Showing posts with label Công nghệ. Show all posts
Showing posts with label Công nghệ. Show all posts

Wednesday, May 20, 2015

Chính quyền Hoa Kỳ đã diễn bài "mượn gió bẻ măng" ra sao?

Những vụ đột nhập được coi là của Nga đang trở thành cái cớ để chính quyền biện minh cho việc kiểm soát gắt gao hơn nữa người dân Mỹ. Đó là nội dung bài viết "Who hacked White House" của Justin Raimondo đăng trên tạp chí ColdType số 98 tháng 5 năm 2015. Tiêu đề do người dịch đặt

Khi vụ đột nhập hệ thống máy tính của hãng Sony tạo ra một mớ hỗn độn nực cười, một số “chuyên gia” con cưng của chính quyền đã nhanh chóng lên án Bắc Triều Tiên. Lý do: Do Sony phát hành một bộ phim tuyên truyền chống Triều Tiên, rõ ràng là Vua Jong-un phải chịu trách nhiệm cá nhân. Bên cạnh đó, vụ tấn công có vẻ như xuất phát từ khu vực không gian ảo mà siêu cấu trúc Internet đáng khinh của Triều Tiên tọa lạc. 

Chỉ có một vấn đề với kịch bản thật là dễ chịu này: nó chả có gì ngoài giả định. Một số chuyên gia máy tính – không có liên hệ với chính quyền – đã kịch liệt phản đối giải thích này, ngược lại đã chỉ ra sự thoải mái mà kẻ đột nhập xâm nhập vào hệ thống cho thấy đó chắc chắn là một công việc ở bên trong, công việc của một nhân viên với kiến thức chuyên sâu về hệ thống và là một sự trả thù đối với Sony. Thực tế là cá nhân đó đã nhanh chóng được xác định: một cựu nhân viên mới bị sa thải và thề sẽ trả thù. Mặc dù vậy, Washington với lý do riêng đã phớt lờ bằng chứng hiếm hoi đó và bám lấy câu chuyện của họ: các “chuyên gia” con cưng, những người có lợi ích kinh tế riêng trong việc thổi phồng “mối đe dọa” giả định do những kẻ đột nhật phục vụ cho kẻ thù nước ngoài gây ra – tất cả đều để đảm bảo rằng từng đồng tiền thuế nhỏ sẽ tiếp tục đổ đầy túi của họ.

Giờ chúng ta có một vụ đột nhập khác, được cho là đến từ Nga. Tờ New York Time đưa tin:

“Việc một số thư điện tử của tổng thống Obama đã bị các hacker Nga thu gom thông qua một lỗ hổng của hệ thống máy tính bí mật của Nhà Trắng không chỉ là đột nhập và phiền nhiễu như đã được thừa nhận công khai, theo một kết luận ngắn của quan chức cấp cao Hoa Kỳ trong cuộc điều tra.” 

Không hề có một mẩu bằng chứng nào như danh tính hay quốc tịch của hacker được đưa ra ngoại trừ sự khẳng định của các quan chức chính quyền nặc danh. Chúng ta phải chờ cho đến 7 đoạn sau để đọc được rằng họ “phỏng đoán là có liên hệ với chính quyền Nga, nếu không phải là làm việc cho chính quyền Nga.”

Một vài đoạn sau đó, ở gần cuối cùng, chúng ta thấy:

“Đây là một trong những kẻ đột nhập tinh vi nhất mà chúng ta từng gặp,” một quan chức Hoa Kỳ cấp cao kết luận ngắn về cuộc điều tra.

“Những người khác xác nhận rằng vụ đột nhập Nhà Trắng được coi là nghiêm trọng khiến các quan chức họp hầu như hàng ngày vài tuần sau khi nó bị phát hiện. “Đó là âm mưu của Nga trong vụ quấy rối đặc biệt này”, một quan chức cấp cao khác nói.

“Trong khi các nhóm đột nhập Trung Quốc được biết thường thu gom một khối lượng lớn thông tin thương mại và thiết kế, các hacker giỏi nhất của Nga có khuynh hướng che dấu giấu vết tốt hơn và tập trung vào các các mục tiêu đặc biệt, thường là mục tiêu chính trị. Vụ đột nhập diễn ra vào thời điểm tái diễn sự căng thẳng với Nga – về sự sáp nhập Crimea, sự có mặt của quân đội Nga ở Ukraina và sự tái diễn tuần tra quân sự của Nga ở Châu Âu, gợi nhớ lại chiến tranh lạnh.”

Được thôi, hãy tóm tắt các bằng chứng được đưa ra trong đoạn này để chỉ vào Nga:

1) Thủ phạm là “những kẻ đột nhập tinh vi.”

2) Đó không thể là người Trung Quốc bởi vì họ chỉ quan tâm tới tiền – thế nên phải là người Nga, bởi vì mục tiêu là chính trị. Bên cạnh đó người Nga “giỏi che dấu dấu vết hơn.” 

3) Thời điểm: “Nó diễn ra vào thời điểm tái diễn căng thẳng với Nga.”

Có thật sự cần phải phơi bày bóng ma ốm yếu của lập luận này? Để bắt đầu, có hàng sa số các “kẻ đột nhập tinh vi” trong thế giới hacker, không phải tất cả trong số họ đều hành động theo lệnh của nhà nước. Thứ hai, nếu thủ phạm trong vụ này đã che dấu tốt các dấu vết của họ thì chúng ta lần theo dấu vết của họ ra sao – và chúng ta chắc chắn đó là người Nga đến mức độ nào? Cũng về câu hỏi thời điểm: chúng ta có thời điểm “căng thẳng” một số lượng lớn kẻ thù quốc tế trong năm qua, bất cứ ai cũng có thể phải chịu trách nhiệm.

Một bài bào khác về sự kiện trên tờ Motherboard còn nực cười hơn nữa.

“Các nhà nghiên cứu an ninh nói rằng học đã tìm được bằng chứng xác thực kết nối vụ tấn công với chính quyền Nga, hay ít nhất là với hacker Nga.

“Chiến dịch nhằm vào Nhà Trắng, có biệt danh CozyDuke, có code, cơ sở hạ tầng và lợi ích chính trị tương tự như các cuộc tấn công trong quá khứ có liên hệ với hacker Nga, có thể làm việc cho chính quyền, các nhà nghiên cứu nói.”

“Các cuộc tấn công trong quá khứ có liên hệ với hacker Nga” – với bằng chứng nào? Nếu có ví dụ về sự thiên kiến thì đây chính là nó. “Code tương tự” và “cơ sở hạ tầng”? Đừng làm tôi buồn cười: code của virus được phán tán miễn phí và phổ biến rộng rãi. Bất cứ ai cũng có thể phát triển loại virus đánh cắp thông tin đã được đưa vào hệ thống máy tính của Nhà Trắng và Bộ Ngoại Giao. Còn về “lợi ích chính trị” thì hoàn toàn là vô nghĩa: Kremlin là chính quyền duy nhất trên trái đất có động cơ để đột nhập vào hệ thống máy tính của chính quyền Hoa Kỳ? Và điều này trở nên tệ hơn: 

“CozyDuke được thực hiện bởi cùng một nhóm đứng đằng sau các chiến dịch do thám mạng tinh vi như MiniDuke và Cosmic Duke, theo hãng an ninh Kaspersky Lab, có liên hệ với chính quyền Nga trong quá khứ. “MiniDuke và CosmicDuke được “một cơ quan của chính quyền Nga” thực hiện, nhân viên nghiên cứu của F-Secure, một hãng an ninh khác xác nhận vào tháng giêng. Đó là kết luận hầu như dựa trên các mục tiêu của chiến dịch: Những gã buôn ma túy Nga và chính quyền có lợi ích trái ngược với những người ở Nga.”

Hay nói cách khác, đó hoàn toàn là những phân tích phi kỹ thuật, không có bất cứ bằng chứng thực tế nào ngoại trừ các giả định chính trị và “phân tích” nghiệp dư của các “chuyên gia” máy tính hăm hở nói với chính quyền Hoa Kỳ điều mà họ muốn nghe. Đây là cách mà các thiên tài ở F-Secure đi đến kết luận sáng lạng của họ:

“Theo tình huống tham chiếu về các nạn nhân của hành pháp có vẻ như từ Nga và không có nạn nhân đáng giá nào thực sự thân Nga, chúng tôi tin rằng một cơ quan chính quyền Nga đứng đằng sau những chiến dịch này.”

Trái với sự dự đoán chắc chắn ngay từ đầu của đoạn này, đi đến kết thúc thì Mikko Hypponen, lãnh đạo nghiên cứu của F-Secure nói rằng “có thể” là Nga. Ồ, nhưng cũng có thể không…

Mặc dù vậy, Washington không có bất cứ sự nhập nhằng nào. Theo các bản tin, trong bài phát biểu mới đây ở đại học Stanford, bộ trưởng quốc phòng Ashton Carter khẳng định rằng “các cảm biến trong hệ thống bảo vệ bí mật của Lầu Năm Góc đã phát hiện ra vụ đột nhập của hacker Nga, những người đã khám phá ra một lỗ hổng cũ để tiếp cận. Sau khi nghiên cứu thông tin quý giá về chiến thuật của họ, chúng ta đã phân tích hoạt động mạng lưới của họ, sự liên kết của họ với Nga và sau đó nhanh chóng hất họ ra khỏi hệ thống, theo cách giảm thiểu cơ hội quay trở lại của họ.”

Phải vậy, chắc chắn rồi. Chỉ là sự trùng hợp khi Lầu Năm Góc phát hành một báo cáo “chiến lược mạng” mới, trong đó xác định Nga cùng với Trung Quốc là các thủ phạm lớn cần phải giám sát – dấy lên những mối đe dọa đối với cơ sở hạ tầng mạng, đòi hỏi một số lượng tiền lớn và “chuyên gia” để ngăn chặn. 

Một “sự trùng hợp” khác: Không có ít hơn ba đạo luật “an ninh mạng” quan trọng trong ngăn bàn quốc hội được thiết kế để chuyển giao nhiều hơn các thông tin cá nhân vào bàn tay chờ sẵn của cơ quan an ninh quốc gia và các cơ quan hành pháp, tất cả đều dưới danh nghĩa “bảo vệ” chúng ta khỏi các hacker-ông ba bị-Nga và Trung Quốc. Một lá thư ngỏ mới đây từ hơn 65 chuyên gia và học giả an ninh mạng đáng kính lên án những đạo luật đó là sự xâm nhập không cần thiết vào quyền riêng tư cũng như tạo ra một cảm giác sai lệch về an ninh – và họ kết luận rằng những đạo luật đó cũng khiến chúng ta dễ bị đột nhập hơn. 

Như Trevor Timm khẳng định:

“Các nghị sĩ quốc hội – hầu hết họ không thể đảm bảo an ninh cho website của bản thân và một số trong họ thậm chí không sử dụng thư điện tử - đang cố gắng nhồi nhét đạo luật “an ninh mạng” nguy hiểm vào cổ họng công chúng. Sự riêng tư của mọi người nằm trong tay của những người, với tất cả các chỉ báo, không hiểu gì về những điều mà họ nói. Cuộc chiến tranh lạnh mới với Nga đang lơ lửng trên đầu chúng ta, và luật lệ là: khi có rắc rối thì hãy đổ tội cho Putin. Sự ngờ nghệch về công nghệ của chúng ta – và truyền thông theo đuôi chính quyền sẵn sàng ngả về điều vô nghĩa này. Trong khi tôi không loại trừ bất cứ ai – trong đó có cả những “đồng minh” được tán tụng của chúng ta – khỏi trách nhiệm thì trong trường hợp này tôi nhìn những cáo buộc mang tính phản xạ nhằm vào Kremlin với ánh mắt tức giận.

Justin Raimondo is the editorial director of Antiwar.com, and a senior fellow at the Randolph Bourne Institute. He is a contributing editor at The American Conservative, and writes a monthly column for Chronicles. He is the author of “Reclaiming the American Right: The Lost Legacy of the Conservative Movement” [Center for Libertarian Studies, 1993; Intercollegiate Studies Institute, 2000], and “An Enemy of the State: The Life of Murray N. Rothbard” [Prometheus Books, 2000].

Friday, January 2, 2015

Mùa đông thứ tư của Fukushima

Đã bốn năm sau thảm họa nhà máy điện nguyên tử Fukushima, người Nhật Bản vẫn còn đang vật lộn để dọn dẹp và khắc phục hậu quả. Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "The Fourth Winter of Fukushima" của tác giả Alexis Dudden về cuộc sống của những người phải đi tị nạn do thảm họa nhà máy điện nguyên tử.

Mùa đông thứ tư của Fukushima

“Không, chẳng có gì hết. Tôi chẳng có kế hoạch gì cho năm mới. Chẳng có gì hết. Không có ai tới.” Một phụ nữ bẽn lẽn với khuôn mặt tròn trịa ném những lời đó như mũi phi tiêu vào mặt nạ bảo vệ mà bà ấy mang. Một lúc trước đó bà ấy đang cười hạnh phúc cùng với vài người là cựu cư dân của thành phố nhỏ Tomioka khi họ hồi tưởng về một người bạn mà họ cùng biết. Mặc dù vậy, bà ấy nhanh chóng trở nên sống sượng khi được hỏi về những ngày nghỉ sắp tới. 

Tomioka có 15.839 cư dân trước vụ động đất, sóng thần và nổ lò hạt nhân kinh hoàng vào ngày 11 tháng 3 năm 2011. Tất cả ngoại trừ một người đã rời đi – Matsumura Naoto, một nông dân trồng lúa nổi tiếng đã từ chối bỏ rời bỏ nông trại gia đình đã tồn tại qua 5 thế hệ của ông ấy.

Hoang mang và thất vọng phổ biến trong những người còn lại, một tình trạng tồn tại mà các quan chức chính quyền lúng túng làm tồi tệ hơn vào ngày 25 tháng 3 năm 2012 khi họ chia khu vực 25 dặm vuông bên bờ biển thành 3 khu vực: không bao giờ quay lại, quay lại trong thời gian ngắn, quay lại để sửa chữa. Các nhà khoa học được chính quyền tại trợ quyết định sự phân chia ở đó và các khu vực khác gần nhà máy hạt nhân dựa trên cái được gọi là tỷ suất về liều lượng hàng năm có thể chấp nhận. Những sự thiết kế đó có thể tạo ra cảm giác thiếu thực tế theo các khái niệm khoa học. Mặc dù vậy, trong cuộc sống hàng ngày, điều đó có nghĩa là các đường phố bị chia đôi, một nửa “an toàn” trong khi các căn nhà quanh góc phố được tuyên bố là phải chờ hàng ngàn năm nữa mới có thể quay lại.

Mọi người liên quan hiểu rằng sự phân chia chính thức là cấp thiết đối với việc bồi hoàn. Nếu tài sản của bạn ở bất cứ đâu thuộc chỗ “không bao giờ quay lại” thì bạn sẽ không được trả tiền nữa. Có rất ít sự đánh giá xem những biện pháp đó tác động ra sao tới những người đang đón mùa đông thứ tư ở trong sự quên lãng.

Cuộc sống ở nơi tị nạn nội địa

Nhiều cựu cư dân của Tomioka hiện đang sống cách đó 25 dặm về phía tây trong một thị trấn nông thôn của Miharu, nổi tiếng với cây anh đào 1.000 năm tuổi. Miharu hiện đang mang khoảng 2.000 người trong số 140.000 được chính thức coi là “phải di cư” do khủng hoảng. Khái niệm “tị nạn hạt nhân” biến mất. Tất cả trộn lẫn vào thành một. Mặc dù vậy, những người đó bị tách vĩnh viễn khỏi cuộc sống ngày trước của họ sau khi nhà máy điện nguyên tử Daiichi của Fukushima tan chảy nhanh hơn, trong đó có những người phải sống trong nhà lều suốt 3 năm rưỡi.

Vào một buổi chiều gần đây, một nhóm dân làng bị “di cư” vĩnh viễn của Tomioka tụ tập để nói chuyện trong một căn phòng chung được chiếu sáng rực rỡ, náu mình giữa 20 hay nhiều dãy những tòa nhà sơn màu cát đứng sát nhau, được phân chia thêm thành các phòng nhỏ cho cặp đôi và cá nhân chủ yếu là ở độ tuổi 60 và 70. Một người trẻ hơn ở độ 50 tuổi đã kiên trì trụ lại. Trước cuộc khủng hoảng, công việc kinh doanh của ông là cung cấp bữa ăn trưa cho công nhân nhà máy điện hạt nhân. Sôi nổi và dường như có thể đi bất cứ đâu, ông bị cầm tù bởi những quy tắc của những thứ khiến ông không thể sống ở Tomioka mặc dù cho phép ông tới thăm con chó chồn đáng yêu Chocolat vài lần một tuần, con chó mà ông đã không để cho nó chết.

Nhiều người phải di cư vẫn tin vào khả năng quay trở về trong vài tháng trước đây. Trưởng nhóm Matsumoto-san không tin vào giải pháp đó từ lâu. “Nếu chỉ là họ nói với tôi sau đó, nói với tôi rằng chúng tôi sẽ không thể quay lại, tôi sẽ có thể mang gia đình chuyển tới Aomori (ở miền bắc Nhật Bản), và chúng tôi sẽ sống cùng nhau,” ông nói. Ông cũng chia sẻ nhiều ấn tượng tồi tệ: gia đình bị chia ly, con cái và cháu chắt giờ đang sống phân tán khắp Nhật Bản và hiếm khi viếng thăm. Nhà lều thì nhỏ, nhiều khối gắn với nhau, mặc dù vậy có ít không gian mở và hoàn toàn không có đất canh tác. Những biển chỉ đường mới trên phố chỉ dẫn tới các khu nhà và có vẻ hoan nghênh, nhưng những người bên trong nói họ biết họ đang “trên đường” và “một lúc sau bạn hiểu rằng họ không muốn tiếp đón bạn nữa.

Một người trúng số

Một người phụ nữ có điều ngạc nhiên cho những người khác. “Tôi rất tiếc là đã không nói với các bạn trước,” bà nói, dĩ nhiên là giành lấy lợi thế trước hai người lạ để thông báo tin tức của bà. “Tôi đã xin bốc thăm (nhà), và tôi tiếc là là không nói với các bạn rằng tôi đã thắng. Tôi rất tiếc. Trong một vài tuần tới tôi sẽ chuyển tới một căn nhà định cư. Chả nhiều nhặn gì. Tôi biết là tôi có cơ hội tốt hơn bởi vì tôi làm chủ bản thân mình. Tôi hy vọng rằng các bạn tha thứ cho tôi.

Một số người có thể coi những lời này là bản chất văn hóa, mặc dù một bầu không khí căng thẳng tràn ngập căn phòng. Cảm xúc mong manh của cồng đồng lại bị chia rẽ một lần nữa, một số người chúc bà ấy may mắn – bà đã sống trong 6 căn nhà lều khác nhau trước đây – những người còn lại trông như họ bị ốm và chẳng nói gì. Một người phụ nữ khác bật khóc.

Chính sách nhà ở mới được công bố với khẩu hiệu ngượng nghịu bằng cả tiếng Nhật và tiếng Anh – “Tương lai từ Fukushima” – tiết lộ về những thứ đã có ngay từ ban đầu: tô điểm cho mọi thứ tiếp tục. Những chi tiết nhỏ đưa đến hiện thực về nhà ở. Ngay cả khi nếu bạn đủ may mắn để trúng được một nơi định cư và bạn cố gắng sống sót hơn 11 năm, bạn cũng sẽ phải trả tiền thuê nhà.

Người phụ nữ không biết điều đó, hay không có ai nói cho bà về việc họ làm. Bà sẽ chuyển đến một nơi được gọi là nhà định cư vào mùa đông này. Cùng lúc đó, những người khác trở thành một phần của bảng thống kê xấu, một trong những sự thật rõ ràng kể từ tháng 3 năm 2011. Người chết do nguyên nhân căng thẳng nhiều hơn là do những thảm họa ban đầu ở Fukushima 

Alexis Dudden is a professor of history at the University of Connecticut and the author of Troubled Apologies Among Japan, Korea, and the United States (Columbia University Press, 2008). 

This article originally appeared in Foreign Policy In Focus.

Tuesday, April 1, 2014

Công nghệ trong một xã hội tự do

Xin được giới thiệu với bạn đọc blog bài phỏng vấn học giả nổi tiếng chuyên về quan hệ quốc tế, được giải Nobel Hòa Bình, giáo sư ngôn ngữ học Noam Chomsky của nhà báo John Malkin với tiêu đề "Technology in a Free Society" về tác động của công nghệ đối với đời sống xã hội. Qua đó cung cấp một góc nhìn tổng quan hơn về sự thay đổi của công nghệ và tác động của chúng đối với xã hội con người. Noam Chomsky cũng cảnh báo về việc trẻ em bị đánh mất thời thơ ấu, nguy cơ các chính quyền sử dụng công nghệ để theo dõi người dân.

John Malkin: Mạng Internet, máy tính, điện thoại di động, máy tính bảng và truyền thông xã hội đang thay đổi cách chúng ta sống và tạo ra ảnh hưởng tới tư duy, trao đổi thông tin và hợp tác của nhân loại, Mặt khác, Edward Snowden và Wikileaks đã tiết lộ cách thức công nghệ mới được sử dụng để theo dõi và kiểm soát. Công nghệ kỹ thuật số mới có đóng góp vào việc làm cho xã hội dân chủ hay tự do hơn không?

Noam Chomsky: Không. Đó là những ví dụ rất chính xác, nhưng hiệu quả tích cực của công nghệ như đã đề cập là có giới hạn. Ví dụ, khi mùa xuân Arab diễn ra ở Ai Cập năm 2011, chế độ độc tài Mubarak đã ngắt mạng Internet để ngăn cản cái đã được nhắc đến. Nhưng điều đó không có hiệu quả. Mọi người chuyển sang dạng trao đổi thông tin trực tiếp, thứ đó có lẽ là tốt hơn.

Bây giờ là mặt trái. Công nghệ tạo ra cơ hội cho hệ thống quyền lực-nhà nước và các doanh nghiệp-làm cái điều mà lẽ ra họ không nên làm, điều đó rất có hại, như một trong số các tiết lộ của Snowden cho thấy.

Công nghệ cũng có thể sử dụng theo nhiều cách khác nhau. Tôi sử dụng Internet để nghiên cứu và nó rất đáng giá. Trong trường hợp Internet, đó là công cụ tốt nếu bạn biết bạn tìm kiếm cái gì. Nếu bạn không biết bạn đang tìm kiếm cái gì thì nó chỉ đem đến sự lẫn lộn. Ví dụ, ai đó nói với tôi rằng họ muốn trờ thành nhà sinh học và tôi nói “Hãy đến thư viện sinh học của trường đại học và mọi thứ bạn cần biết đều ở đó”. Điều đó là vô nghĩa, bạn chẳng thể làm bất cứ gì với thông tin bởi vì bạn không biết mình đang tìm kiếm gì.

Internet còn tệ hơn thế, bởi vì phần lớn những thứ trong thư viện sinh học là phù hợp và quan trọng. Khi bạn sử dụng Internet, bạn tìm thấy hàng đống những thứ vớ vẩn, sai lệch, vô giá trị và tuyền truyền. Mọi người giống như ở giữa đại dương mà không có vài hiểu biết cơ bản.

Và để hiểu biết thì cần phải có giáo dục, các hiệp hội và hợp tác với những người khác. Thiếu hiểu biết cần thiết thì Internet chỉ dẫn đến sự mất trí, sùng bái thông tin, tạo ra ảo tưởng rằng bạn biết mọi thứ trong khi thực tế là bạn bị lầm lẫn bởi những chuyện tầm phào hay tuyên truyền. Đó là những mặt tiêu cực. Công nghệ bản thân nó không quan tâm; nó có thể được sử dụng để cải thiện tự do, phẩm giá và hiểu biết. Nó cũng có thể được dùng để ép buộc, kiểm soát và làm sai lệch. 

John Malkin: Giờ đây tôi ngạc nhiên khi nghe thấy mọi người nói “Tôi chưa bao giờ cảm thấy được liên kết gần gũi hơn với những người khác,” và họ ngồi một mình trong phòng nhìn vào màn hình. Ông vừa nói là một người bạn thời thơ ấu giữ một cuốn sách có tên của 200 bạn bè. Ông không thể tin là người ta có tới 200 người bạn. Nó giống như facebook trước khi có facebook. Cảm giác kết nối con người qua máy tính có phải là hão huyền?

Noam Chomsky: Tôi chưa từng thực hiện nghiên cứu nào để có thể kết luận, song ấn tượng của tôi là có rất nhiều điều viển vông. Tệ hơn nữa, nó đẩy con người ra xa khỏi các mối quan hệ bạn bè thật sự vởi vì họ tin rằng họ có bạn, nếu giả dụ họ đăng lên trang facebook “Tôi có kỳ thi chiều nay” và họ nhận được 200 phản hồi, đại loại như “Này, tôi hy vọng bạn làm tốt”, của những người chưa từng biết họ kể từ thời Adam. Nếu đó là những gì mà lũ trẻ tin là tình bạn thì cuối cùng chúng sẽ gặp rắc rối trong cuộc sống. Đó không phải là tình bạn.

John Malkin: Phần lớn những thiết bị mà mọi người đang nhìn, nói và chơi ngày nay được quân đội phát triển và sau đó chuyển sang cho người tiêu dùng. Tôi ngạc nhiên nếu các nghiên cứu và phát triển ban đầu của công nghệ và thiết bị số có chứa đựng và ảnh hưởng nào đó?

Noam Chomsky: Có những công nghệ được phát triển cho các mục tiêu đặc biệt mà các bạn hay tôi có thấy là có hại. Nếu Viện Sức Khỏe Quốc Gia (INH) tài trợ cho nghiên cứu về vũ khí sinh học, có thể một ngày nào đó, một ai đó tìm ra cách sử dụng tốt đối với chúng. Song đó là chuyện hết sức ngẫu nhiên. Chúng vốn dĩ được thiết kế để gây hại và phá hủy. Tôi không nghĩ là INH làm vậy, đó hoàn toàn chỉ là giả thiết.

Nếu các bạn trở lại với trường hợp đã đề cập-máy tính và mạng Internet-chúng được phát triển trong những năm 1950 tại các phòng thí nghiệm và cơ sở được Lầu Năm Góc tài trợ, bao gồm cả nơi tôi làm việc, Phòng Thí Nghiệm Nghiên Cứu Điện Tử tại MIT. Đó là một trong những nơi chính diễn ra quá trình phát triển. Toàn bộ được quân đội tài trợ. Thật sự, lúc đó tôi được quân đội tài trợ 100 phần trăm. Mọi người làm việc trong phòng thí nghiệm đều hiểu rằng mọi thứ rất thuận lợi để phát triển những thứ đó. Rất nhiều động lực phía sau việc phát triển mạng Internet chỉ đơn giản là cải thiện khả năng trao đổi thông tin giữa các nhà khoa học.

Tiền thân của mạng Internet là mạng ARPAnet của quân đội. Mạng này được thiết kế cho mục tiêu quân sự cũng như các máy tính vậy. Nhưng bạn có thể sử dụng máy tính và mạng Internet cho rất nhiều mục tiêu. Rất nhiều phát triển ban đầu chỉ là cho quân sự, bởi vì chỉ họ mới có thể sử dụng chúng. Ví dụ vào năm 1950, IBM làm cái mà ngày nay chúng ta được biết là thử nghiệm công nghệ quân sự trong việc chế tạo các máy tính số có tốc độ cao. Đó là mục đích của quân đội: họ cố gắng phát triển pha tiếp theo của nền kinh tế công nghệ cao. Vào đầu những năm 1960, IBM cuối cùng cũng tạo ra được chiếc máy tính nhanh nhất thế giới-siêu máy tính Stretch-nhưng nó quá đắt nên doanh nghiệp không thể mua được và người tiêu dùng thì lại càng không. Vậy nên chính quyền mua nó và sử dụng trong các vụ thử vũ khí hạt nhân ở Los Alamos.

Chính quyền có thể chi trả được cho những thứ đắt đỏ ấy. Nếu bạn nhìn vào kết quả, chính quyền đã dùng tiền của người đóng thuế để trợ cấp cho doanh nghiệp tư nhân. Rất nhiều dạng trợ cấp như mua lại các nhà băng, và các vụ mua lại tương tự. Nếu khu vực doanh nghiệp học được từ nghiên cứu của chính quyền cách sản xuất ra cái gì đó và những sản phẩm ban đầu quá đắt đối với thị trường, chính quyền có thể đứng ra mua chúng. Kiểu đặc trưng này là quân đội vì họ có nguồn lực không bị hạn chế và luôn tìm ra cách sử dụng.

Tôi biết nhiều người tham gia vào quá trình phát triển các công nghệ mới như-máy tính và Internet-họ không có động cơ phát triển những thứ đó cho ứng dụng quân sự.

John Malkin: Ông nói rằng tivi làm đần độn tinh thần và ông viết cũng như nghiên cứu rất nhiều về việc sử dụng truyền thông để tuyên truyền và kiểm soát. Ông cũng nói rằng sách dường như đã biến mất và niềm tin phổ biến rằng con người-đặc biệt là trẻ em-không bị ảnh hưởng bởi các chương trình và trò chơi video bạo lực.

Noam Chomsky: Tôi không thể đảm bảo về điều này nhưng tôi được đọc từ những nguồn tin cậy rằng phi công điều khiển máy bay không người lái-những người nhìn vào màn hình và điều khiển máy bay không người lái-được huấn luyện bằng các trò chơi video. Có một số nghiên cứu về tác động của các hình ảnh bạo lực đối với trẻ em mà tôi được đọc đã cho thấy họ không tìm được bất cứ tác động nào của việc xem các trò chơi bạo lực đối với trạng thái tiếp theo hay sử dụng bạo lực. Có thể có một số, nhưng dường như không phải là tất cả.

Tôi muốn lưu ý về trẻ em và máy tính và màn hình video một số điểm khác và diễn ra âm thầm, không cần viện dẫn đến các nghiên cứu. Tôi đã sống năm mươi năm qua ở khu vực ngoại ô. Vợ tôi và tôi chuyển đến đó vì đó là nơi tuyệt vời cho trẻ con. Năm mươi năm trước, con cái của chúng tôi còn bé và có thể chơi đùa trên đường phố; không có nhiều phương tiện giao thông qua lại và rừng thì ở ngay cạnh. Quanh hàng xóm luôn đầy trẻ con, chạy chơi khắp nơi, qua lại nhà nhau. Điều đó tạo lên bầu không khí làng xóm. Bạn cần phải biết người hàng xóm vì con của bạn sẽ ăn trưa ở đó. Điều ấy dẫn tới các mối quan tâm cộng đồng. Đó là năm mươi năm trước.

Giờ đây bạn đi quanh chính cái cộng đồng đó và không thấy bất cứ đứa trẻ nào. Bạn chỉ có thể thấy những người trưởng thành. Nếu là người trưởng thành, họ dường như chỉ dắt chó đi dạo. Trẻ con thì ở trong nhà và chơi các trò chơi video hay làm gì đó hoặc chúng tham gia vào các hoạt động do người trưởng thành tổ chức. Điều này đã được nghiên cứu. Trẻ em đánh mất thời thơ ấu. Chúng đánh mất khả năng chơi đùa, khả năng trở nên độc lập và khả năng sáng tạo.

Một đứa cháu nội của tôi thích thể thao khi nó còn bé. Có một sân thể thao ở gần nhà và tôi hỏi nó: “Sao cháu không ra ngoài đó và chơi với những đứa trẻ khác?” Đó là điều mà tôi làm khi tôi còn bé và là cách mà con cái tôi chơi đùa cho tới khi chúng lớn lên. Cháu nội tôi thậm chí còn không hiểu câu hỏi. Đối với nó thể thao là thứ được người trưởng thành tổ chức, trong cái giải đấu của người trưởng thành, và các giải đấu ấy diễn ra theo cách không dễ chịu. Có rất nhiều điều diễn ra, với cuộc sống của trẻ em và các hoạt động được tổ chức dựa trên ứng dụng máy tính. Điều đó làm giảm sự thích thú, kinh nghiệm và các hoạt đông học hỏi rất quan trọng đối với tương tác và các hoạt động độc lập thời thơ ấu. Tôi không nghĩ rằng chúng được đo lường, nhưng tôi cho rằng chúng sẽ rất nguy hiểm về lâu dài

Tác động đối với việc đọc là rất đáng chú ý. Tôi không biết các bạn thế nào, nhưng thỉnh thoảng tôi đọc báo trên mạng và trải nghiệm hời hợt hơn đọc báo giấy rất nhiều, với báo giấy bạn có thể lật trang hay gạch chân. Đôi khi bạn chỉ lướt qua báo mạng. Tôi ngờ là sự thay đổi này tạo ra những yếu tố hời hợt trong hoạt động trí óc, bất kể là đọc báo hay tiểu thuyết. Tôi đọc trên mạng để cập nhật các thông tin chuyên môn. Nhưng nếu tôi thực sự muốn nghĩ về chúng thì tôi sẽ in chúng ra và đọc lại. Với sách cũng tương tự như vậy. Có thể đó là văn hóa mà tôi đã lớn lên trong đó, nhưng tôi ngờ rằng nó còn sâu sắc hơn thế. 

John Malkin: Tôi chia sẻ cùng mối lo ngại. Tôi cảm thấy rằng sự kiểm soát của người trưởng thành đang tăng lên và trẻ em học được nhiều hơn cũng như vui vẻ hơn khi chúng xây dựng các trải nghiệm của chúng. 

Noam Chomsky: Chính xác, Đó là trò chơi. Các trò chơi đem lại trải nghiệm học hỏi tuyệt vời. Các trò chơi tạo ra tính sáng tạo và tính độc lập. Tôi muốn nói với các bạn một ví dụ: Căn nhà tôi ở suốt 50 năm có rừng ở ngay phía sau. Có một cái cây được mọi đứa trẻ gọi là cây leo trèo. Giờ chúng không biết. Nếu bạn quay lại 30 hay 40 năm trước, cái cây đó là hoạt động chung của mọi đứa trẻ trong xóm. Lũ trẻ trèo lên cây với một mảnh gỗ và cắm nó vào cái cây, những đứa khác lại trèo lên với mảnh gỗ khác. Chuyện đó bắt đầu vào mùa xuân và đến mùa thu thì hoàn tất, một căn nhà gỗ hoàn hảo trên cây cho lũ trẻ chơi đùa. Giờ cái cây trống không. Trẻ em không chơi ở đó. Có thể là bố mẹ chúng không cho phép, những lũ trẻ hiện giờ không muốn ra ngoài và sáng tạo hay hợp tác với những đứa khác trong công việc thiết kế một nơi hoàn hảo nơi chúng có thể chơi các trò chơi thú vị. Tôi nghĩ nhiều thứ đã mất đi như vậy.

John Malkin: Tiểu thuyết khoa học thường mô tả ý tưởng con người tạo ra các cỗ máy có cảm xúc hay trí tuệ. Trong thời đại chúng ta, con người dường như trở nên giống máy móc hơn. Ray Kurzweil đã tiên đoán rằng trong vòng 30 năm nữa máy móc sẽ tự tuyên bố chúng sống và không ai tranh luận về điều đó.

Noam Chomsky: Ngay lập tức các bạn có thể tạo ra một cỗ máy biết nói: “Tôi sống”. Bạn cũng có thể tạo ra một cơ sở dữ liệu đủ hoàn hảo để đánh lừa mọi người rằng nó sống. Nhưng điều đó là vô nghĩa. Phần lớn chúng được tạo ra từ bản thảo của Alan Turing, một nhà toán học vĩ đại và cha đẻ của khoa học máy tính và nền tảng của máy tính. Ông ấy viết trong nghiên cứu của mình năm 1950 về máy móc biết suy nghĩ [“Computing Machinery and Intelligence’]. Bản thảo đó đưa ra nhiều phỏng đoán đoán về công nghiệp. Ông ấy đề xuất một loại kiểm tra mà giờ được gọi là kiểm tra Turing-nếu một cỗ máy vượt qua kiểm tra thì chúng ta có thể nói là nó biết suy nghĩ.

Nhưng khi Turing nói về máy móc, ông ta đề cập tới những chương trình điều khiển máy móc. Các cỗ máy tự nó, ví dụ như máy tính xách tay, không làm gì cả. Nó có thể đóng vai trò như một tập giấy trắng. Nếu có điều gì đó diễn ra thì là do chương trình mà bạn cài vào đó. Nó giống như R2D2 nếu bạn mô tả theo cách ấy. Giờ là câu hỏi “Có thể tạo được một chương trình đánh lừa người quan sát trong thời kỳ kiểm tra rằng máy móc sống?” Theo cách đó, bạn có thể thiết kế chương trình vượt qua được kiểm tra Turing và nhận 100’000 USD.

IBM và những người khác nắm bắt được ý tưởng và IBM thiết kế một chương trình được gọi là Deep Blue, chương trình này có thể đánh bại cả đại kiện tướng cờ vua. Tất cả là vô nghĩa. Thực tế là Turing cũng đã chỉ ra điều đó trong tập bản thảo 8 trang. Ông ta nói rằng câu hỏi máy móc có biết suy nghĩ hay không là quá vô nghĩa để tranh luận. Dĩ nhiên, chúng ta không còn nghĩ rằng tàu ngầm có thể bơi. Nếu chúng ta muốn gọi đó là bơi thì cũng được thôi, nhưng đó chỉ là chuyện thuật ngữ. Bất cứ cái gì con người làm khi họ suy nghĩ thì không phải là cái mà một cơ sở dữ liệu lớn làm. Đó không phải là cái mà Deep Blue làm. Đó hoàn toàn là một hành động khác. Một chương trình máy tính nhanh chóng tìm kiếm trong cơ sở dữ liệu khổng lồ. Không nghi ngờ gì cả, bạn có thể tạo ra một chương trình và một bộ nhớ cho phép tìm kiếm thần tốc khắp cơ sở dữ liệu khổng lồ và đưa ra kết quả trông bề ngoài giống như trí tuệ. Cũng như bạn tìm thứ gì đó bằng Google và bạn nhận được kết quả ngay lập tức. Bạn có thể đánh lừa bản thân rằng cỗ máy đó thông minh khi có thể tìm kiếm nhanh chóng trong một cơ sở dữ liệu khổng lồ. Nhưng điều đó không có gì liên quan đến con người hay động vật thông minh. Nó có thể rất hữu dụng song không phải là trí tuệ. Tôi dùng Google để tìm kiếm, nhưng chúng ta không bị nó đánh lừa. Tôi nghĩ rằng Kurzweil là một nhà khoa học tốt. Ông ấy có thể bị công nghệ đánh lừa, hay ít nhất, tôi nghĩ là ông ấy đánh lừa người khác.

John Malkin: Julian Assange đã mô tả Internet là công cụ để giám sát của chính quyền. Thông tin được tiết lộ của Chelsea (Bradley) Manning, Julian Assange, và Edward Snowden đã cho thấy việc sử dụng trên quy mô lớn các công nghệ mới vào việc giám sát và kiểm soát. Tất nhiên chính quyền Hoa Kỳ có một lịch sử dài về giám sát, nhưng đối với nhiều người trong chúng ta, quy mô của việc thu thập và lưu trữ rất nhiều dữ liệu số đã gây hoảng hốt.

Noam Chomsky: Về mặt cá nhân, tôi ngạc nhiên vì quy mô của chương trình hiện nay. Những người khác bị sốc. Bạn có thể thấy tổng thống của Brazil, Dilma Rousseff, hủy cuộc viếng thăm cấp quốc gia vì sự sỉ nhục khi biết rằng các cơ sở kinh doanh và chính quyền, thậm chí cả văn phòng của ông ta bị NSA theo dõi. Nếu chúng ta biết rằng Trung Quốc bí mật theo dõi Obama, ông ta sẽ nghĩ rằng đã đến lúc chiến tranh.

Quy mô của sự giám sát là rất đáng kinh ngạc. Nhưng không phải là hiện tượng mới. Lý do là một trong số đã được các bạn đề cập. Nếu các bạn quay lại quá khứ, hệ thống quyền lực-nhà nước và tư nhân-đã cố gắng thực hiện kiểm soát nhiều nhất có thể đối với mục tiêu của họ. Trong trường hợp chính quyền, mục tiêu là dân chúng và các xã hội khác. Họ muốn kiểm soát những thứ ấy. Kiểm soát cần có một số dạng thông tin và một số phương pháp giám sát. Sau khi giám sát là đến những công cụ khác như tuyên truyền, can thiệp, giết hại và tương tự. Tại Hoa Kỳ điều đó đã diễn ra từ lâu và đó là đặc trưng của hệ thống được sáng chế cho mục đích quân sự sau đó nhanh chóng ứng dụng để kiểm soát thường dân. Chính quyền coi thường dân là một dạng kẻ thù. Kẻ thù cần phải bị kiểm soát, chia rẽ, phá hủy, đẩy lùi và giữ trong bóng tối. Hệ thống thương mại cũng làm tương tự.

Có một cuốn sách hay của Alfred McCoy, một nhà sử học nổi tiếng (Policing America’s Empire: The United States, The Philippines, and the Rise of Surveilance State). McCoy nghiên cứu các kỹ thuật và phương pháp mà Hoa Kỳ sử dụng tại Philippine một thế kỷ trước đây, sau khi Hoa Kỳ xâm lược nước này, đó là giết người, cuộc xâm lược đẫm máu giết hại hàng chục nghìn người. Nhưng họ gặp khó khăn trong việc bình định hòn đảo ấy. Họ đã dùng các công nghệ hiện đại nhất để thiết lập các cơ sở dữ liệu phức tạp, tiến hành giám sát quy mô lớn, can thiệp và trấn áp các phong trào, chia rẽ mọi người, bôi nhọ và tương tự. Đó là những kỹ thuật giám sát, kiểm soát và chia rẽ rất hiệu quả, sau đó đã nhanh chóng được áp dụng để chống lại công dân Hòa Kỳ. Những kỹ thuật đó được sử dụng suốt thời kỳ sợ đỏ của Woodrow Wilson và vài năm sau đó nước Anh cũng sử dụng. Danh sách tiếp tục kéo được kéo dài.

Không có gì đáng ngạc nhiên là Washington và các tập đoàn lớn làm những gì mà họ làm được được để giám sát, thống trị và kiểm soát nhằm đảm bảo rằng dân chúng và các quốc gia khác không thể bẻ gẫy các hoạt động của họ. Trong những năm 1960, chương trình tồi tệ nhất trong lịch sử Hoa Kỳ đã diễn ra. Đó là COINTERPRO, chương trình của lực lượng cảnh sát liên bang, FBI. Mục tiêu của chương trình không chỉ là giám sát, mà là bẻ gẫy, đàn áp và phá hủy trên quy mô lớn các tổ chức. Bắt đầu là Đảng Cộng sản và sau đó là phong trào độc lập Puerto Rico, phong trào người Da Đỏ Mỹ, toàn bộ cánh tả mới, phong trào phụ nữ, phong trào quốc gia của người da màu, và các phong trào khác. Điều đó rất nghiêm trọng và tiến tới các vụ ám sát có tính chính trị. Cuối cùng chương trình bị tòa án bãi bỏ vào giữa những năm 1970. Tôi đoán là nó đã bị bãi bỏ.

Nhưng những cơ chế khác vẫn được phát triển trừ khi chính quyền bị đặt trong vòng kiểm soát. Chính quyền chỉ có thể bị đặt trong vòng kiểm soát bởi những người dân được thông tin, tích cực và có tổ chức do đó những người mà các bạn đã đề cập-Assange, Manning, Snowden-đang làm việc cần thiết. Họ hành động như những công dân đáng kính. Họ cho công chúng biết những người được công chúng chọn làm đại diện đang làm gì với các bạn. Tất nhiên, những người có quyền lực không thích điều đó và chính quyền đưa ra đủ mọi cớ để giám sát, như an ninh hay tương tự. Nhưng chúng ta giữ trong lòng rằng thực chất của những gì đang diễn ra và những hành động đó của công dân là cần thiết cho một xã hội tự do.