Monday, August 31, 2015

Nghĩa vụ phạm tội của doanh nghiệp

Người ta thường được nghe thấy rằng ở nước văn minh như Mỹ thì pháp luật là thượng tôn, song giáo sư kinh tế học người Mỹ M. Perelman đã chỉ ra sự thật trái ngược, ông cho thấy rằng trong thực tế pháp luật luôn đứng dưới lợi nhuận, hay nói cách khác lợi nhuận mới là pháp luật tối cao của xã hội tư bản. Doanh nghiệp đã trở thành tổ chức tội phạm chuyên nghiệp mà không phải lo sợ về sự trừng phạt. 

Hình minh họa: Tội ác doanh nghiệp
Nguồn: Internet
Dưới đây là bản dịch phần "Corporate Obligation to Commit Crime" trong chương 4 "Corporate Accountability" của cuốn sách "Manufacturing Discontent" do nhà xuất bản Pluto phát hành năm 2005.

Nghĩa vụ phạm tội của doanh nghiệp

Không chỉ không phải đối mặt với những hậu quả nghiêm trọng như con người, mà nhiều người nắm quyền còn đang khuyến khích doanh nghiệp phớt lờ luật pháp. Trái lại, nhà nước thường xuyên bỏ tù con người vì những tội tương đối nhỏ. Những người tái phạm sẽ phải đối mặt với hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ, vào năm 2003 tòa án tối cao hủy bỏ luật cho phép kết án chung thân những người phạm tội nhẹ như ăn trộm vặt ở cửa hàng của bang California.

Ngày nay, không có bất cứ doanh nghiệp nào - thậm chí cả những doanh nghiệp đã đánh cắp của công chúng hàng tỷ dollar phải đối mặt với bất cứ hình phạt ngồi tù tương đương nào - thậm chí ngay cả khi tái phạm. Tử hình đối với doanh nghiệp là ngoài sức tưởng tượng, bất kể là doanh nghiệp có gây ra bao nhiêu cái chết. Trái lại, những người bảo vệ doanh nghiệp khẳng định rằng xã hội không có quyền xét xử doanh nghiệp về các hành động tội phạm.

Vào đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng liên quan đến vụ lừa đảo nhiều tỷ dollar của hãng Enron, một bài xã luận có tiêu đề "Doanh nghiệp không phải là tội phạm" của tờ Wall Street Journal viết "Theo luật pháp thông thường thì doanh nghiệp không thể phạm tội bởi vì nó không có chủ ý vi phạm, ý thức phạm tội" (Baker 2002). Đáng buồn là tác giả bài báo hoàn toàn đúng - ít nhất là trong trường hợp của các phiên tòa mới đây.

Trong mắt một số quan tòa, luật pháp còn đi xa hơn việc quy định rằng doanh nghiệp vi phạm pháp luật thiếu ý thức phạm tội. Họ khẳng định rằng các nhà quản lý doanh nghiệp, những người có chủ ý vi phạm, có nghĩa vụ đạo đức phải vi phạm pháp luật khi mà điều đó sẽ làm tăng lợi nhuận cho cổ đông. Giám đốc điều hành doanh nghiệp có thể đối mặt với sự trừng phạt nếu họ gây tổn hại bất hợp pháp cho chủ sở hữu doanh nghiệp, nhưng nếu hành động của họ gây tổn hại cho những đối tượng khác thì họ có thể yên tâm nghỉ ngơi. Các học giả pháp lý bảo thủ hoan nghênh sự khoan dung này.

Ví dụ, Frank H. Easterbrook và Daniel R. Fischel, cựu quan tòa liên bang và giảng viên cao cấp của trường Luật của đại học Chicago đã viết:

Mặc dù vậy, việc cho rằng có nghĩa vụ pháp lý phải thi hành mọi quyền pháp lý là không thực tế... Các nhà quản lý không có nghĩa vụ đạo đức phải tuân thủ theo các quy định pháp luật chỉ bởi vì những luật đó tồn tại. Họ phải quyết định sự quan trọng của những luật này. Những chế tài mà Quốc Hội đặt ra cho việc bất tuân là thể hiện mức độ họ muốn doanh nghiệp hy sinh để bày tỏ sự trung thành với luật lệ: ý tưởng trừng phạt tối ưu này dựa trên tiền đề là nhà quản lý không chỉ có thể mà còn phải vi phạm luật lệ khi việc đó có lợi nhuận. (Easterbrook và Fischel 1982: 1171 và 1177n).

Richard Posner, một quan tòa liên bang có ảnh hưởng khác, một tác giả viết nhiều và giảng viên cấp cao của trường Luật thuộc đại học Chicago giống như Fischel, cũng khẳng định tương tự (Posner 1986). Khi Milton Friedman, đồng nghiệp ở đại học Chicago của những học giả pháp lý nói trên, đề xuất rằng trách nhiệm duy nhất của doanh nghiệp là nghĩa vụ tối đa hóa lợi nhuận mà không cần quan tâm tới bất kỳ vấn đề xã hội nào, trong phạm vi ràng buộc của pháp luật, quan điểm của ông gây tranh cãi. Một vài thập kỷ sau, các quan tòa liên bang giờ đã đề xuất nghĩa vụ về lợi nhuận cao hơn luật pháp, quan điểm của họ không gây tranh cãi. Do vậy, chúng ta không nên ngạc nhiên khi thấy các nhà kinh tế học đáng kính ca ngợi báo của Posner. Một bài báo trên tờ Journal of Law and Economic danh giá của trường luật Chicago đề xuất:

Ngay cả khi các nhà quản lý cấp cao trực tiếp biết về các hoạt động lừa dối, họ có thể vẫn theo đuổi những dự án ít nhất cũng đem lại tài sản ròng hiện tại dương. Có nghĩa là các nhà quản lý có thể sử dụng lừa dối để làm gia tăng giá trị. Như Richard Posner đề xuất, lợi thế so sánh của các nhà quản lý đương nhiệm có thể xuất phát từ sự sẵn sàng thực hiện hoặc dung thứ cho các hành động lừa dối. (Agrwal, Jaffe và Karpoff 1999:315)

Đại học Chicago có truyền thống lâu đời trong việc khuyến khích tội phạm kinh tế. Vào năm 1968, Gary Becker, người gắn bó lâu dài với Chicago và Friedman, chủ nhân của giải Nobel, viết bài báo nổi tiếng "Tội phạm và Trừng phạt: Một tiếp cận kinh tế" (Becker 1968). Ông đề xuất rằng phương pháp phù hợp để ngăn chặn tội phạm là gia tăng trừng phạt. Theo tôi biết thì không có ai thuộc trường Chicago đã từng đề xuất chế tài nghiêm khắc hơn.

Những quản lý hãng bị bắt gần đây trong các vụ bê bối doanh nghiệp như Enron, WorldCom, Tyco, vv - có thể tự lừa dối mình bằng cách tin rằng họ đang làm tăng giá trị của doanh nghiệp ngay cả khi làm giàu cho bản thân. Họ có thể không tin rằng họ đang tham gia hoạt động tội phạm. Loại tính toán mà Easterbrook và Posner nghĩ trong đầu là tình huống mà giới quản lý biết rằng họ gây ra thiệt hại nghiêm trọng, nhưng bỏ qua bởi vì lợi nhuận mang lại lớn hơn chế tài.

Easterbrook và Posner phản ánh quan điểm phổ biến rằng kinh doanh theo định nghĩa là hành động cho phép con người hoạt động không bị cả giới thẩm quyền lẫn lương tâm của họ kiềm chế. Theo lời của một người bình luận:

Đèn đỏ hoặc bàn tay giơ lên của cảnh sát giao thông khiến mọi người dừng lại (ít nhất là ở nơi mà mọi người có khuynh hướng tuân thủ chúng) không phải là sự thể hiện của quyền lực - cả đèn đỏ cũng như bàn tay đều không chặn được chiếc xe hơi đang chạy, mà là sự thể hiện của thẩm quyền... Nhiều công dân dừng xe không lưỡng lự, ngay cả ở đường liên vùng hoang vắng vào lúc 2 giờ sáng, sẽ tính toán cẩn thận chi phí và lợi ích của việc vi phạm luật ô nhiễm môi trường, mua bán chứng khoán nội gián, không báo cáo doanh thu cho Sở Thuế, và sau đó tuân thủ hay vi phạm pháp luật phụ thuộc vào kết quả tính toán. (Fields 1990:113)

Trường hợp cổ điển của việc doanh nghiệp tính toán các chế tài kinh tế sẽ không ảnh hưởng đến lợi nhuận tiềm năng là xe Pinto của hãng Ford. Từ năm 1971 đến năm 1976, hãng Ford đặt bình xăng của xe chỉ cách khung chống va chạm phía sau 15 cm. Một va chạm nhỏ ở đuôi xe cũng khiến bình xăng bị bu lông nhô ra từ các bộ phận khác chọc thủng. Chỉ cần một tàn lửa nhỏ từ thuốc lá, bộ đánh lửa hay kim loại cọ xát cũng sẽ khiến xe bùng cháy (Estes 1995:196-7; xem thêm Dowie 1977). Theo ước tính thoáng nhất, các vụ va chạm của xe Pinto gây ra 500 vụ chết cháy cho những người đáng ra sẽ không phải chết nếu xe không bị bốc cháy. Bài báo cổ điển của Mark Dowie về xe Pinto ước tính rằng số người chết có thể lên tới 900 (Dowie 1977).

Ford đã nhận thấy sự nguy hiểm. Các thử nghiệm va chạm cho thấy một quả bóng cao su đơn giản trong bình xăng sẽ ngăn xăng không chảy ra khỏi bình xăng bị thủng. Chi phí để xử lý vấn đề này là 5,08 dollar. Một cách thay thế khác có giá 11dollar. Mặc dù vậy, phân tích chi phí lợi ích của Ford cho thấy rằng tổn thất nhân mạng và bị thương tránh được không đủ để bù đắp cho chi phí thay thế là 11 dollar cho mỗi xe (Estes 1995:196-7).

Ford không phải là đơn vị duy nhất tính toán chi phí và lợi ích của sai lầm thiết kế chết người này. Vào năm 1973, hãng General Motor đã có tính toán tương tự, cho thấy công ty có thể tiết kiệm được tiền bằng cách bồi thường cho 500 người chết thay vì sửa chữa bình xăng lỗi với giá 8,59 dollar cho mỗi xe (Court 2003:16; Bakan 2004:61-3).

Bạn có thể cảm thấy những tính toán này thật đê tiện. Tôi cũng vậy, nhưng dường như không phải tất cả mọi người đều vậy, nhất là các quan tòa liên bang. Hãy hình dung sự giận dữ khi có vài kẻ khủng bố nước ngoài âm mưu ám sát hơn một ngàn người. Nhưng trong thế giới kinh doanh, sự trừng phạt tương tự là rất ít, chế tài nghiêm khắc lại càng ít hơn, doanh nghiệp có rất ít lý do để lo sợ về hậu quả hành động của họ.

Kết luận, mặc dù những người bảo vệ cho quyền của doanh nghiệp thường nhanh chóng kêu gọi trách nhiệm cá nhân, nhưng họ rất ít khi yêu cầu một mức độ tương đương về trách nhiệm của doanh nghiệp. Trái lại, họ bỏ qua tội ác của doanh nghiệp hoặc tìm ra sự biện hộ pháp lý cho sự vi phạm của doanh nghiệp. Nếu như pháp luật nhìn nhận doanh nghiệp là cá nhân thì đó là những cá nhân có đặc quyền phổ biến được đứng trên pháp luật.

Monday, August 24, 2015

Hợp pháp hóa mại dâm ở Việt Nam là chống lại giai cấp lao động

Phong trào kêu gọi hợp pháp hóa mại dâm của đám dân chủ và dân túy đang nổi lên một cách đều đặn.

Có kẻ nói để thu thuế thu nhập. 

Có kẻ nói là để chính quyền dễ quản lý. 

Có kẻ nói là để bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ hành nghề.

Có kẻ nói là để kiểm soát ngăn chặn dịch bệnh.

Có kẻ nói mại dâm đã là nghề cổ nhất trái đất, có cấm hay không thì nó vẫn tồn tại, vậy thì nên công nhận nó đi, không cần phải đạo đức giả nữa.

Ở Việt Nam, mại dâm là bất hợp pháp. Luật Việt Nam vốn xử nhẹ người bán dâm nhưng phạt nặng kẻ môi giới hay tổ chức kinh doanh, tức là chủ yếu chống lại kẻ kinh doanh mại dâm.

Tại sao đám dân chủ dân túy đều kêu gào đòi hợp pháp hóa mại dâm?

Một cô người mẫu ngủ xinh đẹp với một ông già nhà giàu để lấy tiền mua xe ô tô? Pháp luật có xử lý được trường hợp này không? Không. 

Vậy có nên hợp pháp hóa việc đó để thu thuế hay dễ quản lý hay không? Không, bởi vì có hợp pháp hóa thì cũng chẳng có cách nào giám sát hay quản lý được việc đó. Không có bất cứ xã hội nào có đủ số lượng cảnh sát cần thiết để canh chừng mọi chiếc giường ngủ.

Mại dâm là để thỏa mãn tình dục nhưng sự thỏa mãn tình dục không giải thích được tại sao lại có thể đổi tình dục lấy tiền. Bởi vì việc đó là mua bán, mua bán là vấn đề kinh tế, không phải là vấn đề sinh lý lại càng không phải vấn đề đạo đức.

Mại dâm là nghề rất cổ xưa, nhưng cái nghề mại dâm hiện nay không phải là cái nghề cổ xưa ấy. Cái nghề mại dâm bây giờ là các cô gái phải đi làm thuê và mang lại lợi nhuận cho chủ nhà thổ. Nghề mại dâm bây giờ khác với xưa kia ở chỗ nó phục vụ cho tư bản và lợi nhuận.

Khi đã nói đến lợi nhuận thì đương nhiên lợi nhuận sẽ cao hơn con người, mọi thứ sẽ đều phải hy sinh cho lợi nhuận. Mọi cái bánh vẽ đã được bày ra để biện minh cho việc hợp pháp hóa mại dâm sẽ nhanh chóng biến mất như bong bóng xà phòng. Tất cả những gì nhơ bẩn, vô đạo đức và kinh tởm nhất sẽ được tạo ra để giúp chủ nhà thổ kiếm được nhiều tiền hơn. Quyền lợi và phẩm giá của những cô gái bán hoa sẽ bị tước bỏ không khoan nhượng để tiết kiệm chi phí cho chủ nhà thổ. Một mạng lưới chân rết sẽ len lỏi khắp các ngóc ngách của đất nước để gom thật nhiều các cô gái và đưa họ vào nhà thổ. Sau khi bị vắt kiệt tuổi thanh xuân và sức sống trong một thời gian ngắn, họ sẽ bị tống ra đường. Xã hội sẽ phải nuôi dưỡng họ, nếu không muốn phải đối mặt với những rối loạn khủng khiếp. Quản lý, thuế khóa và ngăn chặn dịch bệnh, đều sẽ phải hy sinh cho lợi nhuận. Không những thế, tiền thuế cũng sẽ phải dùng để trợ cấp cho các doanh nghiệp kinh doanh mại dâm giống như ngân hàng hay doanh nghiệp bất động sản vậy. Tất cả vì lợi nhuận. 

Thế nên đám dân chủ và dân túy đòi hợp pháp hóa mại dâm không phải vì quyền lợi của các cô gái bán hoa mà vì quyền tự do kinh doanh của giai cấp tư sản. Đó là tất cả những gì chúng muốn, tự do kinh doanh và thị trường sẽ đem lại sự tối ưu bằng cách đẩy chi phí lên lưng những người lao động. Hợp pháp hóa mại dâm chính là hợp pháp hóa việc đẩy gánh nặng chi phí của ngành công nghiệp này sang cho xã hội. 

Tất nhiên nếu ngành kinh doanh mại dâm thua lỗ thì chính quyền sẽ phải cứu trợ, giống như mọi ngành kinh tế khác. Lợi nhuận thì tư bản tư nhân hưởng, thua lỗ thì cả xã hội sẽ phải gánh chịu. Chủ nghĩa xã hội của giai cấp tư sản là đây chứ đâu xa?

Khi mại dâm chưa được hợp pháp hóa, các băng đảng tội phạm kiểm soát hoạt động này, nhưng ngay cả khi hợp pháp hóa mại dâm thì chúng vẫn sẽ hoạt động bất hợp pháp, bởi vì đó là phương thức tồn tại duy nhất của chúng. 

Kẻ đầu tiên có lợi trong việc hợp pháp mại dâm hóa chính là những gã tài phiệt đang nắm quyền lực. Tiền và quyền lực sẽ giúp chúng nhanh chóng tạo ra những tổ hợp công nghiệp mại dâm quy mô lớn để kiếm lợi nhuận từ thân xác của những phụ nữ khốn khổ và sự tha hóa những người đàn ông đang sống trong một xã hội không ngừng tan rã. 

Mại dâm phục vụ trước hết là giai cấp tư sản, những kẻ có tiền. Sự hợp pháp hóa mại dâm sẽ giúp cho việc chơi gái của giai cấp tư sản trở thành nền tảng đạo đức mới của xã hội. Các quan chức chính quyền tha hóa sẽ không cần phải lén lút đi chơi gái, họ sẽ chơi công khai, dịch vụ hợp pháp được ngân sách đài thọ. Chơi gái sẽ là một biện pháp kích cầu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, một khoản chi tiêu quan trọng của chính phủ. 

Thế nên mỗi khi đám dân chủ và dân túy kêu gào đòi hợp pháp hóa mại dâm thì chính là chúng đang ve vãn những kẻ có quyền lực. Chúng ve vãn để được xoa đầu, để nhận được những ân sủng tiền bạc hay bổng lộc. Chúng cũng là một dạng mại dâm nhưng chúng biết rằng không nên công khai điều đó, bởi vì sự công khai sẽ khiến chúng bị mất hết giá trị. 

Giai cấp tư sản mới phất đang khát khao lợi nhuận khổng lồ từ công nghiệp mại dâm, đấy là thiên đường của chúng, trong nền kinh tế thị trường thì thiên đường của người giàu là địa ngục của người lao động, bởi vì sự nghèo khổ của người lao động sinh ra từ sự giàu có của giai cấp tư sản. Do vậy, hợp pháp hóa mại dâm cũng là sự chuẩn y một chế độ chống lại người lao động, đó là tất cả những gì giai cấp tư sản cần ở chính quyền hiện nay, ngoan ngoãn phục tùng lợi ích của giai cấp tư sản và thể hiện sự phục tùng ấy bằng cách công khai chống lại giai cấp lao động.

Thursday, August 13, 2015

Chiến tranh tiền tệ Hoa Kỳ-Trung Quốc: Kẻ thắng và người thua

Bài viết "The US-China “Currency War”: Winners and Losers" Geoffrey McDonald cho rằng trong cuộc chiến tranh tiền tệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, giai cấp công nhân sẽ luôn là người thua khi đứng về phía chủ nghĩa quốc gia. 

Chiến tranh tiền tệ Hoa Kỳ - Trung Quốc: Kẻ thắng và người thua

Chính khách Hoa Kỳ không hoan nghênh Đảng Cộng Sản ở Bắc Kinh về thành công trong việc theo đuổi câu thành ngữ tư bản “tự làm giàu”, mà kêu gào chơi bẩn: Trung Quốc làm sai lệch tỷ giá hối đoái của đồng nhân dân tệ để có thể kiếm nhiều tiền hơn từ Hoa Kỳ, hơn là ngược lại. Cáo buộc được tất cả mọi người từ Donald Trump cho tới Bernie Sanders đưa ra là chính sách của Trung Quốc đang giết chết các công việc được trả lương cao của Hoa Kỳ - và rất nhiều thứ khác nữa. Điều tồi tệ đối với Hoa Kỳ không phải do Hoa Kỳ gây ra mà là do sự bịp bợm của Trung Quốc. 

Quyền thành công của Hoa Kỳ

Giải pháp cho vấn đề cũng rõ ràng như lời cáo buộc: Trung Quốc phải áp dụng các quy định đã được Hoa Kỳ chấp thuận trong thương mại và trao đổi quốc tế. Nếu Trung Quốc thả nổi đồng tiền của họ, sau đó giá trị của đồng nhân dân tệ sẽ được điều chỉnh, xuất khẩu của Trung Quốc sang Hoa Kỳ sẽ trở nên đắt hơn, Trung Quốc và phần còn lại của thế giới sẽ mua nhiều sản phẩm của Hoa Kỳ hơn và công ăn việc làm sẽ quay trở lại Hoa Kỳ. 

Giả định là những nhà buôn tiền toàn cầu, theo sự thông thái vĩnh cửu của họ, sẽ tìm ra tỷ giá hối đoái “chính xác” giữa đồng nhân dân tệ và dollar khi họ được tự do tiếp cận cung và cầu đồng nhân dân tệ. Tỷ giá hối đoái chính xác là thế nào? Đó là tỷ giá đảm bảo cho thắng lợi của doanh nghiệp Hoa Kỳ. 

Trước khi có động thái đáp lại sự suy thoái tuần này, Trung Quốc đã tiến tới thị trường chuyển đổi đồng nhân dân tệ tự do. Từ năm 2005, họ đã để cho đồng tiền tăng giá 30% so với đồng dollar, trong khi cố gắng kiểm soát sự gia tăng. Mặc dù vậy kết quả cán cân thương mại với Hoa Kỳ vẫn không thay đổi. Suy luận là gì? Trung Quốc vẫn làm chưa đủ. Làm sao chúng ta biết họ đã làm đủ? Khi Hoa Kỳ là người thắng cuộc.

Đối với Hoa Kỳ, khi họ thiết lập hệ thống thị trường thế giới, thị trường này phải phục vụ cho lợi ích của nhà sản xuất Hoa Kỳ, thế nên khi họ không thành công như họ muốn thì đó không phải là thị trường mà là những người chơi khác có vấn đề.

Cộng và trừ 

Việc Hoa Kỳ lên án lợi thế thương mại của Trung Quốc đã bỏ qua sự kiện này: nhiều sản phẩm đang “tràn ngập” thị trường Hoa Kỳ được các công ty Hoa Kỳ sản xuất ở Trung Quốc. Đây là lợi ích của đồng dollar giá trị cao. Nhà đầu tư Hoa Kỳ đang kiếm được lợi nhuận khổng lồ ở Trung Quốc. Trái với điều này, tất cả “chúng ta” đều được coi ở cùng một phe và bị Trung Quốc đe dọa. 

Chính khách Hoa Kỳ đang gây chiến về việc thao túng tiền tệ đã không kêu gọi hạn chế các nhà đầu tư Hoa Kỳ kinh doanh ở Trung Quốc – thứ có thể tàn phá công ăn việc làm “Hoa Kỳ”. Tại sao? Hoa Kỳ thấy lợi nhuận nhờ chi phí sản xuất thấp ở Trung Quốc gấp nhiều lần so với thiệt hại công ăn việc làm và thuế khóa ở nội địa. Các tay chơi toàn cầu của Hoa Kỳ phải lợi dụng mọi cơ hội để trở nên cạnh tranh hơn hàng sa số các tay chơi từ các quốc gia khác, vốn cũng thuê ngoài ở Trung Quốc. 

Chính khách Hoa Kỳ luôn luôn nói với công nhân Hoa Kỳ: “chúng ta” là một phần của kinh tế toàn cầu, thế nên “chúng ta” phải đảm bảo rằng doanh nghiệp “của chúng ta” phải cạnh tranh hơn, “chúng ta” phải làm việc chăm chỉ hơn và cắt giảm lương. Khi chính khách nói: “Người Mỹ là công nhân năng suất nhất thế giới,” điều đó không phải là tâng bốc mà là yêu cầu: anh phải rẻ hơn và chăm chỉ hơn. Đây là quy luật, bất kể hàng hóa Trung Quốc có cướp thị trường hay không.

Trong nhiều năm, Hoa Kỳ giữ một cán cân thương mại âm, đủ để phá hủy bất cứ quốc gia nào khác. Hoa Kỳ có đặc quyền này bởi vì đồng dollar là đồng tiền thế giới, được sử dụng cho các giao dịch kinh doanh khắp thế giới. Nhưng sau vụ sụp đổ tài chính năm 2007 và khoản nợ đầu cơ lớn mà họ phải gánh để quản lý khủng hoảng, tình hình mới đã xuất hiện: Hoa Kỳ phải lo ngại về độ tin cậy của họ. Nó vẫn chưa bị hoài nghi, nhưng không còn không thể bị hoài nghi. Ở Washington có cảm giác rằng cần phải làm điều gì đó để chứng minh độ tin cậy của đồng dollar trong vai trò tiền tệ thế giới. Họ phải cải thiện cán cân thương mại để chứng tỏ quan hệ giữa khoản nợ và năng lực tài chính của họ.

Trung Quốc đã tài trợ cho nợ của Hoa Kỳ hàng nghìn tỷ. Dịch vụ này đã được Washington thừa nhận, nhưng nó cũng cho thấy nguy cơ tiềm tàng. Nếu Trung Quốc ngừng mua trái phiếu ngân khố hoặc chuyển sang sắp xếp đồng tiền cạnh tranh, đó sẽ là sự suy tàn không thể đảo ngược của quyền lực tài chính Hoa Kỳ. Trung Quốc đang tiến những bước thăm dò theo hướng này, cùng với việc cảnh báo Hoa Kỳ rằng họ phải quản lý đồng tiền theo các nguyên tắc thị trường tốt; ví dụ như cắt bớt phúc lợi nhà nước.

Tại sao Trung Quốc không làm điều chúng ta muốn? 

Thực tế là Trung Quốc điều tiết tỷ giá hối đoái để kích thích xuất khẩu. Đây không phải là chiến thuật xa lạ khi nhà nước cố gắng khẳng định vị thế của mình. Đức, cựu vô địch xuất khẩu, đã làm điều đó trong thời kỳ hậu chiến; Nhật Bản và Hàn Quốc cũng vậy. Nhưng không ai cáo buộc những quốc gia này về việc thao túng đồng tiền bởi vì sự phát triển kinh tế của họ không thách thức sự thống trị toàn cầu của Hoa Kỳ giống như Trung Quốc.

Đồng nhân dân tệ giá thấp không phải là điều rõ ràng đối với Trung Quốc. Theo quan điểm đảm bảo sự cạnh tranh về giá của xuất khẩu thì cần phải duy trì tỷ giá hối đoái không cao; nhưng theo quan điểm xuất khẩu tư bản, sự thật ngược lại: tỷ giá hối đoái cao cho phép các nhà đầu tư Trung Quốc có sức mua lớn hơn tại các quốc gia khác. Nếu như đồng tiền tăng giá, nhập khẩu dầu và nguyên liệu thô sẽ rẻ hơn; nếu đồng tiền mất giá, điều này sẽ làm yếu khả năng đầu tư của đồng nhân dân tệ ở Hoa Kỳ. Công nghiệp xuất khẩu và nhập khẩu theo đuổi các chính sách xung đột. Nhà nước Trung Quốc thể hiện rõ rằng họ đang cố gắng xây dựng một chính sách thúc đẩy sức mạnh kinh tế của Trung Quốc trên thế giới.

Lý do khác khiến Trung Quốc không thể mở cửa hoàn toàn thị trường tư bản: họ không muốn người Mỹ và người Nhật chiếm lấy các công ty Trung Quốc. Họ muốn kiểm soát dòng tư bản vào và ra. Trung Quốc đang tiến một cách thận trọng tới việc chuyển giao quyền ra quyết định tài chính cho thị trường. Phải mất tới 20 năm để chuyển giao quyết định công nghiệp cho thị trường nội địa. Giao phó sự tăng trưởng của một quốc gia cho các lợi ích tư nhân là sự chuyển tiếp nguy hiểm đối với mọi quyền lực nhà nước. Kết quả của điều đó cũng rất rõ ràng; đối với phần lớn các quốc gia trên thế giới, nó dẫn đến sự phá hủy tài sản quốc gia, như đã được thấy ở “thế giới thứ ba”. Thế nên Trung Quốc thận trọng. Ý đồ của họ - như họ đã nói và thể hiện – là giám sát sự tự do hóa nền kinh tế theo cách của họ, với tốc độ của họ và khi họ đánh giá nó theo lợi ích của bản thân.

Với vị thế của Hoa Kỳ thì mọi thứ ở Trung Quốc đều có lợi cho Hoa Kỳ - thị trường nội địa, cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính của họ. Hoa Kỳ muốn tiếp cận lao động Trung Quốc mà không cần thông qua đối tác Trung Quốc, đầu tư hoặc là trực tiếp thông qua các công cụ tài chính hoặc xây dựng các chi nhánh kinh doanh ở Trung Quốc. Họ muốn đến và đi mà không cần thông qua kinh tế địa phương. Hoa Kỳ đòi hỏi rằng kinh tế Trung Quốc phải làm cho Hoa Kỳ thành công. 

Công ăn việc làm: tất cả và kết thúc tất cả 

Chính khách Hoa Kỳ nói rằng khi họ chống lại việc Trung Quốc “thao túng đồng tiền” thì họ đấu tranh vì công ăn việc làm cho công nhân Mỹ. Đây là lời nói dối. Họ đấu tranh cho các công việc sinh lợi nhuận, là sự phục vụ cho kinh doanh. Điều này có nghĩa là thiết lập các điều kiện tối ưu – thuế thấp, các quy định môi trường hạn chế, ít luật về sức khỏe và an toàn – để làm cho đầu tư ở Hoa Kỳ hấp dẫn trở lại. Đối với công nhân Mỹ, điều này có nghĩa là đáp ứng hoặc vượt qua các tiêu chuẩn sinh lợi đã được tư bản thiết lập trên toàn cầu, trong đó có Trung Quốc. Họ không phải là những người được hưởng lợi, nhưng nguồn nhân lực cho sự thành công của Hoa Kỳ thì có.

Chính khách nói với công nhân rằng mục tiêu của kinh doanh là tạo ra nhiều công việc với chi phí thấp nhất là lợi ích tối cao của họ. Họ đe dọa công nhân với thực tế là công nhân không có nguồn thu nhập nào khác ngoài việc bán sức lao động, thế nên phải mong muốn công ty thành công và đảm bảo điều đó. Những trách nhiệm công cao cả này ngăn chặn bất cứ câu hỏi không trung thành nào như: Tôi nhận được gì từ công việc? Tôi được gì khi dành cả đời để làm việc? Công nhân phải bỏ qua lý do đầu tiên khiến họ phải đi làm – để có tiền và thời gian tự do – vì lợi ích của bản thân công việc. 

Một công việc được coi là điều tốt nhất mà công nhân muốn ở hệ thống này. Nhưng thật ra: công việc tốt ở điểm nào? Không phải nó cho thấy công việc với thu nhập ít ỏi ra sao khi nó có thể chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác vào thời điểm xác định bởi vì lao động rẻ hơn và điều kiện làm việc ít đắt đỏ hơn ở đây? Công việc không rời khỏi Hoa Kỳ hay được kéo trở lại đây – chúng có sự khác nhau nào không? Họ tồn tại khi và chỉ khi họ làm giàu cho công ty, điều có nghĩa là: thu nhập thấp và công việc nặng nhọc. 

Nhiều công nhân cùng phe với quốc gia hay công ty “của họ” với hy vọng rằng điều này có thể tạo ra công việc ổn định hoặc ngăn chặn thu nhập mất đi. Sự phụ thuộc của họ vào thứ họ buộc phải làm khiến cho kinh doanh dễ dàng đe dọa họ và thúc đẩy họ chống lại những công nhân cùng cảnh ngộ khác. Điều này khiến cho lương và điều kiện làm việc bị hạ thấp ở mọi nơi. Về mặt kinh tế, chủ nghĩa quốc gia luôn đánh chặn giai cấp lao động. Đó là sự thật ở Hoa Kỳ cũng như ở Trung Quốc.

Geoffrey McDonald is an editor at Ruthless Criticism
He can be reached at: ruthless_criticism@yahoo.com

Sunday, August 9, 2015

Tâm thần học về chủ nghĩa Marx kiểu Walras

Cách đây đã nhiều năm, khi còn học đại học ở Việt Nam, có lần thầy dạy môn kinh tế học của tôi đã nói rằng phương pháp của kinh tế chính trị học Marxist và phương pháp của kinh tế học là gần giống nhau. Marx thì đi từ cái trừu tượng đến những cái cụ thể, còn kinh tế học là cho một yếu tố biến đổi trong khi giả định những yếu tố khác không thay đổi để xem xét tác động của yếu tố ấy, tức là đều đi từ cái đơn nhất đến tổng thể. Tất nhiên khi đó tôi chỉ là một sinh viên năm thứ nhất, hoàn toàn không đủ khả năng hiểu điều đó có nghĩa là gì. Mặt khác lúc đó Việt Nam còn rất thiếu sách vở và tài liệu, không cho phép sinh viên tìm tòi hay tham khảo các nhà nghiên cứu kinh tế khắp thế giới như bây giờ.  

Nhiều năm sau, tôi mới có thể nhận ra sự nguy hiểm trong lập luận mập mờ về phương pháp luận đã nêu. Sự khác biệt về phương pháp luận thực sự là yếu tố quyết định sự khác biệt giữa kinh tế chính trị học Marxist và kinh tế học cũng như kinh tế học giả Marxist. Lịch sử tư tưởng kinh tế chính trị phương Tây, tức là nghiên cứu kinh tế chính trị Marxist ở những nước tư bản, đã cho thấy gần 100 năm đấu tranh dữ dội với sự thụt lùi về phương pháp luận đó. Vào năm 1996, khi Alan Freeman và Guglielmo Carchedi xuất bản cuốn "Marx and Non-Equilibrium Economics" với nhà xuất bản Edward Elgar, họ không chỉ thanh toán một thế kỷ nhầm lẫn điên loạn của kinh tế chính trị học Marxist phương tây mà còn mở đường cho một trường phái mới có những bước tiến đáng kinh ngạc trong thời gian gần đây về nghiên cứu kinh tế chính trị học mang hơi thở của thời đại mới. 

Ở Việt Nam giới học thuật hoàn toàn bỏ qua Western Marxism, tức là chủ nghĩa Marx của phương tây, nên những tác giả và tác phẩm như thế này có thể xa lạ độc giả. Song việc tham khảo những thành tựu của Western Marxism có thể sẽ rất có ích, nhất là để phê phán kinh tế học tân tự do, thứ đang bắt đầu nổi lên ở Việt Nam và đang tìm cách thay thế kinh tế chính trị Marxist.

Dưới đây là bản dịch chương 1 của cuốn sách. 


Tâm thần học của chủ nghĩa Marx kiểu Walras
Alan Freeman

Dĩ nhiên là một số nhà kinh tế học Marxist sẽ miễn cưỡng thừa nhận sự phi lý của “lý thuyết giá trị lao động” nhưng hiện giờ nói chung đều thừa nhận rằng việc trình bày sự phi lý đó là hoàn hảo về mặt logic.
Ian Steedman (1981:11)


Khi năng suất tăng lên, khối lượng hàng hóa của nhà sản xuất tính trên giờ lao động cũng tăng lên; do vậy bà [Luxemburg] nói rằng tỷ lệ c so với v cũng phải tăng. Đây là một sai lầm.
Joan Robinson (1951:22)


Điều này dĩ nhiễn đã được biết đến trong nghiên cứu Marxist như là vấn đề chuyển hóa. Như đã được biết rõ, phương thức mà Marx đề xuất là sai lầm.
Paul Sweezy, trong Steedman (1981:25)
1.1 Giới thiệu

Có những người đủ ngây thơ để đọc Marx như một nguồn kiến thức. Đối với một độc giả - dĩ nhiên là lý tưởng, bất mãn với áp bức hay bất công, muốn thay đổi thế giới và vì lý do này khát khao thấu hiểu cách thế giới vận hành – Marx nói, một cách tổng quát: có những người sở hữu tài sản vì lợi ích của bản thân và những người không. Những người sau tạo ra của cải, mà không có chúng thì những người trước sẽ không tồn tại. Người giàu có duy trì sự bất công này với áp bức, lừa dối, tham nhũng và bạo lực. Họ chiến đấu vì bổng lộc, để lại cho thế giới bệnh hoạn và đau khổ. Mục tiêu đầy tham vọng của họ thường xuyên thoát khỏi tầm kiểm soát, phá hủy không phân biệt những người có lỗi cũng như vô tội với hài kịch hay bi kịch. Mặc dù vậy, quá trình đó đưa đến cho những người tạo ra của cải, nếu họ tổ chức một cách có ý thức để làm như vậy, cơ hội để lật đổ trật tự này và xây dựng một trật tự khác tốt hơn.

Những phương trình chết cứng khác tóm lược các phân tích của Marx về nền kinh tế tư bản chủ nghĩa xoay quanh tất cả những tuyên bố đó, dĩ nhiên ngoại trừ loại thứ hai. Điều này thể hiện qua tuyên bố của McLellan (1980:77) rằng “Đọc Marx chỉ như đọc một nhà kinh tế học sẽ gắn liền với việc làm sai lệch một số phần trong tư tưởng của ông. Đối với Marx, như ông đã tự tuyên bố vào đầu năm 1844, kinh tế học và đạo đức gắn bó chặt chẽ với nhau.” Kinh tế học của Marx đưa ra một hiểu biết mang tính xã hội, chính trị và đạo đức thống nhất.

Các phạm trù “kinh tế học”, xuất hiện như một thứ phi nhân có linh hồn riêng – giá cả, tiền bạc, lãi suất – đối với Marx là những dạng khác nhau của quan hệ giữa người với người. Ông không chỉ giải thích tại sao chúng tăng lên hay giảm xuống mà còn giải thích ý nghĩa xã hội của chúng: ai được, ai thua, ai thống trị. Đó là mấu chốt khiến con người tác động và bị tác động; lý do công nhân bị đưa ra đọ sức với chủ doanh nghiệp, nước nghèo chống lại nước giàu và lý do có bất công, áp bức, chiến tranh, xả thải, nói ngắn gọn là các vấn đề sống còn của sự sống trên hành tinh.

Đây là nguồn gốc sự ảnh hưởng lớn lao của ông đối với thế giới. Kết quả là phân tích kinh tế học của ông đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống tư tưởng của ông. Nếu nó được chứng minh là sai lầm thì đó là thành công của tất cả những người có lợi ích gắn liền với việc kêu gọi thị trường phi nhân tính làm trọng tài cho tranh chấp cá nhân – trong việc lý tính hóa thế giới như bề ngoài, thay vì bản chất.

Lịch sử kinh tế học cũng như lý thuyết của nó cho thấy ở đâu cần dịch vụ thì người cung cấp xuất hiện. Các học giả chuyên nghiệp hiện đại trình bày sự mô tả “ngây thơ” của Marx theo nhu cầu nhưng lại sai lệch. Trong đó, các nhà kinh tế học có một vai trò đặc biệt. Ngay cả khi quan điểm chính trị và xã hội của Marx được miễn cưỡng thừa nhận thì lý thuyết kinh tế của ông vẫn bị coi là sai về mặt logic. Rõ ràng do công trình của ông dựa trên kinh tế chính trị nên điều đó cáo buộc lý thuyết của ông đơn giản là đã sai toàn bộ, bất chấp sự thấu hiểu sâu sắc của ông.

Có một điểm chung giữa những người đối lập và các nhà kinh tế cực đoan là kinh tế học tân cổ điển – và các nhà kinh tế học – có chung lợi ích trong việc hạ uy tín Marx. Song một số lượng lớn các nhà Marxist cũng chấp nhận cáo buộc đó và nhiều người đã đi đầu trong việc lôi kéo những người khác. Do những người quan sát ngây thơ sẽ không thể ngờ được rằng các nhà Marxist lại có lợi ích trong việc hạ uy tín Marx, điều này tạo ra một sức ép khủng khiếp đối với quan điểm về việc có sai lầm thật sự và không thể cứu vãn trong lập luận kinh tế của Marx.

Chương này có hai chức năng. Thứ nhất, nó chứng minh về mặt lý thuyết và bằng các tác phẩm của Marx rằng ông không sai lầm như bị cáo buộc. Là một con người thì ông có thể sai lầm, nhưng không sai về mối quan hệ giữa giá trị với giá cả, về nguồn gốc của lợi nhuận, hay về khuynh hướng suy giảm của lợi nhuận. Do vậy, những độc giả ngây thơ, đang đọc Marx như được đề cập ở phía trên, hiểu về kinh tế học tốt hơn là các chuyên gia. Sự mô tả hợp lý, có logic về kinh tế thị trường của ông tốt hơn bất cứ lý thuyết nào khác, kinh tế thị trường đã chứng tỏ điều mà Marx nói và giải thích về những vận động đã được quan sát của nền kinh tế.

Nhiều người khác đã trình bày nghiên cứu này, ít nhất là từng phần1, mục đích của chương này hoàn toàn không mới. Mặc dù vậy, chức năng thứ hai là giải thích lý do khiến việc bảo vệ nó bị lãng quên. Chúng ta giải quyết câu hỏi rõ ràng trong bình luận của Steedman (1977:49n):

Dạng lập luận hiện thời đã được nghiên cứu dưới nhiều hình thức khác nhau, bởi nhiều tác giả khác nhau trong suốt 80 năm qua. Tất cả đều đi đến một kết luận tương tư và không phát hiện được sai lầm logic trong các lập luận đó.

Nếu có sai lầm logic trong các lập luận phản bác Marx, tại sao không ai, ngay cả các nhà Marxist, nhận ra chúng trong suốt 80 năm qua?

Chúng tôi sẽ chứng minh rằng cáo buộc về sai lầm đã bị đưa nhầm địa chỉ. Nó chống lại một lý thuyết không phải là của Marx. Bên có lỗi là thứ mà chúng tôi gọi là Chủ nghĩa Marx kiểu Walras, theo tên của Leon Walras (1834-1910), người sáng lập ra lý thuyết cân bằng. Đây là thứ mà chúng tôi khẳng định là sự cân bằng đội lốt Marx, một sự chỉnh sửa đáng trách tư tưởng của Marx theo lý thuyết tân cổ điển. Hệ quả là kinh tế chính trị học có tính chất khoa học của Marx bị chôn vùi trong sự dối trá trong khi kinh tế học nói chung, bao gồm hầu hết các cấu thành “Marxist” của nó, ngày càng có ít hơn khả năng đóng góp vào sự phát triển chủ chốt của kinh tế thế giới.

Kinh tế chính trị học khoa học – đặc trưng Marx đã tạo dựng cho công trình của ông – phải được tính không chỉ cho lý thuyết của nó mà cả các lý thuyết khác. Chủ nghĩa Marx kiểu Walras là một hệ thống khép kín, hợp lý và mạch lạc với các kết luận rõ ràng. Tại sao ba thế hệ tác giả gán những kết luận đó cho Marx? Tôi khẳng định rằng việc sử dụng các phương trình đồng thời, chủ nghĩa hình thức thuộc về lý thuyết Cân Bằng Tổng Quát, đã xuyên tạc không chỉ tính toán về giá cả và giá trị mà xuyên tạc cả bản thân khái niệm. Nó hàm chứa sự tiến triển từ các khái niệm tới hệ thống được coi là bình thường trong tư duy khoa học và công cụ hóa một sự suy đồi từ hệ thống đến khái niệm.

Sự suy đồi này là lý do cho chủ đề của chương này. Nếu chúng ta có thể kỳ vọng chuyên ngành kinh tế học đáp ứng các sự thật hiển nhiên thì lý thuyết có thể chỉ tuyên bố những gì tồn tại và tiếp diễn. Lịch sử cuộc tranh luận cho thấy chuyên ngành kinh tế học thúc đẩy sự tiến hóa của các cơ chế hữu hiệu và ngụy biện để tự chống lại sự thật. Marx áp dụng hai tiên đề. Thứ nhất, ông thừa nhận giới hạn của lý thuyết thuần túy. Nếu ông và Engels không tham gia trong Quốc Tế I và II thì các công trình của họ sẽ chỉ thích hợp là các chú thích ở cuối trang sách trong lịch sử tư tưởng kinh tế. Thứ hai, mặc dù vậy, nghiên cứu lý thuyết có thể “rút ngắn sự đau đẻ” của các giải pháp thực tiễn thông qua phê phán các lý thuyết đang tồn tại, do sự thiếu vắng các sự thay thế lý thuyết, hành động thực tiễn sử dụng bất cứ thứ gì mà nó có trong tay. Mục tiêu của chúng tôi là bóc tách những tiên đề được áp dụng ngầm của lý thuyết cân bằng, dạng thuần túy của phương pháp đồng thời, khỏi những kết luận rõ ràng của nó.

Mục tiêu của một phê phán hiện đại khác với thời Marx còn trẻ, lý thuyết cổ điển vẫn được trình bày như là một người theo chủ nghĩa duy lý sơ khai tôn trọng sự thật, mặc dù vẫn chưa đạt được tới điều đó. Không phải là không có lý do để xử lý nó, như Marx đã làm, như là một khối kiến thức tiến tới phía trước với những lùi bước tạm thời không thường xuyên. Hiện giờ, điều ngược lại mới là đúng. Sự thừa nhận cưỡng bức không thường xuyên về giá trị thực tiễn của Keynes hay Kalecki đã bao trùm và kết hợp chặt chẽ thành một trong những thứ đáng hoài nghi nhất trong tất cả các sự kiện.

Phê phán lý trí thuần túy phải nhường đường cho phê phán phi lí trí thuần túy. Qua đó chúng tôi không chỉ nói tới sự phê phán, như từ ngữ phải thể hiện, mà là một sự khám phá logic mang tính hệ thống về những tiên đề về nền tảng của nó. Chúng tôi muốn hiểu rõ thứ đã khiến hình thức đồng thời trở thành nhu cầu cần thiết – theo con đường cân bằng, nhà tư tưởng bị buộc phải quan niệm thế giới để áp dụng hệ thống của ông ta hay bà ta vào đó.

Chúng tôi cho rằng có thể trình bày rằng hình thức phương trình đồng thời do Bortkiewicz thể hiện, và được tất cả các tác giả sau đó áp dụng, chắc chắn che dấu sự biến động của giá cả cũng như sự mâu thuẫn của cung với cầu và áp đặt thị trường ăn khớp tại giá cả cố định trong vai trò là giả định ban đầu. Nó chứa đựng trong các dạng thuần túy toán học sự giáo điều và sự thừa nhận của Jean-Baptiste Say về việc cung tạo ra cầu của nó. Cạnh tranh, sự vận động của giá trị thặng dư trong việc tìm kiếm lợi nhuận cao hơn cần phải vắng mặt trong các hệ thống phương trình đồng thời. Khái niệm khoa học thông thường về nhân quả, như quan hệ giữa các sự kiện kế tiếp nhau theo thời gian, được thay thế với khái niệm phi thời gian về sự quy định bởi định đề toán học.

Chủ nghĩa hình thức nhất thiết phải thay thế giá cả như nó tồn tại thực tế - tỷ lệ mà tại đó hàng hóa được trao đổi lấy tiền, một hàng hóa đặc biệt – với các tỷ lệ trao đổi được quy định trước đó và độc lập với tiền, do vậy khiến cho việc lý thuyết hóa tiền trở thành bất khả thi. Giá trị như là quan hệ xã hội, dạng mà lao động của con người thể hiện bản thân trong trao đổi, được thay thế bằng khái niệm bái vật giáo về giá trị như là thuộc tính của sự vật được quy định bởi công nghệ sản xuất ra chúng. Cuối cùng chúng tôi muốn trình bày rằng các khái niệm kết quả không thể thể hiện hay giải thích tư bản như là giá trị tự lớn lên, hay trên hệ quả là sự tích lũy, sự phụ thuộc của những nỗ lực của con người vào sản xuất giá trị thặng dư tương đối.

Dựa trên những khái niệm phi Marxist về giá trị, giá cả và quy định, sự đơn giản hóa Marx, sự diễn giải minh bạch đã bị ba thế hệ các nhà Marxist phủ nhận, bởi vì họ đã tự tước bỏ những phương tiện để làm cho chúng có ý nghĩa.

1.2 Các phương trình của quá trình lao động

Chúng tôi bắt đầu bằng những phương trình của quan niệm ngây thơ về chủ nghĩa Marx. Các độc giả thượng lưu được khuyến nghị tạm ngừng biểu lộ sự khinh bỉ và hoài nghi. Nỗi đau có thể xoa dịu bằng việc ghi nhận rằng những phương trình và các giải thích bổ sung được trích dẫn trực tiếp từ Marx, không có suy diễn. Đọc một cách ngây thơ là chữ nghĩa nhưng không suy nghĩ. Bốn phương trình mô tả sản xuất hàng hóa cho thị trường – quá trình lao động.

M=C+V (1)

C’=C+L (2)

S=L-V (3)

Rút ra

C’=C+V+S (4)

Bằng tiếng Anh: một nhà tư bản bắt đầu với tiền, phương tiện ngoại lai và dạng thuần túy của giá trị. Đây là sự phân chia thành tư bản bất biến C và tư bản khả biến V. Do vậy có phương trình (1). C mua hàng hóa, thứ được biến thành hàng hóa khác nhờ hàng hóa sức lao động, thứ thuộc sở hữu của công nhân, gắn bó không thể đơn giản hơn với cá nhân họ và tốn một khoản V. Trong sản xuất, sức lao động tạo ra giá trị mới L, thêm vào giá trị ban đầu C, do đó sản phẩm mới có giá trị C’. Do vậy có phương trình (2). Công việc càng dài hơn, khó khăn hơn, tốt hơn thì L càng lớn hơn2.

Quá trình lao động tạo ra của cải thô C’, lớn hơn số tiền C+V được đầu tư vào sản xuất ra nó, trừ khi nhà tư bản nhầm lẫn nghiêm trọng trong việc tính toán, trong trường hợp đó thì anh ta sẽ tự xóa sổ mình ngay. Phần chênh lệch S được gọi là giá trị thặng dư và được thể hiện trong phương trình (3), thông thường là dương. C’ do vậy được thể hiện bằng phương trình (4).

Những gì công nhân có thể làm trong phạm vi quy luật của đất đai và kinh tế học là những thứ được xác định bằng những phương trình này. Họ có thể tăng V. S giảm xuống nhưng không có thay đổi nào khác. Họ có thể giảm L, khi đó C’ và S cùng giảm. Trong cả hai trường hợp thì nhà tư bản vẫn sở hữu toàn bộ sản phẩm cuối cùng C’, nhưng sẽ thu được ít thành quả S hơn.

Nhà tư bản cũng được quy định một cách bình đẳng. Họ có thể tăng L bằng các buộc công nhân lao động lâu hơn, mệt nhọc hơn hay tốt hơn, trong phạm vị giới hạn sinh học và các quy luật về không gian và thời gian. Họ có thể giảm V. Giảm V không mang lại gì cho toàn thể giai cấp, mặc dù vậy một cá nhân có thể thu được giá trị từ nhà tư bản khác bằng cách giảm chi phí của họ mà không giảm giá, như được thảo luận ở phần 2 phía trên. Điều này vẫn đúng bất kể sự giàu có hiện thời, có nghĩa là giàu có về vật chất hay giá trị sử dụng, mà giá trị là đại diện.

1.3 Phương trình về lưu thông

Trong lưu thông, hàng hóa được mua và bán với những số tiền như sau:

M’=M+m (5)

M’=C+V+m (6)

Mỗi nhà tư bản bán đầu ra (giá trị C’) lấy một tổng số tiền M’, giá thị trường của sản phẩm tại thời điểm trao đổi. Sự chênh lệch là tổng số tiền m, lợi nhuận. Giờ M’ có thể khác C’: một cá nhân có thể bán thứ gì đó trị giá 60 bảng để lấy 70 bảng, kiếm được 10 bảng. Nhưng 10 bảng ấy là sự tổn thất ở đâu đó, thế nên thu được và mất đi bù trừ lẫn nhau trong một phạm vị trao đổi khép kín. Tổng giá trị thay đổi do trao đổi:
ΣM’=ΣC’ (7)

Do đối với toàn bộ xã hội thì tổng M’ bằng tổng C’, mặc dù các nhà tư bản cá biệt có thể nhận được ít hơn hay nhiều hơn C’ cá biệt của họ. Từ (6) và (4) suy ra là nếu hàng hóa được bán tại giá trị của nó (M’=C’) thì m=S, có nghĩa là lợi nhuận bằng giá trị thặng dư. Nhưng bất kể M’=C’ hay m=S hay không đối với bất cứ nhà từ bản cá biệt nào, lấy (4) trừ đi (6) và tính tổng của tất cả các nhà tư bản dẫn đến:
ΣS=Σm (8)

Có nghĩa là tổng lợi nhuận được thực hiện trong bất cứ chu kỳ nào cũng bằng tổng giá trị thặng dư được tạo ra. Do trao đổi không thể chuyển bất cứ giá trị nào từ công nhân sang nhà tư bản và ngược lại; hơn nữa mọi tập hợp giá cả đều chuyển giá trị từ một nhà tư bản này sang một nhà tư bản khác. Nếu đối với một người bán M’ cao hơn C’ thì khoản chênh lệch phải được bù đắp bằng việc bán dưới giá trị ở đâu đó. Cạnh tranh giữa các nhà tư bản do vậy là xung đột giữa “những người anh em thù địch” về phần chia trong ΣS, thể hiện trong cuộc chiến tăng thu nhập và giảm chi tiêu bằng bất cứ phương tiện nào có sẵn. Hình thức cực đoan nhất được biết tới là chiến tranh và chủ nghĩa phát xít.

Điều mà chúng tôi vừa nói giả định rằng trong một chu kỳ nhất định thì tổng số tiền đại diện cho cùng một tổng giá trị về mặt lượng. Trên cơ sở này thì phương trình (7) là thật bởi định nghĩa và phương trình (8) được rút ra từ nó. Do vậy sự chênh lệch giữa tổng giá trị và tổng giá cả chỉ xuất hiện nếu trao đổi điều chỉnh số lượng giá trị được biểu hiện trong một tổng số tiền. Trong trường hợp này, sự ngang bằng giữa tổng giá trị và tổng giá cả trong trao đổi phức tạp hơn nhưng vẫn đúng. Cụ thể là tiền phải tồn tại trong một tổng số3.

1.4 Các phương trình tích lũy

Trong mỗi chu kỳ, nhà tư bản có thể sử dụng S, giá trị thặng dư, theo hai cách. Họ có thể tiêu dùng hay bổ sung thêm vào tư bản ứng trước C. Hai nguồn nhu cầu này bằng tổng của S – hay tổng của m, lợi nhuận, cũng tương tự như vậy. Bổ sung vào vốn đầu tư – đầu tư – thông thường cho phép nhà tư bản sản xuất thêm hàng hóa. Nếu điều đó làm tăng năng suất, các hàng hóa này có thể được sản xuất ra với ít tiền hơn. Điều bí ẩn lớn nhất của thị trường, không thể giải thích được bằng kinh tế học tân cổ điển, là tại sao tiến bộ kỹ thuật sinh ra thụt lùi của xã hội: tại sao nhiều hàng hóa với ít tiền hơn sinh ra ít lợi nhuận hơn và nhiều nghèo khổ hơn; tại sao giải phóng khỏi tự nhiên lại dẫn đến sự nô lệ cho máy móc; tại sao tài sản cá nhân sinh ra thảm họa xã hội và tại sao sự xâm lược của thị trường ném toàn bộ nhân dân vào hỗn loạn, chiến tranh và chết đói. Quá trình này, sự tích lũy, thống trị cuộc đời của mỗi người trên hành tinh. Đó là nguồn tối cao của sự phi lý nhưng chưa được biết, nơi khai sinh và nấm mồ của lý tưởng tiến bộ.

Tích lũy thay đổi cấu tạo hữu cơ của tư bản. Đó là do sức mạnh dẫn dắt của nó là sản xuất ra giá trị thặng dự tương đối – gia tăng năng suất của lao động bằng cách biến giá trị thặng dư thành tư bản. Không nhà tư bản cá biệt nào có thể vượt qua kết quả của sự cạnh tranh này. Do đó sáng tạo và tích lũy không thể tách rời4. Người sản xuất có đầu tư sẽ trở nên hiệu quả hơn những người khác. Với một khoản đầu tư bằng tiền nhỏ hay nhỏ hơn thu hút được cùng một số lượng hay một lượng lao động nhỏ hơn, họ có thể sản xuất một số lượng đầu ra tương tự lớn hơn. Do đó, giá trị tính trên mỗi đơn vị của chúng thấp hơn. Nếu họ có thể bán sản phẩm này theo giá trị mới – giá trị cá biệt của chúng – thì họ sẽ loại bỏ các đối thủ cạnh tranh. Nhưng hệ thống giá cả đưa đến giá cả cá biệt và giá trị cá biệt cho mỗi sản phẩm, điều đó tạo thành một sự bình quân đối với mọi nhà sản xuất ra sản phẩm này. Nhà sản xuất hiệu quả hơn sẽ nhận được cao hơn bình quân hay lợi nhuận siêu ngạch. Sự san bằng này không phải là nhất thời hay lý tưởng mà là thường xuyên và thực tế, do một công nghệ thống nhất là không bao giờ đạt được. Sự theo đuổi lợi nhuận siêu ngạch là động cơ thực tế của phát triển kinh tế.

Ngay cả khi cấu tạo hữu cơ của tư bản thay đổi, giá trị tăng lên cùng với khoản đầu tư của nhà tư bản. Coi K là giá cả của nó. Giả định rằng nhà tư bản ứng trước K=£1000 và chuyển hóa C= £100, V=£100 vào sản xuất. 

Nếu L là £200 thì họ có kết quả như sau:

- tư bản ứng trước K, giảm xuống do C và V còn lại £800;

- sản phẩm mới C’=£300=C+L.

Do vậy, tổng tư bản của họ hiện giờ là £800+£300=£1100. Trong đó, £100 là giá trị thặng dư của chu kỳ đã qua. Vốn tư bản của họ sẽ lớn lên nếu họ tiêu dùng ít hơn £100 cho các mục đích cá nhân, bất kể là vốn tư bản đó có cấu tạo ra sao.

Họ càng tiêu dùng ít thì tư bản càng tăng nhiều. Coi B đại diện cho số tiền mà nhà tư bản chi tiêu và I là đầu tư. Rút ra

S=B+I (9)

Nhìn chung nếu nhà tư bản biến giá trị thặng dư thành tư bản, I sẽ dương. K tăng thêm trong bất cứ chu kỳ nào cũng bằng I. Để mô tả điều này, chúng ta thêm vào dấu hiệu thời gian trong các phương trình về quá trình lao động, rút ra:

C’t+1=Ct+Vt+St (10)

Sau đó

Kt+1=Kt-(Ct+Vt)+It (11)

Do vậy

Kt+1= Kt+St-Bt (12)

Phương trình (12) thể hiện quy luật nền tảng của tích lũy. Tư bản K tăng lên bởi sự chênh lệch giữa giá trị thặng dư và tiêu dùng của nhà tư bản. Do đó, nó tăng lên ngoại trừ và trừ khi nhà tư bản tiêu dùng nhiều hơn lợi nhuận của họ; có nghĩa là, vốn tư bản chỉ có thể giảm xuống bởi sự chuyển giao giá trị từ nó sang tiêu dùng.

1.5 Tỷ suất lợi nhuận

Tỷ suất lợi nhuận bình quân hay nói chung r là tỷ số giữa tổng lợi nhuận Σm (=ΣS) và vốn tư bản K.
R= ΣS/K (13)

Chừng nào mà nhà tư bản chưa ngừng đầu tư – tiêu thụ giá trị của vốn – r sẽ giảm trừ khi ΣS tăng lên, nhưng ΣS không thể vượt qua giá trị được thêm vào ở mỗi chu kỳ, cụ thể là L. L bị giới hạn của các quy luật sinh học và thời gian. Do đó, trong trường hợp có một khoản tiền cố định thì sự suy giảm của tỷ suất lợi nhuận có thể bù đắp bằng nỗ lực lớn hơn của con người nhưng cũng có thể chỉ chặn đứng được bằng cách tàn phá hoặc phá hủy vốn của tư bản – điều tương tự trong thực tế.

1.6 Cạnh tranh

Trong cạnh tranh, các nhà tư bản cá biệt tìm kiếm tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Hệ thống tín dụng càng phát triển và càng ít cản trở đối với việc chuyển giao tư bản thì quá trình này càng nhanh chóng và có thể dự đoán trước. Sự điều chỉnh mang tính hệ thống về giá cả, dẫn đến C’ khác với M’ (đối nhà tư bản cá biệt) ngay cả khi sự san bằng theo thời gian loại bỏ những thay đổi lên xuống bất thường.

Sự chênh lệch về mặt lượng có nguồn gốc kép. Thứ nhất là sản xuất giá trị thặng dư tương đối, đã được mô tả ở phía trên, được áp dụng cho một nhánh cụ thể của sản xuất. Những một tác động thứ hai của cạnh tranh chỉ tồn tại như là một khuynh hướng, hướng tới một lợi nhuận bình quân lý tưởng hay giả định mà nhà tư bản có thể tính tới trong việc xác định ví dụ như lãi suất. Một giá lý tưởng cho mọi hàng hóa hiện ra; giá cả sản xuất, mà hàng hóa sẽ được bán như thể khu vực sản xuất ra nó nhận được lợi nhuận bình quân. Lợi nhuận bình quân này là tỷ suất lợi nhuận r trong phương trình (13); áp dụng đối với mọi phần của tổng tư bản ứng trước, nó thu được một khoản tiền thêm vào chi phí, tạo thành một giá cả giả định.

P=C+V+K.r (14)

Khi P là (tổng) giá cả sản xuất được bán, r là tỷ suất lợi nhuận trong phương trình (13), và khi C, V và K hiện giờ đề cập tới một khu vực, không phải toàn bộ xã hội. Phương trình (7) và (8), hai “đẳng thức” của Marx, vẫn đúng trong trường hợp bất kỳ giá cả thị trường nào.

Lợi nhuận như trong phương trình (14) trở thành nhận thức chung về tỷ suất lợi nhuận “bình thường”. Mục tiêu của cạnh tranh là giành lấy tỷ suất lợi nhuận cao hơn thông thường. Nhưng chừng nào mà một số nhà tư bản đạt được tỷ suất lợi nhuận cao hơn thì những người khác bị đẩy xuống thấp hơn. Sự chênh lệch trong tỷ suất lợi nhuận là dạng hiển hiện của những nỗ lực cạnh tranh.

1.7 Sự phủ nhận của chuyên gia

Sự phủ nhận của quan điểm ngây thơ, đơn thuần lặp lại suốt 98 năm nay, dựa trên hai khẳng định:

Khẳng định 1: Marx đã không “chuyển hóa đầu vào”. Trong phương trình

C’=C+V+S (4)

Số lượng C và V không thể tương tự như trong

C’=C+V+m (6)

Bởi vì đầu vào phải được mua ở mức giá cả mà đầu ra được bán. Marx biết điều đó nhưng đã che đậy hoặc không giải quyết nó. Khẳng định này được J. V. Komorzynsky, một người ủng hộ Boehm-Bawerk, đưa ra lần đầu tiên vào năm 1897. Tugan Baranowsky, một nhà Marxist hợp pháp người Nga, đã đi xa hơn, “sửa chữa” “sai lầm” của Marx. Sự sửa chữa của ông ta được Landislaw von Bortkiewicz phổ biến rộng rãi và thu hút sự chú ý của thế giới nói tiếng Anh thông qua Paul Sweezy. Điều này bao gồm một cách tính giá cả khác dựa trên ba định đề:

·        Mọi hàng hóa được mua tại mức giá mà chúng được bán
·        Tỷ suất lợi nhuận là bằng nhau ở mọi nơi
·        Giá trị của tiền được quy định đồng thời với giá cả.

Sự điều chỉnh bao gồm cả một định nghĩa mới về giá trị và giá cả. Mặc dù nó được chấp nhận như là diễn giải chuẩn mực về lý thuyết giá trị của Marx và là cơ sở cho sự phê phán lý thuyết này như được trình bày trong cuốn “Marx sau Sraffa” của Ian Steedman. Nó ủng hộ ba kết luận liên quan đến việc chôn vùi kinh tế học của Marx:

·        Hai “đẳng thức” (7) và (8) không thể đồng thời đúng.
·      Giá trị và giá cả được tạo ra bởi hai nhóm phương trình khác nhau mà không có quan hệ rõ ràng giữa chúng.
·     Tỷ suất lợi nhuận của Marx khác với tỷ suất lợi nhuận “thực”. Tử số của ông, K, là giá trị của hàng hóa trong K; nhưng tử số của tỷ suất lợi nhuận thực là giá cả của chúng.

Kết luận đầu tiên được dùng để cho thấy phương pháp tiếp cận của Marx là không nhất quán về mặt logic. Kết luận thứ hai được dùng để cho thấy tỷ suất lợi nhuận của ông không phải là thực. Kết luận thứ ba được dùng để cho thấy giá trị là thừa về mặt logic do chúng không tham gia vào “việc quy định” giá cả, nơi mà từ “quy định” được ngầm hiểu là “tính toán”.

Khẳng định 2: Tính toán về tỷ suất lợi nhuận suy giảm không áp dụng được cho trường hợp vốn tư bản rẻ đi. Giá trị (và giá cả) của hàng hóa trong vốn có thể giảm xuống do tiến bộ kỹ thuật và do đó thường xuyên cân đối lại sự gia tăng về mặt lượng của chúng5. Cùng với khẳng định 1 và 2 ở phía trên, điều này được dùng để củng cố khẳng định rằng lý thuyết giá trị của Marx không cung cấp được các mô tả chính xác về những gì đang diễn ra trong thế giới thực.

1.8 Sự chuyển hóa đầu vào của Marx

Phương pháp chuyển hóa của Marx được đưa ra tại trang 167 của Các học thuyết về giá trị thặng dư, Quyển III:

Sự chuyển hóa của giá trị vào giá thành6 diễn ra theo hai cách. Thứ nhất, lợi nhuận được bổ sung vào tư bản ứng trước có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thặng dư chứa đựng trong bản thân hàng hóa, có nghĩa là nó có thể đại diện cho nhiều hơn hoặc ít hơn lao động không được trả công mà hàng hóa chứa đựng. Điều này được áp dụng cho phần khả biến của tư bản và sự tái sản xuất của nó trong hàng hóa. Nhưng tác biệt khỏi nó, giá thành của tư bản bất biến – hay của hàng hóa tham gia vào giá trị của hàng hóa mới được sản xuất như là nguyên liệu và máy móc [hay] các điều kiện lao động – có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị của nó. Do hàng hóa bao gồm một phần của giá cả mà khác với giá trị của nó, và phần này là độc lập với khối lượng lao động mới thêm vào, hay lao động mà những điều kiện của sản xuất với giá thành cho trước được chuyển hóa vào sản phẩm mới. Điều đó rõ ràng rằng cái gì áp dụng đối với sự khác nhau giữa giá thành và giá trị của hàng hóa hiểu theo nghĩa thông thường – như kết quả của quá trình sản xuất – cũng được áp dụng cho hàng hóa trong chừng mực, dưới dạng tư bản cố định, nó trở thành một thành phần, một tiền đề, của quá trình sản xuất … Mặt khác, sự khác biệt giữa giá thành và giá trị, trong chừng mực mà nó tham gia vào giá cả của hàng hóa mới độc lập với quá trình sản xuất của bản thân nó, được đưa vào giá trị của hàng hóa mới như là một yếu tố có trước (in nghiêng và thêm vào trong nguyên bản).7

Điều này hoàn toàn rõ ràng. Nó tuyên bố rằng nếu một đầu vào của sản xuất được định giá cao hơn hay thấp hơn giá trị của nó thì nó sẽ chuyển hóa tương ứng nhiều hơn hay ít hơn giá trị vào đầu ra của sản xuất. Tương tự, nếu hàng hóa tiêu dùng được định giá cao hơn hay thấp hơn giá trị của chúng, giá trị của tư bản khả biến theo đó sẽ cao hơn hoặc thấp hơn. Do

·      giá trị được chuyển hóa vào C’ bởi tư bản cố định C là bằng với giá cả của nó, có nghĩa là giá trị của khoản tiền mua nó.
·     giá trị của tư bản khả biến V, phù hợp với khẳng định trước, bằng với giá cả của nó, có nghĩa là giá trị của khoản tiền trả lương.

Điều này phù hợp với đoạn mâu thuẫn trong Quyển III của bộ Tư Bản ở trang 308-309, thường xuyên được trích dẫn làm bằng chứng cho thấy Marx nhận ra vấn đề nhưng không đưa ra câu trả lời.

Chúng ta thấy rằng sự tách biệt của giá cả sản xuất và giá trị xuất phát từ những lý do sau đây: (1) do lợi nhuận bình quân được bổ sung vào giá thành của hàng hóa, hơn là giá trị thặng dư hàm chứa trong nó; (2) do giá cả sản xuất của một hàng hóa tách biệt theo cách này với giá trị nhập vào giá thành của hàng hóa khác với tư cách một thành phần, có nghĩa là sự tách biệt khỏi giá trị  của tư liệu sản xuất đã được tiêu dùng có thể đã bao hàm trong giá thành, bên cạnh sự tác biệt có thể là một sự gia tăng của thân hàng hóa từ sự chênh lệch giữa lợi nhuận bình quân và giá trị thặng dư … Chúng ta hãy giả định rằng cấu tạo trung bình là 80c+20v. Có thể là đối với nhà tư bản cá  biệt hiện thời mà có cấu tạo theo cách này, 80c có thể nhiều hơn hay ít hơn giá trị của c, tư bản cố định được tạo thành bởi hàng hóa có giá cả sản xuất khác với giá trị của chúng. 20v có thể tương tự cũng khác với giá trị của nó, nếu chi tiêu cho lương vào tiêu dùng các hàng hóa liên quan có giá cả sản xuất khác với giá trị của chúng. Công nhân phải làm việc nhiều hay ít thời gian hơn để mua lại những hàng hóa đó (để thay thế chúng) và do đó phải thực hiện nhiều hơn hay ít hơn lao động cần thiết nếu giá cả sản xuất những hàng hóa thiết yếu cho sự tồn tại của họ không ăn khớp với giá trị của chúng.  

Dĩ nhiên, bất cứ nhà lý thuyết kinh tế nào cũng có thể lập luận rằng quy trình này không chính xác và cả tư bản bất biến cũng như khả biến đều chuyển hóa giá trị, chứ không phải giá cả của chúng, sang đầu vào. Những lý thuyết kiểu này mở đường cho sự phê phán Marx trong suốt 90 năm về vấn đề chuyển hóa. Mặc dù vậy, chúng không phải là lý thuyết của Marx.

Giá cả thị trường và sự chuyển hóa của đầu vào

Quy trình này không bị hạn chế trong việc mua hàng hóa với mức giá sản xuất của chúng. Nó áp dụng bất cứ khi nào đầu vào hay lương thực tế được mua với mức giá khác với giá trị của chúng; nói chung là cho trao đổi tại mức giá thị trường tùy ý. Rút ra từ phân tích của Marx về trao đổi và không được tìm thấy trong Quyển III mà là Chương I, Quyển I của bộ Tư Bản, cơ sở của toàn bộ tác phẩm này, như Suzanne de Brunhoff (1976:27) đã chỉ ra. Một hệ quả rõ ràng của sự tồn tại của tiền. Marx không cần phải chuyển hóa đầu vào trong Quyển III bởi vì sự chuyển hóa đã được đưa ra trong Quyển I.

Đại lượng giá trị của một hàng hóa do đó thể hiện một quan hệ cần thiết với thời gian lao động xã hội vốn có trong quá trình bởi giá trị của nó được tạo ra. Với sự chuyển hóa của đại lượng giá trị vào giá cả, quan hệ cần thiết này xuất hiện như là tỷ lệ trao đổi giữa một hàng hóa đơn lẻ với hàng hóa tiền tồn tại bên ngoài nó … Do đó, khả năng không ăn khớp nhau giữa giá cả và đại lượng giá trị, cụ thể là khả năng mà giá cả có thể khác với đại lượng giá trị, là chứa đựng sẵn trong bản thân dạng giá cả. (Marx 1976a: 196, nhấn mạnh của chúng tôi)

Giả định rằng hàng hóa được bán tại mức giá cả bằng với giá trị của chúng trong Quyển I là một mức độ thần bí hóa nhất định. Thực tế là nó quan trong hơn trong Quyển II, đã trừu tượng (không giống Quyển III) không chỉ sự tách biệt giữa giá cả và giá trị mà còn cả sự thay đổi trong giá trị. Trong Quyển I, sự tách biệt của giá cả khỏi giá trị luôn được trình bày trên cơ sở và đại đa số các công thức vẫn đúng khi các giả định được bỏ đi. Đặc biệt là phân chia giá trị và giá cả không dựa trên giả định này. Do đó, nếu nó được bỏ đi, sự chuyển hóa của đầu vào chỉ đơn giản là giữ nguyên, như nó vẫn vậy, từ lý thuyết của phần I. Người ta chỉ cần giả định rằng giá trị ứng trước của nhà tư bản được đại diện bởi số tiền họ trả thay vì giá trị mà họ mua, lý thuyết sẽ trở thành hoàn toàn chặt chẽ.

Khi giả định không quan trọng là trong tranh luận của Marx với những nhà kinh tế học cùng thời, những người tìm kiếm nguồn gốc của lợi nhuận trong trao đổi, trong “lợi nhuận nhờ chuyển nhượng”. Lập luận của ông là trao đổi chỉ phân phối lại các giá trị đã có giữa những bên tham gia lưu thông:

Những người ủng hộ trung thành của lý thuyết sai lầm cho rằng giá trị thặng dư có nguồn gốc từ sự gia tăng danh nghĩa của giá cả hay trong đặc quyền mà người bán có thể bán quá đắt do dó giả định rằng có sự tồn tại của một giai cấp những người chỉ mua những không bán … Hãy xem xét trong phạm vi của trao đổi hàng hóa, khi mà người bán là người mua và người mua là người bán … A có thể đủ khôn ngoan để lợi dụng B và C mà không sợ bị trả đũa. A bán rượu vang trị giá £40 cho B và nhận được ngũ cốc trị giá £50 từ B.8 A chuyển hóa £40 thành £40, kiếm được thêm một khoản và đã biến hàng hóa của anh ta thành tư bản. Hãy xem xét điều này cụ thể hơn chút nữa. Trước khi trao đổi chúng ta có £40 rượu vang của A và £50 ngũ cốc của B, một tổng giá trị là £90. Sau khi trao đổi chúng ta vẫn có tổng giá trị tương tự là £90. Giá trị trong lưu thông không tăng lên một mảy may; tất cả chỉ là sự phân phối giữa A và B … Mặc dù vậy, cho dù chúng ta có xoay vòng và xoay sở đến đâu thì kết luận vẫn tương tự. Nếu các vật ngang giá đều được trao đổi, chúng ta vẫn không có giá trị thặng dư. Lưu thông, hay trao đổi các vật ngang giá, không tạo ra giá trị … Chúng ta đã cho thấy rằng giá trị thặng dư không thể bắt nguồn tư lưu thông và do đó để nó được tạo thành, điều gì đó phải diễn ra trên cơ sở mà không thấy được trong bản thân lưu thông. (1976a:267-8)

Trong đoạn này, chúng ta tìm thấy mầm mống khái niệm tổng thể của Marx về sự chuyển hóa, như chúng ta sẽ trình bày trong chương kết thúc của cuốn sách này. Tổng giá cả bằng với tổng giá trị là kết quả của quan niệm rằng giá trị không thể tạo ra trong trao đổi và không phải là một điều kiện bình thường hóa bổ sung. Đó là một tác động của lưu thông, nó không thể tạo ra giá trị. Sản xuất, mà từ đó giá trị phát sinh, phải được cô lập khỏi lưu thông, thứ phân phối giá trị. Do vậy trong Quyển I,

Sự hình thành của tư bản phải diễn ra ngay cả khi giá cả và giá trị của một hàng hóa trùng khớp, điều đó không thể giải thích bằng cách viện dẫn bất cứ sự tách biệt nào giữa giá cả và giá trị. Nếu giá cả thực sự khác với giá trị, trước hết chúng ta phải giảm cái đầu tiên xuống bằng cái thứ hai, cụ thể là mọi tình hình cũng như sự bất thường, để quan sát sự hình thành của tư bản trên cơ sở trao đổi hàng hóa dưới dạng thuần túy của nó, cũng như ngăn những quan sát của chúng ta khỏi sự tác động của những tình huống nhiễu loạn bất thường, điều không phù hợp với diễn biến thực tế của quá trình. (Marx 1976a:269n)

Không đề cập đến điều gì không có nghĩa là phủ nhận sự tồn tại của nó. Câu hỏi mà Marx đặt ra cho các đối thủ là: anh nói rằng giá trị thặng dư có nguồn gốc từ lưu thông. Tốt thôi, hãy loại bỏ mọi tác động của lưu thông và xem điều gì diễn ra. Nếu anh đúng thì phải không có lợi nhuận và giá trị thặng dư. Nhưng ngay cả với giả định đã nêu thì vẫn có lợi nhuận và giá trị thặng dư.

Mặc dù vậy, Quyển I không trình bày một xã hội giả định mà hàng hóa không thể trao đổi với giá cả bằng giá trị: nó tách biệt các tác động của lưu thông khỏi tác động của sản xuất. Mặt còn lại của đồng xu là sự lưu thông và sự chênh lệch của giá cả so với giá trị, không bị bỏ quên mà tạm gạt sang một bên.Tác động của chúng được giải thích để chúng ta có thể biết chính xác điều gì đã bị bỏ qua. Tác động sự chuyển hóa giá cả-giá trị được trình bày ở Phần I của Quyển I như là quá trình mà hàng hóa có thể trao đổi tại bất cứ mức giá thị trường tùy ý nào và trên hết không phải là một mức giá sản xuất giả định. Đó chỉ là khi giải quyết quá trình sản xuất tức thời mà Marx đặt ra các giới hạn rằng hàng hóa phải được bán tại mức giá bằng giá trị của chúng. Không nên quên rằng ở Quyển I, Marx giả định rằng nhà tư bản “tìm thấy những gì họ cần trên thị trường” do đó sự thật là họ bán các đầu ra với giá trị của chúng không có nghĩa là coi rằng họ mua các đầu vào với giá trị của chúng.

Khi đã hiểu rằng quá trình chuyển hóa đầu vào là đúng đối với giá cả thị trường nói chung, phương pháp dường như được ủng hộ bởi nhiều lưu ý khác trong công trình của Marx, liên hệ tới giá cả hơn là giá cả sản xuất. Một ví dụ

Nếu giá cả bông giảm, cụ thể là do kết quả của một vụ thu hoạch đặc biệt thuận lợi, thì trong đa số trường hợp giá cả giảm xuống dưới giá trị của nó, thông qua quy luật cung cầu. Tỷ suất lợi nhuận – và, có khả năng, như chúng ta thấy phía trên, tổng số lợi nhuận – tăng lên, theo đó, không chỉ là trong tỷ lệ, mà trong đó nó sẽ tăng lên, mà bông sẽ trở nên rẻ hơn trong tỷ tệ tổng thể mà nhà sản xuất bông bán bông thô của anh ta dưới giá trị, có nghĩa là, do nhà chế tạo bỏ túi một phần giá trị thặng dư nhờ vào người trồng bông. (Marx 1972:223)

Giá cả độc quyền của một hàng hóa cụ thể đơn giản chuyển hóa một phần lợi nhuận do những nhà sản xuất hàng hóa khác tạo ra sang hàng hóa có giá cả độc quyền … Nếu hàng hóa với giá cả độc quyền tham gia vào sự tiêu dùng cần thiết của người lao động, nó làm giảm lương và do đó giảm giá trị thặng dư. (Marx 1981:1001)

Thực sự bất cứ sản phẩm nào của đất đai, thứ tạo ra địa tô, phải bán tại mức giá mà nói chung thường xuyên chênh lệch với giá cả sản xuất của nó; điều này, đối với Marx, điều chỉnh giá trị được chuyển giao bởi các sản phẩm đã nêu sang người tiêu dùng những sản phẩm này.

Đoạn văn “mâu thuẫn” trong Tư Bản Quyển III (p. 261) cũng thể hiện ý tưởng này:

Cũng như tư bản khả biến, lương bình quân thường nhật luôn bằng với giá trị sản phẩm của một số giờ mà người công nhân phải làm việc để sản xuất ra phương tiện thiết yếu cho sự tồn tại của anh ta; nhưng bản thân số giờ này bị xuyên tạc bởi sự thật rằng giá cả sản xuất các phương tiện thiết yếu cho sự tồn tại khác với giá trị của chúng.

Phân tích này cho kết quả tương tự cho dù được trình bày với khái niệm lao động trừu tượng hay bằng đồng Bảng Anh. Sự khác biệt là điều này: nếu được trình bày theo giờ thì nó không bị tác động bởi sự thay đổi trong giá trị của tiền, trong khi nếu trình bày theo Bảng Anh thì cần có một sự chỉnh sửa tiếp theo hay có vẻ như giá trị đã được tạo ra trong trao đổi khi chỉ có đo lường bằng tiền tệ của nó thay đổi. Chúng ta giải quyết điều này trong chương cuối. Đó là lý do tại sao đo lường giá trị bằng tiền, nếu không được cô lập khỏi nguồn gốc từ lao động, sẽ không hoàn chỉnh và không thực tế. Nhưng đây là một sự nhầm lẫn khủng khiếp khi kết luận, như nhiều người đã làm, rằng khi giá trị được chuyển hóa vào giá cả thì có một sự thay đổi trong đơn vị; rằng giá trị bao hàm giờ lao động và giá cả bao hàm tiền.

Bằng các công trình của Marx, như Ramos và Rodriguez đã chỉ ra trong quyển này, giá trị được đưa ra với dạng tiền. Sự tái hiện này không phải là nhầm lẫn về đơn vị hay sự áp dụng thiếu thận trọng các mục của Quyển III vào phân tích của Quyển I. Đây là một sai lầm nực cười để gán tội cho tác giả về sự thiếu chặt chẽ trí tuệ của Marx. Đối với Marx, tiền là đo lường của giá trị, dạng biểu hiện của nó:

Lao động chứa đựng trong tư liệu sản xuất là một khối lượng lao động xã hội cụ thể và nó có thể được thể hiện, do đó, như là một số lượng giá trị nhất định hay một số tiền, giá cả trên thực tế của những tư liệu sản xuất này. (Marx 1976a:994-5, nhấn mạnh trong nguyên bản)

Một số lượng tiền xác định đại diện cho một số lượng thời gian lao động xác định tại bất cứ thời điểm nào. Việc bán hàng hóa lấy tiền không đại diện gì khác ngoài một sự phân phối những giờ lao động này giữa người bán và người mua, sự khác nhau giữa tiền được trả cho hàng hóa và biểu hiện bằng tiền giá trị của chúng. Nếu tôi trả £11 cho hàng hóa có giá trị £10 thì £1 giá trị được phân bổ từ tôi sang nhà sản xuất. Trước khi trao đổi anh/cô ta có £10 giá trị và tôi có £11; sau đó tôi có £10 và anh/cô ta có £11. Nếu £1 đại diện cho 1 giờ thì 1 giờ lao động xã hội trừu tượng cần thiết đã được chuyển từ tôi sang nhà sản xuất như là kết quả của sự vận hành của thị trường. Hai khẳng định là hai quan niệm khác nhau của cùng một sự vật.

Cuối cùng, sự chuyển hóa của đầu vào không mâu thuẫn với nội dung phần 1 của chương này. Đoạn từ việc bán với giá trị tới việc bán với giá cả nhắc tới sự gỡ bỏ một giả định được tạo ra trong Quyển I bộ Tư Bản: C và V là hai đại lượng bằng với giá trị của hàng hóa mà chúng mua. Điều đó được thay thế bằng giả định, được tuyên bố rõ ràng trong Quyển I nhưng bị đặt ra một bên để thảo luận về sản xuất, rằng C và V là đại lượng bằng với giá trị của tiền được sử dụng để mua các hàng hóa này. “Hai đẳng thức” vu khống là bằng chứng tự thân của sự thật. Chúng áp dụng với bất cứ nhóm giá cả thị trường nào bất kể là có hay không lợi nhuận được làm cho bằng nhau, được duy trì cụ thể cho trường hợp giả định đặc biệt khi giá cả thị trường bằng với giá cả sản xuất, tại đó các nhà kinh tế học thế kỷ 20th đã lãng phí quá nhiều sự quan tâm và chú ý.

Tuần hoàn của tư bản và sự khác biệt giá cả-giá trị

Các độc giả hiện đại phản ứng với phần trên có thể tuyên bố, có lẽ là, như sau; nếu giá trị được phân phối cho đầu vào bằng với giá cả của chúng, cái gì được chuyển hóa từ giá trị vào giá cả? Có phải là quan hệ sản xuất đang được thể hiện dưới dạng giá cả và giá trị không phải là khái niệm thừa sao?

Như chúng tôi sẽ cố gắng trình bày sau đây, quan điểm này bắt nguồn từ tư tưởng thâm căn cố đế hiện thời là giá cả của đầu vào và đầu ra được quy định đồng thời, một tư tưởng xa lạ với Marx và thực sự là với toàn bộ các nhà kinh tế học trước thời Walras. Quan điểm này là một trong những lý do chính khiến các trình bày chính xác trước đây của Wolff, Roberts và Callari (1982) không được chấp nhận rộng rãi. Một trong số chúng là thừa nhận rằng giá cả và giá trị tại bất cứ chu kỳ nào cũng bị quy định bởi giá cả và giá trị trong chu kỳ trước đó, vấn đề trở nên rất phức tạp. Như đã được Marx trình bày, nó như sau: vào đầu chu kỳ sản xuất, nhà tư bản ứng trước tư bản được đại diện bởi số tiền họ chi tiêu, thêm vào đó là số tiền đã chi vào tư bản cố định từ trước đó. Sức lao động chuyển giá trị này vào sản phẩm và thêm vào sự đóng góp của bản thân, giá trị của sản phẩm. Sản phẩm xuất hiện với giá trị mới, khác với chu kỳ trước. Trung bình cho toàn bộ hàng hóa đầu ra, giá trị mới này là thời gian lao động xã hội cần thiết cần phải có để sản xuất dưới các điều kiện lịch sử cho trước. Giá trị mới, không phải là giá trị cân bằng vĩnh cửu, được tái phân phối trong tuần hoàn để tạo thành giá trị trường của đầu ra.

Giá cả và giá trị luôn là tách biệt về cả khái niệm và định lượng. Quan hệ của chúng tuân theo hai đẳng thức nổi tiếng của Marx trong từng chu kỳ, được quy định độc nhất bởi giá cả và giá trị của chu kỳ trước đó.

1.9   Tỷ suất lợi nhuận của Marx

Hậu quả logic tất yếu của phương pháp mà chúng ta đã thảo luận là đo lường K, vốn tư bản, bằng tiền trả cho chúng. Tất nhiên đây là cái mà nhà tư bản làm. Nếu tôi trả £2000 cho một máy tính thì tư bản ứng trước của tôi là £2000, bất kể là giá trị nguyên gốc hay thứ phát của chiếc máy tính. Đó là giá trị của tiền, không phải là của máy móc, quy định tỷ suất lợi nhuận của tôi. Tại sao Marx phải suy ngẫm điều khác? Mục tiêu nghiên cứu của ông là sự tự mở rộng của tư bản dưới dạng tiền. Phương pháp của ông là sâu sắc nhưng không ngoan cố. Điều này chiếu một ánh sáng khác vào “sai lầm” của ông với tỷ suất lợi nhuận suy giảm. Đầu tiên và chưa phải là hết (luôn luôn giả định giá trị của tiền cố định), tỷ suất lợi nhuận của ông bằng với tỷ suất lợi nhuận quan sát được. Ông thảo luận về thực tại, không phải là phản ánh một cách kỳ quặc về thực tại.

Nhưng hơn nữa. Theo như cáo buộc được lặp lại không ngừng: vốn tư bản có thể giảm giá trị nếu các thành phần của nó rẻ hơn, khôi phục tỷ suất lợi nhuận. Xin lỗi: giả định rằng chiếc máy tính của tôi tốn £2000 giờ chỉ giá trị £500. Làm sao điều đó khiến cho tư bản đã đầu tư của tôi bằng £500? Tôi thanh toán £2000. Đó là điều mà quản lý ngân hàng của tôi muốn. Đó là cách mà người cho vay của tôi tính doanh thu của họ. Thật sự là bất hạnh khi máy tính của tôi giảm giá vì nó buộc tôi phải tìm cách bù đắp khoản lỗ £1500 từ đâu đó, nhưng tôi phải tìm ra hoặc phá sản. Về tỷ suất lợi nhuận của tôi, nó là một tỷ lệ tính trên tư bản ứng trước của tôi, thứ mà tôi đã thanh toán trong quá khứ, chứ không phải là giá trị hiện tại của khoản đầu tư của tôi.

Nhưng điều này đã khiến cho giải thích ngây thơ ở phần 4 có sức mạnh. Chỉ có thể vô hiệu hóa tỷ suất lợi nhuận giảm xuống thường xuyên bằng cách rút vốn đầu tư; bằng cách sử dụng hết giá trị đã được đầu tư vào sản xuất, hoặc, một trong những dạng ít hữu dụng xã hội nhất của điều tương tự, giảm giá nó bất thình lình thông qua phá sản, xóa sổ nó. Như Marx đã trình bày, đây là chức năng khách quan không thể tránh khỏi của suy thoái và khủng hoảng trong một nền kinh tế thị trường.

1.10          Khái niệm quy định của Marx

Những độc giả hiểu đúng lời của Marx sẽ không thấy những mâu thuẫn mà bốn thế hệ đã đã tranh luận sốt sắng trong 400 bài báo. Do vậy, câu hỏi thực tế là tại sao rất đông các chuyên gia đã bỏ qua giải pháp của Marx? Tại sao sự hiểu biết về giá trị, ngay cả các học giả Marxist đáng kính, xa cách với Marx đến mức mà họ thậm chí không thể đọc được điều mà ông nói? Chúng ta đang mô tả những độc giả sành điệu, những người dường như không thể vươn tới điểm mấu chốt. Các mục phản đối chủ yếu mà chúng ta đưa ra là:

·      Sự khác biệt căn bản giữa giá trị và giá cả không còn tồn tại. Giá trị có nguồn gốc trong sản xuất và giá cả là trong lưu thông. Anh có thể quy giá trị thành giá cả, nhầm lẫn hai khái niệm khác nhau.

·      Anh nhầm lẫn một cách vô vọng giá trị sử dụng với giá trị trao đổi, tiền và giờ, trong một sự hỗn độn vô hướng. Tại sao có thể thêm một số tiền vào giá trị?

·      Kết quả là không có bất cứ mô tả nào về sự quy định. Nếu giá trị không được quy định độc lập với giá cả thì anh cũng không thể nói cái gì quy định giá cả.

Chúng ta thấy rằng những phản đối này là kết quả của cái nhìn lệch lạc do Cân Bằng Tổng Quát tạo ra, thứ này khiến cho tư duy không thể nắm bắt được những khái niệm đòi hỏi sự thấu hiểu bản chất của thị trường. Điều này thể hiện sự thấu hiểu về giá trị, được tiếp nhận không phê phán từ Bortkiewicz, đã tạo ra hệ thống khái niệm kinh tế mà ngay cả những người Marxist cũng không thể hiểu được Marx.

Đích đến là của chúng ta là một bình luận rất đáng chú ý của Bortkiewicz:

Alfred Marshall có lần nói về Ricardo: “Ông ấy không tuyên bố rõ ràng và trong một số trường hợp ông ấy hoàn toàn không hiểu được tại sao trong vấn đề giá trị danh nghĩa, các yếu tố khác nhau quy định qua lại lẫn nhau, không phải là liên tiếp nhau, trong một chuỗi dài nhân quả”. Định nghĩa này áp dụng ngay cả cho Marx … [người] giữ một cách chắc chắn quan điểm rằng các yếu tố liên quan phải được coi là một dạng chuỗi nhân quả, trong đó mỗi mối liên hệ được quy định, trong cấu tạo và khối lượng của nó, chỉ bởi những liên hệ trước đó … Kinh tế học hiện đại bắt đầu giải phóng bản thân khỏi định kiến về sự liên tiếp, công lao chủ yếu nhờ trường phái toán học của Leon Walras.9

Đây là một tuyên bố trung thực về ý định của Bortkiewicz và của phương pháp tiếp cận của Marx. Ngay sau đoạn về sự chuyển đổi đã được trích dẫn từ Các học thuyết về giá trị thặng dư Marx viết:

Mỗi hàng hóa tham gia vào một hàng hóa khác trong vai trò tư bản bất biến, bản thân chúng xuất hiện như là kết quả, sản phẩm, của một quá trình sản xuất khác. Do vậy, hàng hóa xuất hiện như là tiền đề cho sản xuất của hàng hóa khác và là kết quả của quá trình mà trong đó sự tồn tại của các hàng hóa khác là tiền đề cho sự sản xuất ra bản thân chúng. (Marx 1972:167)

Quan niệm này thực sự là một sự quy định kế tiếp nhau, định vị theo thời gian lịch sử thực, được biểu hiện trong mô tả nổi tiếng của Marx về tuần hoàn của tư bản

M – C – P … C’ – M’

Sự tuần hoàn thể hiện các đoạn thời gian. Mỗi sự kiện kế tiếp theo sự kiện đã diễn ra trước đó. Trong Quyển II, điều này được làm rõ hơn trong đoạn luận chiến trực tiếp chống lại sự quy định đồng thời:

“giá trị” Bailey nói, … “là quan hệ giữa hàng hóa hiện thời, bởi vì chỉ được thừa nhận thông qua trao đổi với nhau.” … Điều này rút ra từ sự hiểu nhầm nói chung của ông ta, theo đó giá trị trao đổi bằng với giá trị, bề ngoài của giá trị là bản thân giá trị; giá trị hàng hóa tạm ngừng so sánh khi chúng không hoạt động như là các giá trị trao đổi và không thể thực sự được trao đổi lấy nhau. Do đó, ông ta không mảy may hoài nghi rằng giá trị chỉ hoạt động như là tư bản chừng nào mà nó còn tương đồng với bản thân và được so sánh với bản thân trong các giai đoạn khác nhau của tuần hoàn, điều đó không bao giờ là “hiện thời” mà là diễn ra kế tiếp nhau. (1978:186)

Nguyên nhân dẫn đến học thuyết của Bortkiewicz và học thuyết Cân Bằng là tính đồng thời. Nhân quả trong Marx là kế tiếp nhau. Nhưng phạm trù của Marx là phương pháp thông thường của tất cả các ngành khoa học.10 Như tôi được biết, Cân Bằng Tổng Quát là lý thuyết duy nhất đề xuất phạm trù nhân quả độc lập với thời gian. Nó mâu thuẫn và phản ánh bản chất hệ tư tưởng và phi khoa học trong hành động của những nhà thực chứng, mặc dù gắn bó một cách bản năng với Kahn và coi ông là người bảo vệ triết học của phương pháp khoa học nhưng không hề chú ý tới quan điểm của ông về điều này:

Nguyên lý của mối quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng bị giới hạn trong các công thức của chúng ta về sự kế tiếp theo chuỗi của chúng, trong khi điều này cũng áp dụng với sự cộng sinh của chúng, khi nguyên nhân và hậu quả là đồng thời.Ví dụ, căn phòng ấm khi không khí ngoài trời lạnh. Tôi nhìn quanh để tìm nguyên nhân và thấy lò sưởi. Giờ thì cái lò, là nguyên nhân, là đồng thời với kết quả của nó, hơi ấm của căn phòng … Giờ chúng ta không nên không ghi nhận rằng đó là theo trật tự thời gian chứ không phải khoảng thời gian, với điều đó chúng ta phải tính toán; quan hệ vẫn tồn tại ngay cả khi không có thời gian trôi qua. Thời gian giữa nguyên nhân của nguyên nhân và hậu quả tức thời của nó có thể [a] phá hủy [số lượng], chúng có thể là đồng thời; nhưng quan hệ giữa một cái này với cái kia vẫn luôn tồn tại một cách xác định trong thời gian. Nếu tôi coi nguyên nhân là một quả bóng đang tạo thành một vết lõm trên cái đệm nhồi bông, một nguyên nhân là đồng thời với kết quả. Nhưng tôi vẫn phân biệt được cả hai thông qua quan hệ thời gian của mối liên hệ động lực của chúng. Nếu tôi đặt bóng lên đệm, một vết lõm theo đó sẽ xuất hiện trên mặt phẳng trước đây; nhưng nếu (vì bất cứ lý do gì) có một vết lõm đã tồn tại trên mặt đệm thì không có một quả bóng nặng nề tiếp theo ở phía trên nó. Trật tự theo thời gian cho chúng ta tiêu chuẩn kinh nghiệm duy nhất về tác động trong quan hệ nhân quả với nguyên nhân đã diễn ra trước đó. (Kant 1933:288, nhấn mạnh kết luận bổ sung) 

C’ được quy định bởi những gì diễn ra trước nó – M và C – bởi vì chúng tồn tại trước nó. Có thể nói một cách tự nhiên và giảm thiểu thay thế rằng C và do vậy C’ được điều chỉnh nếu, trong tuần hoàn trước, M và do đó khác với giá trị của C’ trước đây mà chúng được thanh toán khi làm đầu vào. Chúng là hai sự quy định chưa được liên kết. Ngày nay giá cả có thể vượt qua giá trị tới £10 và ngày mai có thể tụt xuống dưới giá trị tới £20. Cái gì nào?

Bản thân lưu thông (C-M-C) là một sự kế tiếp khi hành động bán một sản phẩm tách biệt khỏi hành động mua đầu vào cho bước sản xuất kế tiếp. Giá cả và giá trị là cùng một thứ trong các giai đoạn tồn tại khác nhau của tư bản11 và lần lượt quy định lẫn nhau, giống như tất cả những thứ khác liên quan như là nguyên nhân của mọi thứ khác. Trong một giai đoạn tồn tại của nó, lưu thông, mọi tư bản trong sự vượt qua hoàn toàn một giai đoạn với vai trò tiền và trong dạng này (M-C) quy định giá trị của tư bản, sau đó đưa đến sự gia tăng trong sản xuất (C-P … C’). Giá trị này tới lượt nó lại tác động qua lại với xã hội thông qua quy luật cung và cầu (C’-M’) để quy định giá mà chúng được bán.

Sự khác biệt giá trị-giá cả là về lượng, sự kế tiếp và được xác định rõ; giữa khối lượng C’ tại lúc này và khối lượng M’ tại thời điểm kế tiếp. Điều đó là không thừa: nó tạo ra một sự gia tăng lợi nhuận siêu ngạch, động lực cho sự vận động của tư bản và qua đó là toàn bộ nền kinh tế. Vai trò của sản xuất và lưu thông là khác biệt một cách bình đẳng; sản xuất quyết định giá trị mà sẽ được phân phối bởi lưu thông. Giá trị C’ có trước giá cả M’ về mặt trình tự và do đó là về mặt logic.

Cuối cùng phải ghi nhận một quyết định quan trọng mà chúng ta sẽ trở lại, do nó là một sự sửa chữa mang tính quyết định cấu trúc của Marx mà  chủ nghĩa Marx kiểu Walras phải chịu trách nhiệm. Hàng hóa theo Marx là vật chủ của giá trị không phải cố hữu với chúng. Giá trị là một quan hệ xã hội, không phải là thuộc tính của sự vật và không có mâu thuẫn khi hàng hóa C chuyển nhiều hơn hay ít hơn giá trị của bản thân chúng vào sản phẩm.

1.11 Khai sinh của sự cố định: Giả thiết về sự quy định đồng thời

Khái niệm về quy định của Bortkiewicz, ông ta công khai thừa nhận, được trực tiếp rút ra từ Walras, người mà ông ta rất thán phục và ông ta đã trao đổi thông tin tích cực từ khi mới 19 tuổi. Ông ta muốn khối lượng M, C, C’ và M’ phải được quy định đồng thời thay vì kế tiếp nhau để M’ có thể làm điều kiện không chỉ cho C xuất hiện sau, mà cả C xuất hiện trước. Ý tưởng này, được các nhà Marxist kiểu Walras tiếp nhận cho bản thân, là bằng chứng 100% của Cân Bằng Tổng Quát. Tận cùng của con đường chông gai là đống đổ nát. Hãy xem xét định đề căn bản của Walras/Tugan/Bortkiewicz:

Mọi hàng hóa được mua tại mức giá mà chúng được bán

Dạng trần trụi rất đáng tin cậy, thiếu liên hệ “rõ ràng” trong công trình của Marx. Hãy xem chúng đi tới đâu. Tham gia vào quá trình sản xuất, hãy cho là, ngày thứ hai. Máy móc ở vị trí, vật liệu đã được mua, công nhân đã được ký hợp đồng theo thỏa thuận. K, C và V do vậy đã được quy định. Giờ tiến lên phía trước, hãy cho là, ngày thứ sáu. Sản phẩm ra đời và đi ra thị trường. Giờ M’ được quy định. Chúng ta có thể áp dụng định đề.

Nhưng định đề nói rằng đầu vào của ngày thứ hai phải được mua ở mức giá của ngày thứ sáu. Thật xấu hổ là chúng ta không biết điều đó vào ngày thứ hai. Đó là vấn đề với các nhà kinh tế học, không bao giờ biết họ đang đến hay đi. Tại sao chúng ta trả thuế tôi không biết. Xin lỗi Joe, không thể giúp được, chỉ cần đưa những thứ quỷ tha ma bắt này quay trở lại một lần nữa.

Điều này thật nực cười. Đầu vào của ngày thứ hai được mua trong quá khứ, tuần trước. Tại sao chúng phải được bán với mức giá của tuần này? Định đề có nghĩa hoàn toàn khác với điều mà nó nói. Nó thực sự yêu cầu rằng giá bán của một hàng hóa tại một thời điểm phải quy định giá mua của hàng hóa đó tại một thời điểm trước đó, nói lại như sau:

Hàng hóa được mua với mức giá mà chúng sẽ được bán

Cách duy nhất để khiến cho điều này có ý nghĩa, mà không viện đến khả năng tiên đoán hay sự xuất thần, là gỡ nó khỏi vỏ bọc giả Marxist của nó và hiểu rằng vì cái gì mà nó mang tính toán học, cụ thể là một sự kiềm chế đối với giá đầu ra. Nếu thời gian chuyển động về phía trước, định đề là sự đảo ngược sự trình bày thông thường của nó. Thực tế, định đề của Bortkiewicz, cùng với Cân Bằng Tổng Quát, có giả định sau đây:

Hàng hóa được bán với giá mà chúng được mua

Đây là bí mật, dạng lý tưởng của định đề cơ bản về Cân Bằng, có tác động sâu sắc tới cấu trúc logic nội tại trong mọi biến thể của nó.

Vấn đề tiếp theo là thông qua sự cưỡng bức giá đầu ra và đầu vào bằng nhau không giải quyết được vấn đề giá cả thực sự là gì. Do vậy, trong tất cả các hệ thống Cân Bằng Tổng Quát giá cả thực tế được quyết định bởi một định đề tiếp theo. Trong hệ thống tân cổ điển “cổ điển”, đây là yêu cầu về doanh thu biên tương ứng với lợi ích biên mà nó chiếm đoạt. Nhưng công trình đại số được hoàn thành bởi định đề mọi tỷ suất lợi nhuận bằng nhau. Bất kể sự khác biệt bề ngoài giữa hai hệ thống ra sao, chừng nào mà toán học còn được quan tâm – và do đó chừng nào mà các nội dung nội tại thực còn được quan tâm – đây cũng là định đề của chủ nghĩa Marx kiểu Walras, thứ đã biến một kết quả của Quyển III thành một điều hiển nhiên, mà không có nó thì giá cá không xác định: 

Mọi tỷ suất lợi nhuận là bằng nhau

Vấn đề hiện là như sau: nếu giá cả đã được xác định bởi yêu cầu các tỷ suất lợi nhuận bằng nhau, làm sao chúng có thể bằng nhau? Với Marx, như trong thế giới thực, tỷ suất lợi nhuận được san bằng thông qua sự vận động của giá cả.12 Nhưng trong bệnh viện của Walras dành cho các nhà Marxist bệnh tật thì giá cả đã được gây mê. Trên hết, đâu là sự đặc biệt trong chu kỳ một tuần? Giá cả đầu ra của bất kỳ thời gian tương lai tùy ý nào cũng phải giống nhau. Giá cả không bao giờ thay đổi. “Phương pháp cứu chữa” là thuốc kinh tế mới:

Mọi giá cả đều cố định

Nuốt nó đi và nó sẽ đưa anh đến một nơi khác xa trái đất: một miền đất thần kỳ không có thời gian mà ở đó cuộc sống lặp đi lặp lại không ngừng và không thay đổi; thế giới của con chuột sóc và con thỏ trắng: thế giới của Cân Bằng Tổng Quát. Đây không phải là bệnh viện mà là nhà thương điên: Chủ nghĩa Marx đã bị cầm tù; nó bay qua tổ chim cúc cu.

Anh có thể cho là một chuyến viếng thăm ngắn ngủi nhưng anh bị cầm tù ở đó mãi mãi. Sự đơn giản hóa không thể vứt bỏ dễ dàng trong những ngày tiếp theo. Nó không phải là một phần giả định về với tỷ suất lợi nhuận bình quân bằng nhau. Không có điều đó thì n phương trình gắn với 2n giá cả và n tỷ suất lợi nhuận chưa biết. Trong đó, n được bỏ đi bằng cách cố định giá đầu ra bằng với giá đầu vào. Còn n-1 tiếp theo được loại bỏ bằng giả định tỷ suất lợi nhuận bằng nhau, sau đó hệ thống được quyết định trong phạm vi một tỷ lệ, “đơn vị tính toán” nổi tiếng. Không giá cả cố định, không lời giải. Đó là vũ hội hóa trang hiển nhiên khi đơn giản hóa.

Sự chữa trị sinh ra bệnh tật. Nó loại bỏ toàn bộ các bất định bằng cách giả định loại bỏ toàn bộ các sự quy định bên ngoài của giá cả. Làm sao, trong phạm vi một hệ thống, chúng ta có thể quan niệm giá cả, thậm chí trong một giai đoạn chệch ra khỏi độ lớn được Bortkiewicz chỉ định? Tất cả các phương trình trong đó giá cả được hình thành sẽ bị vi phạm và toàn bộ hệ thống sẽ sụp đổ. Thế giới thực phải được phẫu thuật. Các nhà Marxist không còn hiểu Marx bởi vì các phương trình của họ đã bị cắt bỏ cơ quan điều khiển trí tưởng tượng.

Nhu cầu, Cung và Quy Luật Say của chủ nghĩa Marx

Đây mới chỉ là bắt đầu. Cái gì khiến các điều kiện cung cầu có thể phản ứng với hệ thống đã nêu? Giả định mọi hàng hóa tạm thời có cung lớn hơn cầu. Mọi nhà kinh tế đồng ý rằng điều này tạo ra sự tăng lên hay giảm xuống của một hay nhiều giá khác, kích thích tư bản di chuyển sang để điều chỉnh cho cung bằng cầu. Nhưng trong nhà thương điên kiểu Walras, giá cả bị mặc áo trói tay. Chúng không thể vận động. Cách thức duy nhất để một nhóm giá cả có thể tồn tại là nếu cung tự động và mọi lúc điều chỉnh một cách hoàn hảo bằng với cầu. Chủ nghĩa Marx kiểu Walras là một hệ thống thị trường bù trừ. Trong phiên bản của Sraffa, điều này được làm rõ thành một định đề, song luôn không rõ ràng trong các phương trình.

Định đề giá cả cố định do đó có thể thay thế cho nhau với, và tương đương về mặt logic với một định đề khác, nguyên lý nền tảng được thừa nhận của Cân Bằng Tổng Quát13, cụ thể là

Cung của mọi đầu ra đúng bằng với cầu được tạo ra bởi sản xuất mọi đầu vào

Định đề đã nêu được biết rộng rãi trong kinh tế học là quy luật của Say, đối lập với những gì Keynes đã xây dựng lên hệ thống của ông ta. Nó tương đương với một điều kiện ban đầu rằng phân bố hợp lý các nguồn lực bởi thị trường đã thực sự đạt được, như là một điều kiện tiên quyết và thực sự là xuất phát điểm của việc xác định giá cả, giá trị và tỷ suất lợi nhuận (đơn nhất). Đây không phải là logic mà là lý tưởng, lý tưởng toán học thuần túy.14  

1.12 Từ sự cố định tới chứng loạn thần kinh: Khái niệm kiểu Walras về giá cả

Các phương trình thể hiện mối quan hệ giữa các biến số mà bản thân chúng đại diện cho các khái niệm. Sự thể hiện mạnh mẽ của tinh thần nhân loại, chúng không thể đồng thời tồn tại trong tư duy với những khái niệm không phù hợp với quan hệ chúng biểu hiện. Kết quả là các khái niệm đang được chủ nghĩa Marx kiểu Walras sử dụng hoàn toàn xa lạ với Marx.

Do một khái niệm lành mạnh về giá trị là có trước về mặt logic so với khái niệm lành mạnh về giá cả, chúng ta đối đầu với một hệ thống bệnh dịch. Một phê phán đối với hệ thống này phải bắt đầu từ khái niệm giá cả ban đầu có tính lý tưởng. Sự phân tích giá trị kiểu Walras phát sinh từ phân tích tâm lý học về hệ thống giá cả kiểu Walras, đó là chứng loạn thần kinh.

Xuất phát điểm của chúng ta là đặc trưng nổi tiếng của các hệ thống Căn Bằng Tổng Quát, sự xoay chuyển của Keynes phản ứng lại chúng: trong chúng tiền không tồn tại. Đây là biểu hiện của ý kiến cho rằng “tiền là một tấm màn che”. Mặc dù nhiều công trình giải thích tiền như là sự tiện dụng, một phát minh làm cho cuộc sống dễ dàng hơn, nói ngắn gọn là một thứ được giải thích là ngoại lai do nó không có ở trong các phương trình. Vương quốc của lý thuyết tân cổ điển bắt đầu bằng việc sát hại tiền; cái giá phải trả của hành động Oedipe này là phải tự làm mù mắt.

Giá cả kiểu Walras được rút ra từ một hành động kinh tế kỳ quặc: trao đổi. Giải pháp cho một hệ thống đồng thời là một nhóm tỷ lệ giá cả, các tỷ lệ mà tại đó hàng hóa có thể trao đổi với nhau. Do đó, các tỷ lệ giá cả được quy định bởi điều kiện hàng hóa trao đổi với nhau để sản xuất hay tái sản xuất ra một tập hợp hàng hóa nhất định.

Trong đời sống thực, hàng hóa trao đổi với tiền, một hàng hóa đặc biệt, và nói chung không thể trao đổi cho nhau mà không chấm dứt chủ nghĩa tư bản. Trong thực tế, tôi không thể giải thích trao đổi lao động của tôi hay hàng hóa của tôi lấy các điều kiện trực tiếp của tôi – tôi sẽ làm việc cho anh nếu tôi được ăn, tôi sẽ làm nhà cho anh nếu tôi nhận được một chiếc xe hơi và cứ như vậy – trừ khi tôi tái tổ chức toàn bộ xã hội cho mục đích này, trong trường hợp mà chúng ta có một xã hội khác.

Do đó, tiền thật không chỉ là đơn vị đo lường mà là phương tiện liên kết con người với nhau, trong thực tế là phương tiện duy nhất dưới chủ nghĩa tư bản. Điều đó không mấy dễ chịu nhưng sự cần thiết. Trên hết, cái gì là dễ chịu khi đến một ngân hàng? Theo đó, như Marx nói nhiều lần, mua và bán cần phải là những hành vi tách rời. Do vậy, không có sự đảm bảo nào cho việc tổng cầu của xã hội bằng với tổng cung của nó, và nói chung là nó sẽ không cân bằng. Tại bất cứ thời điểm nào xã hội có thể trao đổi với giá cả mà tại đó nhiều hàng hóa không được bán và thông thường là như vậy.

Theo đó phương pháp đồng thời cho phép tiền vào hệ thống của anh hay cô ta không với vai trò gì khác ngoài là đơn vị tính toán, anh/cô ta đối mặt với một vấn đề không thể vượt qua. Nếu một đại diện được cho phép tích lũy tiền trong trao đổi thì mọi nhóm tỷ lệ giá cả sẽ không ăn khớp với mọi sự phân bổ sản phẩm được yêu cầu. Nếu tôi có kẹo và anh có bích quy và chúng ta muốn trao đổi, với sự trao đổi thì chúng ta chỉ có thể trao đổi ở tỷ lệ 1 kẹo lấy 1 bích quy. Nhưng nếu tiền tham gia vào trao đổi, anh có thể bán bích quy cho tôi lấy £2, mua kẹo với £1, và cuối cùng có thêm £1 nhiều hơn. Đó là tất cả những gì diễn ra. Sự quy định của một hệ thống đồng thời bị phá vỡ bởi tính toán đơn giản này. Do đó, nếu chúng ta đòi hỏi giá cả phải được quy định bởi nhóm trao đổi cần thiết mà chúng tác động, chúng ta không thể cho phép tiền, như là vật dự trữ giá trị, đóng bất cứ vai trò hoạt động nào. Sự vắng mặt của tiền, giống như sự cân bằng của cung và cầu, là giả định giấu mặt của phương pháp này. Tiền là nạn nhân đầu tiên của thị trường bù trừ; giá cả bằng tiền là nạn nhân thứ hai.

Điều này thể hiện rõ ràng trong luận chiến của Marx với Jean-Baptiste Say, chống lại họ là Keynes, người đóng vai Tiresias trong bi kịch sai lầm này, cũng xây dựng hệ thống của ông ta. Say áp đặt thị trường bù trừ trong một lập luận đặc biệt đần độn, không chỉ gắn liền tên ông ta với một quy luật vô hiệu lực mà còn gây ra sự phản ứng dữ dội của Marx.15 Các nhà kinh tế học thường không mấy khó khăn phủ nhận lập luận của Say nhưng logic của nó hiện diện trong mọi hệ thống mang tính đồng thời. Trong trao đổi, nó vận hành, một phía luôn là người bán và phía kia là người mua; do đó mọi việc bán cần phải được mua và tổng số bán phải bằng tổng số mua. Do vậy cầu phải luôn bằng cung.

Lập luận này phá hủy hầu hết các hiện tượng quan trọng của kinh tế thị trường, thực sự phân biệt nó với một xã hội được tổ chức có ý thức: Con người bán hàng hóa lấy tiền và bám riết lấy tiền. Keynes, người thấu hiểu và quan sát được điều đó, đưa ra một cấu trúc tâm lý quan trọng – một ưa thích – để giải thích nó. Đối với Marx, đây là vấn đề logic. Trong trao đổi bằng tiền thì điều đặc biệt là có ba bên, chứ không phải hai. Nếu tôi có kẹo và cần bích quy, tôi bán cho người thích kẹo, khác với người bán bích quy. Sau đó tôi mua bánh bích quy. Chừng nào mà bánh quy còn được quan tâm, nó được mua khi nó được bán. Đối với tôi, đầu tiên tôi bán và sau đó mua.16

Đây là tất cả những gì về bái vật giáo hàng hóa. Logic hoàn hảo của Say, thay vì hỏi xem điều gì diễn ra với tư bản, tập trung trong hàng hóa tạo thành nó. Giá cả của chúng được tạo ra bởi các điều kiện được xác định trước rằng tổng hàng hóa trong xã hội phải được trao đổi theo một tỷ lệ cho trước. Do vậy, giá cả phát sinh từ các quan hệ trao đổi, từ các quan hệ cá nhân giữa những con người tham gia vào đó. Hàng hóa không còn là vật được mua bởi con người mà là vật được mua bởi vật khác. Quy luật của Say là chứng loạn thần kinh của quan hệ giữa con người với con người thể hiện bản thân như là quan hệ giữa các vật. Kinh tế chính trị học nghiên cứu con người; lý thuyết tân cổ điển nghiên cứu bánh bích quy.

Hệ thống các phương trình cân bằng là dạng bệnh lý của chứng loạn thần kinh: Chúng thậm chí không thể xác định bánh bích quy. Điều gì thực sự diễn ra khi một người bán không mua? Rõ ràng, nửa kia của nó là một việc bán không được đáp lại. Những chiếc bánh quy bị từ chối nằm lại chờ người mua. Từ một phía, chúng được biến thành vốn và tạm ngừng đóng vai trò giá trị sử dụng. Chúng trở thành sự giàu có không được mong muốn của xã hội, lao động ngủ yên chờ nụ hôn vàng của Tiền. Đây là hiện tượng bề ngoài của một khủng hoảng, một sự dư thừa nói chung, trong đó mọi thứ nằm yên như đang ngủ mơ trong khi Vua Tiền kết hôn với Nữ Hoàng Tư Bản.

Các nhà tư bản phải hạ sát Vua Tiền để cưới Nữ Hoàng Tư Bản. Hệ thống của họ là một sự lý tưởng hóa trong đó cung luôn bằng cầu và thị trường luôn vận động. Khủng hoảng không thể tồn tại bởi vì nó không thể xuất hiện trong các phương trình. Nếu thậm chí điều đó chỉ là dự tính, nó phải là một sự phá vỡ các phương trình, một bí ẩn bên ngoài, một “cú sốc ngoại sinh”. Nhưng cái giá của sự lý tưởng hóa này là hệ thống trong đó bản thân tiền không tồn tại. Vốn được sùng bái, tỷ suất lợi nhuận bị đóng đinh, giá cả bị gây mê; khủng hoảng là không thể tưởng tượng và tích lũy là không thể hiểu được. Bortkiewicz của năm 1906 đã đưa kinh tế học Marxist vào mùa đông khắc nghiệt này.

1.13 Từ chứng loạn thần kinh đến sự lầm lạc: Khái niệm kiểu Bortkiewicz về giá trị

Chủ nghĩa tân Ricardo, một biến thể về mặt tâm lý học của chủ nghĩa Marx kiểu Walras, đã theo đuổi logic phi lý của hệ thống này tới tận cùng cay đắng của nó và giết chết giá trị. Nó đã rút ra kết luận tối cao chính xác từ hệ thống này: trong đó, giá trị không có vai trò gì hết. Mặc dù vậy, đời sống lịch sử của khái niệm giá trị cho đến khi nó chết yểu có một lợi ích trị liệu vĩ đại. Điều mà chúng ta muốn cố gắng và nói không phải là trực tiếp chống lại những nỗ lực của nhiều người cao quý và trung thực đang cố gắng đấu tranh chống lại sự rút tỉa lặt vặt các kết luận xã hội và chính trị của Marx từ hệ thống ảo tưởng này. Trái lại là một chiến dịch giải cứu. Điều mà chúng ta muốn giải thích là tại sao logic nội tại của hệ thống cần thiết phải tạo ra một sự xuyên tạc giá trị; khi điều này được thấu hiểu, bản chất thật sự của giá trị sẽ nằm trong tầm tay.

Bất cứ ai đánh vật với một hệ thống các phương trình mang tính đồng thời với mục tiêu bóc tách từ chúng một khái niệm về giá trị sẽ thấy bản thân, bất kể là họ muốn hay không, đi qua một chuỗi các lý do nằm trong những mối liên hệ dưới đây:

0)     Tất cả hàng hóa có một giá đơn nhất. Để đơn giản hóa thì giả định chúng cố định.

1)     Chúng ta cần phải cho thấy giá trị quy định độ lớn cố định đơn nhất này.

2)     Marx cho thấy cách quy định giá cả của bất cứ hàng hóa nào nếu đầu vào của chúng được mua bằng giá trị

3)     Mặc dù vậy đầu vào không thực sự được mua bằng giá trị.

4)     Nếu đầu vào không được mua bằng giá trị, dĩ nhiên chúng ta vẫn có thể tính toán giá cả đầu ra từ giá cả đầu vào

5)     Nhưng sau đó chúng ta không tính giá cả từ một giá cả khác và không từ giá trị. Do vậy, theo phương pháp của Marx thì giá cả là không xác định.

6)     Giá trị cần thiết để giải thích xã hội giai cấp. Do đó, ngay cả khi nó không quyết định giá cả, hãy quy định chúng độc lập từ dữ liệu tương tự.

7)     Cuối cùng, chúng ta đã có thể hiểu vấn đề thực sự mà Marx đang vật lộn: đâu là quan hệ giữa giá trị mà chúng ta vừa tính toán và giá cả mà chúng ta vừa tính toán?

Bước đầu tiên trong cái chết của tiền là sự tách biệt của nó thành hai hệ thống quyết định hoàn toàn khác biệt, hệ thống giá cả và hệ thống giá trị, được rút ra từ hai nền kinh tế khác nhau. Hãy từng bước xem những giả định này tạo ra khung cảnh lý thuyết mà chúng ta nghiên cứu ngày nay.

Sai lầm đầu tiên nằm ở bước 0: vấn đề không phải là làm sao quy định một giá cả cố định (hay một giá trị cố định). Nếu giá cả và giá trị được cho trước tại một thời điểm, vấn đề là quy định giá cả và giá trị tại thời điểm tiếp theo. Câu hỏi được đặt ra hoàn toàn không có câu trả lời. Nó giống như hỏi “Tại sao mặt trăng ở đó”. “Sự đơn giản hóa” giá cả cố định khiến cho mọi thứ trở nên cực kỳ phức tạp, bởi vì nó đòi hỏi giá cả của mỗi hàng hóa tại mọi thời điểm thay vì chỉ một thời điểm. Nó thay thế một câu hỏi cụ thể có thể kiểm soát bằng một câu hỏi phổ quát hoàn toàn cứng đầu cứng cổ, giống như tính quỹ đạo mặt trăng bằng cách giả định khoảng cách giữa trái đất và mặt trăng là cố định. Đây là hệ thống Ptolemic [địa tâm] về giá cả. Công việc của nó là duy trì hệ tư tưởng.

Giá cả giờ trở thành quan hệ giữa các vật: bởi vì mỗi hàng hóa “chiếm hữu” một giá đơn nhất, nó tạm ngừng trở thành quan hệ giữa hàng hóa và người mua nó. Nó trở thành một thuộc tính đặc biệt, bất bình đẳng, giống như trọng lượng, được quy định chỉ bởi vai trò của hàng hóa trong việc tái sản xuất ra toàn bộ hàng hóa khác. Bàn tay vô hình của Adam Smith trở thành bàn tay chết của Jean-Baptiste Say.

Giả thuyết giá cả cố định xâm chiếm khái niệm giá trị, phải được định nghĩa lại như là một giá cả đặc biệt để có thể tái sản xuất ra một xã hội tưởng tượng mà trong đó lợi nhuận thậm chí không cố gắng san bằng – cực đối lập của hệ thống giá cả trong đó chúng được san bằng một cách hoàn hảo. Hàng hóa đạt được “các thuộc tính” của giá cả cố định và giá trị của chúng, thứ đi theo chúng bất cứ đâu như con cừu của Mary.17 Marx đã không ngừng nhắc nhở rằng giá trị là một quan hệ xã hội mà hàng hóa tham gia tại một thời điểm xác định đã bị lãng quên. Chúng ta đã tạo ra một sự chuyển tiếp bái vật giáo dẫn tới cái chết của tiền; trong đoạn về vật từ người tới người, chúng ta theo đuổi vật chứ không phải con người.18

Sự quy định tiếp theo được quy thành quan hệ giữa các thuộc tính ở bên trong của vật: một hiện tượng mới hoàn toàn nổi lên bề mặt; cụ thể là làm sao để “quy định” các “thuộc tính” của vật khác nhau. Chúng ta phải quy định giá cả của hàng hóa  từ giá trị của hàng hóa, độc lập với những gì diễn ra với chúng. Điều này giống như cố tìm xem ai là bà nội từ sự thật rằng cả hai cùng là bà dì. Giá trị không còn được gán cho hàng hóa bởi quá trình tái sản xuất mà nằm ở bên trong nó; do đó xuất phát điểm của mọi sự quy định phải là thuộc tính bên trong của hàng hóa, không phải là quan hệ xã hội mà từ đó chúng nhận được các thuộc tính này.

Nhưng trên thực tế giá cả và giá trị của đầu ra được quy định bởi giá trị của tư bản đã sản xuất ra chúng: mối liên hệ với tuần hoàn của tư bản với chức năng đặc biệt của hàng hóa là đóng vai trò đo lường tức thời, do vậy đã bị phá vỡ. Không thể tưởng tượng nổi cách quyết định giá cả hay giá trị từ dạng tiền của tư bản bởi vì hàng hóa được sản xuất bởi vật chứ không phải tư bản. Không giống như con cừu của Mary, hàng hóa bổ sung cho các thuộc tính của chủ nhân. Chúng ta có được những kết luận nực cười: ví dụ, thay đổi kỹ thuật là tức thời và miễn phí. Tiền được chi cho công nghệ cũ – phản ánh, chúng ta có thể nhắc lại, các nỗ lực xã hội thật đã sản xuất ra công nghệ này vào lúc đó – là một điều phi lý cũng như tư bản phá sản được tái sinh ra mỗi ngày trong Đại Cân Bằng trên Bầu Trời.

1.14 Sự phân tách của giá cả và giá trị

Hệ thống đang tan rã. Tư bản tách thành hai cá thể riêng biệt là Giá trị và Giá cả. Theo đó hai trường phái tư tưởng xuất hiện.

Biến thể a của Bước 7: Hệ Thống Giá Cả có trước.

Thật sự là khó khăn khi giá cả, dường như, được quy định bởi bản thân chúng. Lý do dường như lặp lại. Mặc dù vậy, nó chỉ biến thành (nhờ có Peron-Frobenius) một nhóm tỷ lệ giá cả sẽ thể hiện trong tái sản xuất, có nghĩa là sẽ cho phép nhà sản xuất có thể mua đầu vào của họ với “doanh thu” của đầu ra và nhận được lợi nhuận bằng nhau. Do đó, khi chúng ta biết rằng trên thực tế xã hội tái sản xuất, các giá cả này được quy định, ít nhất là tỷ lệ của chúng, thế là đủ đối với chúng ta.

Điều này tạo ra một vấn đề: giờ thì dường như “hai đẳng thức” của Marx không còn được thỏa mãn bởi hai nhóm điều kiện hạn chế (cấu tạo hữu cơ bằng nhau, nhiều các “giả định số lượng cố định” đặc biệt, và tương tự). Do đó, Marx đã sai khi khẳng định hai đẳng thức này: “Vấn Đề Chuyển Hóa” ra đời.

Điều này dẫn đến hai khả năng phát triển tiếp theo.

Biến thể 7a.I: Nhà kinh tế học bỉ ổi

Giá cả có nghĩa là một số nhân xác định của giá trị, vốn cố định theo thời gian. Giá trị là “cơ sở” của giá cả, do giá cả là số nhân đơn giản của giá trị. Mặc dù vậy, trên thực tế đây là con dao hai lưỡi. Nếu giá cả chỉ là số nhân của giá trị thì giá trị cũng là số nhân của giá cả. Thế thì tại sao không nói giá cả quyết định giá trị? Nhưng trong trường hợp này, giá trị là thừa và có thể loại bỏ. Theo lời của Wilde, nhà kinh tế học là người biết giá cả của mọi thứ và chẳng biết giá trị của thứ gì cả.

Biến thể 7a.II: Hàng hóa là quái vật Dalek (trong phim Dr. Who)

Do giá trị là số nhân của giá trị sử dụng, trên thực tế mọi thứ được quy định bởi giá trị sử dụng. Từ đây có thể dễ dàng nói rằng “mọi thứ thực tế được quy định bởi giá trị sử dụng và tỷ lệ của chúng, do đó giá trị là hoàn toàn thừa”. Những nhà triết học đó đã lảng tránh rằng giá cả cũng là thừa tương tự. Định mệnh của hệ thống này là một thế giới tự sản xuất ra giá trị sử dụng, robot sản xuất ra robot. Tại sao phải trả tiền cho chúng? 

Khái niệm “giá ma” không phải là một mô tả mà là một tấm bia mộ: Tiền Nằm Đây.

Biến thể b của bước 7: Hệ Thống Giá Trị là có trước

Chúng ta biết rằng giá trị là có trước nhờ vào các lập luận định tính của Marx về bản chất của trao đổi, bởi vì các bằng chứng kinh nghiệm dồi dào, bởi vì nhiều lập luận triết học cũng như xã hội-chính trị khác về vai trò của lao động. Do đó, chúng ta hãy giả định rằng giá trị có trước. Chúng ta hãy giả định điều đó, bất chấp các bằng chứng rõ ràng của văn bản. Marx đã khẳng định vô điều kiện rằng giá trị của mọi hàng hóa được quyết định không thông qua sự trung gian của tiền.

Điều này dẫn đến khu vườn mê cung. Chúng ta có thể phân biệt được những biến thể sau đây.

Biến thể 7b.I: Triết học-thần bí

Quá trình giá trị quy định giá cả diễn ra sau lưng chúng ta. Đó là một phần của công việc bên trong của hệ thống tư bản, chúng rất bí ẩn, chỉ có thể hiểu được bằng cách trích dẫn Tư Bản sáu lần trước bữa sáng và tham gia vào nhóm của tôi. Không có vấn đề chuyển hóa như đã nói và không có vấn đề gì khi các con số không ăn khớp với nhau, nhưng anh sẽ không hiểu bởi vì anh là một tên tư sản theo chủ nghĩa xét lại.

Biến thể 7b.II: Biện chứng giả mạo

Sự quy định giá cả diễn ra như các học giả phái Sraffa đã mô tả và sự quy định giá trị diễn ra như Marx đã mô tả. Điều này chỉ có thể hiểu được bằng cách trích dẫn Tư Bản mười hai lần trước bữa sáng và tham gia vào nhóm nghiên cứu của tôi. Đúng là các con số không ăn khớp, nhưng đó là bởi vì tư bản đã chứa đựng mâu thuẫn, anh phải học cách sống chung với nó. Anh không thể hiểu được điều đó bởi vì anh chưa đọc Hegel.

Biến thể 7b.III: Duy vật giả mạo

Như Marx đã giải thích, các lực lượng sản xuất quyết định mọi thứ.19 Điều này được Plekhanov giải thích là cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Những gì Marx nói về thời gian lao động quy định giá trị có nghĩa là giá trị do công nghệ quy định20 như anh sẽ thấy nếu anh đọc Sraffa và mua tạp chí của tôi. Các con số ăn khớp với nhau. 21 Anh không hiểu điều này bởi vì anh không phải là công nhân.22

Điều đáng khen ngợi của tất cả các vị trí này là khi đối mặt với sự phức tạp của định lượng thì họ bảo vệ định đề khoa học về thời gian lao động là đại lượng của giá trị. Nhưng cũng giống như những người hậu Ricardo, họ đã rút lui vào việc cắt nhỏ logic như là công cụng để tránh mối quan hệ về mặt lượng giữa giá cả và giá trị.

1.15 Chủ nghĩa Marx, tiền và chứng mất trí của kinh tế học hiện đại

Tiền giống như con ma của Banquo quay trở lại ám ảnh những kẻ tội lỗi trong công việc bình thường của họ. Chủ nghĩa Keynes, biến thể thực hành đầu tiên của kinh tế học tân cổ điển, nỗ lực hồi sinh Vua Tiền đã chết thành Hoàng Tử Ưa Thích Thanh Khoản. Kinh tế học tân cổ điển chuyển hóa nó thành sự xuyên tạc về hai trật tự tiền tệ tách biệt, giả định sự tách biệt của thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ. Tổ Hợp Tân Cổ Điển dựa trên ý tưởng về một thị trường “thực” cho hàng hóa và một thị trường “danh nghĩa” cho tiền. Phía sau điều này là một sự chuyển hướng hệ thống để cách ly tiền khỏi thế giới thực. Các đại diện tìm kiếm cân bằng trong một thị trường lý tưởng, không chịu ảnh hưởng của tiền tệ - thị trường hàng hóa – và tiền tham gia với vai trò là yếu tố bên ngoài, một căn bệnh cần được chăm sóc bằng sự can thiệp của chính quyền. Sự phân tách là bảo thủ và thần bí. Như những người hậu Keynes khẳng định một cách chính xác, không ai đàm phán về lương “thực tế”. Công việc của kinh tế chính trị là tích hợp tiền vào mọi cấp độ của hoạt động kinh tế, vì lý do đơn giản rằng tiền là sự hòa giải của mọi quan hệ xã hội thực tế trong nền kinh tế thị trường.

Đây là đóng góp đặc biệt của chủ nghĩa Marx. Sự “vô nghĩa” của giá trị là một thể hiện lý tưởng của việc coi tiền là thừa. Trong bất cứ hệ thống nào mà tiền đóng một vai trò thực tế đối lập với vai trò tưởng tượng, câu hỏi được đặt ra là “tiền mua gì”? câu trả lời duy nhất là “giá trị”, có nghĩa là giá cả được tạo thành từ thứ gì đó khác. Mọi hệ thống kinh tế đều phải đưa ra câu trả lời này, ngay cả khi nó không tôn trọng lý thuyết giá trị lao động. Điều đầu tiên mà một sinh viên đại học học được trong mọi cuộc đọ sức thực hành với thống kê kinh tế là điều khiển các chỉ số giá cả để đo lường “thực tế” nhằm so sánh với giá cả “danh nghĩa”. Định lý căn bản nhất về tiền tệ - Học thuyết Số Lượng Tiền Tệ - tham gia vào một biến số P, “mức độ giá chung”. Nhưng để có một mức độ giá cả, có nghĩa là giá cả là số nhân của một cái gì đó khác, người ta phải có một khái niệm về cái được nhân lên đó. “Cái gì đó khác” chính là giá trị, bất kể là có bao nhiêu chuyên luận lý thuyết chống lại giá trị. Trong chủ nghĩa Marx kiểu Walras, giá trị là bóng ma của tiền.

Do đó, bước chưa hoàn thành của kinh tế học phi Walras là sự phơi bày mang tính hệ thống của quy luật chi phối sự vận động của giá trị “thực” đã nêu phía trên; khởi đầu như Marx đã làm từ một định nghĩa hiển nhiên đúng về giá trị được rút ra từ quan hệ trao đổi cá nhân, để rút ra khuôn khổ phân tích trong đó không chỉ quá trình tổng quát của sản xuất, lưu thông và tích lũy có thể thể hiện dưới khái niệm giá trị, mà trong đó không áp đặt các tiên đề liên quan đến cung cầu hay sự vận động của giá cả.

Điều này dẫn tôi đến một kết luận, nhưng cũng là một điểm thực tiễn của nghiên cứu này: sự phát triển thực sự của kinh tế học có thể đi theo hướng nào? Có hai bước quan trọng. Bước thứ nhất là tích hợp và phát triển một cách đúng đắn khái niệm về tiền. Tôi sẽ chắc chắn không phải là người đầu tiên thử làm điều này; mặc dù vậy, quan điểm riêng của tôi được phát triển trong chương cuối của cuốn sách này là tiền chỉ có thể được tích hợp một cách đúng đắn trong một khuôn khổ có tính kế tiếp nhau. Mọi giả định “đơn giản hóa” – trên thực tế là phủ nhận – mà kinh tế học kiểu Walras đã cấy ghép vào thân Marxist phải để mặc cho chúng tàn lụi theo cách chúng đã lựa chọn. Kinh tế học phải được đặt trong thời gian thực và thế giới thực. Giả định về tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất giá trị thặng dư đồng nhất, sản xuất không cần máy móc, tư bản không cần có tiền và sự quy định không cần thời gian: tất cả chúng là hành lý mang lậu của vị khách không mời từ một nơi phi tự nhiên. Họ không thuộc về khoa học chính trị, đã đến lúc đóng gói hành lý và ra đi.

Chú thích:

1 Ví dụ xem vấn đề chuyển đổi của Wolff, Robert và Callari 1984a, Carchedi 1984, Roberts 1987, Kliman và McGlone 1988, Freeman 1991, Ramos 1991, Ramos và Rodriguez 1993, Giussani 1991 và về khuynh hướng tỷ suất lợi nhuận suy giảm của Kliman 1988, Freeman 1993b.

2 Tổng giá trị do toàn bộ công nhân trong xã hội thêm vào được đo bằng số giờ lao động; giá trị được công nhân thêm vào trong một quá trình lao động cụ thể cũng được đo lường bằng thời gian lao động của họ, nhưng có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn thời gian này (có nghĩa là một phần lớn hơn hoặc nhỏ hơn của tổng thời gian lao động) nếu công nhân có lành nghề nhiều hoặc ít hơn, hay làm việc với cường độ cao hơn hoặc thấp hơn, so với mức độ trung bình.

3 Chủ đề này được trình bày kỹ hơn trong chương cuối của cuốn sách này.

4 Điều này có hệ quả khác mà Marx đã đề cập, nhưng chúng ta không thể làm rõ ở đây mà chỉ có thể thừa nhận là một phần của sự tích lũy. Giả định là thông qua sự sáng tạo, nhà tư bản có thể tái khởi động sản xuất với cùng quy mô nhưng chi phí thấp hơn: Ví dụ với chi phí £50 cho nguyên liệu. Tư bản lưu thông (doanh thu của sản phẩm C’) là £300, chỉ cần £100 để tái sản xuất trên cùng quy mô. Thêm vào đó là giá trị thặng dư S=£100, do vậy £100 dư ra để mở rộng sản xuất. Do vậy, sự thay đổi trong năng suất lao động ảnh hưởng trực tiếp đến sự tích lũy cũng như gián tiếp thông qua tỷ suất giá trị thặng dư. Xem Marx (1994:219).

5 Điều này được thể hiện rất tao nhã trong chương sách thảo luận về định lý N. Okishio của Kliman, định lý này khẳng định rằng tỷ suất lợi nhuận phải tăng liên tục do nhà tư bản cá biệt luôn đầu tư vào công nghệ tiết kiệm chi phí. Lợi nhuận chỉ có thể giảm do sự tăng lên của lương.

6 Trong cuốn Các Học Thuyết Về Giá trị Thặng Dư, Marx sử dụng khái niệm “giá thành” thay cho “giá cả sản xuất”.

7  Mặc dù một số tác giả đã trình bày một cách độc lập và dẫn chiếu đoạn này nhưng theo hiểu biết của tôi thì lần đầu tiên nó thu hút được sự chú ý của công chúng là nhờ Wolff, Roberts và Callari (1984a).

8 Ghi nhận một lần nữa rằng sự trao đổi ở điểm giá cả khác với giá trị trong Quyển I, khi Marx bị cáo buộc là không thừa nhận sự chuyển đổi của giá trị vào giá cả. Cũng cần phải ghi nhận rằng tiền là đo lường của giá trị và cuối cùng, tỷ lệ trao đổi không liên quan gì đến sản xuất mà là hiện tượng trao đổi thuần túy.

9 Bortkiewicz (1952:23-24), tôi biết ơn sự chỉ dẫn của Michele Naples về đoạn này.

10 Chỉ có kinh tế học tân cổ điển thuyết phục thành công về tính ưu việt của nó để chống lại những quy luật thông thường về thời gian.

11 “Giá cả, trên hết là giá trị của hàng hóa được phân biệt với giá trị sử dụng (đây cũng chính là trường hợp với giá cả thị trường, được phân biệt với giá trị không chỉ về mặt chất mà cả mặt lượng, dựa trên đại lượng giá trị)” (Marx 1981:476); “Giá cả, theo khái niệm chung của nó, chỉ đơn giản là giá trị dưới dạng tiền” (Marx 1981:295).

12 Marx nhận ra điều này rất sớm: “Không phải là việc bán một sản phẩm cụ thể ở mức giá thành tạo thành “quan hệ tỷ lệ” của cung đối với cầu, hay tỷ lệ của sản phẩm so với toàn bộ sản xuất; những sự biến động của cung và cầu cho nhà sản xuất thấy số lượng hàng hóa cụ thể mà anh ta phải sản xuất để nhận được trong trao đổi ít nhất là giá thành. Khi những sự biến động này liên tục diễn ra thì có một sự vận động liên tục của việc rút vốn và đầu tư vào những nhánh khác nhau của ngành … Nếu ông M. Proudhon thừa nhận rằng giá trị của sản phẩm được thời gian lao động quy định thì ông ấy phải thừa nhận luôn rằng chỉ riêng sự vận động thất thường đã khiến lao động trở thành thước đo của giá trị. Không có “quan hệ tỷ lệ” nào được hình thành sẵn mà chỉ có sự vận động liên tục” (Marx 1976:56). Engels đã viết trong phần lời dẫn của cùng tác phẩm rằng “sự dao động liên tục của giá cả hàng hóa so với giá trị là điều kiện cần thiết mà chỉ theo và thông qua đó giá trị hàng hóa có thể tồn tại”. Điều tương tự áp dụng mutatis mutandis với giá cả sản xuất. Marx và Engels, những người bị coi là không hiểu được vai trò của cung và cầu, thừa nhận rằng cung và cầu chỉ có thể hoạt động như là sức mạnh trong thế giới hiện thực thông qua những dao động của giá cả thị trường và giá cả sản xuất. Kinh tế học tân cổ điển và chủ nghĩa Marx kiểu Walras đòi hỏi rằng những sự dao động này phải bị loại bỏ trước khi giá cả có thể tồn tại.

13 “Ainsi, le moment est venu de fermer, pour ainsi dire, le cercle de la production en  introdusiant la condition, conforme à la réalité, que les produits s’eschangent contre les même quantités de service qui entrent dans leur confection” (Walras 1984:585).

14 Mặc dù cả Walras và Sraffa đã cho thấy rất rõ rằng giá cả và các điều kiện về lượng (giá cả đầu vào bằng với giá cả đầu ra, nhu cầu đầu vào bằng với cung đầu ra) là có thể thay thế cho nhau và đồng thời giả định lẫn nhau, quan hệ logic cần thiết này được che đậy bằng một số trình bày sau này. Công thức đầu vào – đầu ra của Leontieff (1953, xem Pasinetti 1977 và Cameron 1952) bị đóng khung trong khái niệm tỷ lệ của đầu vào hơn là đại lượng. Những hệ thống bất đẳng thức tuyến tính bắt đầu với von Neumann (1973) và được Morishima (1974) phát triển giả định rằng sự quy định giá cả và số lượng là độc lập nhau. Ảo tưởng bị sụp đổ ngay khi người ta hỏi điều gì xảy ra với sản phẩm thừa khi mà cung không ăn khớp với cầu. Fajoun (1984) lập luận rằng hệ thống giá cả và số lượng bị phân tách bằng mẹo kỹ thuật, coi mọi sản phẩm thừa là phế thải có giá bằng 0. Đây là sự vi phạm giả định về giá cả do hàng hóa giờ đây có hai giá, “giá bình thường” và “giá phế thải”. Người ta chỉ cần hỏi điều gì diễn ra khi con người thực sự được quyền mua mọi sản phẩm thừa chẳng vì lý do gì cả để thấy rằng đây là một cấu trúc nhân tạo.

15 “Khái niệm (thực tế là của James Mill), được Ricardo thừa hưởng từ Say tẻ nhạt (cũng như người mà chúng ta có thể nhắc đến khi chúng ta thảo luận về cá nhân khốn khổ), về sản xuất thừa không diễn ra hay ít nhất là thị trường thường không bị dư thừa nói chung, là dựa trên định đề sản phẩm được trao đổi với sản phẩm, hay như Mill đã trình bày, dựa trên “cân bằng siêu hình giữa người bán và người mua”, điều này dẫn đến kết luận là cầu chỉ do sản xuất quy định, hoặc cầu và cung là đồng nhất” (Marx 1969b:493).

16 “Tiền không chỉ là “trung gian để thực hiện trao đổi” mà đồng thời là trung gian để phân chia việc trao đổi sản phẩm với sản phẩm thành hai hành vi, độc lập với nhau, tách biệt nhau về thời gian và không gian. Mặc dù vậy, với Ricardo khái niệm sai lầm về tiền phát sinh dựa trên sự thật là ông ấy chỉ tập trung vào sự quy định về lượng của giá trị trao đổi, cụ thể là sự bằng nhau về số lượng thời gian lao động xác định, mặt khác bỏ qua đặc điểm định tính, tức là lao động cá biệt phải thể hiện bản thân như là lao động trừu tượng, xã hội nói chung thông qua sự chuyển nhượng của nó” (Marx 1969b:504).

17 Dành cho các độc giả chưa được giáo dục mầm non ở Anh quốc:

Mary có một con cừu nhỏ / Với bộ lông trắng như tuyết
Mary đi bất cứ đâu / Cừu cũng đi theo đó
Một ngày cừu theo Mary đến trường / Chuyện ấy là sai luật
Tất cả trẻ em đều cười và giỡn / Khi thấy cừu ở trường học

18 “Một khi mọi sự vật có thể bị chiếm đoạt (có nghĩa là tất cả những sự vật khan hiếm và không gì khác) đã bị chiếm đoạt, chúng đứng trong một quan hệ cụ thể với nhau, một quan hệ bắt nguồn tự sự thật là mỗi thứ khan hiếm, bên cạnh tính hữu dụng đặc biệt của chính, đòi hỏi một tính chất đặc biệt, cụ thể là có thể trao đổi với bất cứ sự vật khan hiếm nào khác và theo một tỷ lệ quy định” (Walras 1984:67) “Trong vai trò giá trị, hàng hóa là đại lượng xã hội, có nghĩa là một thứ gì đó hoàn toàn khác với “những tính chất” như là “sự vật”. Trong vai trò giá trị, chúng tạo thành quan hệ duy nhất của những con người trong hoạt động sản xuất. Giá trị thực sự “bao hàm sự trao đổi”, nhưng trao đổi là trao đổi sự vật giữa những con người, trao đổi không có cách nào tác động đến sự vật như vậy” (Marx 1972:129).

19 Trong phân tích cuối

20 Trong phân tích cuối

21 Trong phân tích cuối

22 Trong phân tích cuối