Showing posts with label Quân sự hóa. Show all posts
Showing posts with label Quân sự hóa. Show all posts

Thursday, March 3, 2016

Bảo vệ Philippine: Hãy học Việt Nam!

Trước khi sự kiện Trung Quốc xâm lấn đảo mà Philippine đang chiếm giữ trên quần đảo Trường Sa diễn ra khoảng hơn 1 tháng, tờ Thời Báo Manila đã có đăng bài viết của nhà báo Ricardo Saludo cảnh báo sự phụ thuộc của Philippine vào Mỹ trong vấn đề quốc phòng. Ông cho rằng chiến lược quốc phòng của Philippine cần phải làm ngược lại chiến lược hiện nay, tức là giảm sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ ở Philippine để không khiêu khích Trung Quốc, nhất là sự có mặt của vũ khí hạt nhân, đồng thời gia tăng chi tiêu cho các loại vũ khí phòng thủ mang tính răn đe cao để làm nản lòng Trung Quốc, giống như Việt Nam đã làm. Sự xâm lấn không ngừng của Trung Quốc tại các đảo mà Philippine chiếm giữ, trong đó có nhiều đảo Philippine đã chiếm của Việt Nam từ trước năm 1975, mà Hoa Kỳ hoàn toàn không có động thái can thiệp đã cho thấy sự phá sản của chiến lược trông cậy vào đồng minh lớn. Một lần nữa người Philippine lại nhìn sang bài học độc lập, tự chủ, tự cường của Việt Nam. 

Phần bình luận của độc giả cũng được dịch để bạn đọc có thể biết thêm về dư luận công chúng ở Philippine, điều thú vị là dư luận công chúng ở nước họ cũng có nhiều điểm tương đồng một cách kỳ lạ với dư luận ở Việt Nam.


Ngày 21/1/2016 12:03 chiều 


Philippines có thể có sự bảo vệ bên ngoài mạnh mà không cần có Hiệp Định Hợp Tác Quốc Phòng Nâng Cao (EDCA) gia tăng sự triển khai của quân đội Hoa Kỳ cũng như sự tiếp cận của họ đối với các căn cứ của Philippine? 

Có vài sai lầm trong câu hỏi đó. Ngay cả khi có nhiều thêm quân đội Hoa Kỳ ở Philippine theo hiệp định, họ cũng sẽ không chiến đấu để bảo vệ sự đòi hỏi lãnh thổ của chúng ta, vậy thì tại sao phải viện dẫn đến EDCA? 

Hoa Kỳ đã không bao giờ can thiệp khi Trung Quốc chiếm đá Vành Khăn vào năm 1995 và bãi cạn Cỏ Mây vào năm 2012, tổng tư lệnh Obama đã không có bất cứ phản ứng nào khi sự tranh chấp hàng hải giữa Trung Quốc và Philippine trở nên bạo lực, như các phóng viên của Palace đã hai lần đưa ra câu hỏi vào năm 2014. Ngay cả sự đòi hỏi quy mô lớn của Trung Quốc cũng như việc xây dựng các cơ sở của họ ở Trường Sa, Hoa Kỳ cũng chỉ phản đối bằng miệng và hành động duy nhất đáng để bàn luận là việc tuần tra chung với hải quân Philippine. 

Do đó, EDCA không phải là yếu tố giải quyết vấn đề an ninh bên ngoài tối thượng của quốc gia hiện nay: tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. 

Đối với bản thân quần đảo, không có nguy hiểm tức thời hay trong tương lai gần, ít nhất là trước khi EDCA cho phép thêm các vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ tiến vào quần đảo. Ngay cả khi không có hiệp định mới, theo Hiệp Ước Phòng Thủ Tương Hỗ (MDT) Hoa Kỳ cũng đã cam kết sẽ hành động nếu như lãnh thổ chính hay quân đội của chúng ta bị tấn công.

Nhắc lại: MDT bao quát sự phòng thủ của Hoa Kỳ đối với lãnh thổ chính của Philippine, vốn không đối mặt với nguy cơ xâm lược. Nhưng cả MDT và EDCA đều không cam kết là quân đội Hoa Kỳ sẽ chống lại sự xâm lấn của Trung Quốc tại các đảo đá và bãi cạn mà Philippine đang chiếm giữ.

Làm dịu các nguy cơ

Tốt thôi, chúng ta làm cách nào để gia tăng an ninh quốc gia, có hoặc không có EDCA?

Thứ nhất, giảm nhẹ các nguy cơ. Điều này sẽ gia tăng an ninh quốc gia trước khi gia tăng quốc phòng.

Mối đe dọa an ninh hàng đầu hiện nay và sắp tới, đặc biệt là khi có thêm các lực lượng hạt nhân của Hoa Kỳ được triển khai ở quần đảo, là nguy cơ Trung Quốc sẽ tấn công vào lực lượng Hoa Kỳ có khả năng dùng vũ khí hạt nhân chống lại họ, cùng với các căn cứ và cơ sở hỗ trợ Hoa Kỳ.

Đừng tin bất cứ ai nói rằng Trung Quốc, đối mặt với sự tấn công hạt nhân từ các căn cứ của Hoa Kỳ ở Philippine, sẽ không vô hiệu hóa các lực lượng này, ngay cả khi phải gây thiệt hại liên đới lớn đối với nước ta, ngay cả khi điều đó châm ngòi cho cuộc chiến tranh nhiệt hạch. 

Hồi năm 1962, khi Nga cố đưa các tên lửa vào Cuba sau khi các đầu đạn của Hoa Kỳ được đặt ở Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ đã sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh tổng lực, tên lửa đạn đạo và máy bay ném bom đều sẵn sàng chiến đấu. May mắn là cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba đã kết thúc sau khi cả Moscow và Washington đều rút tên lửa về. 

Đừng hoài nghi về điều này: Trung Quốc cũng sẽ tham chiến nếu bị đe dọa bằng vũ khí hạt nhân.

Do vậy, bước quan trọng nhất để nâng cao an ninh của Philippine là đảm bảo rằng không có vũ khí hạt nhân được đưa vào lãnh thổ của chúng ta, như hiến pháp đã cấm và phán quyết của tòa án tối cao về EDCA đã lặp lại.

Điều này có nghĩa là thúc ép chính quyền yêu cầu Hoa Kỳ đảm bảo rằng không có tàu chiến hay máy bay nào mang vũ khí hạt nhân tiến vào quần đảo, như bài báo hôm thứ ba đã thúc giục (xem http://www.manilatimes.net/how-to-stop-the-edca/240157/ ).

Nguy cơ đe dọa an ninh số 2, một phần là bị kích động bởi EDCA, là Bắc Kinh gia tăng xây dựng các cơ sơ năng lực quân sự không quân và hải quân trên các đảo tranh chấp ở Trường Sa. Để chống lại nguy cơ này, chúng ta cần thuyết phục Trung Quốc dùng các cơ sở này chủ yếu cho mục đích dân sự và ngừng xây thêm.

Đúng vậy, nhiều người sẽ cười khúc khích. Trên thực tế, đây là điều mà Bắc Kinh muốn và họ có thể sẵn sàng phi quân sự hóa đá Chữ Thập. Để đổi lấy sự cắt giảm triển khai quân đội Hoa Kỳ ở Philippine, người Trung Quốc có thể đồng ý kiềm chế sự gia tăng quân sự của họ trên biển Nam Trung Hoa.

Quân sự hóa phần lớn là để bảo vệ tuyến đường hàng hải sống còn, nơi có 4/5 lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc đi qua. Nếu như sự gia tăng quân sự của Hoa Kỳ ở Philppine được kiềm chế, Trung Quốc sẽ ít có lý do gia tăng triển khai lực lượng của họ ở gần quần đảo.

Bắc Kinh có sẵn sàng cắt giảm hoạt động quân sự ở đá Chữ Thập để đổi lấy sự cắt giảm quân đội Hoa Kỳ ở nước ta?

Tại sao không? Sự lựa chọn của Trung Quốc là việc gia tăng quân sự biển sâu đầy đắt đỏ và bị quốc tế phản đối, có thể kéo dài nhiều năm và tiêu tốn hàng chục tỷ nhân dân tệ để bắt kịp hạm đội 7, với sự hậu thuẫn của 8 căn cứ ở Philippine.

Không có gì là phức tạp đối với Bắc Kinh: biến đá Chữ Thập thành cơ sơ du lịch và hàng hải quốc tế, cắt giảm mạnh quân đội của Hoa Kỳ ở Philippine là tạo điều kiện cho điều đó. 

Thực hiện quyền phòng vệ

Dĩ nhiên, vấn đề của những nỗ lực làm dịu nguy cơ là Trung Quốc có thể tiếp tục xâm lấn và thậm chí coi những sáng kiến hòa giải là dấu hiệu của sự yếu đuối cần khai thác.

Do vậy, bên cạng việc làm dịu nguy cơ, Philippine cần phải tiếp tục gia tăng quốc phòng – nhưng không phải theo cách Hoa Kỳ và các đồng minh khác đang giúp chúng ta thực hiện.

Đất nước này đã chi hơn 30 tỷ pesos vào máy bay huấn luyện của Hàn Quốc, máy bay trực thăng tân trang của Hoa Kỳ và các trang bị khác. Chúng ta cũng nhận được hai tàu cảnh sát biển Hoa Kỳ, tàu tuần tra Nhật Bản và trang bị của Australia.

Tuy vậy, tất cả các trang thiết bị đó sẽ không làm nản lòng Trung Quốc. Trái lại, như các chuyên gia quân sự Hoa Kỳ đã nói, chúng ta cần các vũ khí chống xâm nhập, phong tỏa khu vực (A2AD), làm nản lòng mọi đối thủ tại nơi hệ thống vũ khí A2AD được triển khai. 

Hãy học hỏi Việt Nam: họ mua tàu ngầm và tên lửa diệt hạm. Tàu ngầm đe dọa một khu vực rộng lớn vượt xa vị trí thực tế của chúng, do chúng khó bị phát hiện và có thể ở bất cứ đâu trong phạm vi hoạt động.

Trong khi đó, tên lửa diệt hạm siêu thanh có thể đánh chìm mọi thứ trong tầm bắn. Tầm bắn 300 km của đầu đạn Ấn-Nga BrahMos – đủ để bao quát hầu hết khu vực đặc quyền kinh tế của đất nước. Việt Nam đã có lợi thế khi mua chúng.

Cựu cố vấn an ninh quốc gia và tốt nghiệp học viện hải quân Hoa Kỳ Rolio Golez đã thúc giục triển khai 200 BrahMos, có thể lắp 3 đầu đạn trên một xe tải và di chuyển tới bất cứ đâu, khiến chúng khó bị phát hiện.

Chỉ riêng 200 tên lửa cũng tạo ra một sự răn đe đáng kể, chỉ với khoảng 35 tỷ pesos, bao gồm cả cơ sở hạ tầng hỗ trợ và huấn luyện vận hành. Quốc hội có thể phân bổ một phần tiền thuê mỏ khí đốt Malampaya, hiện giờ khoảng 150 tỷ pesos, cho các tên lửa – một dự án liên quan có đến năng lượng để bảo vệ các nguồn khí đốt và dầu ngoài khơi.

Thay vì EDCA, công thức cho sự phòng thủ bên ngoài của Philippine nên là RT-A2AD. Giảm thiểu các nguy cơ (RT) và triển khai hệ thống vũ khí chống xâm nhập, phong tỏa khu vực (A2AD). Cộng thêm NN: Không vũ khí hạt nhân.

11 Hồi đáp cho bài báo Bảo Vệ Philppine

1. fgood nói: 

Tôi cho rằng tổng thống tiền nhiệm của Philippine đều biển thủ tiền. Các binh lính khốn khổ của Philippine đều bị lừa bịp và khó mà nhận ra rằng không quân chỉ là máy bay huấn luyện, luôn luôn huấn luyện. Hải quân chỉ có một chiếc tàu cũ nát và quân đội của chúng ta chỉ có trang thiết bị lỗi thời. AFP tốt trong cuộc chiến tranh 1945 nhưng hiện nay họ chỉ là những con vịt què, mọi thứ đều là công nghệ cao. Tôi cảm thấy thật tồi tệ khi họ có trái tim của chiến binh nhưng ông chủ của họ lại lừa dối họ.

2. Mariano Patalinjug nói: 

Yonkers, New York
22 January 2016
Nhà báo Ricardo Saludo đã bỏ thời gian và nỗ lực để cân đo tác động chiến lược của EDCA – và quan điểm của ông đáng được các thiết chế quốc phòng và chính trị của quốc gia nghiên cứu một cách nghiêm túc.

Tuy vậy, chiến lược bao trùm và sự thật địa chính trị là Trung Quốc và Hoa Kỳ đang bắt tay nhau trong một nỗ lực thống trị vùng biển quốc tế ở biển Nam Trung Hoa (SCS), tại đó có khoảng 5 nghìn tỷ thương mại hàng hải đi qua hàng năm, trong đó phần nhiều là dầu từ Trung Đông – cũng là khu vực mà Trung Quốc đã 1] tự ý áp đặt một đường được gọi là “Chín Đoạn, bao phủ hầu như toàn bộ SCS và tiến xa về phía Nam sát với Indonesia và 2] đào xới bất hợp pháp các cấu trúc hàng hải ở biển Tây Philippine mà Philippine khẳng định một cách đúng đắn là một phần lãnh thổ của mình theo Luật Quốc Tế [UNCLOS].

Điều đã xảy ra là Hoa Kỳ, hết lần này tới lần khác trong thời gian gần đây, đã tuyên bố cho toàn thế giới là HỌ CÓ LỢI ÍCH QUỐC GIA TRONG VIỆC GIỮ TUYẾN ĐƯỜNG BIỂN ĐANG BỊ TRANH CHẤP, VỐN LÀ VÙNG BIỂN QUỐC TẾ, Ở BIỂN NAM TRUNG HOA, HOÀN TOÀN MỞ CỬA.

Do vậy, vấn đề địa chính trị giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ hiện nay là vấn đề chung. Đó là bối cảnh địa chính trị của EDCA: EDCA, trong chừng mực mà Philippine và Hoa Kỳ quan tâm, chỉ là sự triển khai logic của MDT và VFA.

Hoa Kỳ, rõ ràng là đang thực hiện mọi chuẩn bị cần thiết cho việc ngả bài với Trung Quốc về biển Nam Trung Hoa, đã sẵn sàng đóng quân và mọi loại trang thiết bị quân sự và hải quân ở các căn cứ của Philippine, cận kề tối đa với mặt trận tiềm tàng – một lợi thế rất lớn nếu không nói là quyết định đối với Hoa Kỳ. 

Điều đó giải thích lý khiến ngay sau ngày tòa án tối cao phán quyết EDCA HỢP HIẾN, Trung Quốc đã lên án chính quyền bằng những khái niệm không chắc chắn. 

MARIANO PATALINJUG

3. Val Ofreneo nói: 

Hãy thông minh. Về vấn đề kiểm soát tài nguyên như dầu mỏ và vùng đáng bắt cá ư? Trung Quốc đã khởi động căn cứ của họ tại khu vực tranh chấp và họ tuần tra vùng biển cũng như bầu trời và cảnh báo những ai tới gần. Không có lực lượng nào ngăn cản được họ ngoại trừ, có thể là, Nhật Bản. Philippine chúng ta đứng ở đâu? Chúng ta không có năng lực. 

4. Bob Uga says: 

Chúng ta có ít trang thiết bị quốc phòng, bao gồm của RTA2AD và BrahMos. EDCA bao quanh và giúp đơ bởi vì Hoa Kỳ có lợi ích chung với chúng ta – đảm bảo tự do hàng hải trên biển Trung Hoa. Hoa Kỳ sẽ không bao giờ can thiệp vào vấn đề Trường Sa của chúng ta và đó VẤN ĐỀ RIÊNG của Philippine chúng ta.

Sự phòng thủ tốt nhất của chúng ta là THỐNG NHẤT TẤT CẢ NGƯỜI PHILIPPINE để bảo vệ chủ quyền và di sản quốc gia. Chúng ta nên học từ người Việt Nam. RẮC RỐI là người Philippine chúng ta CHIA Rẽ, do vậy, Trung Quốc lợi dụng, trong khi NGƯỜI PHILIPPINE CHÚNG TA đang bận rộn CÃI LỘN LẪN NHAU. Kawawang Pilipinas Kong Mahal và chúng ta phải THỐNG NHẤT ngay hoặc không bao giờ.

5. Andres Soriano says: 

Tôi không đồng ý với tác giả. Trong hiện thực ngày nay, sự sống còn của một quốc gia là nhờ vào các liên minh kinh tế và quân sự. Hãy nhìn Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, NZ, Việt Nam và hầu hết các nước ASEAN, họ xây dựng hoặc củng cố liên minh với Hoa Kỳ. Trung Quốc bị cô lập giữa những nước láng giềng.


Tôi hoàn toàn đồng ý với bình luận của bạn.

6. JRT nói: 

Đề xuất về tên lửa dường như hợp lý nhưng hoàn toàn không đáng tin cậy. Nó rất dễ bị tấn công bởi bất cứ quân đội nào đã có mặt trên đất của chúng ta. Nó cũng có thể bị phát hiện bằng vệ tinh và máy bay do thám. Lựa chọn duy nhất mà tôi thấy có thể răn đe Trung Quốc là việc Bắc Triều Tiên đang làm với kho vũ khí của họ…vũ khí hạt nhân. Phải vũ khí hạt nhân sẽ làm nản lòng mọi quốc gia muốn tấn công một quốc gia có vũ khí hạt nhân. Để làm điều này…chúng ta phải khôi phục chương trình vũ khí hạt nhân, phát triển và đào tạo các nhà khoa học hạt nhân, có chương trình trao đổi với những quốc gia có năng lực về vũ khí hạt nhân. 

7. Thai Anton nói: 

Hai chiến đấu cơ F50 của không quân Indonesia đã rơi, chính là những máy bay mà Philippine mua của Hàn Quốc!!

8. Ed DeCastro nói: 

Đó là vấn đề đối với người Philippine chúng ta. Chúng ta luôn làm ra vẻ rất thông minh với các vấn đề quốc tế và chính trị. Nhưng thực tế, mahilig lang tayong pumuna ng mga ibang tao. Anong kakayahan ng Pilipinas na ilaban sa China. Wala!!! Kinuha na nga ng mga Inksekto ang ibang isla ay ngawa pa rin tayo ngawa na wala naman tayong ginagawa. Chúng ta kiếm đâu ra tiền để mua tàu ngầm, tên lửa diệt hạm và các loại tên lửa khác? Nếu các viên chức chính quyền từ cấp barangays tới quốc gia không trộm cắp tiền ngân sách hay tham nhũng để làm giàu cho bản thân thì chúng ta có đủ khả năng mua chúng. Việt Nam có kỷ luật hơn Philippine. Philippine là đất nước tham nhũng và lên án điều này đối với các chính khách hiện tại cũng như quá khứ như Binay, Enrile, Estrada, Revilla.

Trả lời

OO nga pop. Ano ngayon ang gagawin. Tumahimik na tanggapin ang ating pagkabusabos sa kamay ngt mga Tsino? (Ayaw p nami8n ang bastos na salitang “Intsik”).
O magpakamatayt na lang ba tayong lahat?

9. Virgilio garcias nói:

Tôi cho rằng bài xã luận này là thiên kiến. Nó chỉ đề cập đến năng lực của Trung Quốc trong việc tấn công quân đội Hoa Kỳ trên lãnh thổ của chúng ta.

Thế còn việc tấn công ngăn chặn mà Hoa Kỳ có thể thực hiện đối với quân đội Trung Quốc? Xin ngài tác giả hãy nhớ rằng quân đội và vũ khí Hoa Kỳ hiện đại và tinh vi nhất thế giới.

Trả lời

Đây không phải là xã luận của Manila Times. Đây là bài báo, thưa ngài, của một cây bút cá nhân – không phải đại diện của ban biên tập và điều hành tờ Manila Times. Nhưng ông ấy là người được cả tờ Times cũng như công chúng đánh giá cao.

o Lemuel Dimagiba nói:

Điều gì khiến anh nghĩ rằng Hoa Kỳ sẽ đánh phủ đầu Trung Quốc cho Philippine? Lol. Đừng ngây thơ thế.

Wednesday, September 30, 2015

Cái chết của hiến pháp hòa bình: Nhật Bản quay trở lại truyền thống quân phiệt

Giáo sư lịch sử Gary Leupp của trường đại học Tufts, Hoa Kỳ bình luận về việc Nhật Bản từng bước tái vũ trang trong bài "The Death of  the "Pacifist" Constitution: Japan's Return to Its Martial Roots". Nhật Bản tái vũ trang với khát vọng quay trở lại thành một đế quốc theo truyền thống quân phiệt, còn Hoa Kỳ muốn họ trở thành mũi xung kích chống Trung Quốc. Sau Thế Chiến Thứ II, Nhật Bản bị tước vũ khí hoàn toàn và lệ thuộc vào sự đảm bảo của Hoa Kỳ, đã chớp cơ hội làm giàu nhờ các cuộc chiến của Mỹ ở Châu Á. Sự hồi phục về kinh tế sau hơn nửa thế kỷ dẫn đến hy vọng khôi phục chủ nghĩa đế quốc khi gặp thời cơ thuận lợi.

Cái chết của hiến pháp "hòa bình": Nhật Bản quay trở lại truyền thống quân phiệt


Việc quốc hội Nhật Bản thông qua luật cho phép quân đội Nhật Bản hành động để hỗ trợ một “đồng minh thân cận” khi bị tấn công là vi phạm hiến pháp Nhật Bản, vốn (từ năm 1947) đã cấm nhà nước tham gia vào chiến tranh.

Ba chuyên gia hiến pháp được các luật sư mời bình luận về chủ đề đều đã xác nhận sự vi phạm này.

Hành động của các nghị sĩ cho thấy rõ điều có vẻ đang được hiểu rộng rãi: không có sự liên hệ nào giữa luật chính thống ở những nước đế quốc về căn bản là phi luật lệ và tất cả những định đề đẹp đẽ xuất hiện trọng các điều luật của quốc gia đó. 

Ở quốc gia này, chúng ta quen với sự thật là chính quyền Hoa Kỳ không bảo vệ hiến pháp để chống lại “những khám xét phi lý” bằng những nhát cắt kiểu Stasi đối với đối thoại cá nhân. Chúng ta cũng quen với sự thật là hành pháp của Hoa Kỳ đã bất chấp các điều khoản của hiến pháp quy định về việc quốc hội phải phê chuẩn chiến tranh.

Thế thì tại sao điều này lại có vẻ bất thường, trong khi hiến pháp Nhật Bản cấm thẳng thừng mọi hình thức duy trì quân đội, Nhật Bản thực tế lại có quân đội lớn thứ tám thế giới? Tầng lớp thượng lưu cai trị Nhật Bản đang chuẩn bị để triển khai quân đội bất hợp pháp hung hăng hơn?

Đừng ngây thơ. Đừng nghiêm túc về những người làm điệu bộ bảo vệ luật pháp, canh gác những thứ mà họ gọi là “cộng đồng quốc tế.” Những người đó nói dối thường xuyên, kích động sự sợ hãi (về vũ khí hủy diệt, đặc biệt là khi việc khai thác sự lo lắng đã được chứng minh có hiệu quả), nói dài dòng văn tự như con bạch tuộc phun mực để đánh lừa những người mà họ đang đe dọa, phân tích ngôn ngữ của sự đồng thuận được mã hóa để rút ra những diễn giải thiên kiến. 

Các nhà bình luận ở Nhật Bản và nơi khác đều thống nhất trong cáo buộc rằng thủ tướng Abe Shinzo đã tạo ra thay đổi lớn bằng cách áp đặt “sự diễn giải lại” điều 9 của hiến pháp Nhật Bản. Điều này không chỉ là một bước chắc chắn nữa của cánh hữu Nhật Bản trong việc viết lại hiến pháp đã bị ruồng bỏ. Đây là một thành tích trọng yếu. Một bước chủ chốt quay trở lại quá khứ quân phiệt vinh quang! 

Một số quan chức quân sự đã nói, “Giờ thì chúng ta có thể làm mọi thứ” – tất cả những thứ mà một quân đội bình thường làm ở bất cứ đâu.

Điều này rất đáng phiền đối với tôi, một người đã sống ở Nhật Bản nhiều năm, viếng thăm định kỳ, có liên hệ gia đình và bạn bè và lo ngại sâu sắc về tương lai của đất nước xinh đẹp mong manh này. Điều đó thúc đẩy tôi viết về quá khứ quân phiệt mà quốc gia này tự hào và cách thức nó tạo ra Nhật Bản ngày nay.

* * *

Hãy cùng bắt đầu vào thế kỷ 16, khi những người Châu Âu đầu tiên đến Nhật Bản, tiếp xúc ban đầu và người Nhật Bản đầu tiên đi vòng quanh thế giới tới Châu Âu.

Vào ngày 23 tháng 3 năm 1585, ba nhà quý tộc khởi hành từ Nhật Bản cùng với tùy tùng được chào đón trong lễ tiếp đón chính thức tại Vatican ở Rome. Hội truyền giáo Jesuit ở Nhật Bản, hoạt động tại đất nước “mới được khám phá” này từ năm 1549, muốn thể hiện cho toàn bộ Châu Âu thấy sự thành công của họ trong việc cải đạo cho hàng trăm ngàn người Nhật sang Thiên Chúa Giáo. Vào lúc những người Kháng Cách tràn ngập miền bắc Châu Âu, chống lại và làm suy yếu nhà thờ Catholic Rome, công việc truyền giáo ở “các quốc gia mới được phát hiện” là sự mở rộng phạm vi của Tòa Thánh.

Nhật Bản là một trong những khu vực truyền giáo hứa hẹn nhất. Một số daimyo (“vua” đối với các giáo sĩ Bồ Đào Nha) của họ, hăm hở thu hút những tàu chiến thương mại đến bờ biển, sẵn sàng cải đạo – vì những lý do chung chung – và sau đó ra lệnh cho thuộc hạ cũng làm như vậy. (Các thương nhân Bồ Đào Nha theo sự hướng dẫn của Nhà Thờ nói các chủ nhà Nhật Bản rằng khi họ tuân theo đức tin, họ sẽ nhận được thêm nhiều chuyến viếng thăm của thương thuyền Châu Âu, chất đầy tơ lụa Trung Quốc và các hàng hóa quý giá khác.) 

Nhiều cuộc cải đạo là giả dối hoặc bị cưỡng bức, khi các truy tố nghiêm khắc được bắt đầu vào những năm 1620, đại đa số những người cải đạo đã bỏ đạo. Nhưng vào thời đó, Nhật Bản là sự ưa thích trong nỗ lực truyền giáo toàn cầu của nhà thờ Catholic Rome để chống lại phái Cải Cách.

Sự tác động qua lại đầy đam mê này cũng có khía cạnh “cực đoan”. Người Nhật Bản, Francis Xavier viết vào năm 1550, là “chủng tộc tốt nhất từng được [người Châu Âu] khám phá và tôi không cho rằng anh sẽ tìm thấy đối thủ của họ trong số các quốc gia ngoại đạo.” “Những người này da trắng và có văn hóa,” giáo sĩ dòng Jesuit người Italia Alessandro Valignano đến thăm Nhật Bản viết lại vài thập kỷ sau đó, ngay cả những người bình thường cũng “lịch sự đáng chú ý” đến mức “họ vượt trội so không chỉ với người Đông Âu mà cả người Châu Âu.” Khoảng năm 1590, giáo sĩ dòng Jesuit người Bồ Đào Nha Luis Frois nói rằng người Nhật Bản “trong cách ứng xử và phong tục tập quán của họ” vượt trội hơn người Châu Âu ở nhiều góc độ, “thật xấu hổ khi nói về điều đó.”

(Ngay từ những tiếp xúc ban đầu, người Châu Âu coi người Nhật Bản là “da trắng” và gán cho màu da sáng của họ ưu điểm đạo đức và hiểu biết trí tuệ. Valignano thậm chí còn nói rằng “sự khác biệt giữa người Thiên Chúa Giáo Ấn Độ [Đông Á] và Nhật Bản … tự nó đã chứng minh rằng không có cơ sở nào để so sánh họ, nhóm thứ nhất cải đạo vì một số động cơ cá nhân thầm kín; do họ [người Ấn Độ] là da đen, trí thông minh kém, hệ quả là họ rất khó có thể cải tạo và trở thành người Thiên Chúa Giáo tốt; trong khi người Nhật Bản … do họ da trắng, có trí thông minh và hành vi tốt … trở thành những người Thiên Chúa Giáo rất tốt.”)

Trước khi viếng thăm Vatican, người Nhật Bản đã gặp thống đốc của Bồ Đào Nha, hồng y giáo chủ Albert ở Lisbon; Philip II ở Madrid; nữ hoàng Marie của Áo cũng ở Madrid; và Francesco dei Meidici, đại công tước xứ Tuscany ở Pisa. (Bicanco Capello vợ của Francesco đã ôm từng người, rõ ràng là vui thích về sự mềm mại của những bộ kimono lụa). Khi tới Vatican, được chào đón với đám đông tung hô, một loạt đại bác và chuông nhà thờ, đoàn đại diện được giáo sĩ dòng Jesuit và nhà nhân học người Bồ Đào Nha Gaspare Gonsalves đón tiếp với những lời như sau:

“Quốc đảo Nhật Bản thực sự là rất xa đây và tên của quốc đảo hiếm khi được biết đến, một số người thậm chí còn không biết nó tồn tại. Trái lại, có người biết rằng nó đứng trên tất cả các quốc gia ở phương Đông và so sánh nó với phương Tây, theo diện tích, số lượng thành phố và con người thiện chiến cũng như có văn hóa.”

Con người thiện chiến và có văn hóa! Xavier đã viết, “Chưa bao giờ trong đời mình tôi gặp những người dựa vào vũ khí nhiều như vậy … Họ rất thiện chiến và thường xuyên tham gia chiến tranh …” Tất nhiên là hơn cả những gã thực dân Iberia mà Xavier, một người xứ Basque từ Navarre phải bóp vai khi có dịp. Họ không chỉ chế tạo ra những thanh kiếm tinh tế nhất thế giới, vượt xa kiếm Damas, mà họ cũng hăm hở tiếp nhận súng hỏa mai từ khi chúng được đưa đến Nhật Bản vào năm 1543. Họ đã cải tiến súng trường Châu Âu và sản xuất hàng loạt để Nhật Bản vào năm 1600 có nhiều vũ khí nóng hơn mọi quốc gia Châu Âu. (Vào thời đó, một daimyo đơn lẻ của Nhật Bản cũng có thể kiêu hãnh về khẩu pháo lớn hơn của nữ hoàng Anh Quốc.)

Truyền thống quân phiệt của Nhật Bản có nguồn gốc sâu sa. Những cư dân đầu tiên của quần đảo (người Jomon, dường như đến thông qua Siberia) thiết lập một xã hội không đẳng cấp và hòa bình. Nhưng vào năm 400 trước công nguyên, người Yayoi đến, thông qua bán đảo Triều Tiên, mang theo văn hóa lúa nước, nghề luyện kim, cấu trúc đẳng cấp, quan niệm về nhà nước và văn hóa chiến tranh. Sau sự thống nhất Nhật Bản ban đầu, mà chúng ta có thể gọi là nhà nước “Yamato” (khoảng giữa năm 350 và 400), nhà nước mở rộng tới miền nam Kyushu và đông bắc Honshu bằng quân đội và tham gia vào chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên. Những ngôi mộ tưởng niệm (kofun) xuất hiện vào thời kỳ này có chứa những bức tượng nhỏ bằng sứ mô tả hình chiến binh mặc giáp cưỡi ngựa. 

Sự du nhập của đạo Phật, một hệ thống tín ngưỡng xa lánh cuộc sống, vào năm 538 có thể đã làm giảm nhẹ truyền thống quân phiệt. Mặc dù các cuộc nổi dậy vũ trang địa phương vẫn diễn ra thường xuyên, triều đình vương quốc đóng ở Heian (Kyoto) từ cuối thế kỷ thứ 8 đã phát triển đặc tính văn hóa tao nhã và yêu chuộng hòa bình, khá xa lạ với văn hóa của các chiến binh cha truyền con nối (samurai) tại các vùng hẻo lánh. Nhưng từ cuối thế kỷ 12, samurai đã trỗi dậy thành tầng lớp thống trị mới và tại vị cho đến khi tầng lớp này chính thức bị xóa bỏ vào những năm 1870. 

Quay trở lại Rome vào năm 1585, thật đáng trân trọng khi chào đón các chiến binh Thiên Chúa Giáo từ phía bên kia của thế giới, công khai ở St. Peter’s! Chuyến viếng thăm Vatican này đánh dấu sự khởi đầu của một cuộc tình dai dẳng đau đớn Đông-Tây. Người Bồ Đào Nha, độc quyền thương mại của Châu Âu với Nhật Bản cho tới khi chiến thuyền Tây Ban Nha đóng ở thuộc địa mới Philippine cập bến muộn hơn, các samurai Nhật Bản tình nguyện chiến đấu chống lại người Malay tại thuộc địa Batavia ở Java (sau này mất về tay người Hà Lan). Người Tây Ban Nha thiện chiến thích samurai ngay từ cái nhìn đầu tiên, tuyển mộ họ làm lính đánh thuê cho các cuộc xâm lược ở Trung Quốc và dự định xâm lược Campuchia.

Cuối cùng, mối tình bắt đầu vỡ tan từng mảnh vào năm 1590, khi Toyotomi Hideyoshi, tư lệnh thống trị của Nhật Bản mới tái thống nhất, bắt đầu truy tố người Thiên Chúa Giáo và đe dọa người Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippine với một cuộc xâm lược. (Nực cười thay, những nhà truyền đạo Thiên Chúa Giáo đầu tiên tới Triều Tiên cùng với một đạo quân samurai lên đến hơn 200.000 vào năm 1592.)

Sau đó, shogun Tokugawa nắm quyền (từ năm 1600) tiêu diệt truyền giáo Catholic Rome mà Vatican cho rằng rất hứa hẹn. Nhật Bản trục xuất các thương nhân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha với lý do (chính xác) rằng những người này luôn tìm cách buôn lậu trong khi truyền giáo và giới hạn thương mại với phương tây bằng cách chỉ giao dịch với người Hà Lan. 

(Những người Hà Lan – thuộc phái Kháng Cách giữ đức tin cho bản thân – cho thấy rõ rằng họ không phải là Catholic và không quan tâm tới việc cải đạo. Họ đều cố gắng lấy lòng chủ nhà bằng cách giẫm đạp lên các bức tranh của Catholic Rome và thậm chí bắn đại bác vào các nông dân Thiên Chúa Giáo nổi loạn để đổi lấy việc được kinh doanh ở Nhật Bản.)

Nhưng sau đó – đáng ngạc nhiên – những người Nhật Bản “thiện chiến” tụt hậu trong một thế kỷ rưỡi nội chiến liên miên. Hideyoshi và những người kế nghiệp đã tước vũ khí của nông dân, gom kiếm và súng trường, dồn samurai (chiếm khoảng 7% dân số) vào các thành lũy – mỗi lãnh địa một thành lũy, có khoảng 260 thành lũy như vậy. 

Điều này dẫn đến thứ mà các nhà nhân học lịch sử gọi là “sự thuần hóa của samurai”, diễn ra trong suốt thế kỷ 17. Hòa bình được lập lại. Nhật Bản chỉ xâm lược một quốc gia duy nhất từ năm 1598 (kết thúc tạm thời chiến tranh Triều Tiên) và cuối thời kỳ Edo (Tokugawa) vào năm 1868. Đó là triều đình Ryukyu (hiện giờ là quận Okinawa của Nhật Bản), bị lãnh địa của Satsuma tấn công vào năm 1609 và bị buộc phải chấp nhận địa vị chư hầu.

Từ những năm 1630, người Nhật Bản bị cấm đi ra nước ngoài, ngoại trừ một số nhỏ được phép đến Triều Tiên hoặc phục vụ cho mục đích thương mại của triều đình Ryukyu. Không trở thành một quốc gia hiếu chiến, Nhật Bản đã buông vũ khí, tham gia vào hoạt động thương mại nhộn nhịp nhưng được kiểm soát cẩn thận với Trung Quốc, Triều Tiên, triều đình Ryukyu và Hà Lan. (Người Hà Lan là người phương tây duy nhất được cấp phép thương mại ở Nhật Bản cho đến năm 1859). Trong phạm vi đất nước, hòa bình nói chung được đảm bảo; không có các cuộc nổi loạn của daimyo chống lại các luật lệ của shogun và không có chiến tranh giữa các daimyo. Nhật Bản vẫn luôn có các cuộc nổi loạn của nông dân nổ ra ở địa phương, một số bị đàn áp bằng súng trường, nhưng không bao giờ có các cuộc nổi loạn của nông dân khắp cả nước như thế kỷ 16 ở Đức. 

Trong khi Châu Âu bị xé nát bởi cuộc Chiến Tranh 30 Năm (1618-1648) kinh hoàng, hoàng đế Tokugawa thống trị ở Nhật Bản. Tầng lớp chiến binh, không được hướng nghiệp nhiều như các nhóm chiến binh cha truyền con nối (bao gồm cả phụ nữ), đánh mất tính cách quân phiệt và bị chuyển hóa thành giới hành chính cầm bút khi đất nước đi vào thời kỳ hòa bình ổn định. Dưới những điều kiện đó, dân số tăng gấp đôi trong thế kỷ 17, sản xuất nông nghiệp tăng lên, các thành phố lớn xuất hiện và văn hóa thị dân nảy nở.

Điều đó tiếp tục diễn ra cho đến giữa thế kỷ 19 khi chiến hạm Hoa Kỳ tiến vào cảng Edo, yêu cầu Nhật Bản mở cửa cho thương mại của Hoa Kỳ. Chiến thuyền Anh, Hoa Kỳ và Nga đã xâm nhập bờ biển Nhật Bản trong nhiều thập kỷ, với cường độ gia tăng. Một số thành viên của tầng lớp samurai Nhật Bản đã kêu gọi đáp trả bằng vũ lực. 

Vào năm 1808 (trong thời kỳ chiến tranh Napoleon, đẩy Anh Quốc chống lại Hà Lan thân Pháp), một chiến thuyền Anh Quốc lẻn vào cảng Nagasaki với cờ Hà Lan. Thủy thủ đoàn của họ bắt cóc các thương nhân Hà Lan và bắn đại bác để dọa cư dân thành phố. Sau đó, chế độ shogun bị sốc đã ban hành sắc lệnh có tên “Đánh trả các thuyền nước ngoài không cần cần nhắc,” yêu cầu daimyo của các lãnh địa dọc bờ biển bắn vào các thuyền nước ngoài lạ mặt. 

Trước khi họ đến, chiến thuyền Hoa Kỳ dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Matthew Pery đã từng xâm nhập vịnh Edo (Tokyo) vào năm 1853, yêu cầu Nhật Bản mở cửa cho kinh tế thế giới.

Nhận thức được tình hình, chế độ shogun khuất phục trước sức ép, đồng ý thiết lập “các cảng hiệp ước”. Nhưng những tổn thất kinh tế sinh ra khi Nhật Bản hội nhập vào kinh tế thế giới và sự mất uy tín của chính quyền đối với dân chúng đã dẫn đến cuộc đảo chính đẫm máu trong Chiến Tranh Boshin năm 1867-1869. 

Chế độ shogun bị lật đổ trong cuộc chiến này, tổn thất 8.000 sinh mạng. Một chế độ mới (được lãnh đạo, theo lý thuyết, bởi một hoàng đế thiếu niên) tập trung vào việc học hỏi từ phương tây đồng thời chống lại các sự xâm lược khác, được thiết lập. Thời kỳ này được gọi là Khôi Phục Meiji. 

Bất chấp gánh nặng là các hiệp ước bất bình đẳng mà Hoa Kỳ cùng với các đế quốc khác áp đặt, Nhật Bản đã nhanh chóng thoát khỏi hai thế kỷ tương đối cô lập để trở thành một quyền lực toàn cầu theo đúng nghĩa. Trong khi đẳng cấp samurai bị bãi bỏ vào những năm 1870, một hệ thống nghĩa vụ quân sự và chính sách quốc gia về “quốc gia giàu, quân đội mạnh” đảm bảo cho sự hồi sinh của truyền thống quân phiệt lâu đời. 

Vào khoảng năm 1873, chỉ 5 năm sau thời kỳ mới Meiji, các lãnh đạo (đều có nền tảng samurai) đã lên kế hoạch xâm lược nước láng giềng gần nhất, Triều Tiên, để buộc nước này chấp nhận các quan hệ ngoại giao và thương mại. Kế hoạch bị hủy bỏ (chủ yếu là do sự phản đối của phương tây). Nhưng ngoại giao chiến hạm của Nhật Bản mô phỏng theo các đế quốc phương tây đã buộc Triều Tiên phải khuất phục vào năm 1876.

Cũng trong thời kỳ đó, chính quyền mới của Nhật Bản đã gửi chiến thuyền đi Đài Loan, để trừng phạt các bộ lạc trên đảo về việc giết hại 54 ngư dân Nhật Bản và Ryukyu bị đắm tàu. Thanh triều của Trung Hoa tuyên bố chủ quyền đối với hòn đảo (cũng như Bắc Kinh hiện nay vẫn tiếp tục khẳng định rằng Đài Loan luôn luôn là một phần của Trung Hoa). Sau khi tàn sát nhiều người, Nhật Bản buộc Trung Hoa phải bồi thường và thừa nhận chủ quyền của Nhật Bản đối với vương quốc Ryukyu (Okinawa). 

Sao hàng loạt các can thiệp vũ trang ở Triều Tiên, quân đội Nhật Bản đụng độ với quân đội Trung Hoa ở Triều Tiên vào năm 1894. Sau khi quân đội Trung Hoa can thiệp vào quốc gia này (theo yêu cầu của hoàng đế Triều Tiên) để đàn áp một cuộc nổi loạn của nông dân, Nhật Bản cũng viện dẫn hiệp ước để gửi đưa quân đội đến. Sau một số đụng độ khiêu khích lẻ tẻ với người Trung Quốc, chiến tranh toàn diện nổ ra. Cuộc chiến bao trùm bán đảo Triều Tiên, miền nam Manchuria và Đài Loan. Nhật Bản chiến thắng đòi hỏi và nhận được Đài Loan cũng như bán đảo Liaodong ở Manchuria để bồi thường chiến phí. 

Nhưng can thiệp ngoại giao của Nga, Đức và Pháp đã ngăn cản Tokyo nuốt gọn Liaodong và tạo ra sự oán giận của Nhật Bản đối với Sa hoàng. Sự oán giận này tăng lên nhanh chóng sau khi Nga tự giành nhượng địa ở Liaodong ngay sau khi ngăn cản nỗ lực của Nhật Bản.

Vào năm 1900, khi cuộc nổi loạn nông dân Boxer chiếm các đại sứ quán nước ngoài ở Bắc Kinh, Nhật Bản tham gia cùng với các đế quốc phương tây đàn áp cuộc nổi dậy. Quân đội Nhật Bản là đồng minh Châu Á duy nhất trong lực lượng đa quốc gia, được các nước phương tây ca ngợi, đặc biệt là Anh Quốc, vì sự chuyên nghiệp. Đột ngột trở thành tình nhân của đế quốc Anh, Nhật Bản ký Hiệp Ước Hàng Hải Anh-Nhật vào năm 1902 – khi người Anh bãi bỏ các điều khoản nặng nề trong hiệp ước bất bình đẳng mà Anh đã ký với Nhật Bản vào những năm 1850.

Đột nhiên các trí thức Anh nói về sự tương đồng rõ ràng giữa hai quốc đảo – xã hội vương quyền, đẳng cấp, sự tao nhã của họ; những di sản hàng hải và phong kiến của họ; niềm tự hào về truyền thống quân phiệt của họ. Điều đó tạo ra ý nghĩa cho cả hai để liên minh, đặc biệt là trong mối lo ngại chung về sự mở rộng vai trò của Nga ở Châu Á.

Nga đã giành được các nhượng địa của Trung Quốc ở Liaodong sau khi ngăn cản Nhật Bản chiếm bán đảo này vào năm 1895. Nhật Bản tấn công vào năm 1904 và khi quân đội của họ tràn ngập Manchuria thì hải quân của họ phá hủy chiến hạm Baltic của Nga ở eo biển Tsushima trong năm tiếp theo. Nga buộc phải cầu hòa. Đó là thất bại cay đắng của Sa hoàng, chiến thắng đầu tiên của đế quốc Châu Á trước đế quốc Châu Âu trong thời hiện đại, dẫn đến niềm tự hào dân tộc ở Nhật Bản. Họ sáp nhập Triều Tiên (chính thức vào năm 1910) vào đế quốc Nhật Bản, cùng với phần đất của Nga ở Manchuria và nửa phía nam của đảo lớn Sakhalin.

Thế Chiến thứ I có vẻ ít liên quan đến Nhật Bản. Nhưng viện dẫn một điều khoản trong Hiệp Ước Hàng Hải Anh-Nhật, yêu cầu Nhật Bản tham chiến cùng với Anh khi nước Anh có chiến tranh với nước khác, Tokyo đã tấn công nhượng địa Shandong của Đức ở Trung Quốc, chiếm phần đất này cho bản thân đồng thời chiếm đóng luôn các tài sản của Đức ở Nam Thái Bình Dương, bao gồm cả quần đảo Samoa. Vào năm 1918, đế quốc Nhật Bản đã dùng quân đội chiếm đóng lãnh thổ từ cận Bắc Cực đến Polynesia. Tất cả đều diễn ra trong vòng nửa thế kỷ của thời kỳ Phục Hồi Meiji.

Một quốc gia rất hiếu chiến! Rất hung hãn. Nhưng cả người Anh và người Yankee đều trở nên bồn chồn. Cả hai đều muốn tự do tiếp cận thị trường Trung Hoa khổng lồ và Nhật Bản đã thể hiện sự thích thú được hành xử đúng như các đế quốc phương tây trong Thế Chiến thứ I. Nhật Bản áp đặt “21 Yêu Cầu” không thể chịu đựng nổi cho Trung Quốc, mà cả London và Washington đều can thiệp để giảm nhẹ. Anh Quốc cho phép mở rộng hiệp ước Anh-Nhật, tuyên bố rằng các hiệp ước đa phương hậu chiến như Hiệp Ước Hàng Hải Washington 1922 trái với nó là vô hiệu. 

Trong khi đó, chính quyền Nhật Bản, đáp lại các chính sách phân biệt chủng tộc chống người nhập cư Nhật Bản ở Hoa Kỳ và những nơi khác, cũng như để tạo ra Lebensraum [tiếng Đức: Không gian sống] ở bên ngoài biên giới cho dân số đang gia tăng của họ, theo đuổi phương thức mở rộng vương quốc ở đông bắc Châu Á.

Nhật Bản chiếm đóng toàn bộ Manchuria vào năm 1931 – dựa vào hoạt động quả cảm của các đơn vị quân đội phiêu lưu hơn là các chính sách có tính toán – sáp nhập nhà nước “Manchukuo” vào đế quốc. Sự cố Manchuria dẫn đến sự sụp đổ của Liên Đoàn Quốc Gia do đại diện Nhật Bản rút khỏi sau khi Liên Đoàn lên án hành động của Nhật Bản. Cuộc chiến toàn diện ở Trung Hoa diễn ra vào năm 1937, một cuộc chiến bí mật với Soviet về biên giới Manchuria-Mongolia dấy lên vào năm 1939. (Trong cuộc chiến biên giới, quân đội Nhật Bản có vẻ như bị đánh bại; Tokyo đồng ý ký hiệp ước không xâm lược với USSR hai năm sau đó.)

Tổng thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt, bị kiềm chế bằng quan điểm chủ nghĩa biệt lập thông dụng, lên án sự xâm lược của Nhật Bản ở Trung Quốc, công bố “cấm vận đạo đức” đối với Nhật Bản, từng bước áp dụng thêm các trừng phạt thương mại. Sau khi Nhật Bản xâm nhập thuộc địa Việt Nam của Pháp vào năm 1940 (theo lý thuyết, thực hiện hiệp ước với chính quyền Pháp thời phát xít chiếm đóng), các trừng phạt của Hoa Kỳ được siết chặt. Hoa Kỳ phong tỏa tài sản của Nhật Bản tại ngân hàng Hoa Kỳ và cắt nguồn cung cấp dầu. 

Washington yêu cầu Tokyo rút quân khỏi Trung Quốc về vị trí trước chiến tranh ở miền bắc và rút khỏi Hiệp Định Ba Bên với Đức và Italia, như là điều kiện để khôi phục các quan hệ thương mại bình thường. Các lãnh đạo Nhật Bản, do Tojo Hideki dẫn đầu, kết luận rằng điều đó bất khả thi về mặt chính trị. (Công chúng đã bị tiêm nhiễm một dạng kích động hậu chiến thường lan truyền ở các nước tư bản đế quốc hiện đại. Bất cứ thông báo đầu hàng nào trước Hoa Kỳ cũng sẽ dẫn đến sự giận dữ lan rộng cùng với những hậu quả không thể lường trước.)

Giới lãnh đạo, chỉ với kho dự trữ dầu lửa cho một năm để phát động chiến tranh, đã lựa chọn một con đường khác: Chiếm các bãi khoan dầu của Hà Lan ở Đông Indonesia. Nhưng điều này đó có nghĩa là hạ đo ván các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ và Anh ở Philippine, Hong Kong, Singapore, Malaya và Hawai’i. Điều đó được hoàn thành, thần tốc và hiệu quả. Vào tháng 12 năm 1941, thần chết đã được gọi lên.

Bốn năm sau, Tokyo và Osaka bị ném bom san phẳng, Hiroshima và Nagasaki bị bom nguyên tử biến thành thứ giống như bề mặt của mặt trăng. 

Giới lãnh đạo Nhật Bản không đầu hàng quân đồng minh vì bị ném bom nguyên tử. (Trên thực tế không kinh khủng hơn loại bom thông thường đã thiêu cháy 100.000 người ở Tokyo vào ngày 9 tháng 3 năm 1945.) Sự tham chiến của Liên Bang Soviet (trước đó là trung lập) vào ngày 8 tháng 8 năm 1941, viễn cảnh quân Soviet đóng ở phía bắc, phân chia đất nước và khả năng một cuộc cách mạng cộng sản nổ ra đã cho lãnh đạo Nhật Bản thấy rằng đầu hàng Hoa Kỳ là lựa chọn tốt nhất. Khi bị quân đội Hoa Kỳ chiếm đóng, người dân Nhật Bản bị buộc phải chấp nhận hiến pháp mới (vào năm 1947) do nước ngoài soạn thảo, rời bỏ văn hóa quân phiệt lịch sử lâu đời đã được mô tả ở phía trên.

Và như vậy một thời đại mới bắt đầu.

* * *

Điều 9 của hiến pháp Nhật Bản rất rõ ràng: “Khát khao chính đáng đối với hòa bình quốc tế dựa trên công lý và trật tự, người dân Nhật Bản vĩnh viễn rút khỏi chiến tranh như là chủ quyền của quốc gia cũng như đe dọa hay sử dụng bạo lực để làm phương tiện giải quyết các tranh chấp quốc tế.

“Để thực hiện mục tiêu của đoạn nêu trên, bộ binh, hải quân và không quân cũng như các tiềm năng chiến tranh khác, sẽ không bao giờ được duy trì. Quyền tham chiến của nhà nước sẽ không được thừa nhận.” 

Nghịch lý thay, hiến pháp được nước ngoài soạn thảo này đã – đặc biệt là điều khoản này – trở thành tài sản quốc gia mà hàng triệu người Nhật bảo vệ kiên quyết. Không có ai chống lại việc bổ sung vào hiến pháp kiên quyết hơn những người cộng sản Nhật Bản. 

Nhưng bản thân các lãnh đạo Hoa Kỳ đã áp đặt hiến pháp “hòa bình” cho Nhật Bản lại bắt đầu thay đổi suy nghĩ ngay sau khi nó được quốc hội phê chuẩn. Mục tiêu của người chiếm đóng vào năm 1947 là tước vũ khí Nhật Bản vĩnh viễn, nếu không nói là biến nước công nghiệp này thành một nước nông nghiệp lạc hậu. Trung Hoa có triển vọng trở thành đồng minh lớn nhất của Hoa Kỳ ở Đông Á, căn cứ quân sự của Hoa Kỳ và thị trường không giới hạn cho hàng hóa của Hoa Kỳ.

Tuy vậy, cuộc cách mạng cộng sản đã đảo lộn kế hoạch đó. Sau năm 1949, khi chính khách Washington băn khoăn “ai mất Trung Hoa?”, họ định nghĩa lại vai trò của Nhật Bản như là đồng minh tái thiết mới. 

Cùng với sự bùng nổ của chiến tranh Triều Tiên vào năm 1959, Hoa Kỳ thúc ép thủ tướng Nhật Bản Yoshida Shigeru gửi quân tới tham chiến để thể hiện nỗ lực chống lại cộng sản phương Bắc của Liên Hiệp Quốc. Yoshida trả lời thẳng thừng rằng điều đó không khả thi theo hiến pháp Nhật Bản (do Hoa Kỳ soạn thảo). (Yoshida là một người chống cộng sản cứng rắn, đó là lý do khiến chính quyền chiếm đóng thích ông ta, nhưng ông ta không muốn dùng các nguồn lực hiếm hoi cho việc tái quân sự hóa vào lúc đó.)

Như đã diễn ra, công nghiệp Nhật Bản đóng góp lớn vào các nỗ lực chiến tranh, nước Nhật thời hậu chiến phục hồi là nhờ vào “sự thu mua đặc biệt” của Hoa Kỳ (các chi tiêu liên quan đến chiến tranh ở Nhật Bản). Yoshida gọi điều đó là “món quà tặng của chúa”. Vào năm 1948, GDP của Nhật Bản chỉ bằng 55% của năm 1936; vào năm 1953 là 155%. Không phải “viện trợ chung” của Hoa Kỳ mà là chi tiêu chiến tranh của Hoa Kỳ đã tạo ra sự hồi phục hậu chiến của Nhật Bản.

Dưới sức ép của Hoa Kỳ, Tokyo tạo ra một mầm mống của cỗ máy chiến tranh vào năm 1950: “Dự bị cảnh sát quốc gia” với 75.000 người. Con số này tăng lên 110.000 người vào năm 1952, sau khi kết thúc thời kỳ chiếm đóng. Vào cùng ngày Nhật Bản nhận lại chủ quyền (ngày 28 tháng 4 năm 1952), Tokyo ký một “hiệp ước an ninh” với Hoa Kỳ để hợp pháp hóa sự tiếp tục hiện diện của mười ngàn lính Hoa Kỳ (được phép là đàn áp mọi nổi loạn nội địa). Vào tháng 7 năm 1954, “cảnh sát” được tái lập thành “Lực Lượng Phòng Vệ” đất, biển và không. Hiện nay, quân số của họ vào khoảng 250.000 người.

Cục Phòng Vệ Nhật Bản được thiết lập vào năm 1954 – nhưng không phải như là quân đội, hãy nhớ! Chỉ là “lực lượng phòng vệ”. Ít nhất đó là luồng chính thống. Nhưng liệu “lực lượng đất, biển, không, cũng như các tiềm năng chiếng tran khác” có vi phạm hiến pháp? Để đáp lại các nỗ lực không ngừng của nhiều nhóm dân chúng lên án điều đó, Tòa Án Tối Cao Nhật Bản (dưới sức ép bằng văn bản của Hoa Kỳ) đã tuyên bố rằng quyết định về tính hợp pháp phụ thuộc vào quyết định của quốc hội và nằm ngoài phạm vi quyền lực của họ. 

Từng bước một, các bộ phận trong Đảng Dân Chủ Tự Do (LPD, được thiết lập với sự đỡ đầu của CIA vào năm 1955, và nắm quyền lực từ đó cho đến nay, chỉ có một số ngắt quãng nhỏ vào năm 1993-4 và 2009-12) đã vận động để xóa bỏ điều 9 cũng như tái lập Nhật Bản như là “quốc gia bình thường” với quân đội thông thường, hợp pháp, giống như các nước đế quốc khác vẫn triển khai.

Nhưng người dân Nhật Bản không đồng tình với chương trình đó. Các cuộc biểu tình địa phương và toàn quốc phản đối căn cứ Hoa Kỳ ở Uchinada, quận Ishikawa, vào những năm 1950 (quân đội Hoa Kỳ được huấn luyện ở đây trước khi đến Triều Tiên tham chiến) đã buộc căn cứ phải đóng cửa vào năm 1957. Các cuộc biểu tình tại căn cứ quân sự của Hoa Kỳ ở Tokyo vào năm 1957 dẫn đến vụ bắt giữ 7 người vì tội vượt qua ranh giới. Họ được toà chung thẩm Tokyo tuyên án vô tội dựa trên lý do sự tồn tại của căn cứ là vi hiến. (Tòa Án Tối Cao bác bỏ quyết định của tòa cấp thấp hơn sau khi chánh án trao đổi với đại sứ Hoa Kỳ.)

Vụ nhiễm xạ của 23 ngư dân Nhật Bản, một người bị chết, do Hoa Kỳ thử vũ khí hạt nhân ở quần đảo Marshall vào năm 1954, đã thúc đẩy phong trào chống vũ khí hạt nhân và chống quân phiệt của Nhật Bản. Khi thủ tướng Kishi Nobuosuke tìm cách thúc đẩy một đạo luật ở quốc hội để tiếp tục Hiệp Ước An Ninh Hoa Kỳ-Nhật Bản vào năm 1960, hơn bảy triệu người đã tuần hành phản đối. Ý kiến công chúng hầu hết là phản đối hiệp ước an ninh.

Nhưng Kishi đã thông qua đạo luật vào giờ sớm buổi sáng, sau khi đuổi các nghị sĩ đối lập. Sự giận dữ của công chúng lớn đến mức Tokyo phải thông báo với tổng thống Dwight Eisenhower, định đến thăm Nhật Bản để ký hiệp ước, rằng lực lượng an ninh Nhật Bản không thể đảm bản an toàn cho ông.

Vị thủ tướng này từng bị quân đồng minh bắt giữ và giam ở nhà tù Sugamo với cáo buộc tội ác chiến tranh loại A. Ông ta trở thành bộ trưởng bộ quân khí dưới thời thủ tướng Tojo Hideki và là đồng minh thân cận nhất của Tojo. Ông ta đã phát biểu ủng hộ cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng. Ông ta tham gia tích cực vào việc bắt hàng trăm ngàn người Trung Quốc và Triều Tiên làm nô lệ trong các hầm mỏ và nhà máy trong thời kỳ chiến tranh. Ông ta thoát khỏi truy tố nhờ sự can thiệp của “Hội Đồng Hoa Kỳ về Nhật Bản” chống cộng sản, họ cảm thấy rằng ông ta sẽ có ảnh hưởng tới chính trị Nhật Bản theo hướng “thân Mỹ”. 

Kishi Nobusuke cũng là ông của thủ tướng Nhật Bản đương nhiệm, Abe Shinzo. Abe, cũng hiếu chiến như ông của mình, mới đây tuyên bố (trong lễ kỷ niệm kết thúc Thế Chiến thứ II) rằng người Nhật không nên tiếp tục hối lỗi về quá khứ.

Trong thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam, quan điểm công chúng Nhật Bản hầu như là chống chiến tranh và phê phán chủ nghĩa phát xít đứng đằng sau cuộc chiến. Nhưng một lần nữa, công nghiệp Nhật Bản hưởng lợi khổng lồ từ các hợp đồng liên quan đến chiến tranh. Kinh tế Nhật Bản đã nhảy vọt và bùng nổ vào những năm 1960, vượt qua Tây Đức để trở thành nền kinh tế lớn thứ ba thế giới vào năm 1970. Mặc dù Nhật Bản tạo ra Cánh Tả Mới đầy sinh lực so với Hoa Kỳ và Châu Âu, nhưng người dân không thể tách đất nước khỏi liên minh với chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ.

Trong suốt lịch sử, lực lượng cánh hữu vận động để xóa bỏ điều 9 và đưa Nhật Bản quay trở lại con đường lịch sử của chủ nghĩa quân phiệt vinh quang. Bộ giáo dục, đặc trưng với sự điều hành của các chính khách LPD phản động và ngu dân nhất (như Fujio Masayukio, vào năm 1986 đã gọi cuộc thảm sát Nam Kinh là một ngụy tạo và tuyên bố Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên là theo yêu cầu của Triều Tiên), đã từng bước khôi phục nội dung quốc gia chủ nghĩa trong phần “giáo dục đạo đức” bắt buộc của chương trình trung học; buộc các trường học phải treo cờ mặt trời và buộc các khoa và sinh viên phải hát quốc ca đế quốc; chấp nhận cho các trường công sử dụng sách giáo khoa lịch sử tô vẽ hoặc thanh minh cho các tội ác chiến tranh của Nhật Bản. 

Trong khi đó, văn phòng thủ tướng thường xuyên thử nghiệm giới hạn của việc diễn giải lại điều 9. Vào năm 1981, thủ tướng Suzuki Zenko đã khơi lên một cơn bão chỉ trích khi ông ta đề xuất rằng Lực Lượng Phòng Vệ Biển được phép bảo vệ vận chuyển của Nhật Bản trong phạm vi 1.000 hải lý quanh Nhật Bản. Hai năm sau, thủ tướng Nakasone Yasuhiro (bạn tinh thần của những người cùng thời như Ronald Reagan, Margaret Thatcher và Helmut Kohl) khơi dậy một làn sóng chỉ trích khác khi ông ta cho phép ngân sách quân đội (“phòng vệ”) vượt qua giới hạn 1% GDP truyền thống – chỉ để thử giới hạn và xem công chúng phản ứng ra sao. Ông ta cũng gây ra sự giận dữ khi khẳng định quốc hội Hoa Kỳ mô tả Nhật Bản là “tàu sân bay không thể bị đánh chìm trên Thái Bình Dương” đang phục vụ cho nhu cầu của Hoa Kỳ.

Trong chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, Tokyo (cần thiết) phải từ chối gửi quân đến mặt trận. Điều này đã khiến các nghị sĩ Hoa Kỳ thiếu trải đời tức giận về vấn đề hiến pháp, phàn nàn rằng người Nhật Bản nhận được dầu mỏ giá rẻ ở Trung Đông là do hoạt dộng quân sự của Hoa Kỳ đảm bảo. Một số thậm chí còn đe dọa rút quân đội Hoa Kỳ khỏi Nhật Bản (chi phí duy trì của họ cho tới nay vẫn do người đóng thuế Nhật Bản thanh toán) nếu Nhật Bản không tham gia vào tấn công Saddam Hussein. (Một thành viên cao cấp của Lực Lượng Phòng Vệ trong một dịp thẳng thắn công khai hiếm hoi đã tuyên bố rằng nếu Hoa Kỳ muốn rút quân, người Nhật Bản sẽ nói tạm biệt; trên hết, người Nhật Bản chưa bao giờ nhất mực yêu cầu sự có mặt của họ.) 

Cuối cùng Tokyo trả cho Hoa Kỳ 13 tỷ dollar để đóng góp vào nỗ lực chiến tranh, nhằm buộc quân đội Iraq rời khỏi Iraq. (Arab tuyên bố đóng gớp cho Washington 36 tỷ dollar, trong khi Đức chi 5 tỷ dollar). Các lãnh đạo LDP coi điều này là đáng xấu hổ; “ngoại giao sổ séc,” họ tuyên bố, phải được thay thế bằng những dấu giày thực sự trên mặt đất. 

Vào năm 1992, quốc hội thông qua một đạo luật cho phép Lực Lượng Phòng Vệ triển khai trong “các chiến dịch gìn giữ hòa bình” (PKO) của Liên Hiệp Quốc cùng với các lực lượng quốc tế khác. Đó là bước khởi đầu quan trọng, một liệu pháp tâm lý. Kể từ đó SDF thực hiện các nghĩa vụ ở Campuchia, Mozambique, Đông Timor, Cao Nguyên Golan, Haiti và Nam Sudan.

Bước tự nhiên tiếp theo trong chiến dịch tái vũ trang là gửi tàu chở dầu và tàu khu trục tới bờ biển Pakistan vào cuối năm 2001 để hỗ trợ Hoa Kỳ trong chiến tranh Afghanistan. (Vùng biển này dĩ nhiên là nằm ngoài phạm vi 1.000 hải lý giới hạn cho hoạt động của SDF mà Suzuki Zenko đề xuất). Đây là một nhiệm vụ đầy tai tiếng, kết thúc theo lời hứa tranh cử của thủ tướng mới đắc cử Hatoyama Yukio vào năm 2009.

Nhật Bản trong vai trò là quốc gia chư hầu của Hoa Kỳ không bao giờ thể hiện quan điểm khác biệt cứng rắn với Washington về bất cứ vấn đề quốc tế nào. (Ít nhất thì họ cũng khác với Washington như Warsaw khác với Moscow). Họ tuân thủ hoàn toàn. Vào năm 2003, khi tổng thống George W. Bush bắt đầu dối trá để chống lại Iraq, thủ tướng Koizumi Junichiro (không giống với các lãnh đạo Đức và Pháp) đã tuyên bố hoàn toàn ủng hộ và đóng góp 600 quân cho nỗ lực của Bush.

Đây là sự đột phá chủ yếu của phe quân phiệt Nhật Bản. Dĩ nhiên, quân lực Nhật Bản không được tham chiến, do bị ràng buộc bởi điều 9. Nhưng họ có thể xây dựng một pháo đài ở Samawa, miền nam Iraq, được cung cấp các tiện nghi gia đình như karaoke bar, cửa hiệu massage, từ đó họ có thể mạo hiểm ra ngoài mỗi sáng sớm – với sự hộ tống của quân đội Hà Lan được phép giết người - để làm các công việc “nhân đạo” như lọc nước và làm đường. (Như thể là người Iraq không tự làm được.) Hai phần ba số người Nhật Bản được hỏi đã phản đối nhiệm vụ đó, nhiều người hiểu rõ ràng điều đó có nghĩa là gì: chỉ là một bước tiếp theo để vi phạm điều 9 và bình thường hóa việc triển khai quân đội trên phương diện quốc tế.

Người kế nhiệm Koizumi là Abe Shinzo – một lần nữa, đứa cháu đáng tự hào của Kishi Nobusuke đã được nhắc đến phía trên – tái định hình thiết chế quân sự để thiết lập Bộ Quốc Phòng có trụ sở ở Shinjuku của Tokyo. Người đứng đầu Bộ Quốc Phòng hiện giờ đang tham gia nội các. Vào năm 2009, trong khi một người hiếu chiến khác, Aso Taro, tái lập nhiệm vụ tiếp liệu trên Ấn Độ Dương để cho phép SDF biển gửi các tàu khu trục tới bờ biển Somali để bảo vệ không chỉ người Nhật Bản mà cả những người khác khỏi cướp biển. Kể từ đó, các thủy thủ Nhật Bản đã đóng quân tại Djibouti ở vùng Sừng của Châu Phi – cách quê nhà rất xa.

Gần tổ quốc hơn là một số đảo đá không người ở trên Biển Đông Trung Hoa, mà người Trung Hoa đã đến đó trong hơn sáu trăm năm gọi là Daioyutai. Tên Nhật Bản, được tạo ra vào những năm 1870, là Sensaku. Bất kì ai sở hữu chúng cũng sẽ sở hữu ngư trường và nguồn dầu lửa có diện tích 21.000 dặm vuông, nên chúng không phải là không quan trọng. Trung Hoa (cũng như Đài Loan) khẳng định chủ quyền dựa trên các cơ sở lịch sử chắc chắn. Tokyo khẳng định chủ quyền dựa trên cơ sở những gì họ khẳng định – rất phi lý – là được thừa nhận bằng cơ sở pháp lý quốc tế.

* * *

Nhưng (một lần nữa) sự khinh thường của chính quyền Nhật Bản đối với hiến pháp Nhật Bản khiến chúng ta phải đặt ra câu hỏi “luật pháp” có liên quan gì ở đây? 

Tokyo nói rằng khi họ tuyên bố quyền sở hữu đối với bốn đảo đá trên Biển Đông Trung Hoa (không có người Nhật Bản nào biết cho đến trong khi vào thế kỷ 15 người Trung Hoa vẽ bản đồ, đến thăm và đặt tên cho chúng) vào năm 1895 thì chúng không có dân cư, do đó bất cứ ai cũng có thể chiếm lấy. Chúng thuộc về khái niệm pháp lý phương tây “terra nullius” hay đảo không người ở. Bất kể là nhà địa lý vĩ đại nhất của Nhật Bản, Hayashi Shihei, đã vẽ một bản đồ toàn diện vào năm 1785 cho thấy những đảo đó thuộc Trung Hoa. Bất kể là ngoại trưởng Nhật Bản, Inoue Kaoru, đã từ chối lời yêu cầu sáp nhập của chính quyền Okinawa vào năm 1885 dựa trên cơ sở là những đảo này thuộc về Trung Hoa.

Tất cả vấn đề là khi Nhật Bản đang lên đánh bại Trung Hoa vào năm 1895 và gây ấn tượng với các đế quốc phương tây, tuyên bố quyền sở hữu với những hòn đảo đó trong thời kỳ chiến tranh (trước khi chiếm Đài Loan sát đó làm thuộc địa), các đế quốc thực dân đã chấp nhận đòi hỏi của Nhật Bản. Thật hợp pháp làm sao! Kể từ khi Nhật Bản có “luật pháp” ở phe mình. Thế thì lịch sử nào liên quan đến điều đó? (Nghiêm túc mà nói, tôi được nghe một nhà ngoại giao Nhật Bản đặt nó đúng vào khái niệm này)

Nhưng tranh chấp về những hòn đảo này thực tế phức tạp hơn, ngay cả từ quan điểm pháp lý. Trong Tuyên Bố Cairo năm 1943, phe thắng trận gồm Roosevelt, Churchill và Chiang Kai-shek đã tuyên bố rằng, sau khi đầu hàng vô điều kiện, “Nhật Bản phải trả lại tất cả các lãnh thổ đã cướp đoạt của người Trung Quốc, như Manchuria, Formosa và Pescadores, tất cả phải được trao trả cho nước cộng hòa Trung Hoa.” Yêu cầu này được Truman, Churchill và Stalin nhắc lại ở Potsdam. Khi bại trận, Tokyo bị buộc phải từ bỏ những tài sản đó. 

Nhưng tình trạng của Diaoyutai/Senkaku vẫn không rõ ràng. Chúng liên quan đến khu vực chiếm đóng ở Ryukyu của Hoa Kỳ, tách biệt với khu vực tạo thành đất liền của Nhật Bản. (Kể từ khi Nhật Bản sáp nhập Ryukyu vào những năm 1870, chính quyền khu vực chiếm đóng không chắc chắn hoặc không biết phải đối xử với chúng như là một phần của Nhật Bản hay là quốc gia độc lập tiềm tàng.) Vào năm 1945, Hoa Kỳ có thể giao lại các đảo có tranh chấp cho Trung Hoa một cách đơn giản, khi mặt trận thống nhất giữa Guomindang của Chiang Kai-shek và những người cộng sản còn lãnh đạo Trung Hoa. Trái lại, họ giữ lại chúng trong phạm vi quận Okinawa.

Vào năm 1972, Hoa Kỳ “trao trả” quần đảo Ryukyu cho Nhật Bản (trong khi vẫn giữ lại, thực tế là đòi hỏi, quyền đóng 25.000 quân tại các căn cứ quân sự trên đảo Okinawa). Các đảo Diaoyutai cũng được trả lại cùng với Ryukyu và hiện giờ Tokyo tính toán rằng nếu nổ ra tranh chấp đảo với Bắc Kinh, Hoa Kỳ sẽ đứng về phía họ. Sau một số rào đón, Hoa Kỳ đã tuyên bố rõ ràng rằng hiệp ước an ninh giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản bao gồm cả những đảo có tranh chấp.

Đây là thắng lợi chủ chốt cho cháu của Kishi Nobushuke. Khi ông ta dẫn dắt Nhật Bản đến vị trí của đế quốc toàn cầu “bình thường” có thể bắt nạt các quốc gia khác giống như Hoa Kỳ vẫn làm – có thể mở rộng ảnh hưởng của Nhật Bản khắp Đại Đông Á (không hối lỗi) – ông ta có thể dựa vào những người Yankee. Ông ta khôi phục vị thế quốc gia da trắng, văn minh của Nhật Bản. Ông ta khuyến khích nguồn gốc thiện chiến. Mọi thứ đều đang theo lộ trình, giống như trước khi có những thập kỷ hòa bình phiền nhiễu. 

Nhưng vào lúc này, “những người có văn hóa và thiện chiến” đang đứng chông chênh trên nỗ lực “xoay trục” hướng sang Đông Á và Biển Đông Trung Hoa, để đối đầu với Trung Hoa đang lên như vũ bão, của đế quốc Hoa Kỳ. Trung Hoa tiến hành một cách hợp lý trong việc đòi hỏi chủ quyền, lãnh thổ và các vấn đề khác. Trái lại, cháu của Kishi là kẻ nóng đầu, có quan điểm phục hồi quân phiệt – móc nối với cánh hữu băng đảng-tân phát xít, luôn luôn là những kẻ quá khích của chính trị Nhật – có thể tạo ra những điều rất xấu xa, sẽ sớm thôi.

Việc chính quyền Nhật Bản mua lại các đảo Daioyu/Sensaku từ các chủ sở hữu tư nhân vào tháng 12 năm 2012 (bị Washington phản đối là sự khiêu khích không cần thiết đối với Trung Quốc) có thể được coi là khởi đầu cho một giai đoạn đối đầu mới. 

Kịch bản khôi phục là rất rõ ràng. Từng bước một, phe quân phiệt giành lấy ảnh hưởng ở Nhật Bản. Họ đã giành được thắng lợi lớn trong tuần qua. Hiến pháp Nhật Bản năm 1947 không còn ý nghĩa gì hết. Hachiman (thần chiến tranh) đang mỉm cười. Trở lại bình thường, sự bình thường của hai thiên niên kỷ. Samurai quay trở lại trên yên ngựa, thẳng tiến tới chiến trường, với sao và vạch dưới lá cờ mặt trời của đế quốc đang tung bay.

* * *

Trong tuần qua, hơn một trăm ngàn người Nhật đã biểu tình bên ngoài quốc hội khi LPD và các đối tác của họ thông qua luật ủng hộ chiến tranh. Họ cần sự đoàn kết quốc tế. Bài báo này là một sự đóng góp nhỏ cho điều đó.

Gary Leupp is Professor of History at Tufts University, and holds a secondary appointment in the Department of Religion. He is the author of Servants, Shophands and Laborers in in the Cities of Tokugawa Japan; Male Colors: The Construction of Homosexuality in Tokugawa Japan; and Interracial Intimacy in Japan: Western Men and Japanese Women, 1543-1900. He is a contributor to Hopeless: Barack Obama and the Politics of Illusion, (AK Press). He can be reached at: gleupp@tufts.edu

Friday, December 5, 2014

Cảnh sát giết người ở Mỹ: Vấn đề giai cấp


Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Police killings in America: The class issues" của tác giả Joseph Kishore, bài viết cho biết lý do người Mỹ đã biểu tình ở nhiều thành phố để phản đối sự tàn bạo của cảnh sát Mỹ. Mỗi năm cảnh sát Mỹ giết hại hơn 400 thường dân, nhưng hầu hết không bị truy tố hay chịu bất cứ hình thức kỷ luật nào. 

Cảnh sát giết người ở Mỹ: Vấn đề giai cấp

Một lần nữa, viên chức cảnh sát lại thoát khỏi truy tố sau khi giết hại thường dân không vũ trang trên đường phố Hoa Kỳ.

Quyết định của hội thẩm đoàn công tố Staten Island không truy tố viên cảnh sát Pantaleo của thành phố New York về tội siết cổ chết Eric Garner vào tháng 7, là một trò hề tư pháp, diễn ra chỉ hai tuần sau thất bại tương tự trong việc truy tố viên cảnh sát đã bắn Michael Brown ở Ferguson, Missouri.

Theo một nghĩa nào đó, việc miễn tội cho Pantaleo thậm chí còn xuất sắc hơn việc không truy tố Darren Wilson. Garner bị xét hỏi về việc bán thuốc lá không rõ nguồn gốc. Anh ta bị quật ngã ra mặt đất chẳng vì bất cứ lý do gì, bị siết cổ với một đòn khóa đã bị sở cảnh sát cấm từ lâu và bị ghìm xuống mặt đất khi anh ta kêu la không ngừng rằng anh ta không thể thở được. Sau khi anh ta bất tỉnh, cảnh sát đứng xung quanh 7 phút trước khi thực hiện sơ cứu.

Toàn bộ sự cố được ghi hình lại, và được hàng triệu người khắp thế giới xem. Nhân viên khám nghiệm pháp y của thành phố kết luận đó là hành vi giết người. Mặc dù vậy, không có phiên tòa, không có cơ hội nào để quan tòa làm sáng tỏ vụ án này và đưa ra sự trừng phạt theo luật pháp. Thay vào đó, giống như ở Ferguson, một hội thẩm đoàn công tố, trong một quá trình bí mật, do một công tố viên có quan hệ gần gũi với cảnh sát dẫn dắt, đã quyết định không truy tố. 

Quyết định của hội thẩm đoàn công tố trong vụ án Garner đã gây ra một làn sóng phẫn nộ khắp đất nước. Hàng ngàn người đã đổ ra đường phố trong một cuộc biểu tình giận dữ ngẫu hứng, phong tỏa đường cao tốc và tràn ngập các đường phố ở thành phố New York, Chicago và các thành phố khác của Hoa Kỳ.

Hàng triệu người đang tự hỏi: Nếu một sĩ quan cảnh sát có thể siết cổ chết một người không có vũ khí, với toàn bộ sự kiện đã được ghi hình lại, mà vẫn thoát khỏi bị truy tố; còn có điều gì không được phép? Sự giận dữ là hoàn toàn chính đáng. Song sự giận dữ cần được dẫn dắt bởi lý giải chính trị rõ ràng và am hiểu.

Khó có thể nói nghiêm túc về sự tàn bạo của cảnh sát mà không nói về chủ nghĩa tư bản, mà không thừa nhận mối liên hệ giữa bạo lực của nhà nước và sự bất công xã hội khổng lồ đang trở thành đặc trưng của cuộc sống ở Hoa Kỳ. Sự thật căn bản là giai cấp thống trị và những người phát ngôn đủ loại của họ đang tìm cách che đậy tất cả.

Phản ứng của thiết chế chính trị và truyền thông đối với việc miễn truy tố trong vụ Garner đã bộc lộ sự hốt hoảng đối với tác động của nó. Các chính khách đủ loại, Dân Chủ và Cộng Hòa, đã cấp tốc kêu gọi các điều tra tiếp theo, một cuộc điều tra liên bang về “quyền công dân”, các biện pháp khác nhau nhằm khôi phục “niềm tin của công chúng”. Giai cấp thống trị có một nhận thức chung rằng “kết cấu dân sự của Hoa Kỳ” (một khái niệm được tờ New York Time sử dụng sau vụ miễn truy tố Wilson) đang bị đẩy đến gần điểm tan vỡ.

Những động thái đó được tổng thống Obama, người đã gặp thị trưởng thành phố New York Bill de Blasio vào thứ năm, dẫn dắt để tạo ra một chiến lược chính trị chung đối phó với các cuộc biểu tình về vụ giết hại Garner. Theo thư ký báo chí của Nhà Trắng Josh Earnest, “hai người đã cam kết hợp tác để củng cố niềm tin và sự liên kết giữa lực lượng hành pháp và các cộng đồng địa phương mà họ phục vụ”.

Các biện pháp gồm có nhiều hành động xoa dịu, như các tài trợ máy quay phim cho cơ quan cảnh sát (không phù hợp trong vụ Garner, do toàn bộ sự kiện cũng đã được ghi hình) và “huấn luyện” thêm cho cảnh sát.

Sau cuộc họp, Obama tuyên bố rằng “quá nhiều người Mỹ cảm thấy thật bất công khi đề cập tới khoảng cách giữa lý tưởng đã được công khai của chúng ta và cách thức luật lệ được áp dụng hàng ngày.” Phía sau tai tiếng của cảnh sát và hệ thống pháp luật, Obama nói, có “một câu hỏi lớn về việc khôi phục ý thức về mục đích chung”. 

Mặc dù vậy, có một điều mà Obama không thể thừa nhận, sự thiếu vắng của “ý thức về mục đích chung” không phải là câu hỏi về nhận thức hay thất bại trong đối thoại, mà là hiện thực khách quan. Không có “mục đích chung” giữa quý tộc tài chính và doanh nghiệp, quyết định theo đuổi chính sách chiến tranh vĩnh viễn trên phương diện quốc tế và phản cách mạng xã hội trong nước, với hàng triệu người lao động và thanh niên đang phải đối mặt với một cuộc tấn công tàn nhẫn về công ăn việc làm, tiền lương, chương trình xã hội và quyền dân chủ.

Giữa sự chia rẽ xã hội này, nhà nước, trong đó có cảnh sát, không phải là cơ quan trung lập mà là một công cụ của giai cấp thống trị. Bản thân Obama đã luôn khuyến khích và gia tăng thêm quyền lực của nhà nước, từ gia tăng bộ máy do thám vi hiến có quy mô lớn; tới tự cho mình quyền được ám sát bất kỳ ai, bao gồm cả công dân Mỹ, mà không cần xét xử; tới quân sự hóa cảnh sát nội địa thông qua cung cấp hàng tỷ dollar dưới dạng xe bọc thép, vũ khí và các trang thiết bị khác – một chính sách mà tổng thống này đã xác nhận lại trong tuần.

Trong nỗ lực che đậy vấn đề giai cấp căn bản ngay tức thời, Đảng Dân Chủ đã triển khai nhiều nhóm phụ tá và các cơ quan truyền thông, cùng với những người đề xuất các chính sách danh tính như Al Sharpton, để khẳng định rằng vấn đề căn bản liên quan đến bạo lực của cảnh sát là chủng tộc và “quan hệ chủng tộc”. Hệ quả tất yếu của khẳng định đó là Obama, tổng thống da màu đầu tiên của Hoa Kỳ, sẽ “nghiêm túc” nói chuyện về sự tàn bạo của cảnh sát. 

Chủ nghĩa chủng tộc đóng một vai trò không thể phủ nhận trong các chiến dịch tội ác của cảnh sát, song điều đó hoàn toàn nằm dưới sự phân chia giai cấp căn bản. Quả thực vậy, trung tâm của cuộc khủng hoảng chính trị mà giai cấp cai trị phải đối mặt là cơ chế chính trị đã được tạo dựng để phá hủy nhận thức giai cấp – bao gồm các chính sách về chủng tộc và danh tính – bản thân chúng cực kỳ tai tiếng, một phần không nhỏ trong trải nghiệm về chính quyền Obama.

Mục tiêu trong bạo lực của cảnh sát không phải là chủng tộc mà là đàn áp giai cấp. Không chỉ công nhân trong mọi chủng tộc là nạn nhân của sự tàn bạo của cảnh sát, mà các công cụ đàn áp được giai cấp thống trị gia tăng một cách có hệ thống và có chủ ý để sẵn sàng đối phó với đình công, biểu tình, diễu hành hay các dạng phản kháng chính trị và xã hội khác đối với sự chuyên chế của ngân hàng và doanh nghiệp.

Phản kháng sự tàn bạo của cảnh sát và sự trỗi dậy của phương thức cai trị bằng nhà nước cảnh sát ở Hoa Kỳ phải cắm rễ trong một phong trào chính trị của giai cấp lao động, được vận động như một lực lượng độc lập, đối lập với hệ thống tư bản chủ nghĩa và bộ máy nhà nước phục vụ cho nó như là kẻ áp đặt bất công xã hội.

Saturday, November 29, 2014

Bí mật đen tối của Hội Thẩm Công Tố

Nhiều bạn đọc ở Việt Nam hiểu nhầm phán quyết trong vụ bắn chết thanh niên da màu ở thành phố Ferguson là quyết định trắng án của tòa án, hoặc không truy tố của tòa án. Hệ thống tư pháp Mỹ có điểm khác với Việt Nam, một vụ án trước khi được truy tố bởi công tố viên thì phải đưa ra xem xét tại "grand jury", một dạng hội thẩm công tố, để xem xét các bằng chứng xem có đủ điều kiện truy tố không, sau đó mới là truy tố của công tố và cuối cùng tòa án mới xét xử. Tòa án không liên quan gì đến grand jury cả, do vậy phán quyết của grand jury cũng không phải là phán quyết của tòa án. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "The secret darkness of grand jury" của tác giả Lauren C. Regan, một chuyên gia về luật Hoa Kỳ, để hiểu rõ hơn khái niệm hội thẩm công tố và lý do khiến cho hầu hết các vụ cảnh sát bắn chết thường dân không bị đưa ra truy tố. 

Bí mật đen tối của Hội Thẩm Công Tố

Suốt 17 năm qua tôi đã đại diện cho rất nhiều và rất nhiều khách hàng bị gọi đến làm nhân chứng ở Hội Thẩm Công Tố Bang và Liên Bang trong các điều tra của chính quyền. Hội Thẩm Công Tố là một tòa án bí mật mà tại đó một công dân buộc phải trả lời các câu hỏi của công tố viên, thường là trái với ý muốn của họ. Họ không được phép có luật sư tại phòng hội thẩm công tố để tham vấn khi các câu hỏi được đưa ra. Không có quan tòa tại phòng hội thẩm công tố để theo dõi sự công bằng hay hợp hiến của quá trình. Công tố viên tự mình quyết định bằng chứng nào sẽ được cung cấp cho hội thẩm viên, và đó là cách thức duy nhất làm cơ sở cho cuộc tranh luận và quyết định của về việc một cáo trạng nghiêm trọng sẽ được đưa ra. Công tố viên trở thành bạn của hội thẩm viên: Ông ta kiểm soát giờ nghỉ tắm, ăn, và khi nào họ có thể quay lại với công việc, gia đình cũng như cuộc sống. Công tố viên, một vị trí được lựa chọn chính trị, rất gần gũi với cảnh sát hàng ngày và nói chung có thiên vị đối với cảnh sát do mối quan hệ thân thuộc đó. Công tố viên có quyền lực rất lớn đối với kết quả làm việc của hội thẩm công tố. 

Là một luật sư cho những nhân chứng được gọi, mối lo ngại đầu tiên là khách hàng của tôi có tự ràng buộc trách nhiệm phải cung cấp lời khai cho hội thẩm công tố không. Bởi vì hội thẩm công tố là một quá trình bí mật, câu trả lời cho những câu hỏi hầu hết là có, có khả năng là một cá nhân được gọi đến để làm chứng và đưa ra các thông tin khiến cho cá nhân đó bị truy tố hình sự. Trong trường hợp này, nhân chứng được khuyến nghị là họ phải vận dụng quyền trong Tu Chính Án Thứ Năm để giữ im lặng, do vậy sẽ họ sẽ không ràng buộc bản thân vào một tội ác. Cách duy nhất để công tố viên vượt qua quyền cá nhân trong Tu Chính Án Thứ Năm là áp dụng miễn truy tố cho người được gọi. Nếu miễn truy tố được áp đặt thì quyền trong Tu Chính Án Thứ Năm bị xóa bỏ và họ buộc phải khai. Nhưng, khi đưa ra việc miễn truy tố, nhà nước thừa nhận rằng họ không cho phép truy tố nhân chứng về bất cứ tội ác nào liên quan đến lời khai.

Đây là điều căn bản và hiểu biết khiến tôi nghi ngờ về hội thẩm công tố mới đây xử lý vụ Darren Wilson, sĩ quan cảnh sát đã sát hại thanh niên 18 tuổi Michael Brown ở Ferguson, bang Missouri. Nếu một cá nhân bị điều tra vì tội giết người, liệu họ (trong nhận thức về quyền lợi) có tự nguyện khước từ quyền trong Tu Chính Án Thứ Năm và khai với hội thẩm công tố mà không được miễn truy tố hay có một số dạng thỏa thuận khác với nhà nước đảm bảo cho các sĩ quan bị tình nghi rằng lời khai của họ sẽ không được sử dụng để truy tố họ về một trong những tội đặc biệt nghiêm trọng của quốc gia? Nếu thỏa thuận kiểu đó không được bí mật đưa vào quy trình hội thẩm công tố, điều dễ diễn ra là công đoàn cảnh sát đầy thế lực hoặc luật sư của Wilson sẽ vận dụng quyền theo Tu Chính Án Thứ Năm của anh ta. Bởi vì công tố viên hoàn toàn kiểm soát các câu hỏi được đặt ra và bằng chứng được cung cấp cho hội thẩm công tố, không có gì ngạc nhiên khi như thường lệ, nhà nước đảm bảo kết quả mà họ muốn – sĩ quan cảnh sát sẽ lại tiếp tục thoát khỏi tội sát nhân.

Chắc chắn, nhà nước cảm thấy buộc phải triệu tập một hội thẩm công tố cho vụ giết người gây ra giận dữ và sự chú ý khắp thế giới này. Và chắc chắn là mời Darren Wilson tới hội thẩm công tố tuyên bố sự vô tội cũng như khiển trách anh ta là để làm ra vẻ nhà nước “thực sự” điều tra vụ giết người. Tán dương hoạt động của các hội thẩm viên là một cách đánh lạc hướng tốt, nhưng dĩ nhiên là không phải lỗi của của các hội thẩm viên mà hệ thống hội thẩm công tố bị hỏng. Nếu các hội thẩm viên chỉ được phép đụng chạm từng phần giống như thầy bói xem voi, thì khó mà có thể biết con voi ra sao.

Do vậy, một cảnh sát sát nhân không bao giờ được nhìn thấy dưới ánh sáng của phòng hội thẩm, trái lại sẽ ẩn nấp trong bóng tối của phòng hội thẩm công tố đầy thiên vị

Kịch bản này đã diễn ra rất nhiều lần ở Hoa Kỳ. Những người ngoài lề (bất kể là da đen, bệnh tâm thần, nghèo, vân vân) bị sĩ quan lực lượng hành pháp đã tuyên thệ duy trì luật pháp và bảo vệ an toàn của cộng đồng bắn và giết hại. Cộng đồng phản ứng với sự kinh hoàng, sợ hãi và tức giận với việc giết hại một nạn nhân mà họ biết hay có liên quan. Nhà nước tạo ra một số khung điều chỉnh như thể là họ thực sự quan tâm đến việc cá nhân này – một trong số ít có quyền giết người hợp pháp với các điều kiện nghiêm ngặt – hành động thích nghi với luật pháp. Trái ngược với số lượng các vụ sát hại của cảnh sát đang gia tăng ở quốc gia này; có thể nghi ngờ rằng các kết luận của nhà nước chủ yếu là để giải tội cho các hành động của sĩ quan cảnh sát và xác nhận quyền được trừng phạt một cá nhân bằng cái chết của họ. Cộng đồng phản ứng trong sự phẫn nộ. Biểu tình và các hành động trực tiếp đã trở thành cách duy nhất mà người dân giải tỏa thịnh nộ và oán giận đối với hệ thống hư hỏng và bất công. Sự phẫn nộ của công chúng trở thành lý do để gia tăng sự đàn áp của nhà nước đối với cộng đồng – quân sự hóa cảnh sát, Vệ Binh Quốc Gia cũng như bỏ tù các lãnh đạo cộng đồng. Cộng đồng thường xuyên bị chia rẽ và chia cắt giữa những người không thể tiếp tục hối lỗi trên mặt vì sự bất công đó, những người tiếp tục tuân thủ các tá điền trong cuộc bất tuân dân sự của Ghandi, với những người có đặc quyền cho phép họ vùi đầu vào cát.

Một thanh niên da màu khác bị chết. Một cảnh sát sát nhân khác tiếp tục được thuê để bảo vệ và phục vụ cộng đồng mà anh ta đã phá hủy. Một hệ thống hư hỏng được duy trì mà không hề thảo luận về việc thay thế nó. Trái lại, thảm kịch tương tự tiếp tục tái diễn, dĩ nhiên “nhân dân chúng ta” sẽ phải đặt ra một giải pháp xã hội có thể đem lại sự tôn trọng nhân dân.

Lauren Regan is the founder and executive director of the Civil Liberties Defense Center (CLDC). Ms. Regan operates a public interest law firm, The Justice Law Group, specializing in constitutional law, civil rights, and criminal defense. She is a founding board member and past president of the Cascadia Wildlands. She also serves as a Lane County Teen Court judge, Oregon State Bar Leadership Fellow, National Lawyers Guild, Eugene co-chair, and volunteers hundreds of hours a year to various progressive causes.

Friday, November 28, 2014

Lại thêm một vụ bắn người tàn bạo mới của cảnh sát Hoa Kỳ


Vào tuần trước, cảnh sát Cleveland đã bắn gục một cậu bé 12 tuổi có tên là Tamir Rice (sau đó cậu bé chết ở bệnh viện). Có ai đó gọi điện báo cảnh sát là cậu bé cầm một khẩu súng (có lẽ là giả) ở sân chơi. Hãy nhìn cái cách cảnh sát bắn hạ cậu bé, họ lao xe ô tô tới gần và bắn chết cậu bé ngay tức thì, không hề có thương thuyết hay cảnh báo.

Theo báo cáo mới đây của FBI vào năm 2013 đã có 461 người Mỹ bị cảnh sát "giết hại có lý do chính đáng", trung bình mỗi năm có hơn 400 người Mỹ bị cảnh sát "giết hại có lý do chính đáng". Trung bình mỗi ngày có hơn một thường dân bị cảnh sát Mỹ hạ sát. Cảnh sát Đức vào năm 2011 giết chết 6 người, còn cảnh sát Anh chỉ giết chết 2 người. 

Đã đến lúc người Mỹ nên đặt câu hỏi: Ai sẽ bảo vệ thường dân trước họng súng của cảnh sát?

Wednesday, November 19, 2014

Mười hành động phi pháp của cảnh sát Hoa Kỳ khi ngăn chặn biểu tình

Từ khi xảy ra vụ cảnh sát bắn chết thanh niên da màu Michael Brown, người dân Mỹ đã bày tỏ sự quan ngại sâu sắc về việc cảnh sát lạm sát dân thường. Các cuộc biểu tình ôn hòa của người dân đã bị cảnh sát ngăn cản. Bạn đọc blog muốn biết các chiến thuật cảnh sát Mỹ thường dùng để giải tán đoàn biểu tình thì xin mời theo dõi bản dịch bài viết "Ten Illegal Police Actions to Watch for in Ferguson" của tác giả Bill Quigley, một giáo sư luật người Mỹ. Tiêu đề do người dịch đặt.

Muời hành động phi pháp của cảnh sát được chờ đón ở Ferguson

Khi phán quyết về Michael Brown được công bố, người dân có thể dự đoán cảnh sát sẽ dùng ít nhất 10 biện pháp bất hợp pháp để ngăn cản người dân thực hiện các quyền hợp hiến của họ. Cảnh sát Ferguson xuất hiện trên truyền hình nhiều hơn ở nơi khác, nên người dân có thể thấy hành động của họ khủng khiếp ra sao. Nhưng các chiến thuật cảnh sát bất hợp pháp của họ không may mắn là cũng được các lực lượng thực thi pháp luật khác sử dụng khá phổ biến trong các cuộc biểu tình lớn trên khắp nước Mỹ.

Tu Chính Án Thứ Nhất của Hiến Pháp Mỹ hứa hẹn rằng chính phủ sẽ không ngăn cản quyền tự do ngôn luận hay ngăn cản quyền được tụ tập ôn hòa hoặc kiến nghị của người dân đối với chính quyền trong việc sửa chữa các bất công. 

Đây là những gì họ sẽ làm, hãy chứng kiến từng hành động bất hợp pháp khi đám đông lớn lên.

Thứ nhất. Cố gắng ngăn cản người dân biểu tình. Mọi cảnh sát đều nói rằng họ để cho người dân biểu tình. Họ luôn cho phép biểu tình trong chốc lát. Sau đó cảnh sát sẽ thấy mệt mỏi và hết kiên nhẫn, họ cố gắng ngăn cản người dân tiếp tục biểu tình. Chính quyền sẽ nói người dân chỉ có thể biểu tình trong một thời gian nhất định, hay trên một con phố cụ thể, hoặc chỉ khi họ tiếp tục di chuyển, hay không ở đó, không ở đây, không phải bây giờ, không lâu hơn nữa. Những hành động đó của cảnh sát không được Hiến Pháp Mỹ cho phép. Người dân có quyền biểu tình, chính quyền nên để họ yên.

Thứ hai. Những kẻ khiêu khích. Cảnh sát dường như sắp đặt sẵn hàng tá các sĩ quan, da trắng và da đen, đàn ông và phụ nữ, bên trong nhiều nhóm biểu tình. Những sĩ quan này sẽ do thám bất hợp pháp những người biểu tình ôn hòa và thường xuyên có các hành động bất hợp pháp cũng như kích động người dân có các hành động bất hợp pháp. Họ thậm chí cũng bị bắt giữ nhưng thần kỳ là không bao giờ bị tống giam. Nhiều người khác trong nhóm sẽ được trả tiền để báo tin về nhóm với chính quyền. Nực cười là khi các cảnh sát chìm bị phát hiện thì họ luôn khẳng định là họ có quyền hợp hiến ở đó và cố gắng sử dụng hiến pháp mà họ xâm phạm làm lá chắn!

Thứ ba. Các đội bắt cóc. Cảnh sát sẽ quyết định ai là người họ không thích hay ai là người mà họ cho là lãnh đạo. Sau đó họ sẽ sử dụng một nhóm nhỏ vũ trang hạng nặng để xông vào đám đông ôn hòa và tóm lấy người đó, kéo người đó ra và bắt giữ người đó.

Thứ tư. Bắt giữ trái phép. Cảnh sát sẽ bắt giữ bất cứ ai họ chọn, bất cứ khi nào họ muốn và sẽ tạo ra các câu chuyện để biện minh cho việc bắt giữ. Nếu người dân đập vỡ của kính hay làm đau người khác, việc bắt giữ là hợp pháp. Mặc dù vậy, cảnh sát sẽ bắt giữ trước tiên và phân loại xem ai là người sẽ bị bắt giữ sau đó. Cảnh sát ở Ferguson đã bắt giữ trái phép cả những người quan sát hợp pháp, một giáo sư luật, và các lãnh đạo tôn giáo. 

Thứ năm. Hăm dọa. Như họ đã cho thấy nhiều lần ở Ferguson và khắp đất nước, khi người biểu tình nóng giận, cảnh sát sẽ xuất hiện trong trang phục chống bạo động, mặc đồ kiểu như ninja rùa (những khẩu súng to lòe loẹt, khiên nhựa, dùi cui lớn, nẹp ống đồng, mặt nạ hơi ngạt, dây khóa tay) và hành động như những chiến binh quân đội đang bảo vệ người dân khỏi sự xâm lược của ISIS.

Thứ sáu. Dồn ép hay bao vây. Cảnh sát sẽ bao quanh một nhóm và nhốt họ lại, không để họ di chuyển. Họ sẽ bắt giam tất cả hoặc buộc mọi người phải di chuyển theo một hướng. Hành động này, như cảnh sát biết rất rõ, luôn gom cả những người vô tội đi ngang qua cũng như người biểu tình. NYPD làm điều đó với hàng trăm người trên cầu Brooklyn và nhiều người biểu tình khác. Đôi khi họ dùng lưới nhựa màu cam hay lưới ngăn tuyết, đôi khi chỉ với rất nhiều cảnh sát.

Thứ bảy. Đột kích vào các nhà thờ, tổ chức hay gia đình hỗ trợ. Cảnh sát thường xuyên đột kích bất hợp pháp theo kiểu hạ thủ trước các nơi mà các tình nguyện viên ngủ, nấu nướng hay đỗ xe. Họ nói nối địa phương và cáo buộc người biểu tình liên quan tới các tổ chức bạo lực.

Thứ tám. Xe tải phát âm thanh gây đau tai. Cảnh sát cũng sẽ sử dụng xe tải phát âm thanh gây đau tai với LRAD (Thiết Bị Truyền Âm Cự Ly Dài). Đầu tiên được sử dụng ở Iraq, giờ được sử dụng chống lại những người biểu tình ôn hòa ở Mỹ. Chiếc xe tải phát ra âm thanh đủ lớn để gây đau tai. Chưa bao giờ được bất kỳ tòa án nào chấp nhận, hành động gây đau đớn có chủ tâm này là một biểu hiện của việc quân sự hóa cảnh sát. Cảnh sát cũng sử dụng MRAs Xe Chống Phục Kích Bằng Mìn – xe tải mang giáp nặng trông giống như xe tăng nhưng chạy bằng bánh chứ không phải bằng xích. Đây là một phần của sự hăm dọa.

Thứ chín. Bắt giữ các phóng viên. Khi cảnh sát cảm thấy hơi nóng của quan điểm công chúng, họ sẽ ép buộc các nhà báo tránh xa người biểu tình. Những ai vẫn khăng khăng tham gia vào hoạt động được hiến pháp bảo vệ và ghi hình sự kiện sẽ bị bắt giữ.

Thứ mười. Vũ khí hóa học và các vũ khí khác. Khi cảnh sát thực sự vô vọng và lo ngại, họ sẽ tìm cách giải tán toàn bộ đám đông với bình xịt hạt tiêu, hơi cay và các vũ khí hóa học khác, đạn gỗ hay đạn cao su. Nếu chuyện này xảy ra, cảnh sát thực sự mất kiểm soát và nguy hiểm nhất.

Hàng tá và hàng tá các lực lượng cảnh sát khác sẽ vây quanh người biểu tình ở Ferguson khi phán quyết về Michael Brown được công bố. Nhân viên FBI, An Ninh Nội Địa, Cảnh Sát Tư Pháp, Cảnh Sát Bang, Cảnh Sát Trưởng Hạt và cảnh sát thành phố địa phương từ hàng tá các thành phố nhỏ ở St. Louis và phụ cận sẽ có mặt tại hiện trường. Dĩ nhiên đây là lúc mà quyền biểu tình hợp hiến của người dân thực sự được bảo vệ. Chúng ta chỉ có thể hy vọng. Nhưng đồng thời, hãy chứng kiến các chiến thuật thông dụng của cảnh sát. 

Bill Quigley is a law professor at Loyola University New Orleans