Showing posts with label Khủng bố. Show all posts
Showing posts with label Khủng bố. Show all posts

Monday, January 25, 2016

Cách thức phương Tây tạo ra chủ nghĩa khủng bố

Bài viết "How the West Creates Terrorism" của Andre Vltchek nhắc nhở người đọc về chủ nghĩa khủng bố của phương Tây dưới dạng chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, hai bóng ma trong những vụ diệt chủng hàng trăm triệu người trên khắp thế giới, so với chúng đám khủng bố hiện nay chỉ là những kẻ học việc.

Cách thức phương Tây tạo ra chủ nghĩa khủng bố

Chủ nghĩa khủng bố có nhiều dạng và nhiều bộ mặt, nhưng khủng khiếp nhất là sự tàn bạo máu lạnh

Chúng ta được yêu cầu tin rằng những kẻ khủng bố là những tên điên bệnh hoạn, chạy quanh với bom, súng máy và thắt lưng chất nổ. Đó là cách chúng ta được yêu cầu hình dung về chúng

Nhiều kẻ để râu; hầu hết “trông giống người nước ngoài”, không phải da trắng, không phải phương Tây. Nói chung, chúng là kẻ đánh vợ, cưỡng hiếp trẻ em, kẻ phá hủy các bức tượng Hy Lạp và La Mã.

Thực tế là trong chiến tranh lạnh có một số “kẻ khủng bố” trông giống người da trắng – những kẻ cánh tả thuộc về một vài nhóm cách mạng, ở Italy và đâu đó của Đông Âu. Nhưng chỉ đến bây giờ chúng ta mới được biết rằng những hành động khủng bố được gán cho họ thực sự do Đế Quốc gây ra, bởi vài chính quyền cánh hữu Châu Âu và mật vụ. Bạn hãy nhớ, các quốc gia NATO đã làm nổ tung những con tàu trong đường hầm, hoặc đánh bom toàn bộ các nhà ga… 

Điều đó “cần phải thực hiện” để làm mất uy tín của cánh tả, chỉ để đảm bảo rằng người dân sẽ không trở nên thiếu trách nhiệm mà bỏ phiếu cho những người cộng sản hoặc xã hội chủ nghĩa chân chính.

Cũng có vài phần tử “khủng bố” Mỹ Latin – phong trào cách mạng chiến đấu vì tự do và chống lại áp bức, chủ yếu là chống lại chủ nghĩa thực dân phương Tây. Họ phải bị bao vây, tiêu diệt và nếu họ nắm quyền thì phải bị lật đổ.

Nhưng khủng bố thực sự trở nên phổ biến ở phương Tây chỉ sau khi Liên Bang Soviet và khối Cộng Sản bị phá hủy với hàng ngàn biện pháp kinh tế, quân sự và tuyên truyền, cũng như phương Tây đột nhiên phát hiện ra rằng chả có ai để đối đầu. Có lẽ là nó cảm thấy cần phải biện minh có những hành động áp bức tàn bạo của mình ở Châu Phi, Trung Đông, Mỹ Latin và Châu Á.

Nó cần một kẻ thù “tối thượng” mới, thực sự “tối thượng”, để biện minh cho ngân sách quân sự và tình báo khổng lồ. Việc đối mặt với vài trăm “quái vật” ở đâu đó trong rừng rậm xứ Colombia hay Bắc Ireland hoặc Corsia có lẽ là không đủ nữa, cần phải có thứ gì đó thật sự lớn, thứ gì đó so sánh được với “sự độc ác” của “mối đe dọa” từ Soviet.

Ôi mối đe dọa thân thuộc! Dĩ nhiên chỉ là mối đe dọa, không phải là nguy cơ của những lý tưởng bình đẳng và chủ nghĩa quốc tế…

Thế là phương Tây gắn chủ nghĩa khủng bố với Hồi giáo, một trong những nền văn hóa vĩ đại nhất trên trái đất, với 1,6 tỷ tín đồ. Hồi giáo đủ lớn và tối thượng để khiến các bà nội trợ trung lưu ở vùng ngoại ô phương Tây sợ vỡ mật! Trên tất cả những điều đó, nó cần phải bị kiềm chế, như thể là nó quá xã hội chủ nghĩa và quá ôn hòa.

Vào lúc đó trong lịch sử, tất cả các lãnh đạo thế tục và xã hội chủ nghĩa của các nước Hồi giáo, (như Iran, Indonesia và Ai Cập), đều đã bị phương Tây lật đổ, di sản của họ bị đập nát hoặc đơn giản là bị cấm đoán. 

Nhưng điều đó vẫn chưa đủ với phương Tây!

Để biến Hồi giáo thành một kẻ thù đáng giá, Đế Quốc trước hết đã cực đoan hóa và làm hư hỏng hàng sa số các phong trào và tổ chức Hồi giáo, sau đó tạo ra một loại mới, thường xuyên huấn luyện, vũ trang và tài trợ cho chúng, để chúng trông thực sự đủ đáng sợ. 

Dĩ nhiên đó là lý do quan trọng khiến “chủ nghĩa khủng bố”, đặc biệt là “chủ nghĩa khủng bố” Hồi giáo, là cần thiết cho sự sống sót của các học thuyết phương Tây, chủ nghĩa ngoại lệ và sự chuyên chế toàn cầu; nó biện minh cho sự siêu việt tuyệt đối về văn hóa và đạo đức của phương Tây

Đây là cách nó hoạt động

Trong nhiều thế kỷ, phương Tây đã hành động như một con quái vật khát máu. Bất chấp sự tuyên truyền tự họa được truyền thông phương Tây phổ biến khắp thế giới, người ta đều đã nhận thấy rằng Đế Quốc đang cưỡng hiếp, giết hại và cướp bóc ở mọi nơi trên thế giới. Chỉ sau vài thập kỷ sau, thế giới sẽ coi phương Tây là một thảm họa chết chóc và độc hại. Kịch bản đó cần phải được ngăn chặn bằng mọi giá!

Các nhà tư tưởng và tuyên truyền của Đế Quốc đã tạo ra một công thức sáng lạng mới: Hãy tạo ra điều gì đó có bề ngoài và hành xử tồi tệ hơn chúng ta và sau đó chúng ta có thể tự hào rằng chúng ta vẫn là nền văn hóa hợp lý và khoan dung nhất trên trái đất!

Hãy làm một cú xoay ngoạn mục: Hãy chống lại tạo vật của chúng ta – hãy chống lại với danh nghĩa của tự do và dân chủ!”

Đây là cách mà thế hệ “khủng bố” mới được sinh ra. Chúng đang sống! Chúng đang đống và sinh sôi! Chúng nhân lên như những con kỳ giông của Capek. 

***

Chủ nghĩa khủng bố phương Tây không thực sự được mổ xẻ, mặc dù những dạng cực đoan và bạo lực nhất của nó tàn phá thế giới không thương tiếc và đã có từ lâu, với hàng trăm triệu nạn nhân ở khắp nơi.

Ngay cả những binh đoàn lê dương và đấu sĩ của Đế Quốc, giống như Mujaheddin, Al-Qaida, hay ISIS đều không bao giờ có thể tàn bạo được như những gì mà người Anh, người Pháp, người Bỉ, người Đức hay ông chủ Hoa Kỳ của chúng đã luôn thể hiện trong lịch sử. Dĩ nhiên chúng rất cố gắng để theo kịp các bậc tôn sư và thân sinh nhưng chúng không đủ bạo lực và tàn nhẫn.

Cần phải có “văn hóa phương Tây” để hành quyết 10 triệu người chỉ ở một nơi duy nhất, hầu như chỉ một lần!

***

Đâu là khủng bố thật sự và làm sao ISIS và những kẻ khác có thể theo đuổi sự định hướng của chúng? Họ nói rằng ISIS chặt đầu các nạn nhân của chúng. Đủ tồi tệ. Nhưng ai là thầy của chúng? 

Trong nhiều thế kỷ, các đế quốc Châu Âu đã giết chóc, tra tấn, cưỡng hiếp và băm xác người dân khắp các lục địa của thế giới. Những nước không trực tiếp làm điều đó đã “đầu tư” cho những cuộc viễn chinh thuộc địa, hoặc cử người tới tham gia các binh đoàn diệt chủng. 

Vua Leopold II và đội quân của ông ta đã hành quyết khoảng 10 triệu người ở Tây và Trung Phi, ở nơi mà ngày nay được gọi là Congo. Ông ta đã săn đuổi người dân ở đó như săn thú hoang, cưỡng ép họ phải làm việc trong các đồn điền cao su. Nếu ông ta cho rằng họ đổ đầy két tiền của ông ta không đủ nhanh, ông ta không ngần ngại chặt tay họ, hoặc thiêu sống toàn bộ dân làng trong ngôi nhà của chính họ.

10 triệu nạn nhân đã chết. 10 triệu! Điều đó diễn ra chưa phải là quá lâu, không phải trong “thời đại tăm tối” mà là trong thế kỷ 20, dưới sự cai trị của chế độ quân chủ lập hiến và tự xưng là dân chủ. Làm sao có thể so sánh nó với chủ nghĩa khủng bố đang thống trị ở những khu vực mà ISIS chiếm đóng? 

Cộng Hòa Dân Chủ Congo kể từ năm 1995 đã một lần nữa mất đi 10 triệu mạng người trong một cơn điên loạn khủng bố, do những tay sai của phương Tây, Rwanda và Uganda gây ra (xem giới thiệu bộ phim “Rwanda Gambit” của tôi).

Người Đức đã thực hành diệt chủng ở Nam-Tây Phi, hiện nay là Namibia. Bộ tộc Herero đã bị hủy diệt, hay ít nhất là gần 90% bộ tộc. Đầu tiên, người dân bị đuổi khỏi đất đai và nhà của họ, được đưa đến sa mạc. Nếu họ sống sót, các cuộc viễn chinh thời tiền phát xít của người Đức sẽ tiếp tục, sử dụng đạn và các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt khác. Các thí nghiệm y khoa trên con người đã được thực hiện, để chứng minh sự siêu việt của dân tộc Đức và chủng tộc da trắng.

Đó chỉ là những thường dân vô tội; người dân chỉ có tội duy nhất đó là họ không có da trắng và ở trên vùng đất mà người Châu Âu xâm lược và đánh phá.

Taliban hay thậm chí ISIS chưa bao giờ tiến đến gần mức đó!

Hiện nay, chính quyền Namibia đang yêu cầu trả lại hàng sa số những cái đầu được chặt từ người dân của họ; những cái đầu bị chặt và gửi đến đại học Freiburg cũng như một số bệnh viện ở Berlin cho các thí nghiệm y khoa.

Hãy tưởng tưởng, ISIS chặt hàng ngàn cái đầu người Châu Âu để thực hiện các thí nghiệm y khoa nhằm mục đích chứng minh sự siêu việt của chủng tộc Arab. Thật hoàn toàn không thể tưởng tưởng được!

Người dân địa phương bị khủng bố ở hầu khắp các thuộc địa mà Châu Âu chiếm được, một số đã được tôi mô tả chi tiết trong cuốn sách dày 840 trang mới nhất của mình “Exposing Lies of the Empire”.

Người Anh và nạn đói mà họ đã dùng để kiểm soát dân số và hăm dọa ở Ấn Độ mới khủng khiếp làm sao! Chỉ riêng năm 1943 có ít nhất 5 triệu người ở Bengal, 5,5 triệu người vào năm 1876-78, 5 triệu người vào năm 1896-97, đó chỉ là một số ít hành động khủng bố của đế quốc Anh đối với dân chúng không có gì tự vệ và bị buộc phải sống dưới một chế độ khủng bố áp bức tàn bạo!

Những gì mà tôi viết phía trên chỉ là ba chương ngắn trong lịch sử lâu dài của chủ nghĩa khủng bố phương Tây. Một từ điển bách khoa toàn thư mới có thể truyền tải hết chủ đề này.

Nhưng tất cả những điều này nằm ngoài nhận thức của người dân phương Tây. Dân chúng châu Âu và Bắc Mỹ không muốn biết bất cứ thứ gì về quá khứ và hiện tại. Chừng nào mà họ còn cho rằng họ cai trị thế giới vì họ tự do, thông minh và chăm chỉ, không phải bởi vì trong nhiều thế kỷ đất nước của họ đã cướp bóc và giết chóc, cũng như trên hết là khủng bố để buộc thế giới phải quy phục.

Dĩ nhiên, tầng lớp thượng lưu biết mọi thứ. Họ càng biết nhiều thì họ càng sử dụng những kiến thức đó cho công việc.

Kinh nghiệm và sự trao đổi khủng bố được chuyển từ các ông chủ phương Tây sang cho lính mới Hồi giáo của họ.

The Mujahideen, Al-Qaida, ISIS – trong kỳ thi cận kề, chiến thuật đe dọa và khủng bố không phải đều là nguyên gốc. Chúng đều được xây dựng dựa trên kinh nghiệm đế quốc và thực dân của phương Tây. 

Tin tức về điều đó, hay thậm chí là về khủng bố trên hành tinh do phương Tây gây ra, hoàn toàn bị kiểm duyệt. Anh sẽ không bao giờ thấy chúng trên chương trình truyền hình của BBC hay đọc được chúng trên các tờ báo và tạp chí chính thống.

Mặt khác, bạo lực và sự tàn nhận của các tổ chức khủng bố tay sai thường xuyên được nhấn mạnh. Chúng được đưa tin đến từng chi tiết nhỏ nhất, lặp đi lặp lại và được “phân tích”.

Mọi người đều giận dữ, khủng khiếp! Liên Hiện Quốc “quan ngại sâu sắc”, các chính quyền phương Tây “phẫn nộ” và công chúng phương Tây “cảm thấy quá đủ - họ không muốn có những người tị nạn từ những đất nước khủng khiếp đã sinh ra chủ nghĩa khủng bố và bạo lực.”

Phương Tây “chỉ đơn giản là phải can thiệp”. Đây là lúc Chiến Tranh chống Khủng Bố.

Đó là cuộc chiến chống lại gã Frankenstein của chính phương Tây. Đó là cuộc chiến không bao giờ thắng. Bởi vì nếu như họ thắng, chúa cấm, sẽ có hòa bình và hòa bình có nghĩa là cắt giảm ngân sách quốc phòng và xử lý những vấn đề thực sự của hành tinh.

Hòa bình có nghĩa là phương Tây nhìn vào quá khứ của họ. Điều đó có nghĩa là suy nghĩ về công lý và sắp xếp lại toàn bộ cấu trúc quyền lực của hành tinh. Điều đó không bao giờ được phép.

Do vậy, phương Tây “đang chơi” trò chiến tranh; họ “chống lại” những lính đánh thuê của họ (hay ngăn cản việc chống lại chúng), trong khi đó thì những người vô tội phải chết.

Không đâu trên thế giới, ngoại trừ phương Tây, có thể tạo ra và phóng thích những thứ tàn bạo và dã man như ISIS hay Al-Nusra!

Xem xét kỹ hơn chiến lược của những nhóm cấy ghép này: chúng không bắt nguồn từ bất cứ văn hóa Hồi giáo nào. Chúng hoàn toàn lấy cảm hứng từ triết lý khủng bố thuộc địa của phương Tây: “Nếu anh không phục tùng hoàn toàn lý thuyết và tôn giáo của chúng tôi thì chúng tôi sẽ chặt đầu anh, cắt cổ họng anh, cưỡng hiếp cả gia đình anh hay đốt trụi làng mạc hoặc thành phố của anh. Chúng tôi sẽ phá hủy các di sản văn hóa vĩ đại của anh như chúng tôi đã làm ở Nam Mĩ 500 năm trước đây, cũng như ở nhiều nơi khác nữa.”

Mọi thứ tiếp tục như vậy! Cần phải thực sự tự lừa dối bản thân để không nhìn vào những mối liên hệ đó!

***

Vào năm 2006, tôi đến thăm một người bạn, cựu tổng thống Indonesia và là một lãnh đạo Hồi giáo tiến bộ vĩ đại, Abdurrahman Wahid (ở Indonesia được gọi là “Gus Dur”). Chúng tôi gặp nhau ở trụ sở của tổ chức quần chúng Hồi giáo Nahdlatul Ulama (NU) của ông. Vào lúc đó NU là tổ chức Hồi giáo lớn nhất thế giới.

Chúng tôi thảo luận về chủ nghĩa tư bản và cách nó phá hủy cũng như làm tha hóa Indonesia. Gus Dur là một “người xã hội chủ nghĩa bí mật” và đó là một trong những lý do chính khiến “giới thượng lưu” nô lệ phương Tây của Indonesia và quân đội lật đổ ông vào năm 2001.

Khi chúng tôi nói tới chủ đề “chủ nghĩa khủng bố”, ông đột nhiên tuyên bố bằng giọng nói nhẹ nhàng mà thâm trầm đặc trưng: “Tôi biết người đã đánh bom khách sạn Marriott ở Jakarta. Đó là do cơ quan tình báo của chúng tôi làm, để biện minh cho sự gia tăng ngân sách của họ, cũng như viện trợ mà họ nhận được từ nước ngoài.”

Dĩ nhiên, quân đội Indonesia, tình bào và cảnh sát đều thuộc về về một nhóm người đặc biệt. Trong vài thập kỷ, kể từ năm 1965, họ đã khủng bố tàn bạo người dân của họ, khi cuộc đảo chính thân phương Tây lật đổ tổng thống tiến bộ Sukarno và đưa phe quân phiệt phát xít lên nắm quyền, do nhóm kinh doanh Thiên Chúa giáo thống trị hậu thuẫn. Sự khủng bố này cướp đi 2-3 triệu sinh mạng ở Indonesia, cũng như ở Đông Timor và (cho đến nay) ở Papua bị chiếm đóng và cướp bóc.

3 cuộc diệt chủng chỉ trong 5 thập kỷ!

Cuộc đảo chính ở Indonesia là một trong những hành động khủng bố khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại. Các dòng sông tắc ngẽn vì xác chết và nước đổi màu sang đỏ.

Tại sao? Đó là cách chủ nghĩa tư bản sẽ sống sót và các công ty khai mỏ phương Tây có thể thu được chiến lợi phẩm, với gánh nặng chi phí là một đất nước Indonesia hoàn toàn bị phá hủy. Thế nên đảng Cộng Sản Indonesia (PKI) không thể thắng cử dân chủ.

Nhưng ở phương Tây, những cuộc thảm sát quy mô lớn do Đế Quốc sắp đặt vào năm 1965 không bao giờ được gọi là “chủ nghĩa khủng bố”. Cho nổ tung một khách sạn hay một quán rượu, nhất là khi chúng thường xuyên có khách hàng phương Tây, thì lại là khủng bố.

Hiện giờ Indonesia đã có những nhóm “khủng bố”. Chúng trở về từ Afghanistan, nơi mà chúng chiến đấu theo lệnh của phương Tây để chống lại Liên Bang Soviet. Chúng cũng vừa trở về từ Trung Đông. Những cuộc tấn công vừa qua ở Jakarta chỉ là màn dạo đầu, một sự khởi đầu được lập kế hoạch chu đáo cho thứ gì đó lớn hơn, có thể mở ra một “mặt trận” mới cho lính đánh thuê của Đế Quốc ở Đông Nam Á.

Về phía phương Tây và những nhà hoạch định của họ - Hỗn loạn hơn là tốt hơn.

Nếu như Abdurrahman Wahid vẫn còn được làm tổng thống Indonesia, có vẻ như sẽ không có chủ nghĩa khủng bố. Đất nước của ông sẽ trải qua một cuộc cải cách xã hội chủ nghĩa, thiết lập công bằng xã hội, phục hồi những người cộng sản và đi theo chủ nghĩa thế tục.

Trong những xã hội cân bằng về mặt xã hội, chủ nghĩa khủng bố không phát triển được.

Đó là điều không thể chấp được đối với Đế Quốc. Điều đó sẽ có nghĩa là – quay trở lại thời Sukarno! Quốc gia Hồi giáo đông dân nhất thế giới được phép đi theo con đường của họ, hướng tới chủ nghĩa xã hội và tiêu diệt các phần tử khủng bố.

Nó phải bị đe dọa. Nó phải bị sai khiến. Nó phải sợ hãi và đáng sợ! Nó phải như vậy

***

Những trò chơi của phương Tây là phức tạp và tinh vi. Chúng tối tăm và vô chính phủ. Chúng phá hoại và tàn bạo tới mức mà những nhà phân tích lạnh lùng nhất thường không tin vào mắt mình cũng phải tự hỏi: “Có thật sự là tất cả những điều đó xảy ra?” 

Câu trả lời ngắn gọn là: “Phải, nó có thể. Phải, nó có thể, trong nhiều thập kỷ và thế kỷ.”

Về mặt lịch sử, chủ nghĩa khủng bố là vũ khí bản địa của phương Tây. Nó được những người như Lloyd George, một thủ tướng của nước Anh, sử dụng tùy ý, ông ta đã từ chối ký vào hiệp ước cấm ném bom thường dân, với logic không thể lay chuyển của người Anh: “Chúng ta có quyền ném bom những tên mọi đó.” Hay Winston Churchill muốn đưa những “chủng tộc thấp kém”, như người Kurd và Arab, vào lò hơi ngạt.

Đó là lý do khiến toàn bộ phương Tây hoảng loạn khi một kẻ bên ngoài như nước Nga tham gia vào cuộc chiến chống lại các nhóm khủng bố. Nga đang làm hỏng toàn bộ trò chơi của họ! Nga đang phá hỏng sự cân bằng tân thực dân đẹp đẽ.

Hãy nhìn xem mọi thứ đáng yêu làm sao: sau khi giết chết hàng trăm triệu người khắp địa cầu, phương Tây giờ đang tự nhận là nhà vô địch về nhân quyền và tự do. Họ vẫn tiếp tục khủng bố và cướp bóc thế giới, kiểm soát nó hoàn toàn – nhưng họ phải được chấp nhận là lãnh đạo tối cao, cố vấn đạo đức và phần đáng tin cậy duy nhất của thế giới.

Hầu như không có ai cười

Bởi vì tất cả đều đang sợ hãi!

Những binh đoàn lê dương khát máu của họ ở Trung Đông và Châu Phi đang tàn phá nhiều quốc gia, nguồn gốc của chúng có thể dễ tìm thấy, nhưng hầu như không có ai liều lĩnh làm điều đó. Một số đã cố thử làm – và đã chết.

Những con quái vật khủng bố được sáng chế, chế tạo và cấy ghép càng đáng sợ thì phương Tây trông càng đẹp đẽ. Tất cả chỉ là mánh lới quảng cáo. Nó bắt nguồn từ quảng cáo và trong hàng trăm ngàn năm của cơ quan tuyên truyền.

Phương Tây giả vờ chống lại những lực lượng của bóng tối đó. Nó sử dụng thứ ngôn ngữ hùng mạnh và “đúng đắn” dựa trên học thuyết Thiên Chúa giáo chính thống.

Toàn bộ huyền thoại được giải phóng; giống như vở “Ring” của Wagner.

Kẻ khủng bố đại diện cho sự độc ác chứ không phải là khoản chi tiêu khổng lồ từ ngân sách của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, Liên Minh Châu Âu và NATO. Chúng đều độc ác hơn cả Quỷ Sứ!

Phương Tây, cưỡi trên con ngựa trắng, say khướt nhưng luôn luôn hài hước, đóng vai cả nạn nhân lẫn kẻ thù chính của những nhóm khủng bố độc ác đó.

Đó là một màn diễn khó tin. Một trò hề khủng khiếp. Hãy nhìn vào phía sau mặt nạ của kị sĩ: hãy nhìn vào những cái răng đang nhe ra; nụ cười chết chóc! Hãy nhìn vào đôi mắt đỏ của hắn, đầy tham lam, thú tính và hung ác.

Hãy đừng bao giờ quên: chủ nghĩa thực dân và đế quốc là hai dạng chết chóc nhất của chủ nghĩa khủng bố. Chúng vẫn là hai vũ khí chính của tên kị sĩ đang bóp nghẹt thế giới!


Andre Vltchek is a philosopher, novelist, filmmaker and investigative journalist. He covered wars and conflicts in dozens of countries. His latest books are: “Exposing Lies Of The Empire” and “Fighting Against Western Imperialism”.Discussion with Noam Chomsky: On Western Terrorism. Point of No Return is his critically acclaimed political novel. Oceania – a book on Western imperialism in the South Pacific. His provocative book about Indonesia: “Indonesia – The Archipelago of Fear”. Andre is making films for teleSUR and Press TV. After living for many years in Latin America and Oceania, Vltchek presently resides and works in East Asia and the Middle East. He can be reached through his website or his Twitter.

Tuesday, November 17, 2015

Tấn công khủng bố ở Paris: Thảm kịch có thể mang đến sự thay đổi?

Diana Johnstone trong bài viết "Terrorist Attacks in Paris: Can Tragedy Bring Change?" đã nhấn mạnh các vụ khủng bố ở Pháp bắt nguồn từ hai nguyên nhân là tình trạng đói nghèo ở Pháp và chính sách đối ngoại thân Mỹ và Israel của Pháp. Chính nước Pháp đang theo chân Mỹ và Israel nuôi dưỡng chủ nghĩa cuồng tín Hồi Giáo để phá hủy các nhà nước hiện đại ở Trung Đông. Do vậy, nước Pháp sau vụ khủng bố ở Paris đột nhiên rơi vào tình trạng không biết phải chiến tranh với ai. Họ buộc phải lựa chọn, hoặc là tiếp tục theo chân Mỹ và Israel để gián tiếp trợ giúp những kẻ đã khủng bố nước Pháp hoặc quay lưng với Mỹ và đồng minh để chống lại những kẻ khủng bố. Sự thay đổi mà tác giả đề cập không chỉ đơn giản là sự lựa chọn của nước Pháp, nó báo hiệu sự thay đổi của trật tự thế giới.

Tấn công khủng bố ở Paris: Thảm kịch có thể mang đến sự thay đổi?

Paris.

Hỗn loạn đang lan từ Trung Đông sang Châu Âu. Một dòng người tị nạn và nhập cư hỗn tạp bất tận xuyên qua Balkan đổ vào miền đất hứa Đức và Thụy Điển. Các trận đánh lộn giữa các nhóm quốc gia xảy ra ở trại tị nạn. Cả người nhập cư tụ tập ở gần Calais để vượt biên vào Anh lẫn các công dân của Calais đều mất bình tĩnh và giận dữ. Các lãnh đạo quốc gia, với tầm nhìn Châu Âu thống nhất hạnh phúc trong đầu, theo đuổi cũng như bảo vệ ý tưởng về biên giới mở và chủ nghĩa đa văn hóa, đang nhận ra rằng họ thiếu khả năng đương đầu. Giờ thì Paris phải gánh chịu những tấn công tương tự với Beirut hay Nga. 

Đúng vậy, như Chris Floyd đã viết, phương tây đang phải nhận hậu quả từ sự ủng hộ của họ đối với bạo lực của chủ nghĩa cực đoan. Nhưng đây không phải là lúc nói với nạn nhân rằng họ bị lên án, nhất là khi mục tiêu tấn công ở Paris là những thanh niên đang xả hơi vào một tối thứ sáu, quá trẻ để gánh chịu trách nhiệm về những chính sách tai họa của phương tây, những chính sách đã nuôi dưỡng sự điên loạn ở Trung Đông trong nhiều thập kỷ.

Vụ ám sát các thành viên của Charlie Hebdo vào tháng giêng vừa qua mang đến khẩu hiệu về sự đoàn kết, “Tất cả chúng ta là Charlie.” Khẩu hiệu đó trở thành một sự thật không mấy dễ chịu: đúng vậy, hiện giờ tất cả chúng ta là Charlie. Bất cứ ai đang tham dự một bữa ăn giá mềm ở nhà hàng Campuchia hiện đại nhất của quận 10 không xa hoa cũng có thể bị bắn hạ không nương tay, giống hệt như vậy. Hung thủ không theo đuổi một biểu tượng quyền lực, chúng theo đuổi bất cứ ai và tất cả mọi người. Mục tiêu tấn công của chúng là khu vực dân cư không thu hút khách du lịch, chỉ là các quán café bình thường được thanh niên Paris ưa thích. Mục tiêu đã được những người biết rõ địa hình lựa chọn.

Câu hỏi lớn là: Điều gì tiếp theo? Nỗi sợ hãi này sẽ khiến người dân nhận thấy hiện thực và suy nghĩ rõ ràng? 

Tổng thống François Hollande tức tốc lên truyền hình và cố gắng làm chủ tình hình. Nhưng ông ta đã không làm chủ được bản thân. Bằng cách tuyên bố rằng hiện giờ chúng ta “trong chiến tranh”, tổng tống Hollande dường như lặp lại phản ứng đối với vụ 11/9 của Hoa Kỳ. Nhưng chính xác là trong chiến tranh với ai? Pháp là người ủng hộ cứng rắn cho quan điểm “Assad phải ra đi”. Liệu Pháp có cần phải thay đổi các cuộc chiến? Phải vậy, có thể vậy, có thể thay đổi chính sách đối ngoại?

Tổng thống Obama lên truyền hình với tuyên bố đoàn kết trong khi cuộc tấn công vẫn đang tiếp diễn. Những tuyên bố đó đương nhiên được truyền thông khai thác với mong muốn sử dụng các cuộc tấn công này để củng cố sự thống trị của Hoa Kỳ đối với chính sách đối ngoại của Pháp.

Lời chia buồn của Israel nhanh chóng được các nhà bình luận thông thường sử dụng để thể hiện rằng Israel thấu hiểu chúng ta và đứng về phía chúng ta, bởi vì Israel là một nạn nhân thường xuyên của các cuộc tấn công khủng bố, những với “các vụ tấn công bằng dao găm….” trong ngày.

Không, những cuộc tấn công của người Palestine vô vọng không cùng mức độ như vụ thảm sát ở Paris. Khẳng định là tương tự: Do vụ 11 tháng 9, giờ là vụ 13 tháng 11, tất cả chúng ta đều cùng chung chiến tuyến với Israel, chống lại cùng một kẻ thù. Nhưng trên hết, kẻ thù nào? Kẻ thù của Israel là Hezbollah, đang gánh chịu một cuộc tấn công dữ dội ở Beirut từ những chính những kẻ đã thảm sát người dân Paris. Kẻ thù của Israel là Iran, đang chiến đấu chống lại Daech. Trên hết, ai là kẻ thù và ai là bạn của chúng ta?

Ngày càng có nhiều người không ngần ngại nói: Truyền thông Pháp hoàn toàn bị Zionist [chủ nghĩa phục quốc Do Thái] hóa. Ảnh hưởng của Israel đối với truyền thông ở Pháp dường như mạnh hơn bất cứ nơi nào trên trái đất – dĩ nhiên là hơn cả ở Israel, nơi đó còn có một tạp chí phê phán, tờ Haaretz, đăng những thứ mà không một tờ tạp chí Pháp nào dám đăng.

Không có nhà bình luận truyền thông nào nhận thấy rằng các vụ tấn công ở Paris rất tương đồng với các vụ tấn công khủng bố đã diễn ra ở Nga. Sự cảm thông với những nạn nhân của vụ rơi máy bay ở Sinai đang ở đâu? Còn những trẻ em bị sát hại ở Beslan vào năm 2006? Ở Moscow, những người Nga đồng cảm đã mang hoa đến đại sứ quán Pháp song truyền thông Pháp không đưa tin.

Truyền thông bám chặt lấy câu chuyện của họ về Putin xấu xa và Assad xấu xa. Họ không thể dễ dàng thay đổi câu chuyện và thừa nhận rằng tất cả đã lạc hậu. Nhưng những sự kiện có thể buộc họ phải thừa nhận hiện thực.

Câu hỏi lớn là: Pháp sẽ phản ứng ra sao?

Đặc biệt là ở Hoa Kỳ, họ nhanh chóng kết luận rằng chính quyền Pháp sẽ phản ứng hiếu chiến và cuồng loạn như chính quyền Hoa Kỳ sau vụ 11 tháng 9, khai thác các sự kiện kinh hoàng để tước đoạt tự do của công dân và tiến hành các cuộc chiến với nước ngoài. Nhưng cũng có lý do để hy vọng rằng ở Pháp những cái đầu lạnh hơn sẽ kiểm soát tình hình. Phản ứng tình cảm đối với số phận bi thảm của nạn nhân là không khác biệt. Nhưng cảm xúc không cần thiết phải ngăn cản con người tư duy rõ ràng, mặc dù nó thường làm vậy. Người ta có thể than khóc và vẫn duy lý. 

Đây sẽ là các phản ứng nội địa và phản ứng về chính sách đối ngoại, liên quan chặt chẽ với nhau.

Phản ứng đối nội 

Phản ứng chính thức đầu tiên, tuyên bố của Hollande rằng “chúng ta đang trong chiến tranh”, được kèm theo mệnh lệnh cho phép quân đội tuần tra trên đường phố Paris, không phải là thứ mang nhiều hứa hẹn. Binh lính trên đường phố rõ ràng là nhằm trấn an công chúng (mặc dù không phải tất cả mọi người đều cảm thấy an tâm với sự hiện diện của các loại vũ khí nóng), nhưng họ không thể ngăn chặn các cuộc tấn công tự sát hay có thể xử lý cốt lõi của vấn đề. Dường như bất cứ ai kém may mắn khi “trông giống” như những kẻ mà cảnh sát cho là giống khủng bố cũng sẽ bị chặn lại trên đường phố hay bến tàu và bị yêu cầu xuất trình giấy tờ. Điều này có thể không dễ chịu nhưng không phải là thảm kịch nếu chỉ dừng lại ở đó.

Tồi tệ hơn một chút là yêu cầu bãi bỏ các quy định giới hạn về việc sử dụng vũ khí nóng của cảnh sát. Ở Pháp, cảnh sát không thể thoát khỏi các hậu quả pháp lý của việc giết người khi họ hành động như ở Hoa Kỳ, hy vọng rằng mọi việc vẫn sẽ như cũ.

Trong dân chúng, một phản ứng được báo trước là sự thù địch bài Hồi Giáo hay thậm chí là bài Arab có thể nổ ra dưới hình thức các vụ tấn công vào nhà thờ Hồi Giáo hay các cá nhân. Nhưng sự e ngại về phản ứng này, cũng như các biện pháp để ngăn chặn chúng, đều đã được phổ biến. Trái ngược với ấn tượng thường được các bản tin truyền thông Hoa Kỳ mang đến, các cá nhân Arab tử tế hay giáo phái Hồi Giáo không bị cô lập trong các khu ghetto nghèo nàn vùng ngoại ô. Họ là một phần của xã hội Pháp, cộng đồng của họ cũng có nhiều nạn nhân trong vụ thảm sát ngày 13 tháng 11. Bất chấp những sai lầm vốn có, truyền thông Pháp cùng với trường học đang ngăn chặn sự gia tăng một cách nguy hiểm của chứng sợ Hồi Giáo. Rõ ràng rằng sự đối xử bất công với người Hồi Giáo sẽ là quà tặng tốt nhất cho những kẻ cực đoan. Như một vấn đề thực tiễn, các nhà điều tra Pháp sẽ cần tới sự trợ giúp của dân cư Hồi Giáo trung thành để phá vỡ các cuộc tấn công khủng bố.

Công việc sau này là tuyệt đối cần thiết. Nó đòi hỏi các nỗ lực thấu hiểu những gì nằm phía sau hiện tượng – không có nghĩa là biện minh cho chúng. Một khuynh hướng cánh tả nhất định đồng cảm với mọi sự nổi loạn tiềm tàng, bất kể là động cơ hay mục đích, để coi nó là phản ứng hợp lý đối với sự áp bức, là không có cơ sở, kết luận đạo đức là không phù hợp. 



Ngay cả khi những kẻ khủng bố Paris đã tự sát theo công bố (vẫn còn nghi vấn), có nhiều cách để phản ứng đối với tình trạng xã hội nội địa hơn là các vụ thảm sát ngẫu nhiên không phân biệt. Người Mĩ gốc Phi đã chứng kiến điều đó, sự đàn áp đối với họ còn tồi tệ hơn sự phân biệt (bất hợp pháp) đối với người Pháp Hồi Giáo. Thất nghiệp, một phần lớn là do chính sách kinh tế mà Liên Minh Châu Âu áp đặt, đã ảnh hưởng tới toàn bộ thanh niên, nhưng đặc biệt là các cá nhân ít được đào tạo và không có các mối liên hệ. Sự thiếu vắng các cơ hội nghề nghiệp tử tế làm gia tăng các tội phạm vặt, nhiều phần tử cực đoan Hồi Giáo đã được cải đạo trong tù. Đó là những tệ nạn xã hội cần phải được xử lý bằng cách thực sự quay trở lại với chính sách xã hội, vốn bị chính quyền “xã hội chủ nghĩa” hiện tại phá hủy một cách có hệ thống.

Ngay cả khi đó, so sánh với nhiều thời kỳ khó khăn khác nhau có thể cho thấy rõ rằng sự bùng phát của bạo lực Hồi Giáo cực đoan không chỉ đơn giản là do các yếu tố kinh tế. Nguồn gốc của vụ thảm sát ngày 13 tháng 11 là từ Trung Đông. Daech, hay còn gọi là Nhà Nước Hồi Giáo, tùy bạn muốn gọi là gì, hành động như là sự hấp dẫn đối với thanh niên, nhiều người trong số họ đã vượt qua ranh giới của tội phạm hình sự, cần một sự biện minh cho cuộc sống và một kênh cho cảm xúc của họ. Sự biện minh được đem lại bằng hình ảnh những người dân mà họ có thể thấy tương đồng: người Palestine ở Gaza, các gia đình bị bom Mỹ xóa sổ trong một đám cưới, những quốc gia bị người phương tây ngạo mạn hạ nhục. Tham gia Jihad chống lại “Chiến Binh Thập Tự Chinh Phương Tây” để trở thành “Caliphate” [quan tòa] mới trở thành vòng hào quang che chở cho cả điều tốt lẫn cái xấu ở những người dễ tổn thương nhất định. 

Những người được coi là tội phạm và đang thi hành án tù có thể cảm thấy khuây khỏa với ảo tưởng đổ lỗi cho những thế lực siêu nhiên. Cũng như thiên đường của Allah đang kêu gọi, xã hội phương tây đương đại – dựa trên sự đại diện thương mại hơn là thực tại, mà người dân khó có thể biết được – có thể xuất hiện như là một bể tội lỗi. Lý tưởng của những thành phần Jihad là chủ nghĩa thanh giáo cuồng tín: họ có thể sát hại thanh niên ở quán café hay nhà hát bởi vì họ áp dụng một hệ tư tưởng coi những người kia là “những kẻ tội lỗi” chống lại đấng Allah toàn năng.

Ảo tưởng này không chỉ giới hạn trong phần bên lề của xã hội Pháp. Nước Pháp, với truyền thống thế tục và khai sáng, phải được chuẩn bị tốt để chống lại sự điên cuồng này với lý lẽ và lập luận. Trái lại, khuynh hướng hiện tại là áp dụng hành vi của người Mỹ theo kiểu “không lập luận về tôn giáo”, thậm chí là trong lớp học khi các sinh viên Hồi Giáo phủ nhận sự tiến hóa vì mâu thuẫn với kinh Koran. Đúng như vậy, Pháp được ghi nhận về những nỗ lực ngăn cản các phong tục Hồi Giáo cụ thể, nhưng lại để mặc lý tưởng. Lý tưởng về chủ nghĩa đa văn hóa đã trở thành kẻ thù của lý trí. Họ đã quên mất rằng tranh luận về lý tưởng của cá nhân không phải là tấn công cá nhân. Chủ nghĩa tương đối trí tuệ, nhằm mục đích nuôi dưỡng tình anh em, đã để ngỏ cánh cửa cho chủ nghĩa cuồng tín. Một số thứ là sự thật và một số thứ khác là sai, khái niệm hậu hiện đại về việc mỗi các nhân có “sự thật của riêng mình” có nghĩa là cuối cùng không phải là lý trí mà là sức mạnh sẽ thống trị.

Nhưng một lần nữa, nguồn gốc của lý tưởng giết chóc phía sau các vụ tấn công khủng bố nằm ở Trung Đông và những bi kịch đã làm rung chuyển khu vực trong nhiều thập kỷ.

Phản ứng đối ngoại

Chuỗi phản ứng của Pháp trên phương diện chính sách đối ngoại đối với sự kiện 13 tháng 11 là chưa rõ ràng. Bất chấp sự thể hiện mang tính nhất thời về “sự thống nhất quốc gia”, sự chia rẽ sắc nét hiện rõ trong giới lãnh đạo chính trị. 

Tổng thống Hollande là ví dụ điển hình về lãnh đạo Châu Âu hiện tại, từ lâu đã từ bỏ các nỗ lực tư duy chiến lược thực tiễn, chỉ thiết tha với nỗi sầu muộn ngân sách và nỗi ám ảnh “xây dựng Châu Âu”, có nghĩa là, Liên Minh Châu Âu. Các vấn đề quốc tế đã bị phó mặc cho Người Bảo Trợ Vĩ Đại (Hãy nhớ D-Day [Ngày quân đồng minh đổ bộ ở Normandy]), Hoa Kỳ, người được kỳ vọng là sẽ bảo vệ chúng ta khỏi mọi hỗn loạn mà họ tạo ra. Giờ là lúc thức giấc.

Tình hình rất phức tạp, nhưng không phải tất cả mọi thứ đều không thể hiểu được, ngay cả khi điều đó vô nghĩa.

Hỗn loạn bắt đầu ở hai nơi: Israel xâm lược Palestine và Hoa Kỳ khai thác chủ nghĩa cuồng tín Hồi Giáo ở Afghanistan để phá hủy Liên Bang Soviet. Để chống lại chủ nghĩa quốc gia Arab, cân nhắc tới kẻ thù chủ chốt tại khu vực, Israel đã chào đón sự trỗi dậy của Hồi Giáo chính trị như là một lực lượng để phá hủy chủ nghĩa quốc gia Arab, các nhà nước hiện đại của Iraq, Lybia và Syria đang trên con đường đó. Hoa Kỳ đã thực hiện sự phá hủy các nhà nước đó, sử dụng lý do “nhân đạo”, với sự thúc giục của những người ủng hộ Israel trong bộ máy chính trị của Hoa Kỳ, những người đó đã rao bán chính quyền trên truyền thông với quan niệm rằng kẻ thù của Israel là kẻ thù của Hoa Kỳ. Vai trò của Israel trong những thảm họa này là rất rõ ràng đối với mọi người bên ngoài Hoa Kỳ. Khi được khai thác cho mục đích của Hoa Kỳ hoặc Israel, các khuynh hướng cực đoan đã được thúc đẩy bằng chiến thắng, trở nên mạnh mẽ và trở thành đại diện cho con đường thích hợp để hạ bệ phương Tây trong con mắt của nhiều người. 

Để làm cho vấn đề tồi tệ hơn, Saudi Arabia đã tham gia vào cuộc xung đột, sử dụng nguồn tiền thặng dư khổng lồ của họ để xây dựng các nhà thờ Hồi Giáo và phát tán lý tưởng Wahhabi từ Balkan cho tới Nigeria. Tiền của Saudi đã hỗ trợ nhiều nhóm cuồng tín Sunni với mục tiêu phá hủy Hồi Giáo Shi’ite và làm suy yếu đối thủ Iran. Kể từ khi Israel coi Iran là kẻ thù chính trong khu vực, Saudi Arabia và Israel đã trở thành đồng minh khu vực trên thực tế, cả hai cùng nhận được sự hỗ trợ của Hoa Kỳ.

Pháp bị ràng buộc với Israel bằng “nhận thức tồi”, vốn được truyền thông nuôi dưỡng và thúc đẩy, các cá nhân và chính khách dưới sự ảnh hưởng của những tổ chức như CRIF (Hội Đồng Đại Diện Các Tổ Chức Do Thái Pháp). Họ cũng bị ràng buộc với Saudi Arabia không chỉ bởi dầu mỏ mà còn bởi vì công nghiệp quân sự Pháp cần thị trường Arabia 

Để tóm tắt câu chuyện, hệ thống liên minh giữa các phe đối lập đã dẫn tình trạng mà “phương tây”, có nghĩa là Hoa Kỳ, Anh và Pháp, đang trong chiến tranh với cả hai phe tham chiến ở Syria. Ít nhất, họ cũng giả bộ ném bom những kẻ cuồng tín Hồi Giáo đang muốn phá hủy nhà nước Syria. Đồng thời họ cũng cố gắng phá hủy nhà nước Syria bằng tuyên bố “Assad phải ra đi”. Dường như họ cho rằng nếu Assad ra đi, Syria sẽ vẫn còn đó. Nhưng thực tế, trên hết Assad là biểu tượng và là yếu tố liên kết trong nhà nước Syria hiện nay, quân đội của họ vẫn chiến đấu chống lại các lực lượng vũ trang được nước ngoài hậu thuẫn trong suốt bốn năm bất chấp những thất bại nặng nề và vẫn sẽ tiếp tục thực hiện chức trách của mình. Assad nhận được sự tôn trọng và tuân phục của quân đội cũng như đa số công dân vẫn còn lại trên đất nước bị bao vây. Chiến tranh ở Syria chỉ là cuộc chiến mới nhất trong chuỗi những cuộc chiến đã phá hủy các kẻ thù của Israel và Saudi Arabia, nhờ sự hỗ trợ của Hoa Kỳ. Kêu gọi Assad “ra đi” có nghĩa là kêu gọi chia cắt Syria.

Ai sẽ nhặt nhạnh những mảnh của Syria?

Dĩ nhiên là ba kẻ thù láng giềng của quốc gia này: Thổ Nhĩ Kỳ chiếm miền Bắc, Israel sẽ chiếm cao nguyên Golan (vĩnh viễn) và dĩ nhiên là nhiều hơn nữa, trong khi những tay sai cuồng tín của Saudi Arabia sẽ chiếm phần còn lại, giống như cuộc xung đột đang diễn ra ở Yemen và những nơi khác.

Chỉ có Nga là hành động rõ ràng và hợp lý. Họ đã can thiệp hợp pháp theo yêu cầu của chính quyền Syria. Nga đang cố gắng cứu vớt nhà nước hiện tại và ngăn chặn sự bành trường của những kẻ cuồng tín Hồi Giáo, những kẻ cũng đang đe dọa nước Nga.

Lãnh đạo Hoa Kỳ và Israel đang cấp tốc vỗ về Pháp với “tình đoàn kết” để ngăn không cho quốc gia bị sốc này thoát khỏi sự ràng buộc của liên minh phá hoại. Nhưng đôi khi một thảm họa có thể báo hiệu điểm chuyển đổi.

Điều gì tiếp theo? Pháp vốn đã tham chiến ở Syria, nhưng cuộc chiến nào? Sau khi kêu gọi tổng thống Hollande thể hiện “sự thống nhất quốc gia”, cựu tổng thống Nicolas Sarkozy đã kêu gọi liên minh với Nga để chống lại Daech. “Không thể có hai liên minh ở Syria”, ông ta nói. Giống như Marine LePen, Sarkozy đã tới thăm Moscow và kêu gọi một liên minh tốt hơn với Vladimir Putin. Điều này có nghĩa là quan hệ với NATO và Hoa Kỳ là không rõ ràng vào lúc này.

Liên Minh Châu Âu cũng bị rung chuyển bởi sự phát tán hỗn loạn từ Trung Đông. Cuộc tấn công của kẻ khủng bố Paris rõ ràng đã phá vỡ mọi sự đồng cảm đối với đám đông người nhập cư hỗn tạp từ Trung Đông. Giống như Hungary và Áo, Pháp đã đóng cửa biên giới. Shengen (hiệp định của Liên Minh Châu Âu về biên giới) đã hỏng. Làm gì với người tị nạn là câu hỏi không có câu trả lời. 

Trong tình trạng hiện thời, cánh tả Pháp đang hấp hối trên giường bệnh. Quá nhiều sự dựa dẫm giáo điều vào EU và đồng euro, quá nhiều lừa dối đối với giai cấp công nhân, quá nhiều ảnh hưởng thân Israel, quá nhiều tuân phục Washington, quá nhiều bùa chú trống rỗng về “chủ nghĩa đa văn hóa”, quá nhiều kiểm duyệt đối với tranh luận và câm lặng về mâu thuẫn, quá nhiều tự hài lòng về đức hạnh của bản thân. 

Sự ngạo mạn và thiếu trung thực của cánh tả chắc chắn sẽ đẩy nước Pháp sang cánh hữu. Nhưng hãy chú ý: Cánh hữu Pháp vẫn quá tả so với cánh hữu Hoa Kỳ và thậm chí là quá nhiều cánh tả Hoa Kỳ trên nhiều phương diện chủ chốt. Người Mỹ quan ngại về hòa bình thế giới sẽ không phán xét một quốc gia cuối cùng cũng ở trên bờ vực của việc chống lại chính sách đối ngoại “được chế tạo ở Hoa Kỳ” của họ.

Diana Johnstone’s Queen of Chaos: the Misadventures of Hillary Clinton is available in both paperback and digital format directly from CounterPunch.

Monday, November 16, 2015

Sắc màu của thảm kịch: Paris và truyền thông

Nhà báo nữ Tamara Pearson trong bài viết "The Colors of Tragedy: Paris and the Media" mổ xẻ sự thiên lệch của truyền thông trong sự kiện thảm sát ở Paris. Màu cờ nước Pháp tràn ngập thế giới sau vụ thảm sát ở Paris, còn khi phương tây thảm sát hàng triệu người ở đâu đó trên thế giới thì không có lá cờ nào được vẫy lên. Thảm kịch được tầm thường hóa, chỉ được đưa tin nhằm mục đích câu khách, đồng thời lảng tránh sự thật. 

Sắc màu của thảm kịch: Paris và truyền thông

Khi Paris run rẩy đối mặt với vụ tấn công kinh hoàng vào thứ sau, Beirut cũng vậy sau vụ đánh bom kép vào thứ năm và Palestin cũng vậy hàng ngày. Nhưng nhà hát Opera Sydney chỉ đổi màu vì Pháp và cho nước Pháp – lặp lại sự phản ứng đối với sự kiện Hebdo – các tổng thống phương tây phát biểu trong sự bàng hoàng và truyền thông tư nhân tường thuật trực tiếp, các slide show và các trang đăng video.

Ưu tiên về thảm kịch của truyền thông phản ánh và duy trì ưu tiên về chính trị, theo đó cuộc sống của một số người được coi là quan trọng hơn. Hơn nữa, bằng cách sử dụng thảm kịch có lựa chọn, biến thảm kịch thành giật gân để câu khách và do đó tầm thường hóa thảm kịch, thâm chí bỏ qua việc đưa tin số người chết bởi vì họ không thật sự hiểu. 

Truyền thông đã cực kỳ hấp tấp. Cho dù là truyền hình về tổn thất và đau khổ của địa phương cho sự tò mò tọc mạch của khán giả phương tây mà không cần quan tâm nhiều đến câu chuyện ở phía sau – như trong trường hợp động đất ở Nepal – hay cá nhân hóa các nạn nhân ở Paris, bao quát dòng thời gian của bạo lực theo chi tiết từng phút nhưng dàn xếp để duy trì sự thờ ơ bất chấp sự kiện.

Truyền thông không chỉ tác động tới cái mà khán giả biết, mà còn là cách họ suy nghĩ và điều mà họ quan tâm. Truyền thông không đưa tin về bốn năm biến Syria thành đống hoang tàn, theo cách chi tiết. Truyền thông đã lãng quên Nepal, những dòng tít tuyệt vời nhất đã biến mất và các phân tích về khôi phục và xây dựng dường như quá khó để theo dõi. Người tị nạn chỉ hiện ra trên truyền thông khi họ đặt chân lên đất của thế giới thứ nhất. Truyền thông có có vai trò trong nhận thức phê phán về các cấu trúc kinh tế cũng như xã hội phía sau thảm kịch, nhưng trong thực tế, do chủ sở hữu của truyền thông và động cơ lợi nhuận, nó sẽ không làm vậy. Không chỉ là về bán hàng, truyền thông là sức mạnh phục vụ cho một phe.

Gói tin tức mà truyền thông giới thiệu – những thảm kịch mà chúng trình bày cũng như những thảm kịch mà chúng bỏ qua củng cố một sự bất bình đẳng xã hội nghiêm trọng. Bất cứ đứa trẻ nào cũng biết, điều quan trọng là ai và cái gì phải được chú ý. Thảm kịch của nghèo đói và sự cô lập xã hội quy mô lớn bị truyền thông hạ thấp trong khi máy bay rơi và các vụ nổ súng chiếm vị trí trung tâm. Không phải là chúng phải như vậy mà thực ra là kém may mắn, những thảm kịch lớn nhất diễn là hàng ngày, chúng là dài hạn, tuần hoàn, chúng có nguyên nhân, nhưng đó là những con người sai lầm và thiếu những tiêu đề hấp dẫn, do vậy chúng bị kiểm duyệt bằng sự chung chung, cam chịu, im lặng. Điều đó có nghĩa là chúng được bình thường hóa và chấp nhận.

Các thảm kịch bị hạ thấp 

Những vụ thảm sát hàng triệu người mỗi năm cho tới các dịch bệnh có thể ngăn chặn được không được thừa nhận.

Sự xô đẩy tán loạn trong im lặng của những công nhân quá mệt mỏi bị trả lương thấp không được nhận thấy. Biến trí tuệ sâu sắc thành tư duy tầm thường, sự thể hiện chết cứng, bởi vì giáo dục cao đắt đỏ hơn truyền hình và điện thoại. Sự sáng tạo, nếu nó còn sống sót, được bán cho người đặt giá cao hơn.

Giới hạn với tình dục, giới tính và tồn tại. Có nghĩa là truy tố sự đa dạng và sản xuất có hệ thống ra sự cô độc.

Đầu độc hành tinh, cuộc sống trở thành bốc dầu hỏa và hận thù chờ bùng cháy.

Sự miễn tố của cảnh sát đối với tội sát nhân và sự miễn tố các quốc gia đối với bom đạn.

Ở trường học, lịch sử được dạy theo một chuỗi sự kiện, từ sự kiện này đến sự kiện khác, như là những anh hùng ngẫu nhiên và cá nhân, hơn là một quá trình. Đối với truyền thông ngày nay cũng vậy, Paris là một chuỗi sự kiện, không phải là một chủ đề phức tạp. Nếu có hành động nào xảy ra, điều đó sẽ đơn giản – trừng phạt kẻ thù, cho phép kẻ thù trở thành người dân, bỏ qua bối cảnh, câu hỏi và hậu quả. Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đã tràn ngập các mạng xã hội sau khi Paris được mổ xẻ bằng phân tích nguyên nhân-kết quả - hiện nay đa số bản tin của truyền thông thiếu sự toàn diện . Đâu là các lực lượng và quyền lực tham gia? Đâu là bạo lực xâm lược, cô lập toàn bộ người dân, chuyện đó có liên quan đến chuyện này không? Tạo sao một số vụ bạo lực đối với một số dạng người được chấp nhận, còn đối với những người khác thì không? Đó có phải là một thảm kịch tự sát không?

Tamara Pearson is a long time journalist based in Latin America, and author ofThe Butterfly Prison. Her writings can be found at her blog.

Saturday, October 24, 2015

Putin buộc Obama phải đầu hàng ở Syria

Nhà báo Mỹ Mike Whitney trong bài viết "Putin Forces Obama to Capitulate on Syria" đã chỉ ra rằng Hoa Kỳ tìm cách câu giờ để cứu lính đánh thuê đang bị không quân Nga và quân đồng minh Assad nghiền nát ở Syria. Mục tiêu chiến lược của Hoa Kỳ và đồng minh vẫn không thay đổi, đó là lật đổ tổng thống Assad và phá vỡ Syria thống nhất thành những mảnh lãnh thổ nhỏ. Hoa Kỳ đã từng từ chối những đề xuất đàm phán hòa bình của Nga ở Geneva thì giờ đây khi mất quyền kiểm soát trên chiến trường lại đang tìm cách trì hoãn thời gian bằng đàm phán Geneva. Người Nga sẽ không mắc bẫy. Hơn ba mươi năm trước đây, đất nước Việt Nam nhỏ bé đã cho cả thế giới thấy cần phải trả lời Hoa Kỳ ra sao về việc đàm phán hòa bình: Nghiền nát quân Mỹ và tay sai trên chiến trường rồi hãy nói chuyện hòa bình!

Putin buộc Obama phải đầu hàng ở Syria

Liên minh quân sự do Nga lãnh đạo đã đánh nhừ tử đám tay sai của Washington ở Syria, đó là lý do khiến John Kerry đang kêu gào “Hết Giờ”

Vào thứ hai, ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry kêu gọi một hội nghị thượng đỉnh khẩn cấp trong tuần để các lãnh đạo Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Saudi Arabia và Jordan có thể thảo luận về phương thức tránh khỏi một sự “phá hủy toàn diện” Syria. Theo Kerry, “Mọi người, trong đó có người Nga và Iran, đã nói rằng không có giải pháp quân sự, thế nên chúng ta cần phải nỗ lực tìm ra một giải pháp chính trị. Đây là thảm họa nhân đạo đang đe dọa sự toàn vẹn của một nhóm quốc gia trong khu vực,” Kerry nói thêm.

Dĩ nhiên, việc những kẻ khủng bố phá hủy các thành phố và làng mạc khắp đất nước, khiến một nửa dân số phải di cư và biến một quốc gia thống nhất và an ninh thành một xứ sở hỗn loạn vô chính phủ không bao giờ là một “thảm họa”. Mọi thứ chỉ trở thành một thảm họa khi Vladimir Putin phát động chiến dịch ném bom của Nga cùng với quân đội đồng minh trên mặt đất, khi họ bắt đầu xóa sổ hàng trăm chiến binh được Hoa Kỳ hậu thuẫn và chiếm lại những thành phố dọc theo hành lang phía tây. Giờ đây không quân Nga đang nghiền nát những kho đạn dược của jihadi, kho vũ khí và căn cứ của quân nổi loạn, quân đội Arab Syria (SAA) đang thắt chặt vòng vây quanh Aleppo, Hezbollah đang gây ra những thiệt hại nặng nề cho chiến binh Jabhat al Nusra cũng như đám ký sinh khác có liên kết với Al Quaida; Kerry cho rằng điều đó là thảm họa. Giờ đây, khi cục diện chiến tranh đã chuyển sang thuận lợi cho tổng thống Syria Bashar al Assad, Kerry muốn có “Hết Giờ”

Hãy nhớ rằng Putin đã làm việc không biết mệt mỏi suốt những tháng mùa hè để vận động các bên tham chiến (trong đó có cả phe đối lập chính trị chống lại Assad) cùng tham gia xem xét phương án ổn định Syria cũng như chống lại ISIS. Nhưng Washington không muốn tham gia bất cứ liên minh nào do Nga lãnh đạo. Sau khi mọi khả năng giải quyết xung đột thông qua sự đồng thuận đã bị từ chối, Putin quyết định trực tiếp can thiệp bằng cách đưa không quân Nga vào tham chiến chống lại các phần tử cực đoan Sunni cũng như những lực lượng chống chính quyền khác, những kẻ đang xé nát đất nước và dọn đường cho quân đội liên kết với Al Quaida chiếm thủ đô. Sự can thiệp của Putin đã ngăn chặn sự hiện diện của Caliphate [chính quyền Hồi Giáo do giáo chủ đứng đầu] khủng bố ở Damascus. Ông ấy đã chấm dứt chuỗi chiến tranh kéo dài bốn năm, cũng như giáng cho chiến lược thâm hiểm của Washington một đòn thôi sơn. Giờ đây ông ấy sẽ hoàn tất công việc. 

Putin không quá khờ khạo để mắc bẫy chiến thuật câu giờ của Kerry. Ông ấy sẽ hạ sát hoặc bắt giữ càng nhiều khủng bố càng tốt và ông ấy sẽ không để Chú Sam [Hoa Kỳ] can thiệp.

Những kẻ khủng bố này – có hơn 2.000 tên trong số chúng đến từ Chechnya – tạo thành mối đe dọa tiềm tàng đối với Nga, cũng giống như kế hoạch sử dụng đám Hồi Giáo cực đoan để thúc đẩy mục tiêu quốc tế của Hoa Kỳ. Putin đã tỏ ra nghiêm tức với mối nguy hiểm ấy. Ông ấy biết rằng nếu như chiến lược của Washington thành công, nó sẽ được sử dụng ở Iran và sau đó là chống lại Nga. Đó là lý do khiến ông ấy dồn tiền bạc và tài nguyên vào công việc này. Đó là lý do khiến tướng lĩnh của ông ấy đã xem xét toàn bộ chi tiết và xây dựng chiến lược vững chắc để chấm dứt sự huyên náo của đám tội phạm trẻ ranh cũng như khôi phục biên giới chủ quyền của Syria. Đó là lý do khiến ông ấy không bị đánh lừa bởi những kẻ ăn nói đường mật như Kerry. Putin sẽ xem xét tình hình trong một kết cục xấu. Ông ấy sẽ không ngừng lại vì bất cứ ai hay vì bất cứ điều gì. Thắng lợi ở Syria là vấn đề an ninh quốc gia, an ninh quốc gia của Nga.

Đây lại là Kerry: “Nếu Nga giúp Assad tìm ra con đường dẫn tới giải pháp chính trị cũng như chống lại Daesh (ISIS) và chủ nghĩa cực đoan thì đây có khả năng là một con đường thực sự khác biệt.”

Putin đã đề xuất các giải pháp ngay từ ban đầu nhưng Washington đã từ chối các giải pháp đó. Putin ủng hộ cái được gọi là đàm phán Geneva từ năm 2012. Trên thực tế, người sau này là ngoại trưởng Hillary Clinton đã phá hỏng toàn bộ tiến trình bằng cách đòi hỏi Assad không được tham gia vào chính quyền lâm thời. (Lưu ý: Hiện giờ Obama đã rút lại yêu cầu này) Nga coi đòi hỏi của bà ta là tương đương với thay đổi chế độ, khi mà Assad được quốc tế công nhận là người đứng đầu nhà nước và hoàn toàn có quyền tham gia vào chính quyền lâm thời. Sự phủ nhận của Hoa Kỳ đã phá hỏng các nỗ lực về “cuộc bầu cử tự do và công bằng đa đảng” dưới sự giám sát quốc tế và chấm dứt mọi cơ hội nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Washington đã không đánh đổi con đường của họ (“Assad phải ra đi”) để cứu sống hàng chục ngàn mạng thường dân, những người đã chết kể từ khi Clinton quay lưng lại với Geneva.

Sao giờ Kerry lại chìa ra cành ô liu? Sao giờ Washington lại quan tâm tới “sự phá hủy toàn diện” của Syria?

Tôi không ngạc nhiên về điều đó. Điều khiến Kerry lo lắng là những anh bạn côn đồ chuyên “chặt đầu” của ông ta sẽ bị vó ngựa Nga nghiền thành bột. Đấy là điều mà ông ta lo lắng. Hãy xem đoạn này trên RT:
“Tổng thống Syria Bashar Assad “không phải ra đi ngày mai hay ngày kia,” bộ ngoại giao Hoa Kỳ (người phát ngôn Mark Toner) đã tuyên bố. Washington cho phép Assad có thể tham gia quá trình chuyển tiếp, nhưng không được tham gia chính quyền kế tiếp của Syria…
“… đây không phải là sự áp đặt của Hoa Kỳ. Đây là cảm giác của nhiều chính quyền khắp thế giới và nói một cách trung thực là đa số người dân Syria,” Toner nói.
Khi được yêu cầu làm rõ “thời hạn” của quá trình chuyển tiếp mà bộ ngoại giao dự tính, Toner đã không đưa ra thời gian chính xác. 
“Tôi không để đặt ra một khung thời gian cho điều đó. Tôi không thể nói rằng hai tuần, hai tháng, sáu tháng,” ông ta nói, thêm vào rằng Hoa Kỳ đang tìm kiếm “một giải pháp chính trị cho cuộc xung đột.”…
Sau đó, Toner thừa nhận rằng Hoa Kỳ vẫn đang trong “quá trình khởi động quá trình,” khẳng định rằng đây là “một vấn đề cấp bách” đã “kéo dài quá lâu.” (‘Assad doesn’t have to leave tomorrow, can be part of transitional process’ – Bộ ngoại giao Hoa Kỳ”, RT)

“Một quá trình để khởi động quá trình”?? Có ai đấy không?

Toner đọc vẹt quá nhanh, ông ta thậm chí không chắc là đang nói gì. Rõ ràng là chính quyền đang rất bối rối về những tình hình tại Syria, tha thiết muốn ngăn chặn việc những chiến binh jihadi do Hoa Kỳ hậu thuẫn bị tiêu diệt, do vậy họ cử Toner ra nói với truyền thông trước khi ông ta kịp hiểu những gì mình nói. Thật là khôi hài. Chính quyền đã không chỉ từ chối gặp đại biểu cấp cao của Nga ngay trong tuần trước (để bàn về phối hợp không kích ở Syria), mà lập trường nực cười “Assad phải ra đi” của họ hôm nay đã hoàn toàn bị đánh bại. Đó là sự đảo lộn, anh có nghĩ vậy không? Tôi ngạc nhiên khi họ không treo cờ trắng trên tòa nhà số 1600 đại lộ Pennsylvania [Nhà Trắng], trong khi ban nhạc hải quân chơi nhạc hiệu. 

Nhưng tôi không cho rằng sự nhục mạ mới nhất này sẽ làm hỏng kế hoạch của Washington nhằm phá hủy nhà nước Syria có chủ quyền và biến nó thành hàng triệu mảnh nhỏ vô dụng không thể de dọa đến hành lang tuyến đường ống dẫn dầu lớn, hay các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ, hoặc Valhalla phục quốc Do Thái của Israel. Bởi vì nó sẽ không như vậy. Kế hoạch đó vẫn đang đi đúng đường bất chấp những nỗ lực của Putin nhằm đẩy lùi các chiến binh và bảo vệ đường biên giới. Chiến lược phân chia Syria đã được chủ tịch Hội Đồng Quan Hệ Quốc Tế Richard Haass lặp lại mới đây thôi: 
“…. Hoa Kỳ và các quốc gia khác phải theo đuổi một chính sách nước đôi. Một mặt là sẽ tiếp tục cải thiện cân bằng quyền lực tại Syria. Điều này có nghĩa là giúp đỡ người Kurds và các bộ lạc Sunni nhiều hơn, cũng như tiếp tục không kích IS.
Nỗ lực này tạo ra các khu vực đối an toàn. Các khu vực nhỏ của Syria có thể là kết quả tốt nhất cho hiện tại cũng như tương lai gần. Hoa Kỳ cũng như bất cứ ai khác đều không có lợi ích quốc gia sống còn trong việc khôi phục chính quyền Syria, chính quyền kiểm soát toàn bộ lãnh thổ quốc gia; điều quan trọng là thanh toán IS và các nhóm tương tự.
Mặt thứ hai là quá trình chính trị, trong đó Hoa Kỳ và các chính quyền khác vẫn mở cửa cho sự tham gia của Nga (và thậm chí là Iran). Mục tiêu là tước bỏ quyền lực của Assad và thiết lập một chính quyền kế nhiệm, mà tối thiểu là nhận được sự ủng hộ từ cộng đồng Alawite của ông ta và lý tưởng là một số người Sunni.” (Testing Putin in Syria, Richard Haass, Project Syndicate)
Lật đổ Assad và phân chia đất nước. Phá hủy Syria một lần và mãi mãi. Đó là chiến lược mà Washington đang thực hiện. Kế hoạch này ban đầu được nhà phân tích Michael O’Hanlon của Brooking đề xuất, ông này mới đây đã nói: 
“…một Syria tương lai có thể là một nước liên bang với một số khu vực: một khu vực lớn của người Alawite (nhóm của Assad), trải dọc theo bờ biển Địa Trung Hải; một phần của người Kurd, nằm dọc theo hành lang phía bắc và đông bắc gần biên giới Thổ Nhĩ Kỳ; phần thứ ba chủ yếu là người Druse, ở tây nam; phần thứ tư chủ yếu là người Hồi Giáo Sunni; và khu vực trung tâm của các nhóm hỗn hợp trong dân số của quốc gia trải dài từ Damascus tới Aleppo…
Theo thoản thuận này, Assad sẽ hoàn toàn phải từ bỏ quyền lực ở Damascus… Một chính phủ trung ương yếu sẽ thay thế ông ta. Nhưng phần lớn quyền lực cũng như quân đội sẽ bị sáp nhập vào các khu vực tự trị riêng lẻ - và cùng với đó là nhiều chính quyền khu vực…
Hoa Kỳ và các nhà huấn luyện ngoại quốc cần triển khai bên trong Syria, tại nơi mà những người được tuyển mộ thực sự sinh sống – và phải ở lại, nếu họ muốn bảo vệ gia đình. (Syria’s one hope may be as dim as Bosnia’s once was, Michael O’ Hanlon, Reuters)
Một lần nữa, lập trường tương tự được lặp lại: Lật đổ Assad và phân chia đất nước. Dĩ nhiên là Hoa Kỳ phải huấn luyện “những người sẽ được tuyển mộ” để giám sát người bản địa và ngăn chặn việc thiết lập bất cứ liên minh hay quân đội nào có thể đe dọa những khát vọng đế quốc của Hoa Kỳ ở khu vực. Nhưng điều này đã lặng lẽ diễn ra. (Theo cách này, Hillary Clinton đã ủng hộ kế hoạch của O’Hanlon, nhấn mạnh tầm quan trọng của “các khu vực an toàn”, có thể được sử dụng để chứa chấp chiến binh Sunni và những kẻ thù khác của nhà nước.)

John “Wacko” McCain là người ủng hộ nhiệt thành nhất của kế hoạch phá vỡ Syria. Đây là phần mà ông ta nói về chủ đề này: 
“Chúng ta phải hành động ngay để bảo vệ thường dân và phe đối lập mà chúng ta ủng hộ ở Syria….chúng ta phải thiết lập các khu vực an toàn cho thường dân và phe đối lập ôn hòa chống lại tổng thống Bashar al-Assad và ISIS ở Syria. Các khu vực can toàn này phải được sự bảo vệ của không lực Hoa Kỳ và đồng minh cũng như bộ binh ngoại quốc. Chúng ta không nên loại trừ khả năng quân đội Hoa Kỳ có thể đóng một vai trò hạn chế trong lực lượng bộ binh đó…
“Chúng ta phải thực thi chính sách theo cách tác động tới tham vọng của Putin và chi phối hành vi của ông ta. Nếu như Nga tấn côn phe đối lập do chúng ta ủng hộ, chúng ta phải khiến cho Nga trả một cái giá đắt – ví dụ tấn công các cơ sở đầu não của Syria hay các mục tiêu quân sự. Nhưng chúng ta cũng không nên giới hạn các phản ứng với Syria. Chúng ta phải gia tăng sức ép với Nga ở mọi nơi. Chúng ta phải cung cấp vũ khí tự vệ và các viện trợ cần thiết cho quân đội Ukraina để họ có thể gây ra thiệt hại lớn cho quân đội Nga.” (The Reckless Guns of October, Daniel Lazare, Consortium News)
Chắc chắn rồi, hãy phát động Thế Chiến III nào. Tại sao không chứ?

Người đàn ông này nên vào nhà thương điên chứ không nên lảm nhảm ở phòng họp của quốc hội.

Toàn bộ thiết chế chính trị Hoa Kỳ ủng hộ việc lật đổ Assad và phân rã Syria. Việc Kerry đột nhiên kêu gọi đàm phán không thể hiện sự thay đổi căn bản trong chiến lược. Đây hầu như là một nỗ lực câu giờ cho lính đánh thuê của Hoa Kỳ, những kẻ đang suy sụp trong chiến dịch ném bom của Nga. Putin sẽ đủ khôn ngoan để phớt lờ lời kêu gọi của Kerry và tiếp tục tiến hành cuộc chiến chống khủng bố cho đến khi công việc được hoàn tất.

(Lưu ý: Khi bài báo này đang được in, tờ Turkish Daily Zaman đưa tin: “….Hoa Kỳ và một số quốc gia Châu Âu cũng như Vùng Vịnh….đã đồng ý về kế hoạch mà theo đó tổng thống đương nhiệm Bashar al-Assad của Syria sẽ tiếp tục nắm quyền trong sáu tháng tiếp theo của thời kỳ chuyển tiếp….Thổ Nhĩ Kỳ đã từ bỏ đòi hỏi [Assad phải từ chức] và đồng ý với thời kỳ chuyển tiếp có sự tham gia của Assad,” cựu bộ trưởng ngoại giao Yaşar Yakış trả lời tờ Today’s Zaman vào thứ ba….Nếu người dân Syria quyết định tiếp tục với Assad thì Thổ Nhĩ Kỳ cũng không thể phản đối.” (Report: Turkey agrees to Syria political transition involving Assad, Today’s Zaman)

Câu chuyện này vẫn chưa xuất hiện trên truyền thông đại chúng phương tây. Chính sách về Syria của Obama đã hoàn toàn sụp đổ.

MIKE WHITNEY lives in Washington state. He is a contributor to Hopeless: Barack Obama and the Politics of Illusion (AK Press). Hopeless is also available in a Kindle edition. He can be reached at fergiewhitney@msn.com.

Friday, October 16, 2015

Sự can thiệp của Nga có phá hỏng kế hoạch xâm lược Syria của Thổ Nhĩ Kỳ?

Mike Whitney trong bài "Did Russia’s Intervention Derail Turkey’s Plan to Invade Syria?" bình luận về triển vọng Nga và liên quân Syria có thể đánh bại phiến quân và khôi phục trật tự ở Syria trong khi Hoa Kỳ và Thổ Nhĩ Kỳ vẫn đang mắc kẹt với kế hoạch đưa quân đội Thổ Nhĩ Kỳ vào Iran, khi mà Nga thực tế đã lập vùng cấm bay và vô hiệu hóa khả năng yểm hộ bằng không quân của Hoa Kỳ. Nếu như Nga có thể giúp chính quyền Assad quét sạch phiến quân và lập lại hòa bình ở Syria, không cần có bất cứ đàm phán nào với Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ, thì đây sẽ là một dấu mốc mới của lịch sử thế giới hiện đại. Nó sẽ chính thức đánh dấu sự chấm hết của trật tự thế giới đơn cực sau khi Liên Xô cũ sụp đổ.

Liệu sự can thiệp của Nga có phá hỏng kế hoạch xâm lược Syria của Thổ Nhĩ Kỳ?

Hàng ngàn binh lính Iran sẽ tới Syria để tham gia trận tấn công chủ chốt vào lính Sunni ở khu vực tây bắc của đất nước. Lực lượng bộ binh Iran sẽ là một phần của chiến dịch kết hợp giữa Quân Đội Arab của Syria (SAA), Nga và các chiến binh từ quân Lebanon, Hezbollah. Trận tấn công nối tiếp sau hai tuần không quân Nga ném bom các vị trí của kẻ địch, đánh phá quân jihadi do Hoa Kỳ hậu thuẫn ở dọc theo hành lang phía tây. Sự vận động của lính Iran cho thấy cuộc xung đột kéo dài bốn năm đang đi vào giai đoạn kết thúc, liên minh do Nga cầm đầu sẽ đánh bại quân Sunni thống trị và khôi phục an ninh trên toàn quốc. 

Mới đây, trận chiến ác liệt nhất đã nổ ra ở ba khu vực trọng điểm đối với sự tồn vong của tổng thống Syria Bashar al Assad’s: vùng đất kẹt giữa lãnh thổ đối phương Rastan, mỏm đất Bắc Hama, đồng bằng Ghab. Trong khi quân của Assad được coi là vượt trội quân jihadi tại cả ba nơi, quân jihadi đã thọc sâu và phá hủy nhiều xe bọc thép cũng như xe tăng. Chính quyền phải chiếm lại các khu vực này để kiểm soát con đường cao tốc M5 chạy từ bắc sang nam và kết nối các thành phố này thành một quốc gia thống nhất. Khi những cứ điểm của kẻ thù đã bị phá vỡ thành một số điểm đề kháng nhỏ, lực lượng liên minh sẽ phải tiến tiếp về phía bắc tới gần biên giới Thổ Nhĩ Kỳ để tái chiếm thành phố chiến lược Allepo. (Xem: Sic Semper Tyrannis để thấy chi tiết của cuộc tấn công trên bộ với bản đồ.)

Theo nhà phân tích quân sự Patrick Bahzad: “Nhìn chung thì kết quả của những chiến dịch hiện tại ở ba khu vực đã đề cập phía trên là rõ ràng. Khó có thể biết được rằng các nhóm nổi loạn có tung mọi thứ họ có vào các trận chiến hay không, do vậy không thể đánh giá được mức độ tổn thất năng lực chiến đấu của họ trong thất bại sắp tới.

Cũng cần phải đề cập rằng khi các đơn vị SAA được sử dụng để đột phá phòng ngự của quân nối loạn…. điều này có thể khiến các đơn vị nổi loạn tháo chạy vô tổ chức và bị bao vây. Thời điểm của trận chiến có thể rất quan trọng, nó có thể bắt đầu với nã pháo yểm hộ quy mô lớn (MRLs) và không kích của không quân Nga, tạo ra các thương vong đáng kể trong hàng ngũ của quân nổi loạn.” (Sic Semper Tyrannis)

Hay nói cách khác, đây là một cơ hội tốt để quân jihadi nhận thấy rằng họ không có cơ hội thắng và sẽ tháo chạy, nhưng vẫn còn quá sớm để nói rằng khi nào mọi chuyện sẽ diễn ra.

Theo một bản tin của Reuters, “…một sự vận động lớn của quân đội Syria … các chiến binh Hezbollah tinh nhuệ và hàng ngàn lính Iran” đang đi theo theo hướng bắc để tái chiếm Alleppo. Tuy vậy, quân ISIS cũng tiến thẳng về thành phố từ hướng đông, điều này có nghĩa là một trận đánh lớn có thể diễn ra bất cứ lúc nào. Đáp lại, không quân Nga đã gia tăng ném bom lên hơn 100 lượt mỗi ngày. Con số này được dự báo là sẽ gia tăng gấp đôi trong những ngày sắp tới khi chiến trận khốc liệt hơn.

Theo các bản tin sớm của Syria Direct, quân đội Syria đã bao vây Alleppo trong nỗ lực đầu tiên nhằm cắt đứt đường tiếp vận chủ chốt cho miền bắc từ Thổ Nhĩ Kỳ. Trong lần bao vây thành phố đầu tiên, các đơn vị nổi loạn do Hoa Kỳ hậu thuẫn đã rút chạy về phía tây, là lối thoát duy nhất vào lúc này. Sự rút chạy hỗn loạn làm nảy sinh sự bất mãn với các lãnh đạo của phe nổi loạn, họ bị lên án vì những tổn thất và để cho “chính quyền bao vây hoàn toàn Aleppo.” Một chỉ huy quân jihadi tóm lược sự thất vọng khi nói:
“Các lữ đoàn mười nghìn quân dưới sự chỉ huy của al-Jabha a-Shamiya ở đông bắc Aleppo là những người bị thương và mệt mỏi đã trải qua nhiều mặt trận… Họ bị lọt vào giữa quân đội chính quyền ở phía bắc và IS ở phía Nam…. (Do) hoàn toàn thiếu sự phối hợp giữa các lữ đoàn, gần như không có đủ súng và tiền từ người Mỹ để chống lại IS được vũ trang tốt hơn, họ không có lựa chọn nào khác ngoài rút lui.” (“Jabha Shamiya commander blames ‘complete lack of coordination’ for Aleppo losses“, Syria Direct)
Aleppo là mắt xích chủ chốt trong chiến lược đánh bại khủng bố và khôi phục trật tự ở Syria của Moscow. Trận chiến có thể rất ác liệt, có thể là cận chiến, chiến tranh đô thị từ nhà này sang nhà khác. Đây là lý do khiến quân đội liên minh phải phong tỏa biên giới với Thổ Nhĩ Kỳ cũng như ngăn chặn luồn vũ khí và quân nhu càng nhanh càng tốt. Có tin đồn là Putin sẽ sử dụng lính dù tinh nhuệ của Nga ở phía Bắc Aleppo cho các nhiệm vụ đặc biệt, nhưng hiện giờ điều đó vẫn chỉ là tin đồn. Putin đã thường xuyên nói rằng ông ấy sẽ không cho phép bộ binh tham chiến ở Syria.

Không thể đánh giá quá cao vai trò phá hoại và gây rối của chính quyền Obama ở Syria, cùng với các đồng minh vùng Vịnh, Hoa Kỳ đã tài trợ, vũ trang và huấn luyện hàng mớ những tên lưu manh jihadi, những kẻ đã xé nát quốc gia và giết hại gần một phần tư triệu người. Giờ đây Putin đã quyết định chấm dứt chiến tranh ngoại vi man rợ của Washington, chính quyền Hoa Kỳ đang tính cách đổ thêm dầu vào lửa bằng cách thả vũ khí và đạn dược xuống cho các quân jihadi ở miền trung và miền đông Syria. Biên tập viên của tờ New York Time đã chế nhạo chương trình này là “ảo tưởng”. Đây là một trích đoạn từ bài báo: 
“…vào thứ sáu, Nhà Trắng đã tiết lộ một kế hoạch còn chắp vá và đầy rủi ro hơn nữa.
Lầu Năm Góc sẽ ngừng cung cấp các chiến binh nổi dậy thông qua huấn luyện ở các nước láng giềng, một chương trình được tạo ra để đảm báo các chiến binh này sẽ hoàn toàn thuần thục trước khi họ có thể chạm tay vào vũ khí và đạn dược Hoa Kỳ. Kế hoạch mới sẽ chỉ đơn giản là cung cấp vũ khi thông qua các thủ lĩnh nổi dậy, những người đang tham gia chiến trận và có vẻ như là tạo ra một số tiến triển….
Kinh nghiệm của Washington ở Syria và các cuộc chiến khác gần đây cho thấy các chiến binh ngoại vi thường không kiên định và vũ khí được đưa vào một cuộc chiến tranh mà không có sự giám sát thực sự thường xuyên dẫn đến các tác động thảm họa….Kế hoạch ban đầu đã mơ hồ. Kế hoạch sau lại là ảo tưởng. (“An Incoherent Syria War Strategy“, Ban biên tập New York Times)
Chính quyền cũng đã cung cấp “27 container vũ khí cho Đảng Liên Minh Dân Chủ người Kurd (Syria) và cánh quân của họ, Các Đơn Vị Bảo Vệ Nhân Dân (YPG). Vũ khí được dự tính là sử dụng để chống lại ISIS, nhưng hoạt động này đã chọc giận thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ, ông ta coi nhóm này là khủng bố. Trong khi có vẻ như là chính quyền Obama đang tìm cách để thể hiện sự tích cực của họ trong cuộc chiến chống khủng bố, họ có thể tạo ra cái cớ hoàn hảo cho việc Thổ Nhĩ Kỳ xâm lược Syria, vốn rất phức tạp trong tình hình mặt đất hiện nay. Đây là một đoạn phim từ Turkish Daily Hurriyet:
“Điều tra sau những vụ nổ sát thương ở Ankara vào ngày 10 tháng 10 nhằm vào các nhà hoạt động ủng hộ người Kurd và cánh tả cho thấy Đảng Công Nhân Người Kurd (PKK), cũng như ISIL, đều có thể can dự, thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Ahmet Davutoğlu tuyên bố vào thứ tư.
“Khi chúng tôi điều tra sâu hơn, dựa trên [thông tin thu thập được về] các tài khoản Twitter và địa chỉ IP, có nhiều khả năng là Daesh [tên Arab của ISIL] và PKK đóng vai trò tích cực trong việc đánh bom,” ông ta phát biểu trong hội nghị báo chí với thủ tướng Bulgaria Boyko Borisov ở Istanbul.” “Turkish PM says both ISIL and PKK may have role in Ankara bombing“, Hurriyet)
Trên thực tế hoàn toàn không có bằng chứng về sự can dự của PKK (quân đội Kurd), các mẫu DNA từ hai kẻ đánh bom tự sát cho thấy cả hai đều là thành viên của ISIS. Lý do duy nhất mà Erdogan muốn lôi PKK vào chỉ có thể là hạ uy tín của đối thủ chính trị [người Kurd] hoặc để tạo ra một cái cớ để xâm lược Syria. (Ghi chú: Tòa án Thổ Nhĩ Kỳ đã yêu cầu giữ bí mật về việc điều tra vụ đánh bom, cho thấy sự che giấu của chính quyền. Theo Altan Tan, phó chủ tịch của Đảng Dân Chủ Nhân Dân (HDP) ủng hộ người Kurd, “Bom nổ khắp Thổ Nhĩ Kỳ. Hai kết luận có thể đưa ra là – hoặc chính quyền đứng phía sau những vụ tấn công này hoặc họ đã không ngăn chặn những vụ tấn công này.” Theo cách nào thì chính quyền cũng phải chịu trách nhiệm.” 

Trong khi vai trò tương lai của Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc xung đột ở Syria vẫn chưa rõ ràng, việc Hoa Kỳ ủng hộ người Kurd sẽ gia tăng cơ hội cho cuộc xâm lược của Thổ Nhĩ Kỳ và rộng hơn nữa là một cuộc chiến tranh khu vực. Đây liệu có phải là mục tiêu thật sự của chính quyền này, lôi kéo quân đội Thổ Nhĩ Kỳ vượt biên giới vào Syria để Nga sa lầy trong một cuộc chiến kéo dài và tốn kém?

Nghe có vẻ âm mưu quá, nhưng đây là những điểm rất đáng để cân nhắc. Ví dụ, trên chương trình tin tức 60 Phút của CBS, Obama nói rằng: 
“Tôi hoài nghi về khả năng chúng ta sẽ thực sự tạo ra một đội quân ngoại vi ở Syria. Mục tiêu của tôi là cố gắng kiểm tra đề xuất, liệu chúng ta có thể huấn luyện và trang bị cho phe đối lập ôn hòa sẵn sàng chống lại ISIL không? Điều mà chúng ta học được là chừng nào mà Assad còn nắm quyền thì khó có thể khiến những người đó tập trung vào ISIL.” (60 Phút) 
Đương nhiên, Obama muốn mọi người tin rằng “tất cả đều là lỗi của Assad”, trên hết ông ta không tự lên án bản thân. Nhưng ông ta trung thực về một điều: Ông ta thực sự không bao giờ cho rằng vũ trang cho những kẻ cực đoan Sunni là ý tưởng hay. Hay nói cách khác, ông tả ủng hộ mục tiêu (thay đổi chế độ) không bằng phương pháp đó. (vũ trang cho quân jihadi) Dường như ông ta cảm thấy được an ủi khi mà – sau 4 năm tham chiến – cuộc xung đột đã rơi vào thế bế tắc. 

Nếu ông ta thừa nhận rằng vũ trang cho quân jihadi không có tác dụng, vậy kế hoạch dự phòng của ông ta, kế hoạch B là gì?

Chúng ta đã dự đoán ở những bài báo trước rằng Obama có thể đưa ra một thỏa thuận với Erdogan để phát động cuộc xâm lược của Thổ Nhĩ Kỳ ở Syria chừng nào mà Hoa Kỳ có thể hỗ trợ không quân cho bộ binh Thổ Nhĩ Kỳ. Chúng ta cho rằng đó là một phần của điều kiện trao đổi mà Obama đã đồng ý để được sử dụng căn cứ không quân chiến lược Incirlik. Hãy nhớ rằng Erdogan từ chối cho Hoa Kỳ tiếp cận căn cứ Incirlik trong hơn một năm cho đến khi Hoa Kỳ đáp ứng yêu cầu giúp ông ta lật đổ Assad. Đương nhiên, đây không phải là điều mà Obama có thể công khai thừa nhận, nhưng nó có thể coi là phần trọng yếu trong mọi thỏa thuận. Một cuộc phỏng vấn trên Giờ Tin Tức của PBS vào tuần trước với David Kramer, cựu trợ lý ngoại trưởng dưới thời George W. Bush, đã ủng hộ lập luận này. Đây mà một trích đoạn từ nội dung được rã băng: 
Judy Woodruff: Vâng, David Kramer, điều đó thì sao? Có mối lo ngại thực sự về việc Hoa Kỳ can dự, bị lôi kéo vào và không thể thoát ra.
David Kramer: Người Thổ từ lâu đã cho thấy rằng họ sẵn sàng đưa quân đội vào nếu được Hoa Kỳ yểm hộ và hỗ trợ. Chúng ta phải tạo ra các khu vực an toàn. Chúng ta phải tạo ra các vùng cấm bay. Chúng ta phải cưỡng chế mọi máy bay có thể đe dọa người dân tại những khu vực đó, bất kể là máy bay Syria hay Nga. Chúng ta phải cho người Nga thấy rằng mọi sự xâm phạm hoặc tấn công những khu vực này sẽ được chúng ta đáp trả.
Không ai muốn điều này. Đó là quyết định tồi, nhưng đó là điều mà chúng ta phải làm. Tôi cho rằng nếu chúng ta không làm điều đó, chúng ta sẽ tiếp tục thấy người dân bị giết hại. Chúng ta sẽ tiếp tục thấy người dân bỏ chạy khỏi Syria, không có giải pháp tốt nào cả. Chúng ta đưa ra những lựa chọn ít tồi tệ nhất.
Judy Wooddruff: Nhưng câu hỏi của tôi, đó liệu có phải là một mức độ nguy hiểm hoàn toàn mới nhưng không được chú ý, như máy bay Hoa Kỳ bị bắn hạ, binh lính Hoa Kỳ có thể bị bắt giữ, chưa nói đến xung đột, xung đột tiềm tàng với Nga? 
David Kramer: Chúng ta có người Thổ cho thấy sự sẵn sàng dấn thân. Chúng ta cũng có thể có các quốc gia khác, trong đó có các quốc gia vùng Vịnh, mặc dù họ không phải là những người đóng góp lớn trong những chiến dịch kiểu này. Hoa Kỳ có thể hỗ trợ bằng không quân, để tạo ra sự yểm hộ theo cách đó. Tôi cho rằng đây là cách thực hiện mà không cần đưa bộ binh Hoa Kỳ vào, nhưng không có lựa chọn nào tốt cả. (“Pulling the plug on rebel training, what’s next for U.S. in Syria?“, PBS News Hour)
Kramer không chỉ thể hiện rất hài lòng về việc “Người Thổ… sẵn sàng đưa quân vào nếu được Hoa Kỳ yểm hộ và hỗ trợ.” Ông ta có vẻ cũng ngầm ám chỉ rằng đại đa số thượng lưu ở Washington cũng nhận thấy thỏa thuận nhưng làm bộ không thấy.

May mắn thay, can thiệp quân sự của Putin đã phá hỏng mọi triển vọng triển khai kế hoạch B, chúng ta sẽ không bao giờ biết được Thổ Nhĩ Kỳ có xâm lược hay không.

Vấn đề hiện giờ là liên minh do Nga cầm đầu có triển khai đủ nhanh để củng cố thành quả của họ, cắt các đường tiếp vận của kẻ địch, chặn đường thoát, phong tỏa biên giới và khiến cho Thổ Nhĩ Kỳ không dám có các hành động mở rộng chiến tranh. Erdogan chắc chắn sẽ bị khuất phục trước lý lẽ của sức mạnh.

Lính đánh thuê jihadi hoặc là đầu hàng hoặc sẽ bị xóa sổ nhanh chóng để 11 triệu người Syria có thể an toàn trở về nhà và bắt đầu công việc tái thiết nhọc nhằn. 

Mike Whitney lives in Washington state. He is a contributor to Hopeless: Barack Obama and the Politics of Illusion (AK Press). Hopeless is also available in a Kindle edition. He can be reached at fergiewhitney@msn.com.

Monday, June 15, 2015

Quýt làm cam chịu: Mỹ tra tấn, Ba Lan bồi thường

Người Ba Lan có thể tức giận vì họ phải bồi thường cho các nạn nhân bị Mỹ tra tấn tại nhà tù bí mật của CIA ở Ba Lan, nhưng khi họ cho Mỹ đặt nhà tù bí mật ở trên đất nước mình thì họ cũng nên lường trước hậu quả. Một bài học đáng nhớ cho các đồng minh thân cận và những nước muốn làm đồng minh của Hoa Kỳ. Dưới đây là bản dịch bài viết "Poland pays for America's crimes" của Nat Perry đăng trên tạp chí ColdType số 99 tháng 6 năm 2015.

Ba Lan bồi thường cho tội ác của Hoa Kỳ 

Một trong những điều nực cười nhất của cuộc chiến chống khủng bố của Hoa Kỳ và quan hệ xuyên Đại Tây Dương là trách nhiệm dân chủ và bảo vệ nhân quyền của họ ở các nước cựu Liên Bang Soviet có vẻ mạnh mẽ hơn là ở chính quê nhà của họ vào lúc này. Bài học này được đưa về nhà một lần nữa vào tháng trước khi Ba Lan thanh toán ¼ triệu dollar cho hai nghi phạm khủng bố bị CIA tra tấn tại nhà tù bí mật trên lãnh thổ Ba Lan từ năm 2002 đến 2003. 

Với phán quyết của Tòa Án Nhân Quyền Châu Âu (ECHR), bản án đã gây ra sự phẫn nộ của nhiều người Ba Lan, họ cảm thấy không công bằng khi bị trừng phạt bởi những sai trái của Hoa Kỳ. “Chúng tôi phải trả tiền bồi thường mặc dù người của chúng tôi không làm gì sai,” cựu ngoại trưởng Ba Lan Radoslaw Sikorski nói. Sikorski cho biết Ba Lan là nước duy nhất đã nhận trách nhiệm về việc các quan chức cấp cao của họ cho phép CIA vi phạm nhân quyền trên lãnh thổ của họ. 

Hoa Kỳ vẫn tiếp tục thiếu trách nhiệm, họ không điều tra hay xét xử các quan chức cấp cao cho phép vi phạm nhân quyền tại các nhà tù bí mật của CIA ở Ba Lan hay bất cứ đâu trên thế giới.

Trong số 119 tù nhân bị giam giữ tại các nhà tù bí mật của CIA từ năm 2001 đến năm 2006, có ít nhất 39 người bị thành viên của CIA tra tấn, theo báo cáo của Ủy Ban Tình Báo Thượng Viện về tra tấn được công báo vào tháng 12 vừa qua. Hai cá nhân bị tra tấn ở Ba Lan, Abu Zabaydah và Abd al-Rahim al-Nashiri, đã được chuyển tới vịnh Guantanamo, họ ở đó cho tới năm 2006.

Trong khi al-Nashiri mới bị xét xử vì tổ chức đánh bom chiến hạm USS Cole vào năm 2000 thì Abu Zubayah được coi là một trong số những “tù nhân vĩnh viễn” của Guantanamo mà không có bản án hay phiên tòa nào được dự định, cũng chưa có một quy định sơ bộ nào cho trường hợp của anh này trong gần bảy năm. Vào ngày 12 tháng 5 năm 2015, tờ ProPublica cho biết anh này đã bị giam “2.477 ngày và vẫn tiếp tục”. Một trong các luật sư của anh, Hellen Duffy, viết cho tờ Guardian và tháng 12 vừa qua, sau khi bản tóm tắt báo cáo bị trì hoãn dài ngày của thượng viện được công bố, “hiện giờ Abu Zubaydah có thể được coi là tang vật loại A” trong chương trình giam giữ và tra tấn của CIA. 

“Anh ấy có sự khác biệt đáng tiếc là nạn nhân đầu tiên của chương trình tra tấn của CIA, như báo cáo đã làm rõ, nhiều kỹ thuật tra tấn (hay “thẩm vấn nâng cao”) đã được phát triển và chỉ có tù nhân biết rõ rằng họ là đối tượng của chúng,” Duffy viết.

Báo cáo của thượng viện có khoảng 1.000 dẫn chiếu đến trường hợp Abu Zubaydah, xác nhận các phát hiện của ECHR liên quan đến kỹ thuật thẩm vấn mà anh ta phải chịu đựng.

Trong đó có “walling” (liên tục bị đẩy sát vào tường), cấm ngủ tới 180 giờ (thường xuyên khỏa thân trong tư thế căng thẳng) và nhấn nước. Việc nhấn nước Abu Zubaydah, anh ta bị nhấn nước 83 lần trong 1 tháng, được cấp cao nhất của chính quyền Hoa Kỳ cho phép. Anh ta cũng bị giam giữ tàn nhẫn. “Trong 20 ngày liên tục của “giai đoạn thẩm vấn quyết định”, AbuZubayah bị giam tổng cộng 266 giờ (11 ngày, 2 giờ) trong một chiếc hộp giam giữ có kích thước bằng chiếc quan tài và 22 giờ trong hộp giam nhỏ với chiều rộng 53,34 cm, chiều sâu 0,77m và chiều cao 0,77m,” theo báo cáo của thượng viện. “Nhân viên thẩm vấn của CIA nói với Abu Zubaydah rằng cách duy nhất anh ta có thể ra khỏi nhà tù là trong một chiếc hộp giam hình quan tài.”

Duffy cho biết ngoài vụ tra tấn Aby Zubaydah, báo cáo của thượng viện cũng tiết lộ về số lượng thông tin sai lệch đã được tạo ra để biện minh cho việc giam giữ anh ta không giới hạn. Một số khẳng định của CIA, trong một số trường hợp đã lặp lại ngay cả khi họ biết chúng là sai, đã bị bác bỏ hết điểm này đến điểm khác trong báo cáo.

Ví dụ, trái với những khẳng định lặp đi lặp lại rằng Abu Zabaydah là “người thứ ba hay thứ tư của al-Qaida,” báo cáo cho biết “sau đó CIA đã kết luận rằng Abu Zubaydah không phải là thành viên của al-Quaida.” Báo cáo cũng phủ nhận khẳng định của chính quyền về việc anh ta can dự vào vụ 11 tháng 9, rằng đội thẩm vấn “chắc chắn anh ta che giấu thông tin” và khẳng định rằng việc tra tấn anh ta mang lại các thông tin tình báo quý giá.

Vụ việc của Abu Zubaydah cũng dẫn đến vụ xét xử duy nhất được ấn định ở Hoa Kỳ liên quan đến chương trình tra tấn của CIA – mặc dù không phải là đối với những người tra tấn anh ta mà là đối với một người tiết lộ của CIA, người đầu tiên tiết lộ vụ việc.

Phiên tòa bỏ túi

Trong cuộc phỏng vấn với ABC News, cựu sĩ quan CIA John Kiriakou mô tả việc nhấn nước Abu Zubaydah và sau đó bị tình nghi cung cấp cho nhà báo tên của điệp viên bí mật trong Trung Tâm Chống Khủng Bố trực thuộc CIA, là người đã tham gia vào chiến dịch bắt giữ và thẩm vấn Abu Zubaydah. Vì sự vi phạm này, Kiriakou bị kết án theo Luật Do Thám 1917 và chấp nhận thỏa thuận nhận tội để lĩnh án 2 năm tù.

Vụ xét xử Kiriakou hồi đó bị một số bộ phận của cộng đồng quốc tế chỉ trích. Ví dụ, Hội đồng Nghị Viện của Tổ Chức Anh Ninh và Hợp Tác Châu Âu trong một nghị quyết năm 2012 “đã lên án nhà cầm quyền Hoa Kỳ về việc chống lại cựu điệp viên CIA John Kiriakou, người bị cáo buộc cung cấp cho nhà báo các chi tiết liên quan đến việc bắt giữ Abu Zubaydah, một nghi phạm al-Qaeda được cho là bị tra tấn tại nhà tù bí mật của CIA ở Ba Lan và là một trong hai “nạn nhân được bảo vệ” của công tố ở Warsaw.”

Cựu nghị sĩ quốc hội Hoa Kỳ Jim Moran (D-VA) phát biểu tại hạ viện vào ngày 17 tháng 11 năm 2012 rằng việc chính quyền kết án Kiriakou là một “phiên tòa bỏ túi”. Ông yêu cầu tổng thống Obama xin lỗi Kiriakou và gọi cựu sĩ quan có 15 năm hoạt động của CIA là “người hùng Hoa Kỳ”. 

Kiriakou đã ra khỏi tù sau khi mãn hạn nhưng các nạn nhân bị tra tấn của CIA vẫn tiếp tục bị giam giữ không biết đến ngày ra ở Gitmo, Ba Lan không chỉ đối mặt với thiệt hại chính trị vì chính sách này mà còn các những khó khăn thực tế trong việc thực hiện quyết định của ECHR liên quan đến việc vận chuyển các cá nhân được bồi thường, những người đã bị giam giữ - một người Palestine và một người Arabian Saudi. Mặc dù vậy, “Ba Lan thi hành các quyết định của ECHR,” người phát ngôn bộ ngoại giao Marcin Wojciechowski nói, “Trường hợp thứ nhất, tiền được trả vào tài khoản do luật sư của anh ta chỉ định, trong trường hợp còn lại, do bị trừng phạt quốc tế, chúng tôi yêu cầu thiết lập một khoản ký quỹ pháp lý,” ông nói thêm. 

Theo quy định của ECHR, Ba Lan cũng phải yêu cầu Hoa Kỳ bãi bỏ án tử hình đối với hai người đàn ông cho phù hợp với việc bãi bỏ án tử hình trên toàn EU, Wojciechowski nói với AFP.

Sự phủ nhận hợp lý

Nhiều người Ba Lan phiền lòng khi thấy đất nước họ đối mặt với những hậu quả pháp lý của nhà tù bí mật và chương trình giam giữ mà CIA thực hiện dưới thời George W. Bush ở một số quốc gia trên thế giới sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9. Ở Ba Lan, câu chuyện một quốc gia cựu cộng sản sẽ dung túng cho nhà tù bí mật của CIA và trong đó tra tấn được thực hiện nhiều năm đã bị nhiều chính khách, nhà báo và công chúng của quốc gia cười nhạo, coi như là một lý thuyết âm mưu tầm thường. Các quan chức Ba Lan đã thường xuyên phủ nhận sự tồn tại của các nhà tù đó.

Nhưng một chuỗi các tiết lộ và tuyên bố chính trị của các lãnh đạo Ba Lan đã thừa nhận lần đầu tiên rằng Hoa Kỳ thực sự điều hành một sơ sở thẩm vấn bí mật đối với các nghi phạm khủng bố vào năm 2002 và 2003 ở khu vực hẻo lánh của đất nước. Vào tháng 9 năm 2014, cựu tổng thống Ba Lan Aleksander Kwasniewski chính thức thừa nhận sự tồn tại của nhà tù bí mật của CIA ở căn cứ không quân, tại đó các nghi phạm khủng bố được thẩm vấn, nhưng ông ta khẳng định rằng Warsaw không biết về sự tra tấn ở nhà tù này.

Giờ đây có vẻ như sự phủ nhận liên quan đến tra tấn có thể là cố ý bỏ qua hay sự phủ nhận hợp lý để đổi lấy hàng triệu dollar tiền mặt. Báo cáo tra tấn của thượng viện cho biết, trái ngược với những đe dọa ban đầu về việc chấm dứt chuyển giao nghi phạm khủng bố cho nhà tù bí mật 11 năm trước đây, chính quyền đã trở nên “linh hoạt” hơn sau khi CIA chi ra một khoản tiền lớn. Theo như báo cáo, CIA đã trả cho quan chức Ba Lan khoảng 50 triệu dollar để họ làm ngơ.

Nhưng theo Radoslaw Sikorski, cựu ngoại trưởng Ba Lan và giờ là chủ tịch hạ viện, nhà tù được thiết lập dựa trên tình hữu nghị với Hoa Kỳ. Giờ đây, ông ta phàn nàn rằng mặc dù vậy quan hệ bí mật đã gây ra thiệt hại cho Ba Lan.

“Chúng tôi bị bối rối bởi chuyện này, nhưng ngay cả như vậy chúng tôi cũng không lấy làm tiếc vì có quan hệ an ninh và tình báo cực kỳ gần gũi với Hoa Kỳ,” ông nói. “Chúng tôi có thể phải trả tiền bồi thường ngay cả khi nhân viên của chúng tôi không làm gì sai. Anh có thể tưởng tượng xem người dân Ba Lan cảm thấy chuyện này thế nào.”

“Chuyện này làm chúng tôi mang tiếng xấu,” người sáng lập ra think tank Hiệp Hội Châu Âu-Đại Tây Dương ở Warsaw, Tadeusz Chabiera nói. “Chúng tôi là một quốc gia nhỏ bị một quyền lực lớn đối xử tồi tệ.”

Sự hối tiếc và cảm giác bị lừa dối được thể hiện ở Ba Lan sau một kịch bản đã có từ lâu, ít nhất là một thập kỷ trước đây. Dấu hiệu về sự cay đắng nổi lên lần đầu tiên vào năm 2014 khi Hoa Kỳ xâm lược Iraq và Ba Lan đóng góp 2.400 quân.

Vào đỉnh điểm của cuộc chiến tranh Iraq, David Ost tường thuật trên tạp chí The Nation vào ngày 16 tháng 12 năm 2004, “George W. Bush đã chuẩn bị để làm cái điều mà 45 năm chế độ cộng sản không thể: hủy hoại hình ảnh về bản chất tốt đẹp của người Mỹ, thứ vốn đã luôn là con bài chủ chốt của Hoa Kỳ.” 

Hình ảnh bị hủy hoại của Hoa Kỳ

Ở Ba Lan, cũng giống như ở nhiều quốc gia khác trên thế giới, hầu hết hình ảnh tích cực đã được khôi phục sau khi Barack Obama thắng cử năm 2008 và lời hứa về sự thay đổi mà ông ta có vẻ như là đại diện. Nhưng theo như Trung Tâm Nghiên Cứ Pew đưa tin vào năm 2013, “tình cảm thân Mỹ đã sụp đổ.” 

“Sự suy giảm không thể so sánh với sự sụp đổ của danh tiếng Hoa Kỳ trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ này,” theo Pew, họ cho biết rằng vào thời điểm của nghiên cứu toàn cầu năm 2013, hơn 6/10 ở Ba Lan, Pháp, Italy và Tây Ban Nha đã có quan điểm tích cực về Hoa Kỳ “nhưng sự nổi bật của Obama” trên phạm vi toàn cầu mà Hoa Kỳ đã trải qua vào năm 2009 rõ ràng là chuyện quá khứ.”

Vẫn cần phải chờ xem những sự tiến triển mới đây về việc tra tấn của CIA có đóng vai trò đáng kể nào trong việc tiếp tục hủy hoại hình ảnh của Hoa Kỳ hay không, nhưng sự phi lý của việc một quốc gia nhỏ như Ba Lan phải gánh chịu trách nhiệm nặng nề về chính sách phi pháp trong khi không ai ở Hoa Kỳ trả lời họ sẽ không dễ quên đối với các đồng minh khác của Hoa Kỳ. 

Tại một số quốc gia hợp tác với chương trình giam giữ của Hoa Kỳ, bánh xe công lý vẫn đang quay, mặc dù chậm dãi. Một cuộc điều tra hình sự đang được tiến hành ở Lithuania, tại đó các công tố viên đang tập trung vào các hoạt động bất hợp pháp xuyên biên giới liên quan đến tù nhân Mustafa al-Hawsawi của CIA, người này có thể đã bị tra tấn nhà tù bí mật có mật danh là Violet của Lithuania.

Cùng lúc đó, những lời kêu gọi nhà cầm quyền áp thực hiện các điều tra toàn diện về sự tồn tại của nhà tù bí mật của CIA ở Romania, cựu tổng thống Romania Ion Iliescu cho biết vào tháng trước rằng ông đã chấp thuận yêu cầu thiết lập ít nhất một nhà tù bí mật của CIA, tại đó các tù nhận bị tra tấn. Iliescu nói rằng ông rất tiếc về quyết định đó.

Những lời kêu gọi tiếp tục đòi hỏi Hoa Kỳ tiến hành những cuộc điều tra đáng tin cậy về vai trò của họ và bồi thường cho nạn nhân của chương trình giam giữ và tra tấn. Trùng hợp là bản án của ECHR đối với Ba Lan được đưa ra cùng tuần với việc Liên Hiệp Quốc thúc giục Hoa Kỳ bồi thường tài chính cho các nạn nhân của chương trình tra tấn và truy tố thủ phạm của các vụ tra tấn này.

Theo một báo cáo của nhóm hành động của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc về Kiểm Định Phổ Quát Định Kỳ, xuất bản ngày 15 tháng 5, Hoa Kỳ phải “đảm bảo rằng tất cả các nạn nhân bị tra tấn và ngược đãi - bất kể là đang bị giam giữ tại Hoa Kỳ hay không – nhận được bồi thường và có quyền khả thi về bồi thường công bằng và hợp lý cũng như phục hồi hoàn toàn, bao gồm trợ giúp về y tế và tâm lý học.”

Hơn nữa, Hoa Kỳ phải “đảm bảo điều tra minh bạch và xác đáng cũng như xét xử các cá nhân chịu trách nhiệm về các cáo buộc tra tấn, ngược đãi, bao gồm những người bị nêu tên trong kết luận công khai của thượng viện về hoạt động của CIA được xuất bản vào năm 2014 và bồi thường cho các nạn nhân.” Với thời hạn vào tháng 12 để phản hồi các khuyến nghị của Liên Hiệp Quốc, chính quyền Obama sẽ phải chứng tỏ cho thế giới thấy bằng cách quyết định xem khuyến nghị nào sẽ được chấp nhận và khuyến nghị nào sẽ bị từ chối.

Khi đề cập tới việc truy tố tra tấn và bồi thường, tốt hơn cả là nói rằng thế giới sẽ theo dõi.