Showing posts with label Thế giới. Show all posts
Showing posts with label Thế giới. Show all posts

Tuesday, August 25, 2020

Giáo dục và sự nghiệp thu tiền

Dẫn nhập 

Việt Nam trước đây theo chế độ bao cấp dịch vụ công ích. Ví dụ điển hình là hai ngành y tế và giáo dục. Nhà nước dùng tiền ngân sách để chi trả cho y tế và giáo dục, do vậy người dân đi khám chữa bệnh và đi học đều không phải đóng tiền, hoặc có phải nộp phí thì chỉ nộp một phần rất nhỏ. Thế nên nói rằng phí dịch vụ thấp vừa đúng vừa sai, đúng ở chỗ người dân đóng phí thấp, nhưng sai ở chỗ phí đó không phải là toàn bộ khoản tiền mà ngành dịch vụ công nhận được. 

Nhờ có quỹ bảo hiểm y tế mà ngành y tế tăng giá dịch vụ thành công, thế là hàng sa số các dịch vụ y tế ra đời nhằm tối đa hóa các khoản thu từ quỹ bảo hiểm y tế. Các bệnh viện đua nhau mời người dân đến khám chữa bệnh, tất nhiên không ai trả phí nhiều, phần lớn nguồn thu là từ quỹ bảo hiểm y tế và thế là không thấy bệnh viện kêu rằng phí dịch vụ thấp nên chất lượng thấp nữa.

Giáo dục thì chưa có cái quỹ bảo hiểm giáo dục nào nên vẫn chưa đâu với đâu cả. Ngành giáo dục vẫn đang đòi thu tiền, càng nhiều càng tốt, lý do chủ yếu là những ưu đãi nhà nước cấp cho họ không phải là tiền mặt, họ cần biến cái đó thành tiền mặt. Do đó, câu chuyện lại quay về vấn đề học phí và chất lượng.

Vào năm 2006, nước Đức vốn có truyền thống bao cấp giáo dục cũng thông qua luật thu học phí đại học, lý do y hệt Việt Nam bây giờ, cũng là thu học phí cao để đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục và giảm thiểu tình trạng đi học đại học bừa bãi do không mất tiền. Chỉ sau hai năm, chính sách tân tự do của nước Đức bị bãi bỏ một cách lặng lẽ, 

Việc thu học phí cao có những tác động gì?

1. Chất lượng giáo dục hỗn loạn: 

Chỉ cần nhìn sang nước Mỹ là thấy, tự do thu học phí nên bên cạnh những trường chất lượng tốt thì cũng có hàng sa số những xưởng bán bằng cấp, các trung tâm giáo dục chẳng ra gì với mức phí hợp túi tiền để đáp ứng nhu cầu của người học. Do vậy, nước Mỹ buộc phải dựa vào một hệ thống kiểm định giáo dục phức tạp để xác định xem trường nào cấp bằng thật, trường nào là bằng dỏm. Việc thu học phí cao trong nền kinh tế thị trường không tạo ra một hệ thống giáo dục chất lượng cao, ngược lại còn tạo điều kiện để những dạng kinh doanh giáo dục chất lượng thấp sinh sôi nảy nở. Tất nhiên các nhà kinh doanh thích điều đó, họ kiếm tiền đầy túi từ sự bát nháo ấy. 

2. Suy giảm số lượng người đi học: 

Do rào cản chi phí cao nên một số lượng lớn người đi học sẽ từ bỏ việc học và tham gia vào thị trường lao động. Số lượng sinh viên có khả năng chi trả học phí cao không phải là vô hạn. Việc thu học phí đại học ở nước Đức vào năm 2006 đã cho thấy điều đó. Các trường đại học kinh hãi trước điều này, sinh viên là nguồn thu nhập của họ, nhưng giờ nguồn thu nhập đó suy giảm nhanh chóng. Các trường đại học buộc phải cạnh tranh khốc liệt để thu hút sinh viên đủ khả năng chi trả học phí cao. Bài toán trở nên luẩn quẩn, cơ sở giáo dục muốn có tiền thì phải đầu tư thu hút sinh viên, nhưng muốn đầu tư thì lại phải có tiền. Cơ sở giáo dục tư nhân hoàn toàn có thể làm được điều này khi kêu gọi các nhà tư bản đầu tư, còn cơ sở giáo dục công thì tình hình tồi tệ hơn nhiều do ngân sách nhà nước ít có khả năng đáp ứng. Hệ quả của việc này là một số lượng lớn các cơ sở giáo dục công sẽ buộc phải tư nhân hóa để tồn tại.

3. Gia tăng sử dụng lao động giá rẻ và suy giảm nhu cầu về lao động có kỹ năng:

Học phí cao dẫn đến hệ quả là một phần lớn lực lượng lao động từ bỏ việc học sớm hơn và chấp nhận tham gia vào thị trường lao động có kỹ năng thấp. Tiền lương của người lao động là do chi phí tạo ra sức lao động quyết định. Chi phí tạo ra sức lao động giờ thấp hơn nên tiền lương của người lao động cũng sẽ thấp hơn. Doanh nghiệp nhanh chóng tận dụng điều này bằng cách chuyển sang các công nghệ lạc hậu, sử dụng nhiều nhân công giá rẻ để gia tăng tỷ suất lợi nhuận. Làn sóng này sẽ khiến cho các lao động có tri thức và kỹ năng bị thất nghiệp. Điều này ảnh hưởng đến nhu cầu về giáo dục và buộc các cơ sở giáo dục phải cơ cấu lại tổ chức để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Xu hướng đào tạo nghề thay cho giáo dục đại học là biểu hiện cụ thể của việc cho thấy người học giảm việc học và tham gia thị trường lao động sớm hơn. Tất cả những điều này có nghĩa là tri thức phải quy phục thị trường, giới trí thức trong lĩnh vực công bị đẩy vào tình trạng bấp bênh, nhất là khi họ không có truyền thống sống nhờ việc kinh doanh giáo dục.

Đây chính là chỗ tiết lộ bí mật của nước Đức, giới tinh hoa lãnh đạo ngành giáo dục ở Đức cảm thấy việc thu học phí cao mặc dù đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư tư nhân, song lại lại đe dọa đến đặc quyền, lợi ích và sự tôn kính của xã hội đối với ngành giáo dục. Do đó, họ nhanh chóng tìm cách loại bỏ chính sách thu học phí cao. Nước Đức lặng lẽ quay lại với truyền thống cổ xưa.

Kết luận

Thực ra không có kết luận nào cả. Học phí vốn không do người học quyết định. Đó là sự xung đột giữa lợi nhuận và đặc quyền. Do đó, học phí đi theo hướng nào là do sức mạnh của các thế lực tham gia vào sự xung đột ấy quyết định. Hôm nay, người ta nói thu học phí cao để nâng cao chất lượng giáo dục, ngày mai người ta sẽ nói phải miễn học phí để ai cũng được đi học. Ngày kia, người ta có thể nói phải mở trường học ở sao Hỏa để khai hóa văn minh cho các tộc man di ngoài vũ trụ. Mọi thứ đều có thể diễn ra, song bản chất của vấn đề thì không bao giờ thay đổi.

Sunday, June 9, 2019

Đạo Tin Lành và Sự Phát Triển Của Chủ Nghĩa Tư Bản

Lâu rồi, mình xem blog của bác Giao, thấy bác ấy có đặt vấn đề cho mình về quan hệ giữa đạo Tin Lành và chủ nghĩa tư bản, ngay sau khi nhắc đến trường hợp có nhiều người phát điên vì học tinh thần chủ nghĩa tư bản ở Nhật Bản vào thời kỳ Minh Trị. Nhưng sau đấy mình bị tư bản nó hành, chạy dự án tối tăm mặt mũi, chả thời gian đâu viết lách nên quên bẵng mất vấn đề đó. Hôm nay, nhân dịp đọc lại cuốn "Libery and Property" của Ellen M. Wood, cũng có nhắc đến vấn đề đó, mới chợt nhớ ra câu hỏi của bác Giao, nên viết vài dòng để gửi bác Giao.

Nước Nhật Bản thời Mạc Phủ du nhập đạo Tin Lành nhưng lại cấm Cơ Đốc Giáo, giới quý tộc Nhật Bản lúc đó đều chỉ làm ăn với người Hà Lan theo Tin Lành mà cấm cửa người Tây Ban Nha Thiên Chúa Giáo, cho dù người Tây Ban Nha đến Nhật Bản truyền đạo rất sớm. Sở dĩ vậy nên Fukuzawa ban đầu cũng học tiếng Hà Lan chứ không phải tiếng Anh hay tiếng Tây Ban Nha. Sau đó, Mạc Phủ bị các đế quốc đưa tàu chiến đến đe dọa, buộc phải mở cửa cho họ làm buôn bán. Ban đầu giới quý tộc phản đối Mạc Phủ hèn nhát, bán đứng Nhật Bản cho đế quốc, quay sang ủng hộ Nhật Hoàng, đánh bại Mạc Phủ, nhưng sau khi nắm được chính quyền thì Nhật Hoàng và giới quý tộc ngay lập tức áp dụng chính sách của Mạc Phủ, đó là mở cửa cho phương Tây. Đây chính là lúc ông Fukuzawa mang cái vốn tiếng Hà Lan lơ ngơ ra tỉnh thì thấy toàn biển hiệu tiếng Anh, đọc chả hiểu gì, vì thế nên ông ấy mới đi học tiếng Anh để tiếp tục sự nghiệp khai hóa văn minh cho dân Nhật Bản.

Để làm rõ mối quan hệ giữa đạo Tin Lành và chủ nghĩa tư bản thì chúng ta cần phải làm rõ nguồn gốc của đạo Tin Lành và đặc trưng của chủ nghĩa tư bản, từ đó mới có thể trình bày được mối quan hệ của chúng.

1. Nguồn gốc của đạo Tin Lành

Đạo Tin Lành có hai nhánh là Calvin và Luther, nhánh Calvin sau này được du nhập vào Anh trở thành Anh Giáo và Thanh Giáo, còn nhánh Luther chủ yếu phát triển ở các tiểu quốc Đức.

Vào lúc đạo Tin Lành ra đời, các thành thị tự do tồn tại nhờ đặc quyền thương mại ở Đức bắt đầu đi vào giai đoạn suy tàn. Giới quý tộc thành thị không còn tham gia vào các hoạt động thương mại nữa mà sống nhờ vào thuế khóa mà thị dân và thương nhân đóng góp. Giới quý tộc thành thị cũng không trực tiếp tham gia vào các hoạt động nhà nước nữa, công việc này do tầng lớp viên chức dân sự (civil magistrate) đảm nhiệm. Các viên chức dân sự vừa phải làm nhiệm vụ cai quản thành thị, giải quyết xung đột giữa thị dân và quý tộc, vừa phải bảo vệ sự độc lập của thành thị trước sự nhòm ngó của các vua chúa với quân đội trong tay. 

Kẻ thù chủ yếu của giới viên chức dân sự không đến từ công việc của họ, trái lại là nhà thờ. Nhà thờ cũng đang bước vào giai đoạn suy tàn, trở nên tham lam cùng cực, tìm mọi cách bóp nặn dân chúng, điển hình là câu chuyện về ông tổng giám mục ở giáo phận của Luther, nộp tiền cho Giáo Hoàng để được cai quản hai giáo phận và sau đó đem bán sự chuộc tội như bán rau cho giới quý tộc và thường dân để kiếm tiền bù lại. Một mặt sự tham lam của nhà thờ khiến cho dân chúng căm ghét, mặt khác gây ra những tổn thất cho nguồn thu của chính quyền dân sự, mà những người trực tiếp phải gánh chịu là viên chức dân sự. Do vậy, các viên chức dân sự luôn tìm mọi cách loại bỏ quyền lực của Giáo Hội trong địa phận của mình.

Mâu thuẫn giữa Giáo Hội và các vua chúa Đức lên đến đỉnh điểm khi vua Tây Ban Nha Thiên Chúa Giáo trở thành hoàng đế La Mã Thần Thánh không cho phép các tiểu quốc Đức bầu ra vua của họ. Các vua chúa Đức quay sang liên minh với các thành thị tự do để chống lại hoàng đế La Mã Thần Thánh, học thuyết Tin Lành nhanh chóng được áp dụng. Đặc trưng của học thuyết Tin Lành lúc này là:

Thứ nhất, phủ nhận thẩm quyền chuộc tội của Giáo Hội, coi mọi người dân đều là giáo sĩ, đều có quyền đọc kinh thánh và tạo dựng công đức để được Chúa Trời xá tội vào ngày phán xét.

Thứ hai, công nhận quyền lực thế tục của nhà nước, coi viên chức nhà nước là đại diện cho Chúa Trời trên trần thế. Người dân phải tuân lệnh của các viên chức nhà nước để tạo dựng công đức thay vì tuân lệnh Nhà Thờ.

Như vậy, đạo Tin Lành bắt nguồn từ những xung đột của xã hội tiền tư bản chủ nghĩa và phục vụ cho xã hội tiền tư bản. Giới viên chức dân sự sử dụng nó để bảo vệ cho sự độc lập của thành thị tự do và biện minh cho quyền nổi loạn vũ trang chống lại vua chúa. Giới thị dân sử dụng nó để chống lại giới thượng lưu thành thị. Giới thượng lưu thành thị cũng sử dụng nó để củng cố quyền lực chống lại sự đe dọa của thị dân. Vua chúa sử dụng nó để chống lại quyền lực của Nhà Thờ vốn là chỗ dựa của đế quốc La Mã. 

Mặc dù đạo Tin Lành có đề cập tới 'đạo đức lao động' và việc giải phóng thương mại khỏi các kìm hãm của thời phong kiến. Song có hai điều bị bỏ qua trong vấn đề này. Thứ nhất, đạo Tin Lành không bao giờ giải thích được tại sao lao động lại đồng nhất với lợi nhuận. Thứ hai, thương mại thời tiền tư bản dựa trên nguyên lý 'mua rẻ bán đắt' tức là đặc quyền buôn bán giữa các thị trường phân tán, không liên quan gì đến động lực thị trường của chủ nghĩa tư bản, vốn dựa trên cạnh tranh bằng năng suất lao động trên một thị trường thống nhất, nên tinh thần vì lợi nhuận của nó cũng hoàn toàn khác với tinh thần vì lợi nhuận của chủ nghĩa tư bản, đạo Tin Lành cũng không giải thích được tại sao có sự biến đổi từ thương mại thời phong kiến sang thương mại thời tư bản, khác nhau hoàn toàn về chất.

2. Đặc trưng của chủ nghĩa tư bản

Đặc trưng của chủ nghĩa tư bản là sự cưỡng bức của thị trường đối với nhà tư bản, họ buộc phải mua bán để tìm kiếm lợi nhuận bất kể họ muốn gì và tham lam ra sao, nhưng lợi nhuận này không phải đến từ việc mua rẻ bán đắt, mà ngược lại đến từ sự tiết kiệm lao động thông qua việc không ngừng nâng cao lao suất lao động. Mặt khác, người lao động bị tước hết các tư liệu sản xuất và sinh hoạt, buộc phải bán sức lao động và mua tư liệu sinh hoạt trên thị trường. Đây là những thứ hoàn toàn xa lạ, chưa từng có tiền lệ trong các xã hội trước đó. Các xã hội tiền tư bản luôn dựa trên tiền đề là người lao động bị cột chặt vào tư liệu sản xuất. Giới quý tộc bóc lột người lao động thông qua việc nắm giữ các chức năng nhà nước và được hưởng phần sản phẩm thặng dư mà người lao động đã tạo ra, hay nói cách khác, sự bóc lột kinh tế tiền tư bản gắn liền với chức năng nhà nước.

3. Mối quan hệ giữa đạo Tin Lành và chủ nghĩa tư bản

Các học giả phương Tây nổi tiếng như Max Weber và R. H. Tawney đều cho rằng đạo đức Tin Lành là phù hợp với chủ nghĩa tư bản, do vậy đạo Tin Lành đã thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Điểm mấu chốt trong lập luận của họ là giả định rằng chủ nghĩa tư bản là sự phát triển của thương mại, một hoạt động kinh tế có từ thời tiền sử, và gắn liền với thương mại là sự giải phóng các đô thị tự do. Hay nói cách khác chủ nghĩa tư bản đã luôn tồn tại trong xã hội loài người, nó chỉ bị các cản trở của xã hội kìm hãm và khi được giải phóng, nó nhanh chóng phát triển thành một hình thái kinh tế hoàn chỉnh. Đạo Tin Lành khuyến khích 'đạo đức lao động' và tinh thần tìm kiếm lợi nhuận, xóa bỏ thái độ coi thường của cải của Cơ Đốc Giáo, do vậy phù hợp với chủ nghĩa tư bản và tạo ra động lực giúp chủ nghĩa tư bản phát triển. 

Song thương mại thời tiền tư bản không hề mang tính tư bản chủ nghĩa, trái lại nó mang tính phong kiến và dựa trên các đặc quyền phong kiến. Các đô thị thương mại phát triển nhất thời phong kiến của Châu Âu không bao giờ phát triển thành các đô thị tư bản chủ nghĩa, trái lại chủ nghĩa tư bản lại ra đời ở vùng nông thôn nước Anh. Thời phong kiến hoàn toàn không có những động lực cưỡng bức của chủ nghĩa tư bản và do đó đạo Tin Lành bảo vệ cho những nguyên lý chống lại chủ nghĩa tư bản.

4. Tại sao các học giả lại cho rằng đạo Tin Lành thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản?

Hình ảnh minh họa: Sự thần thánh của một viên chức chính quyền thời đại tư bản. Ông ta đứng trên đầu bốn người dân đại diện cho bốn nhóm thuộc địa của mẫu quốc.
Nguồn: Internet
Sau khi chủ nghĩa tư bản ra đời ở nông thôn nước Anh bằng cách tước đoạt tư liệu sản xuất của nông dân, bắt họ trở thành công nhân làm thuê, thì chủ nghĩa tư bản nhanh chóng lan ra khắp Châu Âu. Đồng thời tư bản Anh cũng phá bỏ luôn điều kiện để các nước khác tư bản hóa, đó là việc tước đoạt tư liệu sản xuất của nông dân. Vào lúc này giai cấp quý tộc đã suy yếu, buộc phải dựa vào nhà nước để tồn tại, việc tước đoạt nông dân sẽ đụng đến cơ sở kinh tế của nhà nước, đồng thời họ lại phải nhanh chóng tư sản hóa trong điều kiện đối mặt với sự canh tranh khốc liệt từ tư bản Anh. Các nước Châu Âu lục địa bước vào thời kỳ hiện đại với một kế sách duy nhất là kết hợp giữa nhà nước chuyên chế và chủ nghĩa tư bản. Các viên chức dân sự trở nên quyền lực hơn bao giờ hết, họ trở thành đại diện cho nhà nước trong mối quan hệ với dân chúng, họ có thẩm quyền quyết định sinh mạng của cả dân thường lẫn các nhà tư bản cá thể, họ đứng trên cả quý tộc lẫn giáo sĩ. Đây chính là lúc đạo Tin Lành phát huy sự thần thánh của bản thân. Vòng hào quang của Chúa Trời rời bỏ các tu sĩ Thiên Chúa Giáo béo múp để đến ngự trị trên đầu của các viên chức dân sự. Sự tuân thủ nhà cầm quyền thế tục đảm bảo cho công tích chuộc tội của con chiên. Nhà nước trở thành giáo hội mà không cần phải truyền giáo. Viên chức nhà nước trở thành giáo sĩ mà không cần phải viện dẫn Kinh Thánh. Tóm lại, không phải sự phát triển của chủ nghĩa tư bản định hình cho đạo Tin Lành hay ngược lại, mà chính là nhà nước chuyên chế đã định hình cho những giá trị của đạo Tin Lành, đem nó vào kết hợp với chủ nghĩa tư bản. Giới học giả bảo vệ cho quan điểm đạo Tin Lành thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thực ra là để biện minh cho vai trò của nhà nước chuyên chế trong việc nâng đỡ chủ nghĩa tư bản.

Tuesday, February 19, 2019

Đầu năm nói chuyện ăn Tết theo dương lịch

Từ độ hơn chục năm trở lại đây, năm nào cũng như năm nào, cứ mỗi độ xuân về là chúng ta lại phải chứng kiến một bản nhạc cũ mèm được những cái  loa rè của đám trí thức thân phương Tây phát đi phát lại không biết nhàm. Ấy là chuyện Việt Nam ta nên ăn Tết theo Tây lịch để được văn minh, hiệu quả về kinh tế và thoát ảnh hưởng của Trung Quốc.

Lập luận về văn minh là rất nhàm, phương Tây ăn Tết theo dương lịch, phương Đông ăn Tết theo âm lịch, người Hồi giáo hay Do Thái giáo đều nghỉ ngơi theo lịch riêng của họ, đằng nào cũng là văn minh và có bản sắc riêng của cả. Lấy cái chuẩn mực nào để nói cái nào văn minh hơn cái nào, thật là thô thiển hết chỗ nói. Như ông bà ta vẫn nhắn nhủ, ấy là cái đám me Tây nên cứt tây cũng thơm. Phương Tây văn minh hơn hết là tư duy từ thời thuộc địa, các đế quốc phương Tây nhồi vào đầu các nước Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ để dễ bề cai trị. Bây giờ các  nước Châu Á độc lập tự do, kinh tế cũng đã khởi sắc, cớ gì ngu dại tin vào điều đó nữa.

Lập luận về hiệu quả kinh tế mới nghe thì xuôi tai nhưng kỳ thực là bịp bợm. Họ nói rằng ăn Tết theo dương lịch để cho đỡ gián đoạn việc sản xuất, bán hàng cho phương Tây. Điều này là vô nghĩa, thực tiễn công nghiệp hiện đại cho thấy điều đó được xử lý rất dễ dàng về mặt kỹ thuật, tức là sản lượng hụt đi do nghỉ lễ thì sẽ được làm bù trước đó hoặc sau đó. Bên cạnh đó vẫn còn một khía cạnh nữa mà các nhà giả trí thức bịp bợm của chúng ta lờ tịt đi, ấy là chuyện Việt Nam hiện giờ xuất khẩu đi khắp thế giới chứ không phải mỗi phương Tây, trong đó Trung Quốc cũng là một bạn hàng lớn. Nếu bây giờ lấy cái lập luận về hiệu quả kinh tế đó áp vào thì những người bán hàng cho Trung Quốc sẽ đòi phải ăn Tết theo lịch Trung Quốc, những người bán hàng cho Ấn Độ sẽ đòi ăn Tết theo lịch Ấn Độ... vậy thì sẽ phải nghe ai. Nếu nghe một người thì những người khác sẽ hỏi lại rằng tại sao tôi phải hy sinh lợi nhuận của mình cho anh kia, anh ta có chia cho tôi đồng nào không? Thế đấy, những chuyện về kinh tế này chả đi đến đâu hết. Lại còn có một chuyện nữa là người ta kêu ca tết âm với tết dương gần nhau nên người lao động có tâm lý ăn chơi từ tết dương đến tết âm rồi chơi cả tháng giêng làm thiệt hai cho doanh nghiệp, chuyện này cũng vớ vẩn nốt. Thực tế tháng trước Tết âm lịch là tháng làm hàng bù cho kỳ nghỉ Tết, hầu hết các doanh nghiệp trước Tết đều tăng ca, công nhân thì tích cực hơn vì có thêm lương thưởng. Sau Tết thì hoạt động mua sắm tiêu dùng giảm đi,  vì đã chi tiêu trước Tết, do vậy các doanh nghiệp đều có sản lượng thấp sau Tết, người lao động có nhiều thời gian rảnh rang để đi lễ hội hơn. Một ví dụ điển hình ở Việt Nam là ngành lắp ráp ô tô, trước Tết, hầu hết các nhà máy lắp ráp ô tô đều chạy hết công suất, làm việc 3 ca/ngày, sản lượng ô tô bán ra các tháng trước Tết cực lớn. Ngược lại, tháng sau Tết là thảm họa của các đại lý bán xe vì ai mua xe được đã mua từ trước Tết, sau Tết họ chạy xe mới đi chơi lễ hội, không còn mấy ai đi mua xe cả. Các trí giả của chúng ta khi nói về hiệu quả kinh tế cũng lờ tịt đi một khía cạnh khác nữa, họ giả định rằng sự thống trị về thương mại quốc tế thì sẽ thống trị về văn hóa, tức là giờ chúng ta bán hàng cho phương Tây thì phải ăn Tết theo dương lịch cho đúng điệu toàn cầu hóa. Câu hỏi ngược lại: Nếu Trung Quốc thống trị thương mại thế giới thì Việt Nam và cả phương Tây sẽ phải ăn Tết theo lịch Trung Quốc? Đến đây thì các bạn hẳn đã biết câu trả lời, các trí giả của chúng ta sẽ tự vả vào miệng họ mà khăng khăng nói rằng, kinh tế có mạnh nhưng Trung Quốc vẫn kém văn minh, không nên theo Trung Quốc. Thực tế cho thấy các nước phương Tây giờ đây cũng đua nhau tổ chức các hoạt động mừng Tết âm lịch cho cộng đồng người Trung Quốc để mong phát tài.

Cuối cùng, thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc là chuyện hài hước nhất tôi được nghe trong đời mình. Người Việt giờ ra đường đều mặc áo phông, quần jeans, uống cafe kiểu phương Tây, lúc cần lịch sự thì mặc veston, nói tiếng Anh ào ào trong làm ăn, đâu có thứ gì của Trung Quốc mà kêu ảnh hưởng. Việc buôn bán làm ăn với Trung Quốc của Việt Nam cũng như bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Chuyện buôn bán không phải là ảnh hưởng hay phải thoát ảnh hưởng gì hết. Về mặt chính trị thì Việt Nam đã từng bước ký hiệp định phân chia biên giới rõ ràng với Trung Quốc để khẳng định sự độc lập của mình, chỉ có một phần tranh chấp trên những đảo ngoài khơi, nhưng chuyện tranh chấp đó là bình thường giữa các quốc gia ở gần nhau và Việt Nam không chỉ có tranh chấp duy nhất với Trung Quốc, còn có những nước khác như Malaysia, Đài Loan, Philippines, Brunei. Nếu có đòi lại đảo thì đòi mấy nước kia chắc chắn dễ hơn đòi Trung Quốc, nhưng các trí giả hậm hực của chúng ta thường lờ tịt điều đó đi, họ chỉ chĩa mũi nhọn vào Trung Quốc, tránh phải động tới các đồng minh của Mỹ.

Nhật Bản quá khứ và hiện tại

Người ta thường ca ngợi rằng Nhật Bản bỏ âm lịch theo dương lịch nên sau 100 năm đã trở thành giàu thứ hai thế giới nhưng người ta quên mất rằng Trung Quốc chả cần bỏ cái gì, chỉ cần 40 năm đã thành giàu thứ hai thế giới và đang trên đà trở thành giàu nhất thế giới.

Người Nhật bỏ âm lịch theo dương lịch vào năm 1873, nhưng họ giàu lên là nhờ quá trình tư bản hóa thành công giai đoạn sau Thế Chiến Thứ 2, chứ không phải nhờ vào việc bỏ âm lịch. Giai đoạn trước chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản mặc dù hùng mạnh nhưng chỉ là một đế quốc nhỏ ở phương Đông. Sau Thế Chiến Thứ 2, khi nước Nhật thua trận và trở thành thị trường của Mỹ và phương Tây thì mới nhanh chóng phất lên, nhưng cái giá phải trả là quá đắt. Việc nói Nhật Bản giàu lên nhờ bỏ âm lịch là tào lao.

Sau hơn một thế kỷ ăn Tết theo dương lịch thì người Nhật Bản cảm thấy rằng họ đã đánh mất bản sắc và lại đang muốn khôi phục lại bản sắc của mình. Họ muốn khôi phục Tết theo âm lịch, tuy vậy chưa thành công.


"Nhật Bản đã bỏ âm lịch để sử dụng dương lịch vì những đòi hỏi của nền kinh tế khi đó. Nhưng như tôi đã nói, Nhật Bản lẽ ra vẫn có thể giữ Tết Nguyên đán như một nét văn hóa cổ truyền và là sợi dây liên kết cộng đồng. Chúng ta đang sống trong một xã hội toàn cầu hóa. Điều đó tạo ra một xã hội mở, nhưng mặt khác nó khiến con người mất đi bản sắc, sự nhận diện "chúng ta là ai?".
Đây là một vấn đề lớn, thậm chí về khía cạnh an ninh quốc gia. Một quốc gia có thể có trong tay những máy bay chiến đấu hiện đại nhất, tinh xảo nhất, nhưng nếu những người điều khiển máy bay không có ý chí mạnh mẽ để bảo vệ chủ quyền quốc gia thì các máy bay hiện đại ấy chẳng có tác dụng gì.
Bên cạnh đó, con người chỉ có sức mạnh khi họ đoàn kết và cộng đồng đóng vai trò rất quan trọng để đoàn kết mọi người. Đây là lý do nhiều người Nhật Bản muốn khôi phục lễ hội đón năm mới cổ truyền, với mong muốn giúp làm tăng sức mạnh cộng đồng".
Lý do của Nhật Bản rất rõ ràng, họ muốn tạo ra một bản sắc văn hóa riêng với sức kết nối cộng đồng mạnh mẽ để gia tăng sức cạnh tranh trong môi trường toàn cầu hóa.

Hàn Quốc khôi phục Tết âm lịch

Người ta hay nhắc đến Nhật Bản như là hình mẫu bỏ âm lịch để giàu có nhưng lại quên mất nước láng giềng Hàn Quốc đã nỗ lực khôi phục lại Tết âm lịch sau gần 100 năm bị từ bỏ.

Năm 1910, Nhật Bản sáp nhập Triều Tiên vào Nhật Bản và buộc người Triều Tiên phải sử dụng dương lịch như họ, điều này có nghĩa là Triều Tiên cũng phải ăn Tết theo dương lịch. Thế nên đối với người Triều Tiên khi đó, Tết theo dương lịch là biểu tượng của sự ô nhục, của sự mất nước. Suốt thời kỳ bị Nhật Bản cai trị, TriềuTiên cũng không vì ăn Tết theo dương lịch mà giàu lên được.

Sau đó, Triều Tiên bị tách thành hai miền Bắc-Nam, miền Nam được gọi là Hàn Quốc. Nắm chính quyền ở Hàn Quốc là các cựu sĩ quan quân đội đánh thuê cho Nhật,  họ vẫn làm ăn với Nhật Bản và áp dụng dương lịch cho đến tận năm 1985. Khi đó, người Hàn Quốc đấu tranh dữ dội để bỏ Tết theo dương lịch và khôi phục âm lịch, điều này không chỉ là yếu tố văn hóa mà nó còn phản ánh sự trỗi dậy của Hàn Quốc, họ muốn có bản sắc riêng và đoạn tuyệt với cái dấu hiệu ô nhục của thời mất nước. Vào năm 1989, Hàn Quốc chính thức khôi phục Tết âm lịch. Cùng với việc Tết âm lịch được khôi phục, hàng loạt các nghi lễ và phong tục truyền thống được tiếp thêm sức mạnh từ không gian và thời gian truyền thống, điều này đã góp phần tạo ra một Hàn Quốc có bản sắc văn hóa độc đáo và gia tăng các mối liên kết cộng đồng của thời kỳ hiện đại.

Hàn Quốc đã đi ngược dòng, thậm chí với sự giàu có của mình, các nước phương Tây cũng phải nở nụ cười cầu tài, chúc người Hàn Quốc ăn Tết âm lịch vui vẻ hàng năm. Giờ đây có ai dám nói Hàn Quốc lạc điệu với thế giới, âm lịch hay bị Hán hóa không?

Việt Nam trên con đường đi tới

Việc kêu gào đòi bỏ âm lịch để ăn Tết theo dương lịch ở Việt Nam thể hiện rõ một mặt là sự trỗi dậy của tầng lớp tư sản, họ muốn phá vỡ các mối liên kết cộng đồng để thay nó bằng quan hệ tiền-hàng lạnh lùng, bởi vì sự thống trị của họ dựa vào quan hệ đó, mặt khác thể hiện sự yếu thế của họ, họ không có khả năng dựa vào những điều kiện văn hóa xã hội sẵn có của Việt Nam mà phải dựa vào sức mạnh của tư bản quốc tế, thế nên họ muốn tất cả mọi thứ phải dập khuôn theo phương Tây. Mặc dù những lập luận của đám trí giả trong vấn đề này rất tào lao và dễ dàng bị bẻ gãy, họ giống như những con rối mua vui cho đám báo lá cải mỗi độ xuân về, song không vì vậy mà chúng ta quên mất động cơ thật sự ẩn giấu sau việc này.

Với việc chuyển sang dương lịch, âm mưu của họ là xóa bỏ toàn bộ ý niệm về thời gian tuần hoàn của phương Đông, các giá trị văn hóa của phương Đông vốn sinh tồn trong cái ý niệm về thời gian đó. Thay vào đó, họ áp đặt một ý niệm thời gian cơ giới, một chiều, mọi thứ đều trở nên vô định, quá khứ, hiện tại và tương lai không còn là một vòng tuần hoàn nữa mà là sự kết hợp ngẫu nhiên trong đó quá khứ và tương lai chỉ là chức năng của hiện tại. Điều này có nghĩa là xóa bỏ lịch sử, lịch sử Việt Nam chấm dứt, các giá trị văn hóa của Việt Nam cũng sẽ biến mất cùng với ý niệm về thời gian tuần hoàn. Lịch sử sẽ được bắt đầu bằng một cái mốc trống rỗng nào đó theo dương lịch và nó sẽ được lấp đầy bằng sự xét lại, bằng sự du nhập văn hóa tư bản. Không phải ngẫu nhiên mà đám trí giả ca tụng việc bỏ âm lịch là một cuộc cách mạng vĩ đại của Nhật Bản và thúc giục Việt Nam học theo điều đó. Cái giá Việt Nam phải trả sẽ là rất khủng khiếp, nhưng đám trí giả đâu có thèm quan tâm đến sự khủng khiếp đó, đối với họ cuộc cách mạng đó sẽ đưa họ lên địa vị thống trị, với tư cách là những kẻ môi giới của phương Tây. Miệng thì rêu rao rằng muốn Việt Nam trở nên hùng cường nhưng đằng sau những lời dối trá đó là âm mưu bán rẻ Việt Nam cho phương Tây, dìm Việt Nam vào vũng bùn tăm tối mất gốc, trở thành một thứ nô lệ văn hóa, đấy là bản chất của đám trí giả ngày nay.

Nếu ai đó hỏi tôi về việc ăn Tết theo dương lịch thì tôi sẽ trả lời như thế này: Khi nào Việt Nam đủ giàu, cả thế giới sẽ chung vui Tết âm lịch với Việt Nam.

Sunday, August 27, 2017

Chủ nghĩa tư bản và nền sản xuất hàng hóa nhỏ

Trong nhiều cuộc thảo luận về kinh tế chính trị, tôi để ý thấy rằng phần lớn những người tham gia đều cho rằng chủ nghĩa tư bản đối lập với sản xuất nhỏ. Điều này diễn ra ở hai khía cạnh. Thứ nhất, chủ nghĩa tư bản làm phá sản nền sản xuất nhỏ để tạo ra một đội quân làm thuê đồng thời tiêu thụ hàng hóa do nhà tư bản sản xuất ra. Thứ hai, chủ nghĩa tư bản thống trị dựa vào bóc lột giá trị thặng dư từ lao động làm thuê, do vậy nó độc lập với nền sản xuất hàng hóa nhỏ và không có lợi ích gì từ nền sản xuất nhỏ. Tóm lại, chủ nghĩa tư bản xung đột với nền sản xuất nhỏ và cần phải phá hủy nền sản xuất nhỏ.

Điều đó có đúng không? Nếu người ta chỉ đọc quyển 1 của bộ Tư Bản thì điều đó rất đúng. Sở dĩ như vậy là bởi vì toàn bộ phần đầu Marx trình bày quan hệ sản xuất tư bản dưới dạng bản chất nhất của nó, tạm gác lại mối quan hệ của nó với toàn bộ nền sản xuất, trong đó có bộ phận sản xuất hàng hóa nhỏ và tự cấp tự túc.

Vấn đề ở đây là gì? Hãy nhìn vào lịch sử, nếu theo lập luận đã nêu trên thì sau hơn hai trăm năm phát triển, chủ nghĩa tư bản phải phá hủy hoàn toàn nền sản xuất hàng hóa nhỏ và biến tất cả thành lao động làm thuê. Nhưng điều đó không xảy ra, ngược lại, lịch sử cho thấy chủ nghĩa tư bản tạo dựng được sản xuất hàng hóa lớn ở chỗ này thì lại duy trì sản xuất hàng hóa nhỏ, thậm chí là cả phương thức sản xuất lạc hậu hơn ở chỗ khác. Chúng ta có thể giải thích thế nào về chế độ thực dân kiểu cũ và kiểu mới kéo dài cho đến tận nay ở nhiều nước trong khi chủ nghĩa tư bản vẫn phát triển ở một số nước. Chúng ta giải thích ra sao về hàng sa số các hộ sản xuất hàng hóa nhỏ, nông dân tự cấp tự túc vẫn tồn tại bên cạnh các tập đoàn đa quốc gia.

Hơn nữa, lịch sử cũng đặt ra câu hỏi khác, nếu nền sản xuất hàng hóa nhỏ và chủ nghĩa tư bản độc lập nhau, không có mối liên hệ kinh tế nào ngoài mâu thuẫn sống còn vậy thì sự tồn tại của nền sản xuất hàng hóa nhỏ có phải là sự suy thoái của chủ nghĩa tư bản không. Điều này sẽ dẫn đến con đường kỳ quặc mà giai cấp tiểu tư sản vẫn tán dương, đó là chỉ cần tước đoạt sản xuất lớn, chia đều cho người lao động, biến mỗi người lao động thành một tiểu chủ, thế là có chủ nghĩa xã hội.

May mắn thay, Marx cũng đã đưa ra câu trả lời cho vấn đề này ở quyển thứ 3 của bộ Tư Bản, phần đó nằm trong sự phân tích quá trình chuyển hóa giá trị thành giá cả, tức là phân tích toàn bộ nền sản xuất tư bản. Khi xem xét quá trình chuyển hóa giá trị thành giá cả, Marx đã chỉ ra rằng ngay khi hình thành giá cả sản xuất thì một phần giá trị thặng dư do công nhân tạo ra đã chuyển từ bộ phận có cấu tạo hữu cơ thấp sang bộ phận có cấu tạo hữu cơ cao. Điều này có nghĩa là bên cạnh những bộ phận sản xuất lớn, có cấu tạo hữu cơ cao thì chủ nghĩa tư bản không thể tách rời bộ phận sản xuất nhỏ có cấu tạo hữu cơ thấp. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì nó lại càng cần một nền tảng lớn những đơn vị sản xuất có cấu tạo hữu cơ thấp để cung cấp giá trị thặng dư cho phần có cấu tạo hữu cơ cao.

Điều này sẽ góp phần làm sáng tỏ sự tồn tại của nền sản xuất hàng hóa nhỏ trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản. Thứ nhất, chủ nghĩa tư bản phá hủy nền sản xuất nhỏ để tạo ra đội quân làm thuê và tiêu thụ hàng hóa, nhưng mặt khác lại không ngừng tái tạo lại nền sản xuất hàng hóa nhỏ dưới khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, tức là sản xuất hàng hóa và chịu sự chi phối của quy luật giá trị. Thông qua quy luật giá trị, chủ nghĩa tư bản với lợi thế của khoa học và công nghệ sẽ tước đoạt một phần giá trị thặng dư của nền sản xuất nhỏ.

Điều này giải thích được sự tồn tại của chủ nghĩa thực dân và cách thức chủ nghĩa tư bản thống trị toàn cầu dựa vào một số nước phát triển và duy trì sự kém phát triển ở các nước khác. Khi mà các nước tư bản phát triển ngày càng phụ thuộc vào việc tước đoạt nền sản xuất nhỏ để duy trì sự phồn thịnh của họ đồng thời nuôi dưỡng một đạo quân thất nghiệp khổng lồ thì cũng có nghĩa là chủ nghĩa tư bản đã qua thời thanh xuân và trở thành một thứ ăn bám đúng nghĩa. Song điều đó không có nghĩa là nền sản xuất hàng hóa nhỏ là cứu cánh cho loài người, ngược lại nền sản xuất nhỏ đã trở thành nô lệ của chủ nghĩa tư bản, nó vĩnh viễn không thể phát triển độc lập, nếu được tự do thì sự tích lũy trong lòng nó sẽ lại sinh ra chủ nghĩa tư bản vì nó hoạt động theo quy luật giá trị, là quy luật của chủ nghĩa tư bản. 

Tóm lại, nền sản xuất hàng hóa nhỏ dưới sự thống trị của chủ nghĩa tư bản đã trở thành một bộ phận của chủ nghĩa tư bản, nó không thể tồn tại độc lập với chủ nghĩa tư bản. Nền sản xuất hàng hóa nhỏ là cần thiết với chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn độc quyền và đế quốc, chính vì vậy nó sinh ra mâu thuân giữa các nước tư bản trên quy mô quốc tế. Giai cấp tư sản ở quốc gia phát triển luôn muốn duy trì sản xuất hàng hóa nhỏ ở các nước chậm đang triển, ngược lại giai cấp tư sản ở các nước đang phát triển lại muốn phá vỡ nền sản xuất hàng hóa nhỏ để mở rộng nền sản xuất tư bản của họ. Chiến tranh thế giới là kết quả tất yếu của mâu thuẫn đó. Song chủ nghĩa tư bản vốn thống trị chủ yếu nhờ vào quy luật giá trị nên chiến tranh phải nhường chỗ cho các hiệp định thương mại tự do, một thứ hợp đồng nô lệ hiện đại.

Tuesday, April 11, 2017

Làm thế nào để khỏi bị cảnh sát Mỹ bắn chết vô cớ?

Một Việt Kiều ba que xứ Cali hoa lệ về thăm nhà vào đúng dịp 8/3, tình cờ gặp một dư luận viên ba củ. 

Việt Kiều ba que khoa trương: Mày biết không, ở Mỹ con chó đứng thứ nhất, trẻ con đứng thứ hai, phụ nữ đứng thứ ba, còn đàn ông đứng thứ tư. Phụ nữ Mỹ được tôn trọng vậy nên không cần ngày lễ hay hoa hoét rình rang gì hết. Xứ văn minh đâu có chuyện coi thường phụ nữ rồi vẽ vời lễ lạt này nọ như ở đây.

Dư luận viên ba củ liền hỏi lại: Mỗi năm cảnh sát Mỹ lỡ tay bắn chết vài ngàn mạng vô cớ mà chả sao, giữ kỷ lục thế giới về việc bắn chết người vô cớ luôn. Mày biết làm sao để khỏi bị cảnh sát bắn chết khi đi đường ở Mỹ không?

Việt Kiều ba que lúng túng hồi lâu rồi trả lời: Ờ tao không biết, mày nói thử cái coi.

Dư luận viên ba củ nói: Hãy bò ra đường và sủa gâu gâu!

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí, nhưng không nhất thiết khác với sự thật.)


Wednesday, September 7, 2016

Hàn Quốc: Tham nhũng cộng sinh với sự phát triển kinh tế thần kỳ

Tham nhũng gắn liền với sự tăng trưởng thần tốc là vấn đề bế tắc của cả nghiên cứu về tham nhũng cũng như mô hình tăng trưởng kinh tế của các nước công nghiệp mới (NIC). Tuy vậy, điều này không quá xa lạ khi được đối chiếu với lịch sử hình thành của các nước tư bản phương Tây. Hàn Quốc là một trường hợp điển hình ở Đông Á cho thấy tham nhũng gắn liền với công nghiệp hóa và phát triển kinh tế thần tốc. Hiện nay, Hàn Quốc đã trở thành một nước phát triển nhưng vẫn tiếp tục phải đối mặt với nạn tham nhũng trong cả chính quyền cũng như doanh nghiệp tư nhân. Trong quá khứ, chính quyền Hàn Quốc đã trực tiếp can thiệp vào kinh tế, chỉ đạo các doanh nghiệp phát triển theo định hướng, cung cấp tín dụng ưu đãi, ưu đãi về các điều kiện hành chính và kinh doanh, đổi lại sẽ nhận được những khoản lại quả hậu hĩnh của doanh nghiệp để đầu tư cho mạng lưới bảo trợ về chính trị, tức là doanh nghiệp và chính quyền cùng nhau củng cố sự thống trị và đàn áp người lao động. Trong tình hình đó thì nạn tham nhũng cũng gạt bỏ các tổ chức chính trị của người lao động và vì vậy nó gắn liền với sự tích lũy tư bản nhanh chóng của Hàn Quốc. Các nhóm tài phiệt lớn của Hàn Quốc đều được hình thành trong giai đoạn đầy tham nhũng của Hàn Quốc và vươn lên trở thành các đế chế tư bản quốc tế, mặc dù họ vẫn tuân thủ theo các truyền thống quan hệ dựa trên địa phương, gia tộc hoặc cá nhân. Điều này cho thấy chủ nghĩa tư bản trên một góc độ nào đó đã thích nghi với những truyền thống lâu đời của xã hội phương Đông.

Dưới đây là bản dịch bài báo “Corruption and NIC development: A case study of South Korea” của Jonathan Moran, Khoa Kinh Doanh, Đại học John Moores Liverpool, Anh Quốc.

Tham nhũng và sự phát triển của NIC: Một nghiên cứu điển hình về Hàn Quốc

Tóm lược. Cuộc tranh luận về tham nhũng và thành tích kinh tế đã nghiêng ngả từ lập trường này sang lập trường khác trong nhiều thập kỷ. Vào những năm 1960, trường phái tư tưởng gắn với lý thuyết hiện đại hóa cho rằng tham nhũng thường có quan hệ tích cực với tăng trưởng kinh tế (Huntington, 1968: Leff, 1964). Sau đó, tham nhũng bị coi là tai hại đối với sự tăng trưởng do phá hoại cơ sở của các chính sách công ổn định, duy lí cũng như sự phân bổ thông qua thị trường (Rose-Ackerman, 1978; Theobald, 1990), tham nhũng vẫn được đánh giá theo tình huống đó cho đến hiện nay, đặc biệt là sau “sự bùng nổ tham nhũng” của những năm 1990 (Alam, 1989; Leiken, 1997; Naim, 1995). Các nước Đông Á đóng vai trò là các nghiên cứu điển hình quan trọng về vai trò của tham nhũng trong công nghiệp hóa: bài báo này tập trung vào Hàn Quốc. Thứ nhất là do tham nhũng đồng tồn tại với sự phát triển. Thứ hai, tham nhũng ở Hàn Quốc  vào nhiều thời điểm khác nhau là thực dụng, gây hại, phi lý và hợp lý, nhưng luôn luôn hiện diện trong thời kỳ công nghiệp hóa thần tốc. Dĩ nhiên điều này không hàm ý cho rằng tham nhũng nuôi dưỡng tăng trưởng hay khuyến nghị tham nhũng như là một lựa chọn chính sách cho các nền kinh tế đang phát triển hay đang chuyển đổi, do có bằng chứng cho thấy trong nhiều trường hợp thì tham nhũng là có hại cho sự phát triển. Bài báo này tìm hiểu vai trò của tham nhũng trong sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc để hiểu rõ hơn về bản thân hiện tượng tham nhũng.

Dẫn nhập

Đông Á có một vị trí ngoại lệ trong cuộc tranh luận về tham nhũng và thành tích kinh tế. Thứ nhất, bằng chứng cho thấy mức độ tham nhũng cao bất thường đã đồng tồn tại với sự tăng trưởng kinh tế thần tốc. Câu trả lời thường là giả định không có sự tồn tại của hiện tượng này, ví dụ như Alam khẳng định: “Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore là những nước không có tham nhũng mang tính hệ thống” trong khi Indonesia dường như chỉ tham nhũng dưới thời Sukarno (Alam, 1989, p.444). Logic ở đây là rõ ràng: do những nước này đã phát triển về kinh tế nên họ không thể có tham nhũng mang tính hệ thống. Hay nói cách khác, tham nhũng được giải thích là xảy ra ở mức độ không nghiêm trọng hoặc không tập trung (Wade, 1990) hoặc không phù hợp với quá trình phát triển kinh tế chủ đạo. Tuy vậy, những bê bối gần đây ở Hàn Quốc, Đài Loan và Indonesia cũng như những bê bối hiện tại ở Nhật Bản đã cho thấy một quá trình đã tồn tại – và là hệ thống – trong nhiều thập kỷ.

Thứ hai, kết quả là mọi phân tích triệt để về tham nhũng hầu như đều vắng mặt trong các công trình về tăng trưởng kinh tế Đông Á. Trong công trình nổi bật về sự phát triển của Châu Á, Robert Wade chỉ dành 5 trong số 393 trang cho tham nhũng, coi tham nhũng chỉ là thứ diễn ra ở cấp độ thấp (Wade, 1990). Các bộ sách tăng lên nhanh chóng của các cựu kỹ trị đã từng thi hành các chính sách cấp cao trong thời kỳ công nghiệp hóa cũng lảng tránh tham nhũng, thường là theo nguyện vọng của họ về việc không tiết lộ các hành động phi pháp và/hay mong muốn được tái tuyển dụng trong tương lai. Trong nhiều năm gần đây, nhiều nhà kỹ trị - một số người đã viết những tác phẩm về sự phát triển kinh tế không có tham nhũng của Hàn Quốc – đã bị cáo buộc về liên quan đến tham nhũng và tiết lộ thông tin.

Thứ ba, một phần lý do của việc phân tích hiện tượng này một cách miễn cưỡng là mức độ tham nhũng cao tạo ra các vấn đề cho những mô hình phát triển cố gắng giải thích sự tăng trưởng thần tốc. Nhiều công trình cổ điển về công nghiệp hóa Hàn Quốc của cả cánh tả và cánh hữu đều dựa vào các khái niệm (của Weber hay Khổng Tử) về một giới hành chính duy lý, độc lập, trong việc triển khai các kế hoạch phát triển quốc gia. Nếu như tham nhũng tồn tại thì đó là do giới thượng lưu chính trị, họ nhận các khoản lại quả lớn còn các công chức thì không nhận được gì. Điều này đã hoàn toàn bỏ qua (a) hoàn cảnh chính trị tổng thể của sự phát triển và (b) cách thức mà giới công chức, kinh tế và thượng lưu chính trị ở Hàn Quốc (cũng như Đông Á) đã tham gia sâu vào các hoạt động phi pháp, bóp hầu bóp cổ, tìm kiếm đặc lợi, vân vân. Các công trình gần đây đã bắt đầu mô tả vai trò của tham nhũng trong sự tăng trưởng kinh tế thành công và chỉ ra sự quan trọng của việc phân phối quyền lực chính trị đối với tác động kinh tế tích cực hay tiêu cực của tham nhũng (Khan, 1996; 1998). Tuy vậy, việc áp dụng một tầm nhìn lịch sử/theo bối cảnh vẫn là cần thiết.

Bài báo này lập luận rằng mức độ tham nhũng cao đã đồng tồn tại với sự tăng trưởng kinh tế và cho rằng giới công chức đã (a) bện chặt với giới lãnh đao chính trị, (b) bản thân giới công chức là tham nhũng, (c) việc xây dựng chính sách kinh tế không chỉ là duy lý/Khổng Giáo mà còn bị chính trị hóa sâu sắc và (d) sự hiện diện của tham nhũng có tác động đến tăng trưởng kinh tế, nếu không rõ ràng trong ngắn hạn, tức là sự ổn định dài hạn.

Nhà nước, sự phát triển và hoàn cảnh tham nhũng ở Hàn Quốc

Sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc đã thể hiện hai đặc trưng sau: công nghiệp hóa thần tốc gắn với sự biến đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang một nền công nghiệp đa dạng với công nghiệp nặng, hóa chất, điện tử, chế tạo máy và công nghệ cao, vài trò to lớn của nhà nước trong việc tạo dựng, củng cố thị trường và kiểm soát đầu tư, cuối cùng là vai trò của xuất khẩu trong việc định hướng tăng trưởng.

Nhà nước là một biến số quan trọng trong các cuộc tranh luận về phát triển. Chủ đề đã thay đổi từ giải thích mô hình tăng trưởng theo định hướng thị trường của Hàn Quốc sang nghiên cứu vai trò to lớn của nhà nước, nhưng bản thân điều này này lại bị thay thế bằng chủ đề về cách thức nhà nước tương tác với thị trường. Tuy vậy, vai trò của nhà nước là trung tâm, bất kể là sửa chữa các méo mó của thị trường hay các chính sách củng cố. Bên cạnh đó, vai trò chính trị/cưỡng bức của nhà nước cũng không thể đặt ra ngoài sự phát triển. Các thức mà nhà nước đàn áp cả người lao động cũng như giới kinh doanh là nhân tố sống còn, như là bản chất chính trị của việc lập chính sách nói chung.

Mặc dù các di sản của chế độ thực dân Nhật Bản và thời kỳ hậu chiến là quan trọng song sự phát triển của kinh tế Hàn Quốc hiện đại có thể coi là bắt nguồn những thay đổi kinh tế được áp dụng sau cuộc đảo chính quân sự năm 1961, vốn được coi là sự trỗi dậy của một nhà nước mạnh, độc lập với các lợi ích cục bộ. Nhà nước kiểm soát kinh doanh, người lao động và các nhóm xã hội dân sự trong một hệ thống gần như hợp tác xã mà quân đội đóng vai trò là xương sống của chế độ và các cơ quan tình báo kiểm soát hoàn toàn sự bất đồng. Trên phương diện kinh tế, các Kế Hoạch Năm Năm liên tiếp được xây dựng dựa trên sự kiểm soát toàn diện của nhà nước đối với hệ thống tài chính. Nhà nước cung cấp sự hỗ trợ và phần thưởng cho doanh nghiệp thường xuyên – nếu không nói là luôn luôn – kết hợp với các tín hiệu của thị trường. Hơn nữa, uy tín của chính sách kinh tế chủ yếu dựa trên quyền lực chính trị của tổng thống và Cục Tình Báo Trung Ương Hàn Quốc (KCIA).

Về tham nhũng thì nhà nước cũng quan trọng song không phải là biến số duy nhất. Sự tham nhũng ở Hàn Quốc bắt nguồn từ sự tác động qua lại của nhiều nhân tố lịch sử và cấu trúc. Nhà nước mạnh là sống còn nhưng các lực lượng xã hội (cụ thể là các nhóm doanh nhân mới) yếu và truyền thống về mạng lưới bảo trợ-thân hữu (guanxi) của các gia đình, trường học, các mối liên hệ địa phương, vân vân. Phần tiếp theo sẽ giải thích ngắn gọn những điểm này.

Ngay cả trước khi được thành lập như một nhà nước có chủ quyền vào năm 1948, Hàn Quốc đã mang đặc trưng là quyền lực trung ương mạnh. Thời kỳ cai trị tàn bạo của đế quốc Nhật Bản 1910-1945 gắn liền với chương trình hiện đại hóa cưỡng bức theo cái được gọi là một nhà nước “phát triển thái quá”, tức là các chức năng chính trị, hành chính, cưỡng bức và kinh tế quá lớn so với quốc tế (Cumings, 1984). Mô hình nhà nước mạnh đã sống sót qua các cuộc nội loạn hậu chiến và Chiến Tranh Triều Tiên. Một phần là nhờ vào Chính Quyền Quân Sự Hoa Kỳ (AMG) trong khoảng thời gian 1945-48, duy trì các chức năng cưỡng bức của nhà nước để đàn áp các hoạt động dân túy, cánh tả và cộng sản. Syngman Rhee, tổng thống từ năm 1948 đến 1960, đã tuyển mộ lực lượng cảnh sát, mật vụ và các nhóm du kích cánh hữu để đe dọa các đối thủ và thao túng các cuộc bầu cử cho đến khi ông ta bị các cuộc biểu tình của sinh viên lật đổ. Tuy vậy, nhà nước quyền lực đã mở rộng và hồi phục sau cuộc đảo chính năm 1961 của Park Chung Hee. Dân chủ “có quản lý” được áp dụng sau cuộc đảo chính chỉ chấm dứt vào năm 1972 để nhường chỗ cho một nhà nước an ninh quốc gia trưởng thành hoàn toàn, khi mà Park dường như sẽ thất bại trong bầu cử. Một cuộc đảo chính khác vào năm 1980 sau vụ ám sát Park đã đưa một chính quyền do quân đội hậu thuẫn khác dưới sự lãnh đạo của Chun Doo Hwan lên cầm quyền. Do đó, trong giai đoạn 1961-1987, nhà nước quân sự đã thống trị sự phát triển chính trị ở Hàn Quốc. Sự yếu đuối của các nhóm xã hội dân sự là một đặc trưng quan trọng liên quan tới hoàn cảnh tham nhũng. Ví dụ, so với Mỹ Latin thì tổ chức của người lao động yếu và hoàn toàn bị AMG cũng như chính quyền Rhee vô hiệu hóa. Các nhóm xã hội dân sự khác cũng yếu do các cấu trúc tiền thuộc địa hoặc sự biến đổi hiện đại của chế độ thuộc địa và Chiến Tranh Triều Tiên. Các nhóm kinh doanh/doanh nhân (cũng giống như Đông Bắc Á – ngoại trừ Nhật Bản – và Đông Nam Á) rất nhỏ bé về quy mô, nguồn lực và sự hợp pháp chính trị. Tầng lớp kinh doanh ở Hàn Quốc rất yếu và không được ưa thích do sự hợp tác của họ với người Nhật. Những tính chất đó được củng cố thêm bằng những thỏa thuận tham nhũng của họ với chính quyền Rhee và việc họ kiếm lợi trong Chiến Tranh Triều Tiên.

Nhiều mạng lưới bảo trợ-thân hữu phi chính thức đan kết với quan hệ đó, ví dụ các mối liên hệ địa phương. Tỉnh phía nam Kyongsang là căn cứ của nhóm sĩ quan quân sự tổ chức đảo chính vào năm 1961, trong đó có Park Chung Hee và cháu vợ của ông ta là Kim Jong Pil, người sáng lập tổ chức KCIA. Cuộc đảo chính đã củng cố sự thống trị của Kyongsang. Cả Chun Doo Hwan, người tổ chức đảo chính năm 1979-80 sau vụ ám sát Park, lẫn Roh Tae Woo (người giúp Chun lên nắm quyền, sau này vào những năm 1980 đổi phe thành dân chủ và thắng cử tổng thống năm 1987) đều có liên quan đến tỉnh này. Trong số 20 tập đoàn doanh nghiệp lớn nhất (chaebol), chín người sáng lập xuất thân từ Kyongsang, ba trong số năm tập đoàn doanh nghiệp lớn nhất cũng vậy (Chon, 1992, p.168). “Số lượng người lớn bất thường có xuất thân từ tỉnh Kyongsang tham gia vào các vị trí có ảnh hưởng sâu sắc trong chính quyền và công nghiệp” (Chon, 1992, p.166). Kim Woochoong, người sáng lập tập đoàn Daewoo đã được tham gia vào mạng lưới quyền lực do bố ông ta đã dạy Park Chung Hee ở trường Kỹ Thuật Taegu. Trong Kyongsang, “phái T-K” (trường Kỹ Thuật Taegu/trường Sư Phạm Trung Học Kyongbuk) là mối quan hệ quan trọng nhất, các thành viên của chúng và hậu duệ của họ đã thống trị các thiết chế quân sự/an ninh và chính trị. Các mối quan hệ khác cũng được thiết lập, thường là các liên minh địa phương trong trường học, Học Viện Quân Sự, cựu sinh viên. Một mạng lưới các mạng lưới được mở rộng, kết nối quân đội, chính trị và kinh doanh, thường xuyên được bổ sung bằng các hội nhóm bí mật hoặc phi chính thức. Ví dụ, trước cuộc cải cách dân chủ, quân đội kiềm chế khoảng 40 hội nhóm bí mật, nổi tiếng nhất là Hanahoe (Một Tư Duy), cơ sở mà Chun Doo Hwan dùng để tổ chức đảo chính vào năm 1980. Giới thượng lưu nhà nước là các nhân tố chủ chốt trong những quan hệ đó.

Động lực khiến tham nhũng nở rộ cả trong nền dân chủ yếu (1948-1961) lẫn chế độ quân sự (1961-1987) bắt nguồn từ tác động qua lại của nhiều yếu tố: nhà nước mạnh, các nhóm xã hội dân sự yếu và hoạt động của các nhóm có mối liên hệ “bí ẩn” (della Porta and Pizzorno, 1996). Mối quan hệ đã phát triển, coi dấu hiệu của các thể chế hiện đại là năng lực, sự lập kế hoạch và tổ chức, mà tổ chức lại được thâm nhập bằng quan hệ cá nhân, các hội nhóm và các mạng lưới phi chính thức. Động lực này đã thường xuyên bị bỏ qua khi xem xét sự tăng trưởng và tham nhũng của Hàn Quốc.

Vấn đề tham nhũng ở Hàn Quốc: chính quyền Rhee 1948-1960

Để giải thích cách tham nhũng đồng tồn tại với sự tăng trưởng kinh tế thì cần phải nghiên cứu Hàn Quốc trong những năm 1950, khi tham nhũng đã gây tổn hại rõ ràng cho sự phát triển kinh tế. Các chính sách chính trị và hệ tư tưởng của Syngman Rhee dựa trên việc duy trì sự cai trị của bản thân ông ta, sự thống nhất bán đảo Triều Tiên và một lập trường chống Nhật Bản. “Chính sách” kinh tế của ông ta thể hiện khát vọng nắm quyền lực vĩnh viễn. Kinh tế Hàn Quốc có đặc trưng là sự kiểm soát chặt chẽ đối với sản phẩm nội địa và sự phân bổ tài chính bắt nguồn từ Chiến Tranh Triều Tiên. Hơn nữa, nền kinh tế cũng được bảo vệ trước sự cạnh tranh quốc tế, hàng nhập khẩu được kiểm soát bằng giấy phép và các khoản viện trợ quốc tế cần thiết được cung cấp dưới dạng không hoàn lại, viện trợ kỹ thuật và lương thực, vân vân. “Mục tiêu chủ chốt của kinh tế đối ngoại Hàn Quốc dưới thời Rhee là tối đa hóa dòng viện trợ kinh tế và quân sự từ các nguồn công ích; dòng tư bản từ các nguồn lực tư nhân không được khuyến khích” (Westphal et al., 1979: 360). Rhee hoàn toàn nằm trong sự điều khiển của chính quyền Hoa Kỳ, nhất là khi họ cần ông ta trong vai trò của một đồng minh chống cộng.

Rhee sử dụng ảnh hưởng của ông ta đối với viện trợ nước ngoài và kinh tế nội địa để tạo ra cấu trúc bảo trợ-thân hữu liên kết cộng đồng kinh doanh yếu của Hàn Quốc. Những người kinh doanh thân hữu nhận được các hãng trước đây thuộc về người Nhật với giá thấp, các giấy phép nhập khẩu hàng hóa khan hiếm, các khoản vay bằng đồng dollar cũng như các lợi thế khác giúp cho họ độc quyền trên thị trường. “Tỷ lệ chênh lệch 3:1 của tỷ giá thị trường ngoại hối chính thống và chợ đen có thể khiến bất cứ ai cũng có thể tức thì trở nên giàu có nếu như anh ta tiếp cận được việc trao đổi ngoại tệ” và vào lúc đó Rhee phê chuẩn mọi khoản giao dịch ngoại tệ lớn hơn 500 dollar (Kim, 1971, p.24). Đảng Tự Do được cho là đã thu được 50% giá trị của mọi dự án tư nhân nhận viện trợ của Hoa Kỳ (Kim, 1976, p.152). Nền kinh tế bị bóp nặn thông qua việc phân bổ lợi tức đã tài trợ cho Rhee, đảng Tự Do và giới cảnh sát. Rhee đã tẩy chay việc lập kế hoạch và phát triển một giới công chức kinh tế độc lập.

Trong môi trường này, sự tăng trưởng chủ yếu xuất phát từ các hoạt động kinh tế “tổng bằng 0”, sự hình thành lợi nhuận thông qua các hoạt động tìm kiếm lợi tức phi sản xuất (Jones&Sakong, 1980). Việc kinh doanh được phát triển thông qua độc quyền nguồn cung tài chính, đầu vào và hàng hóa tiêu dùng. Samsung và nhiều doanh nghiệp khác đã mở rộng hoạt động trong thời kỳ này, nhưng có thể nói rằng không có viện trợ của Hoa Kỳ thì nền kinh tế sẽ sụp đổ (Mason, 1980, pp.192–205) [1]. Lĩnh vực kinh doanh vẫn yếu về kinh tế và không được ủng hộ về chính trị, đặc biệt là do các hoạt động tìm kiếm lợi nhuận trong Chiến Tranh Triều Tiên và thời kỳ thắt lưng buộc bụng những năm 1950. Nói chung, “Hàn Quốc vào những năm 1950 thể hiện đặc trưng chính trị rõ ràng là thù địch với việc lập kế hoạch phát triển. Chính quyền kém được bảo vệ trước các đòi hỏi của khu vực tư nhân và bị các mạng lưới bảo trợ-thân hữu thâm nhập. Bộ phận quản lý kinh tế là đối tượng can thiệp chính trị của cả bộ phận hành pháp cũng như giới hành chính.” (Haggard, Moon & Kim, 1991, p.855). Người ta có thể nói một cách có lý rằng nếu Hàn Quốc tiếp tục đi theo quỹ đạo đó thì họ sẽ lặp lại kịch bản của Philippines. Trong các khảo sát về triển vọng phát triển tốt nhất vào những năm 1950, Hàn Quốc hiếm khi xuất hiện so với những nước như (nực cười thay) Philippines, Thổ Nhĩ Kỳ và Lebanon.

Cuộc đảo chính quân sự của Park Chung Hee đã đem tới những sự thay đổi quan trọng nhưng cũng vẫn tiếp tục với tham nhũng và tăng trưởng. Park cũng thu gom các viện trợ quốc cần thiết, tạo ra sự độc quyền, cung cấp các khoản vay giá rẻ, các tiếp cận đặc quyền đối với trao đổi ngoại tệ và cấp miễn phí các lợi ích phi chính thống cho doanh nghiệp. Giới hành chính bị chính trị hóa. Tuy vậy, chính quyền mới cũng tạo ra những thay đổi quan trọng. Đó là sự kết hợp của những điều cần thiết cho việc giải thích sự cộng sinh giữa tham nhũng và tăng trưởng. Tham nhũng bị giới hạn bởi những nhân tố cụ thể, cho tới mức độ nhất định mà nhà nước quốc hữu hóa hoàn toàn tham nhũng.

Tham nhũng và chủ nghĩa quốc gia dưới chính quyền Park Chung Hee

Thực tiễn tham nhũng đã tuân thủ khuynh hướng phát triển quốc gia. Bốn nhân tố sẽ được xem xét để giải thích quá trình này:

Hệ tư tưởng nhà nước

Mối quan hệ giữa hệ tư tưởng và tổ chức vật chất là phức tạp nhưng có thể chấp nhận rằng hệ tư tưởng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển xã hội, một quá trình rõ ràng ở Hàn Quốc. Cuộc đảo chính năm 1961 đã không chỉ mang đến sự thay đổi mạnh mẽ trong tổ chức chính trị - từ nền dân chủ trục trặc đến chính quyền do quân đội hậu thuẫn – nó cũng mang đến sự thay đổi chủ chốt trong hệ tư tưởng, với hệ quả tác động đến sự phát triển kinh tế và tham nhũng. Park Chung Hee, lãnh đạo của cuộc đảo chính, cũng như một số các sĩ quan trẻ khác đều chịu ảnh hưởng và trộn lẫn các hệ tư tưởng thu được từ kinh nghiệm của người Nhật. Park thể hiện rõ ràng sự thán phục các nhà lãnh đạo Trung Hưng Minh Trị ở Nhật Bản và công thức “Nước giàu, Quân mạnh”, có nghĩa là mối liên hệ chặt chẽ giữa an ninh quốc gia và phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, người Nhật cũng khẳng định khái niệm phát triển quốc gia dựa trên sự gắn kết xã hội và quay trở lại củng cố sự gắn kết đó. Trung tâm của dạng hợp tác xã này là quan niệm cho rằng các lợi ích cục bộ phải bị đàn áp: cả lao động và doanh nghiệp đều phải chấp nhận quyền lực của nhà nước và phục vụ cho sự phát triển của quốc gia. Park Chung Hee (nực cười thay khi là người quốc gia Hàn Quốc) đã phục vụ quân đội Hoàng Gia Nhật Bản ở Mãn Châu Lý, chứng kiến trước hết quá trình công nghiệp hóa do nhà nước chỉ đạo để phục vụ cho an ninh quốc gia. [2]

Park triển khai những ý tưởng đó sau cuộc đảo chính. Doanh nghiệp đối mặt với một nhà nước chuẩn bị cưỡng ép và quấy rối cũng như hỗ trợ. Chỉ những doanh nghiệp hành động theo lợi ích quốc gia bằng cách tuân thủ sự hướng dẫn của nhà nước và chuyển sang sự tăng trưởng theo định hướng xuất khẩu mới nhận được các lợi ích. Tham nhũng vốn tràn lan dưới thời Syngman Rhee, vẫn tiếp tục trong phạm vi một khuôn khổ mới. Doanh nghiệp nhận được trợ cấp nhờ vào nguồn gốc địa phương của họ hay họ có quan hệ với tầng lớp thượng lưu nhà nước hoặc với Park (Clifford, 1994; Chon, 1992) và có thể nhận được sự đảm bảo bổ sung khi đóng góp tiền bạc. Tuy vậy, nếu họ không thực hiện thì sự hỗ trợ bị cắt giảm hay hủy bỏ: các khoản tiền của doanh nghiệp đảm bảo thái độ thân thiện hoặc tốt đẹp của nhà nước, nhưng hiếm khi là sự đáp ứng tự động và thường xuyên. Khi sao chép cách tiếp cận kiểu doanh nghiệp, các khoản đóng góp sẽ thường xuyên được dựa trên các nguyên nhân xã hội có thể chấp nhận được, như “nạn nhân lũ lụt và các thảm họa tự nhiên khác…tổ chức Chữ Thập Đỏ, quốc phòng, tổ chức USO kiểu Hàn Quốc, liên đoàn chống cộng sản, các tổ chức phúc lợi, các tổ chức thể thao, các quỹ thể thao, các quỹ giáo dục, xây dựng đường tàu điện ngầm” và vân vân (Woo, 1991, p.236 n.82), trên thực tế là sự bổ sung cho hệ thống thuế chưa hoàn chỉnh. [3]

Do đó, vai trò của hệ tư tưởng, tập trung vào sự ảnh hưởng và sự hấp dẫn của hệ tư tưởng “hiện đại” từ các nguồn cụ thể (Nhật Bản và Hoa Kỳ) và hiện thực lịch sử đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng về một khái niệm phát triển cụ thể, cũng như vai trò của tham nhũng trong sự phát triển, của giới thượng lưu quân sự ở Hàn Quốc.

Kinh nghiệm của Hàn Quốc có thể hữu ích khi so sánh với các quốc gia khác trong khu vực. Không giống quân đội Hàn Quốc, có tổ chức cấp bậc bắt nguồn từ lý tưởng về chủ nghĩa tư bản quốc gia của Nhật Bản và hệ tư tưởng quản lý của Hoa Kỳ (Lee, 1968), quân đội Thái Lan áp dụng nghệ thuật lãnh đạo nhà nước truyền thống Đông Nam Á trong chính sách đối ngoại, trong lĩnh vực đối nội thì dựa trên thuốc phiện và một số lĩnh vực kinh tế năng động nhất định để đảm bảo sự cai trị của quân đội (McCoy, 1991, pp.180–192). Việc Hoa Kỳ sử dụng Thái Lan làm căn cứ logistic khổng lồ cho Chiến Tranh Việt Nam đã củng cố kịch bản này. Những năm 1960 là đỉnh điểm của sự hậu thuẫn cho các tướng lĩnh Thái Lan, với việc Hoa Kỳ viện trợ chính thức 2 tỷ dollar từ năm 1965 đến 1975 1975 (Girling, 1981, p.96 n.85) để đảm bảo “một hệ thống phù hợp với Hoa Kỳ sẽ được duy trì ngay cả khi có sự thay đổi về nhân sự (Girling, 1981, p.94). Một sư đoàn Thái Lan tham chiến ở Việt Nam nhưng đóng góp chủ yếu của nước này là căn cứ logistic mà Hoa Kỳ dùng để vận chuyển cho chiến trường Miền Nam Việt Nam, bao gồm đường sá, doanh trại, hậu cần, các cơ sở nghỉ ngơi và giải trí cho lính Mỹ (khoảng 50.000 vào năm 1968-69). Việc đó kéo theo một sự gia tăng lớn bất ngờ về gái bán dâm (Girling, 1981, p.236 n.15). Miền Nam Việt Nam, cũng được Hoa Kỳ tạo ra và hậu thuẫn, lặp lại những kịch bản đó ở cấp độ rất cao. Các ngành thuốc phiện và mại dâm bùng nổ cùng với sự hiện diện quy mô lớn của người Mỹ. Vào năm 1967, một người quan sát đã viết “hoạt động kinh tế ở miền Nam thực tế đã ngừng lại ngoại trừ phục vụ cho chiến tranh; Sài Gòn là một nhà thổ khổng lồ; nằm giữa những người Mỹ, đang cố gắng ít nhiều thúc đẩy một bản sao xã hội của họ ở đất Việt Nam, và đám đông dân chúng đang cố gắng “tái thiết” là những con mèo béo ú ở Sài Gòn” (Sayle được trích dẫn trong Knightley, 1989, p.384). Tham nhũng và chủ nghĩa bè phái quân sự/hành chính trở nên phổ biến, chế độ đã tan rã từ trước khi Bắc Việt thống nhất đất nước (McCoy, 1991, p.260).

Nếu việc Syngman Rhee tiếp tục nắm quyền ở Hàn Quốc, điều đó có thể được coi như là một sự hối lộ khổng lồ và vô ích tại nhà nước chống nổi loạn ở Đông Nam Á. Rhee và Diệm, lãnh tụ Nam Việt Nam từ năm 1955 đến 1962, có sự tương đồng. Cả hai đều cho rằng họ có thể dựa vào sự ủng hộ quân sự của Hoa Kỳ để bảo vệ nền dân chủ yếu kém tham nhũng của họ. Mặc dù Rhee bị sinh viên lật đổ và không có sự can thiệp quân sự, Diệm bị quân đội lật đổ, song quỹ đạo phát triển của hai nước này rất khác nhau. Như đã nói, các sĩ quan trẻ ở Hàn Quốc có nhiều lý tưởng khác nhau về sự phát triển chính trị và kinh tế của Hàn Quốc. Mặc dù các chính sách bắt nguồn từ những lý tưởng này thường mờ nhạt vào lúc đầu và phản ánh sự khác biệt nội bộ của những người đảo chính quân sự, song cùng với thời gian thì họ đã phát triển gắn kết hơn và kết hợp đầu vào từ Hoa Kỳ và Nhật Bản. Do vậy, ở Hàn Quốc, những sĩ quan dưới thời Park Chung Hee đã bắt đầu ngập ngừng và sau đó quyết đoán tái cấu trúc kinh tế, mối quan hệ chính quyền-doanh nghiệp và thậm chí là cả xã hội. Ở Nam Việt Nam và Thái Lan, chính quyền quân sự đã củng cố thêm các thực tiễn trong kinh tế và xã hội. “Giống như ở phần còn lại của Đông Nam Á, các dạng quan liêu lạc hậu của phương Tây đã bám chặt lấy tầng lớp thượng lưu quyền lực truyền thống, tạo ra một sự kết hợp của tham nhũng, truyền thống và hiện đại” (McCoy, 1991, p.200) [4], với những nước như Thái Lan và Nam Việt Nam, chịu tác động bởi sự giao thoa của những ảnh hưởng văn hóa/tư tưởng và tiến trình lịch sử khác nhau, với những liên hệ quốc tế đang thúc đẩy kịch bản quyền lực và thực tiễn chính trị hiện tồn.

Sự độc lập của nhà nước

Sự độc lập của nhà nước đối với các nhóm xã hội có tổ chức là một nhân tố quan trọng để giải thích các quỹ đạo phát triển. Tuy vậy, trong thực tế điều này thường được sử dụng theo cách quá “gọn gàng” trong các phân tích cánh tả hoặc cấu trúc, vốn tập trung vào việc nhà nước/giới hành chính duy lí tách biệt triển khai các chiến lược dài hạn (Haggard, 1990). Sau cuộc đảo chính, giới hành chính được bảo vệ khỏi sức ép xã hội. Tuy vậy, các cơ quan nhà nước và hành chính ở Hàn Quốc vẫn có đặc trưng tham nhũng – trên thực tế việc họ bóp nặn tiền từ doanh nghiệp và cung cấp các lợi ích cho những nhóm nhất định chính là dấu hiệu của sự độc lập mà nhiều tác giả đã tập trung làm rõ. Độc lập với các nhóm xã hội dân sự cho phép nhà nước đặt ra các khuôn khổ của quan hệ bảo trợ-thân hữu và các quy tắc cho tham nhũng, có nghĩa là quốc hữu hóa thực tiễn tham nhũng.

Sau thời kỳ mở rộng nhanh chóng vào những năm 1950, quân đội đã mở rộng về tổ chức, nguồn lực và năng lực. Cuộc đảo chính năm 1961 – được một số chính khách Hàn Quốc coi là không thể tránh khỏi – đã xác nhận các cơ quan quân sự và an ninh là lực lượng thống trị ở Hàn Quốc. Các nhóm xã hội dân sự là tương đối yếu. “Quan hệ trường đại học-báo chí” đã lật đổ Rhee không thể tiếp tục hoạt động như là một nhà nước thay thế hay vận động trong thời gian dài.

Người lao động thì suy yếu và không được tổ chức. Tầng lớp kinh doanh – một trong những nguyên nhân là – bất chấp mối quan hệ với nhà nước dưới thời Rhee, vẫn yếu đuối về chính trị và văn hóa. “Do các doanh nhân truyền thống không có được địa vị đáng kính trọng trong xã hội Hàn Quốc, sự trỗi dậy của họ vào những năm 1950 tạo ra một sự oán giận và nghi ngờ được củng cố thêm bằng mức độ tham nhũng hiện hành” (Cole&Lyman, 1971, p.83). Khi chế độ do quân đội hậu thuẫn được hình thành, một sự tái tổ chức các mối quan hệ nhà nước-xã hội đã diễn ra và sự kiểm soát đối với kinh tế được củng cố, cải cách hay mở rộng. Điều quan trọng là sự kiểm soát nhà nước đối với hệ thống tài chính thông qua quốc hữu hóa đã đạt tới mức độ rất lớn, [5] và dòng tư bản quốc tế từ Hoa Kỳ và từ Nhật Bản vào cuối những năm 1960 chảy vào hệ thống đã giúp cho tầng lớp thượng lưu nhà nước độc lập về tài chính đối với giới kinh doanh bản địa. Tuy vậy, cũng cần phải ghi nhận rằng sự độc lập của nhà nước không đủ để làm cơ sở cho một chiến lược phát triển hiệu quả. Năng lực của nhà nước, tầm ảnh hưởng và phạm vi của nhà nước, phải được kết hợp với tính chất hợp tác của nhà nước; có nghĩa là khả năng tạo dựng và thi hành chính sách thành công (Evans and Rueschemeyer, 1985).Tham nhũng hoạt động trong phạm vi cấu trúc nhà nước này.

Sự độc lập và chính sách

Sức mạnh chính trị bắt nguồn từ các mối liên hệ bảo trợ-thân hữu được tổ chức để phục vụ cho sự phát triển quốc gia. Doanh nghiệp không thể đảo ngược các ưu tiên phát triển của nhà nước trong khi nhà nước có thể quyết định nhóm nào sẽ được cấp nguồn lực để đổi lấy sự ủng hộ. Quá trình tham nhũng trong việc kinh doanh nói chung là trả một khoản tiền lớn mà không có đảm bảo về sự trợ giúp, chỉ là đảm bảo chọn đúng phe nhà nước, trả các khoản lại quả cho nhà nước vì sự trợ giúp trong các dự án phát triển kinh tế hay đóng góp chính trị cho giới thượng lưu nhà nước về các dự án từ thiện hoặc cho phép giới thượng lưu nhà nước xây dựng các căn cứ quyền lực. Tuy vậy, những khoản chi này không được coi là khinh suất do chúng là một phần của quan hệ động lực tổng thể.

Mặc dù cả Chung Ju Yung (Hyundai) và Kim Woo-choong (Daewoo) đều có quan hệ cá nhân với tổng thống Park và nhận được sự hỗ trợ rộng rãi nhưng Park được cho là sẽ chọn người thắng cuộc. Chung xuất sắc trong việc phát triển công nghiệp xây dựng ở Hàn Quốc và nhận được sự hỗ trợ phi chính thống cần thiết khi đáp ứng được mục tiêu phát triển công nghiệp đóng tàu của Park. Kim phất lên nhờ cải cách các ngành thua lỗ. Cho Chung-hun của Hanjin nhận được sự hỗ trợ lớn hơn sau khi thay đổi tình hình của hãng hàng không Hàn Quốc từng thuộc về nhà nước vào những năm 1960. Mặc dù các hãng khác cũng nhận được sự bảo trợ nhưng nếu thất bại thì sự bảo trợ sẽ bị thu hồi. Yonhap Steel, một trong những doanh nghiệp lớn nhất Hàn Quốc vào những năm 1960, có sự bảo trợ của Lee Hu Rak, giám đốc KCIA, nhưng thất bại khi chuyển đổi sang tăng trưởng theo định hướng xuất khẩu, dẫn đến sự suy thoái của họ (Clifford, 1994, p.57). Các hãng cần phải có hiệu quả bởi vì họ sẽ thực hiện để nhận được sự hỗ trợ tiếp theo và phải trả một khoản phần trăm trên sự hỗ trợ nhận được cho nhà nước dưới dạng quỹ chính trị. Các khoản vay được cấp cho doanh nghiệp với điều kiện khoản lại quả được trả cho tổng thống và đảng cầm quyền [6] nhưng đáng chú ý là hành vi này phải tuân thủ hiệu quả về kinh tế.

Một nhà kinh tế học ước lượng rằng khoản lại quả thêm vào mà các hãng xuất khẩu phải trả cho việc được vay với lãi suất ưu đãi đã khiến cho lãi suất vay vốn tương đương với lãi suất thông thường (Patrick, 1994, p.337). Điều tương tự cũng áp dụng với thuế. Các công ty có thành tích cảm thấy sự mập mờ của nhà nước hoặc thậm chí được khuyến khích né tránh đóng thuế. Nói chung là “hệ thống tín dụng và thuế khóa tạo ra một cơ chế tặng thưởng cho thành tích tốt và trừng phạt thành tích tồi. Trong khi sự ảnh hưởng của ủng hộ chính trị hầu như bị xóa bỏ trong hệ thống thuế khóa, các trừng phạt kinh tế vẫn tiếp tục là một phần của việc thu thuế, cả phần thưởng cũng như sự trừng phạt đều là những khía cạnh quan trọng của hệ thống tín dụng” (Mason et al., 1980, p.322). Nói tóm lại, mối quan hệ bảo trợ-thân hữu, sự trợ giúp phi chính thức tiếp đó và sự khuyến khích trong các hoạt động phi pháp đã tồn tại, nhưng trên cơ sở sự hiệu quả thay vì chỉ dựa trên sự ủng hộ chính trị. Sự tương phản sâu sắc với mối quan hệ nhà nước-doanh nghiệp của Châu Phi là rõ ràng.

Ngay cả sự tham nhũng phổ biến dưới thời Chun Doo Hwan cũng tuân thủ khuôn khổ hiệu quả. Ví dụ vào năm 1985, tập đoàn Kukje, là tập đoàn lớn thứ bảy của Hàn Quốc, bị nhà nước giải tán, bề ngoài là do cấu trúc nợ quá hạn nhưng trên thực tế là do chủ tịch của tập đoàn này thể hiện thái độ không sẵn sàng đóng góp cho các quỹ “từ thiện” của Chun, như Ilhae. Tuy vậy, tập đoàn này được tái phân phối cho các tập đoàn khác đã đóng góp hào phóng và nhiều doanh nghiệp nói chung tiếp tục có lợi nhuận dưới trướng của chủ nhân mới (Clifford, 1994, Chapter 16). Trong mối quan hệ mà nhà nước thu gom các khoản đóng góp khổng lồ từ doanh nghiệp, các chiến dịch chống tham nhũng không đóng vai trò như là chính sách theo dõi thường trực để đảm bảo giới hành chính hay nền kinh tế trong sạch, trái lại để “kiểm soát” doanh nghiệp, và cụ thể là những doanh nghiệp kém hiệu quả hay hành động theo cách phá hoại quyền lực nhà nước. Quan hệ tham nhũng nhà nước-doanh nghiệp cần được xem xét trên góc độ động lực.

Tham nhũng đã là một phần tích hợp của mối liên hệ nhà nước-doanh nghiệp và quá trình phát triển thay vì là một hiện tượng bất thường. Doanh nghiệp thường xuyên phàn nàn về “khoản thuế thứ cấp” khổng lồ mà họ buộc phải trả, và vào năm 1992, sau cuộc dân chủ hóa mà Chung Ju Yung của Hyundai đứng về phe tổng thống cũng như tạo ra tư bản chính trị bằng cách chấm dứt khoản đóng góp khổng lồ mà chaebol được “khuyến khích” trả cho các tổng thống Park, Chun và Roh trong nhiều thập kỷ. Tuy vậy, sự trợ giúp phi chính thống/phi pháp mà nhà nước cung cấp cho những công ty thành công như Hyundai là thiết yếu đối với sự phát triển của họ.

Quyền lực chính trị của nhà nước cũng không thể tránh khỏi việc điều chỉnh và triển khai chính sách phát triển. Như Woo đã nói thẳng thừng: “nhà nước làm tiền trở thành mặt trái của nhà nước phát triển tốt lành” (1991, p.199-200). Động lực này phải được phân tích trong câu chuyện về sự phát triển của Hàn Quốc cho dù là từ góc độ kinh tế vĩ mô hay nghiên cứu chính sách công hoặc lịch sử kinh doanh tư nhân (xem Kirk, 1994 hay sau đó). Lập luận được phác thảo ở đây dẫn đến một sự khác biệt nhỏ so với Michell. Ông khẳng định rằng “hệ thống các quan hệ cá nhân phi chính thống đan xen các cấu trúc chính thống (và) quan hệ chính quyền/doanh nghiệp theo cách thức mà ở quốc gia khác sẽ dẫn đến sự phổ biến tham nhũng” đã không hoạt động ở Hàn Quốc bởi vì “kẻ thù bên ngoài và sự hấp thụ mạnh mẽ chủ nghĩa quốc gia kinh tế” (1984, p.36). Trái lại, sự tham nhũng phổ biến ở đây đã được quốc hữu hóa.

Những sức ép bên ngoài

Hai sức ép có tác dụng củng cố khuôn khổ quốc gia đã được mô tả phía trên. Thứ nhất, mối quan hệ bên ngoài với Hoa Kỳ và Nhật Bản tạo thuận lợi cho cả sự phát triển cũng như tham nhũng. Viện trợ bên ngoài và sức ép ngoại giao của Hoa Kỳ đã thúc đẩy Hàn Quốc chuyển từ chiến lược phát triển vốn tạo thuận lợi cho loại tham nhũng làm suy yếu – Công Nghiệp Hóa Bằng Thay Thế Nhập Khẩu – sang một dạng có trật tự hơn – Công Nghiệp Định Hướng Xuất Khẩu (Haggard,Moon & Kim, 1991). Viện trợ của Hoa Kỳ được hứa hẹn khi Hàn Quốc chuyển hướng từ chiến lược sang tự lực cánh sinh và qua đó giảm thiểu viện trợ của Hoa Kỳ. Các khoản tài trợ công không hoàn lại giảm xuống và bị thay thế bằng các khoản cho vay. Mặc dù các khoản cho vay tiếp tục đổ vào Hàn Quốc cho tới cuối những năm 1960 song sự thay đổi đáng kể là sự gia tăng mạnh mẽ của tài chính tư nhân từ Hoa Kỳ, Nhật Bản (do Hoa Kỳ khuyến khích) và Châu Âu, theo sau sự thay đổi trong chiến lược phát triển (Wade & Kim, 1977; Chang, 1982). Nực cười là mức độ gia tăng viện trợ tài chính và các viện trợ khác cho Thái Lan và Nam Việt Nam lại khiến Hoa Kỳ tìm cách tạo ra nền kinh tế tự cường ở Hàn Quốc.

Sự hấp thụ và tăng trưởng kinh tế trong những năm 1960 đã thu hút tài chính tư nhân quốc tế và kết hợp với sự tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc đã tạo ra một nhóm đoan chính mà tham nhũng đóng vai trò nổi bật trong đó. Nhật Bản quan tâm tới sự phát triển của Hàn Quốc vì mục tiêu của họ, cũng giống như các doanh nghiệp và tổ chức Hoa Kỳ đang cho vay hoặc đầu tư. Khoản lại quả khổng lồ là một phụ phẩm của những mối liên hệ tích cực này. Khoảng 2 tỷ dollar tiền lại quả được tạo ra cho nhà cầm quyền Hàn Quốc từ thỏa thuận với các hãng Nhật Bản trong việc xây dựng hệ thống đường tàu điện ngầm Seoul, giám đốc KCIA Lee Hu Rak nhận được 500.000 triệu dollar (Kim, 1978, p.53). Các mối liên hệ giữa công ty Nhật Bản, doanh nghiệp Hàn Quốc và giới thượng lưu nhà nước Hàn Quốc được gọi là yuchaku (cùng nhau phát triển). Một lần nữa, động lực lại là tham nhũng tích cực, cũng như đối với các công ty Hoa Kỳ đầu tư ở Hàn Quốc, không chỉ là tập trung vào hợp đồng của chính quyền mà còn tham gia vào việc mở rộng có lợi nhuận các cơ sở công nghiệp. Do đó, “ít nhất 8,5 tỷ dollar từ quỹ hợp tác của Hoa Kỳ đã chảy vào túi đảng cầm quyền ở Hàn Quốc trong cuộc bầu cử năm 1971” (Congressional Quarterly Almanac, 1978, p.811). Các công ty dầu lửa Hoa Kỳ và các doanh nghiệp lớn khác đã có mối quan hệ đầy lợi nhuận với các quan chức chủ chốt của Hàn Quốc (Kim, 1978, pp.51–52).

Thứ hai, mối đe dọa bên ngoài từ Bắc Triều Tiên cũng làm nổi bật động lực phát triển quốc gia. Ít nhất vào những năm 1950, có thể nói rằng Bắc Triều Tiên hợp pháp hơn Nam Triều Tiên và hơn nữa nếu miền Nam tiếp tục tình trạng mạo hiểm thì miền Bắc có thể tiếp tục tấn công. Một trong những động cơ của cuộc đảo chính năm 1961 là an ninh quốc gia: sự tham nhũng của Rhee không chỉ cản trở các quân nhân chuyên nghiệp, nó còn làm kinh tế đình đốn. Sau cuộc đảo chính, miền Bắc tấn công, mối đe dọa trở thành thường trực, trong đó có việc cử đội ám sát tới ám sát tổng thống Hàn Quốc vào năm 1968 và suýt thành công trong việc ám sát tổng thống Chun Doo Hwan vào năm 1983. Nhưng sự hùng mạnh của kinh tế Hàn Quốc đã củng cố tình hình an ninh quốc gia của họ cũng như ngăn cản chiến lược lật đổ và thống nhất đất nước của miền Bắc.

Những mối liên hệ bên ngoài

Cách thức mà các nhà nước-quốc gia tham gia vào kinh tế thế giới là sống còn trong việc xác định các ưu tiên, nhận thức và quỹ đạo phát triển của nhà nước. Như đã đề cập trước đây trong sự kết hợp với lập luận về hệ tư tưởng và thực tiễn nhà nước, sự tham gia của Thái Lan vào thị trường toàn cầu trong Chiến Tranh Việt Nam đã dựa trên du lịch (và ít lãng mạn hơn là gái mại dâm) như là nguồn thu nhập quốc tế. Tương tự, viện trợ của Hoa Kỳ đã khuyến khích sự tiếp tục cầm quyền của một quân đội trung thành với lợi nhuận của việc buôn bán ma túy toàn cầu (McCoy, 1991). Hàn Quốc không có đặc điểm đó. Mặc dù là một quốc gia hấp dẫn song các cơ hội du lịch và “nghỉ ngơi” dường như là không khả thi trên bán đảo bị chiến tranh tàn phá và một cuộc chiến khác có thể tiếp diễn vào bất cứ lúc nào. Với một ít tài nguyên tự nhiên (không có thuốc phiện và rừng nhiệt đới của Thái Lan) và triển vọng về sự cắt giảm viện trợ của Hoa Kỳ, chiến lược phát triển được áp dụng là hướng tới việc hội nhập quốc tế trên lĩnh vực thương mại. [7] “Chiến lược” kinh tế Công Nghiệp Hóa Thay Thế Nhập Khẩu được theo đuổi dưới thời Syngman Rhee đã thúc đẩy tham nhũng do nó bảo vệ công nghiệp nội địa khỏi sự cạnh tranh đồng thời tạo ra các thiên đường thuận lợi cho việc tìm kiếm lợi tức. Công Nghiệp Hóa Định Hướng Xuất Khẩu (EOI) lại giúp nền kinh tế Hàn Quốc hội nhập vào trật tự kinh tế quốc tế tự do. Tác động của việc đó là các doanh nghiệp Hàn Quốc được đặt vào kỷ luật thị trường thế giới. Các doanh nghiệp nhận được các khoản vay nhờ vào các quan hệ địa phương hoặc cá nhân phải thành công trên thị trường thế giới để tiếp tục nhận được sự trợ giúp (cũng như thiên đường lợi nhuận của họ dưới dạng độc quyền nội địa) do những sự trợ giúp chính thức và phi chính thức của chính quyền được cấp trên cơ sở các lệnh xuất khẩu được đáp ứng (Lim 1981). “Các nhà xuất khẩu có thành tích nổi bật được miễn thế chấp cho các nghĩa vụ hải quan đặc biệt cũng như các nghĩa vụ hải quan nói chung, không phải chịu các cuộc thanh tra thuế bất thường và được ưu tiên trong việc phân bổ ngoại tệ cho các hoạt động kinh doanh” (Kim, 1975, p.272).

Kết luận

Viêc tập trung vào các chi tiết lịch sử cho thấy sau cuộc đảo chính năm 1961 một loạt các nhân tố đan xen với nhau tạo ra một động lực và một khuôn khổ có thể “kiềm chế” tham nhũng. Tham nhũng không giải thích được sự phát triển kinh tế ở Hàn Quốc bằng bất cứ sự liên tưởng nào, nhưng nó cộng sinh với sự tăng trưởng thần tốc và ở một số lĩnh vực thì tạo ra sự linh hoạt cho chính sách kinh tế vốn coi sự chuyển giao nguồn lực cho một số doanh nghiệp có khả năng nhất là cách sử dụng chúng tốt nhất. Người ta có thể lập luận rằng tham nhũng làm chậm sự phát triển kinh tế ở Hàn Quốc – điều này là đúng trong trường hợp những năm 1950 – nhưng điều này sẽ là võ đoán trong trường hợp công nghiệp hóa cực nhanh và thành công của những năm 1960.

Rõ ràng là tham nhũng là sự bế tắc trong các nghiên cứu về sự phát triển của Đông Á dựa trên các khái niệm “thuần khiết” về sự độc lập của nhà nước, các mối liên hệ nhà nước-xã hội và vai trò của chính sách công đối với sự phát triển. Bài báo này cố gắng thúc đẩy các nghiên cứu tiếp theo thể hiện phân tích lịch sử xuyên suốt về các thức hình thành chính sách một cách chính xác và sự triển khai được thực hiện trong môi trường mang tính chính trị. Đây là tính chất chung cho hoàn cảnh của tham nhũng tại các nước NICs ở Đông Á (nhà nước mạnh, giới kinh doanh bản địa yếu, sự phổ biến của các mạng lưới phi chính thống). Tuy vậy, kinh nghiệm không điển hình của Hàn Quốc ở đây không phải là sự biện minh cho lập luận chung rằng tham nhũng vừa tích cực vừa tiêu cực. Hơn nữa, tham nhũng luôn đi kèm với những phí tổn cụ thể, ngay cả khi nó cộng sinh với sự phát triển nhanh thần tốc: “tham nhũng có thể được kiểm soát bằng cách thay đổi đặc tính của nó nhưng quan trọng nhất là không bị phá hủy” (Werner, 1983, p.638). Bằng chứng về phí tổn của tham nhũng là rõ ràng, như hệ thống tài chính đang cần có sự tái cấu trúc và là cốt lõi của các bê bối chính trị và trên góc độ phát triển chính trị nói chung. Trong hiện tại, bằng chứng cho thấy rất khó có thể xóa bỏ tham nhũng mang tính cấu trúc trong kinh tế chính trị Hàn Quốc và nhấn mạnh sự thật rằng sự cộng sinh của tham nhũng và phát triển kinh tế có những tác động dài hạn mà giờ mới bộc lộ rõ ràng, nếu không nói đến những tác động ngắn hạn.

Chú thích

1. Theo các công trình mới được điều chỉnh (Michell, 1981; Lie, 1997), sự tăng trưởng kinh tế nghèo nàn không chỉ là lỗi của chính quyền Rhee mà còn do chính quyền Hoa Kỳ, vốn đang kiểm soát các lĩnh vực quan trọng của chính sách kinh tế Hàn Quốc, thúc giục ổn định hóa và tiêu dùng thay vì đầu tư, vốn có thành tích nghèo nàn dưới thời Rhee. Tuy vậy, điều vẫn còn gây tranh cãi là nếu không có ảnh hưởng của Hoa Kỳ thì giới hành chính, vẫn mong muốn một chính sách công nghiệp và phát triển tích cực, có ảnh hưởng gì không, khi mà Rhee quyết định sử dụng kinh tế để đảm bảo cho sự tồn tại của ông ta thông qua các quan hệ bảo trợ-thân hữu với các doanh nhân đầu cơ trục lợi.

2. Quân đội Quan Đông Nhật Bản đã xâm lược Mãn Châu Lý, đổi tên thành tỉnh Manchukuo. Quốc gia độc lập trên hình thức này trên thực tế do quân đội điều hành như là một thực thể độc lập và hoạt động như phòng thí nghiệm cho quá trình phát triển kinh tế và tập trung hóa chính trị dưới sự kiểm soát của nhà nước.

3. Vào đầu những năm 1970, thuế của nhà nước chiếm 14% GPD (Wade and Kim, 1977, p.118) Vào năm 1987 giảm xuống còn 2% (Kwack and Lee, 1991, p.14).

4. Quan hệ bảo trợ-thân hữu đặc trưng của Đông Nam Á thời thuộc địa và độc lập là một hỗn hợp của “hiện đại” – quan hệ đảng phái, các chương trình phát triển, các doanh nghiệp bị quốc hữu hóa, vân vân, và các mạng lưới huyết thống và quê quán truyền thống. “Ở bất kỳ dạng cụ thể nào của chúng, mạng lưới bảo trợ-thân hữu vẫn đóng vai trò là cơ sở chính của các hệ thống liên minh giữa những người không phải họ hàng khắp Đông Nam Á” (Scott, 1972, p.105). Các quan hệ bảo trợ-thân hữu vận hành trong các xã hội và kinh tế kém hiện đại (trên góc độ sự phát triển tổ chức và thể chế) cũng được đặt dưới thống trị của những ảnh hưởng hệ tư tưởng và văn hóa khác nhau ở Đông Nam Á.

5. Khoản tài chính nước ngoài lớn đã tạo ra cho quân đội các quỹ lớn và sự ảnh hưởng thông qua hệ thống ngân hàng nhà nước. “Không có nhà nước nào ngoài khối xã hội chủ nghĩa có thể đạt được biện pháp kiểm soát đó đối với các nguồn lực có thể đầu tư của nền kinh tế” (Datta-Chaudhuri được trích dẫn trong Harris, 1987, p.212 n.9). Viện trợ/khoản vay của Hoa Kỳ cho Hàn Quốc vào giai đoạn 1946-1976 là 12,6 tỷ dollar; viện trợ/khoản vay của Nhật Bản là 1 tỷ dollar; các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp 1,9 tỷ dollar E. Mason et al. (eds. 1980, p.165). Đảng Dân Chủ Tự Do, được quân đội thành lập ngay sau cuộc đảo chính đã nhận được 2/3 ngân quỹ từ các doanh nghiệp Nhật Bản trong giai đoạn 1961-1965  (Woo, 1991, p.86).

6. “Do các khoản vay tư nhân đều phải được chính quyền phê chuẩn và đảm bảo trả nợ, phía Hàn Quốc nhận được các khoản vay nước ngoài phải trả một tỷ lệ nhất định (phổ biến được cho là 10-15% và đôi khi là 20% tổng số tiền) để nhận được sự bảo lãnh của chính quyền”
(Kim, 1976, p.264).

7. Mặc dù Hàn Quốc đi theo con đường tăng trưởng nhờ thương mại, mức độ hội nhập của nền kinh tế nội địa – chịu ảnh hưởng rõ ràng của con đường này – vẫn ở mức thấp: tư bản nước nước ngoài được tìm kiếm bằng con đường vay mượn thay vì FDI và hiếm thấy đầu tư nước ngoài được phê duyệt.

Tài liệu tham khảo

M. Alam (1989) Anatomy of Corruption: An Approach to the Political Eonomy of Underdevelopment. American Journal of Economics and Sociology Vol.48 No.4.

D.-J. Chang (1982) Japanese Corporations and the Political Economy of South Korea-Japanese Relations 1965–1979. PhD Diss. University of California: Berkeley.

S. Chon (1992) Political Economy of Regional Development in Korea. in R. Appelbaum and J. Henderson (eds.), “States and Development in the Asian Pacific Rim.” London: Sage.

M. Clifford (1994) Troubled Tiger: Businessmen. Bureaucrats and Generals in South Korea. East Gate Press: ME Sharpe.

D. Cole and P. Lyman (1971) Korean Development: the Interplay of Politics and Economics. Cambridge Mass: Harvard University Press.

Congressional Quarterly Almanac (1978) “Congress Ends ‘Koreagate’ Lobbying Probe.” Congressional Quarterly Almanac Vol. 34.

B. Cumings (1984) The Origins and Development of the Northeast Asian Political Economy.International Organisation Vol. 38 No. 1.

D. della Porta and A. Pizzorno (1996) The Business Politician: Reflections from a Study ofPolitical Corruption. in M. Levi and D. Nelken (eds.), “The Corruption of Politics and the Politics of Corruption.” Oxford: Blackwell.

P. Evans and D. Rueschemeyer (1985) The State and Economic Transformation. in T. Skocpol, P. Evans and D. Rueschemeyer (eds.), “Bringing the State Back In” Cambridge: Cambridge University Press.

J.L. Girling (1981) Thailand: Society and Politics. Ithaca: Cornell University Press.

S. Haggard (1990) Pathways from the Periphery. Ithaca: Cornell University Press.

S. Haggard, B-K Kim and C. Moon (1991) The Transition to Export-Led Growth in South Korea. The Journal of Asian Studies Vol. 50, No. 4.

N. Harris (1987) The End of the Third World. London: Penguin.

S. Huntington (1968) Political Order in Changing Societies. New Haven: Yale University Press.

L. Jones and I. Sakong (1980) Government, Business and Entrepreneurship in Economic Development: the Korean Case. Cambridge: Harvard.

M. Khan (1996) The Efficiency Implications of Corruption. Journal of International Development Vol. 8, No. 5.

M. Khan (1998) Patron-Client Networks and the Economic Effects of Corruption in Asia Paper presented at the UNDP-PACT and OECD Conference, Corruption and Integrity Improvement Initiatives in the Context of Developing Countries, Paris.

J. Kim(1975) Recent Trends in the Government’s Management of the Economy. in E.R. Wright (Ed) “Korean Politics in Transition” Seattle: University of Washington Press.

J.A. Kim (1976) Divided Korea: the Politics of Development. Cambridge Mass: Harvard University Press.

H. Kim (1978) Statement of Kim Hyung Wook, Former Director Korean Central Intelligence Agency to US Congress Subcommittee on International Organisations, Investigation of Korean-American Relations Part 7.

D. Kirk (1994) Korean Dynasty: Hyundai and Chung Ju Yung. Hong Kong: East Gate Press.

P. Knightley (1989) The First Casualty. London: Pan.

T.W. Kwack and K.S. Lee (1991) Tax Reform in Korea. Korea Development Institute Paper No. 9103.

H.B. Lee (1968) Korea: Time, Change and Administration. Honolulu: East-West Center Press.

N. Leff (1964) Economic Development Through Bureaucratic Corruption. American Behavioural Scientist Vol. 8.

R. Leiken (1997) Controlling the Global Corruption Epidemic. Foreign Policy No.105.

J. Lie (1997) Aid Dependence and the Structure of Corruption: The Case of Post-Korean War South Korea International Journal of Sociology and Social Policy Vol. 17, No. 11–12.

Y. Lim (1981) Government Policy and Private Enterprise: Korean Experience in Industrialisation. Centre for Korean Studies, Berkeley: California.

A. McCoy (1991) The Politics of Heroin. CIA Complicity in the Global Drug Trade. Lawrence Hill Books: USA.

E. Mason et al. (eds. 1980) The Economic and Social Modernisation of the Republic of Korea. Cambridge Mass: Harvard University Press.

T. Michell (1984) Administrative Traditions and Economic Decision-making in South Korea. IDS Bulletin Vol. 15, No. 2.

T. Michell (1989) Control of the Economy During the Korean War: the 1952 Coordination Agreement and its Consequences. in J. Cotton and I. Neary (eds.), “The Korean War in History.” Manchester: Manchester University Press.

M. Naim (1995) The Corruption Eruption. Brown Journal of World Affairs Vol.II, No.2.

H.T. Patrick (1994) Comparisons, Contrasts and Implications. in H.T. Patrick and Y.C.

Park (eds.), ‘The Financial Development of Japan, Korea and Taiwan.’ Oxford: Oxford University Press.

S. Rose-Ackerman (1978) Corruption: A Study in Political Economy. New York: Academic Press.

J.C. Scott (1972) Patron-Client Politics and Political Change in Southeast Asia. The American Political Science Review Vol. 66, No. 1.

R. Theobald (1990) Corruption, Development and Underdevelopment. Durham: Duke University Press.

L. Wade and B. Kim (1977) The Political Economy of Success. Seoul: Kyung Hee Press.

R. Wade (1990) Governing the Market. Princeton: Princeton University Press.

S.B.Werner (1983) The Development of Political Corruption: a Case Study of Israel. Political Studies Vol.XXXI.

L. Westphal et al. (1979) Foreign Influences on Korean Industrial Development Oxford Bulletin of Economics and Statistics Vol. 41, No. 4.

J.-E.Woo (1991) Race to the Swift: State and Finance in Korean Industrialisation. Columbia: Columbia University Press.


Jon Moran is Senior Research Assistant, DFD Corruption Project on corruption and anti-corruption strategies, Liverpool Business School, Liverpool John Moores University.