cho người dân đồng thời lại nhận một cách bất hợp pháp, hay ít nhất là cẩu thả, các khoản tiền hối lộ lớn….Tác động tiêu cực của vụ bê bối Recruit đối với hình ảnh đảng cầm quyền đã vượt qua vấn đề đạo đức [chính trị] và trở thành vấn đề thiếu năng lực.” Không giống như phản ứng của đáng trong các vụ bê bối trước đó, vụ Recruit “đã đẩy đảng vào sự bối rối và khó khăn khiến đảng phải đưa ra một người kế nghiệm và vị thế tương đối thấp của người kế nhiệm trong đảng đã không tạo ra sự hài lòng….Sau khi vụ Recruit kết thúc, khoảng cách về độ tin cậy giữa LDP và phe đối lập đã giảm xuống đáng kể.” [69]

Vào ngày 9/8/1989, Kaifu Toshiki trở thành thủ tướng. Vào tháng 10, khi đảng phủ quyết việc gia hạn nhiệm kỳ chủ tịch của Kaifu, thủ tướng nói, “Hơn nữa, tôi cho rằng mọi chính khách phải cố gắng để thúc đẩy cải cách chính trị mạnh mẽ bằng cách tạo dựng đạo đức chính trị cao quý và giành được chức vụ công bằng các hoạt động tranh cử công khai và không đắt đỏ.” [70] Trong cuộc bầu cử Hạ Viện tiếp theo vào ngày 18/2/1990, đảng Dân Chủ Tự Do giành được 275/512 ghế (11 nghị sĩ bảo thủ độc lập sau đó đã về phe họ). [71] Tại sao niềm tin của cử tri lại được đặt vào một đảng đầy bê bối? Trước hết, những người cận vệ già đã cố gắng hết sức để cải thiện hình ảnh của đảng: Kaifu, người đứng đầu một phái nhỏ có tinh thần cải cách, đã được chọn làm chủ tịch đảng; những người tương đối trẻ có sức hút về chính trị được chọn vào các vị trí chủ chốt của đảng; hai phụ nữ nhận được ghế trong nội các. Thứ hai, đảng thông báo kế hoạch sửa đổi luật VAT không được ưa thích. Thứ ba, đảng Xã Hội Chủ Nghĩa sau khi thắng cử năm 1989, dường như bị chìm trong đấu tranh phe phái và bám vào các chính sách đã lỗi thời. Cuối cùng, cũng như các vụ bê bối hối lộ chính trị trước đây, tác động của vụ Recruit nhanh chóng tan biến trong vài tháng giữa các cuộc bầu cử năm 1989 và 1990; chỉ có hai trong số 16 ứng cử viên dính líu vào vụ tham nhũng được tái cử, các ứng cử viên thắng cử khẳng định rằng bầu cử đã khôi phục danh tiếng của họ. [72] Bất chấp sự hồi phục thần kỳ của đảng Dân Chủ Tự Do sau vụ bê bối Recruit, một số nhà bình luận chính trị đã dự báo trước là sẽ có nhiều bê bối tham nhũng hơn do đảng đã sa sút và mất khả năng tự làm sạch. [73]

Vào ngày 24/1/1991, tại đại hội đảng Dân Chủ Tự Do, một nghị quyết cải cách chính trị được đưa ra. Vào tháng 8, nội các đã sẵn sàng đệ trình ba dự luật cải cách chính trị trong kỳ họp Quốc Hội rất khác thường. Các dự luật đề xuất áp dụng hệ thống bầu cử quận ghế đơn cùng với đại diện theo tỷ lệ. Trong kỳ họp, chính phủ và phe đối lập không thể thống nhất về một dự luật cải cách. Tuy vậy, thủ tướng Miyazawa Kiichi, người kế nhiệm Kaifu vào tháng 11/1990, đã tiếp tục thúc ép cải cách chính trị. Vào mùa xuân 1992, Ban Chỉ Đạo Cải Cách Chính Trị của đảng đệ trình cho Miyazawa một gói đề xuất: các nghị sĩ Quốc Hội sẽ phải công khai tài sản cá nhân, sự thiếu cân bằng trong việc đại diện ở Quốc Hội sẽ được điều chỉnh và những nỗ lực làm cho các quỹ chính trị minh bạch hơn. Tác động của chương trình cải cách này đối với cử tri vẫn chưa rõ nhưng đảng đã thắng lớn trong cuộc bầu cử Thượng Viện vào ngày 26/7/1992: một nửa trong số 252 ghế được bầu lại; đảng giành được 70 ghế. [74]

Ngay sau thắng lợi bầu cử tháng 7, đảng Dân Chủ Tự Do đã va phải một bê bối hối lộ khác, vụ này liên quan đến công ty Tokyo Sagawa Express (một hãng chuyển phát bưu kiện). Theo cách thức gợi nhớ đến chiến thuật của công ty Recruit, Sagawa Express đã phân phát “quyên góp” chính trị cho khoảng 130 nghị sĩ Quốc Hội. Trong số những người bị công tố viên Tokyo điều tra có Kanemaru Shin, phó chủ tịch đảng Dân Chủ Tự Do, người được coi là người môi giới quyền lực chính của đảng. Đối mặt với bằng chứng về việc không khai báo 500.000 yen nhận được từ Sagawa Express (vi phạm Luật Điều Chỉnh Quỹ Chính Trị), Kanemaru nhận tội vào ngày 27/8 và từ chức ở đảng cũng như vị trí thủ lãnh của phe Takeshita (dựa trên phe cũ của Tanaka Kakuei). Sự nhận tội nhanh chóng, cùng với việc đóng một khoản phạt nhỏ, đã không xoa dịu được giận dữ của công chúng, thể hiện bằng nhiều cuộc biểu tình. Cuối cùng, Kanemaru từ chức ở Quốc Hội vào ngày 14/10. [75] Tổng bí thư đảng Watanuki Tamisuke khẳng định rằng vụ Kanemaru là “cực kỳ đáng tiếc và đảng của chúng tôi xem xét vụ việc này với tất cả sự nghiêm túc và thận trọng, cũng như bày tỏ sự hối tiếc đối với người dân….Vụ án đã khiến công chúng không hài lòng và mất niềm tin vào chính trị. Đảng của chúng tôi ghi nhận điều này trong tâm can và quyết tâm đoàn kết khôi phục sự tin tưởng của công chúng đối với chính trị.” [76] Thủ tướng Miyazawa, trong một bài phát biểu về chính sách tại Quốc Hội vào ngày 30/10, đã nói, “Điều đáng tiếc nhất là niềm tin của công chúng đối với chính khách đã bị lung lay dữ dội….Tôi thực sự cảm thấy rằng sự thiếu tin tưởng vào của công chúng đối với chính trị chưa bao giờ lớn như hiện nay….Chương trình cải cách của chúng ta sẽ khiến cho các quỹ chính trị minh bạch, các hoạt động chính trị bớt tốn kém và thực hiện tranh cử dựa trên đề xuất chính sách.” [77]

Kanemaru sai lầm nếu như ông ta hy vọng rằng nhận tội và từ chức sẽ chấm dứt biểu tình của công chúng. Công tố viên, dĩ nhiên được sự giận dữ của công chúng khuyến khích, đã bắt giữ Kanemaru vào ngày 6/3/1993, với cáo buộc trốn thuế, một tội dễ chứng minh hơn hối lộ chính trị. Cuộc khám xét nhà và văn phòng của Kanemaru vào ngày 8/3, với sự chứng kiến của máy quay phim của truyền hình, đã phát hiện ra 10 triệu dollar dưới dạng vàng, tiền mặt và trái phiếu. Khi công chúng vẫn có ý nghĩ rằng chính trị là công việc bẩn thỉu thì sự việc gây sốc này đã chứng minh điều đó bởi vì việc cất giấu của cải của Kanemaru có lẽ là cho bản thân hơn là chính trị. [78] Theo một học giả, dường như đây là lần đầu tiên nơi ở cá nhân và văn phòng của một chính khách lớn bị cảnh sát và công tố viên khám xét. Kanemaru bị kết án vào ngày 13/3; phiên tòa xét xử ông ta bắt đầu vào ngày 22/7/1993. [79] 

Sau khi Kanemaru từ chức, một cuộc đấu tranh giành quyền lực nổ ra ở phe Takeshita, phe này bị chia làm hai nhóm. Vào ngày 18/12, một nhóm thành lập Diễn Đàn Cải Cách 21. Nhóm này, do Hata Tsutomu lãnh đạo, sau đó thành lập Shinseitò (đảng Phục Hưng). Phe Hata kêu gọi những sự thay đổi lớn trong phương thức bầu cử và cải cách hệ thống quyên góp chính trị. Vào đầu năm 1992, một nhóm cải cách chính trị khác, do một cựu quận trưởng tên là Hosokawa Morihiro lãnh đạo, đã thành lập Nihon Shintò (đảng Nhật Bản Mới). Vào tháng 6/1993, Takemura Masyoshi, một lãnh đạo của ủy ban cải cách chính trị của đảng Dân Chủ Tự Do, đã thành lập Sakigake Shintò (đảng Người Tiền Trạm Mới).80

Khi thủ tướng Miyazawa trình bày kế hoạch cải cách chính tri vào mùa xuân năm 1993, ông ta bị phản đối cả từ phía các chính khách đối lập, vốn không thích hệ thống quận một thành viên mà họ cho rằng chỉ có lợi cho đảng Dân Chủ Tự Do, lẫn từ phía một số đảng viên đảng Dân Chủ Tự Do, những người cho rằng cơn bão chính trị này, cũng như các cơn bão trước đây, sẽ sớm đi qua. Họ đã sai lầm. Sau khi chương trình cải cách tạm thời bị gác lại, phe đối lập cùng với một số đảng viên Dân Chủ Tự Do đã thắng trong một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm dựa trên lý do Miyazawa không thực hiện lời hứa với công chúng về việc thực hiện cải cách chính trị. Thủ tướng giải tán Hạ Viện. [81] Vào ngày 18/7, người dân trả lời khảo sát, đã không đem đến cho đảng Dân Chủ Tự Do đa số tại Hạ Viện lần đầu tiên (đảng giành được 223 ghế, thiếu 33 ghế để chiếm đa số). [82] Vào cuối tháng, 7 đảng thống nhất thành lập một chính phủ liên hiệp, với Hosokawa (đảng Nhật Bản Mới) làm thủ tướng. [83]

Chương trình cải cách chính trị của thủ tướng mới, cũng giống như của Miyazawa, nhận được sự phản đối của các chính khách e ngại về sự thay đổi trong hệ thống chính trị. Quốc Hội đã thông qua một gói cải cách chính trị nhượng bộ (bốn dự luật lập pháp) vào ngày 29/1/1994. Hệ thống bầu cử mới tạo ra 300 khu vực bầu cử một thành viên và hai trăm ghế dựa trên đại diện theo tỷ lệ, kiểm soát chặt chẽ hơn việc gây quỹ và chính phủ trợ cấp cho các chính đảng. Hệ thống bầu cử mới sẽ có hiệu lực sau khi một ủy ban độc lập xác định lại ranh giới của ba trăm đơn vị bầu cử mới. [84] Một nhà báo viết, “Các quy định mới nên kiềm chế hoàn toàn các khối quyền lực ở Quốc hội, được tạo thành từ các thành viên dựa vào các nhóm lợi ích đặc biệt – như ngành xây dựng hay vân động động cho nông nghiệp – bằng cách nhận quyên góp chính trị của họ.” [85] Tờ Economist bình luận, “Hệ thống mới đã giảm sự cám dỗ của việc hối lộ cử tri. Đồng thời, ranh giới các khu vực bầu cử được vẽ lại. Điều này có nghĩa là làm suy yếu sức mạnh của các đảng khu vực, vốn phát triển chỉ nhờ vào gây quỹ và phân phát tiền tranh cử bất hợp pháp. Phong bì trắng chứa tiền sẽ không còn là vấn đề; xuất hiện trên truyền hình sẽ thuyết phục cử tri hơn.” [86] Các nhà báo thiếu lạc quan về tác động cải cách của Hosokawa viết, “Theo một khảo sát truyền hình, chỉ có 14% người trả lời cho rằng họ thấy các biện pháp chống tham nhũng đã đủ mạnh.” [87] Tờ Mainichi Newspaper bình luận, “Đạo luật không đáp ứng lời kêu gọi của công chúng về việc chấm dứt ngay lập tức mối quan hệ chặt chẽ giữa kinh doanh và chính trị…nguồn gốc của chính trị tiền bạc tha hóa.” [88]

Ngay sau khi thông qua đạo luật cải cách chính trị, chính phủ của Hosokawa bắt đầu tan rã vì cải cách thuế. Các đối thủ chính trị nhanh chóng sử dụng bài cũ là cáo buộc tham nhũng liên quan đến nợ nần và quyên góp chính trị của công ty Tokyo Sagawa Express để chống lại thủ tướng; công ty này vẫn in dấu trong trí nhớ của công chúng vì phiên tòa xét xử Kanemaru Shin. [89] Hata Tsutomu, một người cải cách khác và lại cựu thành viên của đảng Dân Chủ Tự Do, đã thành lập nội các liên hiệp mới vào ngày 25/4. Không may cho Hata, cuộc tranh luận tiếp tục gay gắt về cải cách thuế đã phá vỡ liên minh; điều này khiến thủ tướng phải đứng đầu một chính phủ thiểu số (chỉ có 182 ghế ở Hạ Viện; cần có 256 ghế để thông qua một dự luật); nội các chỉ tồn tại 59 ngày. [90] 

Nội các liên hiệp tiếp theo đã khiến các nhà bình luận chính trị bị sốc: Murayama Tomiichi, lãnh đạo của đảng Dân Chủ Xã Hội, lên làm thủ tướng trong một chính phủ được đảng Dân Chủ Tự Do hậu thuẫn. Kể từ nội các Katayama Tetsu (5/1947 – 3/1948) đã không có một thành viên xã hội chủ nghĩa nào giữ chức thủ tướng. “Mối quan hệ kỳ quặc giữa đảng Dân Chủ Tự Do và đảng Dân Chủ Xã Hội”, một nhà báo viết, “đã khiến đất nước sững sờ và ngay lập tức dấy lên nỗi sợ hãi rằng tất cả những gì tiến bộ trong việc phi điều tiết kinh tế và làm sạch hệ thống chính trị đầy tham nhũng sẽ bị ngừng lại hoặc đảo ngược.” [91] Tờ New York Times bình luận, “Chỉ có một hệ thống chính trị đang hấp hối mới tạo ra một chính quyền như chính quyền mà nghị viện Nhật Bản đã chọn ngày hôm qua.” [92] Tờ U. S. News and World Report dự đoán là liên minh, được dẫn dắt “bởi các các chính khách LDP kỳ cựu biết cách bôi trơn cỗ máy chính quyền,” có thể sẽ làm bối rối những nhà bình luận chính trị lạc quan. [93] Đảng Dân Chủ Tự Do thống trị liên minh mới, chiến 13/21 ghế trong nội các, trong đó có cả ghế phó thủ tướng (Kòno Yòhei, chủ tịch của đảng Dân Chủ Tự Do). Hơn nữa, họ áp đảo đảng Xã Hội Dân Chủ với tỷ lệ gần 3:1 ở Hạ Viện. [94]

Sự chia rẽ của đảng Dân Chủ Tự Do và sự thay đổi nhanh chóng của chức thủ tướng (Murayama là thủ tướng thứ bảy trong bảy năm) đã gợi cảm hứng cho nhiều bài báo và cuốn sách về cải cách chính trị. Blueprint for a New Japan (Nihon kaizò keikaku) được xuất bản năm 1993 (bản tiếng Anh vào năm 1994). Ozawa Ichirò, tác giả và là cựu tổng bí thư của đảng Dân Chủ Tự Do, ban đầu là một trong những người được Tanaka Kakuei bảo trợ và sau đó là môn đệ trưởng của Kanemaru Shin. Cũng giống như hầu hết các lãnh đạo cao cấp khác của phái Kanemaru, Ozawa cũng dính líu vào hàng loạt các vụ bê bối hối lộ. Sự đánh giá quan điểm của Ozawa về cải cách là hỗn hợp, nhiều nhà phân tích lập luận rằng ông ta chỉ bảo vệ bản thân trước sự chỉ trích của công chúng và các cáo trạng có thể của công tố viên; những người khác cho rằng mục đích của ông ta là một cuộc cải cách thực sự. [95] Robert C. Angel, một người nghiên cứu chuyên sâu về chính trị Nhật Bản, coi quan điểm mới của Ozawa về cải cách chính trị là “sự biến ảo trái ngược với kinh nghiệm của Saul xứ Tarsus trên đường tới Damascus.” [96]

Cuốn sách của Ozawa nhận định sự thiếu khả năng lãnh đạo trong lĩnh vực chính trị là vấn đề chủ chốt: nguyên nhân chủ chốt là sự phân tán quyền lực trong đảng Dân Chủ Tự Do và các cơ quan kiểm soát nhà nước khác. [97] “Hội Đồng Nghiên Cứu Chính Sách của LDP – định hướng chính sách của đảng – trên thực tế là một hội đồng của các lợi ích đặc biệt và đa dạng….Chính phủ, trong khi đó, bản thân lại bị chia rẽ bởi nhiều thể chế và lợi ích. Các bộ và cơ quan là những thực thể rời rạc. Không có thể chế vượt trội nào để phối hợp và kiểm soát toàn thể. Nội các đóng vai trò này về mặt kỹ thuật nhưng không bao giờ thực sự được kỳ vọng sẽ làm việc đó.” Về thủ tướng, Ozawa cho rằng ông ta “chỉ là chủ lễ của nghi lễ cận kề.” [98] Để thay đổi sự thất bại này, Ozawa bảo vệ cho một cuộc cải cách hệ thống, từ thủ tướng trở xuống. “Tất cả những gì không thực sự đòi hỏi sự can thiệp của chính quyền trung ương nên chuyển giao cho chính quyền địa phương. Thêm vào đó, chúng ta phải giới hạn quyền lực bằng cách đảm bảo chính phủ được luân chuyển định kỳ….[C]hung ta phải có một chính quyền chịu trách nhiệm trong một khoảng thời gian cố định, với quyền lực và chính sách xác định.” [99] 

Trong số nhiều cải cách thì Ozawa nhấn mạnh nhu cầu về hệ thống tài trợ chính trị tốt hơn. Cách tốt nhất để tranh các bê bối tham nhũng và khôi phục niềm tin của công chúng là làm cho dòng tiền minh bạch. Các nhóm và doanh nghiệp không bao giờ nên chi tiền cho cá nhân mà chỉ nên chi cho các chính đảng. Hoàn toàn công khai với các hình phạt nặng đối với những người vi phạm là mấu chốt của sự cải cách này. [100]

Ozawa lên án nhiều vấn đề chính trị quốc gia bắt nguồn từ sự lão hóa của “hệ thống 1955”, trong hệ thống đó chính trị trở thành các đàm phán bí mật giữa các phe phái chính trị để phân chia ngân sách với nhau, với các chính đảng khác, với viên chức và doanh nghiệp. Ít có cuộc tranh luận nghiêm túc về chính sách khi khi họ phân chia miếng bánh kinh tế. Những người có quan điểm lịch sử dài hạn biết rõ vấn đề Ozawa phác thảo bắt nguồn từ sự tan ra của “hệ thống 1955” và sự biến dạng chính trị do hiệp định phòng thủ Hoa Kỳ - Nhật Bản và các vấn đề khác thời hậu chiến. Trên thực tế, cấu trúc chính trị của nhà nước hiện đại bị đè nặng bởi thứ được gọi theo cách của Maruyama Masao là ““tội tổ tông”: chủ nghĩa đa nguyên về quyền lực chính trị.” [101] Vào đầu và giữa thời Minh Trị, sự lãnh đạo mạnh mẽ của những người cha lập quốc ẩn náu sau một trung tâm chính trị yếu, nhưng vào những năm 1930 và đầu những năm 1940, rạn nứt trong hệ thống chính quyền Minh Trị đã trở nên rõ ràng. Chiến tranh, bại trận, bị chiếm đóng và cải cách chính trị không phá hủy được bản chất phe cánh của cấu trúc chính trị quốc gia. Chỉ có sự đại tu toàn bộ hệ thống chính trị mới có thể mang lại sự cải cách thực sự. Một học giả Nhật Bản khẳng định rằng chỉ có sự kết hợp cải cách quyền lực sau sự chiếm đóng của đồng minh với cách mạng Pháp mới tạo ra sự khác biệt trong chính trị. [102]

Cuộc đối thoại về cải cách chính trị giữa các chính khách và trên truyền thông được đồng hành bằng nhiều cuốn sách được xuất bản trong cùng năm xuất bản sách của Ozawa. Đối với nhiều người, cải cách chính trị có nghĩa là kiểm soát chặt chẽ hơn chính trị tiền bạc và hệ thống quận bầu cử. Nhưng như giáo sư Yamaguchi Jirò của đại học Hokkaido đã chỉ ra, chúng chỉ là những sự thay đổi bên ngoài; sự cải cách chính trị thật sự, thứ hồi sinh chính trị dân chủ, đòi hỏi phải tổ chức lại các chính đảng và thái độ mới của công dân. “Tam giác sắt” kết nối chính khách, viên chức và nhóm lợi ích, hình thành để kiếm lợi với chi phí của người đóng thuế, cần phải bị bẻ gãy nếu như có một cuộc cải cách chính trị thật sự. Nói tóm lại, giới chính trị đang cần có một một sự sắp xếp toàn diện, không chỉ khiến hệ thống hành chính cởi mở hơn mà còn giảm số lượng tham nhũng. Yamaguchi cho rằng thế hệ chính khách mới có thể vượt qua những ràng buộc phe cánh cũ, tạo thành những nhóm chính trị mới và tạo ra cải cách thực sự. [103] 

Ngon gió thay đổi chính trị đang thổi, nhưng hầu hết các đề xuất cải các đều yêu cầu một sự thay đổi quyết định trong thái độ của chính khách, viên chức và công dân. Do phe phái trong chính trị đã bắt đầu từ Quốc Hội thứ 1 vào năm 1890 và do phe phái tràn lan trong xã hội (cụ thể là nhóm của tôi chống lại nhóm của anh), một sự thay đổi nhanh chóng trong phương diện chính trị này là khó diễn ra. Các nhà phân tích chính trị khẳng định rằng vấn đề chính trị cơ bản là bản chất phi dân chủ của giới hành chính. Họ viết rằng “kể từ năm 1941, Nhật Bản đã có một hệ thống hợp tác công nghiệp do giới hành chính lãnh đạo.” [104] Vào cuối năm 1993, Ozawa Ichirò kêu gọi loại bỏ một số viên chức hành chính cấp cao và thăng cấp cho các chính khách, đóng vai trò người giám sát ở mỗi bộ, cũng như đưa các chính khách vào đội ngũ trưởng văn phòng ở các bộ chủ chốt. Điều mà Ozawa hướng tới là một phiên bản của hệ thống do tổng thống bổ nhiệm theo kiểu Hoa Kỳ. Viên chức đã cực lực phản đối kế hoạch này, coi nó là một nỗ lực chính trị hóa dịch vụ dân sự. [105] Do vậy, các nhà cải cách chính trị phải chuẩn bị cho cuộc phản công dữ dội từ phía viên chức hành chính muốn duy trì hiện trạng. Về phía công dân, những người đã có lịch sử lâu dài trong việc chấp nhận sự phạm pháp của viên chức hành chính và chính khách chừng nào mà kinh tế còn tăng trưởng, các nhà cải cách không nên kỳ vọng một sự thay đổi nhanh chóng trong thái độ của họ. Tóm lại, nỗ lực cải cách chính trị toàn diện có vẻ sẽ không diễn ra trong tương lai gần. Những sự thay đổi nhỏ nhặt hơn có thể diễn ra.

Chú thích:

1. Akira Kubota, “A Genuine Reform? The June–August 1993 Upheaval in Japanese Politics,” 112.
2. Yanaga, Big Business, 83–85; 120–122; Masumi, Postwar Politics, 248–249, 276–277; Kòdansha, Illustrated Encyclopedia 1:888.
3. Morikawa Tetsurò, Nihon gigoku shi, 243–244.
4. Ibid., 244–245; Peter J. Herzog, Japan’s Pseudo-Democracy, 153; Masumi, Postwar Politics, 298. Shipbuilding was a key industry targeted for government aid. Wartime losses left Japan with an acute shortage of merchant ships, which were needed to resume trade in the world economy. Tessa Morris-Suzuki, The Technological Transformation of Japan: From the Seventeenth to the Twenty-first Century, 187–188.
5. Herzog, Pseudo-Democracy, 298; Morikawa Tetsurò, Nihon gigoku shi, 246–247.
6. Morikawa Tetsurò, Nihon gigoku shi, 247; Kishimoto Yoshihiro tsuisòroku kankòkai, Kishimoto Yoshihiro tsuisòroku, 216. Murobushi, Sengo gigoku, 136.
7. Morikawa Tetsurò, Nihon gigoku shi, 251–252; Herzog, Pseudo-Democracy, 154.
8. Morikawa Tetsurò, Nihon gigoku shi, 252; Wildes, Typhoon in Tokyo, 141–142.
9. Morikawa Tetsurò, Nihon gigoku shi, 264; Aritake, Seiji, 289–290; Masumi, Postwar Politics, 298–299; Murobushi, Sengo gigoku, 166–167, 173.
10. Kishimoto, Kishimoto Yoshihiro tsuisòroku, 216; Morikawa Tetsurò, Nihon gigoku shi, 264; Murobushi, Sengo gigoku, 135–136, 170.
11. Yanaga, Big Business, 128–130; Lloyd A. Free, The Dynamics of Influence in Today’s Japan, 1.
12. Allan B. Cole and Naomichi Nakanishi, eds., Japanese Opinion Polls with Socio-Political Significance, 1947–1957 1:164, 167.
13. Yanaga, Big Business, 129.
14. Free, Dynamics of Influence, 11.
15. Frank C. Langdon, “Part IV: Japan,” 177–178.
16. Ibid., 178.
17. Chapman, Inventing Japan, 158.
18. Ibid.; Karel van Wolferen, The Enigma of Japanese Power: People and Politics in a Stateless Nation, 133.
19. Yoshida Shigeru, The Yoshida Memoirs: The Story of Japan in Crisis, 98– 99.
20. B. J. George, Jr., “Discretionary Authority of Public Prosecutors in Japan,” 61–62; Arthur T. von Mehren, “Commentary: Part II,” 427–428.
21. Aritake, Seiji, 287–288.
22. Ushiomi Toshitaka, “The Prosecution at the Crossroads,” 84–85.
178 Notes to Pages 116–122
23. Nomura, Hòsò fûunroku, 1:84.
24. Ibid., 2:223.
25. Ibid., 355, 369–370.
26. Masumi Junnosuke, “The 1955 System in Japan and Its Subsequent Development,” 300.
27. Nobuo Tomita, Akira Nakamura, and Ronald J. Hrebenar, “The Liberal Democratic Party: The Ruling Party of Japan,” 258–259.
28. Masumi, “The 1955 System in Japan,” 292, 295.
29. Hans H. Baerwald, “Tento-Mura: At the Making of a Cabinet,” 70–73; Herzog, Pseudo-Democracy, 158.
30. Marshall E. Dimock, The Japanese Technocracy: Management and Government in Japan, 85; Curtis, Election Campaigning, 28.
31. Haruhiro Fukui, “Postwar Politics, 1945–1973,” 6:192, 195, 198, 210.
32. Masumi, “The 1995 System in Japan,” 302–303.
33. Chalmers Johnson, “Tanaka Kakuei, Structural Corruption, and the Advent of Machine Politics in Japan,” 11.
34. Michael K. Blaker, ed., Japan at the Polls: The House of Councillors Election of 1974, i.
35. Chapman, Inventing Japan, 159.
36. Herbert Passin, “The House of Councillors: Promise and Achievement,”
34.
37. Ibid.; Blaker, Japan at the Polls, ii.
38. Johnson, “Machine Politics,” 12; James L. Huffman, “The Idioms of Contemporary Japan XI,” 509–511, 513; Takako Kishima, Political Life in Japan: Democracy in a Reversible World, 102, 104, 137.
39. Ronald J. Hrebenar, “The Money Base of Japanese Politics,” 66–67; Johnson, “Machine Politics,” 12; Huffman, “Idioms,” 509–511.
40. Quoted in Hrebenar, “Money Base,” 67.
41. Ibid.
42. Ibid., 68–69.
43. Kishimoto Kòichi, Politics in Modern Japan: Development and Organization, 137.
44. Curtis, Japanese Way, 164.
45. Ibid.
46. Ibid., 181. Kishimoto, Politics in Modern Japan, 137; Kòdansha, Illustrated Encyclopedia, 2:1212.
47. Taketsugu Tsurutani, “The LDP in Transition? Mass Membership Participation in Party Leadership Selection,” 848.
48. Ibid.
49. Ibid., 851–852.
50. Ibid., 852–853.
51. Ibid., 856.
52. Herzog, Pseudo-Democracy, 161, 163–164; Johnson, “Machine Politics,” 15.
53. David Boulton, The Lockheed Papers, 45, 241–250.
54. Herzog, Pseudo-Democracy, 163–167; Johnson, “Machine Politics,” 15.
55. Herzog, Pseudo-Democracy, 168–170.
Notes to Pages 123–129 179
56. Johnson, “Machine Politics,” 15.
57. Kòdansha, Illustrated Encyclopedia, 1:888; Johnson, “Machine Politics,” 19.
58. Hrebenar, “Money Base,” 64; Johnson, “Machine Politics,” 16.
59. Hertzog, Pseudo-Democracy, 157.
60. Ibid., 175.
61. Ibid., 178; Yayama, “The Recruit Scandal,” 101; William J. Holstein,
The Japanese Power Game: What It Means for America, 110; Kòdansha, Illustrated Encyclopedia, 2:1248.
62. James W. White, “The Dynamics of Political Opposition,” 446.
63. Herzog, Pseudo-Democracy, 186, 188.
64. Holstein, Power Game, 125; Liberal Star, June 15, 1989, 1, 3.
65. Quoted in Liberal Star, June 15, 1989, 1.
66. Holstein, Power Game, 125–127; Kubota, “Genuine Reform?” 96.
67. Holstein, Power Game, 131–132; Chalmers Johnson, “The People Who Invented the Mechanical Nightingale,” 83.
68. Kenji Hayao, The Japanese Prime Minister and Public Policy, 93.
69. Scott C. Flanagan, “The Changing Japanese Voter and the 1989 and 1990 Elections,” 445–446.
70. Quoted in Liberal Star, November 15, 1989, 2.
71. Ibid., March 15, 1990, 1.
72. Flanagan, “Changing Japanese Voter,” 458–461.
73. Igarashi Akio, book review of Jimintò: Chòki shihai no kòzò, 21–23.
74. Liberal Star, February 15, 1991, 4; July 15, 1991, 2; August–September, 1991, 1; October 15, 1991, 2–3; November 15, 1991, 1; December 15, 1991, 3; April 15, 1992, 1; August–September, 1992, 1.
75. Herzog, Pseudo-Democracy, 189, 268; “Lurching toward Realignment,”
6; Mizuguchi Hiroshi, “Political Reform: Much Ado about Nothing?” 253.
76. Quoted in Liberal Star, October 15, 1992, 2.
77. Ibid., November 15, 1992, 2.
78. Paul Blustein, “No Wonder U.S. Firms Couldn’t Win: Rigged Contracts in Japan Shut Out Others,” 19; Mizuguchi, “Political Reform,” 253.
79. Kubota, “Genuine Reform?” 97.
80. “Lurching toward Realignment,” 7; Kubota, 93.
81. Ibid., 93, 98.
82. New York Times, July 19, 1993, A1, A9.
83. Ibid., July 30, 1994, Al, A5.
84. Japan Times, January 30, 1994, 1, 3.
85. Paul Blustein, “In Japan, Will One Reform Beget Another? A Political Cleanup May Lead Economic Change,” 16.
86. Economist, April 16, 1994, 16.
87. Wall Street Journal, January 31, 1994, A9.
88. Quoted in ibid.
89. New York Times, April 11, 1994, A3,; Newsweek, April 18, 1994, 31; Kubota, “Genuine Reform?” 123 n. 37.
90. New York Times, April 26, 1994, A1; Newsweek, July 4, 1994, 49.
91. New York Times, June 30, 1994, A1.
180 Notes to Pages 129–138
92. Ibid., A12.
93. U.S. News and World Report, July 11, 1994, 15.
94. New York Times, July 1, 1994, A3.
95. Chalmers Johnson, Japan: Who Governs? The Rise of the Developmental State, 219.
96. Robert C. Angel, “Implications of Japan’s July 1993 General Election: ‘The People Have Mumbled,’ ” unpublished paper, 5.
97. Ozawa, Blueprint, 23–24.
98. Ibid., 24–25.
99. Ibid., 29.
100. Ibid., 68–70.
101. Maruyama Masao, Thought and Behaviour in Modern Japanese Politics, 127.
102. Johnson, Who Governs? 231.
103. Yamaguchi Jirò, “The Book Forum of Political Reform,” 4–5.
104. Quoted in Johnson, Who Governs? 226.
105. Ibid., 228.