Showing posts with label Kinh doanh. Show all posts
Showing posts with label Kinh doanh. Show all posts

Tuesday, November 5, 2019

Công nhân, chủ doanh nghiệp và nhà nước

Khi có xung đột giữa công nhân và doanh nghiệp, như hiện nay, doanh nghiệp đòi tăng giờ làm thêm, công nhân đòi giảm giờ làm từ 48 tiếng/tuần xuống 44 tiếng/tuần, một vị đại diện cho nhà nước đứng ra nói như thế này: Bây giờ đất nước ta còn nghèo, giảm giờ làm xuống thì chi phí lao động tăng lên, giá cả hàng hóa tăng lên thế là hàng hóa xuất khẩu mất cạnh tranh, tăng trưởng kinh tế giảm, thì nước ta thoát nghèo thế nào được.


Ấy thế là cái lý gì? Tất nhiên người nhà nước là phải lo lắng cho lợi ích quốc gia, đứng trên cả chủ doanh nghiệp lẫn công nhân rồi. Người ta nói ắt hẳn có lý do chính đáng. Mà lý lẽ hợp lý hợp tình đến thế kia thì ai mà không nghe cho được nhỉ?

Ở đây mấu chốt của vấn đề không phải là việc nhồi nhét lợi ích quốc gia vào cái việc bắt công nhân làm 48 tiếng/tuần mà là cái căn cứ để người ta tính toán cái lợi ích đó. Đại thể người ta sẽ tính thế này, trước kia công nhân làm 48 tiếng/tuần, giờ làm 44 tiếng/tuần thì với năng suất như cũ muốn có sản lượng như cũ sẽ phải thuê công nhân làm thêm 4 tiếng, chi phí lao động sẽ tăng thêm 4/44, tức là 9,1%. Chi phí lao động đội lên 9.1%, giá cả hàng hóa xuất khẩu vì thế cũng tăng lên, hàng hóa xuất khẩu trở nên kém cạnh tranh hơn. Mọi thứ rõ ràng là rất thuyết phục.

Chìa khóa của vấn đề: Tiền lương là giá cả của lao động hay sức lao động?

Trong tính toán của người nhà nước thì tổng tiền lương khi làm 44h với 48h là khác nhau, hay nói cách khác tiền lương được tính theo số giờ lao động và không cố định, làm nhiều hưởng nhiều, ẩn giấu đằng sau cái tính toán đó là cái luận điểm: Tiền lương là giá cả của lao động! Đằng sau những thứ kêu choang choang về lợi ích quốc gia, thực ra là lợi ích và quan điểm của chủ doanh nghiệp. Khi anh nhà nước tính toán theo quan điểm của chủ doanh nghiệp thì anh ta đứng về phía chủ doanh nghiệp.

Còn bây giờ là quan điểm của công nhân: Tiền lương của công nhân là giá cả của sức lao động, được tạo thành từ chi phí nuôi sống và đào tạo nghề nghiệp cho công nhân, do đó nó cố định, làm 44h/tuần hay 48h/tuần cũng không làm thay đổi nó được. Việc giảm thời gian lao động xuống không làm tăng chi phí lao động, lại càng không ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa.

Người ta sẽ lại thắc mắc rằng chủ doanh nghiệp phải thuê thêm lao động 4h mỗi tuần, phải trả thêm tiền mà anh lại nói rằng chi phí lao động không tăng là sao? Nhưng người ta quên mất rằng đâu có gì buộc chủ doanh nghiệp vẫn phải giữ nguyên mức lương cũ khi thời gian làm việc giảm xuống. Ví dụ, công nhân đi làm 48h/ tuần, nhận được 96 đồng tiền lương, giờ họ chỉ phải làm việc 44h/tuần. Chủ doanh nghiệp biết rằng công nhân sẽ buộc phải đi làm để kiếm đủ sống, họ sẽ hạ lương tuần xuống 88 đồng và trả 8 đồng cho 4h làm thêm. Vậy là công nhân vẫn phải đi làm với mức lương như cũ. Tổng mức tiền lương vẫn như cũ, chủ doanh nghiệp không cần phải tăng lương thêm đồng nào cả.

Khi người ta hiểu rằng tiền lương là giá cả của sức lao động thì việc tăng hay giảm thời gian lao động sẽ không ảnh hưởng đến chi phí lao động và không ảnh hưởng gì đến giá cả hàng hóa cả, nhưng việc giảm thời gian lao động sẽ làm thời gian lao động thặng dư và ảnh hưởng tới lợi nhuận của chủ doanh nghiệp. Đấy mới là cái khiến chủ doanh nghiệp không hài lòng và tất nhiên là người nhà nước phải bảo vệ lợi ích quốc gia trên quan điểm của chủ doanh nghiệp.

Thế còn việc kéo dài thời gian làm thêm? Người ta sẽ nói: công nhân làm thêm thì có thêm tiền, cũng tốt chứ sao? Vẫn là giả định: Tiền lương là giá cả của lao động. Sự thực là doanh nghiệp muốn kéo dài thời gian làm thêm để hạ lương thời gian làm chính xuống, nên vào thời kỳ ít việc thì doanh nghiệp sẽ trả cho công nhân đồng lương chết đói. Mặt khác, theo luật Việt Nam tiền làm thêm giờ không phải đóng bảo hiểm xã hội nên chủ doanh nghiệp sẽ còn ăn bớt cả lương hưu của công nhân nữa.

Ví dụ cụ thể: Công nhân đang đi làm 8 tiếng mỗi ngày, tiền lương theo giờ là 12,5 đồng/h, tổng lương là 100 đồng / ngày, bảo hiểm xã hội chủ phải đóng là 10% tiền lương. Tổng chi phí lao động là 110 đồng. Bây giờ chủ doanh nghiệp được phép tổ chức làm thêm 2h mỗi ngày với điều kiện tiền lương làm thêm phải gấp đôi tiền lương chính, kết quả không phải là công nhân nhận được 140 đồng. Thực tế là như thế này, chủ doanh nghiệp sẽ hạ tiền lương tính theo giờ xuống còn 100/12 = 8.33 đồng, 8h làm chính thức chỉ còn mang lại cho công nhân 66,67 đồng, còn 2h làm thêm sẽ mang lại thu nhập: 33,33 đồng. Song bi kịch chưa dừng ở chỗ đó, tiền bảo hiểm xã hội 10% trước kia được tính trên 8h làm chính thức là 10 đồng, bây giờ chỉ còn 6,67 đồng vì tiền làm thêm giờ không phải đóng bảo hiểm xã hội, chủ doanh nghiệp sẽ đút túi thêm 3,33 đồng đó. Bi kịch thế đã đủ chưa? Vẫn chưa đâu. Những doanh nghiệp được tùy ý tổ chức làm thêm thì họ sẽ chỉ cho công nhân làm thêm vào thời kỳ họ cần, chỉ vào thời kỳ đó công nhân mới nhận được mức lương đủ sống, còn bình thường họ sẽ trả mức lương bị hạ thấp của thời gian làm chính thức, công nhân sẽ phải nhận đồng lương chết đói.

Khi nhìn từ góc độ của công nhân thì người ta sẽ thấy rõ cái mánh khóe của chủ doanh nghiệp nhằm móc túi công nhân. Mặt khác, ai cũng biết rằng bảo hiểm xã hội lấy nguồn thu hiện tại để thanh toán cho người lao động nghỉ hưu, khi doanh nghiệp có thể kéo dài thời gian làm thêm thì họ sẽ dồn tiền lương sang tiền làm thêm giờ để giảm khoản đóng góp cho bảo hiểm xã hội. Sự thâm hụt quỹ bảo hiểm xã hội ấy tất yếu sẽ buộc nhà nước phải bù vào để giúp cho những người lao động nghỉ hưu có thể sống sót.


Lợi ích quốc gia được đồng nhất với lợi nhuận của doanh nghiệp trong vấn đề giảm số giờ làm việc của công nhân còn 44h/tuần. Giới chủ than vãn như trời sắp sập đến nơi. Nhưng đây không phải là lần đầu tiên giảm giờ làm mà Việt Nam cũng không phải nước duy nhất giảm giờ làm. Kinh nghiệm thực tế cho thấy khi giờ làm giảm đi thì lương công nhân cũng không thay đổi nhiều. Giảm giờ làm 4h mỗi tuần thì cũng không phải là quá nhiều, chủ doanh nghiệp sẽ đẩy cường độ lao động cao hơn để duy trì sản lượng như cũ, tức là không ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa hay tăng trưởng GDP. Tuy vậy, chưa phải là hết, chủ doanh nghiệp sẽ có thêm một phần lợi nhuận từ chi phí tiết kiệm được, đó là chi phí cơ sở vật chất và chi phí quản lý, giảm giờ làm thì những chi phí này cũng giảm đi. Thật tình cờ là cái khoản mà chủ doanh nghiệp tiết kiệm được này bị giấu biệt, không xuất hiện trong bất cứ tính toán nào về tác động của việc giảm giờ làm.

Những kẻ nhân danh lợi ích quốc gia để thuyết phục công nhân hy sinh lợi ích của bản thân bao giờ cũng là những tôi tớ trung thành nhất của chủ doanh nghiệp. Họ tính toán lợi nhuận, tăng trưởng kinh tế, nhưng tính toán của họ không bao giờ có chỗ cho người lao động.

Sunday, October 7, 2018

Thời gian và chủ nghĩa tư bản

Nhân đọc lại cuốn sách của G. Carchedi về chủ nghĩa duy vật lịch sử và nhớ đến câu hỏi của một bạn về nhận thức luận trong cuộc hội thảo hôm trước, bạn đó chưa hiểu rõ vấn đề là ngay ý thức của con người cũng là sản phẩm của một lịch sử cụ thể, nên tôi đã dịch một đoạn nói về đồng hồ và sự hình thành quan niệm về thời gian của con người trong cuốn sách của G. Carchedi, để minh họa cho điều đó.


Dưới đây là ví dụ về một kiến thức vừa mang tính liên thời đại vừa mang tính liên giai cấp: khái niệm thời gian.170 Nhận thức về thời gian của chúng ta bị quy định bởi loại hình xã hội mà chúng sống trong đó. Khái niệm về thời gian của những xã hội trước đây là tuần hoàn – có nghĩa là được gắn liền với các vòng tuần hoàn của tự nhiên, như sự kế tiếp của ngày, mùa và năm – cụ thể và định tính, được gắn liền với công việc cụ thể được gán cho những phần khác nhau trong một ngày. Cho dù được tạo thành từ thợ săn hay thợ cày, các xã hội đó cũng được gắn chặt với các sự kiện cụ thể lặp đi lặp lại. Trong khi các xã hội săn bắn được điều chỉnh bởi các sự kiện sinh thái thì các xã hội nông nghiệp tính toán thời gian dựa vào việc quan sát vị trí của các hành tinh và các ngôi sao. Nếu khái niệm đồng hồ tồn tại thì tự nhiên chính là đồng hồ của họ.171 Trái lại, trong chủ nghĩa tư bản, thời gian trở thành tuyến tính – có nghĩa là đi từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, mà tương lai không phải là sự lặp lại của quá khứ, cứ như thể là đi theo một đường thẳng – và trừu tượng, có nghĩa là định lượng bởi vì các khoảng thời gian không còn gắn liền với những hoạt động cụ thể: mọi hoạt động đều có thể thực hiện trong bất cứ khoảng thời gian nào.172 Do đó, thời gian dần dần được chia thành những đoạn nhỏ. Chỉ trong khái niệm thời gian đó thì khái niệm tiến bộ mới có thể xuất hiện, đó là điều không thể tưởng tượng được trong các tôn giáo truyền thống và thế giới quan tin vào sự lặp lại theo chu kỳ của lịch sử. Tương lai không còn cố định trong sự phát triển và lặp lại của quá khứ, trái lại là bỏ ngỏ.

Dấu hiệu quan trọng trong sự xuất hiện khái niệm mới về thời gian là đồng hồ. Đồng hồ chia thời gian thành giờ, phút và giây. Đồng hồ cơ khí được dòng tu Benedictine áp dụng vào thế kỷ thứ bảy sau Công Nguyên. Dòng tu Benedictine khác với các dòng tu khác ở chỗ họ cầu nguyện và thực hiện các công việc tín ngưỡng suốt ngày. Thời gian là khan hiếm và không thể lãng phí. Thời gian cho việc cầu nguyện, thời gian cho việc ăn uống, thời gian để tắm giặt, thời gian để làm việc và thời gian để ngủ. Dòng tu Benedictine dùng giờ làm đơn vị thời gian (xã hội thời trung cổ hiếm khi sử dụng đơn vị giờ). Mọi hoạt động đều được gắn với một giờ cụ thể. Ví dụ, bốn giờ đầu tiên của ngày là dành cho các hoạt động thiết yếu. Bốn giờ tiếp theo để đọc kinh, và cứ tiếp tục như vậy. Điều này có thể coi như là khái niệm hiện đại về thời gian đã xuất hiện ở dòng tu Benedictine. Nhưng các giờ trong ngày vẫn là thời gian cụ thể: mỗi giờ được sử dụng cho một hoạt động cụ thể. Trong chủ nghĩa tư bản thì điều đó sẽ trở thành phi lý, người ta không thể nào hình dung được các hoạt động gắn với một giờ cụ thể: thời gian trở thành trừu tượng.

Đồng hồ ra đời trong hoàn cảnh đó. Nó mang lại nhịp điệu cơ giới cho đời sống thường nhật, do vậy nó được sử dụng trong chủ nghĩa tư bản sau này, khi nhịp điệu cơ giới bắt đầu định hình công việc và đời sống thường nhật của con người. Khái niệm lao động trừu tượng của Marx, một ý tưởng xuất hiện trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, là sự hao phí năng lượng của con người bất kể là loại lao động nào được thực hiện, tìm thấy chỗ trú ẩn trong khái niệm thời gian trừu tượng. Không phải ngẫu nhiên mà đồng hồ đạt được sự ổn định và tính chính xác chỉ sau khi Galileo phát hiện ra chuyển động con lắc vào năm 1649, Huygens ứng dụng chuyển động con lắc cho đồng hồ vào năm 1656. Phút và giây trở thành cảm nhận thường nhật khi chúng xuất hiện trên mặt đồng hồ. Nội dung xã hội của khái niệm thời gian và đồng hồ, vai trò của chúng đối với tái sản xuất của kinh tế tư bản và xã hội, đã được thể hiện rõ. Giờ đây, các hoạt động thương mại và công nghiệp phức tạp được tổ chức một cách sinh lợi dựa vào việc tái cấu trúc lại ngày theo các đơn vị thời gian trừu tượng, bất kể là hoạt động gì, đều có thể được nhồi nhét vào trong một đơn vị thời gian nhỏ dần, cũng giống như tiền. Thời gian trở thành tiền bạc. Kinh tế cũng trở thành kinh tế về thời gian. Cuộc sống của con người và bắt đầu với cuộc sống của người lao động, bị thống trị bởi nhịp điệu của đồng hồ cơ học và sau đó là máy móc, nhịp điệu của chúng cũng đều đặn như đồng hồ. Các khái niệm sinh thái học và vũ trụ về thời gian bị thay thế bằng tiếng tích tắc trống rỗng của đồng hồ.

Dẫu sao khái niệm thời gian này còn có thể hình dung được. Máy tính đưa ra một đơn vị thời gian mà con người không còn hình dung được nữa, nanosecond, một phần tỷ của một giây. Khái niệm về thời gian đó vượt qua khỏi kinh nghiệm của con người và chỉ có máy móc ‘nhận thức’ và đếm được. Như đã nói ở trên, nội dung xã hội của khái niệm này được thể hiện bằng việc áp dụng ý tưởng mới về sự hoàn hảo, người giống như máy hoặc máy giống như người có khả năng nhận thức thời gian như máy tính. Tất cả những phần còn lại của đời sống con người bị tiêu chuẩn hóa, bần cùng hóa, dễ dàng thao túng bằng kỹ thuật gen và hoàn toàn phục tùng tư bản. Đó là khuynh hướng nội tại của khoa học tự nhiên và kỹ thuật hiện nay. Ngay cả nơi trú ẩn cuối cùng của khái niệm thời gian tuần hoàn, chiếc đống hồ có hai kim và hoàn tất chu kỳ sau mỗi 12h, cũng bị thay thế bằng đồng hồ kỹ thuật số và đồng hồ đeo tay, trên đó thời gian chỉ là con số. Mọi sự liên hệ với quá khứ và tương lai đều bị xóa sạch trong đồng hồ kỹ thuật số. Chỉ có hiện tại là tồn tại. Đồng thời, tiếng tích tắc của đồng hồ cơ khí cũng bị thay thế bằng đồng hồ điện tử. Như Rifkins đã bình luận chính xác, đồng hồ kỹ thuật số là ẩn dụ về một xã hội mà trong đó quá khứ cũng như tương lai đều chỉ là chức năng của hiện tại: quá khứ là một tập hợp thông tin có thể truy xuất lại trong ngân hàng dữ liệu và tương lai chỉ là một trong số các sự kết hợp khả thi của những đơn vị thông tin đó. Tương lai không phải là sự hiện thực hóa của những tiềm năng đang trú ẩn trong thực tại đã diễn ra mà chỉ là sự tái kết hợp những thành phần của thực tại đã diễn ra. Vũ trụ không còn được coi là một chiếc đồng hồ vĩ đại, theo truyền thống Newton, mà được nhiều nhà khoa học coi là một dạng hệ thống thông tin tự hành khổng lồ, một dạng máy tính khổng lồ. Cuộc sống được coi là mã hóa của của hàng tỷ đơn vị thông tin, có thể tái cấu trúc tùy ý cho mục đích tạo ra dạng sống mới. Đó là nguồn gốc văn hóa của kỹ thuật gen.

Do vậy, nhờ vào những mâu thuẫn nội tại của hiện tượng xã hội, khai niệm thời gian có thể được kết hợp vào khái niệm hóa mang tính chức năng cho cả sự thống trị của tư bản cũng như sự phản kháng. Ngay cả trong trường hợp sau thì sự phản kháng cũng phụ thuộc vào khái niệm thời gian mang tính chức năng đối với sự liên tục của sự thống trị. Lao động bị buộc phải sử dụng khái niệm thời gian này để chống lại sự thống trị của tư bản, nhưng đồng thời, nó cũng sử dụng khái niệm do tư bản quy định và có nội dung giai cấp ủng hộ tư bản, do vậy, đồng thời vừa tái sản xuất vừa thay thế sự thống trị của tư bản đối với lao động.

170 Much of what follows on this point has been received from Rifkin 1989.
171 Rifkin 1989, pp. 64–5.
172 It has been argued that the notion of concrete time is abstract too, because it is the result of human abstraction. This is trivially true. But concrete vs. abstract here refers to time to be spent for specific activities versus time which can be spent on any activity.

( Phía trên là bản dịch từ trang 264-267, đoạn trích bàn về khái niệm thời gian của chủ nghĩa tư bản, trong cuốn sách "Behind the Crisis" của G. Carchedi.)

Thursday, September 27, 2018

Bàn về chuyện kinh doanh sách giáo khoa

Đánh giá của ủy ban Quốc Hội 
Hệ thống cung cấp sách giáo khoa bao gồm:

1. 90 nhà in sách ở các tỉnh thầu in sách cho NXB Giáo Dục
2. 3 cấp đại lý: đại lý khu vực, đại lý địa phương, đại lý bán lẻ

Về mặt logistic: Việc đặt in tại 90 nhà in ở các tỉnh cho thấy quy mô của các nhà in là nhỏ so với sản lượng sách giáo khoa. Việc gom sách về kho trung tâm rồi sau đó phân phối cho các cấp đại lý là cách làm bình thường. Đây là mô hình mạng lưới tập trung, theo mô hình này không ai lại đi chuyển trực tiếp từ nhà in tới các cấp đại lý phân phối cả, điều đó sẽ phát sinh chi phí vận chuyển lớn hơn nhiều do sản lượng vận chuyển không được tối ưu ở các tuyến vận chuyển. Muốn chuyển sang mô hình phân tán, tức là sản lượng phát hành tại các địa phương sẽ phải cực nhỏ hoặc cực lớn, song điều đó cũng có nghĩa là phải thay đổi chiến lược sản phẩm để khai thác tối đa thị trường địa phương.

Về mặt chiết khấu cho đại lý: Tỷ lệ chiết khấu 40% trông có vẻ cao, nhưng nếu chia theo 3 cấp đại lý thì không nhiều. Phần chiết khấu cũng không phải là lợi nhuận mà các đại lý được hưởng, chúng dùng để bù đắp chi phí kinh doanh của các đại lý nữa, sau khi trừ chi phí mới là lợi nhuận. Ở đây, doanh thu bán sách giáo khoa lên đến 1.000 tỷ đồng, các đại lý được chiết khấu 250 tỷ đồng, có nghĩa là doanh thu thực của các đại lý chỉ là 250 tỷ. Sau khi trừ đi chi phí kinh doanh thì phần lợi nhuận của họ ít hơn 250 tỷ đồng nhiều.
Kết quả kinh doanh SGK của NXB Giáo Dục

Vấn đề thực sự: Chỉ cần một mô tả đơn giản ở trên và chút ít kiến thức về logistic thì người ta thấy ngay là việc phát hành sách giáo khoa đối với các đại lý là gánh nặng. Vấn đề là sách giáo khoa thuộc độc quyền của bộ Giáo Dục và hệ thống đại lý buộc phải cung cấp, họ không được phép từ chối.

NXB Giáo Dục độc quyền phát hành sách giáo khoa thì họ cũng độc quyền gánh vác nghĩa vụ công ích. Điều này thể hiện ở chỗ hệ thống đại lý của họ sẽ phải cung cấp cho các địa phương ngay cả khi sản lượng thấp, họ cũng phải chấp nhận giá bán thống nhất không được quyền điều chỉnh trên toàn quốc do Bộ Tài Chính quy định cho dù giá này không đủ bù chi phí tại nhiều địa phương. Sản lượng và giá cả ở đây không phụ thuộc vào thị trường mà sẽ phụ thuộc vào nhu cầu phổ cập giáo dục của nhà nước.

Các công ty phát hành sách địa phương đã nhanh chóng tìm cách bù đắp thiệt hại từ việc cung cấp sách giáo khoa bằng cách liên kết với các nhà xuất bản khác và nhà trường để đưa thêm sách tham khảo đủ loại vào bộ sách giáo khoa bán cho học sinh. Như vậy, NXB Giáo Dục trên thực tế không kiểm soát được bộ sách giáo khoa mà họ cung cấp cho học sinh. NXB Giáo Dục biết rõ điều này nhưng họ không thể can thiệp, vì thứ nhất là họ không có quyền và thứ hai là nếu họ có thể can thiệp thì cũng sẽ phải đối đầu với vấn đề chi phí phát hành.

Vậy làm thế nào để các đại lý có lãi?

Câu trả lời: Tư nhân hóa việc cung cấp sách giáo khoa bằng cách cho phép doanh nghiệp tư nhân tự do in nhiều bộ khác nhau để các địa phương tùy ý lựa chọn, các đại lý sẽ được giải phóng khỏi nghĩa vụ buộc phải cung cấp sách giáo khoa theo cấp hành chính. Họ sẽ lựa chọn cung cấp sách giáo khoa ở những khu vực nào có mức sản lượng đủ để mang lại lợi nhuận. Khu vực nào sản lượng thấp, không có đại lý nào muốn cung cấp thì nhà nước sẽ phải dùng ngân sách để bù đắp phần thâm hụt nhằm đảm bảo trẻ em đi học có sách giáo khoa để dùng. Điều này trên thực tế chỉ là một bước hợp thức hóa sự kiểm soát việc cung cấp sách giáo khoa của các đại lý.

Việc tư nhân hóa thị trường sách giáo khoa sẽ giúp các doanh nghiệp phát hành sách giáo khoa giành được thế độc quyền ở địa phương và phát hành sách theo cách mà họ thu được lợi nhuận. Địa phương chỉ có thể lựa chọn bộ sách mà doanh nghiệp cung cấp.

Ý nghĩa: Tất cả những chuyện ồn ào này chỉ nhằm một mục đích duy nhất: Tách vai trò kinh doanh ra khỏi nghĩa vụ công ích trong việc cung cấp sách giáo khoa. Lợi nhuận để doanh nghiệp hưởng, còn phần lỗ thì nhà nước bù đắp. Đấy là bản chất của kinh tế thị trường. Mọi triết lý cao đẹp về giáo dục đều sẽ phải phục tùng triết lý của tiền bạc.

Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, khi người ta nói "vì người dân" thì nên hiểu là vì doanh nghiệp và lợi nhuận. Ngay cả đối với NXB Giáo Dục, mặc dù họ độc quyền kinh doanh sách giáo khoa, nhưng khi được giải phóng khỏi những ràng buộc chính trị và chỉ còn phải theo đuổi lợi nhuận thì họ cũng sẽ rất vui mừng.

Mọi thứ có thể đảo ngược không?

Lợi nhuận sẽ quyết định điều đó, hiện giờ lợi nhuận đòi hỏi phải tư nhân hóa việc cung cấp sách giáo khoa, nên điều này không có nghĩa là không thể đảo ngược. Đến một lúc nào đó lợi nhuận từ việc cung cấp sách giáo khoa không đủ hấp dẫn tư nhân kinh doanh nữa thì lĩnh vực này sẽ quay trở lại độc quyền nhà nước. Tất cả những điều đó tất nhiên sẽ luôn được biện minh bằng quyền lợi của người dân.

Vụ ồn ào về sách giáo khoa công nghệ giáo dục:

Có phải ngẫu nhiên mà một bộ sách giáo khoa được sử dụng từ lâu bất ngờ gây tranh cãi bất tận trên truyền thông? Không, nếu người ta biết rằng thành phố Hồ Chí Minh được phép sử dụng bộ sách giáo khoa riêng. Đó là thị trường lớn nhất ở Việt Nam và có điều kiện kinh doanh thuận lợi nhất nhờ cơ sở hạ tầng phát triển. Doanh nghiệp nào nhanh chân thâu tóm được thị trường sách giáo khoa ở thành phố Hồ Chí Minh sẽ có lợi nhuận lớn. Vậy nên ông giáo sư công nghệ giáo dục khi đi trả lời phỏng vấn báo chí mới lăm lăm trong tay cuốn "Gạc Ma-Vòng tròn bất tử". Ngay cả ông trưởng ban tuyên giáo cũng không bỏ qua cơ hội cho bàn dân thiên hạ thấy cuốn sách ấy trên tay mình. Đằng sau cuốn sách ấy là một công ty phát hành sách mà kẻ đứng đầu vốn lọc lõi về kinh doanh. Những sự tình cờ nhưng không hề tình cờ, nhất là khi nó đều hướng về thị trường sách giáo khoa ở thành phố Hồ Chí Minh.

Saturday, August 18, 2018

Ai lạc hậu? Ai văn minh?

Dân xứ Nam ta vẫn còn mông muội lắm, cứ phải Tây mới văn minh. Hà cớ chi các chú bày ra ba cái trò này để dân xứ Nam được dịp kiêu căng, nhận xằng mình văn minh nhỉ?


Người ta thường đem cái ảnh biển đề cấm ăn cắp hay cấm lấy đồ dư bằng tiếng Việt ở Nhật hay Thái Lan đăng lên để chứng minh dân Việt Nam ý thức kém, không cư xử văn minh. Cái truyền thống tự quản của làng xã từ xa xưa, ví như những quán nước đầu làng chả có ai trông coi, gia chủ bận đi làm đồng, ai vào uống nước hay mua gì thì tự tính tiền rồi để đó, thì không bao giờ được truyền thông ngày nay nhắc tới.

Quay lại cái quán có hình ở trên, tại sao chủ quán lại dám áp dụng mô hình tự quản ở một xứ mà ngày ngày truyền thông rao giảng không biết mệt mỏi về tệ nạn trộm cắp, cư xử kém văn minh?

Thứ nhất là ông chủ quán biết rõ truyền thông báo chí chỉ rặt nói láo, cũng có thể có người lấy nước không tự giác trả tiền, song số đó không đáng kể.

Thứ hai là mô hình kinh doanh của ông chủ quán khiến ông buộc phải làm vậy, ông bán buffet giá rất rẻ, muốn giá rẻ mà có lãi thì tất phải tiết kiệm chi phí phục vụ, có nghĩa là phải để khách hàng tự phục vụ tối đa. Khách vào quán này ăn nhiều tất sẽ quen với cách đó.

Ý thức không phải tự nhiên mà có, nó được sinh ra từ sinh hoạt hàng ngày, mà cái sinh hoạt đó, nhất là việc mua bán lại do mô hình kinh doanh quyết định, tức là do tư bản quyết định.

Ở những xứ tư bản phát triển thì họ áp dụng mô hình tự phục vụ, tự thanh toán nhiều để tiết kiệm chi phí, do vậy dân xứ họ buộc phải quen với những việc đó. Song điều đó không có nghĩa là không có nạn trộm cắp, gian lận.

Việc truyền thông hàng ngày hàng giờ bêu riếu những cái gọi là thói hư tật xấu, cư xử kém văn minh, mặc dù điều đó hoàn toàn là tào lao, không hẳn chỉ là để thu hút sự chú ý hay truyền bá văn minh phương Tây. Ngược lại đó là một sự đe dọa, một hình phạt bằng sự lên án thường trực của công luận để giúp cho các chủ doanh nghiệp mạnh dạn áp dụng các mô hình tự phục vụ, tự quản,  nhằm tiết kiệm chi phí cho họ. Những khách hàng định gian lận sẽ luôn bị những bảng hiệu lên án trộm cắp bằng tiếng Việt ở Nhật Bản ám ảnh. Đây chính là bản chất của chế độ tư bản, chủ doanh nghiệp từ bỏ các nghĩa vụ và quyền lực công cộng để có quyền lực tuyệt đối trong việc kiếm lợi, ngược lại một bộ phận khác sẽ đảm nhiệm quyền lực công cộng đó để hỗ trợ cho chủ doanh nghiệp.

Người ta thường nói rằng truyền thông Việt Nam càng ngày càng thối nát, đưa tin xàm, nói láo câu view vô tội vạ, nhưng cái mà người ta không hiểu là truyền thông giờ đang chuyển sang phục vụ cho tư bản, lợi nhuận của tư bản mới là lợi ích tối cao mà nó phục vụ. Trên phương diện đó thì truyền thông lại là sức mạnh công cộng đáng kể mà doanh nghiệp nắm được, do vậy đối với chủ tư bản mà nói thì truyền thông không nát chút nào, nó đang làm đúng cái việc cần phải làm.

Bởi vậy mà nói, nếu lấy chế độ tư bản ra làm chuẩn mực cho cái gọi văn minh thì mọi chế độ khác đều sẽ kém văn minh. Hơn nữa, đó là một sự đề cao chế độ tư bản vì đã lấy chế độ tư bản làm giá trị phổ quát, thang đo cho mọi xã hội. Việt Nam đã xây dựng một chế độ xã hội khác, người Việt Nam trước hết phải bỏ qua cái thang đo lạc hậu ấy và tự tạo ra cho mình những chuẩn mực mới.

P/s: Cái ảnh này không phải ở thủ đô thanh lịch lại càng không phải ở đô thành hoài nhớ thời thuộc địa hoa lệ quằn quại dưới gót giày lính lê dương, mà là ở Rạch Giá, Kiên Giang.

Thursday, July 19, 2018

Doanh nghiệp tặng sách để làm gì?


Kiến thức hay soi cầu lô đề?

Nhân có việc một anh chủ doanh nghiệp dùng chương trình tặng sách để quảng bá thương hiệu, khẩu hiệu thì hoành tráng lắm, nào là “Lập Chí Vĩ Đại”, “Khởi Nghiệp Kiến Quốc”, nghe cứ tưởng như đọc hết mớ sách ấy thì xứ Nam ta sẽ hóa Rồng hóa Hổ liền, một người bạn mới hỏi tôi rằng: Cớ sao tụi nó hay làm màu vậy bác?

Ba cái chương trình tặng sách đó thế giới người ta làm đầy quanh năm suốt tháng, mà có thấy ai hóa Rồng hóa Hổ chi đâu. Cái ngày tôi còn ở xứ Hitler, cuối tuần nào cũng có lũ lượt các hội đoàn đến tặng các loại Kinh Thánh để dụ vào đạo, cũng may là xứ ấy người ta cấm tiệt cuốn Mein Kampf (sách của Hitler) không thì chắc giờ tôi cũng thành tín đồ Nazis đòi thanh tẩy lũ An Nam mọi rợ để làm trong sạch nòi giống Aryan thượng đẳng không biết chừng.

Nếu bạn google thì sẽ thấy hàng mớ các cái chương trình tặng sách kiểu như bạn tặng bất kỳ ai đó một cuốn sách thì sẽ nhận được 20 cuốn sách từ những người khác tặng lại.

Nói chung ba cái vụ tặng sách ruồi bu vậy thường chả có tác dụng chi hết, có chăng là thêm mớ giấy lộn rác nhà vì giờ giấy vệ sinh được bán rất rẻ mà lại mềm mại hơn.

Có người sẽ cãi rằng: Ấy tôi đọc cuốn “Khuyến học” thấy hay lắm, cuốn ấy đầy cảm hứng quốc gia dân tộc, khuyên ta thoát Á, gây dựng sự độc lập tự cường, học sách ấy theo ắt xứ ta sẽ giống Nhật Bản. Cái mà người ta thấy hay thấy đúng đâu có nghĩa là nó đúng nhỉ?

Lại có người nói: Sách cũng có chút kiến thức, cho người ta đọc sách biết đâu người ta thoát nghèo, đổi đời thì cũng tốt. Cái biết đâu ấy liệu có xác suất cao bằng trúng đề hay trúng Vietlott? Nếu không bằng thì phát cho người ta 10 ngàn đi chơi Vietlott cho nhanh.

Thực ra ba cái trò này đều dùng cái mẹo của đám soi cầu lô đề để lừa người cả. Mẹo ấy ra sao? Nếu xác suất trúng đề là 1/100 thì mấy gã thầy bà chỉ cần dụ được 100 tín đồ, mỗi ngày ban cho mỗi đứa một số khác nhau thế là ngày nào cũng có đứa cảm ơn gã vì trúng đề. Nếu gã cao tay dụ được 10.000 đứa tin theo thì mỗi ngày sẽ có 100 đứa ca tụng, đốt vàng mã cho gã vì được ăn đậm. Lúc ấy, lúc ấy người ta đều sẽ mê muội, nói gì cũng không tin nữa, bằng chứng người thực việc thực ra đó, mỗi ngày có cả trăm đứa đổi đời nhờ lộc thánh, liệu ai không tin cho được? Đứa nào dại miệng nói tau theo hầu thánh mãi chưa ăn phát nào thì sẽ được nghe trả lời là mày chưa đủ đức tin. Đứa nào xấu miệng nói rằng ăn đề hay không chả liên quan gì đến thánh sẽ gom đủ gạch xây biệt thự to hơn cả trung tâm thương mại Vincom.

Mà kỳ thực người ta thấy hay, thấy có kết quả đâu có liên quan gì đến việc soi cầu, thế nhưng kẻ chơi lô đề tất phải soi cầu, để có hy vọng mà chơi.

Mấy anh doanh nghiệp vốn thạo cái trò quảng cáo kiểu này nên thường gom mấy cuốn sách nổi tiếng nhưng vô thưởng vô phạt, đọc xong hiểu thế nào cũng được, lại của mấy tác giả ngoại quốc để đỡ bị soi mói rồi đem tặng linh tinh, phát không càng nhiều sách thì càng dễ có mấy câu ca tụng kiểu hôm nay nhờ đọc sách của anh mà em ăn Vietlott.

Tại sao lại vậy?

Sở dĩ có chuyện đó là vì kinh tế thị trường một mặt tạo ra sự giàu có, nhưng sự giàu có đó chống lại con người, nó chỉ phục vụ cho tư bản, bỏ mặc đa số con người sống trong thất bại, nghèo đói, tuyệt vọng. Vì vậy con người cần có một thứ gì đó để nuôi hy vọng, để có thể tiếp tục tồn tại. Rất nhiều sách viết cho mục đích đó, nó được gọi là truyền cảm hứng, đọc nó xong thì người ta thấy mình thay đổi, thấy có động lực làm việc này việc kia. Song cái mà người ta không hiểu được là sự thay đổi của người ta có hay không cũng chả liên quan gì đến ba cái cuốn sách ấy. Một thứ không thể tự nhiên xuất hiện nếu nó không tồn tại sẵn ở đâu đó. Cái khát vọng thay đổi nó vốn đã ẩn náu trong bản thân người ta, chỉ chờ cơ hội thích hợp là bùng lên. Cuốn sách truyền cảm hứng kia vốn cũng như trò soi cầu lô đề, nó trở nên có giá trị vì gặp được người muốn thay đổi và có thể thay đổi vào đúng thời điểm đọc nó, chính người đó khiến nó có giá trị chứ không phải ngược lại.

Hàng sa số những người đọc cuốn sách đó mà không thay đổi gì sẽ bị lãng quên.

Hàng sa số những người không cần đọc cuốn sách đó mà có sự thay đổi sẽ chẳng bao giờ được biết đến.

Nếu cuốn sách đó thực sự có tác dụng thần kỳ như người ta quảng cáo thì sau vài ngày không ai cần phải đọc nó nữa. Mọi người đọc nó và trở nên giàu có cả rồi. Sự tồn tại của nó chứng minh rằng nó chẳng có tác dụng gì hết.

Nó đơn giản là một liều thuốc phiện để người ta tiếp tục mơ màng với đời và an ủi cho những thất bại của đời mình.

Kết luận là gì?

Thông thường mấy cuộc tranh luận triền miên lặp đi lặp lại về các cuốn sách truyền cảm hứng hay tạo động lực là vô nghĩa, như chính bản thân chúng. Người ta sẽ luôn mang kinh nghiệm ra chứng minh nó đúng, mặc dù kinh nghiệm không phải là bằng chứng.

Mánh lái buôn của Lã Bất Vi

Lã Bất Vi là lái buôn rất giàu, nhưng ông ta còn giàu hơn nhiều khi buôn vua.

Quay lại với anh chàng chủ doanh nghiệp, việc đầu tiên cần nhớ rằng anh ta kinh doanh và phải kiếm lợi. Bất kể mục tiêu hoành tráng đến đâu thì cuối cùng nó phải được hiện thực hóa bằng tiền, nếu không anh ta sẽ phá sản và đi ăn mày, bất chấp mớ sách vĩ đại, có giá trị như vàng của anh ta, mặc dù bán giấy cân thì cũng sẽ có đồng nát gom. Việc tặng sách chỉ là quảng cáo, mục đích chính của anh ta là kinh doanh cái khác.

Vậy việc tặng sách sẽ hỗ trợ việc kinh doanh của anh ta ra sao? Đó mới là câu hỏi đúng.

Thứ nhất, khi anh ta tặng một số lượng sách rất lớn thì các nhà xuất bản và giới trí thức, vốn làm công việc môi giới kiến thức, sẽ rất vui mừng, vì điều đó tạo công ăn việc làm cho họ. Tức là họ sẽ ủng hộ anh ta hết mình.

Thứ hai, những cuốn sách anh ta tặng đều là là sách phương Tây, con đẻ tinh thần của chủ nghĩa tư bản, bàn chuyện làm ăn kiếm lợi. Tức là anh ta sẽ được lòng giới trí thức thân phương Tây.

Thứ ba, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam vốn bị phân mảnh bởi sự phân mảnh của hệ thống chính trị, tạo ra vô số những rào cản về chính sách, thủ tục giữa các chính quyền địa phương, giữa chính quyền địa phương và chính quyền trung ương. Do vậy, một doanh nghiệp muốn làm ăn lớn thì phải có khả năng đàm phán về chính sách với cả chính quyền trung ương lẫn địa phương. Giới trí thức thân phương Tây đang dần dần trở nên có thế lực trong việc tham mưu chính sách cả ở chính quyền trung ương lẫn địa phương, khi nhận được sự ủng hộ của họ thì doanh nghiệp sẽ có khả năng đàm phán chính sách. Lối làm ăn này thể hiện sự phân mảnh của hệ thống chính trị, nó có thể tạo ra những doanh nghiệp cực lớn ở ngay những nơi nghèo khó lạc hậu nhất, vì nó có khả năng tập trung nguồn giá trị thặng dư mà không một nền kinh tế tư bản nào sánh được.

Nhiều năm quy ẩn trong rừng cuối cùng cũng khiến anh chủ doanh nghiệp ngộ ra chân lý thời đại.

Thế nên anh ấy có mang siêu xe với người mẫu để đi tặng sách cho mấy cháu dân tộc miền núi cởi truồng, một chữ bẻ đôi đọc còn chưa nổi thì bạn cũng đừng vội chê cười. Anh ta vốn hiểu rõ việc mình làm, ấy là tạo dựng mối quan hệ với trí thức địa phương.

Mạng lưới trí thức rộng lớn ủng hộ anh ta từ những vùng quê đói nghèo đến những thành thị xa hoa, đấy là cái anh ta muốn và cần để kiếm tiền.

Thế nên anh ta tuyên bố sẽ phung phí hàng tỷ đồng tiền Mỹ để tặng sách thì các bạn cũng đừng nghĩ đó là tiền cho người nghèo để đổi đời, kỳ thực anh ta mua sự ủng hộ của giới trí thức trong công cuộc làm giàu của bản thân.

Chân lý của thời đại tư bản chỉ có vậy. Thời đại tư bản chỉ biết đến một thứ minh triết duy nhất, đó là minh triết của đồng tiền. Hoặc là bạn hiểu nó hoặc là bạn bị nó nghiền nát.

Monday, June 26, 2017

Grab/Uber Bike và xe ôm truyền thống

Mỗi khi ai đó nhắc đến sự bùng nổ của mấy mô hình kinh doanh kiểu Grab Bike hay Uber Bike và sự suy tàn của xe ôm truyền thống, tôi thường được nghe thấy câu kết luận rằng: Xe ôm truyền thống cứ cải thiện chất lượng dịch vụ, hạ giá, làm ăn nghiêm chỉnh minh bạch như Grab/Uber Bike đi, đừng lừa đảo bắt chẹt khách nữa, thì lo gì không có khách.

Câu hỏi ngược lại thường khiến người kết luận im lặng ngay lập tức: Ngay cả khi xe ôm truyền thống làm ăn nghiêm chỉnh minh bạch như Grab Bike hay Uber thì họ có cạnh tranh được về thương hiệu, các chương trình khuyến mại, giảm giá, tặng quà và hệ thống tiếp cận khách hàng với mấy hãng kia không?

Những người làm xe ôm truyền thống hầu hết là người nghèo, không trình độ, vốn liếng chỉ có chiến xe máy rẻ tiền, họ không bao giờ có hàng triệu dollar để ném vào các chương trình quảng cáo, giảm giá, tặng quà và hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin như Grab hay Uber. Trong cuộc chiến này, họ đã thua chắc chắn.

Thông thường người ta thấy giá một cuốc xe hay tính trên km của xe ôm truyền thống đắt hơn của Uber hay Grab, họ sẽ cho rằng xe ôm truyền thống tính đắt hơn. Song người ta sẽ không khó để hiểu được điều này, xác suất kiếm được khách hàng của xe ôm truyền thống thấp hơn Grab/Uber, ngược lại xác xuất kiếm được khách hàng của Grab/Uber cao hơn rất nhiều do họ kết nối với số lượng lớn khách hàng qua một hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin cực kỳ tốn kém. Do vậy, mặc dù xe ôm truyền thống tính phí/km cao hơn nhưng thu nhập một ngày của họ thấp hơn rất nhiều so với người chạy Grab/Uber, ngược chính điều này cho phép  người chạy xe Grab/Uber tính phí/km thấp hơn nhưng vẫn có thu nhập lớn hơn xe ôm truyền thống. 

Hơn nữa, Grab/Uber hiện giờ đang là những doanh nghiệp start-up, tức là họ chưa cần phải tính toán đến lợi nhuận, họ lại nhận được một khoản tiền khổng lồ để mở rộng mạng lưới kinh doanh. Sức cạnh tranh của họ rất khủng khiếp với các chương trình khuyến mại giảm giá, tặng quà và quảng cáo mạnh mẽ. Liệu có xe ôm truyền thống nào có đủ tiền để đối đầu với họ? 

Cơn bão start-up đã cho thấy rõ cách thức mà các start-up phát triển. Nó cần phải thu hút được đủ tiền để làm phá sản các doanh nghiệp hoặc những người kinh doanh nhỏ trên thị trường và sau đó nó sẽ đủ lớn để kiếm lợi. Công nghệ hay tính hữu dụng chỉ là vỏ bọc phù phiếm. Những vụ mua bán start-up trị giá nhiều triệu dollar cũng có nghĩa là nhiều doanh nghiệp sẽ bị phá hủy.

Một điều chắc chắn là phần lớn những người chạy xe ôm truyền thống hiện nay sẽ thất nghiệp, tạo ra một gánh nặng mới cho xã hội. Đó là cái giá phải trả thứ hai của cơn mê start-up. Khác với doanh nghiệp taxi, vốn đóng thuế nhiều cho nhà nước, có thể lên tiếng đòi nhà nước bảo vệ, tiếng nói của những người chạy xe ôm truyền thống lẻ loi sẽ chẳng có ai lắng nghe.

Nhưng phần còn lại của xe ôm truyền thống sẽ ra sao? Họ sẽ vẫn tồn tại, chỉ có điều theo cách khác. Nếu tiếp tục hoạt động đơn lẻ, họ chắc chắn sẽ bị tiêu diệt. Nếu họ đầu quân cho các doanh nghiệp vận tải kiểu mới với ứng dụng tương tự như Grab hay Uber thì họ sẽ bị chúng nuốt chửng và trở thành người làm thuê.

Cách duy nhất giúp xe ôm truyền thống tiếp tục tồn tại là hợp tác hóa. Điều này đã xuất hiện tại nhiều nơi nhưng ít người để ý. Các lái xe sẽ kết hợp với nhau thành một kiểu hợp tác xã, dùng điện thoại để liên hệ, điều phối xe và đón khách. Việc đó giúp họ có thể tăng xác suất kiếm được khách, hạ giá cước, cũng như thực hiện các chương trình nâng cao chất lượng dịch vụ. Điều mấu chốt trong cách làm này là họ cần phải thực hiện việc hợp tác hóa và chiếm lấy những thị trường Grab/Uber chưa vươn tới, để khi Grab/Uber bắt đầu vươn sang những thị trường đó thì xe ôm truyền thống đã đứng vững với cách kinh doanh mới rồi.

Sunday, April 16, 2017

Sự trỗi dậy của miền Trung và hệ quả

Bài viết ngắn này được rút ra từ những chuyến đi qua nhiều tỉnh của tôi và nhằm mục đích trình bày mâu thuẫn giai cấp ở Việt Nam liên quan đến vùng miền dưới dạng phổ thông nhất cho đại đa số người đọc. 

Sự bất ngờ từ khu vực miền Trung

Thời gian vừa qua tôi đi đến các tỉnh của Việt Nam khá nhiều để khảo chất lượng dịch vụ tại các chi nhánh của một doanh nghiệp lớn. Doanh nghiệp này cung cấp loại sản phẩm rất đắt tiền, khách hàng của họ là hầu hết là những người giàu và có thu nhập cao ở Việt Nam. Điều này có nghĩa là yêu cầu về chất lượng dịch vụ cũng rất cao

Nhiều người khi đối mặt với câu hỏi “Chất lượng dịch vụ ở đâu tốt nhất?” hầu như đều cho rằng chất lượng dịch vụ ở miền Nam là tốt nhất, sau đó đến miền Bắc và không ai cho rằng chất lượng dịch vụ ở miền Trung là tốt nhất cả, đặc biệt là chất lượng của những dịch vụ cao cấp. Đa số người miền trung mà tôi gặp cũng nghĩ như vậy.

Nhưng kết quả khảo sát đã làm tôi thực sự bất ngờ, chất lượng dịch vụ của khu vực miền Trung là tốt nhất, vượt trội hẳn so với miền Nam và miền Bắc. Người lao động và các chi nhánh miền Trung tuân thủ rất tốt các quy định về chất lượng dịch vụ.

Sự kiện này có ý nghĩa rất lớn đối với môi trường kinh doanh ở miền Trung, điều đó có nghĩa là khách hàng sẽ hài lòng hơn, mua nhiều hàng hóa hơn và doanh nghiệp ở miền Trung sẽ nhận được các khoản đầu tư lớn hơn. Điều này cũng cho thấy sự trỗi dậy mạnh mẽ của người lao động và doanh nghiệp miền Trung, họ đang trên đà cất cánh.

Mâu thuẫn trong kinh tế thị trường

Chủ nghĩa tư bản hay kinh tế thị trường tồn tại dựa trên sự cạnh tranh không ngừng, giữa các doanh nghiệp, giữa các địa phương, cũng như giữa nông thôn và thành thị. Khi khu vực miền Trung vươn lên, trở nên mạnh mẽ và độc lập hơn về kinh tế thì tất yếu vị thế thống trị từ trước tới nay của các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội và Hồ Chí Minh sẽ bị ảnh hưởng. Thứ nhất, các nguồn đầu tư lớn hơn sẽ đổ vào miền Trung thay vì các trung tâm kinh tế lớn. Thứ hai, các doanh nghiệp miền Trung sẽ giành được thị phần lớn hơn từ các doanh nghiệp ở hai đầu đất nước.

Liệu các doanh nghiệp và các địa phương ở hai đầu đất nước sẽ đứng yên nhìn điều đó? Không, họ sẽ tìm mọi các chống lại điều đó. Ngoài việc gia tăng đầu tư thì họ cũng sẽ tìm cách chống lại sự tăng trưởng của miền Trung bằng những hàng rào kỹ thuật. Ví dụ, vận động chính quyền trung ương áp đặt các quy tắc nghiêm ngặt hơn về bảo vệ môi trường cho khu vực miền Trung, điều này sẽ khiến các việc đầu tư vào công nghiệp ở miền Trung có chi phí cao hơn ở các khu vực khác, tức là giảm bớt sự hấp dẫn của khu vực miền Trung.

Từ kinh tế đến chính trị

Đó là mâu thuẫn tất yếu của kinh tế thị trường và rất nhiều thế lực khác nhau sẽ sống ký sinh vào mâu thuẫn đó. Ví dụ, báo chí quảng cáo cho các doanh nghiệp ở miền Bắc và miền Nam sẽ rất sốt sắng khi đưa tin tức về những rối loạn của môi trường kinh doanh hay sự tham nhũng của quan chức chính quyền các tỉnh miền Trung. Hãy lưu ý, sự định hướng là rõ ràng ngay cả khi báo chí đưa tin trung thực và chính xác, chưa cần đến việc họ xuyên tạc hay bóp méo sự việc. Trên chính trường, người ta thường xuyên bắt gặp hơn những vận động chính trị liên quan đến của miền Trung, sẽ không ai thấy làm lạ khi các đại biểu Quốc Hội ở khu vực phía Bắc hay phía Nam bắt đầu chú ý và đòi làm rõ sai lầm tại các tỉnh miền Trung. Ngay cả khi việc này là minh bạch và đúng đắn thì nó cũng làm phân tán nguồn lực và khiến cho lãnh đạo các tỉnh miền Trung phải bảo thủ hơn trong các quyết định của mình, nhất là các quyết định liên quan đến môi trường kinh doanh.

Việt Nam đang trong tiến trình của một nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chấp nhận kinh tế thị trường tức là chấp nhận những mâu thuẫn của kinh tế thị trường và cần phải kiểm soát được những mâu thuẫn ấy. Sự vận động và phát triển của quốc gia cũng sẽ gắn liền với việc kiểm soát những mâu thuẫn đó.

Các thế lực phản động tại Việt Nam hiện nay cũng tồn tại bám vào những mâu thuẫn của cơ thế thị trường cũng như khoảng trống do sự vận động mà các mâu thuẫn đó tạo ra. Ví dụ, khi vấn đề môi trường ở miền Trung đang nóng bỏng thì không có lãnh đạo nào dại dột đi xử lý mạnh tay một nhúm biểu tình về môi trường, mặc dù biết rằng đó là những kẻ phá hoại mượn danh bảo vệ môi trường. Lý do rất đơn giản: anh tự đưa mình vào thế bất lợi khi làm việc đó, anh sẽ khiến công chúng tin rằng anh bảo kê cho sự phá hoại môi trường. Chính việc sống ký sinh này khiến cho một số người ngộ nhận và cố tình ngộ nhận rằng các nhóm phản động là do chính quyền nuôi dưỡng. Sự ngộ nhận này khiến cho họ trở thành một phần của thế lực phản động, họ luôn cho rằng muốn chống lại những kẻ phản động thì trước hết phải chống lại chính quyền nói chung. Đó là một lập luận vô cùng kỳ quặc và chống lại giai cấp vô sản vì chính quyền là công cụ duy nhất để giai cấp vô sản thực hiện cuộc cách mạnh của mình. Hãy lưu ý rằng mục đích của các thế lực phản động luôn là lợi dụng các mâu thuẫn sẵn có để lật đổ chế độ hiện tại, vậy thì những người kia khác gì với chúng?


Kết luận

Miền Trung đang vươn lên mạnh mẽ và các lãnh đạo ở đây cũng sẽ phải học cách chung sống với những cạnh tranh gay gắt hơn cả về kinh tế lẫn chính trị. Miền đất sắt đá nhất trong cách mạng giải phóng dân tộc giờ đây sẽ phải học cách đương đầu với những mâu thuẫn đòi hỏi phải xử lý bằng nghệ thuật ứng xử chính trị tinh tế hơn là cách làm dân vận truyền thống. Điều này có lẽ là một cơ hội hơn là thách thức.

Thursday, September 15, 2016

Tiền lương và phong trào công nhân

Khi bàn về vấn đề tiền lương, người ta thường hay được nghe thấy lập luận như sau: Tiền lương tăng sẽ dẫn đến chi phí sản xuất tăng, do vậy giá cả hàng hóa sẽ tăng. Nền kinh tế sẽ mất ổn định, đời sống sẽ khó khăn. Như vậy, công nhân không nên đòi tăng lương vì tăng lương là căn nguyên của mọi tai vạ về kinh tế.

Câu hỏi mấu chốt: Tại sao chi phí sản xuất tăng thì giá cả hàng hóa lại tăng?

Câu trả lời: Để duy trì tỷ suất lợi nhuận cũ cho nhà tư bản.

Vấn đề: Công nhân không được đòi tăng lương ngay cả khi chết đói còn nhà tư bản đương nhiên được tăng giá hàng hóa khi chi phí sản xuất tăng.

Chuyện này có gì mới không? Chả có gì mới, Marx đã viết từ lâu trong cuốn "Triết học của sự khốn cùng" khi phê phán lập luận của Prouhdon về tiền lương. 

Trong cuốn "Triết học của sự khốn cùng", Marx đã chỉ ra rằng khi tiền lương tăng lên thì giá cả hàng hóa thậm chí còn có thể giảm xuống. Lý do là bởi vì trong nền kinh tế các doanh nghiệp có mức độ sử dụng nhân công khác nhau. Doanh nghiệp nào sử dụng nhiều lao động và ít máy móc thì sẽ chịu ảnh hưởng lớn của việc tăng lương, tức là tỷ suất lợi nhuận của họ sẽ giảm mạnh hơn so với những doanh nghiệp sử dụng ít lao động và nhiều máy móc. Các doanh nghiệp có cấu tạo hữu cơ cao hơn, tức là sử dụng nhiều máy móc hơn lao động, sẽ nhận thấy rằng họ có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với các doanh nghiệp có cấu tạo hữu cơ thấp hơn. Lúc ấy, họ sẽ hạ giá hàng hóa xuống để chiếm lấy thị trường của những doanh nghiệp có cấu tạo hữu cơ thấp. Lợi nhuận của họ sẽ lớn hơn cho dù tỷ suất lợi nhuận thấp hơn. Các doanh nghiệp có cấu tạo hữu cơ thấp lúc này đồng thời phải đối mặt với hai áp lực: tỷ suất lợi nhuận sụt giảm và giá hàng hóa trên thị trường giảm đi. Nhiều doanh nghiệp thuộc loại này sẽ bị phá sản để nhường chỗ cho những doanh nghiệp có cấu tạo hữu cơ cao hơn. 

Tiền lương tăng lên là thảm họa của những doanh nghiệp sử dụng nhiều nhân công song là cơ hội để những doanh nghiệp sử dụng ít nhân công thâu tóm thị trường. Điều này có thể thấy rất rõ thông qua những biến động kinh tế trong thực tiễn.

Đó là chính là lý do mà các doanh nghiệp có cấu tạo hữu cơ cao, sử dụng nhiều máy móc và ít nhân công, thường hay tìm các thúc đẩy việc gia tăng tiền lương phổ biến ở mức độ nhất định trong thời kỳ mà họ tìm cách thâu tóm thị trường. Để làm được điều đó, họ sẵn sàng chấp nhận cho công đoàn của công nhân hoạt động trong phạm vi được kiểm soát. Công đoàn là tổ chức bảo vệ cho quyền lợi của người công nhân, chống lại giới chủ, nhưng để tồn tại trong xã hội tư bản thì nó cũng phải thích nghi với việc bị nhà tư bản lợi dụng để cạnh tranh trên thị trường. Do vậy, công đoàn không phải là thứ triệt để cách mạng và rất dễ lung lay. 

Nếu ai đó hỏi một người vô sản rằng: Tại sao công đoàn không phát động đình công đòi tăng lương, gia tăng quyền lợi cho công nhân? 

Người vô sản sẽ trả lời: Công đoàn sẽ phát động đình công khi nào người công nhân muốn chứ không phải là khi ông chủ doanh nghiệp muốn.   

Nhiều người cho rằng khi Việt Nam hội nhập quốc tế thì công đoàn cũng cần phải được tự do hoạt động để bảo vệ quyền lợi của công nhân. Khi tự do, không có đảng Cộng Sản, tức là đảng của những người vô sản, dẫn dắt thì công đoàn sẽ trở thành vô chính phủ, nó sẽ dễ dàng bán mình cho doanh nghiệp và trở thành kẻ đánh thuê cho doanh nghiệp. Thay vì bảo vệ quyền lợi của công nhân thì lúc ấy công đoàn sẽ bảo vệ quyền lợi của giới chủ doanh nghiệp. Công đoàn lúc ấy sẽ trở thành công cụ trong tay các nhà tư bản quốc tế để đè bẹp các doanh nghiệp Việt Nam và thâu tóm thị trường Việt Nam cho họ. Quyền lợi của một bộ phận công nhân này sẽ phải đánh đổi bằng sự thất nghiệp, đói nghèo của một bộ phận công nhân khác. Cuối cùng, toàn bộ giai cấp vô sản sẽ phải trả giá cho điều đó.

Chủ nghĩa tư bản luôn luôn muốn tự do cạnh tranh, người vô sản chỉ có một vũ khí duy nhất để chống lại chủ nghĩa tư bản, đó là sự đoàn kết. Sự đoàn kết ấy không chỉ là lý trí mà nó còn bắt nguồn từ quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản.

Tuesday, December 22, 2015

Ảo tưởng về việc biến tài sản thành tư bản: Alan Gilbert phê phán de Soto

Cuốn sách bán chạy "Sự bí ẩn của tư bản" xuất bản năm 2000 của tác Hernando de Soto từng là chủ đề tranh luận gay gắt một thời trên thế giới. Lập luận của de Soto đã được các thể chế tân tự do quốc tế như Ngân Hàng Thế Giới (WB) và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) rao giảng nồng nhiệt tại các nước đang phát triển. Họ coi chúng là phương thuốc thần kỳ để biến các nước đang phát triển thành phát triển. Nhưng thời gian đã cho thấy phương thuốc kỳ diệu ấy không có tác dụng. Ở Việt Nam cũng có những đại diện của chủ nghĩa lãng mạn cánh hữu, một trong số họ đã dịch cuốn sách của de Soto ra tiếng Việt và nó thường xuyên được báo chí dân túy viện ra để kêu ca về việc "với quyền sở hữu - quyền sử dụng đất được hiến định như hiện nay, không những chúng ta tự nguyện thu nhỏ và làm hẹp nguồn tư bản sẵn có trong nền kinh tế mà quan trọng hơn là tự tách biệt nguồn tư bản này với những nền kinh tế và thị trường vốn quốc tế.

Những điều nhảm nhí tệ hại đó đang được lặp đi lặp lại hàng ngày trên báo chí và truyền thông, bất chấp sự mơ hồ và sự lẫn lộn thảm hại giữa tài sản và tư bản trong những lập luận ấy, bất chấp việc huyền thoại de Soto đã bị quăng vào sọt rác ở cả USAID cũng như WB hay IMF.

Giáo sư Alan Gilbert của Đại học London trong bài "On the Mystery of Capital and the Myths of Hernando de Soto: What Difference Does Legal Title Make?" đăng trên International Development Planning Review (Formerly Third World Planning Review), 24 (1), February 2002, pages 1-19. với nđã phê phán sự tán dương quyền sở hữu của de Soto dựa trên các cơ sở thực tế. Ông bác bỏ mọi tuyên bố của de Soto về việc cấp chứng nhận quyền sở hữu bất động sản sẽ biến những người dân nghèo khu ổ chuột thành nhà tư bản. Thực tế ở các nước Mỹ Latin và các nước nghèo trên thế giới đã cho thấy điều đó. Sau 15 năm kể từ khi cuốn sách của de Soto xuất hiện và sau những nỗ lực thúc đẩy việc cấp chứng nhận quyền sở hữu đất đai của WB trên khắp thế giới, những người dân nghèo vẫn tiếp tục nghèo và đất đai của họ không bao giờ được biến thành tư bản sống hay giúp họ trở thành nhà tư bản, đất nước của họ vẫn tiếp tục là sự thất bại của chủ nghĩa tư bản.

Tài sản hay của cải chỉ có thể được biến trở thành tư bản khi nó được tích lũy đủ lớn để mua sắm nguyên vật liệu và thuê nhân công, như vậy nó giả định phải có nhân công làm thuê, tức là một bộ phận lớn dân chúng phải bị tước đoạt hết tài sản, bị bần cùng hóa. Do vậy, quá trình biến đổi tài sản trở thành tư bản cũng giả định phải có sự tước đoạt quyền sở hữu trên quy mô lớn. Quyền sở hữu khi ấy cũng là quyền mất sở hữu. 

Về Sự Bí Ẩn Của Tư Bản Và Huyền Thoại Của Hernando de Soto: Sự Khác Biệt Do Quyền Sở Hữu Tạo Ra Là Gì?

Cuốn sách bán chạy mới của Hernando de Soto Sự Bí Ẩn của Tư Bản, cho rằng sự thất bại của chủ nghĩa tư bản ở Thế Giới Thứ Ba là do thiếu quyền sở hữu đất đai. Đây không phải là lập luận mới, mà có vẻ như là tìm cách tái khởi động bởi vì ông ta là một tiếng nói rất có ảnh hưởng ở Washington. Các chính quyền Châu Mỹ Latin, vốn đang bận rộn phân phát những giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đai, có vẻ sẽ tiếp tục chính sách này trên quy mô lớn hơn.

Câu hỏi của tôi trong bài nghiên cứu này là “món quà” giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đai có thực sự đem lại sự thay đổi cho cuộc sống của người nghèo? Liệu nó có cho phép họ vay tiền từ khu vực chính thống như de Soto và WB đã khẳng định? Liệu nó có mở ra một thế giới tích lũy tư bản mới cho người nghèo vì nó cho phép của cải được chuyển giao hợp pháp từ “chủ sở hữu” sang người khác? Hay sự thay đổi nhỏ nhoi trên thực tế cho toàn bộ lập luận về hợp pháp hóa chỉ là giả tạo?

Sử dụng các dữ liệu được thu thập từ các khu ổ chuột hợp pháp của Bogotá, tôi sẽ xem xét từng lợi ích chủ chốt của việc hợp pháp hóa. Tôi sẽ trình bày cách thức việc mua bán đôi khi trở thành thường xuyên khi mà người dân thiếu quyền hợp pháp, cách thức tài chính phi chính thống xuất hiện ngay từ đầu của sự định cư bất hợp pháp và tại sao ít có tài chính chính thống tiếp tục sau sự hợp pháp hóa. Quan trọng nhất là tôi sẽ cho thấy ít có dấu hiệu phát triển của thị trường nhà đất thứ cấp tại các khu ổ chuột được hợp pháp hóa. Người nghèo khó có thể kiếm được tiền từ việc sở hữu nhà khi mà họ không thể bán căn nhà của họ.

Vài lời về Hernando de Soto

Hernando de Soto có vẻ khéo léo lặp lại những gì người khác đã nói trong nhiều năm nhưng thuyết phục được các nhà hoạch định chính sách rằng ông ta sáng tạo ra thứ gì đó mới. Sự mới lạ trong tư tưởng “của ông ta” được thể hiện bằng thói quen thiếu trung thực trong việc trích dẫn bất cứ nguồn tài liệu nào mà ông ta đưa ra. Cuốn sách bán chạy đầu tiên của ông ta, Lối Đi Khác, được xuất bản bằng tiếng Tây Ban Nha vào năm 1986 và bằng tiếng Anh vào năm 1989. Thông điệp chính là những người dân khu ổ chuột bị áp bức ở Lima là nạn nhân của nhà nước. Sự can thiệp thiếu thích hợp và quá mức của chính quyền đã khiến cuộc sống của họ trở nên phức tạp một cách không cần thiết. Họ không nên bị lên án vì việc thường xuyên không tuân thủ pháp luật Peru. Trái lại, họ cần phải được hoan nghênh vì sáng kiến mà họ đã áp dụng trong cuộc đấu tranh chống lại bàn tay nhớp nhúa của giới quan liêu. Khi thứ luật pháp mà họ phá vỡ nói chung là bất công và họ phá vỡ chúng chỉ để sống sót thì họ không đáng bị lên án về mặt đạo đức. Câu trả lời chủ chốt đối với sự bất tuân luật lệ không phải là là chính sách tốt hơn mà là thay đổi và xóa bỏ những sự can thiệp đó. Lập luận này được ưa thích ở Peru khi một số ít người nắm giữ sự áp bức của giới quan liêu cũng giống như ở Washington, nơi mà thông điệp này là điệu nhạc du dương trong tai của chính quyền Reagan. Họ ưa thích lập luận cho rằng khu vực phi chính thống được tạo ra do khu vực chính thống biến chúng thành bất hợp pháp. Đáng chú ý là ý tưởng của de Soto cũng ủng hộ thông điệp của WB và IMF về điều chỉnh cấu trúc (Bromley, 1990:331). Chúng cung cấp một chiếc vỏ bọc khả kính cho sự phụ thuộc khi “mọi người thất bại ở đó giống hệt như những gì chúng ta được nghe thấy ở Washington”! 

De Soto có ảnh hưởng lớn ở Peru. Panizza (2000b:189) cho rằng “sự biện minh của de Soto (1989) cho kinh tế thị trường tự do giống như một cuộc thánh chiến của “những người thấp cổ bé họng ở khu ổ chuột” và chống lại việc giới tài phiệt kinh tế và chính trị quốc gia, tạo dựng nền tảng ý thức hệ cho cho những cải cách mang tính tân tự do của Fujimori” (Panizza, 2000b:189). Nhưng vai trò của ông ta ở Peru còn phức tạp hơn nhiều so với việc đó bởi vì ông ta vừa hợp tác vừa chống lại những người ủng hộ sự điều chỉnh cấu trúc. Trong những năm 1980, ông ta đã được ba chính phủ khác nhau mời chào vị trí thủ tướng hay phó tổng thống và chính phủ thứ tư mời ông ta làm thị trưởng của Lima (Bromley, 1990: 342). Những người ngưỡng mộ ông ta có cả chính trị cánh tả lẫn cánh hữu. Nếu như ông ta có ảnh hưởng ở Peru thì ở Washington danh tiếng của ông ta cũng chỉ kém chút ít. Một nguồn ở DC cho tôi biết rằng ông ta đạt tới đỉnh cao vào những năm 1980 và có lúc cuốn Lối Đi Khác đã được coi như là kinh thánh. “Ông ta có thể thu hút cộng đồng Washington hiệu quả hơn bất cứ ai mà tôi từng biết.” Chính quyền Reagan rất ưa chuộng “chủ nghĩa lãng mạn cánh hữu” của ông ta.

USAID ủng hộ ông ta mạnh mẽ và một người bạn thân ở Washington cho biết ông ta mang lại cho chúng tôi dấu ấn chính trị rõ ràng hơn so với người khác. “Ông ta được ban lãnh đạo của AID cuối những năm 1980 yêu mến” bởi vì vấn đề quyền sở hữu đất đai và tín dụng luôn rất quan trọng trong lĩnh vực nhà đất tại AID. Mặc dù vậy, sau đó những người khác trong tổ chức đã bắt đầu hoài nghi lập luận của ông ta và cắt nguồn tài trợ. Một nguồn tin khác khẳng định rằng de Soto đã thừa nhận là gian lận và khẳng định rằng mình “khá ngạc nhiên khi AID đã ủng hộ ông ta lâu đến vậy”. Rõ ràng là các bộ phận khác nhau trong tổ chức này đã có những quan điểm khác nhau về ông ta.

Cuốn sách mới, Sự Bí Ẩn Của Tư Bản: Tại Sao Chủ Nghĩa Tư Bản Thắng Lợi Ở Phương Tây Và Thất Bại Ở Mọi Nơi Khác, cũng giống hệt như cuốn đầu tiên nhưng mục tiêu của nó không hề kém tham vọng hơn. Cuốn sách nói về cách giải quyết vấn đề của mọi người nghèo tại Thế Giới Thứ Ba. Giọng điệu của nó mang tính dân túy rõ ràng và không ngần ngại tấn công chủ nghĩa tân tự do cũng như sự phụ thuộc: “với nhiều mức độ kiên trì khác nhau, Thế Giới Thứ Ba và các quốc gia cựu cộng sản đã cân bằng ngân sách, cắt giảm trợ cấp, chào đón đầu tư nước ngoài và bãi bỏ các hàng rào thuế quan. Nỗ lực của họ đã được đáp lại bằng sự ngạc nhiên đầy cay đắng. Từ Nga cho tới Venezuela, nửa thập kỷ qua là thời gian đau đớn về kinh tế, thu nhập sụt giảm, lo âu và oán giận…” (de Soto, 2000:1). Giải pháp của ông ta là tạo ra cơ hội ở nơi đau khổ. Ông ta hứa hẹn giúp đỡ người nghèo với hệ thống kinh tế hiện tại. Một cuộc cách mạng là không cần thiết bởi vì chủ nghĩa tư bản rõ ràng là có hiệu quả ở phương tây và sẽ có hiệu quả với một chút chắp nối ở Thế Giới Thứ Ba. Hoa Kỳ là xã hội nhận thức được vấn đề và điều cần làm là biến những cư dân ở khu ổ chuột của Thế Giới Thứ Ba thành người kinh doanh nhỏ kiểu Mỹ đặc trưng.

Chắc chắn cuốn sách này cũng sẽ được hoan nghênh như cuốn sách đầu tiên. Năm ngoái, de Soto đã trình bày tại một số diễn đàn ở Washington và thông điệp của ông ta được tổng thống mới chào đón nồng nhiệt, tổng thống đã ca ngợi giá trị Hoa Kỳ cốt lõi là: sở hữu. [1] Danh sách những cái tên nổi tiếng trên bìa của cuốn sách cho thấy Soto thu hút được nhóm độc giả lớn và rất có ảnh hưởng: cựu thủ tướng Anh, cựu ngoại trưởng Anh, cựu đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc, cựu tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, cựu chủ tịch của Citygroup, hai người được giải Nobel Kinh Tế và người sáng lập tờ The National Review. Mọi cuốn sách với những cái tên như Margaret Thatcher, Milton Friedman, Jeanne Kirkpatrick và William F. Buckley trên trang bìa đều sẽ ngay lập tức thu hút sự chú ý dưới thời chính phủ mới. 

Sự thông thái cổ điển “mới” về quyền pháp lý 

Theo de Soto thì không cần làm gì nhiều để chủ nghĩa tư bản có hiệu quả ở Châu Phi, Châu Á và Mỹ Latin. Bởi vì người nghèo tiết kiệm tiền và đã phát triển nhiều kỹ năng kinh doanh nên tất cả những gì cần làm là cung cấp cho họ cơ hội để mở rộng việc kinh doanh. Yếu tố chủ chốt để biến họ thành người kinh doanh thành công là tiếp cận tín dụng chính thống và họ sẽ nhận được tín dụng nếu như họ được cấp quyền pháp lý về tài sản. Hãy cung cấp cho nhà kinh doanh hoặc hộ gia đình quyền pháp lý đối với tư bản của họ và mọi việc sẽ ổn cả. 

Như de Soto (2005:5) đã viết: “Ngay cả ở quốc gia nghèo nhất thì người nghèo cũng tiết kiệm. Giá trị khoản tiết kiệm của người nghèo trên thực tế là rất lớn – gấp 40 lần toàn bộ viện trợ nước ngoài trên thế giới tính từ năm 1945.” “Nhưng họ giữ những nguồn lực này dưới những dạng khiếm khuyết: nhà cửa được xây dựng trên đất đai không có quyền sở hữu được ghi nhận thích hợp, các công việc kinh doanh cá thể với trách nhiệm không được xác định, công nghiệp được đặt ở những nơi mà các nhà tài chính và đầu tư không thể nhận thấy chúng một cách thích hợp. Bởi vì những quyền về bất động sản không được ghi nhận phù hợp nên những bất động sản đó không sẵn sàng để biến thành tư bản, không thể trao đổi ra ngoài nhóm địa phương lân cận, nơi mà mọi người biết và tin tưởng lẫn nhau, không thể đem thế chấp để vay vốn, cũng như không thể sử dụng để tham gia vào một sự đầu tư.”

Hãy cung cấp cho họ quyền sở hữu, họ sẽ tiếp cận được tín dụng và điều đó sẽ cải thiện hoạt động của thị trường đất đai và tài sản. Dĩ nhiên là không có gì đặc biệt mới hay mâu thuẫn về chính sách này. Bản thân de Soto đã thẳng thừng đưa ra thông điệp này ngay trong cuốn sách đầu tiên và tích cực tham gia vào các chương trình quản lý và hợp pháp hóa ở Peru trong nhiều năm. Thông điệp này cũng không phải là mới ở Washington và ở WB cũng như Ngân Hàng Phát Triển Liên Mỹ. Cả hai đều đã tích cực trong các trương trình thực địa, dịch vụ và nâng cấp vào đầu những năm 1970 (World Bank, 1984; Grimes, 1976; Laquian, 1977). Khi mà WB hiện nay đã vỡ mộng với các chương trình thực địa và dịch vụ, các hoạt động nâng cấp và hợp pháp hóa đóng vai trò quan trọng trong quá trình. Như bản công bố chính sách nhà ở của WB khẳng định vào năm 1993: “Đăng ký quyền sở hữu ở các khu định cư bất hợp pháp là… quan trọng để làm cho các giao dịch đất đai và nhà cửa khả thi cũng như tạo ra cho người chiếm dụng sự bảo vệ pháp lý. Điều này thúc đẩy việc mua bán nhà cửa và giúp cho các hộ gia đình chuyển tới nơi phù hợp với nhu cầu cũng như túi tiền của họ. Điều này cũng gia tăng sự lựa chọn chiếm hữu nhà cửa cho các hộ gia đình, cho phép họ mua hoặc thuê tùy ý” (World Bank, 1993:117)

Nhiều chính quyền ở Mỹ Latin đã thực hiện cách tiếp cận này. Một số lượng lớn người định cư bất hợp pháp đã được các chính quyền hợp hiến và bất hợp hiến cấp quyền sở hữu trong hai thập kỷ qua. Chính quyền quân sự ở Chile đã cấp hơn 500.000 chứng nhận quyền sở hữu đất đai trong khoảng thời gian từ năm 1979 đến năm 1989 và hai chính quyền dân chủ khác đã tiếp tục việc đó, cấp tiếp 150.000 chứng nhận quyền sở hữu đất đai vào năm 1998 (Chile, MINVU, 1990; Rugiero, 1998: 31 and 51). Ở Peru, Ủy Ban Hợp Pháp Hóa Tài Sản Phi Chính Thống (COFOPRI) mới tiếp nhận khoảng 500.000 đăng ký quyền sở hữu đất từ năm 1996 đến 1999 (Conger, 1999: 8).

Chính sách này nói chung là một chính sách kiếm phiếu bầu cho các ứng cử viên. Ai sẽ phản đối được nhận quyền sở hữu tài sản? Đây có vẻ như là công thức không thể phản đối để tìm kiếm sự tín nhiệm của thường dân và như vậy chính quyền phải miễn cưỡng theo đuổi nó. Đó là một lĩnh vực chính sách mà hiện nay, nếu không nói là quá khứ, cả chính quyền trung ương lẫn địa phương đều vui vẻ với nhóm phát triển ở Washington.[2]

Mối lo ngại về sự bất hợp pháp: với phạm vi nào thì sự bất hợp pháp thực sự là vấn đề ở Mỹ Latin?

Câu chuyện về cách người nghèo nhảy dù vào đất đai ở các thành phố Mỹ Latin và các thức việc đó đã trở thành tập quán ở một số thành phố để chiếm một thửa đất là câu chuyện rất dài. Hầu hết các khu nhà của dân thu nhập thấp ở các thành phố đồng bằng của Ecuador, Peru, Central America, Colombia và Venezuela đều được hình thành bằng sự nhảy dù. Ở những nơi khác, sự nhảy dù chỉ diễn ra trong những thời gian nhất định, thường là khi nhà cầm quyền làm ngơ trước quá trình đó. Như trường hợp của một số thành phố nhất định ở Brazil, ở Santiago (Chile) trước năm 1973 và nhiều nơi ở Mexico.

Một sự thật đã luôn bị giấu đi trong câu chuyện này, các chính quyền đôi khi cũng là những tác nhân chủ chốt thúc đẩy sự xâm chiếm đất đai. Ví dụ ở Lima, việc xâm chiếm đất công trên quy mô lớn là do chính phủ Odría phát động vào những năm 1940 (Collier, 1976). Tương tự, ở các thành phố của Venezuela, các chính đảng lớn đã tạo điều kiện cho việc xâm chiếm đất công trong suốt nhiều năm years (Ray, 1969; Gilbert and Healey, 1985). Ở Chile, việc xâm chiếm đất đai đươc tất cả các chính đảng khuyến khích để kiếm phiếu trong cuộc bầu cử cạnh tranh dữ dội và bị chính trị hóa cao độ năm 1970 (Kusnetzoff, 1987; 1990).

Mặc dù vậy, việc xâm chiếm đất đai không phải là cách thông thường mà người dân nghèo giành lấy đất đai ở mọi thành phố. Tại hầu hết cao nguyên của Colombia, Ecuador, Mexico và Peru, cũng như miền nam Brazil, đa số các khu ổ chuột được dựng trên các khu đất mà các gia đình đã phải mua bằng tiền (Doebele, 1975; Gilbert, 1981; Gilbert and Ward, 1985; Beijaard, 1995). Những khu định cư này phá vỡ quy hoạch của chính quyền nhưng không bất hợp pháp theo nghĩa là chủ sở hữu bị tước đoạt đất đai. Tình trạng bất hợp pháp cũng bao gồm sự thiếu thốn các dịch vụ, điều này có thể được giải quyết đơn giản bằng cách cung cấp cơ sở hạ tầng. Ở những nơi khác, các khu nhà đàng hoàng và được cung cấp dịch vụ tốt chỉ thiếu giấy chứng nhận quyền sở hữu phù hợp; chúng chỉ bất hợp pháp theo khía cạnh kỹ thuật. Ở Mexico, tình hình thông thường là phức tạp hơn do sự phát triển mạnh của đô thị đã diễn ra ở đất ejidal. Do các cộng đồng nông nghiệp kiểm soát đất đai không thể bán chúng một cách hợp pháp nên chính quyền khó có thể cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu cho những người nhảy dù (Azuela, 1989; Jones and Ward, 1998; Fernandes and Varley, 1998). 

Nhiều dạng phát triển đất đai bất hợp pháp tạo ra những người nhảy dù với thửa đất mà họ sẽ không bao giờ rời bỏ. Trái ngược với lời yêu cầu về quyền pháp lý của họ, hầu hết những người mua đất trong sự phân chia bất hợp pháp đều hiểu rất rõ rằng họ là chủ sở hữu kể từ ngày họ thanh toán tiền lần đầu cho người phân chia đất bất hợp pháp. Những chủ sở hữu tiếp tục xây dựng nhà của họ mà không cần quan tâm đến nguy cơ bị trục xuất. Những người xâm chiếm đất đai ít chắc chắn về quyền sở hữu nhưng ở những nơi mà họ nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ về chính trị thì họ biết rằng mình an toàn. Chỉ có những lợi ích nhóm mới đe dọa được các khu ổ chuột, ví dụ, khi chúng cận kề về mặt địa lý với khu vực dân cư thượng lưu thì chúng sẽ bị phá bỏ. Hầu hết các chương trình trục xuất thẳng tay ở Caracas, Rio de Janeiro, Mexico City và Santiago de Chile đều chỉ tác động tới các cộng đồng nằm ở gần trung tâm thành phố hay các khu ngoại ô của giới nhà giàu (Coulomb and Sánchez, 1991; Dwyer, 1975; Hardoy and Satterthwaite, 1981; Scarpaci et al., 1988; Valladares, 1978). Động cơ thông thường khác của các vụ trục xuất là chính phủ quân sự hay độc đoán nắm quyền; sau nhiều năm chính quyền dân chủ lảng tránh việc sử dụng quân đội.

Nhưng trong thực tế việc phá hủy các khu ổ chuột không bao giờ thành luật. Nếu như điều đó diễn ra, đại đa số các khu dân cư bất hợp pháp bao quanh hầu hết các thành phố của Thế Giới Thứ Ba sẽ không tồn tại. Hầu hết chính quyền đều để mặc các khu ổ chuột; họ muốn phục vụ hơn là phá hủy chúng (Gilbert and Gugler, 1992). Lý do là rất rõ ràng. Thứ nhất, các chính trị gia muốn kiếm phiếu bầu của người nghèo, hay ít nhất là từ im lặng của họ. Phá hủy các khu ổ chuột sẽ làm đảo lộn sự ổn định xã hội. Thứ hai, các khu ổ chuột sẽ củng cố thay vì hủy hoại lý tưởng sở hữu tư nhân, nuôi dưỡng các giá trị bảo thủ trong lòng người nghèo. Cũng giống như khi đất đai bị đánh cắp thì chúng thường là đất công chứ không phải đất tư nhân, cũng như các khu vực bị đánh cắp thường xuyên là các khu vực chẳng mấy được đoái hoài.

Nhu cầu về quyền sở hữu đất đai

Hernando de Soto có lý khi tin rằng việc thiếu quyền sở hữu pháp lý có thể gây trở ngại cho người nghèo. Những người nhảy dù tại các khu ổ chuột mới hình thành thường cảm thấy bất ổn và thậm chí ở những khu ổ chuột đã được hình thành từ lâu, một số dạng gia đình nhất định có thể cảm thấy nguy cơ của việc không có quyền sở hữu chính thức: các hộ gia đình do phụ nữ làm chủ, cộng đồng nhập cư, các nhóm thiểu số. Sau cùng, việc thiếu quyền sở hữu pháp lý có thể gây ra sự phức tạp cho quá trình mua bán tài sản cũng như vay nợ. Rõ ràng là điều này giải thích lý do khiến các chính quyền Mỹ Latin tiến hành chương trình chứng nhận quyền sở hữu đất đai trên quy mô lớn (xem bên dưới).

Nhưng vấn đề hiện nay được khoa học thừa nhận rộng rãi là sự ổn định của việc chiếm hữu không đòi hỏi phải có quyền pháp lý đầy đủ (Durand-Lasserve, 1986; McAuslan, 1985; Fernandez and Varley, 1998). Trong thực tế thì sự dễ tổn thương của các khu định cư phi pháp rất khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có đặc điểm của người chủ sở hữu ban đầu, vị trí của đất đai, các cách sử dụng đất đai, bản chất của chính quyền và việc sắp có bầu cử hay không.

Như đã nêu, nhiều người cho rằng chương trình chứng nhận quyền sở hữu đất quy mô lớn được thực hiện vì nhiều lý do khác chứ không phải để giúp đỡ người nghèo. Các chương trình chứng nhận quyền sở hữu đất được ưa thích bởi vì chúng là một chính sách nhà ở rẻ tiền; Chứng nhận quyền sở hữu đất sẽ rẻ hơn rất nhiều so với việc cung cấp các khu định cư có dịch vụ kèm theo. Không chỉ vậy, các nhà cầm quyền và các tổ chức quốc tế còn kiếm được tiền từ các chương trình chứng nhận quyền sở hữu đất đai. WB từ lâu đã thừa nhận rằng lợi nhuận mà một cơ quan chính quyền tạo ra có thể được dùng để tài trợ cho các chương trình nâng cấp ở nơi khác (McAuslan, 1985:62). Nhiều người ở Washington cũng cho rằng việc cấp chứng nhận quyền sở hữu trên quy mô lớn chỉ là thích hợp khi những người được hưởng lợi sẵn sàng trả toàn bộ chi phí.

Vấn đề xuất hiện khi chi phí chứng nhận quyền sở hữu đất đai là rất cao. Ở Guayaquil, Lanjouw and Levy (1998:47) đã phát hiện ra rằng “chi phí dự tính để nhận được giấy chứng nhận quyền sở hữu đất, tính trung bình, là bằng 102% chi tiêu hàng năm của hộ gia đình (s.d.12.4), tính theo đầu người. Mặc dù chi phí có thể được phân bổ theo thời gian, nhưng nó rõ ràng là một khoản chi phí lớn đối với những hộ gia đình nhảy dù.” Nếu như người nghèo hiểu rõ về chi phí của việc chứng nhận quyền sở hữu đất đai và có thể từ chối nhận quyền sở hữu thì sẽ không có nhiều người phản đối. Song song với điều đó là cuộc tranh luận về việc thu phí để thiết lập dịch vụ cũng rất rõ ràng.

Tuy vậy, ngay cả khi toàn bộ chi phí của việc hợp pháp hóa được làm rõ thì mọi việc cũng chưa đến đâu. Việc cấp chứng nhận quyền sở hữu đất đai có thể mang đến các khoản chi phí ngoài dự tính như thuế đất (Ward, 1989; Durand-Lasserve, 1986). Chúng cũng có thể làm gia tăng chi phí sinh hoạt của những người không được hưởng lợi trực tiếp, ví dụ người thuê nhà có thể bị tổn thương khi giá thuê nhà tăng lên ở những khu định cư được hợp pháp hóa. Việc hợp pháp hóa cũng có thể tạo ra các vấn đề trong phạm vi gia đình, đặc biệt là với luật dân sự hay các bà vợ hai (Varley, 2000). Một số người cực tả còn cho rằng chủ sở hữu sẽ tổn thất do giá trị tài sản gia tăng, mở đường cho sự xâm lấn ngược của những nhóm có thu nhập cao hơn tại các khu định cư nghèo (Burgess, 1982). Nhưng theo ý kiến của tôi thì vấn đề thực sự trong cuộc tranh luận về quyền sở hữu là việc cấp chứng nhận có thực sự làm thay đổi cuộc sống của người nghèo hay không.

Quyền pháp lý và cải tạo nhà ở 

Việc cấp quyền pháp lý có gia tốc quá trình cải tạo nhà ở không? Trên thực tế có rất nhiều bằng chứng cho thấy những người nhảy dù cải tạo nhà ở của họ mà không cần phải có bất cứ thứ gì giống như giấy chứng nhận quyền sở hữu (Payne, 1989; Razzaz, 1993; Varley, 1987). Như Payne (1989:44) đã viết: “sự ổn định của chiếm hữu là quan trọng hơn tình trạng pháp lý trong việc quyết định đầu tư cải tạo nhà ở và rõ ràng là việc cung cấp các dịch vụ công được cư dân coi là bằng chứng mạnh mẽ của việc họ được chấp nhận chính thức cũng như có được sự chiếm hữu ổn định trên thực tế.” Nhận thức về sự ổn định là chìa khóa và Razzaz (1993:349) cho rằng: “bằng chứng kinh nghiệm cho thấy sự ổn định liên tục tại các khu định cư bất hợp pháp ít phụ thuộc vào tình trạng pháp lý mà phụ thuộc nhiều hơn vào nhận thức của người xâm chiếm về sự trục xuất và phá hủy (cưỡng chế); cũng như sự xuất hiện của dịch vụ và một khoảng thời gian”. Guayaquil, Lanjouw and Levy (1998:1) “phát hiện ra rằng các quyền phi pháp về sở hữu tài sản cũng đem lại cho nhiều người những lợi thế giống như quyền hợp pháp. Do vậy, về mặt chính trị thì không thể đánh giá tầm mức độ quan trọng của việc hợp pháp hóa các quyền sở hữu mà không nghiên cứu kỹ lưỡng các nguồn quyền sở hữu khác của người chủ”. Ngay cả ở những barriadas của Peru, sự sở hữu hợp pháp có vẻ cũng không quá quan trọng: “Sở hữu là quan trọng, nhưng đối với những người nhảy dù đã sống tại một khu đất quanh Lima trong khoảng thời gian trung bình 10,4 năm thì xác suất bị trục xuất được coi là nhỏ” (Strassman, 1984: 747).

Ở các khu định cư không có nguy cơ bị xóa sổ, sự bất hợp pháp dường ít có tác động đến việc người nghèo xây dựng nhà (Varley, 1987). Tại các khu đô thị nhảy dù của Bogotá, sự ổn định của sở hữu có vẻ như được giả định ngay từ đầu khi mà những người xâm chiếm sẵn sàng xây dựng mà không cần có quyền sở hữu đất đai. Nếu như họ có hoài nghi thì sẽ lại được trấn an khi nhà cầm quyền cung cấp các dịch vụ cho khu định cư. Một khi nước sạch và điện được cung cấp thì không còn rào cản thực tế nào đối với việc xây dựng tự phát. Tòa nhà hai hoặc ba tầng sẽ xuất hiện ngay cả khi người dân không có quyền pháp lý. (Skinner et al., 1987: 236).

Mặc dù rõ ràng là sự hợp pháp hóa đôi khi cũng cần thiết để đảm bảo cho những người xâm chiếm đặc biệt không ổn định song mối liên hệ nhân quả thường xuyên bị đảo ngược. Việc đầu tư vào nhà cửa thường xuyên dẫn đến việc chứng nhận quyền sở hữu (Hirschman, 1984; Razzaz, 1993: 350).

Ngay cả khi quyền sở hữu được cấp thì cũng cần phải có các biện pháp hỗ trợ để sự đầu tư có thể tiếp tục. Việc cung cấp dịch vụ đã giải phóng sự đầu tư vào nhà ở tại Cartagena và Medellín (Colombia), Lima, Lusaka, Nairobi, Rawapindi và Tunis đã có cơ sở hạ tầng đô thị. Như Strassman (1984:751) đã viết: “đầu tư cơ sở hạ tầng khích thuê mướn nhân công và thúc đẩy sự phát triển của nhà ở”. 

Quyền pháp lý cải thiện chức năng của thị trường nhà ở 

Theo de Soto (2000:47): “mọi tài sản có khía cạnh kinh tế và xã hội không phù hợp với hệ thống sở hữu chính thống đều rất khó có thể đưa ra thị trường”. Theo kinh nghiệm của tôi thì điều này là sai. Ở Mỹ Latin, thị trường hợp pháp và bất hợp pháp đều hoạt động hiệu quả với một phạm vi sản phẩm rộng, trong đó có đất đai bị xâm chiếm, hàng nhập khẩu lậu, hàng ăn cắp và ma túy. Sự bất hợp pháp không mấy khi ngăn được thị trường phát triển; nó chủ yếu tác động đến giá cả trên thị trường đó. Trong trường hợp của ma túy, sự bất hợp pháp làm tăng giá giao dịch; trong trường hợp các khu đất của người có thu nhập thấp thì nó làm giảm giá.

Ở Bogotá, một thị trường tích cực về đất đai tồn tại mà không cần có giấy chứng nhận quyền sở hữu và những dạng thị trường tương tự đã phát triển tại những nước nghèo nhất. Tại Mexico, đất ejido được bán bất chấp nguy cơ bị trừng phạt (Azuela, 1989; Gilbert and Ward, 1985; Varley, 1987). Ngay cả ở những khu định cư do người nhảy dù lập lên thì việc chuyển nhượng đất đai cũng diễn ra. Ví dụ ở Valencia, Venezuela, hầu hết cư dân ở hai khu định cư nhảy dù đều đã mua nhà đất tại khu định cư: 23% tổng số cư dân đã mua một ngôi nhà, 32% đã mua một thửa đất có lều và 11% mua một thửa đất trống hoàn toàn (Gilbert and Healey, 1985: 122).

Theo cách mâu thuẫn thông thường của mình, de Soto thừa nhận thực tế ấy. Tại sao quyền sở hữu chính thống lại quan trọng? Bởi vì với sự “không có đất đai để mất”, cư dân “chỉ có thể giao dịch với thành viên gia đình và hàng xóm hiện tại. Những người không có gì để mất bị mắc kẹt trền nền đất nhếch nhác của thế giới tiền tư bản” (de Soto, 2000: 56). Họ có thể bán và mua nhưng với giá thấp. Bất chấp những giá thấp đó, “tổng giá trị của bất động sản do người nghèo thuộc Thế Giới Thứ Ba và các nước cựu cộng sản nắm giữ nhưng không được sở hữu hợp pháp ít nhất là 8,3 nghìn tỷ dollar” (p. 35).[3] Nếu như thị trường tài sản quan trọng đó đã tồn tại thì tại sao cần phải có chứng nhận quyền sở hữu? 

Việc chứng nhận quyền sở hữu đất đai mang đến đảm bảo bổ sung để làm tăng giá thị trường. Giá đất đai sẽ tăng vì ba lý do: vì quá trình giao dịch được đơn giản hóa, vì người mua có bằng chứng về sự sở hữu; và vì giao dịch có thể thuận tiện hơn nhờ tiếp cận được tín dụng chính thống. Theo De Soto (2000:46): “Sở hữu chính thống tạo ra quy trình, hình thức và các quy định đặt đất đai vào tình trạng cho phép chúng ta biến chúng thành tư bản tích cực”. 

Sự phổ biến của quyền sở hữu đất đai tại nhiều quốc gia phá triển, nơi mà “chủ nghĩa tư bản thắng lợi”, có vẻ như được gán cho sự phát triển của một thị trường đất đai có hiệu quả. Tuy vậy, cần phải ghi nhận rằng tại những nơi chi phí giao dịch cao thì nhà hiếm khi được bán; ví dụ như Bỉ có tỷ lệ thay đổi chỗ ở thấp là vì lý do này. Nhưng tại những nơi mà chi phí giao dịch thấp, thị trường chính thống cung cấp cho chủ sở hữu bất động sản một phương tiện để tích lũy tư bản. Ở Anh, Saunders (1990:117) lập luận rằng “chủ sở hữu nhà có khuynh hướng mua ngay khi không phải cân nhắc về tài chính” và những tính toán của ông cho thấy sự đánh giá của họ là chính xác. Tương tự, ở Hoa Kỳ, Rohe and Steward (1996:44) cho rằng chủ sở hữu nhà “hy vọng tạo dựng sự giàu có khi quyền sở hữu bất động sản được công nhận” và Megbolugbe and Linneman (1993: 660) cho biết rằng “khoảng 80% người Mỹ coi việc sở hữu nhà là một khoản đầu tư tốt”.

Dĩ nhiên, không phải mọi nhà bình luận đều bị thuyết phục rằng chủ sở hữu nhà kiếm được tiền từ “sự đầu tư” của họ. Thời điểm là quan trọng và việc sở hữu nhà có thể làm những người mua kém may mắn mất một đống tiền trong ngắn hạn. Ở Hà Lan, giá nhà giảm từ đầu những năm 1980 và ở Anh là vào cuối những năm 1980, đều là thời điểm tồi tệ để mua nhà với khoản vay cầm cố. Khả năng tích lũy tư bản phụ thuộc nhiều vào vị trí. Trong khi nhà cửa ở một số khu vực tăng giá trị thì những chỗ khác lại không tăng (Edel et al., 1984; Smith, 1987). Các nhân tố tương tự cũng xuất hiện tại các thành phố Mỹ Latin. Ở Bogotá, tính toán của Jaramillo and Parias (1997) cho thấy bong bóng nhà cửa của những năm 1990 đã chủ yếu đem lại lợi ích cho những người sống ở khu vực phía bắc giàu có của thành phố. Mặc dù vậy, ngay cả ở đây giá nhà từ năm 1989 đến 1996 cũng ổn định trên khía cạnh giá thực tế. Kể từ đó giá nhà đã giảm đi khoảng 40%. Giống như thị trường chứng khoán, mua tài sản không luôn có nghĩa là thu được lợi nhuận, ngay cả với tầng lớp giàu có hay trung lưu. Thị trường tài sản có thể không ổn định.

Tình cảnh của người nghèo là giống hệt nhau khi mà kết quả của “sự đầu tư” vào nhà đất của họ không thể như kỳ vọng. Họ chi tiền cho việc xây dựng cũng như cải tạo nhà ở mà không biết họ sẽ nhận lại được bao nhiêu trong tương lai. Tuy vậy, những người sở hữu nhà ở Bogotá tin rằng họ đầu tư một cách khôn ngoan (Gilbert, 1999). Có người tuyên bố rằng “mua bất cứ căn nhà nào ở Bogotá cũng là một sự đầu tư tốt”, có người khác lại ví ngôi nhà của anh ta với cây ăn trái; nó cần được chăm sóc và thu hoạch.

Quan điểm của tôi là những người sở hữu nhà này đã quá lạc quan trong các tính toán của họ. Trong khi tôi không hoài nghi về việc mua một căn nhà có thể mang ý nghĩa nào đó và có thể giúp đỡ các gia đình về mặt tài chính thì lợi tức từ tư bản rõ ràng là không cao. Lý do thật đơn giản. Nghiên cứu ở Santiago, Chile, Bogotá, Colombia cho thấy các gia đình sở hữu nhà hầu như không bao giờ chuyển nhà và thị trường nhà ở đã qua sử dụng rất nhỏ bé. Rất ít hộ gia đình thu nhập thấp chuyển đến Santiago ngay cả khi họ có quyền sở hữu chính thức và đa số các căn nhà đã được khu vực chính thống xây dựng (Gilbert et al., 1993: 92; Richards, 1994: 136; Crespo, 2000; Pérez-Iñigo González, 1999). Một khảo sát được thực hiện ở Santiago vào năm 1995 cho thấy sự di chuyển chỗ ở của tầng lớp trung và thấp là cực kỳ ít cũng như về sự “sự thiếu vắng thực sự của thị trường nhà ở” (Cade Consultores, 1995: 2). Mặc dù một số đáng kể hộ gia đình sẽ muốn di chuyển chỗ ở, đa số người dân có vẻ vẫn sẽ ở lại chỗ cũ “chẳng biết đến khi nào”. Vấn đề trở nên trầm trọng vào giữa những năm 1990, chính quyền của Eduardo Frei đã phải triển khai chương trình đặc biệt để khuyến khích việc di chuyển chỗ ở (Held, 2000; Pérez-Iñigo, 1999; Almarza, 1997; 2000).

Sự di chuyển chỗ ở của chủ sở hữu nhà tại những khu dân cư thu nhập thấp đông đúc của Bogotá cũng rất hạn chế. Thời gian trung bình sống tại khu định cư của chủ nhà có độ tuổi trên hai mươi tại bốn khu định cư là 19 năm (Gilbert, 1999). Dĩ nhiên con số trung bình này đã tính thấp sự cư trú lâu dài khi mà hầu hết các gia đình vẫn tiếp tục sống trong cùng một căn nhà, tất nhiên là nhiều năm. Chỉ có bốn chủ nhà trong số 276 người là chuyển đến khu định cư vào năm trước và chỉ có 14 người chuyển tới trong vòng 5 năm qua. Dấu hiệu tương tự về sự bất động cũng được tìm thấy ở Caracas và thành phố Mexico (Gilbert et al., 1993), Nghiên Cứu Các Chỉ Số Nhà Ở Của WB cho thấy theo các tiêu chuẩn quốc tế về di chuyển nơi ở thì việc chuyển chỗ ở tại các thành phố lớn của Mỹ Latin là rất ít (Persaud, 1992: 46-7).

Ngay cả khi những chủ nhà nghèo có quyền sở hữu đất đai, thị trường cũng hầu như là chết. Đây là sự thật ngay cả tại những thành phố mà thị trường nhà ở và đất đai rất sôi động ở khu vực thu nhập cao và khu vực thương mại. Anh không thể tích lũy tư bản nếu như không có thị trường để mua bán tài sản. Nếu như quyền sở hữu bất động sản không phải là vấn đề thì đâu là vấn đề?

Quyền pháp lý có giúp người nghèo tiếp cận tín dụng chính thống? 

Việc bán tài sản tại các khu ổ chuột có thể khá phổ biến ngay cả khi “chủ nhà” thiếu quyền pháp lý và “đã ăn trộm” đất đai. Vấn đề với các khu ổ chuột không phải là thiếu một thị trường mà là những hạn chế đối với chúng. Nhiều người mua bán các thửa đất, lều và thậm chí là căn nhà hai phòng ngủ. Điều không phổ biến là các trường hợp hộ gia đình mua căn nhà hai hoặc ba tầng ở những khu định cư này. Anh không cần nhiều tiền để mua một căn lều nhưng anh cần rất nhiều tiền để mua một căn nhà hai hay bốn tầng. Ở những khu vực thu nhập thấp của Bogotá, chủ nhà thường đòi giá từ 20.000 đến 40.000 dollar vào mùa hè năm 1997. Lý do khiến chỉ có một ít vụ mua bán là không ai có thể mua được chúng. Chủ nhà ở khu ổ chuột có thể bán một căn nhà tử tế chỉ với một nỗ lực lớn và/hay với giá rất thấp (Gilbert, 1999)

Theo de Soto, có quyền sở hữu hợp pháp có thể giải quyết vấn đề bằng cách giải phóng một làn sóng tài trợ chính thống. Sự ủng hộ cho niềm tin này xuất phát từ kinh nghiệm ở Hoa Kỳ, nơi mà “nguồn cung cấp tài chính quan trọng duy nhất cho công việc kinh doanh mới…là khoản vay cầm cố căn nhà của người kinh doanh” (de Soto, 2000:6). Cách ngân hàng sẽ cho người nghèo vay tiền bởi vì họ giờ đã có quyền sở hữu để đem thế chấp. Ngân hàng có thứ để phát mại trong trường hợp khách hàng của họ vỡ nợ. Lanjouw and Levy (1998: 45) đồng ý rằng: “nếu như sự chuyển giao không chắc chắn hạn chế khả năng bán tài sản của một hộ gia đình, điều đó cũng hạn chế ngân hàng phát mại tài sản và làm giảm giá trị của tài sản bị đem cầm cố”.

a) Ngân hàng và khu ổ chuột: Bằng chứng của tôi trong trường hợp của Bogotá, được ủng hộ hoàn toàn bằng những nghiên cứu tại những nơi khác của thế giới, cho thấy sự nắm giữ quyền pháp lý hầu như không tạo ra sự khác biệt nào đối với tài chính chính thống. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, Ozuekren (1998:11) khẳng định rằng “hộ gia đình có rất ít cơ hội để vay tiền bằng cách cầm cố nhà cho các tổ chức tài chính”. “Hệ thống cho vay nhà ở tinh tế” của Mexico cũng chỉ có thành tích nghèo nàn trên phương diện những lựa chọn tài chính tiến bộ và các hoạt động tài chính phục vụ cộng đồng (Siembada and López, 1998:22) và kinh nghiệm nhiều năm gần đây ở Nam Phi cũng cho thấy điều tương tự (Bond and Tait, 1997; Goodlad, 1996; Tomlinson, 1998). Ngay cả WB và IADB cũng thừa nhận sự phức tạp trong việc tiếp cận các gia đình nghèo (Rojas, 1995; World Bank, 1993:121). Những nỗ lực của chính quyền trong việc cho người nghèo vay tiền cũng đã cho thấy sự thất bại đáng ngạc nhiên, phần lớn ngân sách cuối cùng rơi vào tay các nhóm thu nhập trung bình hay các nhóm lao động được ưu ái (Bhattacharya, 1990; Daniere, 1999; Laun, 1976; Persaud, 1992; Rakodi, 1995; Struyk, 1989; Datta and Jones (eds.), 1998).

Hệ thống tài chính chính thống phải đối mặt với nhiều sự khó khăn khác nhau để tiếp cận người nghèo. “Các quy định về khoản vay cầm cố thường thiên về phía nhà ở hoàn chỉnh thuộc chủ sở hữu, khiến các tổ chức tài chính không thấy hấp dẫn hoặc không thể cho vay để thuê mua hoặc mua nhà ở công cộng, hoặc cho cải tạo nhà ở hay nhà xây thô ở các khu vực có dịch vụ” (World Bank, 1993:118). Bên cạnh đó, “những người cho vay cầm cố khó có thể xác định thu nhập của việc tự kinh doanh và khó có thể tạo ra cách ước lượng chính xác về về thu nhập của việc tự kinh doanh từ việc phân tích sự hoàn thuế” (Ferguson, 1999: 187). Ở Bogotá, rất ít tổ chức cho vay có quy định về thỏa thuận với người lao động tự do. Thủ tục cho vay dựa trên yêu cầu người vay tiềm năng phải thể hiện rằng họ có thu nhập ổn định. Dĩ nhiên, một số ít người lao động tự do có thể làm điều này. Bên cạnh đó những người cho vay cũng không mấy tin rằng người nghèo sẽ trả nợ và mấu chốt cuối cùng là lợi nhuận từ việc cho người nghèo vay thường thấp (UNCHS, 1996: 370).

Ở Bogotá, vấn đề nghiêm trọng nhất mà những người cho vay chính thống phải đối mặt không phải là sự thiếu vắng quyền sở hữu mà là bản chất của đất đai mà người nghèo muốn cầm cố. Các doanh nghiệp tiết kiệm và cho vay của Colommbia quy định chặt chẽ về các dạng nhà cửa và khu vực mà họ sẽ cho vay. Ngay cả tổ chức tiến bộ xã hội như Colmena cũng có “ranh giới” cho những khu vực của Bogotá.[4] Những người sống ở nơi được coi là khu vực rủi ro sẽ không được vay tiền. Nếu như người cho vay hoài nghi về giá trị của tài sản thì bằng chứng về việc gia đình nghèo cực kỳ đáng tin cậy trong việc trả nợ cũng không mấy quan trọng.[5] Các chương trình vi tín dụng cũng thất bại trong việc tạo ra ấn tượng về nhu cầu của người nghèo trong các khoản vay liên quan đến nhà ở (Almeyda, 1996). Vi tài chính là khuynh hướng theo hình mẫu hoạt động của ngân hàng Grameen và tạo ra một danh mục cho vạy dựa trên những khoản vay nhỏ thường xuyên; cách tiếp cận là rất phức tạp do trường hợp nhà ở đòi hỏi một khoản tiền lớn. Ngay cả khi các tổ chức hợp tác này sẵn sàng cung cấp tài chính cho nhà ở thu nhập thấp thì chương trình của họ cũng rất giới hạn do sự hạn hẹp về tài chính và sự ưu tiên tài trợ cho việc xây dựng nhà ở của họ (Avila, 1995: 26). [6] Việc không ai cho vay để nâng cấp hoặc mua căn nhà đã qua sử dụng có vẻ là một vấn đề phổ biến trên thế giới (Ferguson, 1999)

b) Người nghèo có muốn vay tiền? Nếu như ngân hàng không mấy mặn mà với việc cho người nghèo vay tiền thì người nghèo cũng không mấy khi muốn vay tiền. Một số người được nhận trợ cấp nhà ở của Nam Phi, những người “nói rằng họ không muốn vay cầm cố lớn gấp ba lần số người muốn vay” (Tomlinson, 1999: 1357). Dĩ nhiên, như WB thừa nhận (2000: 74-5): “Người nghèo thường không muốn và không tìm kiếm các khoản vay vì họ tin rằng họ sẽ bị từ chối hoặc sẽ không thể đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng.” Nhưng sự lưỡng lự này có thể xuất phát từ nỗi lo sợ về việc sẽ xảy ra khi họ không thể trả nợ. Đối với nhiều hộ gia đình nghèo, trả nợ là một gánh nặng có thể đe dọa sự ổn định tài chính của cả gia đình. Như Rogaly and Johnson (1997: 119) đã viết: vay mượn “có thể gây thiệt hại cũng như tạo thuận lợi cho người nghèo. Các quan hệ tài chính, đặc biệt là nợ nần, là cách mà những nhóm người nghèo bất lực cố thủ”. Kinh nghiệm mới đây ở Lima cho thấy việc chứng nhận quyền sở hữu đất đai có thể dẫn đến sự gia tăng phạm vi ảnh hưởng của khu vực cho vay chính thống. Theo cơ quan chứng nhận quyền sở hữu địa phương, khoảng 45.000 trong số 300.000 gia đình mới được cấp chứng nhận sở hữu ở Lima đã vay nợ với khoản cầm cố là tài sản (Conger, 1999). Nhưng trường hợp của Lima lại có vẻ rất khác với Bogotá, tại đó rất ít gia đình sẵn sàng vay mượn tiền bằng cách cầm cố quyền sở hữu nhà và các tổ chức cho vay có vẻ ít bị thuyết phục bởi quyền sở hữu đất đai thật sự (Gilbert, 2000).

Hầu hết các gia đình nghèo xây dựng và cải tạo nhà ở của họ bằng các khoản vay cá nhân và từ các nguồn phi chính thống (Boleat, 1985; Renaud, 1987; World Bank, 1993; Macaloo, 1994; Napier, 1999; Ozuekren, 1998; UNCHS, 1996). Các nguồn phi chính thống “bao gồm các tiết kiệm cá nhân và theo nhóm, vận may, tự chế tạo vật liệu xây dựng, tiền mồ hôi nước mắt, các khoản vay nhỏ từ người cho vay tiền của khu dân cư, các thỏa thuận trao đổi và các khoản tự túc mang tính cộng đồng, tiền gửi về của gia đình sống ở nước ngoài. Những nguồn tiền này đều có một vấn đề chung. Chúng đến không đều và thường là chậm chạp bởi vì chúng không kết nối với tổ chức và thị trường tài chính chính thống. Kết quả chung là hoạt động xây dựng ở thành phố chỉ tăng lên một các chậm chạp và không liên tục” (Ferguson, 1999: 189).

Nực cười thay, khoản nợ liên quan đến bất động sản lớn nhất ở khu vực thu nhập thấp của Bogotá lại là khoản tiền dành cho việc mua đất. Khoản vay này không được hỗ trợ bởi bất cứ tài sản cầm cố hay quyền sở hữu tài sản nào và do những người phân chia đất bất hợp pháp cung cấp. Những người phân chia đất có khuynh hướng bán các thửa đất với khoản thanh toán ban đầu là 10% và phần còn lại được thanh toán hàng tháng trong ba hay bốn năm tiếp theo (Gilbert and Ward, 1985). Trong một khảo sát mà tôi thực hiện ở bốn khu định cư vào năm 1997, hầu hết các gia đình đã chiếm dụng một mảnh đất trống đều vay tín dụng phi chính thống thông qua những người phân chia đất bất hợp pháp (bảng 1). Rất ít trong số 33 người mua các mảnh đất trống tham gia khảo sát đã thanh toán toàn bộ giá trị bằng tiền mặt. Trong số 29 người cung cấp chi tiết, 75% đã trả một khoản ban đầu và phần còn lại theo thời gian. Trong số còn lại, chỉ có ba người nói rằng họ đã trả toàn bộ tiền một lần.

Bản 1

Nguồn tài chính để mua thửa đất 

Nguồn tài chính                                   Số lượng

Thừa kế                                                   2

Trả bằng tiền mặt hoặc tiền tiết kiệm     6

Cesantía hay vay từ nơi làm việc           11

Bán thửa đất hay nhà                              2

Vay gia đình                                           2

Tín dụng từ người phân chia đất            21

Không rõ                                                4

Tổng số trả lời (hộ gia đình)                 48 (33)

Nguồn: Khảo sát Bogotá

Ở Bogotá, một số ít hộ gia đình mua nhà thay vì mua một thửa đất đã không bao giờ sử dụng các cơ chế tài chính chính thống (bảng 2). Hơn nữa mọi loại tài chính tham gia vào hoạt động này đều có hai dạng phổ biến. Dang thứ nhất là người bán sẽ cung cấp tài chính bằng cách cho phép người mua thanh toán làm nhiều lần. Dang thứ hai của tín dụng phi chính thống là khoản vay từ họ hàng hoặc bạn bè của người mua hoặc cải tạo nhà ở.

Bảng 2 

Nguồn tài chính mua một căn nhà hoàn thiện hay xây thô 

Nguồn          Khu ổ chuột         Khu chính thống          Tổng số

Vay nợ 
chính thống            0                                 7                         7

Cesantía                 0                                 5                         5

Thừa kế                  4                                 0                         4

Đổi bằng 
tài sản, 
kinh doanh khác, 
vv.                          2                                 0                         2

Nợ người bán         3                                 1                         4

Bán ngôi nhà/
mảnh đất khác        3                                 0                         3

Vay mượn 
gia đình                  1                                 1                         2

Vay nợ/Xổ số         2                                 0                         2

Tự tiết kiệm 
hoàn toàn                5                                2                          7

Tổng số trả lời 
(hộ gia đình)          20 (13)                    16 (13)              36 (26)

Nguồn: Khảo sát chuyên sâu Bogotá 

Sự phi chính thống của tài chính trong việc mua bán tại các khu định cư phi pháp chủ yếu là do thiếu các sự lựa chọn thay thế thực tế, mặc dù thật sự là có một số ít giao dịch đòi hỏi tài chính lớn. Hầu hết các ngôi nhà được mua đều trong tình trang chưa hoàn thiện, chỉ có 7% số người được hỏi sống trong một căn nhà giống với tình trạng khi họ mua nó. Ngay cả nhóm này cũng thường xuyên sống trong những căn nhà rất giản dị.

Quyền pháp lý thúc đẩy thị trường cho thuê nhà? 

Theo Lanjouw and Levy (1998: 3-4) thì chủ sở hữu nhà tại các khu ổ chuột của Guayaquil bị ngăn cản trở thành người cho thuê nhà do họ thiếu quyền pháp lý. “Có các quyền không thể sang nhượng sẽ cải thiện khả năng kinh doanh của hộ gia đình bằng cách giảm bớt những thứ gây khó khăn cho việc đòi lại bất động sản từ người thuê sau khi kết thúc hợp đồng.” Ở Valencia, Venezuela, vào những năm 1970, một khuynh hướng tương tự cũng xuất hiện. Chủ nhà sợ bị mất tài sản khi người thuê nhà chiếm luôn căn nhà. Để tránh vấn đề này, các chủ nhà thường chỉ cho những người nhập cư bất hợp pháp thuê, những người này sẽ không dám chiếm nhà vì họ sẽ bị trục xuất (Gilbert and Healey, 1985). Nhưng sự e ngại pháp luật không cản trở hầu hết những người cho thuê nhà thực hiện các hoạt động có thể dẫn đến sự trừng phạt về mặt pháp lý. Ở các thành phố của Mỹ Latin, rất ít người cho thuê nhà cung cấp hợp đồng bằng văn bản (Gilbert et al., 1993; Gilbert and Varley, 1991). Một số ít biết rõ luật cho thuê nhà quy định những gì và chẳng mấy ai buồn tuân thủ luật. Ngay cả de Soto (2000:21) cũng thừa nhận về việc cho thuê bất hợp pháp. Theo ông ta, ở Brazil “không có sự kiểm soát đối với việc cho thuê nhà ở favelas; tiền thuê được trả bằng dollar Mỹ, người không trả tiền sẽ nhanh chóng bị đuổi ra khỏi nhà”. Nếu như bằng chứng cho thấy người cho thuê nhà vô thiên vô pháp như vậy thì tại sao de Soto lại khẳng định rằng họ sẽ không cho thuê nhà trừ khi có quyền pháp lý?

Cho thuê nhà ở hầu hết các khu vực thu nhập thấp đã phát triển tốt trước khi quyền sở hữu đất được cấp. Quan hệ chủ nhà-người thuê thường diễn ra chủ yếu là bên ngoài những quy định chính thống của pháp luật. Điều này ít tạo ra vấn đề bởi vì thị trường cho thuê vẫn hoạt động bình thường. Sự thái quá xuất hiện cả ở hai phía nhưng rõ ràng là một số chủ nhà và một số người thuê nhà sẽ có hành vi sai trái ngay cả khi họ ký tên vào hợp đồng thuê nhà chính thống. Quyền pháp lý hiếm khi xuất hiện ở các thành phố Tây Phi và Ấn Độ nhưng đa số các gia đình thuê nhà vẫn hy vọng rằng việc cấp chứng nhận quyền sở hữu sẽ không làm những chủ nhà trung bình thay đổi nhiều. Những chủ nhà này cũng sẽ không có vẻ là nhận được tín dụng chính thống để mở rộng công việc kinh doanh của họ ngay cả khi họ được chứng nhận quyền sở hữu.

Kết luận 

Hầu hết các gia đình thành thị ở Mỹ Latin đều vui mừng đón nhận quyền sở hữu đất đai. Sự ưa chuộng đó đã giải thích lý do khiến nhiều chính quyền tiếp tục theo đuổi phương án nhà ở này. Rõ ràng là chính quyền cũng bị cách tiếp cận này thu hút bởi vì nó rẻ tiền, đặc biệt là khi người nghèo sẵn sàng trả phí hay sẽ đóng thuế tài sản khi họ có chứng nhận quyền sở hữu đất. 

Tôi cũng không tin rằng nhiều gia đình nghèo sẽ phải đối mặt với nhiều mối nguy hiểm khi có quyền sở hữu đất đai. Sự “tấn công từ trên xuống” sẽ không xảy ra và ngay cả điều đó xảy ra, một số gia đình nghèo sẽ trân trọng việc nhận được cơ hội để tạo ra thu nhập từ tư bản. Ở Châu Phi, nhiều nơi của Châu Á và thậm chí là vùng nông thôn của Mỹ Latin, tình hình có thể khác, đặc biệt là khi các quyền theo tập quán bị logic thương mại mới áp đảo. Nhưng ở thành thị Mỹ Latin, chứng nhận quyền sở hữu đất không thể gây ra nhiều tổn hại.

Nhưng nếu tôi chỉ ít lo ngại về những nguy hiểm của chứng nhận quyền sở hữu đất thì tôi lo ngại nhiều hơn về hùng biện của Hernando de Soto và việc ông ta biện minh cho những lợi thế giả định của sự hợp pháp hóa. Tại các khu ổ chuột của Bogotá, quyền sở hữu đất không mang lại thị trường nhà ở lành mạnh cũng như sự cung cấp tín dụng chính thống ổn định. Sự thật không mấy dễ chịu này là thực tế, việc cấp quyền sở hữu đất đai không tạo ra nhiều sự khác biệt.

Nếu như việc cấp quyền pháp lý không tạo ra nhiều sự khác biệt thì tại sao lại phải lo ngại về de Soto? Câu trả lời là de Soto trở nên nguy hiểm khi mà ông ta gợi lại câu chuyện hoang đường về chủ nghĩa tư bản dân túy. Ông ta đang thổi bùng cái ảo tưởng rằng bất cứ ai, ở bất cứ đâu, đều có thể nhà tư bản toàn diện. Mặc dù ông ta hầu như chẳng cung cấp bằng chứng kinh nghiệm nào cho những khẳng định của mình, nhưng điều đó không ngăn được Washington lại một lần nữa hưởng ứng lời kêu gọi của ông ta. Mối nguy hiểm hàm chứa trong câu chuyện hoang đường của ông ta là nó sẽ thuyết phục các nhà lập chính sách rằng họ không cần làm gì nhiều ngoài việc cấp chứng nhận sở hữu đất và sau đó thị trường sẽ giải quyết mọi thứ còn lại. Thị trường sẽ cung cấp dịch vụ và cơ sở hạ tầng, cung cấp tín dụng chính thống và tạo ra sự bùng nổ của thị trường đất đai. Trong quá trình đó, mọi hộ gia đình sẽ có nhà riêng và kiếm được tiền từ căn nhà đó. Thật là không tưởng!

Tôi tin rằng ngay cả khi thị trường bất động sản phát triển một cách bất ngờ thì cũng không có cơ sở nào để khẳng định rằng người nghèo sẽ là những người được hưởng lợi chủ yếu. Các đại lý bất động sản thành công luôn khẳng định rằng ba bí mật của bất động sản giá cao là “vị trí, vị trí và vị trí”. Những khu ổ chuột đông đúc của người nghèo hiếm khi được coi là nơi đáng sống. Như vậy thì lời hứa hẹn về sự thịnh vượng nhờ bất động sản là một câu chuyện hoang đường đối với những hộ gia đình thu nhập thấp của Boston (Edel et al., 1984). Những người kiếm được tiền từ bất động sản chủ yếu nằm trong nhóm trung lưu; những người thực sự kiếm được tiền sẽ chịu ảnh hưởng thực sự.

Do vậy, không phủ nhận những lợi thế mà người nghèo có thể thu được từ việc sở hữu nhà ở các vùng ngoại ô tự phát, lập luận của de Soto là một sự lừa dối nguy hiểm. Nếu như bất cứ ai khác có lập luận tương tự thì nó có thể bị phớt lờ. Nhưng de Soto là một thương hiệu lớn, thông điệp của ông ta sẽ được nhiều người có quyền lực ủng hộ. Lập luận đó cần phải được bóc trần. Thay vì đưa ra câu trả lời cho sự thần bí của tư bản, ông ta tạo ra một sự thần bí về chủ nghĩa tư bản dựa trên ảo mộng dân túy.

Chú thích 

[1] Như tổng thống George W. Bush đã tuyên bố khi bổ nhiệm bộ trưởng Bộ Nhà Ở và Đô Thị (HUD) mới Melquiades R. Martinez vào ngày 20 tháng 12: “Ông ấy thấu hiểu những giá trị Mỹ. Ông ấy được nuôi dưỡng bằng những giá trị đó. Không có giá trị Mỹ nào lớn hơn việc sở hữu một số thứ, sở hữu căn nhà của bạn và có cơ hội để làm điều đó.”

[2] Khi nhắc tới nhóm phát triển ở Washington, tôi muốn nói đến WB, IMF, IADB, USAID và những cơ quan tư vấn phát triển và vận động chính sách như PADCO và Viện Đô Thị.

[3] Làm sao ông ta biết bất động sản có giá trị lớn như vậy? Bởi vì có thể dễ dàng tính được giá trị của bất động sản phi chính thống: “Anh có thể dễ dàng ước lượng giá trị của chúng bằng cách khảo sát chi phí vật liệu xây dựng và quan sát giá bán của tòa nhà tương tự” (p. 31).

[4] Colmena là CAV đã thực hiện tốt nhất việc mở rộng tín dụng cho người nghèo (Vejarano, 1997). Tuy vậy , Colmena có vấn đề thực sự với việc cho vay ở các khu vực định cư tự phát. Họ có một danh sách các khu định cư ở Bogotá không thể cho vay, chủ yếu là bởi vì những khuynh hướng phức tạp mà chúng tạo ra. Nhiều khu định cư thu nhập thấp nằm ở những khu vực đó.

[5] Dù thế nào đi nữa, vấn đề chủ yếu đối với hầu hết các danh mục cho vay cầm cố của các tổ chức Colombia là khoản nợ của 700.000 gia đình có thu nhập trung bình. 

[6] Ở Bogotá, các tổ chức như Liên Đoàn Quốc Gia về Nhà Ở Phổ Thông (FENAVIP), SERVIVIENDA, Hiệp Hội Nhà Ở Phổ Thông (AVP), Compatir và FEDEVIVIENDA đang hoạt động trong lĩnh vực nhà ở và chịu trách nhiệm cung cấp khoảng 30.000 căn hộ từ năm 1990 đến 1996 (Vejarano, 1997).

Tài liệu tham khảo

Almarza Alamos, S. (1997) Financiamento de la vivienda de estratos de ingresos medios y bajos: la experiencia chilena, CEPAL Serie Financimiento del Desarrollo 46.

Almeyda, G. (1996) Money Matters: reaching women microentrepreneurs with financial services, UN Development Fund for Women and IADB.

Avila, G. (1995) ‘La paradoja del sistema financiero de la vivienda popular’, in Barrio Taller Práctica Barrial: una mirada a la periferia, Documentos Barrio Taller, 24-29.

Azuela, A. (1989) La ciudad, la propiedad privada y el derecho, El Colegio de México.

Beijaard, F. (1995) ‘Rental and rent-free housing as coping mechanisms in La Paz, Bolivia’, Environment and Urbanization 7, 167-82.

Bertaud, A. and Renaud, B. (1994) Cities without land markets: lessons of the failied socialist experiment, World Bank Discussion Paper No. 227, Washington DC.

Bhattacharya, K.P. (1990) ‘Housing in India - observations on the government’s intervention policies’, in Shidlo, G. (ed.) Housing policy in developing countries, Routledge, 67-103.

Boleat, M. (1985) National housing finance systems: a comparative analysis, Croom Helm.

Bond, P. and Tait, A. (1997) ‘The failure of housing policy in post-apartheid South Africa’, Urban Forum 8, 19-41.

Bromley, R. (1990) ‘A new path to development? The significance and impact of Hernando de Soto’s ideas on underdevelopment, production, and reproduction’, Economic Geography 66, 328-48.

Burgess, R. (1982) ‘Self-help housing advocacy: a curious form of radicalism. A critique of the work of John F.C. Turner’, in Ward (1982), 56-98.

CADE Consultores Ltda. (1995) Diagnóstico estudio mercado secundario habitacional: Informe final, Santiago.

Chile, MINVU (1990) Memoria 1973-1989, Santiago.

Collier, D. (1976) Squatters and oligarchs: authoritarian rule and policy change in Peru, Johns Hopkins University Press.

Conger, L. (1999) ‘Entitled to prosperity’, Urban Age, Fall 7-10.

Coulomb, R. and Sánchez, C. (1991) ¿Todos proprietarios? Vivienda de alquiler y sectores populares en la Ciudad de México, CENVI, Mexico City.

Crespo, G., Gross, P., Hernández, M., Trucco, C. and Sugranyes, A. (2000) Consulta sobre la política habitacional en Chile: informe final, Oficina de desarrollo urbano para Sur América, Rudo, USAID. Santiago.

Daniere, A.G. (1999) ‘More and better credit: housing policy reform in Bolivia’, International Planning Studies 4, 29-52.

Datta, K. and Jones, G.A. (eds.) (1998) Housing and finance in developing countries, Routledge. De Soto, H. (1989) The other path, I.B. Taurus.

De Soto, H. (2000) The mystery of capital, Basic Books.

Doebele, W. (1975) The private market and low-income urbanization in developing countries: the ‘pirate’ subdivision of Bogotá, Harvard University, Department of City and Regional Planning Discussion Paper D75-11.

Durand-Lasserve, A. (1986) L’exclusion des pauvres dans les villes du tiers-monde, L’Harmattan.

Dwyer, D.J. (1975) People and housing in Third World cities, Longman.

Edel, M., Sclar, E.D. and Luria, D. (1984) Shaky palaces: home ownership and social mobility in Boston’s suburbanization, Columbia University Press.

Ferguson, B. (1999) ‘Micro-finance of housing: a key to housing the low or moderate-income majority?’ Environment and Urbanization 11, 185-99.

Fernandes, E. and Varley, A. (eds.) (1998) Illegal cities: law and urban change in developing countries, Zed.

Gilbert, A.G. (1981) ‘Pirates and invaders: land acquisition in urban Colombia and Venezuela’, World Development 9, 657-678.

Gilbert, A.G. (1999) ‘A home is for ever? Residential mobility and home ownership in self-help settlements’, Environment and Planning A, 31, 1073-91.

Gilbert, A.G. (2000) ‘Financing self-help housing: evidence from Bogotá, Colombia’, International Planning Studies 5, 165-90.

Gilbert, A.G. and Gugler, J. (1992) Cities, poverty and development: urbanization in the Third World, Oxford University Press (second edition).

Gilbert, A.G. and Healey, P. (1985) The political economy of land: urban development in an oil economy, Gower Press.

Gilbert, A.G. and Ward, P.M. (1985) Housing, the state and the poor: policy and practice in three Latin American Cities, Cambridge University Press.

Gilbert, A.G., Camacho, O.O., Coulomb, R. and Nechochea, A. (1993) In search of a home: rental and shared housing in Latin America, UCL Press.

Goodlad, R. (1996) ‘The housing challenge in South Africa’, Urban Studies 33, 1629-45.

Grimes, O. (1976) Housing for low-income urban families: economics and policy in the developing world, Johns Hopkins University Press.

Hardoy, J.E. and Satterthwaite, D. (1981) Shelter: need and response - Housing, land and settlement policies in seventeen third world nations, Wiley.

Held, G. (2000) Políticas de viviendas de interés social orientadas al mercado: experiencias recientes con subsidios a la demanda en Chile, Costa Rica y Colombia, CEPAL Serie Financiamiento del desarrollo 96.

Hirschman, A.O. (1984) Getting ahead collectively: grassroots experiences in Latin America, Pergamon Press.

Hoffman, M.L., Walker, C., Struyk, R.J. and Nelson, K. (1991) ‘Rental housing in urban Indonesia’, Habitat International 15, 181-206.

Jaramillo, S. and Parias, A. (1995) Exploración sobre el mercado de vivienda en alquiler en Bogotá, Informe Final.

Jones, G.A. and Ward, P.M. (1998) ‘Privatizing the commons: reforming the ejido and urban development in Mexico’, International Journal of Urban and Regional Research 22, 76-93.

Kusnetzoff, F. (1987) ‘Urban and housing policies under Chile’s military dictatorship 1973-1985’, Latin American Perspectives 53, 157-86.

Kusnetzoff, F. (1990) ‘The state and housing in Chile - regime types and policy choices’, in Shidlo, G. (ed.) Housing policy in developing countries, Routledge, 48-66.

Lanjouw, J.O. and Levy, P.I. (1998) Untitled: a study of formal and informal property rights in urban Ecuador, Yale University, Economic Growth Center Discussion Paper No. 788.

Laquian, A. A. (1977) ‘Whither Site and Services?’ in Habitat 2, 291-301.

Laun, J.I. (1976) ‘El estado y la vivienda en Colombia: análisis de urbanizaciones del Instituto de Crédito Territorial en Bogotá’, in Castillo, C. (ed.) Vida urbana y urbanismo, Instituto Colombiano de Cultura, 295-334.

Macaloo, G.C. (1994) The changing nature of financing low-income urban housing development in Kenya, Housing Studies 9, 281-300.

McAuslan, P. (1985) Urban land and shelter for the poor, Earthscan.

Megbolugbe, I.F. and Linneman, P.D. (1993) ‘Home ownership’, Urban Studies 30, 659-82.

Napier, M. (1999) Core housing and residents’ impacts: personal experiences of incremental growth in two South African settlements’, Third World Planning Review 20, 391-418.

Ozuekren, S. (1998) Informal and formal housing construction in Turkey: blurred boundaries and regulations, in Hjerppe, R. (ed.) Current perspectives on urbanization: economics, governance and policies for housing and infrastructure, United Nations University Press, mimeo.18

Panizza, F. (2000) ‘Neopopulism and its limits in Collor’s Brazil’, Bulletin for Latin American Research 19, 177-92.

Payne, G. (1989) Informal housing and land subdivisions in Third World cities: a review of the literature, CENDEP, Oxford.

Pérez-Iñigo González, A. (1999) El factor institucional en los resultados y desafíos de la política de vivienda de interés social en Chile, CEPAL Serie Financiamiento del Desarrollo 78.

Persaud, T. (1992) Housing delivery system and the urban poor: a comparison among six Latin American countries, World Bank, Latin America and the Caribbean Technical Department Regional Studies Program Report no. 23.

Rakodi, C. (1995) ‘Housing finance for lower income urban households in Zimbabwe’, Housing Studies 10, 199-227.

Ray, T. (1969) The politics of the barrios of Caracas, University of California Press.

Razzaz, O.M. (1993) ‘Examining property rights and investment in informal settlements: the case of Jordon’, Land Economics 69, 341-55.

Renaud, B. (1987) ‘Financing shelter’, in Rodwin, L. (ed.) Shelter, settlement, and development, Allen and Unwin, 179-203.

Rogaly, B. and Johnson, S. (1997) Microfinance and poverty reduction, Oxfam/Action Aid.

Rohe, W.M. and Stewart, L.S. (1996) ‘Homeownership and neighbourhood stability’, Housing Policy Debate 7, 37-81.

Rojas, E. (1995) The Inter-American Development Bank in low-cost housing: the first three decades, Inter-American Development Bank, Operation Policy Division.

Rugiero Pérez, A.M. (1998) ‘Experiencia chilena en vivienda social, 1980-1995’, Boletín INVI 13, 3-87.

Saunders, P. (1990) A nation of home owners, Unwin Hyman.

Scarpaci, J.L., Pio-Infante, R. and Gaete, A. (1988) ‘Planning residential segregation: the case of Santiago, Chile’, Urban Geography 9, 19-36.

Siembieda, W.J. and López Moreno, E. (1998) ‘From commercial banking systems to non-commercial banking systems in Mexico’, in Datta, K. and Jones, G. (eds.).

Skinner, R.J., Taylor, J.L. and Wegelin, E.A. (eds.) (1987) Shelter upgrading for the urban poor: evaluation of Third World experience, UNCHS and Institute of Housing Studies.

Smith, N. (1987) ‘Review of Shaky Palaces’, Environment and Planning A 19, 127-8.

Soto, H. de (1989) The other path, London: I.B. Taurus. First published in Spanish in 1986.

Strassmann, W.P. (1984) ‘The timing of urban infrastructure and housing improvements by owner occupants’, World Development 12, 743-53.

Struyk, R.J. (1989) ‘Who gets formal housing finance in Jordan?’, Review of Urban and Regional Development Studies 1, 23-36.

Tomlinson, M.R. (1998) ‘South Africa’s new housing policy: an assessment of the first two years, 1994- 1996’, International Journal of Urban and Regional Research 22, 137-46.

Tomlinson, M.R. (1999) ‘From rejection to resignation: beneficiaries’ views on the South African government’s new housing subsidy system’, Urban Studies 36, 1349-59.

UNCHS (1996) An urbanising world: global report on human settlements 1996, Oxford University Press.

UNCHS (United Nations Centre for Human Settlements (Habitat)) (1989) Strategies for low-income shelter and services development: the rental-housing option, Nairobi.

Valladares, L. (1978) ‘Working the system: squatter response to resettlement in Rio de Janeiro’, International Journal of Urban and Regional Research 2, 12-25.

Varley, A.M. (1987) ‘The relationship between tenure legislation and housing improvement’, Development and Change 18, 463-81.

Varley, A.M. (2000) From private to public: gender, illegality, and legalisation of urban land tenure, mimeo.

Vejarano-Alvarado, M.C. (1997) Política de vivienda de interés social en Bogotá DC 1995-97, mimeo.

Ward, P.M. (1989) ‘Land values and valorisation processes in Latin American cities: a research agenda’, Bulletin of Latin American Research 8, 45-66.

World Bank (1984) Learning by doing: World Bank lending for urban development, 1972-82, Washington DC.

World Bank (1993) Housing: enabling markets to work, A World Bank Policy Paper.

World Bank (2000) World Development Report 2000, Oxford University Press.