Showing posts with label Phát xít. Show all posts
Showing posts with label Phát xít. Show all posts

Sunday, August 27, 2017

Chủ nghĩa tư bản và nền sản xuất hàng hóa nhỏ

Trong nhiều cuộc thảo luận về kinh tế chính trị, tôi để ý thấy rằng phần lớn những người tham gia đều cho rằng chủ nghĩa tư bản đối lập với sản xuất nhỏ. Điều này diễn ra ở hai khía cạnh. Thứ nhất, chủ nghĩa tư bản làm phá sản nền sản xuất nhỏ để tạo ra một đội quân làm thuê đồng thời tiêu thụ hàng hóa do nhà tư bản sản xuất ra. Thứ hai, chủ nghĩa tư bản thống trị dựa vào bóc lột giá trị thặng dư từ lao động làm thuê, do vậy nó độc lập với nền sản xuất hàng hóa nhỏ và không có lợi ích gì từ nền sản xuất nhỏ. Tóm lại, chủ nghĩa tư bản xung đột với nền sản xuất nhỏ và cần phải phá hủy nền sản xuất nhỏ.

Điều đó có đúng không? Nếu người ta chỉ đọc quyển 1 của bộ Tư Bản thì điều đó rất đúng. Sở dĩ như vậy là bởi vì toàn bộ phần đầu Marx trình bày quan hệ sản xuất tư bản dưới dạng bản chất nhất của nó, tạm gác lại mối quan hệ của nó với toàn bộ nền sản xuất, trong đó có bộ phận sản xuất hàng hóa nhỏ và tự cấp tự túc.

Vấn đề ở đây là gì? Hãy nhìn vào lịch sử, nếu theo lập luận đã nêu trên thì sau hơn hai trăm năm phát triển, chủ nghĩa tư bản phải phá hủy hoàn toàn nền sản xuất hàng hóa nhỏ và biến tất cả thành lao động làm thuê. Nhưng điều đó không xảy ra, ngược lại, lịch sử cho thấy chủ nghĩa tư bản tạo dựng được sản xuất hàng hóa lớn ở chỗ này thì lại duy trì sản xuất hàng hóa nhỏ, thậm chí là cả phương thức sản xuất lạc hậu hơn ở chỗ khác. Chúng ta có thể giải thích thế nào về chế độ thực dân kiểu cũ và kiểu mới kéo dài cho đến tận nay ở nhiều nước trong khi chủ nghĩa tư bản vẫn phát triển ở một số nước. Chúng ta giải thích ra sao về hàng sa số các hộ sản xuất hàng hóa nhỏ, nông dân tự cấp tự túc vẫn tồn tại bên cạnh các tập đoàn đa quốc gia.

Hơn nữa, lịch sử cũng đặt ra câu hỏi khác, nếu nền sản xuất hàng hóa nhỏ và chủ nghĩa tư bản độc lập nhau, không có mối liên hệ kinh tế nào ngoài mâu thuẫn sống còn vậy thì sự tồn tại của nền sản xuất hàng hóa nhỏ có phải là sự suy thoái của chủ nghĩa tư bản không. Điều này sẽ dẫn đến con đường kỳ quặc mà giai cấp tiểu tư sản vẫn tán dương, đó là chỉ cần tước đoạt sản xuất lớn, chia đều cho người lao động, biến mỗi người lao động thành một tiểu chủ, thế là có chủ nghĩa xã hội.

May mắn thay, Marx cũng đã đưa ra câu trả lời cho vấn đề này ở quyển thứ 3 của bộ Tư Bản, phần đó nằm trong sự phân tích quá trình chuyển hóa giá trị thành giá cả, tức là phân tích toàn bộ nền sản xuất tư bản. Khi xem xét quá trình chuyển hóa giá trị thành giá cả, Marx đã chỉ ra rằng ngay khi hình thành giá cả sản xuất thì một phần giá trị thặng dư do công nhân tạo ra đã chuyển từ bộ phận có cấu tạo hữu cơ thấp sang bộ phận có cấu tạo hữu cơ cao. Điều này có nghĩa là bên cạnh những bộ phận sản xuất lớn, có cấu tạo hữu cơ cao thì chủ nghĩa tư bản không thể tách rời bộ phận sản xuất nhỏ có cấu tạo hữu cơ thấp. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì nó lại càng cần một nền tảng lớn những đơn vị sản xuất có cấu tạo hữu cơ thấp để cung cấp giá trị thặng dư cho phần có cấu tạo hữu cơ cao.

Điều này sẽ góp phần làm sáng tỏ sự tồn tại của nền sản xuất hàng hóa nhỏ trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản. Thứ nhất, chủ nghĩa tư bản phá hủy nền sản xuất nhỏ để tạo ra đội quân làm thuê và tiêu thụ hàng hóa, nhưng mặt khác lại không ngừng tái tạo lại nền sản xuất hàng hóa nhỏ dưới khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, tức là sản xuất hàng hóa và chịu sự chi phối của quy luật giá trị. Thông qua quy luật giá trị, chủ nghĩa tư bản với lợi thế của khoa học và công nghệ sẽ tước đoạt một phần giá trị thặng dư của nền sản xuất nhỏ.

Điều này giải thích được sự tồn tại của chủ nghĩa thực dân và cách thức chủ nghĩa tư bản thống trị toàn cầu dựa vào một số nước phát triển và duy trì sự kém phát triển ở các nước khác. Khi mà các nước tư bản phát triển ngày càng phụ thuộc vào việc tước đoạt nền sản xuất nhỏ để duy trì sự phồn thịnh của họ đồng thời nuôi dưỡng một đạo quân thất nghiệp khổng lồ thì cũng có nghĩa là chủ nghĩa tư bản đã qua thời thanh xuân và trở thành một thứ ăn bám đúng nghĩa. Song điều đó không có nghĩa là nền sản xuất hàng hóa nhỏ là cứu cánh cho loài người, ngược lại nền sản xuất nhỏ đã trở thành nô lệ của chủ nghĩa tư bản, nó vĩnh viễn không thể phát triển độc lập, nếu được tự do thì sự tích lũy trong lòng nó sẽ lại sinh ra chủ nghĩa tư bản vì nó hoạt động theo quy luật giá trị, là quy luật của chủ nghĩa tư bản. 

Tóm lại, nền sản xuất hàng hóa nhỏ dưới sự thống trị của chủ nghĩa tư bản đã trở thành một bộ phận của chủ nghĩa tư bản, nó không thể tồn tại độc lập với chủ nghĩa tư bản. Nền sản xuất hàng hóa nhỏ là cần thiết với chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn độc quyền và đế quốc, chính vì vậy nó sinh ra mâu thuân giữa các nước tư bản trên quy mô quốc tế. Giai cấp tư sản ở quốc gia phát triển luôn muốn duy trì sản xuất hàng hóa nhỏ ở các nước chậm đang triển, ngược lại giai cấp tư sản ở các nước đang phát triển lại muốn phá vỡ nền sản xuất hàng hóa nhỏ để mở rộng nền sản xuất tư bản của họ. Chiến tranh thế giới là kết quả tất yếu của mâu thuẫn đó. Song chủ nghĩa tư bản vốn thống trị chủ yếu nhờ vào quy luật giá trị nên chiến tranh phải nhường chỗ cho các hiệp định thương mại tự do, một thứ hợp đồng nô lệ hiện đại.

Monday, September 5, 2016

Tại sao Italy thất bại trong việc chống lại nạn tham nhũng?

Italy là nền kinh tế lớn thứ ba Châu Âu nhưng mức độ tham nhũng của họ vượt xa so với các quốc gia Châu Âu khác, xét theo vị trí xếp hạng trên bảng về chỉ số nhận thức tham nhũng CPI thì họ đứng thứ 61/174 (năm 2016) và Viện Kiểm Toán Tối Cao Italy ước lượng rằng tham nhũng làm thiệt hại của nền kinh tế Italy mỗi năm 60 tỷ dollar, bằng khoảng 4% GDP hàng năm của nước này. Tuy vậy, Italy chưa bao giờ thành công trong việc chống tham nhũng. Thậm chí, như các học giả đã nhận định, tham nhũng còn đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Italy cất cánh vào giai đoạn công  nghiệp hóa cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.

Paolo Ferrari, giảng viên môn lịch sử hiện đại tại đại học Pavia và tổng biên tập của tạp chí “Italia contemporanea”, Italy, tìm cách lý giải hiện tượng tham nhũng ở Italy dưới góc độ cấu trúc. Tuy vậy, định kiến về sự kiểm soát tham nhũng bằng chính trị đa nguyên hay coi tham nhũng chỉ là vấn đề tư pháp đã khiến ông thất bại trong việc làm rõ cách thức sự tham nhũng phát triển trong lòng một xã hội tư bản mà giai cấp tư sản trực tiếp sử dụng quyền lực nhà nước vào việc kinh doanh. Hậu quả tiêu cực của tham nhũng cũng chỉ được xem xét dựa trên giả định không rõ ràng về chi phí kinh tế mà không gắn với sự biến đổi của tình hình chính trị-xã hội cụ thể. Sự ám ảnh về chế độ Phát xít vẫn còn để lại dấu ấn cho thời kỳ hiện đại khi mà tác giả cố gắng lý giải mức độ tham nhũng thấp của chế độ Phát xít bằng cách cho rằng họ đã che giấu tham nhũng. Italy cũng cho thấy sự thất bại của việc dùng Quốc Hội như là một quyền lực tư pháp chống lại sự tham nhũng. 

Dưới đây là bản dịch bài viết "Corruption in Italy: a structural approach" của Paolo Ferrari (pp. 165-178) trong cuốn sách trong cuốn The History of Corruption in Cetral Government của Seppo Tiihonnen do nhà xuất bản IOS phát hành năm 2003. 


Tham nhũng ở Italy: Một tiếp cận cấu trúc 

Paolo Ferrari*

Một Định Nghĩa

Vấn đề tham nhũng liên quan đến ba yếu tố khác nhau: hành chính công, chính giới và lợi ích tư nhân. Trong tiểu luận này, chúng tôi xem xét việc tham nhũng được coi là hành vi tham nhũng của công chức, tức là họ nhận tiền, hoặc lợi ích, để đổi lấy hành động, quyết định, trong trách nhiệm công của họ, có nghĩa là liên quan đến hoạt động theo luật định của họ, nhưng nhằm mục đích thu lợi cá nhân với chi phí công cộng. Bên cạnh đó, chính giới cũng có thể ảnh hưởng tới hoạt động hành chính công và trong một thời gian dài của lịch sử Italy, người ta có thể thấy sự yếu đuối, lệ thuộc của hành chính công vào giới thượng lưu chính trị, thường là tác nhân chủ chốt trong sự tham nhũng. [1]

Nếu như sự chú ý được tập trung vào hành chính công thì trước hết cần phải thấy rằng không có kết luận chung nào có thể được đưa ra. Vấn đề này chỉ nhận được sự chú ý đáng kể từ năm 1992, khi hiện tượng “Tangentopoli” xảy ra, cho thấy sự tham nhũng lan tràn ở hầu hết mọi phần của xã hội Italy. Một hiện tượng dĩ nhiên sẽ thu hút sự chú ý vào các đảng phái hơn là hành chính công, dẫn tới sự biến đổi của hệ thống chính trị Italy – ít nhất là khi được xem xét từ quan điểm của đảng phái chính trị. Dĩ nhiên nhiều học giả đã nghiên cứu tham nhũng trong nhiều giai đoạn khác nhau của lịch sử Italy, nhưng trên góc độ của hệ thống chính trị và không có bất cứ sự chú ý đặc biệt nào đến cơ chế của nó. 

Trong thập kỷ qua, nhiều tác giả đã nghiên cứu về tham nhũng, đặc biệt là trong lịch sử nước Cộng Hòa. Chúng tôi sẽ cố gắng trình bày rằng sự lan rộng của hiện tượng liên kết chặt chẽ với cấu trúc hành chính công của Italy cũng như quan hệ của nó với xã hội dân sự, như đã được định nghĩa vào những năm ba mươi. Có thể kể ra 5 thời kỳ như sau:

• Từ khi khai sinh nhà nước mới cho đến Thế Chiến thứ I (1861-1914);

• Từ Thế Chiến I đến chế độ Phát xít (1915-1921);

• Dưới chế độ Phát xít (1922-1945);

• Từ kết thúc Thế Chiến II đến cuối những năm 1970;

• Hai thập kỷ vừa qua (chúng tôi không xem xét trong bài này).

Không có bằng chứng nào cho thấy sự liên hệ giữa tham nhũng và phát triển kinh tế, tham nhũng tồn tại trong những xã hội có những cấu trúc kinh tế đặc trưng rất khác nhau. Sự chú ý hiện tại tới vấn đề, dưới sự thúc ép của các tổ chức quốc tế, cho thấy ngay cả ở những quốc gia phát triển nhất thì tham nhũng cũng được coi là vấn đề quan trọng. Quan trọng, không chỉ là bởi vì nó liên quan đến sự lãng phí nguồn lực công mà còn bởi vì nó có thể phá hoại tính hợp pháp của hệ thống chính trị, với những hậu quả lớn cho hệ thống chính trị nói chung cũng như với những đảng phái trực tiếp liên can đến tham nhũng nói riêng.

Có hai câu hỏi cần được xem xét. Tham nhũng được coi là một ví dụ đặc biệt về việc sử dụng nguồn lực công cho lợi ích riêng, bất kể là xảy ra theo lệnh của nhóm nắm quyền hay là bởi vì thiếu đạo đức. Điều này có thể xảy ra trong bất kỳ giai đoạn nào và ở bất kỳ nhà nước nào. Trên góc độ này, người ta có thể cho rằng nó liên quan đến bản chất con người và sự lựa chọn về đạo đức – tức là sự trộm cắp nguồn lực công, thì sự lan rộng của hiện tượng này cho thấy nó ít chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử. Quan điểm trái ngược lại cho rằng hoàn cảnh lịch sử là đặc biệt quan trọng để giải thích hiện tượng này, theo góc độ đó thì người ta tập trung chú ý vào những vấn đề sau:

1) Cấu trúc của những quan hệ giữa lợi ích tư nhân, đặc biệt là quyền lực của lợi ích tư nhân bên trong xã hội, khả năng ảnh hưởng tới quyết định chính trị và hành chính của chúng.

2) Sự kiểm soát đối với hành chính công, nội bộ cũng như bên ngoài: đặc biệt là sự tồn tại của quyền lực tư pháp độc lập có thể trừng phạt các công chức và chính khách.

3) Thời kỳ đặc biệt: một cuộc khủng hoảng nổ ra, nhằm mở rộng quyền lực của chính quyền, cũng như một số khu vực hành chính công, đồng thời làm suy yếu sự kiểm soát, do đó mang lại nhiều cơ hội cho lợi ích tư nhân, lợi ích này sẽ cố gắng tác động đến sự lựa chọn công.

4) Địa vị của công chức trong xã hội, văn hóa, thái độ của họ, sự đánh giá xã hội đối với công việc của họ.

Ba chủ đề đầu liên quan đến vấn đề mang tính cấu trúc liên quan đến vị trí của hành chính công trong nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau: hành vi của công chức có thể hiểu được không chỉ từ góc độ tâm lý học mà còn từ việc nghiên cứu vị trí xã hội của họ cũng như hoàn cảnh hoạt động của họ.


Nước Italy Tự Do

Thời gian từ khi thành lập nhà nước mới vào năm 1861 cho đến khi bắt đầu Thế Chiến I có những đặc trưng chung. Nhiều học giả nhấn mạnh rằng Nhà Nước Tự Do có mục tiêu rất hạn chế và hoạt động trong hoàn cảnh có sự phân chia rõ ràng giữa khu vực tư nhân và khu vực công. Theo quan điểm của chúng tôi, những xem xét khác cũng hữu ích.

Thứ nhất, trong thời kỳ lịch sử này của Italy, nhà nước có mức độ độc lập lớn nhất trong mối quan hệ với lợi ích tư nhân. Kể từ năm 1861, nhà nước là một trong những nhân tố quan trọng nhất trong lĩnh vực kinh tế. Các hoạt động của nhà nước đã định hình một xã hội mới, thống nhất quốc gia, chống lại các kẻ thù bên trong cũng như bên ngoài, cung cấp các cơ hội để phát triển hoạt động tư nhân. Mặc dù có cấu trúc gọn nhẹ nhưng nhà nước đã quan tâm tới cả lợi ích tư nhân lớn cũng như nhỏ. Các lợi ích thường được phát triển nhờ vào các sáng kiến được tài trợ công [3]. Nhà nước Italy có sức mạnh tác động đến sự phát triển của các trung tâm quyền lực kinh tế lớn nhưng vẫn duy trì sự độc lập cao. Ví dụ điển hình nhất là sự phát triển của các ngành cơ khí và sắt thép. Cả hai ngành đều gắn liền với các rào cản thương mại và chi tiêu công – và đặc biệt là với sự gia tăng của ngân sách quân sự, thay vì gắn với hệ thống đường sắt như ở nhiều quốc gia Châu Âu khác. Trong cả hai trường hợp, chi tiêu công trở thành cơ hội gắn kết doanh nhân và công chức. Có rất nhiều trường hợp tham nhũng; nguồn lực công cũng được sử dụng cho các mục đích tư nhân trong thời kỳ này

Theo quan điểm này, chúng tôi cần phải xem xét hai khía cạnh khác nhau của vấn đề. Tham nhũng “vặt”, liên quan đến những người quản lý nguồn lực công: một ví dụ cụ thể là tin đồn liên quan đến việc quản lý các kho quân sự. Ở mức độ này, tham nhũng được coi là ví dụ về việc sử dụng nguồn lực công cho mục đích cá nhân, theo lệnh của những công chức có cấp bậc thấp – tức là sử dụng các cơ hội nhất định gắn liền với vị trí của công chức. Hiện nay, một ví dụ đương thời là việc sử dụng mạng Internet cho các mục đích cá nhân, việc này rấ khó kiểm soát. Điều này có thể coi là vấn đề đạo đức nhưng tham nhũng là một việc khác; như chúng tôi đã nhấn mạnh, đó là sự trao đổi giữa một công chức và một cá nhân và mục tiêu của sự trao đổi này là hành động gắn liền với hành chính công.

Chúng tôi cần phải nhắc lại rằng lợi ích tư nhân là yếu so với quyền lực nhà nước trong thời kỳ Tự Do. Trước hết chúng tôi xem xét – một ví dụ cụ thể là sự hình thành của nhà máy sắt quan trọng nhất của Italy, Societa alti forni, fonderie e acciaierie di Terni, vào năm 1884 – nhà nước là cơ sở cho sự phát triển công nghiệp này. Sự lựa chọn được coi là quyết định dưới sự thúc ép của giới kinh doanh đang cố gắng chế tạo ra các công cụ đã ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của nhà nước

Nhưng những khẳng định này cần thêm sự giải thích -

Nhà nước Italy đã trực tiếp tham gia vào phát triển kinh tế, mặc dù về lý thuyết thì tầng lớp thượng lưu chính trị chống lại việc trực tiếp gánh vác trách nhiệm tại các doanh nghiệp tư nhân và ủng hộ chính sách laissez faire – mặc dù vậy, họ cũng luôn bảo vệ các rào cản thương mại. Trường hợp “Terni” là điển hình theo quan điểm này bởi vì ngành sắt đã được hỗ trợ bằng các đơn đặt hàng vật liệu của ngành đóng tàu, mà không có bất cứ sự can thiệp trực tiếp nào theo lệnh của chính quyền vào doanh nghiệp tư nhân. Do đó, một trong những nỗ lực quan trọng nhất để phát triển nền tảng công nghiệp Italy đã được thực hiện bằng các công cụ pháp luật truyền thống, tức là thông qua việc mua sắm các vật liệu mà Bộ Hải Quân đòi hỏi.

Khi xem xét vụ bê bối quan trọng nhất trong nửa sau thế kỷ 19, liên quan đến ngân hàng Banca Romana và các ngân hàng Italy khác, chúng tôi xác thực được một số các khẳng định đã nêu. Banca Romana là một trong số các ngân hành phát hành tiền của Italy và cho các lãnh đạo chính trị vay tiền, trong đó có Crispi và Giolitti, để chi cho các chiến dịch tranh cử của họ và tác động đến báo chí. Banca Romana đã in tiền bất hợp pháp và gia tăng lượng tiền. Điều quan trọng nhất cần phải nhắc đến là Bộ Nông Nghiệp, Công Nghiệp và Thương Mại đã yêu cầu điều tra các ngân hàng phát hành tiền vào năm 1889. Alvisi, một thượng nghị sĩ, cùng với các công chức của Ngân Khố đảm nhiệm cuộc điều tra đó. Họ đã phát hiện ra rằng ngân hàng thường xuyên che giấu các khoản tiền để ủng hộ các chiến dịch tranh cử, đó là hành động bất hợp pháp. Như Gustapane đã nhấn mạnh [4] – vào năm 1893, lệnh bắt giữ, khám xét và lệnh tịch biên tạm thời đã được đưa ra trong cuộc họp của thủ tướng, bộ trưởng Bộ Nội Vụ, bộ trưởng Bộ Tư Pháp và các quan tòa cấp cao nhất của Italy. Vụ bê bối liên quan đến giới thượng lưu chính trị, bốn bộ trưởng, một số trưởng ban và nghị sĩ Quốc Hội cũng như Giolitti bị buộc phải từ chức. Chỉ có ngân hàng nhà nước mới, Banca d'ltalia, được quyền phát hành tiền. Như Gustapane đã nhận thấy, không có bất cứ sáng kiến phi pháp nào khác liên quan đến Banca Romana kể từ đó, ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng của Nhà Nước Tự Do. Điều này có nghĩa là sáng kiến tập trung quyền phát hành tiền là hữu ích, nhằm đạt được mục đích phòng ngừa dạng tham nhũng đó. Một sự tổ chức khác của hệ thống ngân hàng cũng được hình thành và mang tới một kết quả rất quan trọng. Sáng kiến thể chế [5] này quan trọng không chỉ bởi vì đó là một trong những điều kiện để Italy cất cánh vào cuối thế kỷ mà còn bởi vì nó cho thấy phản ứng của hệ thống chính trị. Điều này dĩ nhiên là một sự xem xét tập trung để thấu hiểu tại sao hệ thống chính trị muốn phá hủy nguyên nhân đã tạo ra việc sử dụng nguồn lực công một cách ngược ngạo. Có thể nói rằng không có bất cứ điều gì tương tự đã xảy ra trong các giai đoạn khác của lịch sử Italy.

Hai sáng kiến khác có thể đem đến sự giải thích tốt hơn cho lý thuyết này. Trong thời kỳ Italy cất cánh, từ những năm cuối thế kỷ 19 đến năm 1914, hành chính công đã bắt đầu thay đổi nhanh chóng và phát triển những mối quan hệ mới với lợi ích tư nhân. Điều này cũng tạo ra các cơ hội mới cho sự tham nhũng. Các tầng lớp chính trị cố gắng kiểm soát hiện tượng đó. Như đã được thấy, không chỉ có ba cuộc điều tra của Quốc Hội mà còn có hai sáng kiến thể chế được đưa ra.

Vào năm 1912, sáng kiến đầu tiên là quyết định thành lập một Ủy Ban mới – Commissione per gli approvvigionamenti e forniture di Stato – trực thuộc Ngân Khố, nhằm mục đích phối hợp hành động của các bộ phận khác nhau trong hành chính công, vốn đang đặt hàng của các ngành tư nhân. Đây là hệ quả của sự phát triển công nghiệp nhưng cũng là hệ quả của cuộc chiến tranh với Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1911-12, đã làm gia tăng chi tiêu nhà nước. Sự hình thành cơ quan mới đã cho thấy cách thức mà tầng lớp chính trị nhận thức được sự tồn tại của vấn đề. Đồng thời, các lợi ích tư nhân cũng được tổ chức theo cùng một cách đó, như vậy có ảnh hưởng trực tiếp hơn đến sự lựa chọn của hành chính công. Cụ thể là có thể ảnh hưởng tới công việc của Ủy Ban Ngân Khố mới. Trong chiến tranh và những thập kỷ tiếp theo, vấn đề đại diện cho lợi ích tư nhân trong phạm vi nhà nước tiếp tục là vấn đề trung tâm và giải pháp trong nhiều giai đoạn khác nhau là cơ sở để thấu hiểu hiện tượng tham nhũng.

Sáng kiến thứ hai, rất đáng để chú ý, là quyết định của nội các vào ngày 28/7/1913 về mối quan hệ giữa công chức và hãng tư nhân. Nội các quyết định rằng không có bất cứ công chức, viên chức quân sự hay cựu công chức nào được phép làm đại diện hay trung gian của một hãng tư nhân với bất kỳ bộ phận hành chính công nào. Trước hết, quyết định đó cho thấy rằng đây là vấn đề trung tâm. Quyết định – đã thay đổi tình hình kéo dài – liên quan đến toàn bộ các bộ phận nhà nước và kéo theo các phản ứng nội bộ mạnh mẽ, cùng với một cuộc thảo luận về cách thi hành quyết định đó.  Sindacato del funzionari di Stato, công đoàn của công chức, phản đối quyết định và cũng có những phản ứng của nhiều công chức. Họ phản đối tại một tòa án hành chính, lập luận rằng quyết định đó không liên quan đến bất kỳ công chức nào mà chỉ liên quan đến các đại diện thương mại đang nắm giữ những vị trí quan trọng trong chính quyền.

Trong thời kỳ kinh tế phát triển và các mối quan hệ được tái sinh giữa khu vực công và tư, quyết định của thủ tướng sẽ bảo vệ chính quyền chống lại các bê bối và tham nhũng. Cùng lúc đó, Giolitti không thay đổi mối liên hệ truyền thống với khu vực hành chính công, vốn đã phát triển quan hệ với lợi ích tư nhân kể từ nhưng thập kỷ cuối của thế kỷ 19. Bộ trưởng Bộ Hải Quân viết thư cho Giolitti rằng việc thi hành quyết định đó sẽ tạo ra nhiều rắc rối. Các quan chức hải quân cấp cao được tuyển dụng là giám đốc kỹ thuật cho các ngành công nghiệp phục vụ chiến tranh. Theo quan điểm này, Millo – người được bổ nhiệm làm bộ trưởng Bộ Hải Quân sau cuộc họp ngày 28/7 của nội các – nói rằng ông phản đối việc thi hành quyết định trên đối với bộ. Theo quan điểm của ông, quyết định đó sẽ tạo ra một vấn đề lớn cho cả các ngành công nghiệp phục vụ chiến tranh cũng như Bộ Hải Quân. “Kinh nghiệm sâu sắc” của những cựu sĩ quan đã được công nhận, trong cả các vấn đề về hợp đồng cũng như trong các nghiên cứu đã xuất hiện trước đó. Bộ trưởng đề nghị chỉ thi hành quyết định đối với các công chức làm đại diện cho các hãng tư nhân.

Vấn đề này không phải là mới. Vào năm 1885, một chi nhánh của Armstrong, Mitchell & Co. – một trong những hãng phục vụ chiến tranh lỡn nhất thế giới – được thành lập ở Naples để sản xuất pháo cho hải quân. Hãng được thành lập dựa trên hợp đồng giữa hải quân Italy và Armstrong, trong các cuộc thảo luận, đô đốc Augusto Albini có vai trò quan trọng. Hai thập kỷ sau, vào năm 1903, cuộc điều tra của ủy ban Quốc Hội đã kết luận rằng Albini, trong vài trò tổng chỉ huy pháo binh, đã bảo vệ một hợp đồng nội bộ của bộ. Nhưng “năm tiếp theo, khi việc thực hiện hợp đồng bắt đầu, ông đã rời hải quân và trở thành trưởng đại diện của Armstrong ở Rome” [6]. Nhiều sĩ quan khác, vốn kiểm soát các hãng tư nhân theo nghĩa vụ của họ, sau này cũng trở thành đại diện của chính những doanh nghiệp ấy. Bên cạnh đó, các cựu sĩ quan cấp cao cũng là người đứng đầu ở hầu hết các hãng phục vụ chiến tranh.

Quyết định năm 1913 của nội các được đưa ra sau một thời gian dài mà các doanh nghiệp phục vụ chiến tranh đều sử dụng các cựu công chức. Họ được sử dụng để thu được các thông tin hữu ích liên quan đến nhu cầu của chính quyền cũng như khả năng gây ảnh hưởng tới quyết định của họ.

Salandra, thủ tướng kế nhiệm Giolitti, vào tháng giêng năm 1915, đã cho phép cựu sĩ quan hải quân tiếp tục làm việc – ngay cả khi chỉ làm rõ “các chi tiết kỹ thuật” – trong vai trò đại diện của Compagnia Marconi trong các cuộc đàm phán để gia hạn hợp đồng về máy điện báo và bộ trưởng Bộ Dịch Vụ Bưu Chính và Điện Tín cũng đã bảo vệ quyết định này.

Quyết định này xác nhận rằng mục tiêu của quyết định năm 1913 đã được giảm thiểu các hệ quả tiêu cực đối với chính quyền trong sự xuất hiện của các cựu sĩ quan tại các hãng tư nhân, nhưng không cố gắng thay đổi quan hệ giữa nhà nước và lợi ích tư nhân.

Những quan hệ khác liên quan đến văn hóa hành chính công cũng có thể xảy ra. Cho đến Thế Chiến I, nhà nước nước thuộc về tầng lớp thượng lưu chính trị và hành chính, vốn có một văn hóa chung. Cảm giác thuộc về nhà nước và một sự đồng thuận về dự án xây dựng nhà nước được hình thành. Đây là hệ quả của lý tưởng “Risorgimento” về đấu tranh thống nhất quốc gia. Lý tưởng này cho rằng cuộc đấu tranh phải tiếp tục với việc tạo ra nhà nước mới, có mục tiêu là tổ chức xã hội dân sự và khuyến khích sự phát triển của xã hội dân sự. Hầu hết các công chức đều coi bản thân là một phần của nỗ lực ấy và cảm thấy trách nhiệm đối với nhà nước cũng như nhà vua. Họ cảm thấy bản thân phải trung thành với nhà nước và không phải – như đã xảy ra với chế độ Phát xít và thường xuyên sau đó – với một đảng chính trị coi chính quyền là công cụ cai trị của họ. Đồng thời, sự giảm thiểu các liên hệ trực tiếp với giới kinh doanh cũng không làm giảm các cơ hội tham nhũng. Theo góc độ này, các giá trị đạo đức được hệ thống hành kiểm soát xã hội củng cố mà không có bất cứ sự can thiệp trực tiếp và liên tục nào vào các hoạt động kinh tế. Thêm vào đó, giới kinh doanh vốn đã yếu so với quyền lực nhà nước và không được tổ chức để tạo ra ảnh hưởng trực tiếp tới nhà nước, như dưới chế độ Phát xít và sau Thế Chiến II.

Hoàn cảnh đã thay đổi khi thế kỷ mới bắt đầu, sự quốc hữu hóa hệ thống đường sắt, sự hình thành Quỹ Bảo Hiểm Quốc Gia, Ina, cũng sự đại diện của các lợi ích tư nhân trong một số nhánh của hành chính công. Các hoạt động của nhà nước mới tạo ra các quan hệ mới giữa hành chính công và lợi ích tư nhân. Cuộc chiến tranh giữa Italy và Thổ Nhĩ Kỳ tạo ra tình hình mới: chi tiêu công gia tăng và nhũng cơ hội mới cho lợi ích tư nhân xuất hiện. Khi Italy cất cánh, chúng mạnh hơn và tự tổ chức lại để tác động đến hành chính công theo cả cách hợp pháp – ví dụ như yêu cầu các thủ tục mới cho hoạt động của hành chính công – lẫn ảnh hưởng trực tiếp đến sự lựa chọn của hành chính công, cũng như sử dụng các công cụ tham nhũng. Theo góc độ này, một ví dụ rất rõ ràng là việc mua sắm hàng hóa trong cuộc chiến tranh với Thổ Nhĩ Kỳ.

Thế Chiến I tạo ra một sự biến đổi mới. Khủng hoảng chiến tranh làm suy giảm sự kiểm soát đối với chi tiêu công và các lãnh đạo chính trị cũng như quân sự chấp nhận ở một mức độ nhất định sự lãng phí nguồn lực công – để có được sản lượng vật liệu cần thiết cao hơn. Đồng thời, các bộ phận quân sự cũng tạo ra một sự hợp tác mới giữa lợi ích công và tư nhân. Các công chức thường xuyên đàm phán nhiều vấn đề khác nhau liên quan đến giới kinh doanh và công nghiệp mà không có các phương tiện văn hóa và pháp luật cần thiết. Do vậy, họ bị yếu đi so với giới công nghiệp, vốn đã tạo dựng được tổ chức và cố gắng chiếm lấy mọi khả năng sử dụng nguồn lực công cho bản thân.

Dưới chế độ Phát xít

Cho đến khi kết thúc Thế Chiến I, Quốc Hội được sử dụng như một dạng quyền lực tư pháp. Điều đó được thể hiện bằng các cuộc điều tra của Quốc Hội, mang tính quyết định trong nhiều trường hợp, đặc biệt là khi có các vụ bê bối, hay do các vụ tham nhũng dẫn tới.

Dưới đây là một số cuộc điều tra:
1864 – về hiệp hội đường sắt, Societa delle ferrovie Meridionali.
1869 – về nhà máy thuốc lá nhà nước, Regia dei Tabacchi.
1894 – về Banca Romana.
1904 – về Hải Quân, Regia Marina.
1908 – về quân đội, Regie Esercito.
1912 – về việc xây dưng tòa nhà Tư Pháp ở Rome.
1917 – về việc quản lý các lễ kỷ niệm và triển lãm ở Rome, Turin và Palermo.
1920 – hai cuộc điều tra: về chi tiêu chiến tranh, về việc quản lý việc hỗ trợ dân chúng và tái thiết các khu vực được giải phóng,
1921 – về việc tổ chức hành chính nhà nước và các điều kiện về nhân sự.

Các cuộc điều tra của Quốc Hội được hình thành dựa trên cơ sở pháp lý; nhiều trong số chúng tạo ra quyền lực đặc biệt cho ủy ban Quốc Hội. Những quyền lực này mang tính tư pháp liên quan tới thu thập tài liệu và sử dụng nhân chứng. Kể từ sau những năm bảy mươi, nhiều cuộc điều tra hành chính đã được tạo ra, như là công cụ để điều tra hành chính công và tham nhũng. Tầng lớp thượng lưu chính trị đặc biệt chú ý tới tham nhũng và một trong số các cuộc điều tra này – liên quan tới việc xây dưng tòa nhà Tư Pháp ở Rome – một số nghị sĩ đã bị đưa ra tòa.

Quyết định ban đầu của chính phủ Mussolini là chấm dứt cuộc điều tra của ủy ban, vốn đảm nhiệm vệc phân tích chi tiêu nhà nước trong Thế Chiến I. Ủy ban bị buộc phải trình bày báo cáo chung cuộc, làm rõ các hoạt động bất phợp pháp của nhiều hãng để nhận được các đặt hàng của chính quyền. Công việc bị ngừng lại trước khi chạm tới một số hãng đứng đầu trong công nghiệp Italy. Ủy ban điều tra đã tập trung sự chú ý vào mối quan hệ giữa chính quyền, đặc biệt là giới quân sự, với các hãng tư nhân. Hoàn cảnh có thể làm suy yếu sự ủng hộ, như giới kinh doanh đã thể hiện, thuận lợi cho chính quyền Mussolini.

Cả thời kỳ Tự Do cũng như Cộng Hòa của Italy, sự tồn tại của phe đối lập chính trị về mặt lý thuyết đóng vai trò như là sự kiểm soát đối với tham nhũng nói riêng và việc sử dụng nguồn lực công nói chung. Trên thức tế, mức độ kiểm soát rất khác biệt so với lý thuyết nhưng rõ ràng là sự tồn tại của hệ thống chính trị có sự xuất hiện của nhiều nhóm có thể kiểm soát tham nhũng. Với chế độ Phát xít thì không có phe đối lập hợp pháp nào có thể kiểm soát công việc hành chính công, trong giai đoạn mà đặc trưng là sự tăng trưởng của cả nhân sự cũng như các bộ phận và hoạt động. Sự xem xét tương tự về sự tồn tại của tòa án độc lập – vốn cần có một khuôn khổ pháp lý phù hơn, cũng có thể nhắc đến.

Chế độ Phát xít kiểm soát chặt chẽ tư pháp, trong khi Hiến Pháp năm 1948 tạo thành nền tảng cho sự độc lập của tư pháp. Điều này có nghĩa là “khả năng sử dụng tư pháp chống lại hiện tượng tham nhũng một cách hiệu quả tương ứng với mức độ độc lập của quan tòa và đặc biệt là cơ quan điều tra.” Điều đó cũng có nghĩa là “bên cạnh việc tạo ra các công cụ phi tư pháp khả thi để ngăn chặn hiện tượng, mối quan tâm hàng đầu phải là duy trì sự độc lập của quan tòa và đặc biệt là cơ quan điều tra, cơ quan nói riêng, có thể đảm bảo sự tự do hành động của họ trong việc chống lại mọi loại tội phạm.” [8]

Dưới chế độ Phát xít, tham nhũng luôn được che dấu. Mussolini cố gắng tạo ra sự đồng thuận, đồng thời cho thấy hiệu quả của nhà nước độc tài. Ông ta cố gắng tạo ra hành chính công khác với hình mẫu của Weber và tích cực ủng hộ các mục tiêu của chế độ. Hệ quả của tình hình này là không có cuộc điều tra hành chính nào trong giai đoạn đó, đồng thời cũng có thể thu đươc số phán đoán hữu ích về cách thức che dấu một vụ bê bối vào đầu những năm ba mươi.

Tướng Carlo Cavallero rời khỏi quân đội sau khi kết thúc Thế Chiến I và trở thành người quản lý hãng Pirelli ở Milano. Vào năm 1925, ông được Mussolini bổ nhiệm làm thứ trưởng Bộ Chiến Tranh. Sau đó, ông trở thành thượng nghị sĩ và vào năm 1928 ông quay trở lại hoạt động dân sự, trong vai trò chủ tịch của hãng Ansaldo. Ông bị buộc phải từ chức vì vụ bê bối liên quan đến vật liệu mà hãng Ansaldo cung cấp cho hải quân Italy. Mussolini đã làm ngơ vụ bê bối có thể chạm tới tầng lớp thống trị về chính trị, quân sự và kinh tế của Italy, vụ này liên quan đến cả gia đinh Ciano. Vụ bê bối không tạo ra bất cứ hậu quả nào, chỉ có một kỹ sư bị kết án. Cavallero trở lại quân đội vào năm 1938 và trở thành tham mưu trưởng – đứng đầu Stato Maggiore Generate từ năm 1940 đến 1943.

Dưới chế độ Phát xít, điều gây tranh cãi là hậu quả của chiến tranh và/hay sự phá hủy của thế giới văn hóa, đạo đức mà chiến tranh tạo ra đã gây ra tham nhũng, sự suy giảm nói chung của đạo đức, vốn là cơ sở của hành chính công trong thời kỳ Tự Do đã xuất hiện. Đặc tính của hành chính Italy, dựa trên trật tự và đẳng cấp, là phù hợp với mục tiêu của chế độ Phát xít và lý tưởng về xã hội mà theo đó công dân không có sự độc lập thật sự. Đảng Phát xít can thiệp trực tiếp vào các quyết định công ở mọi cấp và áp dụng một văn hóa mới cũng như thái độ mới mà giới hành chính không phản đối.

Với chế độ Phát xít, lần đầu tiên trong lịch sử Italy, một đảng là trung tâm của hệ thống chính trị - tầng lớp thượng lưu Tự Do cai trị không cần có đảng phái – và khôi phục mối quan hệ gần gũi với nhà nước: Partito nazionale fascista cố gắng mở rộng sự ủng hộ của quần chúng đối với chế độ Phát xít. Đảng kiểm soát những bộ phận khác nhau của bộ máy nhà nước, mặc dù mục đích chỉ đạt được ở nhiều cấp độ khác nhau. Điều đáng chú ý hơn theo quan điểm của chúng tôi là một số nhóm kinh tế và tài chính quan trọng nhất có khả năng thực thi các chức năng công theo một cách trực tiếp hơn. Lãnh đạo chính trị trực tiếp tham gia ban điều hành của các công ty quan trọng nhất, trong khi Confidustria – tổ chức tư nhân của các nhà công nghiệp Italy – chiếm lấy các chức năng công cộng. Ở cấp địa phương, thị trưởng, được bầu chọn trước chế độ Phát xít, bị thay thế bằng podesta do đảng kiểm soát.

Một số thay đổi đó – đặc biệt là sự hiện diện của lợi ích tư nhân trong hành chính công – không phải là đặc trưng của riêng Italy, nhưng ở Italy thì chúng phát triển trong hoàn cảnh của chế độ độc tài chính trị và khiến cho chúng có một đặc tính độc nhất. Trong hoạt động của Confindustria, khó có thể phân biệt được ranh giới giữa lợi ích công và tư. Những mối quan hệ mới giữa lợi ích tư nhân và chính quyền nhà nước cũng giống như các nước công nghiệp khác sau cuộc khủng hoảng 1929. Từ sau Thế Chiến II, sự cộng sinh này đã thay đổi, trong khi đó ở Italy thì nó vẫn tiếp tục hoạt động, với quyền lực công đóng vai trò như là công cụ cho các mục đích tư nhân.

Trong khi những lợi ích tư nhân quan trọng nhất có thể tương tác với quyền lực công thì đồng thời sự tự cấp tự túc và lập kế hoạch kinh tế là cơ sở cho sự phát triển của một nhóm công chức kỹ thuật mới. Họ hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác nhau, từ các tổ chức công tới các bộ ngành kinh tế, xử lý các vấn đề công nghiệp, thương mại và tiền tệ. Sự can thiệp của nhà nước đã phát triển lĩnh vực kinh tế công hơn tất cả các nước phương Tây khác: vào năm 1939, IRI – Istituto per la ricostruzione industrial – nắm giữ 44% cổ phần của Italy. Ở Italy, sự ra đời của nhà nước kinh doanh là vào thời Phát xít và điều này có một số tính chất khác biệt. Điều đó là kỳ lạ trên góc độ mối quan hệ của nó với công nghiệp tư nhân và khả năng của hệ thống chính trị trong việc kiểm soát hoạt động của các cơ quan công quyền mới. Do đó, ở Italy, một hiện tượng chung – sự phát triển của nhà nước kinh doanh – có một sự phát triển đặc biệt và đặc tính đặc biệt bởi vì nó đã phát triển trong hoàn cảnh của chế độ độc tài. Một số đặc điểm, như chúng ta đã thấy, vẫn tiếp tục tồn tại sau khi Thế Chiến II kết thúc.

Các nhà quản lý thường chuyển từ các vị trí công sang vị trí tư. Giới kinh doanh và quản lý nhà nước không phải là các lĩnh vực tách biệt, được thể hiện trong một ví dụ điển hình: Felice Guarneri, người đã làm việc ở Confindustria và Assonime, vào khoảng thời gian 1936-1939 làm bộ trưởng thương mại quốc tế và tiền tệ, sau này quay trở lại các vị trí tư nhân. Bản thân Mussolini cũng trao quyền lực lớn cho các nhóm công nghiệp để nhận được sự ủng hộ của họ trong cải cách kinh tế vào nửa cuối của những năm 1930. Một sự cộng sinh được xác nhận trong thời kỳ Tái Thiết, khi mà đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo, đảng nắm quyền cho đến năm 1992, xây dựng quyền lực dựa trên sự nắm giữ kinh tế công và quản lý nhà nước [10].

Tham nhũng, trên khía cạnh này là có khả năng, hàm chứa trong cấu trúc quan hệ công-tư. Hay nói cách khác, giới kinh doanh đã luôn luôn gắn liền với hoạt động nhà nước – đây là tính chất được phục hồi của “những kẻ đến muộn” trong công nghiệp hóa, nhưng với chế độ Phát xít, nó đã tạo ra khuynh hướng mới. Các doanh nghiệp đã phát triển nhanh nhất là những doanh nghiệp có khả năng gia tăng vị thế của họ trên thị trường và đồng thời sử dụng mọi cơ hội do nhà nước cung cấp. Trên góc độ này, doanh nghiệp phải luôn luôn cố gắng thiết lập mối quan hệ hữu ích với một số bộ phận hành chính công và điều này tạo ra cơ sở cho hiện tượng tham nhũng. Kể từ chế độ Phát xít, hành chính công đã luôn có một số cách để tự bảo vệ trước các đòi hỏi tư nhân được sự ủng hộ của sức mạnh chính trị.

Nước Cộng Hòa

Tình hình chính trị và thể chế mới tiếp tục mang đặc trưng đã nêu, sự kiểm soát đối với mối quan hệ giữa lợi ích tư nhân và hành chính công là yếu và mô hình cũ vẫn tồn tại. Sau năm 1945, đảng nắm quyền đã không tạo ra không gian cho sự kiểm soát thực tế đối với hoạt động hành chính của họ [11]. Do đó, các cơ quan công quyền đã tiếp tục duy trì sự độc lập để đóng vai trò như là công cụ hữu ích của tầng lớp thượng lưu chính trị. Cấu trúc và hoạt động của viện kiểm toán tối cao nhà nước, Corte de conti, là một ví dụ điển hình. Viện không có quyền lực thực tế và điều này khiến cho chính quyền Italy có khả năng tránh được mọi sự kiểm soát thực tế. Hiến Pháp Cộng Hòa trao sự độc lập hoàn toàn cho viện, nhưng một đạo luật năm 1934 đã tiếp tục tạo ra quyền lực can thiệp lớn cho chính quyền bằng cách bổ nhiệm và thăng chức cho các thành viên của viện. Quyền lực lớn cũng được cung cấp cho thổng thống, trong khi các thẩm phán có thể bị bãi chức, điều này xung đột với điều 100 của Hiến Pháp. Theo cách này, viện đã được sử dụng như là công cụ của chính quyền và không thể thực sự kiểm soát được hoạt động của nó [12].

Vào năm 1923-24, hệ thống kế toán truyền thống được phê chuẩn. Đồng thời, chế độ Phát xít cũng tạo ra các cơ quan công quyền mới độc lập với tổ chức cấp bộ, nhưng không tạo ra hệ thống kiểm soát, hữu dụng để kiểm soát hoạt động của chúng. Điều này là bởi vì các cơ quan công quyền mới được coi là công cụ chính sách của Phát xít. Chúng cần phải hoạt động theo mối liên hệ chặt chẽ với các quyết định của chính quyền. Người đứng đầu các cơ quan công quyền khác nhau này được Mussolini trực tiếp bổ nhiệm, do đó thực sự quyền lực khi sử dụng các tài nguyên công. Cùng lúc đó, công chức phải trung thành, không phải với nhà nước mà với chế độ Phát xít, một điều kiện được củng cố bằng nhiều sự kiện trong những năm 1930, do đó hành động của họ có thể đánh giá về mặt chính trị.

Sau Thế Chiến II, hệ thống này vẫn tiếp tục tồn tại. Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo coi hành chính công là một trong những công cụ chính để củng cố vị thế của họ. Tham nhũng tiếp tục phát triển bởi vì phần lớn hoạt động của cơ quan công quyền không được đặt dưới bất kỳ sự kiểm soát nào của bên ngoài. Mục tiêu của chúng trở thành củng cố sự đồng thuận, sử dụng tài nguyên công cho các mục tiêu của đảng, do vậy mọi sự kiểm soát tự bên ngoài đều được coi là sự can thiệp không được mong muốn. Mặt khác, các công chức lại một lần nữa được đòi hỏi trung thành với đảng thay vì nhà nước. Trong hoàn cảnh Chiến Tranh Lạnh cùng với sự tồn tại của một phe đối lập cộng sản và xã hội chủ nghĩa mạnh mẽ, đảng cầm quyền đã phát triển chế độ gia đình trị và công chức phải ủng hộ chính quyền cũng như không chống lại việc nhà nước hướng tới các lợi ích tư nhân.

Hiện tượng này có thể thấy rõ trong việc hình thành và phát triển nhiều cơ quan công quyền. Một trong những cơ quan quan trọng nhất là Cassa per il Mezzogiorno, được thành lập vào năm 1950 với quyền can thiếp lớn cũng như nguồn lực lớn, tại các khu vực kém phát triển của Italy. Cassa per il Mezzogiorno quản lý ngân sách lớn nhưng ngay từ ban đầu, Tòa Án Kiểm Toán Italy, Corte dei conti, đã không thể kiểm soát hoạt động của họ. Các vụ bê bối và tranh cãi về hoạt động của cơ quan quan trọng nhất, tạo ra sự can thiệp trực tiếp vào kinh tế Italy, là đương nhiên do thiếu sự kiểm soát đối với các hoạt động của nó. Cassa per il Mezzogiorno cũng không phải là ngoại lệ: hai cơ quan công quyền lớn khác là IRI và ENI cũng thường xuyền bác bỏ sự kiểm soát tương tự cho đến những năm 1960, trong khi các tổ chức tiết kiệm công – như INPS là tổ chức quan trọng nhất – tiếp tục hoạt động dựa trên các nghị định của thời Phát xít. Vào năm 1988, sau khi việc biển thủ ngân quỹ bị phát hiện, đa số nghị viện đã bác bỏ việc thành lập ủy ban điều tra. Chức năng kiểm soát của Quốc Hội đã suy giảm mạnh, cụ thể là về việc sử dụng nguồn lực công. Lợi thế của hệ thống này là tạo ra cơ hội sử dụng các cơ quan công quyền cho các mục đích của đảng. Trên góc độ này, tham nhũng không phải là hiện tượng khó hiểu, mà là hệ quả của cấu trúc trong một số bộ phận của hành chính công. Những cơ quan không được coi là định hướng hay kiểm soát sự phát triển kinh tế mà là công cụ hữu ích để mở rộng sự đồng thuận cho đảng cầm quyền. Vào năm 1981, đa số trong một ủy ban Quốc Hội đã quyết định khởi sự một vụ kiện chống lại hai nghị sĩ Quốc Hội. Họ là các bí thư thường trực của đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo (DC) và đảng Dân Chủ Xã Hội Italy, các đảng đang tham gia chính quyền, họ bị cáo buộc nhận các quỹ phi pháp từ ITALCASSE. Họ tuyên bố được bảo vệ bằng quyền miễn tố của nghị sĩ, bởi vì hoạt động của họ không phải là “tư nhân” mà là chính trị. Một mệnh đề - giá trị công của hoạt động gây quỹ phi pháp cho các đảng phái chính trị - được sử dụng nhiều lần trong “Tangentopoli”, tức là trong các vụ bê bối vào những năm 1990. Những người bảo vệ ý tưởng này cho rằng chức năng của đảng phái chính trị là chức năng công cộng, do đó không bị truy tố hình sự. Không khó để nhận thấy một số quan hệ trực tiếp với vai trò của đảng Phát xít. Do đó, tham nhũng không phải là hiện tượng khó hiểu, bởi vì tầng lớp thượng lưu chính trị không cố gắng tổ chức lĩnh vực công nhằm tránh sự lãng phí tài nguyên công kiểu đó và cũng không có sáng kiến chính trị nào thành công trong việc ngăn chặn hay làm giảm tham nhũng. Trên góc độ đó, tham nhũng là một khía cạnh của việc sử dụng tài nguyên công cho việc gia tăng sự đồng thuận với một chính đảng cụ thể. Nói chung, sự phát triển của tham nhũng cũng gắn liền với sự tồn tại của một phe đối lập chính trị ít nhiều có thể kiểm soát hoạt động của đảng cầm quyền. Cuối những năm 1970, đa số mới đã tạo ra quan hệ mới giữa hai đảng quan trọng nhất trong chính quyền, DC và đảng Xã Hội Italy (PSI), cũng như các nhóm kinh tế tư nhân và công cộng lớn. Việc quản lý các quỹ được gắn với nhiều luật chuyên biệt cho thấy mức độ cao của tham nhũng, vốn là hệ quả của thỏa thuận chính trị mới. Theo nhiều học giả, điểm chuyển biến là năm 1979. Sau năm đó, tham nhũng đạt tới cấp độ mới, mà “Chiến Dịch Bàn Tay Sạch” đã cố gắng chống lại từ năm 1992.

Điều quan trọng cần phải nhắc tới là cho đến ngày 5/12/1969, đạo luật số 932 – cảnh sát có nhiệm vụ đệ trình mọi tội hình sự cho công tố - Procuratore della Repubblica – và tiến hành điều tra sơ bộ. Điều này bảo vệ vị thế của các lãnh đạo chính trị, bởi vì Bộ Nội Vụ kiểm soát những cuộc điều tra liên quan đến họ. Chỉ từ sau năm 1969, luật pháp mới cho phép công tố thực hiện các cuộc điều tra, do vậy trở thành chìa khóa chủ chốt để khám phá tham nhũng.

Từ quan điểm văn hóa, vai trò của hai chính đảng quan trọng nhất cũng cần được nghiên cứu. DC và đảng Cộng Sản Italy, PCI, đều là các đảng “mục đích luận”, viện dẫn truyền thống văn hóa, nhà thờ Catholic và chủ nghĩa Marx, không chú ý nhiều đến các vấn đề của Nhà Nước Hiện Đại hay sự quản lý nhà nước hiện đại [13]. Bên cạnh đó, các chính khách của các đảng phái mới đã không tham gia chính quyền dưới thới Phát xít, do vậy không có kinh nghiệm trực tiếp trong lĩnh vực này. Trong khi PCI phát triển kinh nghiệm quản lý ở cấp địa phương, DC nắm quyền ở Italy dựa trên cơ sở cấu trúc hành chính được thừa hưởng từ chế độ Phát xít.


Một số xem xét tiếp theo

Thế Chiến I đã khiến hiện tượng tham nhũng trỗi dậy, một phần được các lãnh đạo chính trị và quân sự chấp nhận như là cái giá để gia tăng sản xuất công nghiệp nhanh nhất có thể. Theo quan điểm khác, chúng tôi có thể nói rằng vào Thế Chiến I thì nhà nước Italy đã chấp nhận một mức độ tham nhũng và lãng phí nguồn lực công nhất định, để hoàn thành sự hợp tác của công nghiệp Italy. Điều này hàm chứa hai mục tiêu: để thắng trong chiến tranh – có nghĩa là bảo vệ sự tồn tại của bản thân nhà nước – và mở rộng cấu trúc kinh tế của quốc gia – một mục tiêu mà tầng lớp thượng lưu tự do đã theo đuổi từ năm 1861.

Mặt khác, khi nói tới sự tham nhũng sau năm 1945, điều quan trọng là trình bày cách nó tạo ra sự lãng phí nguồn lực công, cả bởi vì nó hàm chứa chi phí cao hơn cho mọi sản phẩm hay dịch vụ mà nhà nước chi trả cũng như bởi vì nó đẩy đầu tư công từ các mục tiêu công ích sang các lĩnh vực có khả năng nhận được hối lộ lớn hơn. Theo cách này thì tham nhũng không còn là phụ phẩm hữu ích mà chỉ có tác dụng hỗ trợ cho một số đảng phái chính trị. Theo một số nhà quan sát, cuộc chiến chống lại tham nhũng, bắt đầu vào năm 1992, cũng là thời kỳ khủng hoảng tài chính của nhà nước Italy – phải tôn trọng các quy định của Châu Âu, với hệ quả là việc kiểm soát nguồn lực công chặt chẽ hơn. Trong một nhà nước, luôn mang đặc trưng là sự kiểm soát công yếu, các điều kiện của Liên Minh Châu Âu có thể có những tác động quan trọng trong cuộc chiến chống lại tham nhũng [14].

Một số học giả chỉ ra rằng vào Thế Chiến I, cơ sở của sự tham nhũng là sắc lệnh số 770 ngày 4/8/1914, vốn củng cố sự độc lập truyền thống của giới quân sự. Sắc lệnh này – sau đó được phê chuẩn cho toàn bộ cuộc chiến tranh – đã đem lại cho họ khả năng hoạt động mà không cần tuân thủ các quy định chung về kế toán của nhà nước, “khi liên quan đến các sự kiện quốc tế”. Những sắc lệnh khác, trước Thế Chiến I, đã đề cập tới khả năng thực thi quyền lực lớn của chính quyền trong các sự kiện bất thường, đặc biệt là chiến tranh. Các sự kiện khác – ví dụ động đất – cũng được viện dẫn những quyết định này. Trong mọi hoàn cảnh, các sắc lệnh này được coi là hệ quả của tình hình khủng hoảng và được chấp nhận với sự bảo lưu lớn, ngay cả trong nội bộ tầng lớp thượng lưu cai trị. Từ góc độ của việc lập kế hoạch sử dụng  nguồn lực công cũng như từ góc độ kiểm soát và đạo đức công, gần 80 năm sau, vào năm 1992, Quốc Hội Italy đã quyết định xóa bỏ mọi sự kiểm soát công đối với các sự kiện “bất thường và khẩn cấp”. Chúng là phát kiến của Colombo – nhưng chúng đã được chờ đợi từ năm 1492 [15].
  
Paolo Ferrari, giảng viên môn lịch sử hiện đại tại đại học Pavia và tổng biên tập của tạp chí “Italia contemporanea”, Italy.

Chú thích:

1. We do not consider, in this context, corruption in relation with organised criminality. Where (and when) organisations as mafia or 'ndrangheta exercise a great power in civil society, their possibility of influencing public administration needs a peculiar attention. The use of public resources at local level has always been one of the most important aspects of the activity of these criminal organisations. Massimo Vari, Social Defence, Corruption, Protection of the Public Administration and Independence of the Judicial Power: Constitutional Law and Public Law Measures, in International Society of Social Defence-Societe Internationale de Defence Sociale, Responding to Corruption. Social Defence, Corruption, and the Protection of Public Administration and the Independence of Justice, edited by Paolo Bernasconi, Napoli, Istituto Italiano per gli Studi Filosofici, 2000, pp. 278-282. It is not possible to quote a very large literature on corruption. A fundamental recent study is Guido Melis (ed.), Etica e pubblica amministrazione. Per una storia della corruzione nell'Italia contemporanea, Napoli, Cuen, 1999. See also Vito Marino Caferra, // sistema della corruzione. Le ragioni, i soggetti, I luoghi, Roma-Bari, Laterza, 1992; Franco Cazzola, Delia corruzione. Fisiologia e patologia di un sistema politico, Bologna, II Mulino, 1988; Luciano Barca, Sandro Trento (eds.), L'economia della corruzione, Roma-Bari, Laterza, 1994 (in particular the essays by Stefano
Rodota, Su alcune ragioni istituzionali della corruzione, and L. Barca, La patologia degli anni ottanta).

2. This is one of the main themes studied in Fabio Rugge (ed.), L'administration et la gestion de la crise: le cas de la guerre-Administration and Crisis Management: the Case of Wartime, Bruxelles, IISA-IIAS, 2000.

3. Franco Bonelli, "II capitalismo italiano. Linee generali d'interpretazione", in Storia d'ltalia. Annali I. Dal feudalesimo al capitalismo, Torino, Einaudi, 1978; Marcello De Cecco, Antonio Pedone (a cura di), "Le istituzioni dell'economia", in Raffaele Romanelli (a cura di), Storia dello Stato italiano, Roma, Donzelli, 1995.

4. Enrico Gustapane, Per una storia della corruzione nell'Italia contemporanea, in G. Melis (ed.), Etica epubblica amministrazione, op. cit.

5. Also the opposite reaction is of course possible, i.e. to destroy the institutional means and procedures which react to the presence of corruption. Liberal elite used institutional means to reduce corruption and in that way tried to increase the efficiency of public action in a vital point of the economic system.

6. Commissione di inchiesta sulla R. Marina, Roma, 1906, vol. II, p. 157. See also Paolo Ferrari, "Amministrazioni statali e Industrie nell'eta giolittiana. Le commesse pubbliche tra riarmo e crisi economica", in Italia contemporanea, 1990, n. 180.

7. Fabio Rugge, "Institutional instruments against corruption: the Italian case", in IISA-IIASTodaie, La corruption politique et administrative-Political and Administrative Corruption, Bruxelles-Ankara, 1999, p. 150.

8. Carlo Federico Grosso, "Independence of the Judiciary and Judicial Repression of the Phenomenon of Corruption", in International Society of Social Defence-Societe Internationale de Defense Sociale, Responding to Corruption, op. cit., p. 288. Grosso adds that "it is also necessary to provide the judiciary with appropriate resources and structures for realising the objective of an effective fight against crime", p. 291; M. Vari, Social Defence, Corruption, Protection of the Public Administration and Independence of the Judicial Power, op. cit.; F. Rugge, Institutional instruments against corruption: the Italian case, op. cit.

9. G. Melis, Storia.dell'amministrazione italiana 1861-1993, Bologna, II Mulino, 1996, and G. Melis, L 'amministrazione, in R. Romanelli (ed.), Storia dello Stato italiano dall'Unita a oggi, op. cit.

10. Marco Maraffi, Politica ed economia. Le vicende dell'impresa pubblica dagli anni trenta agli anni cinquanta, Bologna, II Mulino, 1990; Liborio Mattina, Gli industriali e la democrazia. La Confmdustria nella fondazione dell'Italia repubblicana, Bologna, II Muliono, 1991; Massimo Legnani, L'ltalia dalfascismo alia repubblica. Sistema dipotere e alleanze sociali, Roma, Carocci, 2000.

11. Domenico Preti, "Una modernizzazione a rischio. II silenzio dei controlli nell'Italia repubblicana", Italia contemporanea, 1991, n. 183.

12. In recent times, however, the Italian Corte dei Conti (State Audit Court) has acquired a greater function: see F. Rugge, Institutional instruments against corruption: the Italian case, cit, p. 152, and M. Van, Social Defence, Corruption, Protection of the Public Administration and Independence of the Judicial Power, op. cit., p. 174.

13. L. Barca, Lapatologia degli anni ottanta, op. cit, pp. 74-75.

14. See, for example, Yolanda Gallego-Casilda Grau, "The European Union's Initiatives in the Fight against Corruption", in Unicri-Ispac-Centro Nazionale di Prevenzione e Difesa Sociale, Responding to the Challenges of Corruption, edited by Anna Alvazzi del Frate, Giovanni Pasqua, Roma-Milano, 2000.

15. L. Barca, Lapatologia degli anni ottanta, op. cit.

Thursday, July 23, 2015

Maidan 2.0 ở Kiev?

Sau cuộc đảo chính do phương Tây giật dây vào đầu năm 2014, Ukraina đã rơi vào chia cắt và hỗn loạn. Các giá trị dân chủ và tự do phương tây đã tự lột bỏ mặt nạ, trở thành cơn ác mộng kinh khủng của người dân Ukraina với chiến tranh, thất nghiệp, đói nghèo và kiệt quệ. Những lực lượng đã từng bắt tay nhau lật đổ tổng thống hợp pháp trước kia giờ lại quay sang tìm cách thanh toán lẫn nhau để tranh giành quyền lực. Máu có thể sẽ lại một lần nữa đổ ở quảng trường Maidan, biểu tượng của tự do giờ đã trở thành biểu tượng của thất bại bi thảm. 

Dưới đây là bản dịch bài viết "Maidan 2.0 in Kiev?" của tác giả Stephen Lendman tóm lược về nguy cơ đảo chính lần hai ở trong vòng 18 tháng ở Ukraina. 

Maidan 2.0 ở Kiev? 

Thường dân Ukraina có đủ lý do để phản đối sự cai trị phát xít còn tồi tệ hơn thứ họ đã lật đổ trước đó – một con quái vật phát xít phá hoại chịu trách nhiệm về thất nghiệp hàng loạt, gia tăng nghèo khổ, lạm phát phi mã, sự đàn áp của nhà nước cảnh sát và cuộc chiến không hồi kết với những người dân Donbass muốn những quyền dân chủ căn bản.

Bài Nga, ghét Do Thái, công khai phát xít, tên tội phạm bị Interpol truy nã (vì “công khai kích động các hoạt động khủng bố và cực đoan) – thủ lĩnh của Cánh Hữu – Dmytro Yarosh đã kêu gọi Vệ Binh Quốc Gia Ukraina, quân đội và lực lượng an ninh bất tuân lệnh Kiev để mở đường cho Maidan 2.0. 

Sau khi gọi các quan chức chính quyền là “những kẻ phản bội”, ông ta nói “Hãy ngăn chặn những kẻ phản bội đang nắm giữ chức vụ cao cấp và muốn gây rối loạn tình hình ở hậu phương cũng như … giải tán phong trào tình nguyện.”

Chúng là “những tên kẻ cướp” chỉ muốn làm giàu cho bản thân. “Trong khi chúng ta đổ máu để bảo vệ đất mẹ thì chúng đầu cơ tài sản và làm mọi cách để chiến tranh tiếp diễn càng lâu càng tốt.”

Poroshenko đã ra lệnh cho lực lượng an ninh tước vũ khí của những nhóm vũ trang bất hợp pháp. Người phát ngôn của Cánh Hữu là Artem Skoropadsky trả lời:

“Quyết định của Petro Poroshenko nhằm vào những nhóm vũ trang bất hợp pháp. Chúng tôi không phải là nhóm vũ trang bất hợp pháp.”

“Các nhóm vũ trang bất hợp pháp là những kẻ cướp và chúng tôi là quân đội tình nguyện Ukraina, bảo vệ sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina. Do đó, quyết định này không áp dụng với chúng tôi.”

Nhóm này yêu cầu bộ trưởng Bộ Nội Vụ Arsen Avakov từ chức, một trong những tối hậu thư được đưa ra. Họ kêu gọi biểu tình quy mô lớn ở Maidan để phản đối chính quyền.

Họ lên án “những kẻ lừa đảo và những gã tài phiệt” đang nắm quyền. Vào ngày 21 tháng 7, hàng ngàn người trực thuộc và ủng hộ họ đã tuần hành ở miền trung Ukraina để yêu cầu các quan chức chính quyền từ chức. “Kẻ thù phải chết”, họ hô to.

Yarosh thông báo về một “giai đoạn mới của cách mạng Ukraina. Chúng ta là lực lượng cách mạng có kỷ luật.” Ông ta cũng thông báo về kế hoạch một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm.

Các quan chức địa phương của Cánh Hữu và “các ủy ban cách mạng” khắp đất nước sẽ bắt đầu sắp xếp mọi thứ cho việc thay đổi nội các. 

Yarosh ủng hộ cai trị bằng thiết quân luật. Có thể ông ta nghĩ về thứ gì đó giống như Luật Ủy Quyền của Hitler – đưa ông ta lên làm nhà độc tài, cho phép ông ta ban hành luật không cần sự tham gia của Nghị Viện Đế Chế. 

“Người dân phải thể hiện quan điểm về những gì đang diễn ra trên đất nước”, Yarosh nói. “Chính quyền phải biết rằng nếu người dân không hài lòng với chính quyền thì chính quyền phải cuốn xéo.”

Nếu Kiev từ chối trưng cầu dân ý, các quan chức Cánh Hữu sẽ tự tổ chức. Phóng viên Murad Gazdiev bộ phận quốc tế của kênh Nước Nga Ngày Nay tường thuật từ Ukraina rằng dân thường đã tham gia vào đoàn tuần hành của Yarosh – họ giận dữ về điều kiện sống thê thảm. 

Vào chủ nhật tuần trước, đoàn biểu tình diễu hành chống lại giá cả đắt đỏ, lương thấp, người thất nghiệp, mất trợ cấp và quan chức chính quyền chỉ lo giành quyền lực và làm giàu. Các khẩu hiệu ghi “Cải cách ở đâu?” “Chúng tôi đang chết đói”.

Cách thành viên Cánh Hữu, những người ủng hộ họ và những người Ukraina giận dữ cũng tổ chức biểu tình ở nhiều thành phố khác. Các khảo sát cho thấy quan điểm phản đối chính quyền chiếm đa số.

Chủ tịch ủy ban quan hệ quốc tế của Duma quốc gia (hạ viện Nga) Alexei Pushkov nói người biểu tình “đang thúc đẩy một “cuộc cách mạng” mới ở Kiev và Dmytro Yarosh đã sẵn sàng đề xuất với đồng bào của ông ta một đề cương cho những sự thay đổi mang tính cách mạng ở Ukraina.”

Vài ngày trước đây, người phát ngôn Cánh Hữu Artem Skoropadsky đã tuyên bố rằng Poroshenko sẽ không thể trốn khỏi Ukraina giống như Yanukovych nếu bị mất chức. 

Ông ấy “không thể mong đợi bất cứ thứ gì ngoài việc bị các binh lính Ukraina trẻ của Vệ Binh Quốc Gia xử tử trong một căn hầm tối.”

Hàng ngàn thành viên được vũ trang tốt của Cánh Hữu là một lực lượng đáng kể. Đó là những kẻ quốc gia cực đoan, băng đảng tội phạm phát xít công khai được hình thành trong cuộc biểu tình Maidan mùa thu năm 2013 ở Kiev.

Họ bị cấm ở Nga. Yarosh là kẻ bị truy nã. Việc ông ta và những người ủng hộ có thể lật đổ chính quyền Ukraina lần thứ hai trong vòng chưa đầy 18 tháng hay không vẫn là câu hỏi.

Poroshenko đang phải chiến đấu trên hai mặt trận. Ông ta đã thất bại trước đây ở Donbass – có vẻ như lại một lần nữa chống lại lực lượng ghê ghớm hơn trước kia nếu ông ta kêu gọi một tấn công tổng lực.

Khi bị kích động, các tiểu đoàn được trang bị tốt của Cánh Hữu có thể là dấu chấm hết của ông ta. Cuộc đảo chính tháng giêng năm 2014 của Obama đã khiến mọi chuyện trở nên rắc rối. 

Ông ta đã cưỡi lên lưng hổ. Nhà nước tay sai phát xít công khai mới dường như quá sức đối với ông ta. Tới đây, có thể máu sẽ lại một lần nữa đổ trên những đường phố Kiev. 

Stephen Lendman lives in Chicago. He can be reached at lendmanstephen@sbcglobal.net.

Thursday, December 11, 2014

Mười một lý do khiến tôi xấu hổ khi là một người Mỹ

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Eleven reason's I'm ashamed to be an American" của tác giả Dave Lindendorf. Bài viết thể hiện tâm trạng của một người Mỹ khi chứng kiến những thất bại của đất nước mình.

Mười một lý do khiến tôi xấu hổ khi là người Mỹ

Tôi sẽ nói điều này: Tôi xấu hổ khi là công dân Mỹ. Điều này không dễ dàng, bởi vì sống ở nước ngoài và chứng kiến những chỗ bẩn thỉu trong thời đại của tôi. Tôi biết rằng đất nước này có nhiều điều vĩ đại, nhiều con người vĩ đại dã sống ở đó, nhưng cuối cùng tôi đã đi đến kết luận rằng Hoa Kỳ hiện là một quốc gia ốm yếu và méo mó, tại đó cái xấu vượt xa cái tốt.

Tôi có thể nhớ cảm giác chán ghét lần đầu tiên đối với đất nước của tôi vài lần. Vào lúc 17 tuổi, lần đầu tiên khi tôi nhận ra sự tàn bạo mà Hoa Kỳ đã gây ra đối với những người dân Việt Nam nhân danh tôi – cưỡng hiếp và giết hại, phá hủy các ngôi làng của nông dân, ném bom na-pam xuống trẻ em ở miền Nam, và ném bom rải thảm miền Bắc Việt Nam (bao gồm cả đê điều, trường học và bệnh viện). Sau đó tôi kinh hoàng và nổi loạn khi nhận ra một cách muộn màng rằng Hoa Kỳ đã dồn những người bản địa, người Mỹ gốc Nhật, người Nhật định cư hợp pháp vào các trại tập trung trong thế chiến thứ hai, và chính quyền quốc gia đã đồng lõa với đám phát xít da trắng quỷ quyệt ở California trong việc tước đoạt trang trại, nhà cửa và công việc của những người bị giam giữ đó. 

Mặc dù những tội ác đó rất kinh khủng nhưng không thấm tháp gì so với những thứ mà tôi đang được thấy ở đất nước này.

Hãy để tôi liệt kê một số cách mà đất nước này khiến tôi phát ốm: 

1. Điều đó không chỉ là lần công bố mới nhất bản báo cáo được biên tập triệt để về chương trình cố ý tra tấn của chính quyền Bush/Cheney, khởi sự vào năm 2001 sau sự kiện 11 tháng 9 và kéo dài trong nhiều năm đối với không chỉ nghi phạm khủng bố mà còn cả đối với những người được biết hay có thể là hoàn toàn vô tội. Không có gì được làm hay có vẻ như sẽ được làm để trừng phạt những người cho phép và bảo vệ cho các tội ác chiến tranh cũng như tội ác chống nhân loại. Không chỉ có vậy mà còn nhiều người Mỹ đồng tình với điều đó. Ngay cả truyền thông, như trên NPR, tôi nghe thấy các phóng viên nói rằng một trong số “các câu hỏi” về chương trình tra tấn của chính quyền là nó “có hiệu quả” hay không trong việc thu thập thông tin về hoạt động khủng bố. Hoa Kỳ và các quốc gia còn lại của thế giới đã ký một hiệp định hình sự hóa việc tra tấn sau Thế Chiến thứ II (theo luật pháp quốc tế thì hình phạt có cả tử hình). Đó là sự che giấu hay thất bại trong việc trừng phạt tội ác tra tấn.

2. Cảnh sát ở Hoa Kỳ đã bị quân sự hóa trong cả phương diện vật chất lẫn huấn luyện và tự nhận thức, khiến họ giờ đây trở thành một dạng quân đội xâm lược hơn là “viên chức hòa bình” (một khái niệm lỗi thời mà bạn không còn nghe thấy nữa). Hết lần này đến lần khác chúng ta chứng kiến cảnh sát hung hăng sử dụng vũ lực, trong đó có cả vũ lực chết người, trong các tình huống kêu gọi sự bình tĩnh và hiểu biết. Điều khiến tôi phát ốm nhất là chứng kiến một xe cảnh sát ở Cleverland lao thẳng tới ban công trong một sân chơi, nơi có cậu bé 12 tuổi Tamir Rice đang ngồi một mình, chơi với một khẩu súng đồ chơi. Trong vòng chưa tới hai giây, một cảnh sát bước ra khỏi xe và bắn cậu bé tử thương vào bụng. Hoàn toàn không có lời kêu gọi nào trong vụ xử tử này. Không có ai quanh đó bị cậu bé đe dọa. Cảnh sát phải giữ khoảng cách an toàn, đánh giá tình hình, sau đó kêu gọi Rice rời khỏi ban công và buông súng, nếu cậu bé không làm theo, họ phải chờ tăng cường lực lượng, trong đó có một chuyên gia đàm phán. Trái lại, họ chỉ lao thẳng xe tới đó như trong tình huống giải cứu con tin và hạ gục cậu bé. Sau đó họ không làm gì để giúp cậu bé. Ugh! Không có làn sóng phẫn nộ phổ biến nào về vụ sát hại tàn bạo của cảnh sát. 

Cũng không có sự phẫn nộ phổ biến với những cảnh sát can dự vào vụ giết hại Micheal Brown ở Ferguson, MO hay vụ siết cổ chết Eric Garner một cách hoàn toàn vô lý ở Staten Island, New York, cả hai kẻ giết người mặc đồng phục đều được miễn tố bởi các hội thẩm đoàn công tố hoàn toàn bị thao túng và bị lừa dối. Trái lại, chúng ta nghe thấy những người da trắng được phỏng vấn trên chương trình truyền hình nói rằng cảnh sát đã làm đúng.

3. Nhưng đó mới chỉ là một phần thôi. Tôi thấy căm phẫn khi tổng thống của chúng ta là một người không có đủ can đảm để lên án những tội ác đó và tuyên bố rằng ông ta sẽ truy tố những ai ra lệnh cho quân đội và CIA sử dụng tra tấn đối với những người bị bắt trong cái được gọi là Chiến Tranh Chống Khủng Bố. Tổng thống Obama phải yêu cầu Bộ Tư Pháp tích cực truy tố những cảnh sát giết hại thường dân không vũ trang nếu các công tố viên địa phương không làm điều đó, và ông ta phải ra lệnh truy tố bất cứ ai ra lệnh, ủy quyền, tạo điều kiện hay bao che cho việc tra tấn của các nhân viên chính quyền. (Không có gì ngạc nhiên khi tổng thống Obama được chuẩn đoán trào ngược dịch vị dạ dày: ít nhất đường ống dinh dưỡng của con người cũng có lương tâm!)

4. Tôi cảm thấy căm phẫn về tình hình tù tội. Theo như tổ chức Sáng Kiến Chính Sách Nhà Tù, Hoa Kỳ vào lúc này có khoảng 2,4 triệu tù nhân ( chỉ có 2/3 trong số họ bị kết án, với phần lớn trong số còn lại là bị tạm giam chờ xét xử vì họ không thể nộp số tiền bảo lãnh do hệ thống tòa án tha hóa của chúng ta đặt ra). Không có gì ngạc nhiên: Từ cuối những năm 80 đến năm 2008, số lượng các đạo luật liên bang có hình phạt tù đã tăng từ 3000 lên 4450, và chúng tiếp tục gia tăng khi những kẻ bất tài trong Quốc Hội tiếp tục thông qua những đạo luật tạo ra “tội hình sự” nhiều hơn để trừng phạt. Đó là chưa kể tới chính quyền bang và địa phương, điều đó giải thích tại sao Hoa Kỳ chỉ chiếm 5% dân số thế giới nhưng có số tù nhân chiếm tới 25% số tù nhân trên toàn thế giới. Chính bản thân tôi cũng bị đe dọa bỏ tù cách đây chưa lâu bởi một gã cảnh sát côn đồ ở một thị trấn ngoại ô vì xin đi nhờ xe – một hành vi mà hiện nay là hợp pháp ở bang của tôi, và điều đó nếu không phù hợp thì cũng giống hầu hết các vi phạm hành chính như đỗ xe không vé, không đáng bị bắt giữ. Không vấn đề - nếu tôi không khuất phục, gã đầu gấu trong bộ đồng phục với vũ khí cầm tay sẽ còng tay tôi, và vu cáo về những thứ như: bắt giữ vì chống cự, quấy rối trật tự hay những chuyện vớ vẩn tương tự. Chúng ta sống trong một xã hội bị ám ảnh bởi sự trừng phạt, bị giám sát bởi những cảnh sát dường như thích thú với việc cai trị công chúng.

5. Tôi phát ốm khi chứng kiến hết cộng đồng này đến cộng đồng khác thông qua những luật lệ cấm cho người vô gia cư ăn. Tại một quốc gia trong giai đoạn hậu Đại Suy Thoái, chúng ta vẫn đang có tỷ lệ thất nghiệp thực tế và lao động không đầy đủ từ 18 đến 20% tùy thuộc vào cách tính. 

6.Tôi xấu hổ và tức giận khi Wall Street về bản chất là một hiện trường tội ác khổng lồ - nơi mà hàng ngàn tỷ dollar của cải trong suốt thập kỷ qua đã bị rút khỏi túi của những thường dân Mỹ và đặt vào tay của 1% hay 5% giàu nhất, biến đất nước của chúng ta thành xã hội bất công nhất trong số 34 quốc gia phát triển của thế giới. Không có chủ ngân hàng nào trong danh sách hàng đầu của quốc gia về cái được gọi là ngân-hàng-quá-lớn-để-sụp-đổ bị buộc tội, càng ít hơn nữa bị truy tố hay bỏ tù vì trò lừa đảo lớn nhất mà thế giới từng được thấy. Trong một số dịp hiếm hoi khi Bộ Tư Pháp đã theo đuổi những tội phạm ngân hàng đó, họ đạt được “các thỏa thuận” dưới dạng những khoản phạt vô nghĩa, và chưa từng yêu cầu những giám đốc lừa đảo đó rời bỏ vị trí quyền lực béo bở, hay phải thừa nhận là họ làm sai, theo các điều khoản của thỏa thuận. Trên thực tế, những gã lừa đảo trong bộ complete vải sọc nhỏ đó thay vì bị bỏ tù thì lại thường xuyên được mời làm khách ở Nhà Trắng và Quốc Hội, được kêu gọi đóng góp “sự thông thái” của họ cho chính sách của chính quyền, sau đó họ sẽ thưởng công cho các chủ nhà hào hiệp của họ với những bổng lộc và “quyên góp chiến dịch” không khác gì hối lộ. 

7. Tôi phẫn nộ và xấu hổ khi đất nước của tôi tiêu tốn hơn một nghìn tỷ dollar mỗi năm cho quân đội và quân nhân tại 800 căn cứ trên toàn thế giới. Điều này diễn ra trong khi 50 triệu người Mỹ được đưa tin là “mất an ninh lương thực” – hay nói cách khác là 50 triệu người, nhiều trong số đó là trẻ em, đang bị đói tại những thời điểm nhất định trong năm – và khi những chương trình hỗ trợ như Phiếu Lương Thực và Trợ Cấp Thất Nghiệp đang bị cắt giảm để tiết kiệm tiền. Tồi tệ hơn, không có scandal quốc gia nào về việc đó. Trên thực tế, nhiều người Mỹ, dĩ nhiên là đa số, nghĩ rằng tất cả các khoản chi tiêu cho quân đội là tốt, bởi vì nó dường như là “bảo vệ an toàn cho chúng ta” và có thể “tạo công ăn việc làm.” Sự thật cay đắng là ngày nay, Hoa Kỳ, đất nước của tôi là quốc gia khủng bố lớn nhất thế giới – dựa trên thành tích không có đối thủ về việc xâm chiếm bất hợp pháp các đất nước khác, thực hiện giết chóc bằng máy bay không người lái ngoài biên giới, bắt cóc, tra tấn và thủ tiêu người dân, tài trợ và viện trợ cho các cuộc lật đổ chính quyền nước ngoài, thường là các chính quyền được bầu cử dân chủ.

8. Tôi phát ốm trong tâm can bởi vì một nửa thế kỷ sau khi những người Tuần Hành Vì Tự Do và những người dân địa phương can đảm đã chiến thắng và chấm dứt đạo luật Jim Crow ở miền Nam đã cấm người da đen đi bầu cử suốt nhiều thế hệ, ít nhất một nửa đất nước và không chỉ ở miền nam mà là mọi nơi, giờ đây lại đang tìm cách ngăn cản người da đen, người nói tiếng Tây Ban Nha và những người có màu da khác đi bầu cử. Hệ thống tòa án tha hóa của chúng ta ủng hộ họ trong nhiều trường hợp, ngay cả Tòa Án Tối Cao, hiện giờ đang bị thống trị bởi phát xít, phát xít nguyên thủy và phát xít tôn giáo. 

9. Tôi bối rối khi phần lớn những người Mỹ đồng bào của tôi lo lắng về chuyện họ có thể có chiếc iPhone mới nhất, hay họ có quyền do chúa ban tặng để được sở hữu một vũ khí tự động không giấy phép, hơn là về việc chúng ta vẫn có quyền riêng tư hay không, quyền không bị chính phủ theo dõi, hay các doanh nghiệp có được phép mua quan chức chính quyền trực tiếp như mua một miếng thịt bò không, hiện nay theo như Liên Minh Công Dân cho biết.

10. Tôi phẫn nộ khi nam và nữ đồng bào của tôi không còn tin rằng điều quan trọng của một xã hội là cung cấp cho mọi người các dịch vụ cơ bản, tạo ra cho tất cả mọi người một cơ hội công bằng để thoát khỏi nghèo khổ. Không còn nhận thức rằng mọi người phải có thể đi học ở một trường công được tài trợ tử tế, hay tiếp cận miễn phí một trường cao đẳng tài trợ bằng tiền thuế hay với một mức học phí thấp – mức có thể đáp ứng với một công việc bán thời gian 10 giờ. Không còn bất cứ nhận thức nào về việc mọi người Mỹ phải được quyền chăm sóc y tế chất lượng. Ngay cả thứ hỗ trợ cho cái được gọi là Luật Chăm Sóc Sức Khỏe Có Khả Năng Thanh Toán (ACA) hầu hết là từ những cá nhân ích kỷ muốn có khả năng thanh toán bảo hiểm cho bản thân, cũng chưa tạo ra được sự chăm sóc y tế chất lượng cho tất cả mọi người. Cũng giống như vậy, nếu ACA tạo cho bạn khả năng thanh toán bảo hiểm, bản ủng hộ nó, nhưng nếu bạn có bảo hiểm do chủ lao động thanh toán thì bạn chống lại ACA. Đó là sự thật cơ bản trong mọi lĩnh vực. Người Mỹ ngày nay đã đánh mất nhận thức chung về chia sẻ trách nhiệm và đấu tranh. Mọi người thường nói (không chính xác, tôi nghĩ) về thế hệ những năm 60 trở thành thế hệ của “cái tôi”. Hiện nay, có lẽ là toàn bộ Hoa Kỳ đã trở thành quốc gia của “cái tôi”.

11. Cuối cùng, tôi không thể quên vấn đề biến đổi khí hậu. Không có gì hoài nghi, Hoa Kỳ là tác nhân chính trong biến đổi khí hậu suốt thế kỷ qua, khi là một quốc gia công nghiệp hóa nhất thế giới. Ngay cả ngày nay, nếu như Trung Quốc vượt qua Hoa Kỳ về khí thải các-bon, sự thật không thể phủ nhận là tính bình quân trên đầu người, mỗi người Hoa Kỳ chúng ta thải khí các-bon vào khí quyển vượt xa bất cứ người Trung Quốc nào, gấp 5 lần hoặc hơn. Mặc dù vậy, đất nước của chúng ta là cản trở chủ yếu đối với bất cứ nỗ lực chân thật nào nhằm giảm bớt hay đảo ngược biến đổi khí hậu. Dưới chính quyền hiện tại và trước đây, Hoa Kỳ đã phá hoại thành công các nỗ lực đạt đến một hiệp định quốc tế giới hạn khí thải hiệu ứng nhà kính, thậm chí sử dụng cả năng lực do thám của Ủy Ban An Ninh Quốc Gia để theo dõi tình hình đàm phán của các quốc gia khác và để tống tiền các nhà lãnh đạo. Đơn giản là phát ốm về sự ích kỷ của người Mỹ khi họ không quan tâm một chút nào đến sự kinh khủng mà con cái chứ không phải cháu của chúng ta phải đối mặt (Ngân Hàng Thế Giới, không phải là một cái ổ cực đoan về môi trường, cảnh báo rằng thiếu niên hiện nay sẽ đối mặt với một thế giới nóng hơn từ 6 đến 8 độ F khi chúng 80 tuổi!). Đây là sự ích kỷ - hay – điên khùng trên quy mô lớn mà tôi không thể hiểu nổi. 

Tôi có thể tiếp tục nhưng tôi nghĩ rằng mười một lý do để xấu hổ về đất nước của một ai đó là quá đủ.

Đó là tôi.

Dave Lindorff is a founding member of ThisCantBeHappening!, an online newspaper collective, and is a contributor to Hopeless: Barack Obama and the Politics of Illusion (AK Press).


Tuesday, November 4, 2014

Ba Lan gửi quân đội đến biên giới phía đông

Nội chiến ở Ukraina ngày càng nghiêm trọng. Mới đây nhất Ba Lan đã chuyển hàng ngàn lính sang phía đông, về phía biên giới với Ukraina. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Poland to send troops to eastern border" của Sonja Bach để biết thêm chi tiết. 

Ba Lan gửi quân đến biên giới phía đông

Chính quyền Ba Lan đang chuyển hàng ngàn quân đến biên giới phía đông trong một sự tái tập hợp mang tính lịch sử của quân đội. Sự di chuyển được Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Tomasz Siemoniak công bố vào tuần trước,  sau hội nghi thượng đỉnh NATO vào tháng 9, khi khối đồng minh do Hoa Kỳ lãnh đạo quyết định gia tăng đối đầu quân sự với Nga

Cho tới hiện giờ, đại đa số trong 120,000 lính Ba Lan đã đóng quân ở nửa phía tây của quốc gia. Hiện nay, hàng ngàn lính sẽ được triển khai tới các căn cứ quân sự ở phía đông, vốn đang được hiện đại hóa và nâng cấp. Năng lực của ba căn cứ, trong đó có Trung Tâm Phòng Không Siedlce, được gia tăng từ 30 đến 90%. 

Bên cạnh đó, chính quyền đang lập kế hoạch mua sắm các trực thăng mới bà trang bị tên lửa AGM-158 không đối đất cho các chiến đấu cơ phản lực F-16. Vào tháng 3, Hoa Kỳ đã đưa 12 máy bay loại đó đến Ba Lan.

Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng nói di chuyển quân đội là cần thiết bởi sự thay đổi trong “tình hình địa chính trị”. Ông ta nói với hãng thông tấn AP rằng Ba Lan coi đó là “cuộc khủng hoảng an ninh lớn nhất kể từ Chiến Tranh Lạnh” và phải “rút ra các kết luận từ điều đó”.

Siemoniak nhắc tới các sự kiện ở Ukraina mà không đề cập rằng chính quyền Ba Lan đã can dự sâu sắc vào việc kích động cuộc khủng hoảng, vốn được NATO sử dụng để biện minh cho đối đầu quân sự với Nga.

Vào tháng hai, phong trào đối lập bài Nga do Vitali Klitschko, Arseniy Yatsenyuk và gã phát xít Oleh Tyahnybok dẫn đầu giành quyền lực ở Kiev và lật đổ tổng thống dân cử Viktor Yanukovych. Ba Lan là một trong những tác nhân chính của cuộc đảo chính, vốn được Hòa Kỳ và Đức cổ vũ cũng như tài trợ.

Người sau này là bộ trưởng Bộ Ngoại Giao, Radoslav Sirkorski, đã hợp tác chặt chẽ để thúc đẩy Hiệp Ước Gia Nhập giữa EU và Ukraina với mục đích phá vỡ ảnh hưởng của Nga tại nước cộng hòa cựu thành viên Soviet và mở cửa cho các nhà đầu tư Châu Âu cũng như liên minh quân sự với NATO. 

Khi Yanukovych từ chối ký Hiệp Định, biểu tình nổ ra ở Maidan (Quảng Trường Độc Lập), chính quyền Ba Lan đã ngay lập tức ủng hộ phong trào đối lập. Theo một số báo cáo, nhiều bộ phận của những nhóm du kích cực hữu đóng vai trò mũi nhọn trong cuộc đảo chính đã được huấn luyện ở Ba Lan.

Chính quyền mới của Ukraina có cả đảng phát xít Svoboda, họ được nắm giữ ba ghế bộ trưởng. Đảng này có nguồn gốc là Tổ Chức Độc Lập Quốc Gia Chủ Nghĩa (OUN), trước đây hợp tác với Phát xít Đức và phải chịu trách nhiệm về hàng loạt các vụ thảm sát ở Ba Lan tại khu vực biên giới của Volhynia và Đông Galacia trong thế chiến thứ II. Hiện nay các thành viên đảng Svoboda vẫn kỷ niệm các sự kiện kinh hoàng – trong đó lực lượng phát xít Ukraina đã giết hại hơn 100,000 người Ba Lan, hầu hết là phụ nữ và trẻ em, ở khu vực Ba Lan bị phát xít chiếm đóng – như là chiến thắng “cuộc xâm lược của Ba Lan-Đức”.

Kể từ các sự kiện Maidan và diễn biến tiếp theo ở Crimea, Ba Lan, vốn đã gia nhập NATO vào năm 1999, đã đóng vai trò trung tâm trong cuộc đối đầu với Nga. Vào tháng tư, ngay sau cuộc trưng cầu dân ý ở Crimea, người sau này là thủ tướng Ba Lan Donald Tusk đã kêu gọi NATO gửi nhiều quân hơn đến quốc gia của ông ta. 

Kể từ đó, 9 tàu chiến NATO đã được gửi tới Biển Đen. Vào tháng 3,600 lính đã được gửi tới Ba Lan và các nước vùng Baltic. Một cuộc tập trận tiếp theo đã được tổ chức vào tháng 9 ở gần Lvov tại phía tây Ukraina với sự tham gia của quân đội Ba Lan. 

Hội nghị thượng đỉnh NATO ở xứ Wales đã phác thảo một kế hoạch quân sự chi tiết để tăng cường lực lượng chống lại Nga. Thông cáo chính thức của hội nghị thượng đỉnh được phát ra vào cuối tháng 9 kêu gọi một “sự tiếp tục hiện diện trên không, trên bộ, trên biển và các hoạt động quân sự hữu ích ở phần phía đông của Liên Minh” 

Điều này bao gồm cả việc thiết lập một “lực lượng phản ứng nhanh” từ 3,000 đến 5,000 lính, để có thể gửi tới khu vực khủng hoảng trong ít ngày. Do các tài liệu thiết lập của Hội Đồng NATO-Nga vào năm 1997 cấm đóng quân NATO tại các nước cộng hòa cựu Soviet, quân đội đã được giữ tại các doanh trại của họ cho đến hiện tại. 

Trong bài phát biểu nhậm chức vào ngày 1 tháng 10, người kế vị Tusk, Ewa Kopacz nói rằng Ba Lan sẽ đáp ứng yêu cầu triển khai của NATO bằng cách gia tăng chi tiêu quân sự. Ngân sách quốc phòng sẽ được tăng thêm 190 triệu vào năm 2016, chiếm 2% GDP – mục tiêu được tổng thống Obama đưa ra tại hội nghị thượng đỉnh. Đồng thời Kopacz kêu gọi sự hiện diện lớn hơn của quân đội Hoa Kỳ ở Ba Lan.

Chính sách quân sự của quốc gia hợp tác chặt chẽ với Đức. Vào tháng 3, bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Đức Ursula von Leyen tham dự một cuộc họp công vụ ở Warsaw. Trong hội nghị các bộ trưởng quốc phòng của NATO vào tháng 6, được tổ chức ở Brussels, cả hai quốc gia đã cùng kêu gọi gia tăng nhân sự của Quân Đoàn Đa Quốc Gia Đông Bắc đóng ở Stettin của Ba Lan.

Một cuộc gặp tiếp theo của hai bộ trưởng đã được tổ chức vào tháng 6, tại đó “sự tăng cường và phát triển tiếp theo của quan hệ quốc phòng Đức-Ba Lan” đã được thảo luận, theo quan chức Đức.

Mới đây nhất, sau một gặp tại Hội Nghị Bundeswehr (quân đội Đức) ở Berlin vào ngày 29 và 30 tháng 10, bộ trưởng quốc phòng Ba Lan đã bình luận, “Rất dễ dàng để cho xe tăng, vũ khí phòng không và máy bay vào viện bảo tàng”. Cả hai quốc gia đã đồng ý phối hợp bộ binh.

Phía sau chính sách quốc phòng liên minh chặt chẽ với Đức và Hoa Kỳ của Ba Lan là tham vọng bành trướng khu vực ảnh hưởng của quốc gia về phía đông. Sự hợp tác với lực lượng phát xít bài Ba Lan như Svoboda và chính sách quân sự hiếu chiến nóng vội cho thấy rõ ràng là tầng lớp thượng lưu Ba Lan sẵn sàng làm bất cứ thứ gì để kết thúc. Một sự khiêu khích quân sự của thành viên NATO có thể nhanh chóng biến thành cái cớ cho một cuộc chiến thảm họa với nước Nga được trang bị vũ khí hạt nhân.