Showing posts with label Châu Âu. Show all posts
Showing posts with label Châu Âu. Show all posts

Monday, January 25, 2016

Cách thức phương Tây tạo ra chủ nghĩa khủng bố

Bài viết "How the West Creates Terrorism" của Andre Vltchek nhắc nhở người đọc về chủ nghĩa khủng bố của phương Tây dưới dạng chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, hai bóng ma trong những vụ diệt chủng hàng trăm triệu người trên khắp thế giới, so với chúng đám khủng bố hiện nay chỉ là những kẻ học việc.

Cách thức phương Tây tạo ra chủ nghĩa khủng bố

Chủ nghĩa khủng bố có nhiều dạng và nhiều bộ mặt, nhưng khủng khiếp nhất là sự tàn bạo máu lạnh

Chúng ta được yêu cầu tin rằng những kẻ khủng bố là những tên điên bệnh hoạn, chạy quanh với bom, súng máy và thắt lưng chất nổ. Đó là cách chúng ta được yêu cầu hình dung về chúng

Nhiều kẻ để râu; hầu hết “trông giống người nước ngoài”, không phải da trắng, không phải phương Tây. Nói chung, chúng là kẻ đánh vợ, cưỡng hiếp trẻ em, kẻ phá hủy các bức tượng Hy Lạp và La Mã.

Thực tế là trong chiến tranh lạnh có một số “kẻ khủng bố” trông giống người da trắng – những kẻ cánh tả thuộc về một vài nhóm cách mạng, ở Italy và đâu đó của Đông Âu. Nhưng chỉ đến bây giờ chúng ta mới được biết rằng những hành động khủng bố được gán cho họ thực sự do Đế Quốc gây ra, bởi vài chính quyền cánh hữu Châu Âu và mật vụ. Bạn hãy nhớ, các quốc gia NATO đã làm nổ tung những con tàu trong đường hầm, hoặc đánh bom toàn bộ các nhà ga… 

Điều đó “cần phải thực hiện” để làm mất uy tín của cánh tả, chỉ để đảm bảo rằng người dân sẽ không trở nên thiếu trách nhiệm mà bỏ phiếu cho những người cộng sản hoặc xã hội chủ nghĩa chân chính.

Cũng có vài phần tử “khủng bố” Mỹ Latin – phong trào cách mạng chiến đấu vì tự do và chống lại áp bức, chủ yếu là chống lại chủ nghĩa thực dân phương Tây. Họ phải bị bao vây, tiêu diệt và nếu họ nắm quyền thì phải bị lật đổ.

Nhưng khủng bố thực sự trở nên phổ biến ở phương Tây chỉ sau khi Liên Bang Soviet và khối Cộng Sản bị phá hủy với hàng ngàn biện pháp kinh tế, quân sự và tuyên truyền, cũng như phương Tây đột nhiên phát hiện ra rằng chả có ai để đối đầu. Có lẽ là nó cảm thấy cần phải biện minh có những hành động áp bức tàn bạo của mình ở Châu Phi, Trung Đông, Mỹ Latin và Châu Á.

Nó cần một kẻ thù “tối thượng” mới, thực sự “tối thượng”, để biện minh cho ngân sách quân sự và tình báo khổng lồ. Việc đối mặt với vài trăm “quái vật” ở đâu đó trong rừng rậm xứ Colombia hay Bắc Ireland hoặc Corsia có lẽ là không đủ nữa, cần phải có thứ gì đó thật sự lớn, thứ gì đó so sánh được với “sự độc ác” của “mối đe dọa” từ Soviet.

Ôi mối đe dọa thân thuộc! Dĩ nhiên chỉ là mối đe dọa, không phải là nguy cơ của những lý tưởng bình đẳng và chủ nghĩa quốc tế…

Thế là phương Tây gắn chủ nghĩa khủng bố với Hồi giáo, một trong những nền văn hóa vĩ đại nhất trên trái đất, với 1,6 tỷ tín đồ. Hồi giáo đủ lớn và tối thượng để khiến các bà nội trợ trung lưu ở vùng ngoại ô phương Tây sợ vỡ mật! Trên tất cả những điều đó, nó cần phải bị kiềm chế, như thể là nó quá xã hội chủ nghĩa và quá ôn hòa.

Vào lúc đó trong lịch sử, tất cả các lãnh đạo thế tục và xã hội chủ nghĩa của các nước Hồi giáo, (như Iran, Indonesia và Ai Cập), đều đã bị phương Tây lật đổ, di sản của họ bị đập nát hoặc đơn giản là bị cấm đoán. 

Nhưng điều đó vẫn chưa đủ với phương Tây!

Để biến Hồi giáo thành một kẻ thù đáng giá, Đế Quốc trước hết đã cực đoan hóa và làm hư hỏng hàng sa số các phong trào và tổ chức Hồi giáo, sau đó tạo ra một loại mới, thường xuyên huấn luyện, vũ trang và tài trợ cho chúng, để chúng trông thực sự đủ đáng sợ. 

Dĩ nhiên đó là lý do quan trọng khiến “chủ nghĩa khủng bố”, đặc biệt là “chủ nghĩa khủng bố” Hồi giáo, là cần thiết cho sự sống sót của các học thuyết phương Tây, chủ nghĩa ngoại lệ và sự chuyên chế toàn cầu; nó biện minh cho sự siêu việt tuyệt đối về văn hóa và đạo đức của phương Tây

Đây là cách nó hoạt động

Trong nhiều thế kỷ, phương Tây đã hành động như một con quái vật khát máu. Bất chấp sự tuyên truyền tự họa được truyền thông phương Tây phổ biến khắp thế giới, người ta đều đã nhận thấy rằng Đế Quốc đang cưỡng hiếp, giết hại và cướp bóc ở mọi nơi trên thế giới. Chỉ sau vài thập kỷ sau, thế giới sẽ coi phương Tây là một thảm họa chết chóc và độc hại. Kịch bản đó cần phải được ngăn chặn bằng mọi giá!

Các nhà tư tưởng và tuyên truyền của Đế Quốc đã tạo ra một công thức sáng lạng mới: Hãy tạo ra điều gì đó có bề ngoài và hành xử tồi tệ hơn chúng ta và sau đó chúng ta có thể tự hào rằng chúng ta vẫn là nền văn hóa hợp lý và khoan dung nhất trên trái đất!

Hãy làm một cú xoay ngoạn mục: Hãy chống lại tạo vật của chúng ta – hãy chống lại với danh nghĩa của tự do và dân chủ!”

Đây là cách mà thế hệ “khủng bố” mới được sinh ra. Chúng đang sống! Chúng đang đống và sinh sôi! Chúng nhân lên như những con kỳ giông của Capek. 

***

Chủ nghĩa khủng bố phương Tây không thực sự được mổ xẻ, mặc dù những dạng cực đoan và bạo lực nhất của nó tàn phá thế giới không thương tiếc và đã có từ lâu, với hàng trăm triệu nạn nhân ở khắp nơi.

Ngay cả những binh đoàn lê dương và đấu sĩ của Đế Quốc, giống như Mujaheddin, Al-Qaida, hay ISIS đều không bao giờ có thể tàn bạo được như những gì mà người Anh, người Pháp, người Bỉ, người Đức hay ông chủ Hoa Kỳ của chúng đã luôn thể hiện trong lịch sử. Dĩ nhiên chúng rất cố gắng để theo kịp các bậc tôn sư và thân sinh nhưng chúng không đủ bạo lực và tàn nhẫn.

Cần phải có “văn hóa phương Tây” để hành quyết 10 triệu người chỉ ở một nơi duy nhất, hầu như chỉ một lần!

***

Đâu là khủng bố thật sự và làm sao ISIS và những kẻ khác có thể theo đuổi sự định hướng của chúng? Họ nói rằng ISIS chặt đầu các nạn nhân của chúng. Đủ tồi tệ. Nhưng ai là thầy của chúng? 

Trong nhiều thế kỷ, các đế quốc Châu Âu đã giết chóc, tra tấn, cưỡng hiếp và băm xác người dân khắp các lục địa của thế giới. Những nước không trực tiếp làm điều đó đã “đầu tư” cho những cuộc viễn chinh thuộc địa, hoặc cử người tới tham gia các binh đoàn diệt chủng. 

Vua Leopold II và đội quân của ông ta đã hành quyết khoảng 10 triệu người ở Tây và Trung Phi, ở nơi mà ngày nay được gọi là Congo. Ông ta đã săn đuổi người dân ở đó như săn thú hoang, cưỡng ép họ phải làm việc trong các đồn điền cao su. Nếu ông ta cho rằng họ đổ đầy két tiền của ông ta không đủ nhanh, ông ta không ngần ngại chặt tay họ, hoặc thiêu sống toàn bộ dân làng trong ngôi nhà của chính họ.

10 triệu nạn nhân đã chết. 10 triệu! Điều đó diễn ra chưa phải là quá lâu, không phải trong “thời đại tăm tối” mà là trong thế kỷ 20, dưới sự cai trị của chế độ quân chủ lập hiến và tự xưng là dân chủ. Làm sao có thể so sánh nó với chủ nghĩa khủng bố đang thống trị ở những khu vực mà ISIS chiếm đóng? 

Cộng Hòa Dân Chủ Congo kể từ năm 1995 đã một lần nữa mất đi 10 triệu mạng người trong một cơn điên loạn khủng bố, do những tay sai của phương Tây, Rwanda và Uganda gây ra (xem giới thiệu bộ phim “Rwanda Gambit” của tôi).

Người Đức đã thực hành diệt chủng ở Nam-Tây Phi, hiện nay là Namibia. Bộ tộc Herero đã bị hủy diệt, hay ít nhất là gần 90% bộ tộc. Đầu tiên, người dân bị đuổi khỏi đất đai và nhà của họ, được đưa đến sa mạc. Nếu họ sống sót, các cuộc viễn chinh thời tiền phát xít của người Đức sẽ tiếp tục, sử dụng đạn và các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt khác. Các thí nghiệm y khoa trên con người đã được thực hiện, để chứng minh sự siêu việt của dân tộc Đức và chủng tộc da trắng.

Đó chỉ là những thường dân vô tội; người dân chỉ có tội duy nhất đó là họ không có da trắng và ở trên vùng đất mà người Châu Âu xâm lược và đánh phá.

Taliban hay thậm chí ISIS chưa bao giờ tiến đến gần mức đó!

Hiện nay, chính quyền Namibia đang yêu cầu trả lại hàng sa số những cái đầu được chặt từ người dân của họ; những cái đầu bị chặt và gửi đến đại học Freiburg cũng như một số bệnh viện ở Berlin cho các thí nghiệm y khoa.

Hãy tưởng tưởng, ISIS chặt hàng ngàn cái đầu người Châu Âu để thực hiện các thí nghiệm y khoa nhằm mục đích chứng minh sự siêu việt của chủng tộc Arab. Thật hoàn toàn không thể tưởng tưởng được!

Người dân địa phương bị khủng bố ở hầu khắp các thuộc địa mà Châu Âu chiếm được, một số đã được tôi mô tả chi tiết trong cuốn sách dày 840 trang mới nhất của mình “Exposing Lies of the Empire”.

Người Anh và nạn đói mà họ đã dùng để kiểm soát dân số và hăm dọa ở Ấn Độ mới khủng khiếp làm sao! Chỉ riêng năm 1943 có ít nhất 5 triệu người ở Bengal, 5,5 triệu người vào năm 1876-78, 5 triệu người vào năm 1896-97, đó chỉ là một số ít hành động khủng bố của đế quốc Anh đối với dân chúng không có gì tự vệ và bị buộc phải sống dưới một chế độ khủng bố áp bức tàn bạo!

Những gì mà tôi viết phía trên chỉ là ba chương ngắn trong lịch sử lâu dài của chủ nghĩa khủng bố phương Tây. Một từ điển bách khoa toàn thư mới có thể truyền tải hết chủ đề này.

Nhưng tất cả những điều này nằm ngoài nhận thức của người dân phương Tây. Dân chúng châu Âu và Bắc Mỹ không muốn biết bất cứ thứ gì về quá khứ và hiện tại. Chừng nào mà họ còn cho rằng họ cai trị thế giới vì họ tự do, thông minh và chăm chỉ, không phải bởi vì trong nhiều thế kỷ đất nước của họ đã cướp bóc và giết chóc, cũng như trên hết là khủng bố để buộc thế giới phải quy phục.

Dĩ nhiên, tầng lớp thượng lưu biết mọi thứ. Họ càng biết nhiều thì họ càng sử dụng những kiến thức đó cho công việc.

Kinh nghiệm và sự trao đổi khủng bố được chuyển từ các ông chủ phương Tây sang cho lính mới Hồi giáo của họ.

The Mujahideen, Al-Qaida, ISIS – trong kỳ thi cận kề, chiến thuật đe dọa và khủng bố không phải đều là nguyên gốc. Chúng đều được xây dựng dựa trên kinh nghiệm đế quốc và thực dân của phương Tây. 

Tin tức về điều đó, hay thậm chí là về khủng bố trên hành tinh do phương Tây gây ra, hoàn toàn bị kiểm duyệt. Anh sẽ không bao giờ thấy chúng trên chương trình truyền hình của BBC hay đọc được chúng trên các tờ báo và tạp chí chính thống.

Mặt khác, bạo lực và sự tàn nhận của các tổ chức khủng bố tay sai thường xuyên được nhấn mạnh. Chúng được đưa tin đến từng chi tiết nhỏ nhất, lặp đi lặp lại và được “phân tích”.

Mọi người đều giận dữ, khủng khiếp! Liên Hiện Quốc “quan ngại sâu sắc”, các chính quyền phương Tây “phẫn nộ” và công chúng phương Tây “cảm thấy quá đủ - họ không muốn có những người tị nạn từ những đất nước khủng khiếp đã sinh ra chủ nghĩa khủng bố và bạo lực.”

Phương Tây “chỉ đơn giản là phải can thiệp”. Đây là lúc Chiến Tranh chống Khủng Bố.

Đó là cuộc chiến chống lại gã Frankenstein của chính phương Tây. Đó là cuộc chiến không bao giờ thắng. Bởi vì nếu như họ thắng, chúa cấm, sẽ có hòa bình và hòa bình có nghĩa là cắt giảm ngân sách quốc phòng và xử lý những vấn đề thực sự của hành tinh.

Hòa bình có nghĩa là phương Tây nhìn vào quá khứ của họ. Điều đó có nghĩa là suy nghĩ về công lý và sắp xếp lại toàn bộ cấu trúc quyền lực của hành tinh. Điều đó không bao giờ được phép.

Do vậy, phương Tây “đang chơi” trò chiến tranh; họ “chống lại” những lính đánh thuê của họ (hay ngăn cản việc chống lại chúng), trong khi đó thì những người vô tội phải chết.

Không đâu trên thế giới, ngoại trừ phương Tây, có thể tạo ra và phóng thích những thứ tàn bạo và dã man như ISIS hay Al-Nusra!

Xem xét kỹ hơn chiến lược của những nhóm cấy ghép này: chúng không bắt nguồn từ bất cứ văn hóa Hồi giáo nào. Chúng hoàn toàn lấy cảm hứng từ triết lý khủng bố thuộc địa của phương Tây: “Nếu anh không phục tùng hoàn toàn lý thuyết và tôn giáo của chúng tôi thì chúng tôi sẽ chặt đầu anh, cắt cổ họng anh, cưỡng hiếp cả gia đình anh hay đốt trụi làng mạc hoặc thành phố của anh. Chúng tôi sẽ phá hủy các di sản văn hóa vĩ đại của anh như chúng tôi đã làm ở Nam Mĩ 500 năm trước đây, cũng như ở nhiều nơi khác nữa.”

Mọi thứ tiếp tục như vậy! Cần phải thực sự tự lừa dối bản thân để không nhìn vào những mối liên hệ đó!

***

Vào năm 2006, tôi đến thăm một người bạn, cựu tổng thống Indonesia và là một lãnh đạo Hồi giáo tiến bộ vĩ đại, Abdurrahman Wahid (ở Indonesia được gọi là “Gus Dur”). Chúng tôi gặp nhau ở trụ sở của tổ chức quần chúng Hồi giáo Nahdlatul Ulama (NU) của ông. Vào lúc đó NU là tổ chức Hồi giáo lớn nhất thế giới.

Chúng tôi thảo luận về chủ nghĩa tư bản và cách nó phá hủy cũng như làm tha hóa Indonesia. Gus Dur là một “người xã hội chủ nghĩa bí mật” và đó là một trong những lý do chính khiến “giới thượng lưu” nô lệ phương Tây của Indonesia và quân đội lật đổ ông vào năm 2001.

Khi chúng tôi nói tới chủ đề “chủ nghĩa khủng bố”, ông đột nhiên tuyên bố bằng giọng nói nhẹ nhàng mà thâm trầm đặc trưng: “Tôi biết người đã đánh bom khách sạn Marriott ở Jakarta. Đó là do cơ quan tình báo của chúng tôi làm, để biện minh cho sự gia tăng ngân sách của họ, cũng như viện trợ mà họ nhận được từ nước ngoài.”

Dĩ nhiên, quân đội Indonesia, tình bào và cảnh sát đều thuộc về về một nhóm người đặc biệt. Trong vài thập kỷ, kể từ năm 1965, họ đã khủng bố tàn bạo người dân của họ, khi cuộc đảo chính thân phương Tây lật đổ tổng thống tiến bộ Sukarno và đưa phe quân phiệt phát xít lên nắm quyền, do nhóm kinh doanh Thiên Chúa giáo thống trị hậu thuẫn. Sự khủng bố này cướp đi 2-3 triệu sinh mạng ở Indonesia, cũng như ở Đông Timor và (cho đến nay) ở Papua bị chiếm đóng và cướp bóc.

3 cuộc diệt chủng chỉ trong 5 thập kỷ!

Cuộc đảo chính ở Indonesia là một trong những hành động khủng bố khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại. Các dòng sông tắc ngẽn vì xác chết và nước đổi màu sang đỏ.

Tại sao? Đó là cách chủ nghĩa tư bản sẽ sống sót và các công ty khai mỏ phương Tây có thể thu được chiến lợi phẩm, với gánh nặng chi phí là một đất nước Indonesia hoàn toàn bị phá hủy. Thế nên đảng Cộng Sản Indonesia (PKI) không thể thắng cử dân chủ.

Nhưng ở phương Tây, những cuộc thảm sát quy mô lớn do Đế Quốc sắp đặt vào năm 1965 không bao giờ được gọi là “chủ nghĩa khủng bố”. Cho nổ tung một khách sạn hay một quán rượu, nhất là khi chúng thường xuyên có khách hàng phương Tây, thì lại là khủng bố.

Hiện giờ Indonesia đã có những nhóm “khủng bố”. Chúng trở về từ Afghanistan, nơi mà chúng chiến đấu theo lệnh của phương Tây để chống lại Liên Bang Soviet. Chúng cũng vừa trở về từ Trung Đông. Những cuộc tấn công vừa qua ở Jakarta chỉ là màn dạo đầu, một sự khởi đầu được lập kế hoạch chu đáo cho thứ gì đó lớn hơn, có thể mở ra một “mặt trận” mới cho lính đánh thuê của Đế Quốc ở Đông Nam Á.

Về phía phương Tây và những nhà hoạch định của họ - Hỗn loạn hơn là tốt hơn.

Nếu như Abdurrahman Wahid vẫn còn được làm tổng thống Indonesia, có vẻ như sẽ không có chủ nghĩa khủng bố. Đất nước của ông sẽ trải qua một cuộc cải cách xã hội chủ nghĩa, thiết lập công bằng xã hội, phục hồi những người cộng sản và đi theo chủ nghĩa thế tục.

Trong những xã hội cân bằng về mặt xã hội, chủ nghĩa khủng bố không phát triển được.

Đó là điều không thể chấp được đối với Đế Quốc. Điều đó sẽ có nghĩa là – quay trở lại thời Sukarno! Quốc gia Hồi giáo đông dân nhất thế giới được phép đi theo con đường của họ, hướng tới chủ nghĩa xã hội và tiêu diệt các phần tử khủng bố.

Nó phải bị đe dọa. Nó phải bị sai khiến. Nó phải sợ hãi và đáng sợ! Nó phải như vậy

***

Những trò chơi của phương Tây là phức tạp và tinh vi. Chúng tối tăm và vô chính phủ. Chúng phá hoại và tàn bạo tới mức mà những nhà phân tích lạnh lùng nhất thường không tin vào mắt mình cũng phải tự hỏi: “Có thật sự là tất cả những điều đó xảy ra?” 

Câu trả lời ngắn gọn là: “Phải, nó có thể. Phải, nó có thể, trong nhiều thập kỷ và thế kỷ.”

Về mặt lịch sử, chủ nghĩa khủng bố là vũ khí bản địa của phương Tây. Nó được những người như Lloyd George, một thủ tướng của nước Anh, sử dụng tùy ý, ông ta đã từ chối ký vào hiệp ước cấm ném bom thường dân, với logic không thể lay chuyển của người Anh: “Chúng ta có quyền ném bom những tên mọi đó.” Hay Winston Churchill muốn đưa những “chủng tộc thấp kém”, như người Kurd và Arab, vào lò hơi ngạt.

Đó là lý do khiến toàn bộ phương Tây hoảng loạn khi một kẻ bên ngoài như nước Nga tham gia vào cuộc chiến chống lại các nhóm khủng bố. Nga đang làm hỏng toàn bộ trò chơi của họ! Nga đang phá hỏng sự cân bằng tân thực dân đẹp đẽ.

Hãy nhìn xem mọi thứ đáng yêu làm sao: sau khi giết chết hàng trăm triệu người khắp địa cầu, phương Tây giờ đang tự nhận là nhà vô địch về nhân quyền và tự do. Họ vẫn tiếp tục khủng bố và cướp bóc thế giới, kiểm soát nó hoàn toàn – nhưng họ phải được chấp nhận là lãnh đạo tối cao, cố vấn đạo đức và phần đáng tin cậy duy nhất của thế giới.

Hầu như không có ai cười

Bởi vì tất cả đều đang sợ hãi!

Những binh đoàn lê dương khát máu của họ ở Trung Đông và Châu Phi đang tàn phá nhiều quốc gia, nguồn gốc của chúng có thể dễ tìm thấy, nhưng hầu như không có ai liều lĩnh làm điều đó. Một số đã cố thử làm – và đã chết.

Những con quái vật khủng bố được sáng chế, chế tạo và cấy ghép càng đáng sợ thì phương Tây trông càng đẹp đẽ. Tất cả chỉ là mánh lới quảng cáo. Nó bắt nguồn từ quảng cáo và trong hàng trăm ngàn năm của cơ quan tuyên truyền.

Phương Tây giả vờ chống lại những lực lượng của bóng tối đó. Nó sử dụng thứ ngôn ngữ hùng mạnh và “đúng đắn” dựa trên học thuyết Thiên Chúa giáo chính thống.

Toàn bộ huyền thoại được giải phóng; giống như vở “Ring” của Wagner.

Kẻ khủng bố đại diện cho sự độc ác chứ không phải là khoản chi tiêu khổng lồ từ ngân sách của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, Liên Minh Châu Âu và NATO. Chúng đều độc ác hơn cả Quỷ Sứ!

Phương Tây, cưỡi trên con ngựa trắng, say khướt nhưng luôn luôn hài hước, đóng vai cả nạn nhân lẫn kẻ thù chính của những nhóm khủng bố độc ác đó.

Đó là một màn diễn khó tin. Một trò hề khủng khiếp. Hãy nhìn vào phía sau mặt nạ của kị sĩ: hãy nhìn vào những cái răng đang nhe ra; nụ cười chết chóc! Hãy nhìn vào đôi mắt đỏ của hắn, đầy tham lam, thú tính và hung ác.

Hãy đừng bao giờ quên: chủ nghĩa thực dân và đế quốc là hai dạng chết chóc nhất của chủ nghĩa khủng bố. Chúng vẫn là hai vũ khí chính của tên kị sĩ đang bóp nghẹt thế giới!


Andre Vltchek is a philosopher, novelist, filmmaker and investigative journalist. He covered wars and conflicts in dozens of countries. His latest books are: “Exposing Lies Of The Empire” and “Fighting Against Western Imperialism”.Discussion with Noam Chomsky: On Western Terrorism. Point of No Return is his critically acclaimed political novel. Oceania – a book on Western imperialism in the South Pacific. His provocative book about Indonesia: “Indonesia – The Archipelago of Fear”. Andre is making films for teleSUR and Press TV. After living for many years in Latin America and Oceania, Vltchek presently resides and works in East Asia and the Middle East. He can be reached through his website or his Twitter.

Thursday, December 17, 2015

Chuyện viên gạch sưởi của Bác Hồ

Hình minh họa: Tiết kiệm chi phí sưởi ấm với gạch chịu nhiệt
Nguồn: Ở đây
Câu chuyện về viên gạch sưởi của Bác Hồ thì hầu hết người Việt Nam ai cũng từng được nghe. Nó cũng gắn liền với câu thơ "Một viên gạch hồng, bác chống lại cả mùa băng giá" của nhà thơ Chế Lan Viên. Theo cách câu chuyện được viết ra thì có vẻ tác giả là một người không mấy hiểu biết về viên gạch sưởi cũng như cuộc sống ở nước Pháp, Châu Âu, thời xưa, điều này có thể cho thấy người viết ra câu chuyện đó không phải là Bác Hồ (người trực tiếp sống trong hoàn cảnh đó). Có thể là tác giả được nghe ai đó kể rồi viết lại.

Ban đầu mới nghe chuyện viên gạch sưởi thì tôi cũng chỉ nghĩ đó là mẹo chống rét của một số dân nghèo, sau này tìm hiểu thì mới biết đó là một cách sưởi ấm rất phổ biến và có từ lâu ở Châu Âu và Mỹ. Lý do là vì trước kia lò sưởi chưa được tốt nên chi phí sưởi ấm rất đắt, ít người có thể ở nhà có lò sưởi, đa phần người ta phải dùng những cách đơn giản như vậy để sưởi ấm khi đi ngủ hoặc thậm chí là cả khi làm việc. 

Trong cuốn sách The House Book: Or, A Manual of Domestic Economy for Town and Country, một cuốn sách hướng dẫn nội trợ ở Mỹ do tác giả Eliza Leslie viết năm 1844 có đoạn mô tả về việc nung nóng gạch, cuộn nó vào quần áo cũ dầy, rồi mang lên giường đặt ở phía chân để ngủ cho ấm như sau:
A bed may be kept warm much longer by heating a brick in the oven of stove, wrapping it up closely in a large, thick, old cloth, folded several times round the brick to prevent its burning the sheets, and putting it into bed near the foot, seeing that it is too hot.
Cách sưởi ấm này rất từng phổ biến ở Châu Âu và Mỹ. Nhiều vùng ở Châu Âu người ta vẫn bán những viên gạch nung nóng cho những người buôn bán ở chợ, hoặc những người nghèo không có lò sưởi, để sưởi ấm. Sau này, khi lò sưởi tốt hơn và chi phí sưởi ấm rẻ đi cũng như các công cụ giữ nhiệt khác được phát minh ra thì nó ít được dùng hơn, nhưng nó vẫn tồn tại. Tờ tạp chí New York số 26 tháng 11 năm 1973 vẫn khuyên độc giả của họ nung nóng gạch rồi đặt lên giường ngủ cho ấm
8. Bricks: Heated in the oven and placed at the bottom of your bed, real bricks are good socks supplement (or substitute), according to Pennsylvania Dutch tradition. Buy them at a refractory, or get them free in the rubble of the red brick building that was just demolished on 23rd Street, between Fifth and Sixth Avenues.
Đoạn văn trên rất đặc trưng kiểu Mỹ, không chỉ mách độc giả về việc dùng gạch nung nóng để sưởi ấm mà còn chỉ cho độc giả chỗ mua (nhà máy gạch) hoặc nhặt ở chỗ tòa nhà mới bị đập bỏ trên phố số 23. Tác giả nói rằng đây là theo truyền thống của người Hà Lan ở vùng Pennsylvania, tức là truyền thống của người Châu Âu mang sang từ thời di cư. 

Khi mà chi phí sưởi ấm trở nên đắt đỏ, những người Mỹ muốn sống tiết kiệm vẫn mách nhau cách đặt những viên gạch vào bếp khi đun nấu thức ăn và dùng những viên gạch đó để sưởi ấm, nhằm giảm bớt chi phí sưởi ấm. Thậm chí những bà hay làm từ thiện còn nung nóng gạch để đem phân phát cho những người vô gia cư, giúp họ sống sót qua đêm mùa đông phương bắc lạnh giá.

Hầu hết những người sau này không trải qua cuộc sống ấy thì không biết viên gạch sưởi đó là gì. Ở Châu Âu lúc đó lò sưởi đã được phát minh, để lò sưởi không bị thoát nhiệt nhanh thì người ta phải xây bằng loại gạch chịu nhiệt (firebrick). Gạch dùng để sưởi ấm chính là loại gạch dùng để xây lò sưởi. Loại gạch này chịu được nhiệt độ cao và có khả năng giữ nhiệt lâu, một số vùng người ta còn dùng soapstone nung nóng để sưởi ấm trên giường ngủ, song soapstone thì không phổ biến bằng gạch chịu nhiệt. Gạch có lẽ là được nung khoảng 400 độ và khi được bọc gói kỹ lưỡng sẽ giữ nhiệt được khoảng 5-7 tiếng đồng hồ, tức là đủ cho một giấc ngủ đêm.
Hình minh họa: Đá soapstone dùng để sưởi ấm
Nguồn: Esty
Vào thời Bác Hồ sống ở Châu Âu thì người ta đã sản xuất ra những viên gạch chuyên dùng để sưởi ấm, hình dạng cũng giống viên gạch nhưng làm bằng sứ, hiện giờ vẫn còn được rao bán trên mục đồ cổ của trang Ebay. Loại phổ biến nhất ở Châu Âu là Chauffeuse của Pháp. Viên gạch sưởi mà Bác Hồ dùng, hiện đang được trưng bày ở bảo tàng có lẽ là loại Victorian của Anh.
Hình minh họa: Gạch sưởi Chauffeuse của Pháp
Nguồn: Esty

Hình minh họa: Gạch sưởi Victorian của Anh
Nguồn: Ebay
Hình minh họa: Gạch sưởi Alsace kích thước 23x12cm của Đức
Nguồn: Rubylane

Như đã nói ở trên, câu chuyện viên gạch sưởi của Bác Hồ là do người không hiểu gì về cuộc sống ở Châu Âu thời đó viết lại nên có nhiều chi tiết rất xa lạ, ví dụ như chiếc nệm, bọc viên gạch bằng giấy báo cũ, đặt viên gạch dưới gầm giường hay dưới lưng, đặt nhờ viên gạch ở lò sưởi của bà chủ nhà hay bếp của khách sạn. Toàn bộ câu chuyện thực ra rất đơn giản. Thời đó nhà không có lò sưởi rất phổ biến, nệm cũng chưa có, những người nghèo chủ yếu sống trong những phòng không có lò sưởi. Mỗi sáng khi đi làm, họ sẽ đưa cho chủ nhà một viên gạch sưởi, vào buổi chiều khi chủ nhà nấu nướng hoặc đốt lò sưởi buổi tối thì sẽ đặt viên gạch của họ vào lò cho nóng. Khi những người thuê nhà trở về vào buổi tối thì họ sẽ lấy viên gạch bọc kỹ nó bằng quần áo cũ hoặc giấy báo rồi để lên giường, ở phía bàn chân, để ngủ cho ấm. Việc nung nóng gạch giống như một dịch vụ thường ngày mà chủ nhà cung cấp thêm cho những người thuê nhà vậy, nếu chủ nhà không làm thì những người thuê nhà sẽ phải mua những viên gạch nung nóng từ người chuyên bán gạch sưởi ở gần đó, hoặc cũng có thể là chính chủ nhà bán dịch vụ nung nóng những viên gạch ấy. Việc này hoàn toàn là một sinh hoạt thường ngày phổ biến ở Châu Âu, không có gì lạ lùng với người dân thời đó.

Nhưng có một chuyện thú vị hơn nữa, hiện giờ vẫn còn có những người Mỹ hỏi nhau rằng "Did your brick stay warm?". Với thế hệ hiện tại có lẽ câu đó hoàn toàn là vô nghĩa. "Gạch của anh có ấm không?" là một câu vô nghĩa. Nhưng đó là một câu thành ngữ liên quan đến gạch sưởi. Trước đây, nhiều gia đình người Mỹ sống theo triết lý khắc khổ và thanh đạm vẫn cho rằng đốt lò sưởi vào đêm mùa đông là lãng phí và tội lỗi, thế nên buổi tối khi đốt lò sưởi thì họ đặt những viên gạch sưởi vào đó, khi đi ngủ thì họ đặt viên gạch nung nóng được quấn kỹ vào giường và tắt hết lò sưởi đi. Sáng hôm sau, bên bàn ăn sáng họ sẽ hỏi nhau "Did your brick stay warm?", câu đó có nghĩa là "Anh ngủ có ngon không?", bởi vì viên gạch tỏa hơi ấm suốt đêm sẽ giúp anh ngủ ngon. 

Monday, November 16, 2015

Sắc màu của thảm kịch: Paris và truyền thông

Nhà báo nữ Tamara Pearson trong bài viết "The Colors of Tragedy: Paris and the Media" mổ xẻ sự thiên lệch của truyền thông trong sự kiện thảm sát ở Paris. Màu cờ nước Pháp tràn ngập thế giới sau vụ thảm sát ở Paris, còn khi phương tây thảm sát hàng triệu người ở đâu đó trên thế giới thì không có lá cờ nào được vẫy lên. Thảm kịch được tầm thường hóa, chỉ được đưa tin nhằm mục đích câu khách, đồng thời lảng tránh sự thật. 

Sắc màu của thảm kịch: Paris và truyền thông

Khi Paris run rẩy đối mặt với vụ tấn công kinh hoàng vào thứ sau, Beirut cũng vậy sau vụ đánh bom kép vào thứ năm và Palestin cũng vậy hàng ngày. Nhưng nhà hát Opera Sydney chỉ đổi màu vì Pháp và cho nước Pháp – lặp lại sự phản ứng đối với sự kiện Hebdo – các tổng thống phương tây phát biểu trong sự bàng hoàng và truyền thông tư nhân tường thuật trực tiếp, các slide show và các trang đăng video.

Ưu tiên về thảm kịch của truyền thông phản ánh và duy trì ưu tiên về chính trị, theo đó cuộc sống của một số người được coi là quan trọng hơn. Hơn nữa, bằng cách sử dụng thảm kịch có lựa chọn, biến thảm kịch thành giật gân để câu khách và do đó tầm thường hóa thảm kịch, thâm chí bỏ qua việc đưa tin số người chết bởi vì họ không thật sự hiểu. 

Truyền thông đã cực kỳ hấp tấp. Cho dù là truyền hình về tổn thất và đau khổ của địa phương cho sự tò mò tọc mạch của khán giả phương tây mà không cần quan tâm nhiều đến câu chuyện ở phía sau – như trong trường hợp động đất ở Nepal – hay cá nhân hóa các nạn nhân ở Paris, bao quát dòng thời gian của bạo lực theo chi tiết từng phút nhưng dàn xếp để duy trì sự thờ ơ bất chấp sự kiện.

Truyền thông không chỉ tác động tới cái mà khán giả biết, mà còn là cách họ suy nghĩ và điều mà họ quan tâm. Truyền thông không đưa tin về bốn năm biến Syria thành đống hoang tàn, theo cách chi tiết. Truyền thông đã lãng quên Nepal, những dòng tít tuyệt vời nhất đã biến mất và các phân tích về khôi phục và xây dựng dường như quá khó để theo dõi. Người tị nạn chỉ hiện ra trên truyền thông khi họ đặt chân lên đất của thế giới thứ nhất. Truyền thông có có vai trò trong nhận thức phê phán về các cấu trúc kinh tế cũng như xã hội phía sau thảm kịch, nhưng trong thực tế, do chủ sở hữu của truyền thông và động cơ lợi nhuận, nó sẽ không làm vậy. Không chỉ là về bán hàng, truyền thông là sức mạnh phục vụ cho một phe.

Gói tin tức mà truyền thông giới thiệu – những thảm kịch mà chúng trình bày cũng như những thảm kịch mà chúng bỏ qua củng cố một sự bất bình đẳng xã hội nghiêm trọng. Bất cứ đứa trẻ nào cũng biết, điều quan trọng là ai và cái gì phải được chú ý. Thảm kịch của nghèo đói và sự cô lập xã hội quy mô lớn bị truyền thông hạ thấp trong khi máy bay rơi và các vụ nổ súng chiếm vị trí trung tâm. Không phải là chúng phải như vậy mà thực ra là kém may mắn, những thảm kịch lớn nhất diễn là hàng ngày, chúng là dài hạn, tuần hoàn, chúng có nguyên nhân, nhưng đó là những con người sai lầm và thiếu những tiêu đề hấp dẫn, do vậy chúng bị kiểm duyệt bằng sự chung chung, cam chịu, im lặng. Điều đó có nghĩa là chúng được bình thường hóa và chấp nhận.

Các thảm kịch bị hạ thấp 

Những vụ thảm sát hàng triệu người mỗi năm cho tới các dịch bệnh có thể ngăn chặn được không được thừa nhận.

Sự xô đẩy tán loạn trong im lặng của những công nhân quá mệt mỏi bị trả lương thấp không được nhận thấy. Biến trí tuệ sâu sắc thành tư duy tầm thường, sự thể hiện chết cứng, bởi vì giáo dục cao đắt đỏ hơn truyền hình và điện thoại. Sự sáng tạo, nếu nó còn sống sót, được bán cho người đặt giá cao hơn.

Giới hạn với tình dục, giới tính và tồn tại. Có nghĩa là truy tố sự đa dạng và sản xuất có hệ thống ra sự cô độc.

Đầu độc hành tinh, cuộc sống trở thành bốc dầu hỏa và hận thù chờ bùng cháy.

Sự miễn tố của cảnh sát đối với tội sát nhân và sự miễn tố các quốc gia đối với bom đạn.

Ở trường học, lịch sử được dạy theo một chuỗi sự kiện, từ sự kiện này đến sự kiện khác, như là những anh hùng ngẫu nhiên và cá nhân, hơn là một quá trình. Đối với truyền thông ngày nay cũng vậy, Paris là một chuỗi sự kiện, không phải là một chủ đề phức tạp. Nếu có hành động nào xảy ra, điều đó sẽ đơn giản – trừng phạt kẻ thù, cho phép kẻ thù trở thành người dân, bỏ qua bối cảnh, câu hỏi và hậu quả. Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đã tràn ngập các mạng xã hội sau khi Paris được mổ xẻ bằng phân tích nguyên nhân-kết quả - hiện nay đa số bản tin của truyền thông thiếu sự toàn diện . Đâu là các lực lượng và quyền lực tham gia? Đâu là bạo lực xâm lược, cô lập toàn bộ người dân, chuyện đó có liên quan đến chuyện này không? Tạo sao một số vụ bạo lực đối với một số dạng người được chấp nhận, còn đối với những người khác thì không? Đó có phải là một thảm kịch tự sát không?

Tamara Pearson is a long time journalist based in Latin America, and author ofThe Butterfly Prison. Her writings can be found at her blog.

Thursday, October 15, 2015

Thao túng thực tại: Facebook đang nghe lén bạn

Trong bài "Manipulating Reality: Facebook is Listening to You" giáo sư Mel Gurtov cảnh báo về việc các doanh nghiệp cung cấp mạng xã hội thu thập thông tin cá nhân người dùng để bán quảng cáo và tệ hơn nữa là cung cấp cho chương trình giám sát của chính quyền Hoa Kỳ, vi phạm quyền riêng tư căn bản của cá nhân. Nhưng xã hội tư bản là như vậy, khao khát biến con người thành cỗ máy tiêu thụ vô tận những gì doanh nghiệp sản xuất ra sẽ không bao giờ chấm dứt.

Thao túng thực tại: Facebook đang nghe lén bạn

Điều mà chúng ta đều quá quen thuộc là thực tại của chúng ta có thể bị thao túng để tạo thành vẻ ngoài của một thứ gì đó hoàn toàn khác biệt. Xâm lược quốc gia khác là tự vệ, bầu cử gian lận được coi là dân chủ trong hành động, thêm súng đạn (hoặc vũ khí hạt nhân) để đảm bảo hòa bình, thương mại và đầu tư nước ngoài tạo ra nhiều công ăn việc làm ở quê nhà. Logic kiểu Orwell đã trở nên phổ biến.

Điều mà tôi muốn bàn luận ở đây là một dạng thao túng khác: Cách thức Facebook và các loại truyền thông xã hội khác sử dụng thông tin mà chúng ta hầu như không biết rằng đang cung cấp chúng cho họ – bao gồm cả những từ ngữ chúng ta nói riêng tư ở nhà – để quảng cáo các sản phẩm mà chúng ta không yêu cầu hay hầu như không muốn, cũng như chuyển dữ liệu cho chính quyền.

Tôi không phải là người đầu tiên khám phá ra năng lực đáng kinh ngạc này. Một số người khác đã bày tỏ sự ngạc nhiên và tức giận khi họ nhận thấy những từ khóa mà họ sử dụng khi trao đổi thông tin trên Facebook và Twitter, như thông điệp, vị trí, tâm trạng, cũng như các đàm thoại riêng tư ở bất cứ đâu tại nhà của họ, đã bị thu gom và hầu như ngay lập tức chuyển hóa thành quảng cáo. Anh đề cập tới một môn thể thao nào đó và quảng cáo của đại lý bán vé xuất hiện. Anh nói thích lái xe Lexus và quảng cáo xe Lexus bật ra. Anh nói về kỳ nghỉ và quảng cáo Facebook giới thiệu với anh bãi biển Hawaii hoặc một khách sạn nhỏ ở Paris – nhìn kìa và thấy đấy – anh mới chỉ nhắc đến chuyện đó ngày hôm qua!

Đây là ảo giác? Liệu Facebook (hay Instagram, Google hoặc Yahoo) có khả năng nghe được trong đàm thoại của chúng ta không? Facebook đã thừa nhận rằng mô hình kinh doanh của họ dựa trên dữ liệu mà chúng ta nhập hoặc trao đổi trực tuyến, dữ liệu mà chúng ta tạo ra trở thành tài sản của Facebook, (như Mark Zuckerberg, CEO của Facebook đã lập luận) đằng nào thì hầu hết mọi người cũng không quan tâm nhiều đến sự riêng tư. Dĩ nhiên Facebook và truyền thông xã hội đều bảo vệ mô hình của họ bằng cách nói với bạn rằng họ đáp ứng sự mong muốn của bạn và nếu bạn muốn thì họ có thể giảm bớt (nhưng không chấm dứt hoàn toàn) quảng cáo khi mà bạn chỉ cần kiểm tra danh mục được cung cấp trong phần thiết lập chương trình. Nhưng như mới đây, Facebook cam đoan rằng chỉ có bạn kiểm soát microphone và (theo lãnh đạo an ninh của Facebook) bạn phải cho phép Facebook kích hoạt nó. Có ai được nhớ là đã được xin phép không?

Có vẻ như là bạn có thể tắt chức năng của microphone ở Windows hoặc ứng dụng di động Facebook trên điện thoại di động hoặc máy tính bảng của mình. Nhưng liệu “tắt” có thực sự là tắt hoàn toàn? Có vẻ như là không. Thí nghiệm của Jodi , vợ tôi, và tôi sau khi tắt microphone trên máy tính của cô ấy và nói về một số thứ khác, quảng cáo xuất hiện trong vòng vài giây sau khi chúng tôi nói.

*Jodi bình luận về diễn viên Robin Wright Penn. Quảng cáo về phim của Sean Penn đã xuất hiện ngay lập tức.

*Chúng tôi thảo luận áo phông cho cháu nội. Quảng cáo áo phông xuất hiện. 

*Jodi nói về trò chơi Scrabble dang dở. Ngay lập tức quảng cáo về trò chơi Yahtzee xuất hiện.

*Jodi mô tả bề ngoài phù hợp với tuổi của cô ấy, như nếp nhăn và tóc xám, quảng cáo về “Chiến thắng tuổi tác” của Maybeline hiện ra.

Giờ thì bạn nói ổn thôi, nhưng sự rình mò đó có phải là bất hợp pháp, một sự xâm phạm tính riêng tư không? Người ta đã phản đối trên quy mô lớn việc rình mò trên điện thoại di động của Facebook, nhưng dường như chính sách của Facebook không thay đổi, như tôi đã nhận thấy. Ở mức độ hợp pháp, một nghiên cứu của Bỉ đã chỉ ra – bằng cách này, người Châu Âu lo ngại và quan tâm tới trò lừa dối của Facebook hơn là người Mỹ —“tùy chọn tắt” quảng cáo không phải là thứ đã được thông tin và trực tiếp đồng thuận. Hơn nữa, Facebook không cần đến sự đồng thuận của chúng ta để thu thập dữ liệu từ các nguồn khác, để thu thập dữ liệu vị trí mà điện thoại di động cung cấp, để sử dụng các bức ảnh hay dữ liệu khác (như “like”) mà người dùng nhập vào.

Tôi cho rằng báo cáo của Bỉ phù hợp với tuyên bố chính sách mới đây của Facebook (2015), Facebook có thể thu thập mọi và toàn bộ dữ liệu phát sinh từ việc sử dụng facebook của bạn cũng như thiết bị mà bạn dùng để truy cập Facebook. “Mọi thông tin” có nghĩa là toàn bộ các dữ liệu bạn nhập vào, bất kể là về bản thân bạn hay một bên nào khác, bất kể là dưới dạng chữ viết, tiếng nói hay hình ảnh. Ngay cả khi bạn xóa bỏ tài khoản Facebook của mình, tất cả thông tin mà bạn cung cấp vẫn tồn tại.

Bên cạnh đó cũng có một vấn đề nghiêm trọng hơn: Các cơ quan chính quyền Hoa Kỳ thu thập và sử dụng dữ liệu truyền thông xã hội, đáng chú ý là Ủy Ban An Ninh Quốc Gia (NSA). Thực tiễn đã bị Edward Snowden tiết lộ này có cả sự tham gia của Facebook, Apple và một số công ty công nghệ khác trong chương trình PRISM của NSA, nhằm thu thập trực tiếp dữ liệu từ các doanh nghiệp hơn là qua mạng Internet.

Sự xâm phạm tính riêng tư đã bị Liên Minh Châu Âu phản đối. Vào năm 2000, EU chấp nhận đề xuất của Hoa Kỳ về việc thiết lập một chương trình “Bến An Toàn” để chuyển giao dữ liệu cá nhân ở Châu Âu, mà Facebook, Google và Amazon thu thập được, cho Hoa Kỳ. Thỏa thuận này đã được Tổng Chưởng Lý của Tòa Án Hình Sự Châu Âu (ECJ) xem xét lại, họ cho rằng thỏa thuận này vi phạm quyền cơ bản của người dân Châu Âu. Tổng Chưởng Lý phát hiện ra rằng dữ liệu có thể được “NSA và các cơ quan an ninh khác của Hoa Kỳ truy cập trong khuôn khổ một chương trình giám sát quy mô lớn và không phân biệt.”

Tòa Án Hình Sự Châu Âu đã đồng ý với ý kiến này, tuyên bố “Bến An Toàn” vô hiệu. Tòa án phán quyết rằng Bến An Toàn “phải phù hợp với quyền căn bản để tôn trọng đời sống riêng tư.” Đó là cú đòn nặng, mặc dù chưa phải là đòn kết kiễu, đối với Facebook và các công ty khác tham gia vào việc chuyển giao dữ liệu ở Châu Âu. Châu Âu đã thúc ép các công ty này, đặc biệt là Google và Amazon, về những vấn đề khác, như luật anti-trust. Một cách lý tưởng, phán quyết của ECJ cũng như các hành động khác của Châu Âu sẽ tạo động lực cho người Mỹ đấu tranh đòi quyền riêng tư và sự minh bạch hơn trong cách thức các doanh nghiệp khổng lồ về công nghệ thực hiện kinh doanh.

Việc truyền thông xã hội xâm phạm sự riêng tư có khiến bạn phiền lòng, hay bạn sẽ cân nhắc sự đánh đổi giữa sự riêng tư và kết giao xã hội? Bạn có thể kiểm soát sự riêng tư của mình với máy tính, điện thoại và máy tính bảng ra sao? Bạn có kinh nghiệm về các kiểu nghe lén mà tôi đã đề cập không?

Mel Gurtov is Professor Emeritus of Political Science at Portland State University, Editor-in-Chief of Asian Perspective, an international affairs quarterly and blogs at In the Human Interest.

Thursday, July 30, 2015

Làn sóng tội phạm ở Ukraina và sự bất lực của chính quyền thân phương tây

Hơn một năm sau siêu phẩm cách mạng Maidan do Hoa Kỳ và phương tây dàn dựng, đất nước Ukraina phải nếm trải sự chia cắt, bạo lực, nghèo đói và nạn tội phạm tràn lan, hơn nữa là thảm cảnh đó không biết đến bao giờ kết thúc. Dưới đây là bản dịch bài báo The “Ichkerization” Crime Wave in Ukraina bình luận chi tiết về tình trạng tội phạm và sự bất lực của chính quyền Ukraina hiện nay.

Làn sóng tội phạm ở Ukraina và sự bất lực của chính quyền thân phương tây

“Các công dân sẽ chấp nhận bất cứ quyền lực nào giúp họ thoát khỏi những kẻ cướp này.”

Một cô gái bị kẻ lạ mặt bắt cóc hồi tháng trước ở quảng trường Độc Lập [Maidan] ở Kiev vào tối chủ nhật. Vụ việc được đưa tin trên website của cảnh sát giao thông: “Kiev. Cô gái bị bắt cóc, quảng trường Độc Lập. Một cô gái bị cưỡng ép vào xe ô tô chạy về phía khu vực ngoại ô. 14/06/2015, 21:40. Xe BMW S5, AK6068CI, màu tối. Thông tin của Sở Đăng Kiểm Ô tô Kiev.”

Vào cùng ngày, một cô gái 16 tuổi bị bắt cóc ở khu vực Ivano-Frankivsk, theo như thông cáo báo chí của sở nội vụ địa phương: “Vào ngày 14 tháng 6, khoảng 1h30 sáng trên đoạn đường giữa làng Rosokhach và Vinograd ở tỉnh Gorodenkovskii, một kẻ lạ mặt đã cưỡng éo một cô gái vào xe VAZ (Lada) và lái xe đi đâu không rõ. Vị trí hiện tại của cô gái không xác định.” 

Trước đó, ở khu vực Donetsk, ở Slavyansk, bị quân đội Ukraina chiếm đóng, một cư dân địa phương báo với cảnh sát về việc con trai bà bị bắt cóc. Vụ việc được nguồn tin cảnh sát tường thuật: “Người phụ nữ tới cảnh sát Slavyansk vào ngày 10 tháng 6 và khẳng định rằng một nhóm người đã bắt giữ con trai 20 tuổi của bà trên đường phố. Theo người phụ nữ thì con trai của bà đã bị đưa đi đâu không rõ.”

Vào ngày 12 tháng 6 (dòng 102 trong báo cáo của cảnh sát), một sĩ quan đang thi hành nhiệm vụ được báo tin rằng ở gần chợ Troeschina của Kiev, một kẻ lạ mặt đang giữ một người đàn ông trong xe và đòi tiên. Khi các sĩ quan cảnh sát tới hiện trường, họ thấy một thanh niên nằm bất động trên mặt đất. Bác sĩ thông báo là anh ta đã chết.

Vào ngày 1 tháng 6, bé gái 8 tuổi Nastya Bokova bị bắt cóc trên sân chơi ở Zaporozhye. Vào ngày 13 tháng 6, xác của cô được tìm thấy trên đảo Khortytsya trong một lâm trại, gần căn cứ huấn luyện của tân phát xít Ukraina.

Trên mạng xã hội có thông báo tìm kiếm sinh viên mất tích Jana Dmitrikova của trường đại học hàng không Zaporozhye. Cô gái trên đường về nhà sau giờ làm vào đêm 13 tháng 6 nhưng không bao giờ về đến nhà. 

Cô bé 6 tuổi Susanna Sharkova, bị mất tích, đã tìm thấy xác ở một căn nhà riêng tại huyện Shevchenko của Zaporozhye vào ngày 11 tháng 3.

Ngày 8 tháng 6, một kẻ lạ mặt lái xe Mercedes màu đen đã bắt cóc một cô gái trên phố Kostelni ở Kiev. Vụ việc được Bộ Nội Vụ Ukraina đưa tin.

Vào ngày 19 tháng 5, cũng theo nguồn tin trên, một cô gái bị kẻ lạ mặt đi xe Mercedes bắt cóc ở quận Obolonskiy của Kiev.

Tất cả những bản tin này tương tự như các bản tin chiến sự. Các tội ác nghiêm trọng diễn ra hầu như hàng ngày ở Ukraina, hầu hết không được xử lý. Bắt cóc giữa ban ngày, ăn trộm xe, cướp bóc – tất cả đều trở thành thông thường ở quốc gia vừa giành được thắng lợi trong “cuộc cách mạng của phẩm giá” trên quảng trường Maidan.

Vào năm 2014, Ukraina thống kê được hơn một triệu vụ vi phạm hình sự, số tội ác nghiêm trọng tăng gần 90% - đa số là ở thủ đô Kiev.

Số vụ cướp đã tăng gấp hai lần kể từ đầu năm nay so với cùng kỳ năm 2014, đa số là cướp có vũ trang. Theo quan điểm của chủ tịch Liên Đoàn An Ninh Chuyên Nghiệp Ukraina Sergei Shabovta, nguyên nhân của sự gia tăng đột biến các vụ tấn công có vũ trang là sự gia tăng đột ngột của căng thẳng xã hội và một số lượng lớn vũ khí bất hợp pháp. 

“Chỉ riêng quý đầu năm, số lượng các vụ tội phạm có sử dụng vũ khí đã tăng gấp ba.” Shabovta nói. Không may là thống kê này đôi khi bị hệ thống hành pháp che dấu.

Các chuyên gia giải thích rằng ở Ukraina có một số lượng lớn người đang bị trầm cảm. Nhiều người bị vô gia cư và thiếu đói. Thêm vào đó, Shabovta cho biết có việc buôn bán vũ khí bất hợp pháp đã gia tăng đáng kể. Có thông tin cho biết Kiev nhận được một lượng lớn vũ khí từ nơi được gọi là khu vực ATO (tức là “Chiến Dịch Chống Khủng Bố” của chính quyền Ukraina nhằm vào các chiến binh nói tiếng Nga ở miền đông Ukraina).

Như chỉ huy tiểu đoàn “Aydar” Valentin Likholit trả lời phóng viên của Vesti bản tiếng Ukraina, vũ khí từ khu vực giao tranh được chuyển về Kiev để bán và dự trữ cho các trường hợp khẩn cấp. “Nó hoạt động như sau: những kẻ côn đồ liên kết với những kẻ môi giới, những kẻ này tổ chức vận chuyển,” ông ta nói. 

Đa số khách hàng muốn mua súng lục chiến đấu và đạn của Makarov (PM) và Tokarev (TT), cũng như lưu đạn. Người bán chào hàng “nhận mọi loại vũ khí”, trưng bày chúng trên ảnh. Ở Ukraina hiện nay, có thể dễ dàng đặt mua súng giao tận nhà, thậm chí thông qua mạng xã hội. 

Nhiều tổ chức truyền thông đại chúng đã so sánh Ukraina với Chechnya của Dudayev. Chúng ta đều biết điều gì đã diễn ra với “Ichkeria” [1] hầu như đã bị quên lãng.

Đa số người dân đã mệt mỏi với tình trạng vô chính phủ côn đồ và ủng hộ chiến dịch chống khủng bố của quân đội Nga, quay trở lại thành một phần hợp pháp của nước cộng hòa Nga.

Theo nhà phân tích Vasily Muravitskiy, lý do chính của tình trạng tội phạm tồi tệ hơn ở Ukraina là sự phá hủy tính liên tục của quyền lực. “Tình hình hiện nay là quyền lực của quốc gia đã rơi xuống bùn đất. Hàng ngàn người đang có ấn tượng rằng họ chỉ cần nhặt lên và sử dụng nó. Chính quyền đã từ bỏ trách nhiệm quan trọng nhất của quyền lực: nó đã nhường lại quyền sử dụng vũ lực cho các tiểu đoàn tự tổ chức, nửa ăn cướp, một số chúng, như “Azov” và “Aydar”, vốn được thừa nhận công khai là những kẻ cướp phát xít.

“Tình trạng này không thể chấm dứt, bởi vì những cơ quan nhà nước còn lại cũng trực tiếp can dự vào tình trạng lộn xộn này. Ví dụ như sự xuất hiện của tổ chức cực hữu ở tòa nhà thư ký báo chí của Chưởng Công Tố Ukraina. Họ đến để ủng hộ lãnh đạo của SBU, Valentin Nalyvaychenko, người bị triệu đến để thẩm vấn.

Khi điều tra những kho dầu bị cháy, những kẻ tình nguyện đã châm lửa chứ không phải nhà nước.

“Chính quyền “Maidan” đã khởi động cơ chế sụp đổ của nhà nước ở cấp chính quyền cao nhất. Do đó, “Ichkeria hóa” Ukraina sẽ tiếp tục. Nhưng vấn đề chính không phải là Ichkeria hóa mà là ở Ukraina hiện nay không có lực lượng thực sự nào có thể hay muốn chống lại việc biến quốc gia thành trò ăn cướp và mọi người có thể cướp bóc tùy thích. 

Nhà phân tích chính trị Victor Shapinov cũng tin rằng Ichkeria hóa Ukraina đã thực sự diễn ra. “Nhắc tới những kẻ vô chính phủ có vũ trang, một sự thay thế cho nhà nước, điều đó đã xảy ra. Tất cả đều bắt đầu ngay sau “Maidan”, khi những kẻ quốc gia chiếm đóng tòa nhà Công Đoàn và Trung Tâm Hội Nghị, điều đầu tiên họ làm là tạo ra nhà tù và phòng tra tấn tạm thời.

“Thậm chí sự cai trị của thời kỳ “hậu Maidan”, dựa trên sự khủng bố của các nhóm bán quân sự, đã phải vật lộn với sự thể hiện rất rõ ràng của Ichkeria hóa. Hãy nhớ lại vụ tiêu diệt một trong những thủ lĩnh cực đoan là Muzychko. [2] Quá trình vẫn tiếp tục.

“Một ví dụ mới đây là vụ các cựu chiến binh ATO cướp trạm xăng, giết chết hai sĩ quan cảnh sát khi họ cố gắng bắt giam chúng. [3] Đây là trường hợp mà nhân viên công lực ít nhất cũng cố gắng ngăn chặn sự vô chính phủ của “những anh hùng dân tộc”. Nhưng có bao nhiêu trường hợp mà cảnh sát không dám can thệp?”

Svobodnaya Pressa (SP): Chúng ta có thể nói rằng nhà nước đang thực hiện trách nhiệm bảo vệ thường dân? 

“Nhà nước này không tuyên bố về mục tiêu đó. Họ không có trách nhiệm với công dân. Nhưng họ luôn sẵn sàng trả lời các nhà tài trợ phương tây. Một số người công khai nói: “Nếu anh không hài lòng chuyện gì thì anh là gián điệp nước ngoài.” Tôi không phóng đại. Hãy xem các thông báo của quan chức ở Kiev. Hãy xem các kênh truyền hình trung ương để tự thấy điều đó.” 

SP: Liệu chúng ta có rơi vào tình trạng mà đại đa số người Ukraina, cũng giống như đa số người dân Chechnya vào đầu những năm 2000, sẽ chào đón đạo quân có thể chấm dứt tình trạng vô chính phủ? 

“Tôi cho rằng hoàn cảnh phức tạp hơn thế. Nhưng trước khi quân du kích Donbass được chào đón bằng hoa ở những thành phố miền trung Ukraina, nước cộng hòa nhân dân Lugansk (LPR) và Donetsk (DPR) phải tạo ra một ví dụ về việc xây dựng thành công nhà nước phúc lợi, trái ngược với nguy cơ lao xuống vực sâu của Ukraina. Dĩ nhiên, trên phương diện này đã có một số tiến bộ được tạo ra. Ví dụ như việc quốc hữu hóa một số doanh nghiệp quan trọng ở những nước cộng hòa ly khai. 

“Nhưng cho đến hiện giờ, việc xây dựng nhà nước sẽ tiếp diễn ở Donbass hay không vẫn là câu hỏi. Trên hết là vẫn còn hiệp định Minsk yêu cầu LPR và DPR phải quay trở lại áp dụng luật Ukraina. Trong khi đó, để vãn hồi trật tự của đất nước, cần phải có sự thay thế hoàn toàn chế độ của Kiev. Không chỉ có thay thế quân sự mà còn cả chính trị và hệ tư tưởng nữa.”

Nhà sử học Ukraina Vladimir Kornilov, giám đốc của Trung Tâm Nghiên Cứu Á-Âu, lưu ý rằng hầu hết tội ác có vũ trang hiện nay ở Ukraina là do các lực lượng trừng phạt đã từng ở mặt trận gây ra. “Kết quả của sự giết chóc do Kiev thả ra một năm trước đây là vũ khí được phổ biến tràn lan khắp đất nước. Các băng đảng được kết hợp lại dưới chiêu bài “các tiểu đoàn tình nguyện” (ngay cả Chưởng Công Tố Ukraina cũng thừa nhận “Aydar” là băng đảng) và hoàn toàn không bị kiểm soát. Không có gì khó hiểu khi điều này dẫn đến tình trạng tội phạm gia tăng. Maidan đã sinh ra sự gia tăng của tội phạm theo số mũ. 

SP: Tại sao nhà cầm quyền không thể làm gì?

“Chúng ta có thể trông đợi nhà cầm quyền, được sinh ra với sự trợ giúp của phương pháp gangster, điều gì? Chính quyền này hiểu rằng không có chiến tranh thì họ sẽ bị quét sạch. Tất cả nỗ lực của họ chỉ nhằm dồn băng đảng của họ vào Donbass, ở đó tội phạm với vũ khí trong tay có thể thực hiện mọi loại tội ác, trong khi không cho phép chúng cướp bóc quá nhiều ở phần còn lại của Ukraina. 

“Nhưng thậm chí Kiev cũng hiểu rằng những nỗ lực đó là vô vọng. Những kẻ cướp trở về từ mặt trận không thể sống và kiếm tiền bằng bất cứ cách nào khác. Chính quyền Kiev được tạo thành từ bầy tay sai sống bằng phương châm giống như câu ngạn ngữ Pháp: “Sau ta là đại hồng thủy”.

SP: Người dân sẽ chấp nhận bất cứ quyền lực nào đưa họ ra khỏi sự lộn xộn, điều này có nghĩa là gì? 

“Tình trạng hỗn loạn và vô chính phủ đang ngự trị ở Ukraina luôn tạo ra khát vọng của người dân về “bàn tay sắt” [để kiểm soát nó]. Quan điểm chính trị về “bàn tay” này thường không khiến dân chúng lo ngại nhiều …”

Bài báo được xuất bản lần đầu trên Svobonaya Pressa [Báo Tự Do], 23 tháng 7 năm 2015.

Chú thích của người dịch:

[1] Dzhokhar Musayevich Dudayev là tổng thống đầu tiên của “Nước Cộng Hòa Ichkeria Chechen” từ năm 1991 cho đến khi chết vào năm 1996. Ông ta bị quân đội Nga giết.

[2] Aleksandr Muzychko bị cảnh sát Ukraina bắn chết vào tháng 3 năm 2014.

[3] Hai sĩ quan cảnh sát bị giết và ba người khác bị thương bởi súng tự động bắn vào sớm chủ nhật ngày 3 tháng 5, khi họ đuổi theo hai tay súng cướp một trạm xăng. Các tay súng và đồng phạm là thành viên của vài tiểu đoàn tân phát xít, trong đó có “Aidar” và “Azov”. Một trong những kẻ đồng phạm bị bắt giữ sau đó là Vera Zaverukha, 19 tuổi. 

Don Hank dịch sang tiếng Anh cho CounterPunch.

Thursday, July 23, 2015

Maidan 2.0 ở Kiev?

Sau cuộc đảo chính do phương Tây giật dây vào đầu năm 2014, Ukraina đã rơi vào chia cắt và hỗn loạn. Các giá trị dân chủ và tự do phương tây đã tự lột bỏ mặt nạ, trở thành cơn ác mộng kinh khủng của người dân Ukraina với chiến tranh, thất nghiệp, đói nghèo và kiệt quệ. Những lực lượng đã từng bắt tay nhau lật đổ tổng thống hợp pháp trước kia giờ lại quay sang tìm cách thanh toán lẫn nhau để tranh giành quyền lực. Máu có thể sẽ lại một lần nữa đổ ở quảng trường Maidan, biểu tượng của tự do giờ đã trở thành biểu tượng của thất bại bi thảm. 

Dưới đây là bản dịch bài viết "Maidan 2.0 in Kiev?" của tác giả Stephen Lendman tóm lược về nguy cơ đảo chính lần hai ở trong vòng 18 tháng ở Ukraina. 

Maidan 2.0 ở Kiev? 

Thường dân Ukraina có đủ lý do để phản đối sự cai trị phát xít còn tồi tệ hơn thứ họ đã lật đổ trước đó – một con quái vật phát xít phá hoại chịu trách nhiệm về thất nghiệp hàng loạt, gia tăng nghèo khổ, lạm phát phi mã, sự đàn áp của nhà nước cảnh sát và cuộc chiến không hồi kết với những người dân Donbass muốn những quyền dân chủ căn bản.

Bài Nga, ghét Do Thái, công khai phát xít, tên tội phạm bị Interpol truy nã (vì “công khai kích động các hoạt động khủng bố và cực đoan) – thủ lĩnh của Cánh Hữu – Dmytro Yarosh đã kêu gọi Vệ Binh Quốc Gia Ukraina, quân đội và lực lượng an ninh bất tuân lệnh Kiev để mở đường cho Maidan 2.0. 

Sau khi gọi các quan chức chính quyền là “những kẻ phản bội”, ông ta nói “Hãy ngăn chặn những kẻ phản bội đang nắm giữ chức vụ cao cấp và muốn gây rối loạn tình hình ở hậu phương cũng như … giải tán phong trào tình nguyện.”

Chúng là “những tên kẻ cướp” chỉ muốn làm giàu cho bản thân. “Trong khi chúng ta đổ máu để bảo vệ đất mẹ thì chúng đầu cơ tài sản và làm mọi cách để chiến tranh tiếp diễn càng lâu càng tốt.”

Poroshenko đã ra lệnh cho lực lượng an ninh tước vũ khí của những nhóm vũ trang bất hợp pháp. Người phát ngôn của Cánh Hữu là Artem Skoropadsky trả lời:

“Quyết định của Petro Poroshenko nhằm vào những nhóm vũ trang bất hợp pháp. Chúng tôi không phải là nhóm vũ trang bất hợp pháp.”

“Các nhóm vũ trang bất hợp pháp là những kẻ cướp và chúng tôi là quân đội tình nguyện Ukraina, bảo vệ sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina. Do đó, quyết định này không áp dụng với chúng tôi.”

Nhóm này yêu cầu bộ trưởng Bộ Nội Vụ Arsen Avakov từ chức, một trong những tối hậu thư được đưa ra. Họ kêu gọi biểu tình quy mô lớn ở Maidan để phản đối chính quyền.

Họ lên án “những kẻ lừa đảo và những gã tài phiệt” đang nắm quyền. Vào ngày 21 tháng 7, hàng ngàn người trực thuộc và ủng hộ họ đã tuần hành ở miền trung Ukraina để yêu cầu các quan chức chính quyền từ chức. “Kẻ thù phải chết”, họ hô to.

Yarosh thông báo về một “giai đoạn mới của cách mạng Ukraina. Chúng ta là lực lượng cách mạng có kỷ luật.” Ông ta cũng thông báo về kế hoạch một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm.

Các quan chức địa phương của Cánh Hữu và “các ủy ban cách mạng” khắp đất nước sẽ bắt đầu sắp xếp mọi thứ cho việc thay đổi nội các. 

Yarosh ủng hộ cai trị bằng thiết quân luật. Có thể ông ta nghĩ về thứ gì đó giống như Luật Ủy Quyền của Hitler – đưa ông ta lên làm nhà độc tài, cho phép ông ta ban hành luật không cần sự tham gia của Nghị Viện Đế Chế. 

“Người dân phải thể hiện quan điểm về những gì đang diễn ra trên đất nước”, Yarosh nói. “Chính quyền phải biết rằng nếu người dân không hài lòng với chính quyền thì chính quyền phải cuốn xéo.”

Nếu Kiev từ chối trưng cầu dân ý, các quan chức Cánh Hữu sẽ tự tổ chức. Phóng viên Murad Gazdiev bộ phận quốc tế của kênh Nước Nga Ngày Nay tường thuật từ Ukraina rằng dân thường đã tham gia vào đoàn tuần hành của Yarosh – họ giận dữ về điều kiện sống thê thảm. 

Vào chủ nhật tuần trước, đoàn biểu tình diễu hành chống lại giá cả đắt đỏ, lương thấp, người thất nghiệp, mất trợ cấp và quan chức chính quyền chỉ lo giành quyền lực và làm giàu. Các khẩu hiệu ghi “Cải cách ở đâu?” “Chúng tôi đang chết đói”.

Cách thành viên Cánh Hữu, những người ủng hộ họ và những người Ukraina giận dữ cũng tổ chức biểu tình ở nhiều thành phố khác. Các khảo sát cho thấy quan điểm phản đối chính quyền chiếm đa số.

Chủ tịch ủy ban quan hệ quốc tế của Duma quốc gia (hạ viện Nga) Alexei Pushkov nói người biểu tình “đang thúc đẩy một “cuộc cách mạng” mới ở Kiev và Dmytro Yarosh đã sẵn sàng đề xuất với đồng bào của ông ta một đề cương cho những sự thay đổi mang tính cách mạng ở Ukraina.”

Vài ngày trước đây, người phát ngôn Cánh Hữu Artem Skoropadsky đã tuyên bố rằng Poroshenko sẽ không thể trốn khỏi Ukraina giống như Yanukovych nếu bị mất chức. 

Ông ấy “không thể mong đợi bất cứ thứ gì ngoài việc bị các binh lính Ukraina trẻ của Vệ Binh Quốc Gia xử tử trong một căn hầm tối.”

Hàng ngàn thành viên được vũ trang tốt của Cánh Hữu là một lực lượng đáng kể. Đó là những kẻ quốc gia cực đoan, băng đảng tội phạm phát xít công khai được hình thành trong cuộc biểu tình Maidan mùa thu năm 2013 ở Kiev.

Họ bị cấm ở Nga. Yarosh là kẻ bị truy nã. Việc ông ta và những người ủng hộ có thể lật đổ chính quyền Ukraina lần thứ hai trong vòng chưa đầy 18 tháng hay không vẫn là câu hỏi.

Poroshenko đang phải chiến đấu trên hai mặt trận. Ông ta đã thất bại trước đây ở Donbass – có vẻ như lại một lần nữa chống lại lực lượng ghê ghớm hơn trước kia nếu ông ta kêu gọi một tấn công tổng lực.

Khi bị kích động, các tiểu đoàn được trang bị tốt của Cánh Hữu có thể là dấu chấm hết của ông ta. Cuộc đảo chính tháng giêng năm 2014 của Obama đã khiến mọi chuyện trở nên rắc rối. 

Ông ta đã cưỡi lên lưng hổ. Nhà nước tay sai phát xít công khai mới dường như quá sức đối với ông ta. Tới đây, có thể máu sẽ lại một lần nữa đổ trên những đường phố Kiev. 

Stephen Lendman lives in Chicago. He can be reached at lendmanstephen@sbcglobal.net.

Thursday, November 13, 2014

Kiev leo thang chiến tranh ở miền đông Ukraina

Xin mời bạn đọc blog theo dõi bản dịch bài viết "Kiev escalates war in eastern Ukraine" của tác giả Christoph Dreier với các bình luận mới về tình hình chiến sự tại Ukraina.

Kiev leo thang chiến tranh ở miền đông Ukraina

Cuối tuần qua nổ ra trận chiến khốc liệt nhất tại các thành phố Donetsk và Luhansk ở miền đông Ukraina kể từ khi hiệp định ngừng bắn được ký kết vào đầu tháng 9. Cuộc tấn công quân sự của chính quyền Kiev cho thấy NATO đang tăng cường đe dọa Nga. 

Nhân chứng cho biết đạn pháo hạng nặng đã được bắn đi từ các khu vực do quân đội Kiev kiểm soát cũng khu vực của quân nổi dậy. Sân bay Donetsk là một chiến trường đẫm máu. Hiệp định Minsk yêu cầu giao sân bay cho phe nổi dậy. Mặc dù vậy, các binh lính trung thành với Kiev đã từ chối rút quân và đụng độ dữ dội hàng ngày với quân nổi dậy.

Theo quân nổi dậy cho biết, các xe tăng quân đội Ukraina đã tiến về phía Donetsk. Hai xe tăng được cho biết là bị quân nổi dậy phá hủy trong cuộc tấn công vào làng Nikichino.

Quân nổi dậy cáo buộc quân đội Ukraina đã ném bom các khu vực dân cư và sử dụng các loại bom cháy. Trong bản tin ngày thứ ba, tổ chức Human Rights Watch xác nhận bom cháy được sử dụng trong trận chiến trước đó ở khu vực Donetsk.

Nhiều dân thường đã trở thành nạn nhân của các vụ tấn công. Vào cuối tuần, hai thiếu niên đã thiệt mạng trong một vụ nã pháo vào trường học. Theo phe nổi dậy cho biết, ít nhất có 12 thường dân đã thiệt mạng trong một cuộc tấn công vào làng Frunze gần Luhansk. 

Chính quyền Kiev và đồng minh của họ ở Washington cáo buộc Nga gửi xe tăng và các trang thiết bị quân sự khác qua biên giới để gia tăng sức mạnh cho các tổ chức nổi dậy. Nhiều phóng viên đã đưa tin về sự di chuyển của quân đội tại khu vực Donetsk.

Tổ Chức An Ninh Và Hợp Tác Châu Âu (OSCE), có một đội quan sát viên ở khu vực, đưa tin về hai đoàn xe với 40 chiếc xe tải 9 xe tăng di chuyển theo hướng đông ở khu vực Donbass. Nguồn gốc của những chiếc xe này và loại hàng hóa được chuyên chở vẫn chưa rõ. Chỉ huy phó của quân nổi dậy, Eduard Basurin, nói trong đoàn xe có các đơn vị dân quân được thành lập để bảo vệ Donetsk trước các cuộc tấn công của chính quyền Ukraina.

Người phát ngôn chính thức Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, Jen Psaki, nói vào thứ hai là “Nga và dân quân mà họ ủng hộ” đã “thường xuyên” phá vỡ Hiệp định Minsk. Ngoại trưởng John Kerry đe dọa Nga bằng những biện pháp trừng phạt mới vào ngày thứ bảy sau cuộc hội đàm với người đồng sự phía Nga Sergei Lavrov.

Giám đốc chính sách đối ngoại Liên Minh Châu Âu, Federica Mogherini, gọi sự di chuyển của quân đội là “một sự tiến triển rất đang lo ngại”. Bà ta thúc giục Nga thể hiện sự kiềm chế và giảm leo thang xung đột. Bà ta cũng yêu cầu Moscow ngăn chặn binh lính, vũ khí và chiến binh tiến vào Ukraina từ lãnh thổ Nga.

Cuối tuần tới, ngoại trưởng của 28 nước Liên Minh Châu Âu sẽ họp để quyết định về các biện pháp trừng phạt mới đối với Nga. “Cuộc tranh luận sẽ không chỉ xoay quanh các biện pháp trừng phạt chặt chẽ, mà còn chú trọng tới việc chúng ta có thể hỗ trợ Ukraina ra sao trong thời gian khó khăn này”, Mogherini nói. 

Thủ tướng Đức Angela Merkel thông báo về một sự mở rộng có thể danh sách những người sẽ bị trừng phạt.

Thủ tướng Anh David Cameron cáo buộc Nga không tuân thủ luật pháp quốc tế. Nếu Nga “tiếp tục theo con đường hiện tại, chúng tôi sẽ gia tăng sức ép và quan hệ của Nga với phần còn lại thế giới sẽ rất khác trong tương lai”, Cameron nói.

Vào thứ ba, tổng thống Hoa Kỳ Barack Obam và người đồng sự Nga, Vladimir Putin, đã họp ngắn bên lề hội nghị thượng đỉnh Hợp Tác Kinh Tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) ở Bắc Kinh. Bên cạnh vấn đề Ukraina, họ cũng thảo luận về chương trình hạt nhân của Iran. Không có bản tin chính thức nào về cuộc họp của họ được công bố. Có thể kỳ vọng rằng hai nhà lãnh đạo sẽ lại gặp nhau vào tuần tới ở hội nghị thượng đỉnh G20 ở Australia.

Vào thứ hai, một bản tin được công bố liệt kê 40 tình huống đối đầu quân sự giữa Nga và NATO có thể biến thành chiến tranh. Tuần trước, tướng Đức của NATO Hans-Lothar Domröse đã thống báo rằng đồng minh sẽ tiếp tục mạnh tay hơn với Nga. 

Tổng thống Ukraina Petro Poroshenko ký hiệp định ngừng bắn Minsk sau khi chính quyền Ukraina đánh nhau với quân nổi dậy ở miền đông và phải gánh chịu nhiều thiệt hại nghiêm trọng. Chính quyền Kiev hy vọng câu giờ bằng ngừng bắn để ổn định sự cai trị của họ và tái tổ chức quân đội.

Nhưng chính phủ đã vi phạm hiệp định ít nhất cũng thường xuyên như phe nổi dậy. Quân đội của họ từ chối rút khỏi các khu vực bên cạnh sân bay Donetsk theo như quy định trong hiệp định Minsk. Hơn nữa, họ lại liên tục nã pháo Donetsk và Luhansk.

Quyền tự trị của miền đông Ukraina đã bị tước đoạt. Mặc dù nghị viện Ukraina đã thông qua luật liên quan, người phát ngôn nghị viện Alexander Turchinov từ chối ký tên hay chuyển đạo luật đó tới tổng thống. Sau khi quân nổi dậy tổ chức bầu cử một tuần trước ở miền đông Ukraina, Turchinov tuyên bố là luật tự trị không có giá trị.

Một đạo luật thanh thanh lọc cơ quan và dịch vụ công cộng đã được thông qua trước cuộc bầu cử nghị viện do chính quyền Kiev tổ chức vào tháng 10, đạo luật đó được dùng để đưa các cơ quan nhà nước vào khuôn khổ. Nhiều vị trí trước đó thuộc về những người phê phán chính quyền đã được chuyển giao cho lực lượng cực đoan cánh hữu, lực lượng đóng vai trò trọng yếu trong cuộc đảo chính lật đổ tổng thống thân Nga Viktor Yanukovych vào tháng 2 vừa qua.

Juri Michaltschisin, người sáng lập viện Joseph Goebbels vào năm 2005, được đưa tin là trở thành lãnh đạo mới của cục “tuyên truyền và phân tích” thuộc cơ quan mật vụ Ukraina, SBU. Tân phát xít Vadim Troyan được Bộ Nội Vụ phong chức cảnh sát trưởng Kiev.

Các tiểu đoàn cánh hữu của Vệ Binh Quốc Gia, được nhiều nhà tài phiệt tài trợ và đóng vai trò quan trọng trong cuộc nội chiến, tìm cách can thiệp trực tiếp hơn vào chính trị thông qua các ứng cử viên tham gia vào tranh cử nghị viện. Mặc dù các đảng phát xít công khai nhận được rất ít phiếu bầu, nhưng các chính đảng lớn đã đưa nhiều thành viên cực hữu vào danh sách đề cử của họ. Một đại diện nổi bật là Yuri Bereza, thủ lĩnh của tiểu đoàn Dnepr khét tiếng, vốn phải chịu trách nhiệm về hàng loạt các vi phạm nhân quyền. 

Bereza được bầu vào nghị viện theo danh sách đề cử của đương kim thủ tướng Arseniy Yatsenyuk. Với vai trò là thành viên mới của nhóm lớn nhất trong nghị viện, ông ta tuyên bố ngay sau cuộc bầu cử là tiểu đoàn của ông ta sẽ chuẩn bị các cuộc tấn công khủng bố vào Nga. Dựa vào những lực lượng như vậy, và sự hậu thuẫn của Washington, Berlin và NATO, Kiev đang chuẩn bị tái diễn các tấn công quân sự ở miền đông.

Sunday, November 9, 2014

Cách mạng ở Hoa Kỳ

Tại sao cần có một cuộc cách mạng ở Hoa Kỳ? Đế quốc Hoa Kỳ phi dân chủ ra sao? Họ tấn công thế giới Hồi Giáo để làm gì? Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Revolution in the United States" của tác giả Garry Leech để có câu trả lời.

Cách mạng ở Hoa Kỳ

Tại sao một số ít người lại có thể áp đặt cuộc sống của rất nhiều người? Tôi không đề cập tới vấn đề 1% và 99%. Tôi đang nói về số cử tri ở Hoa Kỳ và những tay chân Canada và Anh của họ. Trong khi đó, hàng tỷ người trên thế giới có cuộc sống chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những quyết định của các quan chức dân cử ở những quốc gia thịnh vượng dường như không có tiếng nói. Đế quốc Hoa Kỳ hoàn toàn không dân chủ. Nó là toàn trị! Nó là đế quốc! Nó bất công! Cần có một cuộc cách mạng.

Vào cuộc bầu cử tổng thống năm 2012, 121 triệu người Mỹ bỏ phiếu, chiếm 57% số người trong độ tuổi bầu cử. Tuy tổng số phiếu bầu không đạt đa số tuyệt đối nhưng cũng đủ đảm bảo sự hợp hiến cho hệ thống chính trị Hoa Kỳ, nhất là trong con mắt của nhiều người Mỹ.

Nhưng quyết định chính trị do các quan chức dân cử Hoa Kỳ đưa ra vượt ra ngoài biên giới quốc gia rất xa. Thông qua chính sách đối ngoại và vai trò thống trị trong các thiết chế quốc tế như Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, NATO, Quỹ Tiền Tệ Thế Giới (IMF) và Ngân Hàng Thế Giới, Hoa Kỳ tác động đến cuộc sống của hầu hết mọi người trên trái đất. Hay nói cách khác, sự lựa chọn của 121 triệu người Mỹ tác động trực tiếp đến cuộc sống của hàng tỷ người trên trái đất. Dân chủ ở đâu?

Các biên giới quốc gia liên tục bị bào mòn dưới danh nghĩa của chủ nghĩa tư bản “thị trường tự do”, để doanh nghiệp có thể di chuyển tư bản và lợi nhuận quanh trái đất, nhằm khai thác lợi thế về lao động và tài nguyên thiên nhiên giá rẻ, đặc biệt là ở bán cầu phía Nam. Nhưng khi kinh tế ngày càng bị toàn cầu hóa thì dân chủ lại vẫn cắm rễ vào quốc gia-nhà nước. 

Song mọi quốc gia không bình đẳng. Hoa Kỳ được thừa hưởng vai trò mà những kẻ thực dân Châu Âu đã nắm giữ từ hàng trăm năm nay. Giống như tầng lớp cai trị ở các hệ thống thuộc địa cũ, Hoa Kỳ nắm giữ một khối lượng bất cân xứng về quyền lực chính trị, kinh tế và quân sự trong chủ nghĩa đế quốc hiện thời. Kết quả của sự thống trị đó là 121 triệu cử tri người Mỹ quyết định số phận của hàng tỷ người trên trái đất bốn năm một lần. 

Nhưng số phận của dân cư trên thế giới là một điều cực kỳ xa lạ với suy nghĩ của đại đa số cử tri trong thời gian bầu cử. Họ chủ yếu tập trung vào các lợi ích nhất thời như việc làm, thuế khóa, an ninh và các vấn đề khác, những vấn đề mà họ thấy là quan trọng đối với đời sống hàng ngày của họ. Họ không quan tâm – hay không nhìn thấy – các chính sách chính trị, kinh tế và quân sự được chính quyền mà họ lựa chọn triển khai trên toàn cầu có tác động tiêu cực đến đời sống của rất nhiều người trên thế giới ra sao. Hệ quả là có rất ít người Mỹ bỏ phiếu chống lại những gì họ cho là lợi ích của bản thân để ủng hộ lợi ích của đa số nhân dân trên thế giới. 

Điều gì sẽ xảy ra khi những người chịu tác động tiêu cực từ chính sách của Hoa Kỳ tìm cách tự mình đối đầu với mô hình đế quốc Hoa Kỳ phi dân chủ? Washington không thể tránh khỏi phải trả lời bằng bạo lực để bảo vệ hiện trạng. Đó là lý do tại sao có rất nhiều người trên thế giới không tin rằng Hoa Kỳ là lực lượng của điều tốt. Trên thực tế, theo kết quả một khảo sát tại 68 quốc gia vào năm 2013 của WIN/Gallup, Hoa Kỳ được coi là mối nguy hiểm lớn nhất đối với hòa bình thế giới – như mỗi năm khảo sát được thực hiện. 

Đế quốc Hoa Kỳ

Sự thống trị chính trị toàn cầu của Hoa Kỳ tự khẳng định bản thân thông qua hỗ trợ quân sự và kinh tế cho các chính quyền đồng minh, bất kể là các chính quyền đó có tham nhũng, phi dân chủ và bạo lực đến đâu khi bảo vệ các lợi ích của Hoa Kỳ. Những lợi ích đó chủ yếu dựa trên việc cho phép các hoạt động tìm kiếm lợi nhuận của các công ty đa quốc gia và đảm bảo sự tiếp diễn của phong cách sống tiêu dùng mà nhiều người Mỹ đang tận hưởng. 

Hậu quả của việc ưu tiên lợi nhuận doanh nghiệp và phong cách sống tiêu dùng ở các quốc gia giàu có là sự tàn phá đối với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Theo như Tổ Chức Y Tế Thế Giới, hơn 10 triệu người chết hàng năm ở Châu Mỹ Latin, Châu Phi và Châu Á do thiếu chăm sóc y tế và thuốc men thích hợp.

Ví dụ, các công ty dược phẩm sản xuất các thuốc men kiểu “phong cách sống” để xử lý các vấn đề khó chịu hay các nguy cơ không tổn hại tính mạng cho người dân ở các nước giàu, những người có thể mua chúng, thì có lợi nhuận hơn là chế tạo các dược phẩm thiết yếu cho người nghèo, những người không tạo ra thị trường khả thi. Hệ quả không thể tránh khỏi là diệt chủng cơ cấu; một thảm kịch đang mà bệnh dịch Ebola ở Tây Phi đang cho thấy rõ.

Khi các chính quyền trở nên can đảm và thách thức các lợi ích của Hoa Kỳ thì Washington sẽ không thể không trả lời bằng trừng phạt kinh tế, ủng hộ các cuộc đảo chính quân sự và nếu cần thiết là can thiệp quân sự trực tiếp. Mục tiêu là đảm bảo rằng mô hình tư bản chủ nghĩa sẽ thống trị khắp thế giới. Để đảm bảo mô hình đó được chấp nhận là hợp pháp thì điều cốt yếu là nhân dân khắp thế giới phải thấm nhuần các giá trị tự do phương Tây. Đó chính là lý do tại sao Hoa Kỳ can thiệp quân sự vào thế giới Hồi Giáo, trái ngược với những hùng biện phát ra từ Nhà Trắng, là một cuộc chiến tranh chống lại Hồi Giáo. Sự chấp nhận các giá trị tự do phương Tây là cần thiết để duy trì chủ nghĩa tư bản và rất nhiều các giá trị của chủ nghĩa cá nhân mâu thuẫn với một số giá trị tập thể của Hồi Giáo.

Các cuộc can thiệp quân sự tiếp diễn ở Trung Đông và Trung Á là một sự tiếp tục xây dựng đế quốc được bắt đầu từ năm 1492, sau khi Christopher Columbus “khám phá” ra Châu Mỹ. Các giá trị và hoạt động văn hóa của người bản địa Châu Mỹ không phù hợp với các giá trị tự do và Thiên Chúa Giáo nổi bật ở Châu Âu, nhất là là tư tưởng Khai Sáng, thứ đã cung cấp nền tảng triết học cho chủ nghĩa tư bản. Hệ quả là những thổ dân phản kháng – và cả những người không phản kháng – sự áp đặt của những giá trị Châu Âu đối với văn hóa của họ đã bị tàn sát.

Đa số những người sống sót đã bị nhốt trong các khu bảo tồn và từ thế hệ này sang thế hệ khác là đối tượng của sự đồng hóa thông qua hệ thống giáo dục lấy Châu Âu làm trung tâm. Tương tự ở Châu Phi và Châu Á, chủ nghĩa thực dân Châu Âu đã áp đặt các ý tưởng tự do và Thiên Chúa Giáo cho người dân, buộc họ ghi nhớ các giá trị Châu Âu thiết yếu để chấp nhận hệ thống chủ nghĩa tư bản đang điều khiển các dự án thuộc địa.

Nhiều nỗ lực gần đây thách thức quá trình đó của chủ nghĩa đế quốc đều bị đáp lại bằng bạo lực. Hoa Kỳ đã lật đổ hầu như mọi chính quyền đối đầu với sự thống trị của họ. Đây là chỉ là danh sách một phần các quốc gia có chính quyền bị lật đổ trong các cuộc đảo chính do Hoa Kỳ hậu thuẫn hay can thiệp quân sự trong những thập kỷ gần đây: Iran (1953), Guatemala (1954), Nam Việt Nam (1963)*, Brazil (1964), Indonesia (1965), Chile (1973), Argentina (1976), Haiti (1991 and 2004), Afghanistan (2001), Iraq (2003), Honduras (2009) và Libya (2011). Một số chính quyền đó được lựa chọn dân chủ trong tự do và bầu cử công bằng. 

Những chính quyền khác đủ can đảm đối đầu với sự thống trị của Hoa Kỳ phải rất nỗ lực trong đơn độc để tồn tại trước những âm mưu lật đổ. Cuba đẩy lùi cuộc xâm lược Vịnh Con Lợn năm 1961 và phải cam chịu lệnh cấm vận kinh tế của Hoa Kỳ hơn nửa thế kỷ. Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc mới đây bỏ phiếu với đa số tuyệt đối lên án lệnh cấm vận lần thứ 23, 188 quốc gia đã kêu gọi chấm dứt lệnh cấm vận và chỉ có hai nước – Hoa Kỳ và Israel – bỏ phiếu chống lại nghị quyết đó. Tương tự, Venezuela đã trụ được qua cuộc đảo chính do Hoa Kỳ hậu thuẫn vào năm 2002 nhằm lật đổ tổng thống Chavez và tiếp đó thường xuyên bị các chính khách Hoa Kỳ bôi nhọ.

Cực đoan hóa Hồi Giáo 

Chủ nghĩa quân phiệt Hoa Kỳ trong thế giới Hồi Giáo cũng tìm cách đối đầu với những ai phản đối việc phổ biến các giá trị tự do phương Tây thiết yếu đối với toàn cầu hóa chủ nghĩa tư bản. Năm mươi năm trước đây không hề có các nhóm Hồi Giáo cực đoan nổi bật nào. Sự tiến hóa hiện thời của chủ nghĩa cực đoan có thể bắt đầu từ khi Hoa Kỳ hậu thuẫn cho việc lật đổ thủ tướng thế tục và được tín nhiệm Mohamad Mossadegh của Iran vào năm 1953 sau khi ông ta quốc hữu hóa công nghiệp dầu mỏ. Shah đã được tái lập làm người cai trị Iran và ông ta lập tức lại mở cửa quốc gia cho các công ty dầu mỏ phương Tây, đồng thời cảnh sát mật được Hoa Kỳ huấn luyện của ông ta đàn áp tàn bạo những người bất đồng chính kiến.

Dưới sự cai trị độc đoán của chính quyền Shah do Hoa Kỳ hậu thuẫn thì hoạt động văn hóa phương Tây trở thành phổ biến ở Iran cùng với sự hiện diện của rất nhiều công nhân dầu mỏ Hoa Kỳ và Anh. Đồng thời, một số lượng ngày càng lớn người Iran phải gánh chịu sự nghèo khổ khi Shah và công nhân dầu mỏ phương Tây đánh cắp tài nguyên giàu có của quốc gia ngay trước mắt họ. Sự oán giận lớn dần bắt nguồn từ tình trạng ấy đã tạo ra môi trường lý tưởng để chủ nghĩa Hồi Giáo chính thống xây dựng lực lượng trong lòng nhân dân Iran. Vào năm 1979, đa số người Iran đã ủng hộ cuộc cách mạng của những người chính thống, lật đổ chế độ tha hóa và tàn bạo của Shah. 

Trong những thập kỷ tiếp theo, sự ủng hộ của Washington đối với các chính phủ tha hóa nhưng phục vụ cho lợi ích của phương Tây trong khu vực, đặc biệt là liên quan đến việc đảm bảo cho dầu chảy liên tục, đã cực đoan hóa nhiều thành phần của thế giới Hồi giáo. Hoa Kỳ đã viện trợ quân sự và kinh tế hơn 4 tỷ dollar cho những kẻ nổi loạn Mujahideen, để họ chống lại Liên Bang Soviet ở Afghanistan trong những năm 1980. Một trong những kẻ nổi loạn Mujahideen được Hoa Kỳ hậu thuẫn là Osama bin Laden, sau khi loại bỏ những kẻ xâm lược Soviet của phương Tây khỏi thế giới Hồi giáo, ông ta đã thành lập Al-Qaeda và chuyển hướng sang kẻ xâm lược phương Tây cuối cùng, khi quân đội Hoa Kỳ lập căn cứ ở Arab Saudi vào năm 1991. Rất nhiều cuộc can thiệp quân sự của Hoa Kỳ tại khu vực kể từ năm 1991 và sự hỗ trợ vô điều kiện của Washington cho Israel đã chỉ đổ thêm dầu vào ngọn lửa của chủ nghĩa cực đoan.

Rõ ràng là can thiệp quân sự của Hoa Kỳ ở Trung Đông không xuất phát từ động cơ khuyến khích dân chủ và nhân quyền. Trên hết, nếu chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ bắt nguồn từ những động cơ cao quý đó thì Washington đã lật đổ từ lâu chế độ độc tài tàn nhẫn tại nước đồng minh thân cận Arab Saudi của họ cũng như giải thoát khu vực khỏi những người bạn toàn trị của họ. Cần biết là chính quyền Arab Saudi thường xuyên chặt đầu công khai người dân của họ - 19 người vào tháng 7 và 8 – quyết định của Obama cho phép quân đội Hoa Kỳ với những kẻ chặt đầu Saudi chiến đấu chống lại những kẻ chặt đầu của Quốc Gia Hồi Giáo đã chứng minh hùng hồn về nhân quyền. Hiển nhiên là việc chặt đầu tự bản thân nó không làm ai đó trở thành “độc ác”, giống như việc chặt đầu người phương Tây để chống lại các lợi ích kinh tế của Hoa Kỳ.

Sự thất bại của những nhóm quốc gia thế tục và ôn hòa hơn trong việc đáp ứng nhu cầu của chủ nghĩa Hồi giáo đã dẫn đến sự trỗi dậy của các tổ chức chính thống cực đoan hơn như Hezbollah, Hamas, Taliaban, al-Qaeda và giờ là Nhà Nước Hồi Giáo. Nói ngắn gọn, chúng ta chứng kiến sự cực đoan hóa trên quy mô khu vực tương tự như những gì đã diễn ra trên quy mô quốc gia ở Iran sau khi Hoa Kỳ can thiệp và ủng hộ chế độ Shah tàn bạo.

Chính sách đế quốc của Washington ưu tiên cho các lợi ích của công ty dầu mỏ và kinh tế phương Tây hơn nhân dân Hồi Giáo. Không có gì đáng ngạc nhiên khi điều đó dẫn đến sự cực đoan hóa của phe đối đầu với can thiệp quân sự, chính trị và kinh tế của Hoa Kỳ vào thế giới Hồi Giáo. Hoa Kỳ phản ứng trước sự trỗi dậy của chủ nghĩa cực đoan không phải bằng cách xem xét lại phương thức tiếp cận kiểu đế quốc của họ, mà theo cách ngược lại là gia tăng chúng. Các cuộc xâm lược và chiếm đóng quân sự do Hoa Kỳ cầm đầu ở Afghamistan và Iraq còn có thể giải thích theo cách nào khác? Ở cả hai quốc gia đó, mục tiêu là áp đặt bằng quân sự nền dân chủ tự do kiểu phương Tây đối với người dân Hồi Giáo và sáp nhập tài nguyên cũng như kinh tế của những quốc gia đó vào hệ thống tư bản toàn cầu.

Bất chấp những hùng biện được lặp đi lặp lại của các lãnh đạo phương Tây rằng can thiệp quân sự vào khu vực không tạo thành cuộc chiến tranh chống Hồi Giáo, đó chính là chiến tranh chống Hồi Giáo. Đó là cuộc chiến tranh chống lại các giá trị Hồi Giáo vốn xung đột với hoạt động tìm kiếm lợi nhuận thô bạo và bất nhân của các công ty đa quốc gia cũng như các ngân hàng đầu tư. Đó là cuộc chiến tranh chống lại các giá trị tập thể và niềm tin, những thứ vốn xung đột với chủ nghĩa cá nhân và văn hóa tiêu dùng buông thả trong cốt lõi của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Đó là cuộc chiến tranh chống lại những người Hồi Giáo đã hết ảo tưởng với mô hình dân chủ và hệ thống kinh tế chỉ mang lại cho họ sự bất lực và bần cùng.

Toàn cầu hóa theo kiểu tân tự do không chỉ khiến cho thế giới Hồi Giáo nghèo khổ, mà nó cũng thất bại trong việc đem lại tiếng nói chính trị của họ thông qua hòm phiếu. Khi người Hồi Giáo lựa chọn một đảng Hồi Giáo trong các cuộc bầu cử kiểu phương Tây, chính phủ mới sẽ lập tức trở thành mục tiêu của Hoa Kỳ và đồng minh của họ. Người Ai Cập nổi dậy trên đường phố vào năm 2011 trong Mùa Xuân Arab đòi lật đổ nhà độc tài Hosni Mubarak được Hoa Kỳ hậu thuẫn và bầu cử được tổ chức. Năm tiếp theo, đa số người dân Ai Cập lựa chọn ứng cử viên tổng thống đại diện cho tổ chức Hồi Giáo của quốc gia, Huynh Đệ Hồi Giáo. Một năm sau, Washington và đồng minh của họ quay mặt làm ngơ khi quân đội Ai Cập do Hoa Kỳ hậu thuẫn đã đảo chính lật đổ chính quyền được bầu chọn dân chủ. 

Đây không phải là lần đầu tiên các quyền lực phương Tây phá hoại dân chủ trong thế giới Hồi Giáo. Vào năm 1991, khi kết quả bầu cử nghị viện ở Algeria cho thấy có vẻ Mặt Trận Cứu Nguy Hồi Giáo sẽ thắng với đa số 2/3, quân đội đã can thiệp và hủy bỏ cuộc bầu cử, không cho phép đảng Hồi Giáo thắng cử. Hoa Kỳ và Pháp hỗ trợ cuộc đảo chính đó bởi vì họ phản đối việc thiết lập một chính quyền Hồi Giáo ở Algeria, ngay cả khi chính quyền được bầu cử dân chủ đó đại diện cho nguyện vọng của đa số người dân Algeria. Cái giá của việc phá hoại tiến trình dân chủ đó là một cuộc nội chiến cướp đi sinh mạng của hơn 150.000 người trong thập kỷ tiếp theo. 

Tương tự vào năm 2006, người dân Palestin bỏ phiếu cho đảng Hồi Giáo Hamas nhiều hơn là đảng Fatah, kết quả là Hamas được 76 ghế còn Fatah được 45 ghế, do đó Hamas có quyền thành lập chính phủ. Hoa Kỳ, Canada và Liên Minh Châu Âu đáp lại kết quả bầu cử bằng cách ngay lập tức cắt viện trợ cho chính phủ Hamas và cho phép Israel phong tỏa một cách vô nhân đạo căn cứ của Hamas ở dải Gaza. Những trường hợp đó đã gửi một thông điệp rõ ràng đến cho người Hồi Giáo: Chấp nhận dân chủ theo kiểu phương Tây nhưng không được bầu cho đảng Hồi Giáo. Có gì ngạc nhiên khi ngày càng nhiều người Hồi Giáo vỡ mộng với dân chủ kiểu phương Tây và hệ thống kinh tế toàn cầu chủ yếu phục vụ cho lợi ích phương Tây?

Sự vỡ mộng đó đã thể hiện bản thân trong một “nguy cơ” bắt nguồn tự cuộc xâm lược và chiếm đóng Iraq của Hoa Kỳ. Nhà Nước Hồi Giáo còn cực đoan hơn cả al-Qaeda trong những nỗ lực chống đế quốc phương Tây. Bất chấp thực tế, phương Tây đáp lại Nhà Nước Hồi Giáo bằng bản sao của cuộc can thiệp quân sự trước đó ở Trung Đông, thứ đã khai sinh ra al-Qaeda và Nhà Nước Hồi Giáo. 

Washington đang gia tăng can thiệp quân sự vào thế giới Hồi Giáo, họ đã giết hại hàng ngàn thường dân vô tội. Trong thực tế, số lượng người Hồi Giáo vô tội bị bom Mỹ giết hại đã vượt xa số người phương Tây bị các nhóm Hồi Giáo cực đoan giết hại. Lịch sử cho thấy rằng ngay cả khi quân đội Hoa Kỳ và đồng minh đánh bại Nhà Nước Hồi Giáo, số lượng thường dân bị quân đội phương Tây giết hại sẽ lại dẫn đến việc một nhóm cực đoan hơn nữa xuất hiện để thay thế Nhà Nước Hồi Giáo.

Nguyên nhân thực sự khiến Hoa Kỳ và đồng minh phương Tây nhắm vào Nhà Nước Hồi Giáo dường như sẽ rõ ràng hơn khi so sánh nhóm cực đoan đó với các cartel ma túy Mexico. Cartel ma túy Mexico là mối đe dọa bạo lực lớn hơn đối với thường dân, bao gồm cả người Mỹ, hơn là Nhà Nước Hồi Giáo. Họ đã giết hại hơn 13.000 người trong năm 2013, gần gấp đôi số người chết ở Iraq. Quan trọng hơn theo quan điểm của Hoa Kỳ, hơn 300 công dân Hoa Kỳ đã bị cartel ma túy Mexico sát hại trong 6 năm qua, vượt xa số người Mỹ bị Nhà Nước Hồi Giáo giết hại.

Hơn nữa, các cartel không chỉ chặt đầu các nạn nhân, họ còn chặt xác ra nhiều mảnh. Họ thường xuyên tuyển mộ các thiếu niên tầm 11 tuổi và thường xuyên tấn công phụ nữ và trẻ em. Các cartel kiểm soát các khu vực lãnh thổ rộng lớn ở miền Bắc Mexico và chính quyền không thể đánh bại họ. Mặc dù vậy, chúng ta không ném bom miền Bắc Mexico để tiêu diệt nhóm bạo lực đó. Tại sao không? Bởi vì đó không phải là loại khuyến khích nhân quyền hay dân chủ mà chính quyền Hoa Kỳ muốn làm; Washington chỉ phản ứng trước các nguy cơ rõ ràng đối với hệ thống tư bản.

Ở Mexico, các hoạt động bạo lực của cartel ma túy không xâm hại đến năng lực tạo lợi nhuận dựa trên bóc lột lao động và tài nguyên tự nhiên giá rẻ của các công ty đa quốc gia. Các cartel ma túy không gây phiền toái cho mô hình kinh tế tự do thương mại, vốn hiện diện công khai ở Mexico với Hiệp Định Tự Do Thương Mại Bắc Mỹ (NAFTA). Mặt trái là những kẻ buôn ma túy dựa trên dòng thương mại thường xuyên và liên tục qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico để vận chuyển ma túy. Nói ngắn gọn, không giống như Nhà Nước Hồi Giáo, các cartel ma túy Mexico không thách thức các giá trị tự do phương Tây cũng như mô hình kinh tế tư bản mà Hoa Kỳ khuếch trương.

Kết luận

Chủ nghĩa đế quốc phương Tây đã tiêu tốn hơn 500 năm để áp đặt các giá trị phương Tây cho người dân khắp thế giới. Những người dân đó không bao giờ có tiếng nói trong các chính sách chính trị, xã hội và kinh tế được áp đặt cho họ. Chủ nghĩa đế quốc, theo định nghĩa, là phi dân chủ. Trong khi chính sách của Hoa Kỳ ảnh hưởng đến hàng tỷ người trên thế giới, chỉ có một ít phần trăm dân số toàn cầu có tiếng nói trong việc lựa chọn chính quyền đó. Đại đa số trong 121 triệu cử tri người Mỹ không mấy quan tâm đến vệc lá phiếu của họ sẽ có ảnh hưởng ra sao tới người Hồi Giáo ở Trung Đông, thổ dân ở Châu Mỹ Latin, và hàng triệu người khác khắp Châu Phi, Châu Á. Quyết định bầu cử của họ chủ yếu được xác định dựa vào nhận thức về các nhu cầu tức thời, thứ đó là cái vỏ hợp hiến không chỉ cho dân chủ Hoa Kỳ mà còn cho cả chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ.

Hệ quả là dường như trong một tương lai có thể thấy trước, một cuộc cách mạng sẽ nổ ra ở trái tim của đế quốc. Có vẻ là sẽ nổ ra ở các khu vực hẻo lánh của Đế quốc Hoa Kỳ. Trong thực tế, đã có nhiều dạng cách mạng diễn ra, từ phong trào thổ dân đòi chủ quyền ở Châu Mỹ Latin tới các nhóm Hồi Giáo chính thống cực đoan như al-Qaeda và Nhà Nước Hồi Giáo ở Trung Đông. Vào lúc này, đại đa số dân chúng thế giới đang đối đầu với chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ một cách ôn hòa, họ tìm kiếm chủ quyền và tiếng nói trong các quyết định chủ chốt có ảnh hưởng đến đời sống của họ theo cách bất bạo động. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục tiêu diệt mọi sự đối đầu ôn hòa với chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ, chúng ta sẽ phổ cập những dạng chủ nghĩa cực đoan như đang trỗi dậy ở Trung Đông.

Vì lợi ích của thế giới, điều quan trọng là một cuộc cách mạng diễn ra để lật đổ hệ thống đế quốc Hoa Kỳ trước khi các thế lực bạo lực cực đoan châm ngòi cho hỗn loạn toàn cầu. Nếu đế quốc Hoa Kỳ không bị lật đổ bởi những người đang sống tại trung tâm của nó thì cũng sẽ bị lật đổ bởi những “đối tượng” của nó ở những khu vực hẻo lánh, những người đang phải gánh chịu thuế khóa – thông qua việc bóc lột lao động và tài nguyên giá rẻ của họ - mà không có ai đại diện. Trên hết, chúng ta không có gì để mất ngoài xiềng xích của mình.


Garry Leech is an independent journalist and author of numerous books including Capitalism: A Structural Genocide (Zed Books, 2012); Beyond Bogota: Diary of a Drug War Journalist in Colombia (Beacon Press, 2009); and Crude Interventions: The United States Oil and the New World Disorder (Zed Books, 2006). ). He is also a lecturer in the Department of Political Science at Cape Breton University in Canada.

*Chú thích của người dịch: Tác giả đã nhầm lẫn về vụ đảo chính lật đổ nhà độc tài Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam năm 1963. Ngô Đình Diệm chưa bao giờ chống lại Mỹ để bảo vệ lợi ích quốc gia. Ông ta rất trung thành với Mỹ nhưng thất bại trong việc thực thi các chính sách của Mỹ và ngoan cố không chịu rời bỏ quyền lực khi đã hết giá trị lợi dụng. Do đó, Mỹ buộc phải cho tay chân lật đổ Ngô Đình Diệm.