Trong các cuộc tranh luận gần đây về sách giáo khoa lịch sử, những kẻ thuộc cánh tự xưng là dân chủ đã tuyên bố rằng chính quyền Việt Nam xuyên tạc lịch sử, bóp méo lịch sử để biện minh cho sự thống trị của bản thân và chỉ có những hình mẫu tự do như nước Mỹ mới có tiếng nói trung thực về lịch sử, chỉ ở đó mới có sự thật và không có nhồi sọ. Tất nhiên họ nói dối và thật không may cho họ là James W. Loewen, trong cuốn sách "Lies My Teacher Told Me" do nhà xuất bản Touchstone phát hành năm 2007, đã tố cáo điều mà họ nói là dối trá. Học sinh Mỹ ghét môn lịch sử, đó là môn học nhàm chán nhất trong số tất cả các môn học, tất cả các sách giáo khoa lịch sử dù là của tư nhân cũng đều bị kiểm duyệt chặt chẽ qua nhiều tầng nhiều lớp để nhồi vào đầu học sinh những tín điều của giai cấp thống trị bất chấp mọi sự thật.
Giai cấp vô sản không bao giờ ngần ngại khi phải nói sự thật này: Sách giáo khoa lịch sử cũng như giáo dục lịch sử nói chung phải phục vụ giai cấp vô sản và chế độ của do những người vô sản lập lên, và chỉ có như vậy nó mới tiến bộ và phục vụ cho đa số dân chúng. Người vô sản không bao giờ cần đến những trò mị dân bịp bợm của chế độ tư bản. Người vô sản thừa nhận hệ thống giai cấp và đấu tranh để xóa bỏ hệ thống ấy, ngược lại giai cấp tư sản phủ nhận hệ thống giai cấp để duy trì hệ thống ấy, đó là sự khác biệt căn bản giữa quan điểm của hai giai cấp.
Dưới đây là bản dịch Chương 7 "Land of Opportunity" của cuốn sách nêu trên.
Lao
động có trước và độc lập với tư bản. Tư bản là chỉ là thành quả của lao động và
không bao giờ có thể tồn tại nếu lao động không tồn tại trước. Lao động tốt hơn
tư bản và đáng được quan tâm hơn.
—Abraham
Lincoln1
Có
lúc tôi đã tin rằng tất cả chúng ta là chủ nhân số phận của mình – rằng chúng
ta có thể sống theo cách mà chúng ta thấy hài lòng …. Tôi đã vượt qua sự câm điếc
và mù lòa để hạnh phúc và tôi cho rằng bất cứ ai cũng có thể đạt được vinh
quang nếu như họ đấu tranh một cách quả quyết. Nhưng khi tôi càng biết nhiều
hơn về đất nước này thì tôi hiểu rằng mình đã khẳng định thứ mà mình biết rất
ít. … Tôi hiểu rằng quyền lực đang trỗi dậy trên thế giới này nằm ngoài tầm với
của mọi người.
—Helen
Keller2
Mười
người ở nước ta có thể mua cả thế giới trong khi mười triệu người khác không đủ
ăn.
—Will
Rogers, 1931
Không
may là lịch sử của một quốc gia quá dễ để viết như là lịch sử của giai cấp thống
trị.
—Kwame Nkrumah3
Miền đất hứa
Học
sinh trung học có mắt, tai và ti vi (quá nhiều người có ti vi riêng), thế nên
chúng biết rất nhiều về đặc quyền tương đối ở Hoa Kỳ. Chúng so sánh vị thế xã hội
của gia đình mình với gia đình khác, so sánh vị thế cộng đồng này với cộng đồng
khác. Đặc biệt là học sinh của tầng lớp trung lưu biết chút ít về các thức vận
hành của cấu trúc giai cấp ở Hoa Kỳ, nhưng không biết gì về việc chúng thay đổi
ra sao theo thời gian. Học sinh không thể thoát khỏi sự lảng tránh của trường
trung học về sự vận hành của cấu trúc giai cấp; chúng thể hiện như những nhà
khoa học xã hội bàng hoàng “Tại sao người ta nghèo?” Tôi hỏi các sinh viên năm
thứ nhất. Hay nếu vị thế giai cấp của họ là tương đối đặc quyền, “Tại sao gia
đình em được trả lương cao?” Câu hỏi mà tôi nhận được, cho thấy sự độ lượng,
thiếu chín chắn và ngây thơ của các em. Sinh viên cho rằng người nghèo đã không
thành công.4 Họ không biết tại sao cơ hội không bình đẳng ở Hoa Kỳ
và không có khái niệm về việc cấu trúc xã hội thúc đẩy người dân thường xuyên,
tác động tới ý tưởng và cuộc sống của họ.
Sách
lịch sử trung học có thể chịu một số trách nhiệm về tình trạng này. Một số sách
trình bày những điểm mấu chốt của lịch sử lao động, như vụ đình công Pullman
1894 ở gần Chicago mà thống đốc Cleveland đã đàn áp bằng quân đội liên bang,
hay vụ nổ súng Triangle Shirtwaist giết hại 146 phụ nữ ở thành phố New York vào
năm 1911, nhưng sự kiện gần đây nhất được đề cập trong hầu hết các cuốn sách là
Luật Taft-Hartley cách đây đã 50 năm. Không có cuốn sách nào đề cập tới vụ đình
công của công nhân đóng gói thịt Hormel vào giữa những năm 1980 hay cuộc đình
công của nhân viên kiểm soát không lưu mà tổng thống Reagan đã đàn áp. Không có
sách giáo khoa nào mô tả về những vấn đề mà công nhân phải tiếp tục đối mặt,
như sự tăng trưởng của các doanh nghiệp đa quốc gia và họ xuất khẩu công việc
ra nước ngoài. Với điều bỏ sót đó, tác giả sách giáo khoa có thể xây dựng lịch
sử lao động như những chuyện đã diễn ra từ lâu, như chiếm hữu nô lệ, chế độ chiếm
hữu nô lệ đã được sửa chữa từ lâu. Như vậy suy diễn theo logic thì các công
đoàn có vẻ như là chủ nghĩa vô chính phủ. Lý do cần thiết để công nhân có tiếng
nói ở nơi làm việc bị lờ đi.
Sách
giáo khoa mô tả các sự kiện trong lịch sử lao động không bao giờ ăn khớp với
các nghiên cứu về giai cấp 5. Những thứ chỉ đáng đưa vào phần chú
thích chứ không phải là bài giảng! Sáu trong số 12 cuốn sách giáo khoa lịch sử
của Hoa Kỳ mà tôi kiểm tra không có từ khóa như “giai cấp”, “phân chia giai cấp”,
“cấu trúc giai cấp”, “phân phối thu nhập”, “bất bình đẳng”, hay những từ dễ hiểu
về chủ đề liên quan. Không sách nào liệt kê từ “giai cấp trên”, “giai cấp lao động”,
hay “giai cấp dưới”. Hai sách giáo khoa liệt kê từ “giai cấp trung lưu”, nhưng
chỉ để thuyết phục học sinh rằng Hoa Kỳ là quốc gia của giai cấp trung lưu,
“Ngoại trừ nô lệ, hầu hết các thực dân là thành viên của “tầng lớp bậc trung””,
cuốn Miền Đất Hứa viết, và nhấn mạnh vào luận điểm chúng ta là quốc gia của tầng
lớp trung lưu bằng cách hỏi sinh viên “Mô tả ba giá trị của “tầng lớp trung
lưu” đã thống nhất người Mỹ tự do của mọi giai cấp.” Một số sách giáo khoa đề cập
sự bùng nổ của các khu ngoại ô trung lưu sau Thế Chiến thứ II. Mặc dù vậy, mô tả
về tầng lớp trung lưu khó có thể tương đồng với việc bàn luận về phân chia giai
cấp; trên thực tế, như Gregory Mantsios đã chỉ ra, “những tham chiếu này được
chấp nhận hoàn toàn là bởi vì chúng loại bỏ sự khác biệt giai cấp.”6
Trình
bày về việc chúng ta là giai cấp trung lưu ra sao hiện nay là vấn đề đặc biệt
khó khăn, bởi vì tỷ lệ hộ gia đình có thu nhập từ 75% đến 125% của thu nhập trung vị đã giảm xuống thường
xuyên từ năm 1967. Các chính quyền Reagan-Bush đã gia tốc sự suy giảm của tầng
lớp trung lưu và đa số hộ gia đình tụt xuống thay vì đi lên7. Đây là
khuynh hướng lịch sử mà người ta cho rằng sách giáo khoa lịch sử sẽ coi là một
vấn đề nghiêm trọng, nhưng chỉ có 4 trong số 12 cuốn sách đưa ra phân tích về phân
chia giai cấp ở Hoa Kỳ. Mặc dù vậy phân tích về sự phân chia này chỉ tập trung
chủ yếu vào thời kỳ thuộc địa. Miền Đất Hứa theo sát tiêu đề chắc chắn bằng
cách bàn luận về “tiến bộ xã hội” của giai cấp. “Một trong những sự khác biệt lớn
giữa xã hội thuộc địa và Châu Âu là người thuộc địa có “sự tiến bộ xã hội” lớn
hơn, cuốn Truyền Thống Hoa Kỳ hưởng ứng. “Khác với Châu Âu cùng thời, Hoa Kỳ ở
thế kỷ 18 là sự tỏa sáng về bình đẳng và cơ hội – với ngoại lệ xấu xa là chế độ
nô lệ,” cuốn Lễ Hội Hoa Kỳ đồng thanh. Mặc dù cuốn Thách Thức của Tự Do mô tả
ba giai cấp, trên, giữa và dưới – trong cộng đồng người da trắng của xã hội thuộc
địa, so với Châu Âu “đó là sự tiến bộ xã hội lớn hơn”.
Không
bao giờ sách giáo khoa đề cập tới những xung đột giai cấp đẫm máu nhất trong lịch
sử Hoa Kỳ - cuộc nổi loạn Bacon và cuộc nổi loạn của Shays – đã diễn ra trong
và ngay sau thời thuộc địa. Sách giáo khoa vẫn sẽ nói rằng xã hội thuộc địa
tương đối không giai cấp và đặc trưng bằng sự tiến lên. Mọi thứ trở nên lạc
quan. Cuốn Thách Thức của Tự Do thuyết phục chúng ta “Vào năm 1815, hai giai cấp
đã biến mất và Hoa Kỳ là quốc gia của những người trung lưu với mục tiêu của
giai cấp trung lưu.” Cuốn sách này lặp lại, với khoảng thời gian 50 năm trước,
về hoàn cảnh của cơ hội mở rộng ở Hoa Kỳ. “Vào những năm sau 1945, sự tiến bộ
xã hội – sự biến đổi từ một giai cấp này sang một giai cấp khác – trở nên phổ
biến ở Hoa Kỳ,” cuốn Thách Thức của Tự Do kết luận, “Điều này có nghĩa là mọi
người có cơ hội tốt hơn để tiến lên trong xã hội. Sự khẳng định về tiến lên là
mâu thuẫn. Cuốn sách giáo khoa đó không đề cập bất cứ điều gì về bất bình đẳng
giai cấp hay rào cản đối với sự tiến bộ xã hội. “Đâu là điều kiện để những người
nhập cư nghèo da trắng trở nên giàu có ở thuộc địa?” cuốn Miền Đất Hứa hỏi. Câu
hỏi “Đâu là những điều kiện đã/đang cản trở điều đó?” lại không được đặt ra.
Tác giả sách giáo khoa giới thiệu những người Mỹ, như những người thuyết giáo
khoa trương của thế kỷ 19, có “nguồn gốc thấp kém” và “đạt được các vị trí cao
nhất”.8
Giai
cấp dường như là biến số quan trọng duy nhất trong xã hội. Từ trong trứng cho đến
khi vào mộ, nó tương quan với hầu hết các đặc trưng xã hội của con người mà
chúng ta có thể đo lường. Các bà mẹ sung túc có khả năng được chăm sóc thai sản,
nhận được các tư vấn y khoa thường xuyên cũng như có sức khỏe, sự sung sức,
dinh dưỡng nói chung. Nhiều bà mẹ thuộc tầng lớp nghèo và giai cấp lao động tiếp
xúc với y tế lần đầu tiên vào tháng cuối, đôi khi là giờ cuối cùng của thai kỳ.
Trẻ em giàu ra đời khỏe mạnh hơn và cân nặng hơn trẻ em nghèo. Trẻ sơ sinh về
nhà với các tình trạng rất khác nhau. Trẻ em nghèo có mức độ bị nhiễm độc cao từ
môi trường và trong cơ thể. Trẻ em giàu có nhiều thời gian và tương tác ngôn ngữ
hơn với cha mẹ, cũng như chăm sóc chất lượng khi bố mẹ chúng đi vắng. Khi chúng
đến nhà trẻ và cũng như 12 năm sau đó, trẻ em nghèo được lợi từ các trường học
ngoại ô chi tiêu gấp 3 lần trên mỗi đầu học sinh so với các trường học trong nội
đô hay các vùng nông thôn nghèo khổ. Trẻ em nghèo được dạy dỗ trong các lớp học
lớn hơn 50% so với các lớp học của trẻ em giàu. Những sự khác biệt này giải
thích tỷ lệ bỏ học cao hơn của trẻ em nghèo.
Ngay cả khi trẻ em nghèo đủ may mắn để tham gia
cùng trường học với trẻ em giàu, chúng phải đối mặt với những giáo viên kỳ vọng
chỉ trẻ em của gia đình giàu có biết câu trả lời đúng. Các nghiên cứu xã hội học
cho thấy giáo viên thường xuyên ngạc nhiên và thậm chí là lo âu khi học sinh
nghèo vượt trội. Giáo viên và các tư vấn viên tin rằng họ có thể dự đoán ai sẽ “học
đại học”. Khi nhiều trẻ em của giai cấp lao động phát ra các dấu hiệu sai lầm,
ngay cả ở lớp một, chúng kết thúc giai đoạn “giáo dục phổ thông” ở trường trung
học* “Nếu anh là con của bố mẹ nghèo, cơ hội tốt mà anh nhận được là sự chú ý
giới hạn và thường là vô tình của những người trưởng thành trong trường trung học,”
theo Theodore Sizer trong nghiên cứu bán chạy nhất về trường trung học ở Hoa Kỳ,
Thỏa Hiệp của Horace. “Nếu anh là con của bố mẹ có thu nhập cao và trung lưu,
cơ hội tốt mà anh nhận được là sự chú ý cẩn trọng và cần thiết,” Researcher
Reba Page đã cung cấp mô tả sống động về việc các khóa học lịch sử ở trường
trung học Hoa Kỳ sử dụng việc học vẹt để vô hiệu hóa học sinh tầng lớp nghèo.
Do vậy, trường học đưa vào thực hành khuyến nghị của Woodrow Wilson: “Chúng ta
muốn một giai cấp các cá nhân được giáo dục tự do và chúng ta muốn một giai cấp
các cá nhân khác, giai cấp cần thiết lớn trong mọi xã hội, từ bỏ những đặc quyền
của giáo dục tự do và khép mình vào việc thực hiện những công việc chân tay đặc
biệt khó khăn.”
Nếu
như những sự bất bình đẳng trong đời sống gia đình và trường học này là chưa đủ,
thiếu niên giàu được thu nhận vào Princeton Review hay các khóa đào tạo khác
cho Kiểm Tra Dự Tuyển Học Đường (SAP). Ngay cả khi không có đào tạo, trẻ em
giàu có lợi thế hơn bởi nền tảng của chúng tương tự với những người ra đề thi,
chúng hợp/dễ chịu với vốn từ và những giả định văn hóa nhóm tinh vi của bài kiểm
tra. Không có ai ngạc nhiên khi thấy giai cấp có mối tương quan chặt chẽ với điểm
SAT. Đó là lý do khiến giai cấp dự báo tỷ lệ học đại học và loại đại học chính
xác hơn so với các yếu tố khác, như năng lực trí tuệ. Sau đại học, phần lớn trẻ
em giàu có nhận được công việc cổ cồn trắng, đa số trẻ em của giai cấp lao động
nhận các công việc cổ cồn xanh và sự phân chia giai cấp tiếp tục. Những người
trưởng thành giàu thường được thuê làm công tố viên hay thành viên của tổ chức
chính thống làm gia tăng quyền lực dân sự của họ. Người nghèo phần lớn xem ti
vi. Do những gia đình giàu có thể tiết kiệm tiền trong khi các gia đình nghèo
phải chi tiêu hết những gì kiếm được nên sự cách biệt về của cải lớn hơn sự
cách biệt về thu nhập 10 lần. Do những gia đình nghèo và giai cấp lao động
không thể tích lũy đủ tiền mặt để mua nhà, họ bị mất khoản né thuế quan trọng
nhất của chúng ta, xóa lãi suất cầm cố nhà. Cha mẹ thuộc giai cấp lao động
không thể sống trong các nhóm thượng lưu hay thuê trông trẻ chất lượng cao, do
vậy quá trình bất bình đẳng giáo dục lặp lại trong thế hệ kế tiếp. Cuối cùng,
người Mỹ giàu cũng có tuổi thọ lâu hơn người thuộc giai cấp dưới và giai cấp
lao động, chủ yếu là bởi vì học được chăm sóc y tế tốt hơn.13 Đó là
khẳng định trong nghiên cứu của Helen Keller về mù lòa, nghiên cứu cho thấy
chăm sóc y tế tồi không được phân phối ngẫu nhiên theo cấu trúc xã hội mà tập
trung vào giai cấp dưới.
An
sinh xã hội trở thành một hệ thống chuyển hóa khổng lồ, sử dụng tiền mà tất cả
người Mỹ đóng góp để chi trả cho lợi ích không tương xứng của những người Mỹ
giàu sống lâu hơn. Trên hết là giai cấp quyết định các thức mà người ta nghĩ về
giai cấp. Khi được hỏi về việc sự nghèo khổ ở Hoa Kỳ là lỗi của người nghèo hay
lỗi của hệ thống, 57% lãnh đạo doanh nghiệp đổ lỗi cho người nghèo; chỉ có 9% đổ
lỗi cho hệ thống. Lãnh đạo lao động cho thấy sự tương phản rõ ràng trong lựa chọn
ngược lại: chỉ có 15% cho rằng người nghèo có lỗi, trong khi 56% cho rằng hệ thống
có lỗi. (Một số trả lời “không biết” hay chọn vị trí trung dung.) Sự khác biệt
lớn nhất giữa hai đảng chính trị chủ chốt nằm ở cách thành viên của họ nghĩ về giai
cấp: 55% đảng viên Cộng Hòa lên án người nghèo về sự nghèo khổ, trong khi chỉ
có 13% lên án hệ thống; trái lại 68% đảng viên Dân Chủ lên án hệ thống, chỉ có
5% lên án người nghèo.14
Chỉ
có ít những khẳng định nói trên là mới, tôi biết, đó là lý do tôi không mô tả
chi tiết chúng, nhưng đa số học sinh trung học không biết hoặc không hiểu những
ý tưởng này. Hơn nữa, quá trình đã thay đổi theo thời gian, cấu trúc giai cấp
ngày nay ở Hoa Kỳ không giống với năm 1890, chưa nói tới Hoa Kỳ thuộc địa. Mặc
dù vậy, cuốn Miền Đất Hứa không đề cập tới giai cấp sau năm 1670, đó là một ví
dụ. Nhiều giáo viên làm vấn đề tồi tệ thêm bằng cách tránh nói về giai cấp. Phỏng
vấn các giáo viên mới đây “cho thấy họ có kiến thức rộng hơn về kinh tế, cả về
học thuật lẫn kinh nghiệm, so với những gì họ thừa nhận trong lớp học.” Giáo
viên “thể hiện sự sợ hãi rằng học sinh có thể tìm ra sự bất công và bất bình đẳng
trong các thể chế kinh tế và chính trị.”15 Bằng cách không bao giờ
lên án hệ thống, khóa học lịch sử Hoa Kỳ do đó phản ánh “lịch sử của phe Cộng
Hòa”. Về mặt lịch sử, giai cấp kết nối mọi dạng sự kiện và quá trình trong quá
khứ của chúng ta. Hệ thống cai trị của chúng ta do những người giàu thiết lập,
theo các học thuyết khẳng định rằng chính quyền là người bảo vệ giai cấp có của.
Mặc dù bản thân giàu có nhưng James Madison lo ngại về sự bất bình đẳng và viết
trong tập Người Liên Bang số 10 để trình bày cách thức chính quyền dự kiến không chịu
ảnh hưởng của người giàu. Madison đã không hoàn toàn thành công, theo Edward
Pessen, người nghiên cứu nền tảng giai cấp của các đời tổng thống Hoa Kỳ cho tới
thời Reagan. Pessen đã phát hiện ra rằng hơn 40% xuất thân từ tầng lớp trên, hầu
hết từ bộ phận cao nhất của nhóm thượng lưu, 15% xuất thân từ các gia đình nằm
giữa tầng lớp trên và trung lưu. Hơn 25% đến từ nhóm trên của tầng lớp trung
lưu, chỉ có 6 tổng thống, hay 15% đến từ tầng lớp trung lưu và nhóm dưới của tầng
lớp trung lưu, chỉ có duy nhất Andrew Johnson đại diện cho tầng lớp dưới. Rất
có lý do khi Pessen đặt tên cuốn sách là Ghi Chép, Huyền Thoại về Nội Các.111
Thật là đau buồn khi con tàu vĩ đại Titanic bị chìm, như một bài hát cổ lặp lại,
đó là sự đau buồn lớn nhất cho tầng lớp dưới: về phụ nữ, chỉ có 4 trong số 143
hành khách hạng nhất bị chết, trong khi có 15 trong số 93 hành khách hạng hai bị
chìm, cùng với 81 trong số 179 phụ nữ và thiếu nữ hành khách hạng ba chết. Thủy
thủ yêu cầu hành khách hạng ba ở lại dưới hầm tàu, canh giữ một số người dưới
đó bằng súng.17 Gần đây hơn, giai cấp đóng vai trò chủ chốt trong việc
xác định ai sẽ tham chiến ở Việt Nam; con trai của gia đình giàu có nhận được
hoãn thi hành nghĩa vụ quân sự vì lý do giáo dục và y tế trong suốt cuộc chiến.13
Sách giáo khoa và giáo viên lảng tránh tất cả những điều đó.
Giáo
viên có thể lảng tránh giai cấp để không gây tổn hại cho trách nhiệm của họ. Nếu
như vậy, sự lo ngại của họ là sai lầm. Khi học sinh nghèo học về hệ thống giai
cấp, họ tìm thấy kinh nghiệm giải phóng. Một khi họ thấy rõ những quá trình xã
hội có thể khiến cho gia đình họ nghèo, họ có thể xóa bỏ hình ảnh tiêu cực về sự
nghèo khổ của bản thân. Nếu hiểu biết là sự tha thứ thì đối với trẻ em của giai
cấp lao động hiểu cách thức phân chia giai cấp diễn ra là tha thứ cho bản thân
và gia đình chúng. Kiến thức về hệ thống giai cấp cũng giảm khuynh hướng lên án
nạn nhân của sự nghèo khổ của giai cấp khác. Về mặt sư phạm, sự phân tầng tạo
ra kinh nghiệm học tập thú vị. Học sinh ngạc nhiên khi khám phá ra các giai cấp
trên giành được quyền lực lớn trong mọi vấn đề từ luật năng lượng của quốc hội cho
đến quyết định được phân cấp ở các thị trấn nhỏ.
Xem
xét trường hợp một học sinh da trắng lớp 9 học lịch sử Hoa Kỳ tại một thành phố
mà giai cấp trung lưu thống trị ở Vermont. Cha cô buộc hàng ở Sheetrock, kiếm
tiền vào mùa thấp điểm xây dựng cho gia đình tương đối nghèo. Mẹ cô lái xe bus
trường học bán thời gian để phụ thêm thu nhập, thêm vào đó chăm sóc hai em gái
của cô. Cô gái sống cùng gia đình trong một căn nhà nhỏ, căn nhà nghỉ mùa hè được
gia cố cho mùa đông, trong khi hầu hết bạn cùng lớp của cô sống ở căn nhà ngoại
ô lớn. Cô gái này hiểu gì về sự nghèo khổ của mình? Khi sách giáo khoa thể hiện
quá khứ Hoa Kỳ là 390 năm tiến bộ và mô tả xã hội của chúng ta là miền đất hứa
mà người dân được tưởng thưởng những gì họ xứng đáng nhận, sự thất bại không thể
tránh khỏi của giai cấp lao động Hoa Kỳ trong việc thay đổi nguồn gốc giai cấp
của họ đã đứng chờ trước cửa nhà.
Trong
phạm vi cộng đồng giai cấp lao động da trắng, cô gái có vẻ như tìm được vài nguồn
mới – giáo viên, giáo dân, thành viên gia đình – những người có thể nói với cô
về anh hùng hay những cuộc đấu tranh của người dân cùng tầng lớp với cô, ngoại
trừ những xung đột giai cấp đang tiếp diễn, giai cấp lao động thường xuyên quên
lịch sử của bản thân. Hơn bất cứ nhóm nào khác, học sinh của giai cấp lao động
da trắng tin rằng họ xứng đáng với tình trạng thấp kém. Văn hóa nhóm về kết quả
đáng xấu hổ. Nhận thức tiêu cực này là điều đầu tiên trong số những thứ mà
Richard Sennett và Jonathan Cobb đã gọi là “sự xúc phạm giấu mặt của giai cấp”
Vài năm trước đây, hai học sinh của tôi đã thực hiện một thí nghiệm: họ lái xe
quanh Burlington, Vermont, trong một chiếc xe Hoa Kỳ lớn màu đen sáng loáng, gần
như mới (có lẽ là một chiếc kiểu như Lexus ngày nay) và sau đó là một chiếc xe
ô tô nhỏ 10 năm tuổi móp méo. Với mỗi chiếc xe, khi họ đến đèn đỏ và nó chuyển
sang xanh, họ đợi cho tới khi người khác phải bóp còi trước khi lái đi. Những
người lái xe khác đợi trung bình ít hơn 7 giây để bóp còi giục họ khi họ lái
chiếc xe nhỏ, nhưng với chiếc xe sang trọng thì họ phải đợi 13,2 giây cho tới
khi có ai đó bóp còi. Bên cạnh việc đưa ra một lý do tốt cho việc mua xe hơi
sang trọng, thí nghiệm này cũng cho thấy người Mỹ kính trọng một cách vô thức
những người có giáo dục và thành công. Do những người lái xe ở mọi tầng lớp xã
hội bóp còi giục chiếc xe hơi nhỏ thường xuyên hơn, lái xe thuộc giai cấp lao động
đã không tôn trọng bản thân trong khi chiều ý những người giàu hơn. Lời châm biếm
cay đắng “Nếu anh thông minh thì tại sao anh không giàu?” chuyển tải sự xúc phạm
đối với sự tự nhận thức của người nghèo khi ý tưởng về một Hoa Kỳ có chế độ dựa
trên tài năng là bất khả chiến bại ở trường học.
Một
phần của vấn đề là sách giáo khoa lịch sử Hoa Kỳ mô tả giáo dục Hoa Kỳ như hệ
thống tài năng trị. Một số lượng khổng lồ nghiên cứu xác nhận rằng giáo dục bị
thống trị bởi cấu trúc giai cấp và vận hành để lặp lại cấu trúc này trong thế hệ
tiếp theo. 20 Trong khi đó, sách giáo khoa lịch sử vô tình nói về sự
hào phóng liên bang đối với giáo dục như Luật Giáo Dục Tiểu Học và Phổ Thông Cơ
Sở, được thống qua dưới thời tổng thống Lyndon Johnson. Không sách giáo khoa
nào cung cấp dữ liệu hay phân tích về bất bình đẳng trong phạm vi các thể chế
giáo dục. Không sách giáo khoa nào đề cập về việc các trường cấp quận ở khu vực
thu nhập thấp phải hoạt động với các điều kiện khắc nghiệt về tài chính kinh khủng
tới mức Jonathan Kozol gọi chúng là “sự bất bình đẳng man rợ”.21
Không sách giáo khoa nào đề xuất rằng học sinh có thể nghiên cứu lịch sử của
trường học và dân chúng mà trường học đó phục vụ. Chỉ có hai cuốn sách giáo
khoa liên hệ giáo dục với hệ thống giai cấp để giảm nhẹ như đã thấy! Học tập “là
chìa khóa của tiến bộ xã hội ở Hoa Kỳ thời kỳ hậu chiến,” theo lời của cuốn Sự
Thách Thức của Tự Do 21
Khuynh hướng lảng tránh giai cấp của giáo viên và
sách giáo khoa như thể đó là bí mật nhỏ bẩn thỉu chỉ củng cố thêm sự miễn cưỡng
của gia đình giai cấp lao động khi nói về về chúng. Paul Cowan kể về việc phỏng
vấn trẻ em của gia đình nhập cư Italia tham gia vào cuộc đình công nhà máy
Lawrence nổi tiếng năm 1912, Massachusetts. Ông nói chuyện với con gái của một
công nhân Lawrence, người làm chứng tại cuộc điều tra của quốc hội về vụ đình
công. Người công nhân Camella Teoli, lúc đó 13 tuổi, bị cuốn tóc vào máy quay sợi
ngay trước cuộc đình công và phải nằm viện nhiều tháng. Lời khai của bà “lên
trang nhất của các tờ báo khắp nước Mỹ”. Nhưng con gái của Teoli, được phỏng vấn
năm 1976 sau khi mẹ bà đã chết, không thể giúp gì cho Cowan. Mẹ của bà không
nói gì về vụ tai nạn, không nói gì về chuyến đi tới Washington, không nói gì về
sự ảnh hưởng của bà đối với lương tâm của người Mỹ - ngay cả khi hầu như hàng
ngày, con gái “chải tóc cho mẹ để lộ ra những vết sẹo.” Một người có nguồn gốc
giai cấp lao động kể với tôi câu chuyện tương tự về nỗi xấu hổ của ông chú “công
nhân ngành thép”. Một sự phòng ngự được tạo ra trong văn hóa của giai cấp lao động;
ngay cả những sự phản kháng thành công của giai cấp lao động, như vụ đình công
Lawrence, cũng giả định tình trạng thấp kém và thu nhập thấp, do đó hàm chứa một
sự thấp kém nhất định. Nếu các cộng đồng
lớn hơn tốt như sách giáo khoa nói với chúng ta, thì hoan nghênh hay chấp nhận
hồi ức về xung đột là một kiểu không trung thành.
Sách giáo khoa không phản ánh lịch sử của người nhập
cư. Khoảng cuối thế kỷ, người nhập cư thống trị giai cấp lao động đô thị Hoa Kỳ,
ngay cả ở những thành phố cách xa bờ biển như Des Moines và Louisville. Khi hơn
70% dân số da trắng là người gốc bản xứ, dưới 10% giai cấp lao động đô thị là
người bản xứ. Khi sách giáo khoa nói về lịch sử của người nhập cư, chúng nhấn mạnh
vào Joseph Pulitzer, Andrew Carnegie và những người cùng hạng của họ - những
người nhập cư đã tạo ra điều siêu tốt. Một số sách giáo khoa áp dụng câu “quấy
đảo để giàu có hay miền đất hứa” cho kinh nghiệm của người nhập cư. Những thành
công huyền thoại đã đạt được, chắc chắn như vậy, nhưng chúng chỉ là ngoại lệ,
không phải là quy luật. 59% giám đốc điều hành và chủ ngân hàng ở Hoa Kỳ vào cuối
thế kỷ đến từ thành phần giai cấp trên hay nửa trên của giai cấp trung lưu. Dưới
3% bắt nguồn từ người nhập cư nghèo hay trẻ em nông thôn. Suốt thế kỷ 19, chỉ
có 2% số nhà công nghiệp Hoa Kỳ có nguồn gốc từ giai cấp lao động.” Bằng cách tập
trung vào những ngoại lệ đầy cảm hứng, sách giáo khoa trình bày lịch sử của người
nhập cư như là một sự xác nhận đầy phấn khích về việc Hoa Kỳ là miền đất hứa
tuyệt vời.
Sách
giáo khoa nhấn mạnh lặp đi lặp lại về sự khác biệt giữa Hoa Kỳ và Châu Âu trong
việc có ít sự phân chia giai cấp và có sự linh hoạt kinh tế và xã hội lớn hơn. Đây
là một khía cạnh khác về nguyên mẫu của chủ nghĩa ngoại lệ Hoa Kỳ: xã hội của
chúng ta công bằng một cách riêng biệt. Điều đó chưa từng có trong lịch sử ở Pháp
hay Australia, để khẳng định rằng xã hội của chúng ta bình đẳng một cách ngoại
lệ. Sự mô tả này về Hoa Kỳ có chuẩn bị cho học sinh về hiện thực? Chúng mô tả
không chính xác đất nước chúng ta hiện nay. Các nhà khoa học xã hội đã nhiều lần
so sánh mức độ bình đẳng kinh tế ở Hoa Kỳ với các quốc gia công nghiệp khác. Dựa
theo các đo lường đã có, Hoa Kỳ xếp hạng 6/6, 7/7, 9/12 hay 14/14” Ở Hoa Kỳ,
1/5 dân số giàu nhất có thu nhập gấp 12 lần 1/5 dân số nghèo nhất, tỷ lệ cao nhất
trong nhóm các nước công nghiệp: ở Anh tỷ lệ là 7:1, ở Nhật Bản chỉ là 4:1. 27
Ở Nhật Bản, một giám đốc điều hành trung bình của hãng chế tạo ô tô có thu nhập
cao gấp 20 lần một công nhân trung bình trong nhà máy lắp ráp ô tô; ở Hoa Kỳ
ông ta (và không phải là bà ta) có thu nhập gấp 192 lần. 28 Sự kiêu
ngạo kiểu Jefferson về một quốc gia của nông dân độc lập và thương nhân đã biến
mất từ lâu: chỉ có 1/13 người lao động Hoa Kỳ tự kinh doanh, so với 1/8 ở Tây
Âu. 29 Do vậy, chúng ta không chỉ có ít hơn các nhà kinh doanh độc lập
so với 200 năm trước đây, chúng ta còn có ít hơn so với Châu Âu hiện nay.
Khi
mà sách giáo khoa khẳng định rằng Hoa Kỳ thuộc địa có ít sự phân chia giai cấp
hơn Châu Âu thì chúng cũng phải trình bày cho độc giả khi nào sự bất bình đẳng
xuất hiện. Chắc chắn đó không phải là sự phát triển mới đây. Vào năm 1910, 1%
giàu nhất của dân chúng Hoa Kỳ chiếm hơn 1/3 tổng số thu nhập cá nhân, trong
khi 1/5 nghèo nhất chỉ chiếm 1/8 tổng thu nhập cá nhân.50 Mức độ bất
bình đẳng ngang với Đức hay Anh.31 Nếu sách giáo khoa thừa nhận sự bất
bình đẳng, chúng có thể mô tả sự thay đổi trong cấu trúc giai cấp theo thời
gian, sẽ dẫn dắt học sinh vào các tranh luận lịch sử hấp dẫn.32
Ví
dụ, một số nhà sử học lập luận rằng sự giàu có ở xã hội thuộc địa được phân phối
bình đẳng hơn hiện nay và sự bất bình đẳng kinh tế đã gia tăng dưới thời tổng
thống Andrew Jackson – thời kỳ được nhận định một cách nực cười là thời đại của
người bình thường. Những người khác tin rằng sự phát triển của doanh nghiệp lớn
vào cuối thế kỷ 19 đã làm cho cấu trúc giai cấp cứng nhắc hơn. Walter Dean
Burnham lập luận rằng chiến thắng bầu cử tổng thống của phe Cộng Hòa vào năm
1896 (McKinley đánh bại Bryan) mang tới một làn sóng tái liên kết chính trị biến
“chế độ dân chủ công bằng thành một chế độ tài phiệt”, do đó vào những năm 1920
doanh nghiệp kiểm soát chính sách công. 35 Khoảng cách rõ ràng giữa
giàu và nghèo, như khoảng cách giữa người da màu và da trắng, lớn hơn vào cuối
Kỷ Nguyên Tiến Bộ vào năm 1920 so với khi bắt đầu vào năm 1890. Lịch sử không
phải chỉ có sự gia tăng phân tầng, giữa suy thoái và cuối chiến tranh thế giới
thứ II, thu nhập và của cải ở Hoa Kỳ đã trở lại bình đẳng hơn. Sự phân phối thu
nhập được duy trì hợp lý cho tới khi tổng thống Reagan nhậm chức vào năm 1981,
khi sự bất bình đẳng bắt đầu tăng lên. Vẫn có những học giả khác cho rằng chỉ
có thay đổi nhỏ kể từ Cách Mạng. Ví dụ, Lee Sokow phát hiện ra “sự bất bình đẳng
thu nhập và của cải đáng ngạc nhiên” ở Hoa Kỳ vào năm 1798. Ít nhất là đối với
Boston, Stephan Thernstrom kết luận rằng sự bất bình đẳng trong cơ hội sống của
hai giai cấp cho thấy sự tiếp diễn kỳ lạ. 36 Tất cả đều là một phần
của lịch sử Hoa Kỳ, nhưng không phải là lịch sử Hoa Kỳ được dạy ở trường trung
học.
Đối
với các nhà khoa học xã hội, mức độ bất bình đẳng là điều quan trọng cần biết về
xã hội. Khi chúng ta xếp hạng các quốc gia theo biến số này, chúng ta thấy các
quốc gia vùng Scandinavia ở trên đỉnh, bình đẳng nhất, và các xã hội nông nghiệp
như Colombia và Ấn Độ ở gần dưới cùng. Chính sách của chính quyền Reagan và
Bush, công khai phục vụ cho người giàu, tiếp tay cho khuynh hướng sẵn có, gây
ra sự gia tăng đáng kể của bất bình đẳng từ năm 1981 đến năm 1992. Đối với Hoa
Kỳ thì việc tiến tới vị trí của Colombia về bất bình đẳng xã hội không phải là
vấn đề nhỏ. Chắc chắn là học sinh trung học muốn được học về việc vào năm 1950
các nhà vật lý học có thu nhập gấp 2,5 lần công nhân công nghiệp tham gia nghiệp
đoàn nhưng giờ thì sự chênh lệch là 6 lần. Chắc chắn chúng cần phải biết rằng
quản lý cấp cao của các doanh nghiệp may mặc, thường có thu nhập gấp 50 lần người
lao động Mỹ bình thường, hiện giờ có mức lương cao gấp 1.500 lần so với công
nhân Malaysia của họ. Việc giáo viên và sách giáo khoa lịch sử của chúng ta che
dấu thông tin lịch sử có thể thúc đẩy và nuôi dưỡng các tranh luận về những
khuynh hướng đã nêu chắc chắn là sai lầm.
Tại
sao họ làm điều ngớ ngẩn này? Trước tiên và trên hết là việc nhà xuất bản kiểm
duyệt các tác giả sách giáo khoa. “Nếu anh nói về giai cấp thì sẽ luôn có rủi
ro bị chụp mũ là Marxist,” biên tập viên nghiên cứu xã hội và lịch sử của một
trong những nhà xuất bản lớn nhất nói với tôi. Biên tập viên này nói về điều cấm
kỵ, chính thức hay phi chính thức đối với mọi tác giả hợp tác với cô và cô ngụ
ý rằng hầu hết các biên tập viên khác cũng làm như vậy.
Sức
ép của các nhà xuất bản cũng bắt nguồn từ các hội đồng và ủy bản chấp nhận sách
giáo khoa ở bang và quận. Những đối tượng này lại chịu sức ép từ các nhóm có tổ
chức và các cá nhân khác xuất hiện trước họ. Dĩ nhiên, sự vận động mạnh mẽ nhất
là tổ chức Nhà Nghiên Cứu Phân Tích Giáo Dục do Mel Gabler lãnh đạo. Quan điểm
phê phán cánh hữu kiên quyết của Gabler về việc một cuốn sách có nội dung phân
tích giai cấp có sức tàn phá ghê ghớm. Như một tác giả đã viết, “Trình bày vấn
đề với các khái niệm giai cấp là không thể chấp nhận được, thậm chí ngay cả với
những gì không thuộc về nước Mỹ.” Nỗi lo sợ không được chấp nhận ở Texas là vấn
đề lo ngại chủ yếu của nhà xuất bản và có thể giải thích tại sao cuốn sách Cuộc
Sống và Tự Do mô tả Hoa Kỳ là “một xã hội bất công”, bất công đối với các nhóm
kinh tế thấp hơn, không bao giờ được chấp nhận. Sức ép đó cũng mới xuất hiện.
Cuốn sách Dẫn Nhập về Vấn Đề của Văn Hóa Mỹ và sách giáo khoa lịch sử nổi tiếng
của Harold Rugg, được viết vào thời suy thoái, vẫn có một số phân tích giai cấp.
Vào đầu những năm 1940, theo Frances FritzGerald, Hiệp Hội Các Nhà Chế Tạo Quốc
Gia đã tấn công cuốn sách của Rugg, một phần vì vấn đề giai cấp và “đưa đến sự
kết thúc” của phân tích xã hội và kinh tế trong sách giáo khoa lịch sử Hoa Kỳ.40
Ảnh
hưởng của các giai cấp trên thường là không trực tiếp. Hình mẫu hợp lý cho đặc
quyền giai cấp trong lịch sử Hoa Kỳ là chủ nghĩa Darwin về xã hội, một nguyên mẫu
vẫn còn sức ảnh hưởng lớn trong văn hóa Hoa Kỳ. Khái niệm con người phát triển
và thất bại chỉ là đấu tranh sinh tồn của những cá thể thích nghi nhất có thể không
phù hợp với dữ liệu về sự biến đổi đa thế hệ ở Hoa Kỳ, nhưng khó có thể loại bỏ
hình mẫu ấy khỏi giáo dục Hoa Kỳ, nhất là khỏi các lớp học lịch sử Hoa Kỳ. Sự
thật không phù hợp với hình mẫu này, như toàn bộ bài giảng về phân chia giai cấp,
đơn giản là bị bỏ qua.
Tác
giả sách giáo khoa có thể không cần phải chịu sức ép từ nhà xuất bản, cánh hữu,
giai cấp trên, hay các hình mẫu văn hóa để lảng tránh sự phân chia giai cấp. Trong
quá trình anh hùng hóa, tác giả sách giáo khoa mô tả nước Mỹ như là một anh
hùng, thực sự là một anh hùng trong sách của họ, nên họ phải loại bỏ các khuyết
tật của nước Mỹ, họ khó có thể chấp nhận một lý thuyết công bằng xã hội giải
thích lý do cho việc 1% dân số kiểm soát tới 40% của cải. Có khi nào 99% còn lại
trong số chúng ta lười biếng hoặc không được tưởng thưởng xứng đáng? Để đề cập
một số cơ chế - học tập không bình đẳng và tương tự - nhờ vào nó mà giai cấp
trên tiếp tục thống trị rõ ràng là sẽ khơi dậy sự phê phán đối với đất nước
đáng yêu của chúng ta. Vì bất kỳ lý do nào thì sách giáo khoa cũng tối thiểu
hóa sự phân chia giai cấp.
Sau
đó họ làm một điều rất khó hiểu: họ không giải thích lợi ích của doanh nghiệp tự
do. Viết về các thế hệ sách giáo khoa trước đây, Frances FritzGerald đã chỉ ra
rằng sách giáo khoa bỏ qua “đức hạnh cũng như sự đồi bại của hệ thống kinh tế của
chúng ta.”42 Giáo viên có thể đề cập tới doanh nghiệp tự do với sự
tôn trọng, nhưng hiếm khi từ ngữ vượt quá một khẩu hiệu.45 Sự chểnh
mảng này rất kỳ lạ nhưng mang lại lợi thế cho chủ nghĩa tư bản. Ngôi sao bóng rổ
Michael Jordan, giám đốc điều hành Lee Iacocca của Chrysler, nhà làm kem Ben và
Jerry đều giàu có nhờ vào việc cung cấp hàng hóa mà con người thèm muốn. Chắc
chắn là không thể đánh giá sự phân chia giai cấp ngắn gọn như vậy, bởi vì những
người có lợi thế lạm dụng lạm dụng của cải và quyền lực để ngăn tiếng nói của
những người không có lợi thế. Trong trật tự xã hội và kinh tế, hệ thống tư bản đưa
ra nhiều thứ để chỉ trích cũng như nhiều thứ để tán dương. Nước Mỹ là miền đất
hứa cho nhiều người. Trên hết là sự xuyên tạc mà chủ nghĩa tư bản áp đặt cho nó,
dân chủ cũng có lợi ích từ việc tách biệt quyền lực giữa phạm vi công cộng và cá
nhân. Sách giáo khoa lịch sử của chúng ta không bao giờ đả động đến những lợi
ích này.
Các
nhà xuất bản hay những người ảnh hưởng tới họ đã kết luận thẳng thắn rằng điều
mà xã hội Hoa Kỳ cần phải dứt khoát là công dân tán thành cấu trúc xã hội và hệ
thống kinh tế không cần suy nghĩ. Hệ quả là sách giáo khoa ngày nay bảo vệ hệ
thống kinh tế của chúng ta vô điều kiện, với lòng trung thành không thể dung thứ
về sự không phân chia giai cấp độc đáo; do vậy họ khiến cho học sinh khóa học lịch
sử Hoa Kỳ không thể phê phán hay bảo vệ hệ thống phân chia giai cấp một cách
thành thạo. Nhưng không phải là tốt khi tin rằng Hoa Kỳ bình đẳng sao? Có thể hình
mẫu “miền đất hứa” là một huyền thoại được củng cố - có thể việc tin vào nó sẽ
biến nó thành sự thật. Nếu như học sinh nghĩ rằng bầu trời là giới hạn, họ có
thể chạm vào bầu trời, nếu họ không tin thì họ sẽ không làm.
Sự
tương tự về giới tính cho thấy vấn đề với luồng tư duy này. Làm sao nữ sinh
trung học hiểu vị trí của họ trong lịch sử Hoa Kỳ khi mà sách giáo khoa lịch sử
nói với họ rằng, từ thời thuộc địa tới nay, phụ nữ có cơ hội bình đẳng để phát
triển và tham gia vào chính trị? Nữ sinh có thể suy luận, dĩ nhiên là vô thức,
rằng đó là sai lầm của giới tính, một kết luận khó có thể chấp nhận.
Sách
giáo khoa phải trình bày về việc phụ nữ bị từ chối quyền bầu cử ở nhiều bang
cho tới năm 1920 và đối mặt với nhiều rào cản phát triển. Sách giáo khoa cũng
phải trình bày về những rào cản đối với các nhóm dân tộc thiểu số. Câu hỏi cuối
cùng mà Miền Đất Hứa hỏi học sinh sau phần “Tiến Bộ Xã Hội” là “Đâu là rào cản
ngăn người da đen, bản địa và phụ nữ cạnh tranh một cách bình đẳng với thực dân
da trắng?” Sau đoạn tán dương tiến bộ của nó. Cuốn Thách Thức của Tự Do viết, “Mặc
dù vậy, không phải tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng hay cơ hội bình đẳng
để cải thiện cuộc sống của họ,” và tiếp tục mô tả các vấn đề về phân biệt giới
tính và chủng tộc. Nhưng không khi nào và ở đâu cuốn Miền Đất Hứa hay Thách Thức
của Tự Do (hay đa số các sách giáo khoa khác) gợi ý rằng cơ hội có thể không
bình đẳng đối với người da trắng của giai cấp dưới và giai cấp lao động hiện
nay.44 Dĩ nhiên, kết quả là ngay cả các lãnh đạo doanh nghiệp và phe
Cộng Hòa, những người trả lời phỏng vấn khảo sát làm cái việc mà các nhà khoa học
xã hội gọi là “lên án nạn nhân”, lên án hệ thống xã hội hơn là người Mỹ gốc Phi
về sự nghèo khổ của người da màu và lên án hệ thống hơn là phụ nữ về những kết
quả không bình đẳng ở nơi làm việc. Nói tóm lại, người Mỹ giàu, giống như sách
giáo khoa của họ, sẵn sàng coi phân biệt chủng tộc là nguyên nhân của sự nghèo
khổ của người da màu, bản địa và phân biệt giới tính là nguyên nhân của sự bất
bình đẳng của phụ nữ nhưng không coi sự phân biệt giai cấp là nguyên nhân của sự
nghèo khổ nói chung.45
Hơn nhiều so với toán hay khoa học tự nhiên, hơn
cả văn học Hoa Kỳ, các khóa học lịch sử Hoa Kỳ hứa hẹn sẽ nói với học sinh
trung học về cách thức họ, cha mẹ, cộng đồng và xã hội phát triển. Trừ một điều
là sự bất bình đẳng bởi giai cấp. Mặc dù trẻ em giai cấp lao động và nghèo thường
không thể xác định nguyên nhân sự tha hóa của chúng, lịch sử thường vô hiệu hóa
điều đó bởi vì nó biện minh hơn là giải thích hiện tại. Khi học sinh phản ứng bằng
cách bỏ học, về mặt trí tuệ hay thể chất, kết quả học tập nghèo nàn của chúng sẽ
thuyết phục chúng cũng như những người cùng tuổi với chúng về một sự đánh giá
nhanh chóng hơn rằng hệ thống là dựa trên tài năng và chúng thiếu tài năng. Cuối
cùng, sự thiếu vắng phân tích giai cấp trong môn học lịch sử Hoa Kỳ là một cách
để sắp đặt giáo dục ở Hoa Kỳ chống lại giai cấp lao động.
Chú thích:
Bản scan của cuốn sách mà tôi có bị lược bỏ phần chú thích nên tạm thời chưa thể dịch, khi tìm được phần chú thích thì tôi sẽ dịch và bổ sung sau.