Monday, January 26, 2015

Ngành dệt may Việt Nam và ảo vọng TPP

Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam xuất khẩu mỗi năm khoảng 20 tỷ USD, chủ yếu là sang thị trường Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc. Trong đó tại thị trường Mỹ và Châu Âu hàng dệt may Việt Nam phải chịu thuế suất rất cao.

Việc gia nhập TPP đang được ngành dệt may kỳ vọng là một cơ hội lớn giúp ngành này tiết kiệm được khoảng 1,8 tỷ USD mỗi năm. 

nếu thuế nhập khẩu được giảm về 0% thì các doanh nghiệp dệt may cũng sẽ được “chia” một phần trong giá trị tiền thuế được giảm. Giá trị tăng thêm đó, không những góp phần cải thiện hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DN, nâng cao đời sống của người lao động mà còn là cơ hội để thị phần hàng dệt may Việt Nam tại các nước này tăng thêm, tạo thêm hàng triệu việc làm cho người lao động trong tương lai. Cũng bởi vậy mà chúng ta đều mong TPP sớm được ký kết.
Đó là luận điểm được nêu ra trong bài báo "TPP và bài toán năng suất lao động của doanh nghiệp dệt may". Thứ nhất, đây là một cái bánh vẽ đối với doanh nghiệp dệt may. Thị trường dệt may là thị trường cạnh tranh nên nếu tất cả doanh nghiệp dệt may đều đạt được yêu cầu để giảm thuế thì tất cả các doanh nghiệp này đều sẽ giảm giá hàng của mình đúng bằng chừng đó. Lý do là để giành thêm thị phần, còn trên thực tế là để tăng thêm sức cạnh tranh bằng giá thấp hơn. Tức là doanh nghiệp dệt may Việt Nam chẳng được hưởng lợi đồng nào từ việc hạ giá nhập khẩu vào các nước TPP một cách đồng loạt như vậy. Thứ hai, khi doanh nghiệp không được hưởng đồng nào từ việc giảm thuế thì cũng chẳng có phần nào dôi ra để đầu tư cho công nghệ hay nâng cao đời sống công nhân hết. Mà ngay cả khi doanh nghiệp có lãi hơn thì điều đó cũng không có nghĩa là họ sẽ tăng lương và cải thiện cho đời sống công nhân, vì điều đó có nghĩa là hy sinh một phần lợi nhuận của họ. Mấu chốt trong chuyện này là các doanh nghiệp dệt may hy vọng TPP sẽ giúp họ giảm giá sản phẩm tại các thị trường lớn và gia tăng thị phần của họ. Nhưng để giành được thị phần đó thì chỉ giá thấp hơn là chưa đủ, mà cần phải có sản lượng lớn hơn.

Sản lượng lớn hơn là câu chuyện của sản xuất. Thông thường để có sản lượng lớn hơn thì có hai cách, thứ nhất là áp dụng công nghệ mới gia tăng năng suất lao động, thứ hai là tăng cường độ lao động và kéo dài thời gian lao động. 
Chẳng hạn, hiện nay vấn đề năng suất lao động của Việt Nam đang bị xem là thấp, trong khi tiền lương tối thiểu liên tục tăng, thời gian cho phép làm thêm giờ quá ít đã đẩy nhiều doanh nghiệp vào nguy cơ đóng cửa nhà máy.
Theo thống kê của tổ chức lao động quốc tế ILO thì năng suất lao động bình quân chung tại Việt Nam rất thấp nếu so với các nước trong khu vực, chỉ bằng 30% của Malaisia, 40% của Thái Lan. Thực tế ở ngành dệt may Việt Nam, năng suất lao động bình quân (tính trên giá gia công) tuy có cao hơn so với bình quân chung của cả nước nhưng cũng mới chỉ đạt 1,5 USD/ giờ (bằng 50% năng suất bình quân ngành may Thái Lan và Indonesia). Người lao động làm ra 312 USD/ tháng, nếu trừ các chi phí trong sản xuất, quản lý, bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn, phí lưu thông… thì chỉ còn khoảng 52% để trả lương cho người lao động, tương đương khoảng 3,4 triệu đồng/tháng
Vẫn bài báo đã nêu, ở đây năng suất lao động thực tế của ngành dệt may đã bị nhập nhèm với thang đo năng suất bằng giá trị sản phẩm/trên đầu nhân công mà ngay cả Tổ Chức Lao Động Quốc Tế cũng khuyến cáo là chỉ để tham khảo, không thể dùng để so sánh năng suất lao động giữa các ngành hay giữa các nước với nhau.

Nhiều người sẽ cho rằng đây chỉ là sai lầm không đáng kể. Song đó không phải là sai lầm, mà là chủ ý của người viết. Họ dùng lập luận năng suất thấp để bảo vệ cho điều này:
Trong nhiều hội nghị hội nghị bàn về năng suất lao động, về mức tăng lương tối thiểu hàng năm do VCCI tổ chức, nhiều hiệp hội ngành hàng như dệt may, da giầy…đều kiến nghị cần sửa đổi Bộ luật lao động về thời gian làm thêm giờ được phép tăng lên là 60 giờ/tháng như Nhật Bản để thời gian làm thêm giờ có thể bù cho năng suất lao động đang còn quá thấp, bù cho những chi phí liên tục tăng và cải thiện thu nhập cho người lao động.
Như vậy là ở trên thì hứa hẹn người lao động sẽ được tăng thu nhập, nhưng ở dưới thì buộc họ làm thêm giờ theo kiểu Nhật Bản (cho hội nhập TPP!). Đến đây thì câu chuyện đã rõ, ngành dệt may ủng hộ việc gia nhập TPP với kỳ vọng sẽ hạ giá sản phẩm thông qua việc dỡ bỏ thuế quan, nhờ đó gia tăng thị phần. Gánh nặng còn lại thì đổ lên lưng của công nhân với việc gia tăng sản lượng thông qua tăng ca làm thêm giờ kiểu Nhật Bản. Nói ngắn gọn, ngành dệt may Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục gia công và bán sản phẩm giá bèo dựa trên nhân công giá rẻ.

Quay trở lại câu chuyện năng suất lao động. Việt Nam đang ở một tình huống phân tích kinh điển của Marx trong bộ "Tư Bản". Chủ doanh nghiệp luôn chỉ đánh giá năng suất lao động dựa trên giá trị hàng hóa mà họ bán được, nhưng Marx đã chỉ ra rằng giá trị hàng hóa mà họ bán được không phải là cái giá trị mà họ sản xuất ra. Bí mật nằm ở chỗ giá trị hàng hóa mà họ bán được thì bằng chi phí đầu tư cộng với lợi nhuận sinh ra từ tỷ suất lợi nhuận bình quân. 

Ngành dệt may ở Việt Nam vốn là ngành có cấu tạo hữu cơ thấp, thế nên ngay cả khi năng suất lao động của công nhân ngành này rất cao thì một phần lớn giá trị thặng dư sẽ chảy sang túi của chủ doanh nghiệp ở những khu vực có cấu tạo hữu cơ cao hơn (chủ yếu là nước ngoài). Chính vì vậy chủ doanh nghiệp dệt may khi thấy giá trị sản phẩm trên đầu công nhân của mình thấp thì cho là năng suất thấp, chứ thực sự không biết nó cao đến mức nào.

Chủ doanh nghiệp dệt may bị giới hạn trong cái tầm nhìn hạn hẹp ấy thì cách duy nhất mà họ chống chọi lại với thị trường là gia tăng bóc lột công nhân, tăng ca, tăng giờ làm là khẩu hiệu sau một thế kỷ mà người công nhân đã đòi được quyền ngày làm 8 tiếng (nhiều nước Châu Âu hiện giờ chỉ làm 35 tiếng/tuần trong khi Việt Nam đòi tăng thêm 15h/tuần).

Người công nhân khi phải tăng giờ làm thì không chỉ bản thân họ bị hủy hoại nhanh chóng mà họ sẽ phải hy sinh đời sống cá nhân, hy sinh gia đình, hy sinh thời gian chăm sóc con cái, hy sinh thời gian để sống một cuộc sống tử tế, hy sinh các cơ hội để phát triển bản thân. Ngày lao động kéo dài là ngày lao động nô lệ! Lợi nhuận của chủ doanh nghiệp dệt may sẽ được đảm bảo bằng sự khốn cùng của người công nhân dệt may.

Nhiều người đọc bài này sẽ hoài nghi, thậm chí cho rằng có gì đó quá khích trong phân tích này, hoặc hỏi tại sao tôi không ủng hộ doanh nghiệp dệt may Việt Nam lớn mạnh. Câu trả lời như sau: Nếu doanh nghiệp dệt may tiếp tục làm ăn theo cái lối bóc lột lao động giá rẻ đó thì họ sẽ không bao giờ lớn mạnh, ngược lại họ sẽ chỉ làm giàu thêm cho tư bản ngoại quốc. Hiện giờ lợi nhuận của họ thấp là bởi vì một phần lớn chảy vào túi tư bản nước ngoại quốc, thay vì tìm cách đoạt lại cái phần đó từ tay tư bản ngoại quốc thì họ tìm cách chất thêm gánh nặng lên vai người lao động trong nước để bảo vệ chỗ đứng của họ. Sau nữa, khi họ gia tăng sự áp bức quá mức với giai cấp lao động thì người lao động sẽ phản kháng trên quy mô lớn, lúc đó họ dựa vào đâu để duy trì trật tự. Câu trả lời trước hết sẽ là các thế lực đế quốc nước ngoài. Tư bản không có tổ quốc! Đó là khẩu hiệu mà bất cứ nhà tư bản nào cũng thuộc lòng.

Người Mỹ đã lãng quên bài học Việt Nam

Sau ngày 11/9, người Mỹ đã quên bài học mà họ học được ở Việt Nam ra sao? Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "American Sniper vs. The Deer Hunter" của tác giả John F. Miglio. Thông qua bình luận về bộ phim mới "Xạ Thủ Mỹ" và so sánh với bộ phim "Người Săn Nai", tác giả đã đưa ra sự liên tưởng giữa nhận thức của người Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam và nhận thức của người Mỹ trong cuộc chiến Iraq. Tiêu đề do người dịch đặt.

"Xạ Thủ Mỹ và Thợ Săn Nai"
“Có hai loại người trên thế giới này, bạn của tôi: những kẻ nạp đạn vào súng và những kẻ đào mộ.”
— nhân vật do Clint Eastwood thủ vai trong bộ phim The Good, the Bad, and the Ugly 

Xạ Thủ Mỹ là một bộ phim hay về một thanh niên yêu nước lao vào cuộc chiến tranh để thực hiện lý tưởng cứu nước Mỹ khỏi những kẻ xấu.

Mặc dù Clint Eastwood đã thực hiện tốt công việc đạo diễn và Bradley Cooper đã diễn xuất thành công vai chính Chris Kyle, song nhiều cá nhân phê phán bộ phim không phân tích sâu hơn cuộc chiến tranh Iraq hay thậm chí là một chiều và đề cao nhân vật chính.

Chủ đề chính của phim là là câu chuyện về nhân vật và không phải về bản chất cuộc chiến tranh Iraq. Hơn nữa, họ không đặt ra việc đánh giá bản chất cuộc chiến hay nhân vật chính. Thế nên họ để cho khán giả tự đưa ra kết luận.

Đủ cân bằng. Nhưng đây là lúc nó gặp một nguy hiểm nhỏ. Nhà huyền thoại học nổi tiếng Joseph Campell đã có lần ghi nhận rằng chiến đấu với một lý do bất công (gợi nhắc tới những người lính Đức trong thế chiến thứ hai) không làm giảm bớt sự anh hùng của những người lính tin và chiến đấu cho lý do đó.

Theo nghĩa này, phê phán Chris Kyle không thể phủ nhận rằng anh ta là một anh hùng. Thực sự không có khi nào Kyle hoài nghi rằng anh ta đang làm điều không đúng đắn và cuộc chiến tranh Iraq là phi lý.

Trong thực tế, tại buổi lễ chôn cất một trong những đồng đội của anh ta, khi đứng gần vợ, anh ta đã chỉ trích mẹ của người lính chết bởi vì bà thể hiện sự hoài nghi đối với sự đúng đắn của cuộc chiến Iraq và sự phản ứng của nước Mỹ đối với cuộc chiến đó.

Cũng như sau khi anh ta trở về nhà và mắc chứng căng thẳng sau chấn thương, anh ta nói với nhà tâm lý học của VA rằng anh ta vẫn cảm thấy thoải mái về những gì anh ta đã làm trong cuộc chiến và không có gì phải hối tiếc.

Bị đẩy lùi lại phía sau do thiếu nội tâm và không sẵn sàng phá vỡ suy nghĩ tràn đầy tin tưởng của anh ta, bác sĩ tâm thần giới thiệu anh ta với một phòng toàn thương binh. Kyle thấy động lòng trắc ẩn với những bạn đồng ngũ và quyết định tự mình giúp những cựu binh đó trị liệu. Kiểu trị liệu mà Kyle chọn là gì? Đưa mình vào tầm bắn khi một cựu chiến binh khác bình luận anh ta cảm thấy tốt ra sao do anh ta “có can đảm trở lại” sau khi bắn trúng mục tiêu với khẩu súng trường.

Không may mắn và dĩ nhiên là hơn cả nghiệp chướng, cuộc đời thực của một xạ thủ Mỹ, người đoạt mạng hơn 160 người, bị một thương binh mắc chứng căng thẳng sau chấn thương bắn chết trong tầm bắn.

Sự cố này được đề cập trong lời giới thiệu bộ phim và nhấn mạnh lý tưởng của nhân vật chính đã được học từ cha mình khi còn bé: Có ba loại người trên thế giới: cừu, thú săn mồi và chó chăn cừu bảo vệ cừu khỏi thú săn mồi.

Nếu chúng ta theo dõi hết lời tường thuật của bộ phim, Chris Kyle tin rằng anh ta là chó chăn cừu khi còn bé, khi làm bố và khi là người lính và không có bất cứ sự thay đổi hay lung lay nào trong lý tưởng đó, ngay cả khi anh ta cố giúp cựu chiến binh đồng ngũ khôi phục tâm lý sau chiến tranh.

Điều này khiến nhiều khán giả hoài nghi. Một người có thể thiếu nội tâm hay chậm hiểu ra sao? Sao một người có thể giết nhiều người, trong đó có phụ nữ và trẻ em, mà không hoài nghi về sự chính đáng của hành động của anh ta trong sự chính đáng của cuộc chiến tranh Iraq?

Trái ngược với những trải nghiệm đó là Mike Vronsky, nhân vật chính do Robert De Niro thủ vai trong bộ phim năm 1978, Thợ Săn Nai. Vronsky cũng là một thanh niên yêu nước, đến Việt Nam để giết những gã xấu và cứu nước Mỹ.

Nhưng sau khi đi qua cuộc chiến Việt Nam và chứng kiến cũng như tham gia quá mức vào bạo lực, tàn sát và chết chóc, anh ta thấy chúa hiển linh khi quay trở về nhà sau cuộc chiến và đi săn.

Anh ta theo dấu một con nai, đưa nó vào tầm ngắm của khẩu súng trường đầy uy lực, nhưng quyết định để nó sống thay vì bắn bởi vì vào khoảnh khắc đó anh ta nhận ra rằng giết chóc không phải là thể thao và mọi sinh vật sống đều có giá trị.

Không giống Chris Kyle, người dạy con trai mình đi săn sau khi trở về từ Iraq, Vronsky đã thay đổi lý tưởng về giá trị của sự sống và cái chết. Anh ta đã trưởng thành và có lòng trắc ẩn hơn và trở nên nội tâm hơn.

Đây là thông điệp chính của bộ phim và là bình luận trực tiếp về cuộc chiến Việt Nam. Sau cuộc chiến tai họa đó, nhiều người Mỹ tin rằng họ đã học được bài học và sẽ không lặp lại sai lầm tương tự.

Mặc dù vậy, sau ngày 11 tháng 9, nhiều thanh niên (cả nam và nữ) đã quên hết về Việt Nam (hoặc chưa bao giờ học được điều đó, như Gore Vidal thường nói) có khuynh hướng nhập ngũ để giết những gã xấu ở Iraq.

Dĩ nhiên là vào lúc đó, có nhiều người hoài nghi về cuộc chiến Iraq, nhưng chính quyền Bush và truyền thông chính thống chế tạo và bán một lý tưởng phù hợp cho tinh thần của người Mỹ, như tốt đối đầu xấu, Do Thái/Thiên Chúa Giáo đối đầu Hồi Giáo. Để chốt hợp đồng và củng cố lý tưởng, họ đưa ra những cảnh báo giả mạo về vũ khí hủy diệt hàng loạt và đám mây nguyên tử hình nấm.

Nhà triết học đương đại và nhà phê bình văn hóa đại chúng vô song người Slovenia Slavoj Zizek thường bình luận về sức mạnh của lý tưởng, nó thường lấn át lý do, logic, sự thật và hiện thực khi nó khiến một cá nhân đưa ra quyết định thay đổi cuộc sống.

Ít nhất Chis Kyle đã can đảm với sự kết án của anh ta, điều đó đưa anh ta tiến một bước khổng lồ vượt qua những con gà của phái diều hâu như George W. Bush, Dick Cheney và tất cả những gã tân bảo thủ khác, những kẻ đã trốn quân dịch trong cuộc chiến Việt Nam nhưng lại đẩy quốc gia vào một cuộc chiến vô nghĩa ở Iraq, giết hại hàng ngàn người Mỹ và hàng trăm ngàn người Iraq.

Câu hỏi là tại sao một số người thực sự có thể nhận ra một lý tưởng sai lầm cũng như thay đổi và tại sao một số khác không thể. Dĩ nhiên chúng ta nên hỏi George W. Bush và Dick Cheney.

Đã quá muộn để đặt ra câu hỏi đó cho Chris Kyle.

John F. Miglio is the author of the dystopian novel “Sunshine Assassins” and the editor of “The Online Review of Books & Current Affairs.” He can be reached at onreview@comcast.net.

Friday, January 16, 2015

Những người lượm ve chai ở thiên đường

Bạn nghĩ nước Mỹ là thiên đường, nơi những người lượm ve chai cũng có nhà riêng và xe hơi? Xin mời theo dõi bản dịch bài viết "Working Hard in America’s Twilight Economy" của tác giả Don Santina để hiểu hơn về cuộc sống của những người ở tận cùng của xã hội. Tiêu đề do người dịch đặt.

Làm việc vất vả trong nền kinh tế suy thoái của Hoa Kỳ

Trời mới sập tối sau 5h chiều ngày mùa đông và nhiệt độ hạ xuống nhanh chóng. Ở trung tâm thành phố của Oakland, tôi nhìn thấy những tòa nhà văn phòng đang nhả ra những cư dân hàng ngày của chúng, với áo choàng quấn chặt quanh người, họ hối hả chạy đến các chỗ đỗ xe, điểm dừng xe bus, trạm BART trên đường về nhà ở các khu dân cư trong thành phố hoặc ngoại ô Orinda và Danville.

Xa hơn về phía tây của thành phố, những người lượm ve chai đổ xô đến trung tâm tái chế ở Peralta, nơi sẽ trả họ tiền mặt cho những hàng hóa mà họ đã thu lượm được. Họ đẩy và kéo những xe đẩy hàng siêu thị rỉ sét chứa đầy chai lọ, vỏ hộp và các đồ phế thải tới tòa nhà, trước khi cánh cửa cuốn bằng thép sập xuống và chấm dứt việc thanh toán tiền mặt hàng ngày.
Một người lượm ve chai ở thiên đường
Nguồn: Internet

“Jeez, lúc đó tôi nghĩ là thứ bảy,” Harry nói với tôi vào sáng thứ sáu. “Tôi phải đẩy xe nhanh hơn vì họ đóng cửa sớm hơn vào thứ bảy.”

Harry là một người đàn ông gày gò ở độ tuổi 50 và có vấn đề về phổi. Bảo hiểm xã hội của ông không đủ để chi trả cho nhu cầu của ông, thế nên ông ấy có mặt hàng ngày trên đường phố để thu gom bất cứ thứ gì mà trung tâm tái chế mua. Ông ấy đeo một chiếc găng tay len và một chiếc găng tay da bởi vì đó là tất cả những gì mà họ có được từ thùng quần áo miễn phí ở cạnh nhà thờ. Vào lúc chiều muộn, ông ấy sẽ đi bộ vài dặm đường và sau đó đẩy xe mua hàng siêu thị của ông tới Peralta để bán: 1,59 dollar cho 0,45kg vỏ hộp, 10,5 xu cho 0,45 kg thủy tinh. 

“Rất nhiều người trong khu dân cư biết tôi và để đồ của họ lại cho tôi, nhưng vẫn rất khó khăn. Hiện giờ trời tối vào buổi sáng và buổi chiều,” ông cười. Một trong những “khách hàng” tốt nhất của ông là quán bar, họ để các vỏ chai bia rỗng ở lối đi phía sau nhà.

Gia đình Minh thường làm việc trên các ngọn đồi của Oakland nhưng họ đã biến mất. Trong đêm trước ngày gom rác, nhóm của người chồng trung tuổi và vợ nặng nề đi qua lại các đường phố dốc đứng, nhặt nhạnh trong các thùng rác trên vỉa hè, chủ yếu là các vỏ hộp nhôm. Vào lúc hoàng hôn, họ gánh những túi đầy vỏ hộp với một chiếc đòn gánh tre tới Broadway. Sau khi tìm được một khu vực thích hợp, họ dẫm bẹp những chiếc vỏ hộp và đi bộ với gánh nặng dễ mang hơn tới người mua hàng cách đó 5 dặm đường.

Dường như tầng lớp sang trọng trên đồi trở nên quá nóng nảy vì những kẻ trộm danh tính, tuần tra tư nhân và các cảnh sát lười biếng đã đuổi gia đình Minh và những người khác giống như họ ra khỏi khu vực đó.

Trong lịch sử nông nghiệp, những người thu gom phế thải được phép nhặt nhạnh những gì sót lại trên cánh đồng đã gặt hái. Trong nhiều trường hợp, những người thu gom là phụ nữ, tranh giành nhau để nuôi sống gia đình trong những xã hội mà cán cân quyền lực và sở hữu đất đai được bảo vệ bằng vũ lực bởi một nhóm nhỏ những người đặc quyền. Một trong những cuốn sách ngắn nhất mà trong đó những người Thiên Chúa Giáo liên hệ tới Kinh Cựu Ước là câu chuyện về Ruth, người nhặt rác. Ruth là một bà góa nghèo khổ, phải đi nhặt rác để kiếm sống, “bà nhặt nhạnh trên cánh đồng cho đến khi sạch nhẵn và nhận ra rằng bà đã nhặt nhạnh xong … và bà cầm chúng lên và đi tới thành phố.”

Trong Kinh Tân Ước, Jesus xứ Nazareth và các học trò cũng thực hành việc nhặt nhạnh trên đường đi. Thánh Tông Đồ Mark viết rằng Jesus “đi qua cánh đồng lúa mì vào ngày Sabbath; các môn đệ của ông bứt những bông lúa như họ vẫn thường làm.” Khi bị người Pharisee kết tội vi phạm luật lệ, Jesus trả lời, “các anh có đọc về điều mà David làm khi ông ấy đói, ông ấy và những người đi cùng với ông ấy?”

Li-Hua là một bà già nhỏ bé làm việc tại chỗ đỗ xe của quầy bán đồ ăn nhanh, các nhà hàng và tiệm tạp hóa quanh Hồ Merritt. Đôi găng tay quá khổ của bà gần như trùm đến khuỷu tay, bà ấy kéo theo sau một chiếc xe đẩy hàng loại gấp lại được mà người ta thường mang theo đến siêu thị. Bà ấy đeo một chiếc đèn thợ mỏ bên ngoài mũ trùm đầu, thứ giúp bà phát hiện ra các đồ nhôm trước khi ánh sáng mặt trời và những người nhặt rác khác tới. 

Robert là một cựu chiến binh Chiến Tranh Vùng Vịnh, ông thường đi quanh với chiếc xe đạp không chỉnh số cũ kỹ. Robert có khiếu về phong cách và thiết kế. Ông dựng gắn một thùng xe vào chiếc xe đạp để chở những thứ mà ông ấy nhặt nhạnh được tại khu dân cư quanh bệnh viện Kaiser và các trạm xăng trong bán kính 1 dặm. Robert kiếm được vài hộp sơn xịt nên ông ấy có thể sơn các vật dụng thành màu đen và vàng. Mọi thứ trông ổn.

“Tôi lo ngại về quan tòa, anh ạ,” Gregory nói với tôi. “Anh nói với ông ấy là tôi vẫn sạch.”

Tôi đọc ở đâu đó rằng Jamie Dimond, lãnh đạo của JP Morgan Chase, kiếm được 9.000 dollar mỗi giờ trong thời gian công ty của ông ta phạm hàng sa số các tội tài chính, trong đó có việc đánh cắp nhà cửa của người dân và phá hoại nền kinh tế. Mặc dù vậy, ngày nay, phát thanh viên trên các mạng lưới và truyền hình cáp tuyên bố rằng “kinh tế đang hồi phục,” và mạnh hơn bao giờ hết. Thị trường chứng khoán tiếp tục tăng trưởng; kinh doanh bùng nổ.

Vào một ngày tốt lành, Robert người nhặt rác kiếm được 8 dollar. 

Don Santina can be reached at lindey89@aol.com. His enovel, “A Prize for All Saints,” features a one-armed veteran suffering from PTSD.

Tuesday, January 13, 2015

Bạn biết gì về bất bình đẳng ở nơi giàu nhất thế giới?

Bạn muốn biết bất bình đẳng ở nước giàu nhất thế giới ra sao? Xin mời theo dõi bản dịch bài viết "How Much Do You Know About Inequality?" của tác giả Bill Quigley.

Bạn biết gì về bất bình đẳng?

Vô gia cư ở Thiên Đường
Nguồn: Internet.


Câu hỏi 1. Vào năm 1990, 20% số trẻ em Hoa Kỳ sống trong sự nghèo khổ. Hiện nay có bao nhiêu % trẻ em ở Hoa Kỳ sống trong nghèo khổ?

A: 10%

B: 15%

C: 20%

Câu hỏi 2. Trung vị thu nhập của hộ gia đình da màu ở Hoa Kỳ là 11.000 dollar. Trung vị thu nhập của hộ gia đình da trắng là bao nhiêu? 

A: 22.000 dollar

B: 62,000 dollar

C: 141,000 dollar

Câu hỏi 3. Vào năm 1960, trung vị thu nhập của phụ nữ làm việc toàn thời gian trọn 1 năm bằng khoảng 60% của nam giới. Vào năm 2010, trung vị thu nhập của phụ nữ bằng khoảng 77% của nam giới. Với tỷ lệ đó thì đến năm nào trung vị thu nhập của phụ nữ sẽ ngang bằng với nam giới? 

A: Năm 2028

B: Năm 2038

C: Năm 2058

Câu hỏi 4. Một giám đốc điều hành trung bình nhận được mức lương cao gấp 20 lần một công nhân trung bình vào năm 1965, 30 lần vào năm 1978 và 122 lần vào năm 1995. Một giám đốc điều hành sẽ nhận được lương gấp bao nhiêu lần công nhân vào năm 2013? 

A: 195 lần.

B: 245 lần.

C: 295 lần.

Câu hỏi 5. Sáu người thừa kế nhà Walton chia nhau tài sản trị giá 140 tỷ dollar của hãng Walmart. Giá trị tài sản ròng của sáu người này tương đương với bao nhiêu hộ gia đình Hoa Kỳ? 

A: 5 triệu.

B. 25 triệu.

C. 52 triệu.

Câu hỏi 6. Hoa Kỳ đứng nhất thế giới về chi tiêu quân sự. Hoa Kỳ chi tiêu nhiều hơn các quốc gia khác như thế nào? 

A: Hơn Trung Quốc và Nga cộng lại.

B. Hơn Trung Quốc, Nga, Saudi Arabia, và Pháp cộng lại.

C. Hơn Trung Quốc, Nga, Saudi Arabia, Pháp, Anh Quốc, Đức, Nhật Bản và Ấn Độ cộng lại. 

Câu hỏi 7. Bao nhiêu người trên thế giới phải chịu đói kinh niên? 

A: 40 triệu.

B. 400 triệu.

C. 840 triệu.

Câu hỏi 8. Bao nhiêu người trên thế giới không tiếp cận được nguồn điện? 

A: 840 triệu.

B: 1 tỷ.

C. 1 tỷ 500 triệu.

Câu hỏi 9. Hoa Kỳ chi bao nhiêu cho viện trợ nước ngoài hàng năm? 

A: 1 tỷ dollar.

B: 10 tỷ dollar.

C. 46 tỷ dollar.

Câu hỏi 10. Hàng năm, Người Mỹ chi bao nhiêu tiền cho thú nuôi? 

A. 1 tỷ dollar.

B. 40 tỷ dollar.

C. 60 tỷ dollar.

Câu hỏi 11. Chính quyền liên bang thống kê về thanh thiếu niên nam giới, từ 15 đến 19 tuổi, bị cảnh sát giết hại. Thanh thiếu niên da màu bị cảnh sát giết hại gấp bao nhiêu lần thanh thiếu niên da trắng? 

A: 3 lần.

B: 10 lần.

C: 21 lần.

Câu hỏi 12. Có 60.000 vụ án nhập cư về trẻ em vô thừa nhận vượt qua biên giới Hoa Kỳ. Tỷ lệ số vụ trẻ em có luật sư là bao nhiêu? 

A: 95%.

B: 50%.

C. 32%.

Câu hỏi 13. Có 34 nước trong Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế. Hoa Kỳ xếp hạng bao nhiêu về tỷ lệ trẻ em nghèo khổ trong số các nước đó? 

A: Hoa Kỳ đứng thứ 1 và có tỷ lệ trẻ em nghèo khổ thấp nhất. 

B: Hoa Kỳ đứng thứ 6 và có tỷ lệ trẻ em nghèo khổ ít thứ sáu .

C. Hoa Kỳ đứng thứ 28 và đứng thứ 6 từ dưới lên về tỷ lệ trẻ em nghèo khổ. 

Câu hỏi 14. Có bao nhiêu người ở trong nhà tạm cho người vô gia cư hàng đêm? 

A: 250.000

B: 400.000

C: 570.000

Câu hỏi 15. Bộ Nhà ở và Phát Triển Đô Thị (HUD) thực hiện một điều tra quốc gia hàng năm về mức giá thuê nhà thị trường công bằng cho tất cả các hạt ở Hoa Kỳ. HUD ước lượng người thuê nhà phải trả không hơn 30% thu nhập của họ cho chi phí nhà ở. Tại bao nhiêu bang trong số 50 bang của Hoa Kỳ thì một người làm việc toàn thời gian và nhận mức lương tối thiểu liên bang có thể trả 30% thu nhập và kiếm được một căn hộ hai phòng ngủ với mức giá thuê nhà thị trường công bằng? 

A: 5

B. 2

C. 0

Câu trả lời:

Câu 1. 20% trẻ em ở Hoa Kỳ sống dưới mức nghèo khổ chính thức theo Báo Cáo Thống Kê mới nhất. Vào năm 1990, cũng có 20% trẻ em sống dưới mức nghèo khổ. 

Câu 2. Trung vị thu nhập của hộ gia đình gia trắng ở Hoa Kỳ là 141.000 dollar. Pew Research.

Câu 3. Phụ nữ có trung vị thu nhập bằng nam giới vào năm 2058. 

Câu 4. Giám đốc điều hành của công ty thuộc nhóm S&P 500 nhận được lương gấp 295 lần một công nhân trung bình. Báo cáo của Viện Chính Sách Kinh Tế năm 2014.

Câu 5. Sáu người thừa kế nhà Walton sở hữu số của cải ngang với 52,5 triệu hộ gia đình Hoa Kỳ. EPI.

Câu 6. Hoa Kỳ chi tiêu cho quân sự nhiều hơn Trung Quốc, Nga, Saudi Arabia, Pháp, Anh Quốc, Đức, Nhật Bản và Ấn Độ cộng lại. Peter G. Peterson Foundation.

Câu 7. Liên Hiệp Quốc đưa tin có 842 triệu người phải chịu đói kinh niên. Báo cáo Phát Triển Liên Hiệp Quốc 2014.

Câu 8. Có 1,5 tỷ người trên thế giới không tiếp cận được nguồn điện và một tỷ người khác phải tiếp cận các mạng lưới điện không đáng tin cậy. United Nations Foundation.

Câu 9. Ngân sách của Hoa Kỳ cho viện trợ nước ngoài vào năm 2015 là 46,2 tỷ dollar, chiếm 1% ngân sách Hoa Kỳ, phần nhiều là viện trợ quân sự. Bộ Ngoại Giao.

Câu 10. Bộ Lao Động Hoa Kỳ cho biết hàng năm người Mỹ chi khoảng 61,4 tỷ dollar cho thú nuôi. 

Câu 11. 21 lần. Pro Publica.

Câu 12. 32%. Trẻ em trong các vụ án nhập cư, cũng giống như người trưởng thành trong các vụ án nhập cư, không được quyền có luật sư. Báo cáo của đại học Syracuse.

Câu 13. Hoa Kỳ xếp hạng 28, thứ 6 từ dưới lên trong số 34 nước OECD về tỷ lệ trẻ em nghèo khổ.

Câu 14. Hơn 570.000 ở trong các nhà tạm cho người vô gia cư mỗi đêm, theo điều tra mới nhất của chính quyền liên bang.

Câu 15. Không ở bất cứ bang nào mà một công nhân làm việc toàn thời gian với lương tối thiểu có thể chi trả được cho một căn hộ hai phòng ngủ với 30% thu nhập. Trên thực tế thì một công nhân làm việc toàn thời gian với mức lương tối thiểu thậm chí không thể chi trả nổi cho căn hộ một phòng ngủ, ngoại trừ ở một số hạt của Washington và Oregon, nơi có mức lương tối thiểu cao hơn. USA Today.

Bill Quigley teaches law at Loyola University New Orleans and can be reached at quigley77@gmail.com

Sunday, January 11, 2015

Tôi mệt mỏi với hội chứng sợ Hồi Giáo

Sau vụ thảm sát ở tòa soạn báo Charlie Hebdo, truyền thông chính thống đã nhanh chóng cuốn người theo dõi vào hai thái cực đối lập nhau dựa trên định kiến về tự do ngôn luận. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "4 Reasons Why ‘Je Suis Fatigue’ From Islamophobia" của tác giả Khalishah K. Stevens để thấy vấn đề ở một góc nhìn rộng hơn những định kiến.Tiêu đề do người dịch đặt.

Bốn lý do khiến “Je Suis Fatigue” [Tôi Mệt Mỏi] với hội chứng sợ Hồi Giáo

Sau vụ những vụ tấn công ở Paris, khó có thể là một người Hồi Giáo cũng như có thể đau buồn về những nạn nhân của vụ tấn công tờ Charlie Hebdo khi sự chú ý toàn cầu lại một lần nữa hướng vào việc bạn lên án ra sao, do những kẻ thủ ác làm việc đó với danh nghĩa tôn giáo của bạn.

Đây là một số lý do khiến người Hồi Giáo ôn hòa kiệt sức và mệt mỏi bởi những sự kiện vừa qua.

1. Người Hồi Giáo cần phải lên án/chịu trách nhiệm về các vụ giết người ngay!

Người Hồi Giáo phải lên án hành động của tất cả những kẻ cực đoan do những kẻ cực đoan gây tổn thương cho người Hồi Giáo nhiều hơn bất cứ nhóm nào khác. Bạn nghĩ ai bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi sự tồn tại của Al Qaeda, Boko Haram, hải tặc Somali và ISIS? Hầu hết người Hồi Giáo, sau đó là các sắc tộc thiểu số khắp vùng Trung Đông và Châu Á như người Thiên Chúa Giáo từ Mosul và người Yazidis, cuối cùng là những người dân vô tội ở phương Tây. Nếu bất cứ ai muốn ngăn chặn những kẻ cực đoan, người Hồi Giáo sẽ là NGƯỜI ĐẦU TIÊN hưởng lợi từ việc xóa sổ những nhóm đó. 

Việc chủ nghĩa cực đoan thường nhật xảy ra trong thế giới thứ ba của chúng ta chỉ có giá trị tin tức khi xuất hiện ở thế giới thứ nhất. Khi điều đó xảy ra, truyền thông nhanh chóng quay lại và yêu cầu người Hồi Giáo xin lỗi, như là một nhóm tập thể đồng nhất, để bảo vệ bản thân và giữ khoảng cách với những kẻ điên khùng đang làm tổn thương chúng ta.

Hãy quên đi chủ đề sâu sắc về việc chủ nghĩa cực đoan phát triển từ những quyết định chính sách đối ngoại nghèo nàn của những kẻ hiếu chiến ở Hoa Kỳ và Anh Quốc, hay những tàn dư của chủ nghĩa thuộc địa. Chúng ta là người Hồi Giáo bị quở trách và chịu trách nhiệm hoàn toàn về hành động của những kẻ cực đoan bởi vì họ tự nhận một cách không chính xác là Hồi Giáo.

Tội liên đới, tất cả 1,6 tỷ người chúng ta.

Trong trường hợp bạn quên mất điều đó, thì có tin tức mới nhất – ISIS đã giết tất cả mọi người, trong đó có cả những người Hồi Giáo vô tội. Những kẻ cực đoan nhằm vào tờ Charlie Hebdo bởi vì tờ báo đặc biệt ồn ào và rất khó chịu về Hồi Giáo, điều đó dẫn tôi tới điểm tiếp theo: 

2. Những tay súng cực đoan nhằm vào Charlie Hebdo bởi vì họ chống lại tự do ngôn luận.

Truyền thông tường thuật rằng động cơ của các tay súng khi tấn công tờ Charlie Hebdo là bởi vì họ chống lại tự do ngôn luận. Tấn công tự do ngôn luận là vấn đề quá rộng và mập mờ để kẻ cực đoan phản đối. Nhưng tường thuật đã đi theo cách đó, bởi vì đó không phải là sự đơn giản tuyệt đẹp sao? 

Người Hồi Giáo cũng hưởng lợi từ tự do ngôn luận. Có nhiều ví dụ về việc người Hồi Giáo có thể hưởng lợi từ tự do ngôn luận hay các quyền dân sự khi họ bị giam giữ ở sân bay hay bị đưa tới Vịnh Guantanamo hay bị từ chối tiếp cận luật sư.

Những người bị bắn ở Charlie Hebdo là vô tội và không đáng phải chết, họ cũng thúc đẩy hiện trạng đối mặt với hội chứng sợ Hồi Giáo, chủ nghĩa bài Do Thái và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Không có nhưng mà, không lên án nạn nhân, họ không tôn trọng và có quyền như vậy, cũng như không đáng phải chết vì khiếm nhã. Rất nhiều người nỗ lực để hiểu sự việc theo cách này ngay sau vụ nổ súng, song đó là sự thật 

Những người ở Charlie Hebdo không nên được coi như những thánh tử vì đạo của tự do ngôn luận, bởi vì điều đó gây tổn thương cho quyền tự do ngôn luận cũng như các nhà báo và các tù nhân chính trị thực sự can đảm theo cách riêng đối với những chính quyền đã trừng phạt bạn nhiều lần về việc phát ngôn chống lại chính quyền. Charlie Hebdo viết và vẽ một cách thoải mái trong văn phòng của họ ở Paris, không tường thuật về những tội ác chiến tranh ở thế giới thứ ba. Ngay cả ở Pháp thì những châm biếm của họ cũng không động tới những vấn đề xã hội quan trọng như Jonathan Swift đề cập trong “Một đề xuất hiện đại nhất”, hay đưa ra các câu hỏi chính trị giống như nghệ sĩ châm biếm Stephen Colbert đưa ra trong “Tường Thuật của Colbert”. Trái lại, Charlie Hebdo vẽ các biểu tượng tôn giáo trong các tư thế khiêu dâm trắng trợn và vẽ biếm họa một chính khách da màu giống như một con khỉ. Làm sao có thể coi những điều đó bắt nguồn từ nguyên nhân cao quý về tự do ngôn luận? 

Charlie Hebdo có quyền tự do ngôn luận tuyệt vời, nhưng tôi sẽ không nói rằng họ đứng về phía quyền tự do ngôn luận. Nếu có bất cứ điều gì cần nói, thì nội dung của họ gần gũi hơn với ghét ngôn luận. Châu Âu đang trải qua một pha chuyển đổi sang chính trị cánh hữu khi gặp làn sóng nhập cư từ các quốc gia bị chiến tranh xé nát, và thay vì tạo ra đối thoại về cách xây dựng một nền tảng đa văn hóa hài hòa ở Paris hay vấn đề nhập cư có thể được giải quyết theo cách nào khác, các họa sĩ truyện tranh của Charlie Hebdo chú tâm vào việc tạo ra hội chứng sợ Hồi Giáo và các nội dung phân biệt chủng tộc. Ở nhiều nước thuộc thế giới thứ nhất thì Charlie Hebdo sẽ không được xuất bản bởi vì nội dung của nó rất hung hãn, trắng trợn, kinh tởm như chủ định của nó. 

3.Bạn là #JeSuisCharlie [Tôi Là Charlie] hay bạn là #JeNeSuisPasCharlie [Tôi Không Là Charlie]

Cuộc tranh luận về vụ nổ súng ở Charlie Hebdo đã chia thành hai thái cực, hoặc bạn là #JeSuisCharlie hoặc là #JeNeSuisPasCharlie. Bạn ủng hộ chúng tôi hoặc chống lại chúng tôi. Bạn ủng hộ ISIS và chống lại tự do ngôn luận hoặc bạn ủng hộ tự do ngôn luận và sợ Hồi Giáo/phân biệt chủng tộc/bài ngoại.

Vào lúc khủng hoảng, khi sự đoàn kết và hiểu biết quan trọng hơn khi nào hết, thì người ta lại bị buộc phải lựa chọn giữa việc đề cao các họa sĩ truyện tranh kinh tởm, những người không đáng phải chết và việc chống lại các họa sĩ truyện tranh kinh tởm và với nguy cơ bị coi là không đồng cảm với cái chết của họ.

4. Bạn có thể là #JeSuisAhmed [Tôi Là Ahmed]

#JeSuisAhmed bắt đầu trở thành mốt khi bản tin mới nhất cho biết một trong số các viên chức bị giết hại là người Hồi Giáo, sau khi một dòng tweet súc tích xuất hiện, một dòng tweet viết, “Tôi không phải là Charlie, tôi là cảnh sát Ahmed đã chết. Charlie nhạo báng niềm tin và văn hóa của tôi và tôi chết để bảo vệ quyền được làm điều đó của họ.” Đối với những người vẫn còn hoài nghi về việc người Hồi Giáo lên án bạo lực, họ nên nhớ rằng viên chức đầu tiên phản ứng và chết để bảo vệ Charlie là người Hồi Giáo. Đối với những người tiếp tục hoài nghi về việc người Hồi Giáo đứng đâu khi chủ nghĩa khủng bố xuất hiện, họ hãy nhớ việc Malala Yousefzai sống sót trước Taliban để thúc đẩy giáo dục cho các bé gái. Người Hồi Giáo lên án chủ nghĩa khủng bố bởi vì chúng chống lại việc giảng dạy Đạo Hồi và họ thường xuyên là nạn nhân của chúng, không chỉ ở phương Đông mà còn cả ở phương Tây. Các nhà thời Hồi Giáo vừa mới bị tấn công ở Pháp sau sự cố Charlie Hebdo và một luật sư nhân quyền quốc tế hàng đầu đã bị hỏi là có ủng hộ ISIS không, chỉ bởi vì ông ta là người Hồi Giáo.

Chủ nghĩa cực đoan tiếp tục được những người đang hoang mang trong những cộng đồng bên lề xã hội dựa vào do định kiến và sự thiếu khoan dung mà họ phải đối mặt để vượt qua cuộc sống hàng ngày ở Châu Âu và Hoa Kỳ, và những người hoang mang bị biến thành cực đoan khi sự tồn tại khốn khổ dưới máy bay không người lái, quân sự hóa và chiếm đóng, đẩy họ đến với các biện pháp vô vọng. Sự tiến bộ trong việc chống lại chủ nghĩa khủng bố chỉ diễn ra khi chúng ta nhận diện được nguyên nhân gốc rễ, và không tấn công con người thông qua những liên hệ tôn giáo mỏng manh.

Thế nên nếu bạn gặp một người Hồi Giáo trong những tuần tiếp theo và bạn muốn nói với họ về vụ nổ súng ở Charlie Hebdo, hãy bắt đầu với giả định là họ cũng cùng phía với bạn. Nếu không, hãy nghiêm túc để người Hồi Giáo được yên, chúng ta có một cuộc chiến khó khăn để bảo vệ danh tiếng của 1,6 tỷ người khỏi một nhúm kẻ mất trí.

Khalisah K. Stevens is an American-Malaysian living in the Middle East. A graduate with a degree in International Relations and a minor in History, she follows current events and gender issues and champions multiculturalism to create a space for third culture kids (TCKs) like her.

Thursday, January 8, 2015

Charlie Hebdo không phải là hình mẫu về tự do ngôn luận

Những tay súng Hồi Giáo đã sát hại mười hai người trong tòa soạn báo Charlie Hebdo vì đăng những truyện tranh châm biếm Đấng Tiên Tri. Liệu việc đó có đe dọa quyền tự do ngôn luận hay tự do báo chí? Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch "What to Say When You Have Nothing to Say?" của tác giả Diana Johnstone để biết thêm chi tiết. Tiêu đề do người dịch đặt.

Biết nói gì khi bạn chẳng có gì để nói?

Paris.

Bạn sẽ nói gì khi chẳng có gì để nói?

Đó là tình thế lưỡng nan đột nhiên xảy ra với các lãnh đạo chính trị và các biên tập viên ở Pháp sau khi ba tay súng đeo mặt nạ xông vào văn phòng của tờ tuần báo châm biếm Charlie Hebdo và thảm sát một tá người. 
Một trang bìa châm biếm Mohamed của tờ Charlie Hebdo
Nguồn: Internet
Các sát thủ trốn thoát. Nhưng không lâu. Những sát thủ đó được vũ trang tốt. Charlie Hebdo thường xuyên nhận được các đe dọa giết kể từ khi họ xuất bản truyện tranh chế nhạo Đấng Tiên Tri Mohamed nhiều năm trước đây. Nhưng cuộc tranh luận dường như đã bị quên lãng, số lượng phát hành hàng tuần đã suy giảm (giống như báo chí nói chung) và sự bảo vệ của cảnh sát đã được nới lỏng. Hai cảnh sát canh gác bị các tay súng bắn hạ đơn giản trước khi họ xông vào văn phòng, giữa cuộc họp của ban biên tập. Hiếm khi có nhiều họa sĩ truyện tranh và nhà văn có mặt vào lúc đó. Mười hai người bị hạ sát bằng vũ khí tự động, và mười một người khác bị thương, một số bị thương nặng.

Thêm vào đó có họa sĩ truyện tranh Charb (Stéphane Charbonnier, 47 tuổi), hiện đang là tổng biên tập của tạp chí, trong số các nạn nhân có hai họa sĩ truyện tranh nổi tiếng ở Pháp: Jean Cabut (76 tuổi), Georges Wolinski (80 tuổi). Một vài thế hệ đã trưởng thành cùng với Cabu và Wolinski, những người thiểu số hòa nhã theo quan điểm cánh tả của Pháp.

Khi những tay súng bỏ đi, một sát thủ quay lại để kết liễu viên cảnh sát bị thương nằm trên đường phố. Họ dừng lại và hét to: “Đấng Tiên Tri đã được báo thù!” Sau đó họ bỏ trốn về hướng khu vực ngoại ô phía đông nam.

Đám đông tụ tập tự phát ở quảng trường Cộng Hòa Paris, không xa con phố nhỏ nơi Charlie Hebdo đặt văn phòng. Dũng cảm, những khẩu hiệu sai lầm giương cao: “Chúng ta là Charlie!” Nhưng họ không phải. “Charlie đang sống!” Không, không phải. Họ vừa mới bị xóa sổ. 

Mọi người đều bị sốc. Điều đó xảy ra không hề có lời nói nào. Đó là những kẻ giết người máu lạnh, một tội ác không thể tha thứ. Điều đó cũng diễn ra không hề có lời nói nào, nhưng mọi người sẽ nói về nó. Mọi người sẽ nói nhiều thứ hơn, như “chúng ta sẽ không cho phép những kẻ Hồi Giáo cực đoan đe dọa chúng ta và tước đoạt quyền tự do ngôn luận”, và những điều tương tự. Tổng thống François Hollande khẳng định một cách tự nhiên rằng nước Pháp thống nhất chống lại các sát thủ. Các phản ứng ban đầu đối với vụ thảm sát là có thể dự đoán được. “Chúng ta sẽ không bị đe dọa! Chúng ta sẽ không từ bỏ tự do của mình!”

Có và không. Chắc chắn là ngay cả những kẻ cuồng tín tôn giáo nhất cũng không thể tưởng tượng rằng vụ thảm sát những nhà châm biến có thể cải đạo nước Pháp sang Hồi Giáo. Kết quả này dẫn đến điều ngược lại: một sự thúc đẩy đối với quan điểm chống Hồi Giáo đang gia tăng. Nếu đây là một sự khiêu khích, thì sự khiêu khích là gì? Nó sẽ khiêu khích cái gì? Nguy cơ rõ ràng là giống như sự kiện ngày 11 tháng 9, nó có thể dẫn tới sự gia tăng giám sát của cảnh sát, và do đó làm suy yếu sự tự do của người Pháp, không phải theo cách mà các sát thủ tìm kiếm (hạn chế tự do chỉ trích Hồi Giáo) mà theo cách các quyền tự do bị hạn chế trong thời kỳ hậu 11 tháng 9 ở Mỹ, bằng cách bắt chước Luật Yêu Nước.

Về mặt cá nhân, tôi không bao giờ thích những trang bìa khiêu khích của Charlie Hebdo, nơi các bức tranh xúc phạm Đấng Tiên Tri – hay là về Jesus – được đăng tải. Đó là vấn đề về khẩu vị. Tôi không cho rằng những bức vẽ tục tĩu, bẩn thỉu là những lý lẽ có hiệu quả, bất kể là chống lại tôn giáo, hay nhà cầm quyền nói chung. Đó không phải là thứ tôi quan tâm.

Những người bị sát hại đáng giá hơn Charlie Hebdo. Các tác phẩm của Cabu và Wolinski xuất hiện trong nhiều ấn bản và được biết đến bởi những công chúng chưa bao giờ mua Charlie Hebdo. Các nghệ sĩ và nhà văn trong buổi họp biên tập đều có tài năng và chất lượng, họ không liên quan gì đến các truyện tranh “báng bổ”. Tự do báo chí cũng là tự do trở thành tầm thường và ngớ ngẩn hết lần này đến lần khác.

Charlie Hebdo không phải là một hình mẫu về tự do ngôn luận trong thực tế. Họ đã kết thúc, giống như “cánh tả nhân quyền”, thứ bảo vệ các cuộc chiến do Hoa Kỳ chỉ huy chống lại “các nhà độc tài”.

Vào năm 2002, Philippe Val, tổng biên tập hồi đó, đã lên án Noam Chomsky về chủ nghĩa bài Hoa Kỳ và sự phê phán quá mức đối với Israel cũng như đối với truyền thông chính thống. Vào năm 2008, một họa sĩ truyện tranh nổi tiếng khác của Hebdo, Siné, viết trong một đoạn ghi chép ngắn trình bày một tác phẩm mới về việc con trai Jean của tổng thống Sarkozy sẽ cải sang đạo Juda để cưới nữ thừa kế của chuỗi cửa hàng thiết bị nhà bếp giàu có. Siné đã bị Philippe Val sa thải với lý do “bài Do Thái”. Sau đó Siné đã nhanh chóng sáng lập ra một tờ tạp chí cạnh tranh và lấy đi của tờ Charlie Hebdo nhiều độc giả, nổi loạn về tiêu chuẩn kép của tờ Charlie Hebbdo.

Nói ngắn gọn, Charlie Hebdo là một ví dụ cực đoan về thứ đang diễn ra trong ranh giới “đúng đắn chính trị” của cánh tả Pháp hiện thời. Nực cười là vụ sát hại của các sát thủ Hồi Giáo vừa qua đã đột nhiên thánh hóa biểu hiện tăng cường của sự nổi loạn tuổi dậy thì kéo dài, thứ đã đánh mất bề ngoài hấp dẫn, trên khẩu hiệu vĩnh cửu về Tự Do Báo Chí và Tự Do Biểu Đạt. Bất kể là những kẻ sát nhân có ý định gì, đó là điều họ đã làm được. Cùng với việc giết hại những người vô tội, họ chắc chắn khoét sâu cảm giác về sự hỗn loạn đẫm máu trong thế giới này, làm trầm trọng thêm sự bất đồng giữa những nhóm sắc tộc ở Pháp và Châu Âu, và không hoài nghi gì nữa, đạt tới một kết quả độc ác khác. Trong thời đại của sự hoài nghi, các thuyết âm mưu chắc chắn được làm giàu thêm.

Diana Johnstone is the author of Fools’ Crusade: Yugoslavia, NATO, and Western Delusions. Her new book, Queen of Chaos: the Misadventures of Hillary Clinton, will be published by CounterPunch in 2015. She can be reached at diana.johnstone@wanadoo.fr

Tuesday, January 6, 2015

Nhà tù địa ngục và công viên giải trí

Nhà tù kinh khủng nhất nước Mỹ đã bị đóng cửa từ lâu và bị biến thành một công viên giải trí, nhưng những gì nó đã tạo ra và những di sản của nó trong hệ thống nhà tù hiện tại của nước Mỹ khó có thể bị lãng quên. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Alcatraz: Prison as Disneyland" của tác giả Chris Hedges để biết thêm chi tiết. Bài viết được đăng trên trang 3 của tạp chí Coldtype số 92 ra tháng 1 năm 2015. Tiêu đề do người dịch đặt lại.

Alcatraz: Nhà tù thành Disneyland

Tôi đi phà từ cầu tàu số 33 ở bến tàu San Francisco tới Alcatraz. Tôi bước lên hòn đảo từ cầu tàu, đi lên đồi tới lối vào nhà tù cũ và nhận được một đài hướng dẫn bỏ túi. Tôi đi suốt hai giờ qua những hành lang và phòng giam, nơi mà sự đau khổ kinh hoàng và những chấn thương nghiền nát con người. Alcatraz có tỷ lệ mất trí cao nhất trong số các trại cải tạo vào cùng thời.
Nhà tù Alcatraz nhìn từ trên cao
Nguồn: Internet
Tôi được tiêu khiển qua tai nghe với những câu chuyện về các tù nhân nổi tiếng của Alcatraz, trong đó có Al Capone, Robert Stroud “Người Chim” và George Kelly “Súng Máy”, các âm mưu vượt ngục, cuộc nổi dậy có vũ trang vào năm 1946 bị Hải Quân đập tan một cách tàn nhẫn, các đặc vụ gan dạ của FBI đã hạ gục những tên tội phạm xấu xa nhất của quốc gia và đưa chúng ra công lý. Trong hệ nhị phân này, bài tường thuật biếm họa về người tốt và kẻ xấu, về cảnh sát và gangster, ngay cả J. Edgar Hoover đáng ghê tởm cũng được hồi sinh thành một biểu tượng đoan chính của luật pháp và trật tự.

Kết thúc chuyến đi – 5.000 người mỗi ngày, khoảng 1,4 triệu người mỗi năm, đến thăm nhà tù – chúng tôi bị dồn vào cửa hàng bán đồ lưu niệm. Ở đó có thể mua áo phông, bản sao của áo tù màu xanh da trời, bản sao cốc sắt tây của nhà tù và các đồ lưu niệm Alcatraz khác. Chúng tôi được gợi ý mua những tấm thiệp trên một giá gỗ và gửi chúng tới cho các chính quyền nước ngoài theo yêu cầu của một số tù nhân lương tâm được lựa chọn. Thông điệp là rõ ràng: Ở Hoa Kỳ những ai ở tù thì đáng nhận được điều đó; ở nước ngoài thì họ bị bỏ tù một cách bất công. Biến Alcatraz thành công viên Disneyland tương tự như việc biến một trong những trại tù khổ sai của Stalin thành một công viên giải trí có khung cảnh nhà tù. Các nhà tù là cái ác được thể chế hóa. Thanh minh cho cái ác là một sự dị dạng về đạo đức.

Bài tường thuật về Alcatraz của Dịch Vụ Công Viên Quốc Gia đã lờ đi sự dã man và bất công của hệ thống nhà tù có quy mô khổng lồ của Hoa Kỳ, trong đó hiện có 25% số tù nhân trên toàn thế giới bị giam giữ cho dù dân số Hoa Kỳ chỉ chiếm 5% dân số toàn thế giới. Họ lờ đi việc tra tấn, cách ly và chấn thương biến tù nhân thành những người tâm thần đã kéo dài suốt nhiều thập kỷ. Họ lờ đi việc hầu hết tù nhân là nghèo khổ và không bao giờ có sự biện hộ luật pháp đầy đủ. Họ lờ đi rằng những người da màu ở khu vực đô thị “thuộc địa nội địa” chẳng đáng giá gì trên đường phố nhưng trong nhà giam thì mỗi người tạo ra từ 40.000 đến 50.000 dollar mỗi năm cho các doanh nghiệp. Họ lờ đi rằng tù nhân thường xuyên bị trừng phạt và chịu án tù lâu hơn không phải vì những tội mà họ gây ra khi tự do, mà là những sự vi phạm mơ hồ như “không tôn trọng” và “công khai chống đối” diễn ra trong nhà tù. Họ lờ đi rằng “tư pháp” một chiều của hệ thống nhà tù tước bỏ thẩm vấn công bằng đối với tù nhân. Họ lờ đi rằng lính gác là Chúa, chỉ có anh ta hay cô ta có thể tấn công bằng lời nói hay bằng vũ lực một tù nhân mà không có hậu quả. Họ lờ đi rằng nhà tù là một thái ấp chuyên chế. Họ lờ đi sự nhục mạ hàng ngày, thất vọng và đau đớn của những người bị cầm tù. Họ lờ đi rằng tù nhân mới bắt đầu tin vào hệ thống, những người cho rằng công lý tồn tại, thường là những người đầu tiên bị suy sụp tinh thần hoặc tự sát. Họ lờ đi – đây là tội ác lớn nhất – nhân tính sâu sắc của nhiều tù nhân, những người cũng chu đáo, thông minh và đáng yêu như những người bên ngoài nhà tù. Cuối cùng, họ lờ đi việc chúng ta là một dân tộc nhẫn tâm và tàn bạo đến mức nào và chúng ta đam mê những câu chuyện bạo lực cũng như hạ thấp con người ra sao. Sự nhộn nhịp và bài tường thuật hư cấu về thiện và ác, khiến chúng ta nhìn nhận tù nhân thấp kém hơn con người. Đó là một nghệ thuật mà Dịch Vụ Công Viên Quốc Gia và văn hóa đại chúng đã trình diễn hoàn hảo ở Alcatraz. Bất cứ ai thực sự hiểu những điều diễn ra ở Alcatraz cũng như tại các nhà tù trên khắp đất nước đều sẽ than khóc.

Khi tôi tránh khỏi đám du khách ồn ào và đứng một mình trong một phòng giam mở cửa, tôi nghĩ về những sinh viên mà tôi đã dạy trong tù. Họ đã phản ứng ra rao? Họ cảm thấy thế nào về những du khách đang hớp lấy những câu chuyện về tội ác và trừng phạt? Họ phải nếm trải những chấn thương và đau đớn nào khi một lần nữa bước vào phòng biệt giam? Sinh viên của tôi nghĩ họ giống như nô lệ - theo Tu Chính Án thứ 13, tù nhân bị buộc phải lao động không có thù lao hoặc rất ít, như một dollar mỗi ngày. Họ coi nhà tù như bản sao cấu trúc quyền lực của các đồn điền. Nghe các hướng dẫn tự động, đối với họ, giống như cựu nô lệ đi thăm quan đồn điền cũ của anh ta hay cô ta trong khi được cung cấp những chuyện cổ tích về “những gã Châu Phi” lười biếng và vụng về trên các cánh đồng bông và những chuyện dâm ô của người da trắng miền nam.

Đối với bất cứ ai làm việc hay đang ở trong tù, cấu trúc vật chất và tinh thần của Alcatraz – nơi không có bất cứ nỗ lực cải tạo nào và thường xuyên có một phần năm trong số 250 tù nhân được luân chuyển vào và ra khỏi các phòng biệt giam – đều lạnh lùng tương tự. Ngay khi tù nhân đến Alcatraz, họ bị buộc đi diễu và đứng trần truồng trước lính gác. Nghi lễ này, vốn được lặp lại thường xuyên hàng ngày trong các nhà tù trên khắp đất nước, về căn bản là một nghi lễ hạ nhục, là một cách để phủ nhận phẩm giá của tù nhân. Tù nhân phải bị bẻ gẫy. Cưỡng bức tù nhân đứng trần truồng trước lính gác khởi đầu quá trình. Những ai chống lại quyền lực ở Alcatraz – chống đối quyền lực thường có nghĩa chỉ là cãi lại một lính gác – bị ném vào phòng biệt giam, được biết đến với cái tên “Cái Hố”. Ngày nay chuyện đó vẫn diễn ra ở các nhà tù.

Tầng dưới cùng trong ba tầng của Khu D ở Alcatraz có bốn phòng biệt giam. Tôi bước vào một phòng. Đó là nơi người ta bị giam 19 ngày trong bóng tối hoàn toàn, không được tắm rửa cũng như thay quần áo. Chỗ vệ sinh trong một thời gian dài là một cái hố 20,32cm trên sàn. Nhà tù thường xuyên phản xạ lại tiếng la hét của những tù nhân bị lính gác đánh trong các phòng biệt giam tối tăm ở Khu D. Khi những người trong phòng biệt giam được thả ra, họ thường bị mất phương hướng và suy yếu tâm lý. Nhiều người, yếu và hầu như không thể bước đi, được đưa thẳng đến bệnh xá của nhà tù, đau đớn gấp nhiều lần bởi chứng viêm phổi khi phải ngủ hơn hai tuần trên sàn bê tông ẩm ướt. Có một số người không còn sống để ra khỏi Cái Hố.

Ở Alcatraz có một nơi còn tồi tệ hơn Cái Hố - ngục tối. Chỗ đó không nằm trong chương trình du lịch. Nếu tù nhân không bị bẻ gẫy trong biệt giam, họ sẽ bị lôi đi theo cầu thang ở phía trước Khu A dẫn xuống một cánh cửa thép nặng nề. Sau cánh cửa là những lỗ châu mai từ thời mà nhà tù còn là một pháo đài, và sau đó là nhà tù Quân Đội, nơi nhốt thành bầy những người Mỹ bản địa chống đối, và trong Thế Chiến Thứ Nhất là các tù nhân lương tâm. Tù nhân bị lột truồng vào trói vào tường của một trong hai căn phòng gần những lỗ châu mai cũ. Họ nhận được một cái xô dùng cho vệ sinh trong một tuần. Họ được cho ăn chủ yếu là bánh mì. Sự tàn phá về mặt tâm lý của tù nhân là phổ biến, cũng như trong các nhà tù ngày nay. Capone, người phải chịu đựng chứng mất trí do bệnh giang mai và sự ngược đãi, đã trở thành kẻ ngốc. Lính gác báo cáo tìm thấy ông ta sợ hãi núp trong một góc của phòng giam hoặc nằm trên giường khóc lóc. Vào thời gian cuối ở trong tù, ông ta thỉnh thoảng bập bẹ những âm thanh vô nghĩa và không thể kìm chế được. Ông ta sẽ ngồi trên giường nhiều giờ trong trạng thái gần như cứng đờ hay thức dậy vào ban đêm rồi mở ra và xếp lại điên cuồng những tờ tạp chí, thường xuyên mặc rồi cởi quần áo hoặc dọn đi dọn lại cái giường.

Một tù nhân khác, Rufe Persful, chịu đựng chứng ảo giác thường xuyên – ông ta tuyên bố rằng có một con cá sấu trong phòng giam của mình. Vài lần ông ta cố làm một chiếc thòng lọng bằng khăn trải giường. Ông ta đã bất ngờ lấy chiếc rìu khỏi thành xe cứu hỏa của nhà tù và thờ ơ chặt phăng bốn ngón tay của mình trước mặt lính gác. Ông ta cũng định chặt chân và bàn tay khác của mình, ông ta nói điều ấy với phó quản ngục sau đó, khi ở bệnh xá. Những người có thẩm quyền của nhà tù đã không tuyên bố ông ta mất trí.

Joe Bower, người cướp 16,33 dollar của một bưu cục và bị tuyên án 25 năm tù, tự cắt cổ họng mình với một mảnh kính từ kính mắt của ông ta nhưng đã sống sót. Ông ta thường đập đầu vào cửa phòng giam. Ông ta bị bắn chết khi leo lên một hàng rào trước mặt lính gác và phớt lờ các yêu cầu leo xuống.

Ed Wutke đã tự tử bằng cách dùng một lưỡi dao gọt bút chì để cắt đứt động mạch cổ của mình.

Dịch vụ công viên bỏ sót những câu chuyện đó, cũng như nhiều câu chuyện tương tự trong chuyến thăm quan.

Nếu tù nhân không có công việc trong tù ở Alcatraz, anh ta sẽ ở trong phòng giam 23 đến 24 giờ một ngày, chuyện thường trong hệ thống nhà tù Hoa Kỳ.

Ngay cả lính gác cũng biết về những tù nhân mà không bao giờ nên giam giữ. George H. Gregory, trong cuốn sách của ông “Nhân viên Alcatraz: Những năm tháng làm lính gác ở nhà tù xấu xa nhất nước Mỹ”, kể về một tù nhân mà ông ta gọi là Kevin.

“Kevin, một cậu bé da đen, đã tham gia vào một số vụ ẩu đả trong phòng thay đồ. Cậu ta vào tù vì cậu ta đáp ứng yêu cầu của một người mà cậu ta không biết. Kevin đã làm việc trong rạp hát ở một bang miền nam. Một người đàn ông tới, đưa cho cậu một gói nhỏ, yêu cầu cậu đưa cho một người sẽ đến và hỏi về nó. Kevin không biết có gì trong gói. Cậu bị bắt giữ và buộc tội buôn bán ma túy.

Những người đến thăm tù nhân phải chịu đựng chiếc găng tay khám người và sự quát mắng của lính gác. Nghi lễ này cũng tương tự đối với những người tới thăm tù nhân hàng ngày. Việc thăm tù nhân bị gây khó chịu đến mức nhiều thành viên gia đình không bao giờ quay trở lại, tình trạng đó không hề thay đối.

Tôi đứng ở phòng thăm viếng ở Alcatraz và nhìn vào những vòng tròn trên tường. Đó là những vòng tròn có đường kính 7,62 cm và được đục nhiều lỗ nhỏ. Cách duy nhất để được nghe thấy qua những cái lỗ đó là hét lên, có nghĩa là tất cả mọi người quanh bạn, trong đó có cả lính gác, có thể nghe thấy cuộc đàm thoại. Nếu tù nhân và khách viếng thăm muốn nhìn thấy nhau thì họ phải đứng và nhìn qua một ô kính hẹp và dầy, nhưng khi ở trong tình trạng đó thì họ không thể nói chuyện với nhau. Hệ thống được thiết kế có chủ định tạo ra sự thất vọng và bối rối tối đa. “Thực tế là có rất ít thăm nuôi trong tất cả những năm tôi ở Alcatraz,” Ernie Lopez thuật lại trong hồi ký, “Tới Alcatraz, Death Row và Back.” “Tôi không nhận được chuyến thăm nuôi nào cho tới khi tôi ở đó được 9 năm. Điều đó không phải là bất thường.” 

Thư từ bên ngoài được lính gác chép lại thành 3 hay 4 dòng khó hiểu, sau đó họ chuyển đoạn chép lại cho tù nhân và tiêu hủy lá thư. Một số tù nhân không bao giờ nhận được thư gửi cho họ. Bệnh xá thì nguyên sơ và được trang bị tồi tàn. Các tù nhân bị bệnh nặng nhưng được cho là có khả năng bỏ trốn được đưa đến để chết ở bệnh xá hơn là chuyển giao cho một bệnh viện nhà tù liên bang. Một nha sĩ đến đây ba tháng một lần. Các cựu tù nhân nói, thực phẩm đã bị ôi, mặc dù hướng dẫn của chuyến đi nói với người nghe rằng thực phẩm dồi dào và có chất lượng cao.

Nhiều thập kỷ trong tù biến các tù nhân thành những người tàn phế có đôi mắt vô hồn, họ nói chuyện với nhau và lê bước một cách mụ mẫm dọc theo các hành lang nhà tù. Những tù nhân trẻ hơn nhìn những bóng ma đó dạo quanh nhà tù và run sợ. Họ sợ rằng dó sẽ là số phận của họ. Robert Stroud, được biết đến với biệt danh “Người Chim”, ông ta tiếp nhận, chăm sóc chim và xuất bản những cuốn sách về chim chóc khi là tù nhân ở Leavenworth, đã kết thúc ở Alcatraz. Stroud, nổi tiếng quốc gia với những nghiên cứu về chim bị ốm, đã bị cấm tái tạo khu bảo tồn chim ở Viện California. Ông ta phải chịu án chung thân vì đâm chết một lính gác vào năm 1916 sau khi lính gác đó chế giễu ông và tước quyền được thăm nuôi của ông, điều đó có nghĩa là ông ta sẽ không thể thấy em trai. Ông ta bị chuyển đến Alcatraz vào năm 1942. Trong số 54 năm ông ta ngồi tù thì có 42 năm là biệt giam. 

“Tôi nhớ tới việc quan sát ông ấy qua cửa sổ khi ông ấy được đưa ra sân, tất cả do ông ấy, ông ấy được phép ra ngoài một giờ mỗi tuần,” Lopez viết. “Tôi sẽ nhìn ông ấy tự bước đi, một ông già đi tới đi lui trong khoảng sân nhỏ. Lúc đó ông ấy bị gù lưng, ông ấy sẽ đội một chiếc mũ lưỡi trai màu xanh lá cây mà những người đánh bạc thường đội. Ông ấy là một người rất thông minh, thông thạo 5 hay 6 ngôn ngữ. Ông ta đã hoàn thành tất cả với các khóa học qua thư của Đại Học Stanford.

Các nhà tù phơi bày trái tim đen tối của nước Mỹ. Chúng phơi bày sự dối trá của hệ thống tư pháp thiên vị. Chúng phơi bày sự cưỡng bức dưới dạng thô thiển, sự tra tấn cả về thể xác lẫn tinh thần mà chúng ta thiết chế hóa và điều khiển hầu như là để chống lại người nghèo. Những nhà tù là tính tàn bạo và sự phi nhân tính hóa được nhà nước phê chuẩn.

Đó là câu chuyện về Alcatraz. Đó là câu chuyện về tất cả những nhà tù ở Mỹ. Nhưng đó là câu chuyện mà nhà nước không muốn bạn nghe. Những thiết chế này đã và đang được thiết kế một cách có chủ định để làm méo mó và phá hủy các linh hồn. Sách Talmud nhắc nhở chúng ta, “bất cứ kẻ nào phá hủy một linh hồn thì coi như hắn phá hủy toàn bộ một thế giới.”

Chris Hedges, a Pulitzer Prize-winning reporter, writes a regular column for Truthdig every Monday. Hedges’ most recent book, written with Joe Sacco, is “Days of Destruction, Days of Revolt”

Monday, January 5, 2015

Tại sao đề xuất thanh toán trực tiếp bằng nhân dân tệ bị phản đối?

Báo chí dân tộc cực đoan đang ồn ào phản đối đề nghị của Trung Quốc về việc thanh toán trực tiếp bằng đồng nhân dân tệ (NDT) ở Việt Nam. Muốn làm rõ vấn đề này, trước hết cần phải hiểu đề nghị thanh toán trực tiếp bằng nhân dân tệ của Trung Quốc nghĩa là gì. Thứ mà phía Trung Quốc đề nghị là settlement (kết toán) trong thương mại quốc tế chứ không phải payment (thanh toán) trong mua bán hàng ngày như ông Lê Đăng Doanh hùng hồn phát biểu trên tờ Một Thế Giới. Đó là một việc rất phổ biến trong thương mại quốc tế, ví dụ như giữa Nga và Trung Quốc có thỏa thuận thanh toán trực tiếp bằng đồng tệ và đồng rúp, giữa các nước BRICS với nhau họ cũng thanh toán bằng đồng rúp của Nga. Điều này không ảnh hưởng gì đến chủ quyền của Việt Nam hết.

Thanh toán quốc tế rất phức tạp nhưng có thể hình dung qua một ví dụ đơn giản như sau. Một doanh nghiệp A ở Việt Nam bán hàng cho một doanh nghiệp B ở Trung Quốc. Vậy đồng tiền nào sẽ được đùng để thanh toán? Thông thường người ta dùng đồng USD (được gọi là ngoại tệ mạnh), tức là giá cả sẽ được quy đổi ra USD. Sau đó doanh nghiệp B ở Trung Quốc sẽ mua USD chuyển cho doanh nghiệp A ở Việt Nam, doanh nghiệp A sẽ bán USD để lấy VNĐ. Ngược lại nếu doanh nghiệp A (VN) mua hàng của doanh nghiệp B (TQ) thì cũng phải mua đồng USD rồi chuyển cho doanh nghiệp B. Tất nhiên là các doanh nghiệp không thể tự mình làm tất cả những việc phức tạp đó mà họ ủy quyền cho các ngân hàng làm. Tức là A sẽ ủy quyền cho một ngân hàng VN làm trung gian thanh toán, B cũng ủy quyền cho một ngân hàng TQ làm trung gian thanh toán. Hai ngân hàng VN và TQ sẽ thanh toán với nhau bằng đồng USD.

Khi doanh nghiệp VN buôn bán với doanh nghiệp Mỹ thì họ không cần phải chuyển đổi qua một ngoại tệ khác, vì chính đồng USD của Mỹ đã là ngoại tệ mạnh. Điều này có nghĩa là ngân hàng Việt Nam và ngân hàng Mỹ thanh toán trực tiếp bằng đồng USD của Mỹ. Điều ngạc nhiên là không có chuyên gia kinh tế dân tộc chủ nghĩa nào kêu la về việc mất chủ quyền hay nguy cơ đối với độc lập dân tộc trong trường hợp này.

Việc đồng tiền của một quốc gia được sử dụng phổ biến trong thương mại quốc tế là do sức mạnh kinh tế của quốc gia đó tạo ra. Trước kia có đồng USD, rồi đồng Euro, bây giờ tới đồng NDT của TQ. Nền kinh tế của TQ càng phát triển thì thương mại của họ càng trở nên phổ biến khắp nơi và đồng tiền của họ càng được chấp nhận một cách rộng rãi. Mới năm ngoái, nước Đức đã chấp nhận kết toán trực tiếp bằng đồng NDT. Nếu nền kinh tế TQ đạt tới những điều kiện nhất định như Mỹ, đồng tiền của họ sẽ trở thành ngoại tệ chuyển đổi, được các nước trên thế giới sử dụng phổ biến trong thương mại quốc tế như USD.

Khi đồng NDT được chấp nhận thanh toán trực tiếp, có nghĩa là ngân hàng VN sẽ giao dịch với ngân hàng TQ bằng đồng NDT. Thay vì ngân hàng TQ phải mua đồng USD để chuyển cho ngân hàng VN thì giờ họ có thể chuyển thẳng NDT cho ngân hàng VN. Phía ngân hàng VN cũng có thể thanh toán bằng NDT cho ngân hàng TQ khi đại diện cho doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu hàng hóa từ TQ. Tất nhiên để làm được tất cả những việc đó thì TQ phải thiết lập một dịch vụ trung gian thanh toán cho các ngân hàng TQ và VN, đảm bảo việc mua bán NDT và VNĐ cho các ngân hàng tham gia hệ thống (hình dung đơn giản: họ làm việc giống như quầy đổi tiền). Đây chính là lý do ngân hàng công thương TQ đề nghị hợp tác với ngân hàng thương mại VN (như BIDV) để phát triển dịch vụ này.

Sự phát triển trong việc thanh toán bằng đồng NDT là một tất yếu của sự phát triển kinh tế. Thương mại giữa VN và TQ phát triển nhanh hơn khả năng cung cấp đồng USD của nền kinh tế VN. Do vậy, nếu tiếp tục chỉ thanh toán thông qua đồng USD thì tình trạng tắc nghẽn trong thanh toán do thiếu USD sẽ cản trở sự phát triển thương mại giữa hai nước. Chính vì lý do đó ở khu vực biên giới đã phát sinh ra các cơ sở phi chính thức làm công việc trung gian thanh toán trực tiếp bằng đồng NDT giữa doanh nghiệp VN và doanh nghiệp TQ. Một mặt điều này tạo ra sự thanh toán nhanh chóng với chi phí thấp trong thương mại giữa hai nước, mặt khác điều đó cũng tạo ra các gánh nặng quản lý cho cả phía TQ và VN do nằm ngoài hệ thống chính thức và nằm ngoài pháp luật. Phía TQ cho là tổng trị giá của các giao dịch đó đã lên đến 15 tỷ USD, tức là có tác động đáng kể đến hệ thống tiền tệ của cả hai nước và cần phải hợp pháp hóa việc kết toán trực tiếp bằng NDT để xóa bỏ tình trạng đó. 
Tức là phải có những điều kiện kiểm soát rất rõ ràng chứ không thể nào dùng đồng Nhân dân tệ lưu hành ở Việt Nam như một đồng tiền thứ hai, không một nước nào có thể cho phép như vậy. Đây chính vấn đề vi phạm chủ quyền lãnh thổ và chẳng khác gì việc cho phép đồng Nhân dân tệ thao túng đồng tiền của Việt Nam.
Trái ngược với những gì chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh phát biểu trên tờ Một Thế Giới và phát biểu tương tự trên tờ Thanh Niên của chuyên gia kinh tế Nguyễn Đức Thành, việc kết toán bằng đồng NDT trong thương mại giữa VN và TQ chỉ là một việc bình thường như giữa VN với các nước có nền kinh tế phát triển khác. Sự lo ngại về việc đồng NDT sẽ được sử dụng như một đồng tiền chính thức thứ hai ở VN hay VN mất chủ quyền quốc gia hoàn toàn là vô lý và thiếu hiểu biết về kinh tế. Việc kết toán trực tiếp bằng đồng NDT không có nghĩa là người VN ra phố ăn phở hay uống cafe bằng đồng NDT hay người TQ đến VN tiêu NDT như ở TQ. Ngược lại, sử dụng trực tiếp đồng NDT trong kết toán thương mại giữa hai nước sẽ giúp cả VN và TQ giảm sự phụ thuộc vào đồng USD, giảm được chi phí mua bán đồng USD hàng ngày, đa dạng hóa phương tiện thanh toán quốc tế, do đó giảm được khoản dự trữ bằng đồng USD ngày càng lớn trong điều kiện mà đồng USD không ngừng mất giá do khủng hoảng kinh tế  và chính sách tiền tệ hút máu kinh tế thế giới của chính quyền Mỹ. Hơn nữa việc đó sẽ thúc đẩy một cách tích cực thương mại giữa VN và TQ do xóa bỏ được những rào cản không còn cần thiết trong thanh toán quốc tế. Một trong những điều kiện tiên quyết để cơ chế này hoạt động là TQ phải có cơ chế dự trữ ổn định một số lượng VNĐ nhất định để đảm bảo khả năng thanh toán cho hệ thống, tức là Trung Quốc sẽ phải chú trọng hơn tới lợi ích kinh tế của VN, lợi ích của họ sẽ gắn chặt hơn với lợi ích kinh tế của VN. 

Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh còn có những phát biểu rất thiếu hiểu biết khác như:
"Một vấn đề khác mà chuyên gia cũng chỉ ra là hiện nay Việt Nam đang nhập siêu rất nặng từ Trung Quốc. Nếu thanh toán bằng những đồng tiền khác thì Việt Nam còn có hy vọng để trả cho Trung Quốc, ví dụ như Việt Nam có thể kiếm được đồng USD từ việc xuất khẩu sang Mỹ, sang Nhật... Nhưng nếu chỉ thanh toán bằng đồng Nhân dân tệ thì Việt Nam chỉ có một cách là vay của Ngân hàng Trung Quốc."
Đến một người bình thường cũng biết rằng kết toán trực tiếp bằng đồng NDT không loại trừ việc kết toán bằng USD. Có nghĩa là doanh nghiệp hai nước vẫn có thể tự do giao dịch bằng đồng USD bên cạnh đồng NDT nếu họ muốn. Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn có thể dùng USD để mua đồng NDT khi cần thiết. Thỏa thuận với TQ cũng không có nghĩa là VN phải sử dụng đồng NDT trong thương mại với các nước khác ngoài Trung Quốc, tức là tạo ra sự gia tăng đột biến trong nhu cầu về NDT. Nguy cơ thiếu đồng NDT dẫn đến việc phải vay TQ đồng NDT để thanh toán là chuyện rất tào lao. Các chuyên gia kinh tế mà lại cho rằng kết toán trực tiếp bằng đồng NDT sẽ loại trừ kết toán bằng USD thì thật không thể hiểu nổi. Việc kết toán trực tiếp bằng đồng NDT cũng không dẫn đến vay nợ TQ, giống như VN kết toán chủ yếu bằng đồng USD nhưng đâu có phải vay nợ Mỹ hay phụ thuộc tài chính vào Mỹ. Hoàn toàn không có nguy cơ phụ thuộc tài chính vào TQ trong chuyện này.

Ngoài chuyên gia Lê Đăng Doanh thì còn có giáo sư viện hàn lâm KHXH Việt Nam Lưu Ngọc Trịnh trong bài "Cần một cái lắc đầu dứt khoát" của tờ Lao Động với một ví dụ:
“Giả sử Trung Quốc cho Việt Nam vay 700 nhân dân tệ (NDT), tương đương 100USD với tỷ giá 1USD/7NDT. 5 năm sau, dù chỉ vay bao nhiêu trả đủ bấy nhiêu nhưng nếu đồng NDT lại lên giá với 1USD/6NDT thì để trả được 700NDT đó, Việt Nam phải trả 117USD, tức mất thêm 17USD. Dự trữ ngoại tệ của Việt Nam bị hao hụt thêm 17USD. Và việc mua thêm 17USD đó sẽ khiến VND mất giá và lạm phát có nguy cơ tăng cao”.
Điều bất bình thường trong ví dụ này là ông giáo sư cố tình giả định trường hợp NDT lên giá so với USD để minh họa sự thiệt hại của VN, nhưng trong thực tế thì NDT có thể lên giá mà cũng có thể xuống giá so với USD (khi xuống giá thì vay lại có lợi chứ không thiệt), không ai biết trước điều gì cả. Mặt khác, đó là tỷ giá NDT/USD chứ không phải là NDT/VNĐ nên không minh họa được tác động của nó đến nợ nần của VN, chính việc kết toán trực tiếp bằng NDT (theo tỷ giá NDT/VNĐ) lại loại trừ sự phụ thuộc vào tình hình lên xuống của tỷ giá NDT/USD. Lại càng buồn cười hơn nữa khi ông giáo sư lập luận rằng việc VN phải mua thêm USD sẽ làm lạm phát của VN gia tăng, VNĐ mất giá so với USD và bản thân VNĐ mất giá là hai chuyện rất khác nhau và chả mấy liên quan đến nhau. Xu hướng dài hạn trong chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc là duy trì đồng NDT yếu để tài trợ xuất khẩu. Bao nhiêu năm nay hết Mỹ rồi đến IMF đều kêu la rằng TQ định giá NDT quá thấp so với giá trị thực, đòi TQ phải tăng giá đồng NDT. TQ thì vẫn kiên trì với chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt, chỉ cho phép tỷ giá NDT/USD lên xuống trong phạm vi nhất định, do vậy về dài hạn sẽ khó biến động lớn trong tỷ giá NDT/USD, trừ khi kinh tế Mỹ sụp đổ hoặc có chiến tranh giữa Mỹ và TQ.

Những người có chút kiến thức về kinh tế khi đọc được phát biểu ngớ ngẩn của những người được gọi là chuyên gia kinh tế sẽ nghĩ các chuyên gia đó dỏm toàn phần, nói láo không biết ngượng. Song tôi thì nghĩ khác, họ vốn rất lý trí, nhưng tư duy của họ phản ánh một quan hệ sản xuất lạc hậu, một nền kinh tế thị trường manh mún, phân tán, có hàng ngàn rào cản vô hình để giúp cho các doanh nghiệp nhỏ (như các đơn vị trung gian thanh toán trực tiếp bằng NDT ở vùng biên giới) tồn tại. Họ sợ hãi và bất lực trước những sự phát triển mới trong quan hệ sản xuất, chính vì vậy họ phải bảo thủ, núp sau những khái niệm mang tính chính trị như chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc, và lợi dụng sự thiếu hiểu biết hay hời hợt của một bộ phận công chúng để bảo vệ cho những quan hệ sản xuất đã lạc hậu, bảo vệ cho nền tảng tư duy của chính họ, bất chấp hậu quả kinh tế của những việc đó.

Bạn đọc lưu ý: Bài này viết hết sức đơn giản để ai cũng có thể đọc và hiểu bản chất của vấn đề. Nếu đi sâu hơn nữa sẽ còn có các khái niệm về hoán đổi ngoại tệ song phương (tức là VNĐ được sử dụng ngang với NDT trong thanh toán giữa hai nước), hay khái niệm về bảng kết toán quốc gia. Giao dịch giữa hai quốc gia không chỉ có thương mại (tài khoản vãng lai), mà còn có đầu tư (tài khoản vốn) và giao dịch tài chính (tài khoản tài chính). Việc sử dụng phương tiện thanh toán sẽ phải được tính toán cho tất cả các loại giao dịch nói trên. Tuy nhiên, bản chất vấn đề là không thay đổi. Việc thanh toán trực tiếp bằng đồng NDT cũng không phải là không có khó khăn, nó cần một số điều kiện nhất định để đảm bảo. Những điều kiện đó chủ yếu liên quan đến sự phát triển của nền kinh tế và năng lực của hệ thống thanh toán của hai nước. 

Sunday, January 4, 2015

Vũ khí nguy hiểm của Mỹ

Bill và Joe cùng đi xem buổi diễu binh chào mừng quốc khánh Mỹ. Bill tràn ngập lòng yêu nước khi chứng kiến một đàn máy bay không người lái lượn êm ru qua quảng trường, đầy tự hào khi thấy một binh đoàn chiến đấu cầm súng trường tấn công loại hiện đại nhất đi đều bước, đầy hãnh diễn khi thấy các xe chở tên lửa hành trình mang đầu đạn hạt nhân diễu qua. Sau đó là một nhóm người ăn mặc lộn xộn, giương cao các khẩu hiệu và băng rôn đủ loại đi qua.

Cuối cùng, Bill không kiềm chế được, giật tay Joe và nói: "Tao hiểu về máy bay không người lái, binh lính, súng trường và tên lửa, nhưng tao không hiểu về đám người cầm khẩu hiệu kia."

Joe trả lời: "Những gã đó là đám dân chủ và nhân quyền. Mày có biết những gã đó nguy hiểm thế nào không?" 

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí)

Bóng ma Việt Nam

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "The Ghost of Vietnam" của tác giả Danny Schechter về sự ám ảnh của người Mỹ với cuộc chiến Việt Nam. Bài viết được đăng trên tạp chí Coldtype số 92 tháng 1 năm 2015. 

Bóng ma Việt Nam

Đã gần 40 năm kể từ sự kiện mà truyền thông Hoa Kỳ gọi là “Sự sụp đổ của Sài Gòn” và người Việt Nam coi là “Giải Phóng”. Tôi thấy điều đó giống như là “Sự sụp đổ của Washington”.

Những bóng ma Việt Nam đang quay trở lại, nhờ vào hai nhà làm phim với những chuỗi cảnh phim rất khác nhau. Đầu tiên là của Tiana về nguồn gốc của miền Nam Việt Nam, và thứ hai là Rory Kennedy, con gái út của Bobby Kennedy.

Tiana đang hoàn thành một bộ phim có tên là “Vị tướng và tôi”, về những cuộc đối thoại không được chờ đợi (của một người thuộc về một gia đình chống cộng cuồng tín) với vị tướng huyền thoại Bắc Việt Nam, tướng Giáp, hay còn gọi là “Napoleon Đỏ”, người sở hữu học thuyết quân sự đánh bại cả quân đội Pháp lẫn người Mỹ.

Giáp tạo dựng quân đội Việt Nam theo yêu cầu của Hồ Chí Minh, và không được đào tạo để trở thành một thiên tài quân sự. Tiana cũng có hai “thiên tài” tự phong khác của Hoa Kỳ trong bộ phim của bà: vai phụ lâm ly của tướng William Westmoreland và Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Robert MacNamara, người mà bà không thể che giấu sự khinh thường. 

Sự thổi phồng quá mức của Kennedy về “Những ngày cuối cùng của Việt Nam” mô tả cuộc sơ tán khẩn cấp binh lính Hoa Kỳ cũng như nhiều người Việt Nam phục vụ trong quân ngũ của họ và cuộc chiến đẫm máu hầu như đã thất bại ngay từ những ngày đầu. Thay vì tìm ra lý do cho thất bại, với sự hỗ trợ của HBO và chương trình Trải Nghiệm Hoa Kỳ dài tập của PBS, bà ta đã tìm cách giới thiệu một bức tranh anh hùng về những người Mỹ trong những ngày cuối cùng của họ ở Sài Gòn, đối phó với một đại sứ điên khùng và trong một số trường hợp nổi loạn chống lại chính sách của Hoa Kỳ.

Hai bộ phim này, cũng giống như tất cả các bộ phim trong những năm sau này, phản ánh sự chia rẽ về văn hóa và chính trị của thời đại. Một bộ phim, tác động của nó là hợp lý hóa cuộc chiến, mô tả quân đội Hoa Kỳ như là động lòng trắc ẩn, trong khi bộ phim kia, lần đầu tiên đưa ra một góc nhìn mà người Mỹ chưa từng biết tới.

Ngay cả khi ông chú JFK của bà không mở rộng cuộc chiến tranh, bất chấp những hoài nghi lặp đi lặp lại về ông ấy, một thành viên của gia đình Kennedy vẫn được đối xử như là một biểu tượng văn hóa trong một nền văn hóa không thể nhớ nổi chi tiết của những gì xảy ra ngày hôm qua chứ đừng nói đến 40 năm trước. Tác phẩm của Rory đã được hoan nghênh; tác phẩm của Tinana vẫn chưa được xem. Bà gọi sự lãng quên có chủ ý này là “Chứng cuồng Việt Nam”

Gerald Perry viết trên tờ Arts Fuse: “Những bài phê bình sướt mướt về “Những ngày cuối cùng ở Việt Nam” (đánh giá chấp nhận với 94% Cà chua thối) cũng phi thường tương tự. Họ hoan nghênh nhà làm phim Rory Kennedy về việc tư liệu hóa một khoảnh khắc bị lãng quên trong lịch sử Hoa Kỳ, những ngày hỗn loạn vào năm 1975 khi Hoa Kỳ tháo chạy khỏi Sài Gòn và quân đội Bắc Việt Nam tiến thẳng vào Nam Việt Nam. Những phê bình đó được tuôn trào với niềm kiêu hãnh về việc câu chuyện của Kennedy cho thấy sự dũng cảm và cao quý của binh lính Mỹ cũng như một số ít nhà ngoại giao đối lập Mỹ đã giúp sơ tán nhiều người Nam Việt Nam – bằng thuyền, máy bay và trực thăng – những người được cho là sẽ bị Cộng Sản Bắc Việt Nam nô dịch hay sát hại.

Điều mà khó có ai có thể quan sát là Kennedy, con gái của người thuộc phe bồ câu Robert Kennedy, lại đang phất lên ngọn cờ thanh minh cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Người miền Bắc Việt Nam được mô tả, không có ngoại lệ, giống như những chiến binh ISIS, sát hại tất cả những người đối lập trên con đường từ Hà Nội đến Sài Gòn.

Sau khi tiến vào Sài Gòn, họ thủ tiêu những người chống đối hoặc đưa kẻ thù tới các trại cải tạo. Người miền Nam Việt Nam? Điều này làm tôi ngạc nhiên: không có bất cứ đề cập nào về sự tham nhũng chồng chất trong các tài liệu của các chính quyền tay sai khác nhau, quân đội Nam Việt Nam là công cụ cưỡng bức với tra tấn và giết chóc. Các cựu binh miền Nam Việt Nam, trong đó có các sĩ quan cấp cao, khi trả lời phỏng vấn đều được phép kể câu chuyện được đánh bóng của họ. Không có bất cứ ai vấy máu.

“Điều này không làm tôi ngạc nhiên. Vào năm 1976, lễ kỷ niệm cách mạng Hoa Kỳ, tôi xuất bản một cuốn sách nhỏ trình bày quan điểm về các chiến lược gia quân sự hàng đầu của Việt Nam, trong đó có Võ Nguyên Giáp, có tên là “Cách mà chúng ta thắng cuộc chiến.” Chắc chắn là câu chuyện đó đáng chú ý về mặt lịch sử hơn việc chúng ta cắt đuôi và bỏ chạy. Tôi viết sau đó: “Báo chí Hoa Kỳ không bao giờ giúp gì nhiều cho những nỗ lực tìm ra những người Việt Nam nổi bật, những người được hoạch định tổ chức, chiến đấu, và đánh bại các chính quyền kế tiếp nhau được Hoa Kỳ ủng hộ. Khi truyền thông Hoa Kỳ thừa nhận sự tồn tại của phe khác, họ làm việc đó với sự khinh bỉ, xuyên tạc sự thật và bôi nhọ … Hoa Kỳ không bao giờ thừa nhận sự thật là họ bảo vệ cho một chính quyền không được ủng hộ và định nghiền nát một chính quyền được ủng hộ.”

Một nhóm phê bình phim ở Los Angeles sau đó đã viết cho PBS: “Rory Kennedy thiên lệch quá mức, ngoài bối cảnh, sự tuyên truyền đầy hồ nghi “Những ngày cuối cùng ở Việt Nam” hiện được phát hành kiểu sân khấu kịch, một sản phẩm của chương trình nhiều tập của PBS, Một Trải Nghiệm Mỹ. Chúng ta kinh hoàng bởi bản chất một chiều cực đoan trong lịch sử được viết lại của Kennedy, chỉ phản ánh quan điểm của chính quyền Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa trong câu chuyện, và không bao giờ đưa ra quan điểm của hàng triệu người Mỹ phản đối chiến tranh cũng như của những người chiến đấu cho Mặt Trân Dân Tộc Giải Phóng và Bắc Việt Nam.” Quá nhiều cho “sự cân bằng!”

Sự phản đối hoàn toàn là số không. Truyền hình công cộng rút lui với những bức thư ngớ ngẩn và trả lời sự chỉ trích đối với chương trình bằng cách nói rằng chương trình đó trích dẫn tất cả các chương trình họ làm, có tuổi đời nhiều thập kỷ, đồng thời công bố một chuỗi chương trình nhiều triệu dollar do Ken Burns làm. Đặc trưng! Họ lảng tránh những chi tiết như sau: 

• Rory trập trung vào câu chuyện về những nỗ lực cứu sống các sĩ quan đồng minh và gia đình họ ở Sài Gòn (“Arvin”) mà quân đội nổi tiếng về sự tham nhũng và tàn bạo của họ.

• Bộ phim trình bày các hành động tàn bạo của những người Cộng Sản như “Thảm sát ở Huế”, một sự kiện đã được học giả người Mỹ về Việt Nam Gareth Porter điều tra và phát hiện là sự bịa đặt.

• Bộ phim trình bày các sự vi phạm Hiệp Định Hòa Bình Pari của miền Bắc mà không đề cập tới rất nhiều vi phạm nghiêm trọng và dấu diếm của quân đội miền Nam Việt Nam được Hoa Kỳ hậu thuẫn.

• Bộ phim trình bày sự điên khùng và cuồng dại của đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin như thể ông ta là một ngoại lệ trong lịch sử của các quan chức Mỹ trước đây, người mở rộng cuộc chiến với thiệt hại nhân mạng lớn. Bộ phim không đưa ra bối cảnh hay cơ sở.

• Bộ phim ngụ ý rằng tất cả những người của Sài Gòn sẽ bị xẻ thịt hay cầm tù; đó không phải là sự thật.

• Bộ phim mô tả những con thuyền trốn chạy tới đảo Côn Sơn mà không đề cập rằng trên hòn đảo ngoài khơi đó Sài Gòn đã thiết lập các nhà tù tàn bạo giống như Guantanamo ngày nay, với “các chuồng cọp”, để giam giữ những người Việt Nam chống lại chính quyền quân sự, để giết hại và tra tấn.

• Perry hỏi: “Tiếng nói phản chiến của những người từng là bính lính Hoa Kỳ ở Việt Nam và trở nên thất vọng bởi những điều khủng khiếp mà chúng ta đã làm ở đâu trong bộ phim tài liệu này? Ai trong bộ phim nói về các vụ ném bom ngẫu nhiên miền Bắc Việt Nam của chúng ta? Hay vụ thảm sát ở Mỹ Lai? Và về CIA, sự tra tấn tàn ác đối với người Bắc Việt dưới thời giám đốc CIA William Colby được đề cập ở đâu?

Như với Kissinger, thực sự bực mình đến phát điên khi xem những hùng biện cho bản thân của ông ta hoàn thành mà không hề vấp phải trở ngại nào. Anh ở đâu, Errol Morris, khi được cần đến? Trái lại, tội phạm chiến tranh số một thế giới trên một phạm vi lớn (Việt Nam, Campuchia, Lào, Chile, vân vân) được chào đón và là khách danh dự của bộ phim tài liệu được chương trình Trải Nghiệm Hoa Kỳ của PBS đặt hàng.

Và mọi thứ tiếp tục, tiếp tục.

Đã 40 năm. Chúng ta học được điều gì? Chính quyền Obama, được trợ giúp bởi Bộ Ngoại Giao, một diễn giả nói tiếng Việt không hơn, có tên là John Kery, một lãnh đạo của tổ chức Cựu Binh Việt Nam Chống Chiến Tranh, đã biến thành người biện minh cho vai trò của Hoa Kỳ trong chiến tranh, và người bán vũ khí cho Việt Nam, xứ sở hiện nay đang sợ Trung Quốc hơn Hoa Kỳ.

Chúng ta nên nghe tiếng nói của ai? Rory Kennedy với bộ phim tài liệu lịch sử trơn tru được tài trợ lớn hay Tiana, người đang nỗ lực để đưa tiếng nói của người Việt Nam và một lịch sử bị cố ý chôn vùi đến với cuộc sống. 

Danny Schechter reported in North and South Vietnam in 1974, and returned in 1997. He has written widely on the issues of the war. He edits Mediachannel.org and blogs at Newsdissector.net. Comments to Dissector@mediachannel.org