Showing posts with label Nông dân. Show all posts
Showing posts with label Nông dân. Show all posts

Friday, August 24, 2018

Chuyện thành phố được gọi theo tên người

Muôn miệng như nhau đã nói ràng,
Câu đương là chức, lãnh là danh.
Lập làng khó nhọc, công vừa dứt,
Cái chợ trông nom, việc mới thành.
Dân đụng giặc trời cam thọ tử,
Cụ đền nợ nước quyết hy sinh.
Thoát nàn, bá tánh lo thờ phụng,
Miếu đó ngàn thu rạng tiết lành.

Chuyện thành phố được đặt tên theo một nhân vật nào đó, hoặc là trong huyền thoại hoặc là có thật trong lịch sử, chẳng phải là hiếm có trên thế giới. Người ta chỉ cần tra mạng internet thôi cũng đã ra hàng sa số, ví dụ như nước Úc hoặc Hoa Kỳ đều từng là thuộc địa của nước Anh nên phải gánh cái vinh dự có rất nhiều thành phố mang tên mấy ông quý tộc hay chính khách cha căng chú kiết người Anh, những người chả có tí gì công trạng với địa phương và giờ cũng chả còn ai nhớ đến nữa. Những cái tên nổi tiếng như Sydney (một chính khách người Anh), Melbourne (một thủ tướng Anh) ở Australia, hoặc New York (đặt theo tên James of York and Albany, vua James II của Anh, công tước xứ York và Albany), bây giờ chỉ còn là những cái tên văn minh phương Tây, chẳng phải tên người nào hết.

Ở Việt Nam lắm kẻ đòi bỏ tên thành phố Hồ Chí Minh vì lý do phải văn minh như Tây, không nên lấy tên người đặt tên cho thành phố nào hết. Thật là cái gì vừa ý người ta thì người ta lấy Tây ra để dọa, còn Tây làm gì trái ý thì người ta lờ đi. Văn minh như Hoa Kỳ lẽ ra không lấy tên ông tổng thống Washington để đặt tên cho thủ đô.

Lại có đám khác tán nhảm ra rằng sở dĩ Việt Nam đặt tên là thành phố Hồ Chí Minh ấy là học theo Liên Xô, lấy tên lãnh tụ đặt tên cho thành phố này thành phố kia để thỏa cái bệnh sùng bái cá nhân. Điều này cũng nhảm nhí nốt, Liên Xô không phải nước hay đặt tên thành phố theo tên người, các nước theo truyền thống quý tộc phong kiến lâu đời của châu Âu như Anh, Pháp, Bỉ, Đức, Tây Ban Nha mới làm việc đó, sau này còn có các nước Nam Mỹ chịu ảnh hưởng từ văn hóa của thực dân Tây Ban Nha/Bồ Đào Nha cũng hay làm vậy. Philippines, cái tên của một quốc gia Đông Nam Á, hẳn là người văn minh đã quên mất là tên của một ông vua Tây Ban Nha. Ở Việt Nam người ta thường hay nhắc đến thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cũng lại hay quên mất rằng đó không phải là thành phố đầu tiên và duy nhất ở Việt Nam mang tên một con người. Tấm ảnh và bài thơ ở trên nhắc đến nguồn gốc cái tên của một thành phố ở miền Tây Nam Bộ, đó là thành phố Cao Lãnh, trung tâm của tỉnh Đồng Tháp. Cái tên đó đã có từ hồi đầu thế kỷ 19, vốn ghép từ chức vụ và tên tục của người lập ra chợ vườn quít và sau này trở thành thành phố Cao Lãnh.

Suốt từ thời phong kiến cho đến Pháp thuộc rồi sau này được giải phóng, không ai có ý định hay dám đổi cái tên ấy cả. Trong thành phố Cao Lãnh hiện nay còn có một tấm bia đá ghi rõ sự tích cái tên ấy. Cái tên đó không phải là tâm điểm chính trị để người ta bày tỏ sự thù địch với chế độ cộng sản nên cũng không bị coi là xuất phát từ một truyền thống lạc hậu kém văn minh hay do chế độ cộng sản áp đặt. Điều đáng chú ý nữa là thành phố Cao Lãnh có khu di tích Nguyễn Sinh Sắc, trong đó có mộ phần của cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh, ông đã sinh sống ở vùng này sau khi bị bãi chức quan. Vậy là "long mạch" của chế độ cộng sản Việt Nam chẳng phải nằm ở miền Bắc mà lại nằm ở miền Tây Nam Bộ, được bao bọc bởi truyền thống uống nước nhớ nguồn, tôn trọng người biết xả thân vì nước vì dân, đã có từ lâu đời.

P/s: Ngoài Cao Lãnh thì miền Nam còn có Thủ Thiêm ở Bình Dương, cũng là tên người kiểu như Cao Lãnh vậy.

Friday, September 22, 2017

Đấu tranh giai cấp là mấu chốt của chiến tranh ở Việt Nam: Một bình luận phê phán về bộ phim tài liệu của Burns và Novick

Vẫn luôn có những người Mỹ nhìn nhận khác về cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam và họ nhìn nhận thấy bản chất của vấn đề: đấu tranh giai cấp gắn liền với độc lập dân tộc. Điều căn bản này đã bị lảng tránh, sự lảng tránh mang tính ý thức hệ nhưng luôn núp dưới bình phong khách quan và phi ý thức hệ.

Dưới đây là bản dịch bài viết " Ideology as History: a Critical Commentary on Burns and Novick’s “The Vietnam War”của CHUCK O’CONNELL được đăng trên tạp chí Counterpunch.

Hệ tư tưởng đóng vai trò lịch sử: một bình luận phê phán về bộ phim "Chiến Tranh Việt Nam" của Burns và Novick

Sau khi xem tập 1 và 2 trong bộ phim nhiều tập của Burns và Novick về Chiến Tranh Việt Nam, tôi nhớ đến một câu cách ngôn cũ kỹ nói về một điều đáng giá cho sinh viên khoa lịch sử: giai cấp nào kiểm soát tư liệu sản xuất vật chất thì cũng kiểm soát tư liệu sản xuất tinh thần. Kỳ vọng của tôi hạ dần khi nghe người thuyết minh trong khi cuộn xuống danh sách các nhà tài trợ, khó có thể trông đợi bộ phim nhiều tập này thoát khỏi lối tường thuật kiểu chủ nghĩa tự do đã thống trị cuộc tranh luận về Chiến Tranh Việt Nam.

Tường thuật kiểu chủ nghĩa tự do là gì? Đó là một tập hợp các khẳng định gắn chặt với nhau: Việt Nam chống lại Pháp và sau đó Hoa Kỳ bị khát vọng độc lập quốc gia lôi kéo, ngụy quyền Sài Gòn ở miền Nam là một chính phủ hợp pháp, sự nổi loạn của Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc chống lại chính quyền được Hoa Kỳ ủng hộ là do chính quyền cộng sản Hà Nội ở miền Bắc chỉ đạo, xung đột quân sự ở Việt Nam là một cuộc nội chiến, một loạt sai lầm của các lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ đã dẫn đến việc quân đội Hoa Kỳ tham gia để hỗ trợ miền Nam. Đó là lối tường thuật nghe có vẻ có lý vì nó đã được lặp đi lặp lại suốt hơn năm mươi năm.

Khi nghiên cứu lịch sử một cách khoa học hơn thì một tường thuật chính xác hơn đã được đưa ra: Thứ nhất, bên cạnh sự quan trọng của chủ nghĩa quốc gia đối với xã hội Việt Nam, một yếu tố quan trọng của cuộc chiến tranh là mục tiêu của cuộc cải cách ruộng đất mà những người cộng sản hứa hẹn với nông dân, chiếm đại đa số dân chúng. Xung đột quân sự là một phần của cuộc cách mạng xã hội chống lại giai cấp địa chủ và những kẻ hỗ trợ ngoại bang của họ. Thứ hai, ngụy quyền Sài Gòn, xuất hiện sau khi Pháp thất bại trong việc tái chiếm Việt Nam, là sản phẩm của Hoa Kỳ, được Hoa Kỳ tài trợ và tổ chức quân đội để ném vào cuộc chiến chống lại lực lượng cách mạng Việt Nam. Khi quân đội Nam Việt Nam được thế lục ngoại quốc tài trợ và huấn luyện để phục vụ cho sự thống trị ở quốc gia này thì quân đội đó không chiến đấu trong một cuộc nội chiến – đó là chiến tranh phản cách mạng và là quân đội tay sai. Thứ ba, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam là một lực lượng chính trị độc lập xuất hiện sau khi chính quyền Hà Nội không tiến hành cuộc chiến chống lại chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam. Lực lượng chủ chốt trong Mặt Trận là những người cộng sản, do vậy có mối liên hệ với Hà Nội và được miền Bắc hỗ trợ trong nỗ lực nổi dậy. Thứ tư, sự tham chiến của Hoa Kỳ không phải là kết quả của những sai lầm nối tiếp nhau, trái lại là kết quả của sự lừa dối và khiêu khích có hệ thống mà chính quyền Hoa Kỳ từ thời Harry Truman cho đến Richard Nixon đã thực hiện để phục vụ cho tham vọng kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản hiện đại ở Đông Nam Á. Tôi sẽ làm rõ những luận điểm này.

Vấn đề đất đai – Đấu tranh giai cấp ở Việt Nam


Trong tác phẩm phân tích về thảm kịch chiến tranh Việt Nam, Anatomy of a War, Gabriel Kolko khẳng định rằng yếu tố cốt yếu trong sự ủng hộ của nông dân đối với phong trào cộng sản là vấn đề ruộng đất. Câu hỏi đơn giản là ai sẽ kiểm soát đất đai – địa chủ hay nông dân, kẻ bóc lột hay người bị bóc lột? Người cộng sản nói nông dân bị bóc lột sẽ kiểm soát đất đai bởi vì đó là cách duy nhất giải phóng họ khỏi những kẻ bóc lột. “Ruộng đất cho người cày” là khẩu hiệu cách mạng của họ. Kolko khẳng định rằng không thể hiểu được chiến tranh nếu không hiểu rõ động lực này, động lực của đấu tranh giai cấp, điều này đã bị bỏ qua trong hai tập đầu của bộ phim và có vẻ như sẽ tiếp tục như vậy trong cả bộ phim. Đây là lối tường thuật lịch sử điển hình kiểu chủ nghĩa tự do; ưu ái các phân tích dựa trên chủ nghĩa quốc gia để loại bỏ các phân tích dựa trên đấu tranh giai cấp. Mặc dù vậy, do kẻ thù là cộng sản nên quan điểm của họ cần phải được xem xét nếu bạn muốn thấu hiểu chiến lược và chiến thuật cũng như khả năng thu hút sự ủng hộ sâu rộng của đại đa số dân chúng – nông dân. Hãy để tôi nói vấn đề theo cách khác, hãy suy nghĩ về điều này: làm sao mà một đất nước kém phát triển với đại đa số là nông dân đã đánh bại cường quốc kinh tế và quân sự hùng mạnh nhất thế giới với dân số đông gấp năm lần, cường quốc này đã triển khai hơn 500.000 bính lính của họ cùng một triệu quân đồng minh (chủ yếu là quân đội miền Nam Việt Nam), kiểm soát hoàn toàn không phận và hải phận, rải 19 triệu gallon chất khai quang ở miền Nam Việt Nam và sử dụng 7,5 triệu tấn bom trong đó có 400.000 tấn bom cháy? Như James William Gibson đã chỉ ra trong cuốn sách The Perfect War: Technowar in Vietnam (1988, p. 9), đỉnh điểm của việc triển khai quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam vào năm 1969, “40% các sư đoàn trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu của Hoa Kỳ, hơn một nửa các sư đoàn hải quân, 1/3 lực lượng thủy quân, một nửa máy bay chiến đấu và khoảng từ ¼ đến ½ tổng số máy bay B52 của Bộ Tư Lệnh Không Quân Chiến Lược USAF” đã tham chiến. Hoa Kỳ kiểm soát không phận và hải phận, sử dụng hết các khu vực an toàn và tập kết (Thái Lan, Philippine, Guam), ném bom bốn nước (Bắc Việt Nam, Nam Việt Nam, Lào và Campuchia), xâm lược hai nước (Nam Việt Nam, Campuchia). Trái lại, phe đối lập cộng sản chiến đấu ở miền Nam không có cả không quân lẫn hải quân hay các khu vực an toàn và tập kết. Họ sống trong rừng rậm và dưới hệ thống hầm ngầm, mạng lưới cung cấp chính của họ (“Đường mòn Hồ Chí Minh”) thường xuyên bị Hoa Kỳ ném bom. Nếu có quân đội nào phải chiến đấu với “một cánh tay bị trói phía sau lưng” thì đó chính là quân đội cộng sản Việt Nam.

Để hiểu được chiến thắng của cộng sản Việt Nam, chúng ta cần phải nhớ tới câu cách ngôn rằng chiến tranh là chính trị với phương tiện khác và đối với những người cộng sản bị áp đảo về vũ khí thì chiến lược quân sự duy nhất là chiến tranh nhân dân mà “chính trị là tiên quyết”.

Sự thể hiện về đạo đức của lực lượng chiến đấu đã chứng minh điều cốt yếu của đấu tranh quân sự. Người cộng sản giành được sự ủng hộ của đại đa số nông dân với học thuyết hai cuộc cách mạng song song. Lý tưởng của họ là: Việt Nam có hai vấn đề gắn chặt với nhau: Thứ nhất là người dân bị ngoại quốc bóc lột, thứ hai là cấu trúc giai cấp đã giúp cho các địa chủ bản địa bóc lột nông dân. Địa chủ không thể bị lật đổ nếu đế quốc ủng hộ họ không bị đánh bại. Mặc dù vậy, đánh bại đế quốc thực dân mà không lật đổ quyền lực của địa chủ Việt Nam thì chỉ là thay đổi khuôn mặt của kẻ áp bức nắm giữ quyền lực nhà nước. Do đó, hai cuộc cách mạng đồng thời phải diễn ra – một cuộc nổi dậy chống lại sự thống trị của đế quốc và một cuộc đấu tranh giai cấp chống lại giai cấp địa chủ. Cuộc đấu tranh giai cấp hứa hẹn sự giải phóng (“ruộng đất cho người cày”) đã thúc đẩy nông dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống chế độ thực dân.

Chế độ thực dân Pháp và đấu tranh giai cấp


Khi xem phim của Burns và Novick, bạn sẽ không thực sự hiểu được hiện thực của chế độ thực dân Pháp. Bằng các luật lệ thực dân, Pháp chuyển kinh tế từ tự cấp tự túc sang xuất khẩu vào thị trường thế giới, chuyển của cải của nông dân vào túi giai cấp địa chủ-đầu tư thông qua địa tô, rất cao đối với tá điền, khoảng 40-60% thu hoạch kỳ vọng, cho nông dân nghèo vay với lãi suất 50-70% và đánh thuế người Việt Nam để chi trả cho việc khai thác thuộc địa. Sau nhiều thập kỷ, người Pháp sở hữu hầu hết của cải ở Việt Nam. Nhà báo Hoa Kỳ Robert Shaplen đã viết trong cuốn sách The Lost Revolution: The U.S. in Vietnam, 1946-1966 (1966, p.80): Trên thực tế, người Pháp sở hữu mọi của cải thực của Đông Dương và khoản đầu tư của họ là gần hai tỷ dollar; họ sở hữu mọi đồn điền cao su, vốn vẫn hoạt động ngay cả trong chiến tranh – như chúng vẫn hoạt động hiện nay, vào năm 1965 – và họ sở hữu 2/3 sản lượng gạo, tất cả các mỏ, tất cả tàu thuyền, gần như toàn bộ công nghiệp và ngân hàng.”

Chế độ thực dân Pháp có nghĩa gì đối với người Việt Nam? Điều đó có nghĩa là nông dân không ruộng đất, một giai cấp công nhân nhỏ bị bóc lột tàn tệ và một giai cấp tay sai bản địa. Thông qua việc cấp đất và nhượng quyền, người Pháp đã phân bổ lại ruộng lúa, vào cuối những năm 1930, dưới 2% dân số miền Nam sở hữu hơn 80% đất đai và 60% cư dân nông thôn ở miền Nam không có ruộng đất. Khi Thế Chiến Thứ Hai bắt đầu (1939), đa số nông dân rất nghèo. Công nhân Việt Nam được tuyển mộ từ nông dân vào khoảng 221.000 vào năm 1931. Điều kiện làm việc của các công nhân này tại các công ty Pháp rất tồi tệ: khoảng 30% công nhân xây dựng đường sắt từ Hà Nội đến biên giới Trung Quốc đã chết khi làm việc và rất nhiều công nhân Việt Nam làm việc trong các đồn điền của hãng Michelin chết vì làm việc quá sức hay sốt rét, công nhân Việt Nam gọi mình là “phân bón cho cây cao su”. Những người Việt Nam hợp tác với Pháp và được hưởng lợi từ sự hợp tác đó là doanh nhân thành thị, địa chủ ở nông thôn, trí thức và các viên chức hành chính trong chính quyền thuộc địa. Họ tạo thành cơ sở xã hội cho lực lượng chống cộng sản trong các cuộc chiến tranh với Pháp và Hoa Kỳ.

Việc bỏ qua đấu tranh giai cấp và sự đóng góp đạo đức tập thể mà những người nông dân đòi hỏi dĩ nhiên là sai lầm nghiêm trọng của bộ phim về Chiến Tranh Việt Nam.

Điều đó đã bị bỏ qua trong tập 1 về chế độ thực dân Pháp và tiếp tục bị bỏ qua trong phần tường thuật về chế độ chống cộng sản Ngô Đình Diệm ở miền Nam. Do không hiểu rõ cuộc đấu tranh cách mạng dựa trên giai cấp nên lối tường thuật mặc định là nói về chủ nghĩa quốc gia và nhiệm vụ giải phóng người Việt Nam khỏi đế quốc nước ngoài.

Ngụy quyền Sài Gòn – một sản phẩm của chủ nghĩa đế quốc


Một sự lảng tránh nghiêm trọng khác cũng xuất hiện trong tập 1 và tập 2 – đã che dấu hiện tượng không được nhìn nhận trong bộ phim của Burns và Novicks: chủ nghĩa đế quốc. Chính Chiến Tranh Việt Nam đã khơi lại cuộc tranh luận chính trị về khái niệm chủ nghĩa đế quốc, với vai trò là yếu tố chủ chốt giải thích cho chính sách đối ngoại của các quốc gia tư bản phát triển. Quan điểm nhìn nhận việc Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam là để duy trì nguồn tài nguyên và lao động giá rẻ của Đông Nam Á cho tái thiết công nghiệp hậu chiến ở nước Nhật Bản tư bản và duy trì trật tự quốc tế: không quốc gia nhỏ nào được phép thoát khỏi sự kiểm soát của các nước tư bản phát triển hùng mạnh. Nếu họ thử thì họ phải trả giá rất đắt.

Burns và Novick làm cho tham nhũng, bất lương, ngu dốt và ngạo mạn dễ thấy nhưng chủ nghĩa đế quốc thì khó thấy. Một điểm thất bại nữa là họ đã không tường thuật về nguồn gốc của Diệm, vốn được Hoa Kỳ dựng lên ở miền Nam để đồng thời chống lại cả cộng sản lẫn Pháp. Chính Hoa Kỳ đã buộc vua Bảo Đại chỉ định Diệm làm thủ tướng ở miền Nam vào năm 1954, sau khi Hiệp Định Geneva kết thúc cuộc chiến của Pháp được ký kết. Chính là Hoa Kỳ đã thúc đẩy Diệm tổ chức cuộc trưng cầu dân ý gian lận vào năm 1955 để ông ta thay thế Bảo Đại nắm chính quyền. Cả Burns cũng như Novick đều không chỉ ra rằng trước khi Ngô Đình Diệm từ Hoa Kỳ đến Sài Gòn vào ngày 25/6/1954 thì CIA đã dọn đường, đại tá Edward Lansdale, đã đến Sài Gòn trước đó ba tuần vào ngày 1/6/1954. Lansdale được bổ nhiệm vào Ủy Ban Quân Sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn với hai mục tiêu. Thứ nhất, thiết lập một chính quyền thân Hoa Kỳ ở miền Nam với Diệm là người nắm quyền, thứ hai, ông ta tiến hành các chiến dịch bí mật gây ra sự bất ổn và rối loạn để chống lại chính quyền miền Bắc. Hãy lưu ý rằng Lansdale đến Sài Gòn không chỉ trước Diệm mà còn trước cả khi Hiệp Định Geneva được ký kết. Hãy lưu ý rằng Burns và Novick đã không đề cập đến việc Hoa Kỳ từ chối ký vào hiệp định quốc tế kết thúc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất để không bị ràng buộc. Hay nói cách khác, Hoa Kỳ đã bắt đầu quá trình phá vỡ Hiệp Định Geneva ngay khi nó đang được đàm phán.

Burns và Novick đã không chỉ không truyền tải nguồn gốc của chế độ Diệm, một bộ máy của Hoa Kỳ để củng cố quyền lực của Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam, mà họ còn không truyền tải sự tàn bạo và tính chất độc tài cũng như cơ sở giai cấp của chế độ đó – tính chất và cơ sở đã tạo ra một cuộc nổi dậy, một cuộc nổi dậy đã khiến Hoa Kỳ phải đổ một lực lượng quân sự khổng lồ vào để bảo vệ chế độ Sài Gòn. Ngô Đình Diệm và em trai ông ta, cố vấn chủ chốt, Ngô Đình Nhu, đã thành lập và kiểm soát đảng chính trị hợp pháp duy nhất ở miền Nam: Đảng Cần Lao. Thông qua đó, hai anh em họ kiểm soát cảnh sát, sĩ quan quân đội và viên chức hành chính. Hoa Kỳ huấn luyện cảnh sát và quân đội Nam Việt Nam theo các phương pháp đàn áp được sử dụng với những ai chống lại chế độ tay sai của Hoa Kỳ. Việc huấn luyện cảnh sát Nam Việt Nam được thực hiện ở Đại Học Bang Michigan để che dấu sự tài trợ của CIA.

Một sự bỏ sót khác của Burns và Novick là không đề cập đến việc di cư khoảng 1 triệu người từ Bắc vào Nam từ năm 1954 đến 1955, nguyên nhân của sự kiện này không chỉ là nỗi sợ hãi cộng sản mà còn là chiến tranh tâm lý của CIA thực hiện, Chiến Dịch Hành Trình Tới Tự Do được thực hiện để đe dọa những người Thiên Chúa Giáo chống cộng sản và khiến họ di cư vào Nam để tạo ra cơ sở xã hội cho chế độ Ngô Đình Diệm, tay sai của Hoa Kỳ.

Ngô Đình Diệm, nhà cầm quyền tay sai của Hoa Kỳ ở miền Nam, mắc phải 3 sai lầm khiến chế độ của ông ta bị căm ghét. Thứ nhất, ông ta từ chối tuân thủ yêu cầu tổng tuyển cử thống nhất vào năm 1956 của Hiệp Định Geneva với lý do ông ta không ký Hiệp Định nên ông ta không buộc phải tuân thủ. Hoa Kỳ đã khuyến khích ông ta từ chối. Thứ hai, Diệm khởi sự một chương trình cải cách ruộng đất nhằm tước ruộng đất của những nông dân đã chiếm đất dưới sự hỗ trợ của Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp. Quân đội của Diệm trục xuất nông dân ra khỏi đất đai và trả chúng cho các địa chủ, địa chủ đòi nông dân phải nộp tô cho cả những năm đất đai bị chiếm. Cuối cùng, khi biết rằng nhiều cựu Việt Minh sống ở miền Nam Việt Nam, vào năm 1955, Diệm bắt đầu làn sóng đàn áp họ. Khoảng 12.000 người bị bắt giữ và xử tử, khoảng 50.000 người bị tống giam. Diệm theo đuổi chiến dịch thanh trừng chính trị bằng cách cố gắng kiểm soát khu vực nông thôn. Ông ta giải tán các hội đồng làng (phá hủy nền dân chủ truyền thống của làng xã) và bổ nhiệm những người trung thành với ông ta làm “trưởng làng”; cảnh sát tiến hành các chiến dịch lục soát, đột kích, bắt giam, thẩm vấn, tra tấn, trục xuất, di cư cưỡng bức, bỏ tù và xử tử. Vào tháng 5 năm 1959, Diệm thông qua Luật 10/59 cho phép bắt giữ, xét xử và xử tử bất cứ ai bị cáo buộc (tình nghi) phá hoại an ninh quốc gia trong vòng 3 ngày. Các chính sách đàn áp đã khiến cho cựu Việt Minh (cùng với một số dư đảng của đạo Cao Đài và Hòa Hảo cũng như băng nhóm Bình Xuyên) trốn vào khu vực đồng bằng Châu Thổ Sông Mekong và tự tổ chức thành lực lượng tự vệ vào năm 1958.

Vào tháng 12 năm 1960, họ thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, hay còn được gọi là NLF. Diệm và Hoa Kỳ gọi nhóm hỗn hợp này là “Việt Cộng”.

Trong tập 2, khi Burns và Novick sự bất mãn đối với Diệm bằng cuộc khủng hoảng đạo Phật, họ đã bỏ qua việc Diệm đàn áp nông dân và cựu binh Việt Minh vào những năm 1950 cũng như việc ông ta ủng hộ giai cấp địa chủ. Một lần nữa, xung đột giai cấp biến mất trong câu chuyện của họ.

Những lãng quên khác – Sự xâm lược được Hoa Kỳ hậu thuẫn để chống lại chính quyền Hà Nội


Ngay từ năm 1954, Hoa Kỳ đã vi phạm các điều khoản của Hiệp Định Geneva về việc cấm sự can thiệp quân sự của nước ngoài ở Việt Nam, bằng cách thực hiện các hoạt động xâm lược chống lại chính quyền Hà Nội. Hoa Kỳ tổ chức một nhóm bán quân sự (được gọi là “Binh”) trực thuộc Ủy Ban Quân Sự Sài Gòn dưới quyền đại tá Edward Lansdale và trợ lý Lucien Conein, để làm bẩn nguồn cung cấp dầu của công ty xe bus Hà Nội, nhằm mục đích phá hỏng động cơ của xe bus, phá hoại đường sắt ở Bắc Việt Nam và đánh dấu mục tiêu cho hoạt động phá hoại tương lai. Các hoạt động này được thực hiện vào tháng 9 và tháng 10 năm 1954.

Vào tháng 2 năm 1956, CIA thành lập và tài trợ cho “Nhóm Quan Sát Thứ Nhất”. Do quân đội Hoa Kỳ trang bị song được CIA điều hành, người miền Nam Việt Nam và 9 chuyên gia bán quân sự được CIA bổ nhiệm vào Sở Chỉ Huy của Nhóm Quan Sát, mục đích của nhóm là tham gia vào các chiến dịch bí mật chống lại Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Được Cố Vấn Đặc Nhiệm Quân Sự Hoa Kỳ huấn luyện ở Nha Trang trong 7 năm (1956-1962), nhóm “Quan Sát” bao gồm khoảng 20 nhóm 15 người. Các nhóm này thực hiện các hoạt động bắt cóc, ám sát, phá hoại và thu thập thông tin tình báo ở Bắc Việt Nam (cả Lào và Campuchia), thường xuyên được nhân sự Hoa Kỳ hộ tống. Sau năm 1960, với sự lớn mạnh của lực lượng nổi dậy cộng sản ở miền Nam, Nhóm Quan Sát Thứ Nhất được chuyển sang các hoạt động bí mật chống lại NFL. Vào năm 1963, nhóm được chuyển thành Lực Lượng Biệt Kích Nam Việt Nam.

Để bày tỏ sự tôn kính đối với hành động của tổng thống Kennedy trong Chiến Tranh Việt Nam, Burns và Novick cũng nên chỉ ra rằng vào mùa xuân năm 1961 Kennedy đã phê chuẩn các chiến dịch bí mật chống lại Bắc Việt Nam bằng cách gửi các đội Nam Việt Nam vượt qua vĩ tuyến 17 để tấn công đồng thới các mục tiêu quân sự và dân sự. Ông ta cũng cho phép CIA tiến hành một cuộc chiến tranh bí mật ở Lào bằng cách vũ trang cho khoảng 9.000 người Hmong để tấn công đường mòn Hồ Chí Minh. Cuối cùng, chính là dưới thời Kennedy, vào năm 1961, Hoa Kỳ đã bắt đầu cuộc chiến sinh hóa kéo dài một thập kỷ, rải 19 triệu gallon chất độc (chủ yếu là chất độc màu da cam với dioxin) xuống miền Nam Việt Nam. Ban đầu chiến dịch này có tên là “Chiến Dịch Diêm Vương” sau đó được đổi tên thành “Chiến Dịch Bàn Tay Mục Phu”. Dị tật bẩm sinh vẫn tiếp tục cho đến ngày nay ở Việt Nam và là một trong những di sản chiến tranh của Hoa Kỳ.

Bằng cách xóa bỏ các sự kiện đó khỏi câu chuyện, Burns và Novick tránh phải đối mặt với vấn đề chủ nghĩa đế quốc – khái niệm mà chính sách đối ngoại Hoa Kỳ đã đóng góp vào việc bóc lột nông dân và công nhân khắp thế giới, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đã ở phía sai trái của đấu tranh giai cấp. Không có khái niệm về xung đột giai cấp và chủ nghĩa đế quốc, Burns và Novick không thể hiểu được cội nguồn của sự chia rẽ chính trị ở Việt Nam. Rất nhiều điểm đáng chú ý có thể nêu ra nhưng bất kể là điều gì, họ cũng sẽ lẩn tránh trong lối tường thuật kiểu chủ nghĩa tự do về thảm kịch xung đột trong một thế giới ngạo mạn và thù địch giữa các quốc gia – một câu chuyện cần thiết để che dấu hiện thực của Chiến Tranh Việt Nam.

Chuck O’Connell là giảng viên xã hội học tại at UCI.


Sources


William J. Duiker, The Communist Road to Power in Vietnam (2ndedition)



John G. Gurley, Challengers to Capitalism (3rd edition)




Gabriel Kolko, Anatomy of a Wa

Mark Atwood Lawrence and Frederik Logevall (editors), The First Vietnam War: Colonial Conflict and Cold War Crisis




More articles by:CHUCK O’CONNELL

Monday, November 16, 2015

Phản công ở Hàn Quốc

Gregory Elich trong bài "Fightback in Korea" đã chỉ ra mấu chốt của cuộc biểu tình lớn ở Hàn Quốc. Chính quyền và doanh nghiệp Hàn Quốc đang tìm cách tước bỏ quyền lợi của công nhân bằng kế hoạch cải cách lao động. Hàn Quốc đang đi theo con đường của chủ nghĩa tân tự do, tuy có chậm hơn so với Hoa Kỳ và Châu Âu. Tiền lương và phúc lợi của công nhân sẽ bị cắt giảm để doanh nghiệp có thêm lợi nhuận. Đây là nỗ lực kéo doanh nghiệp trở lại Hàn Quốc đầu tư, sau khi các tập đoàn lớn của Hàn Quốc đã chuyển sang đầu tư ở các nước có nhân công giá rẻ hơn. Hiện tượng phổ biến này cho thấy rõ rằng công nhân không thể đấu tranh đơn lẻ ở một quốc gia mà cần đến một phong trào công nhân quốc tế.

Phản công ở Hàn Quốc

Trong bầu không khí gia tăng đàn áp, chính quyền Park Geun-hye ở Hàn Quốc tiến hành loạt tấn công mới nhất vào người dân lao động. Một kế hoạch cải cách lao động tồi tệ đang được triển khai, nhằm mục đích giảm lương và phá vỡ sự ổn định của công ăn việc làm. Công nhân và nông dân đã tham gia đấu tranh trên đường phố, đây là sự phản kháng rộng rãi và quyết định đối với kế hoạch này.

Cải cách lao động được triển khai với một danh sách các biện pháp đáng mơ ước mà chủ doanh nghiệp theo đuổi, họ hy vọng thấy lợi nhuận tăng vọt. “Từ phía cầu, chúng ta phải cắt giảm gánh nặng của doanh nghiệp có thuê nhân công bằng cách làm cho thị trường linh hoạt hơn,” bộ trưởng bộ tài chính Choi Kyung-hwan khẳng định. (1) “Sự linh hoạt” tưởng tượng, không có gì ngạc nhiên, được coi là chỉ phụ thuộc vào công nhân.

Một trong những mục tiêu chủ chốt của kế hoạch là phổ biến việc sử dụng lao động thời vụ. Trong số các quốc gia của Tổ Chức Hợp Tác Kinh Tế và Phát Triển (OECD), Hàn Quốc đã xếp hạng cao nhất về mức độ sử dụng lao động thời vụ, chiếm 1/5 lực lượng lao động. (2) Công nhân thời vụ đặc trưng nhận được ít hoặc không có phúc lợi, lương của họ chỉ bằng 2/3 lương của lao động cố định. Đối với công nhân bán thời gian, tình hình còn tồi tệ hơn, lương chỉ hơn chút xíu so với một nửa lương của lao động cố định. (3) Vì những lý do rõ ràng, doanh nghiệp muốn áp dụng sự sắp xếp này cho một bộ phận lớn hơn của lực lượng lao động.

Cải cách lao động gia tăng gấp đôi thời gian một công nhân được thuê theo thời vụ, kéo dài tới 4 năm. Phạm vi của cách ngành sử dụng công nhân thời vụ cũng được mở rộng. Khi hợp đồng thuê lao động hết hạn, không có gì ngăn cản doanh nghiệp thuê lại chính công nhân đó trong thời gian 4 năm tiếp theo, cũng với mức lương thấp như cũ.

Một biện pháp sẽ phá hủy sự bảo vệ đối với công ăn việc làm ổn định là cho phép các doanh nghiệp đơn phương sa thải công nhân, dựa trên các yếu tố khách quan. Cải cách lao động cũng tạo cho doanh nghiệp quyền được đơn phương thay đổi quy định về nơi làm việc. Nhóm doanh nghiệp dẫn chứng luật hợp đồng lao động năm 2007 làm hình mẫu, luật này cho phép các doanh nghiệp “điều chỉnh quy định về lao động mà không cần sự đồng thuận của người lao động… nhằm giúp doanh nghiệp thích ứng linh hoạt với sự thay đổi của môi trường kinh doanh.” Theo quan điểm của doanh nghiệp, tỷ lệ công đoàn thấp của Hàn Quốc vẫn là quá cao và “việc sử dụng công nhân thay thế phải được phép để đáp lại các yêu cầu vô lý thông qua bãi công của công đoàn.” (4)

Điều gây tranh cãi nhất trong cải cách lao động là việc áp dụng hệ thống lương tối đa, theo đó doanh nghiệp không chỉ được phép mà còn được khuyến khích cắt giảm lương của công nhân khi họ đến tuổi 55. Chính quyền đang bán rao quy định này như là một giải pháp đối với tỷ lệ thất nghiệp cao của thanh niên. Lập luận được đưa ra là tiền mà doanh nghiệp tiết kiệm được bằng cách giảm lương của công nhân có kinh nghiệm sẽ giúp họ thuê nhiều lao động trẻ tuổi hơn. Logic này thật kỳ quặc. Một doanh nghiệp thuê số lao động mà nó cảm thấy cần. Cắt giảm lương của một bộ phận nhân công không tự động tạo ra các vị trí mới. Mặt khác, theo quan điểm của doanh nghiệp, lợi thế chủ yếu của việc thuê lao động trẻ tuổi là họ có thể trả mức lương khởi điểm thấp. Nếu cắt giảm thu nhập của công nhân có kinh nghiệm thì doanh nghiệp lại càng có ít động lực để thuê lao động trẻ tuổi. 

Doanh nghiệp bị tiền mặt hấp dẫn nhưng họ lại ngại ngần về chi tiêu. Chính quyền đã giảm thuế doanh nghiệp ba điểm phần trăm, một nỗ lực thất bại để thúc đẩy đầu tư. Trái lại, khuynh hướng của doanh nghiệp là tích lũy tiền mặt. (5) 1.835 doanh nghiệp đăng ký tại Sở Giao Dịch Hàn Quốc sở hữu dự trữ tiền mặt lên tới 845 nghìn tỷ won – tương đương với 730 tỷ dollar. Hiện tượng này đã gia tăng 159% so với năm 2008. (6) Hơn nữa, trong bốn thập kỷ qua, doanh nghiệp Hàn Quốc đã tăng gấp ba lần lượng tiền mặt họ cất giữ trong các tài khoản quốc tế. (7) Không có lý do gì để tin rằng việc quẳng thêm tiền vào núi tiền mặt của doanh nghiệp sẽ khuyến khích doanh nghiệp thuê thêm lao động trẻ. 

Trong khi đó, chính quyền thông báo ý định gia hạn tuổi nhận khoản lương hưu và phúc lợi nghèo nàn lên 70 tuổi. Gần một nửa công dân già sống dưới mức nghèo khổ, con số này sẽ gia tăng với kế hoạch của chính quyền. Những người đủ may mắn để giữ được việc làm sẽ bị buộc phải làm việc với mức lương thấp trong khi những người còn lại phải dựa vào con cái để sinh sống. Với độ tuổi nghỉ hưu mới, công nhân già hơn sẽ giữ việc làm trong thời gian dài hơn, chính quyền được cho là không muốn giải phóng những chỗ làm đó cho công nhân trẻ.

Sự quan tâm giả tạo đối với thanh niên là bình phong che đậy cho những người thực sự hưởng lợi từ cải cách lao động. Doanh nghiệp thu được lợi nhuận khổng lồ từ việc cắt giảm lương của công nhân lớn tuổi cũng như gia tăng sử dụng lao động thời vụ. Nỗ lực đẩy người trẻ đối đầu với người già là mánh lừa gạt trong cẩm nang tân tự do cũ kỹ, nhằm mục đích đánh lạc hướng công nhân ra khỏi các đầu mối chính trị. Kế hoạch được doanh nghiệp ủng hộ chỉ là tạo thêm công việc thời vụ cho thanh niên và lời hứa hão.

Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của thanh niên, bộ trưởng bộ tài chính Choi có một tầm nhìn cho tương lai của giáo dục. Ông ta thông báo rằng một sự tiến bộ đã được tạo ra cho cải cách lao động, chính quyền dự định tái cấu trúc hệ thống giáo dục. “Đại học phải có khả năng cung cấp các tài năng mà công nghiệp muốn,” ông ta khẳng định. Đây lại là một lập luận khác từ cẩm nang lừa gạt tân tự do cũ kỹ, theo đó khái niệm về giáo dục tạo ra các công dân được có hiểu biết và hoàn thiện được ném qua cửa sổ. Thay vào đó, vai trò cao quý của giáo dục chẳng là gì ngoài việc đào tạo nghề. Trên hết, đâu là sự tốt đẹp của kiến thức không trực tiếp phục vụ cho lợi nhuận của doanh nghiệp? 

Nhiều sinh viên hoài nghi về lập trường của chính quyền. Một nhóm sinh viên có tên là Misfits đã gửi thư cho Choi, nói rằng: “Chúng tôi không bất bình vì những công nhân bình thường được bảo vệ quá mức. Chúng tôi bất bình vì các công nhân thời vụ không được đảm bảo các phúc lợi như công nhân bình thường.” (8)

Doanh nghiệp cần phải cắt giảm lương của công nhân lớn tuổi, chính phủ của Park Geun-hye khẳng định, bởi vì công nhân già có năng suất kém hơn khi cao tuổi. Cũng với lý do tương tự, doanh nghiệp phải được tự do sa thải công nhân khi họ thấy giá trị giảm đi. Đâu là cơ sở của khẳng định này? Không có bằng chứng nào ủng hộ định kiến này, thực sự là những công nhân già nói chung tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong vị trí của họ.

Chính quyền và doanh nghiệp khẳng định rằng năng suất trì trệ là do công nhân được bảo vệ quá mức. Mặc dù vậy, vào thời kỳ 2007-2012, tiền lương thực tế giảm 2,3% trong khi năng suất lao động tăng gần 10%. (9) Ai thiệt hại? Năng suất lao động gia tăng không đi cùng với tăng lương để gia tăng bóc lột công nhân. Mối lo ngại thực tế của lãnh đạo doanh nghiệp là tỷ suất bóc lột không tăng đủ nhanh để thỏa mãn họ.

Cải cách lao động của chính quyền sẽ không được áp dụng đơn lẻ. Chính quyền đã cấm công đoàn giáo viên và nhân viên chính quyền, cũng như đảng Tiến Bộ Thống Nhất dựa trên các bản án vu cáo. Cảnh sát đã thường xuyên đột kích các văn phòng công đoàn, thu giữ hồ sơ và bắt giữ các cán bộ công đoàn. Theo khuynh hướng không khoan nhượng, doanh nghiệp kiện công nhân ra tòa vì “tổn thất lợi nhuận” khi công nhân đình công và tòa án thường xuyên phán xét có lợi cho doanh nghiệp. Trong một vụ kiện mới đây, điển hình cho khuynh hướng này, tòa Thượng Thẩm Seoul đã yêu cầu 139 công nhân trả tổng cộng 2,8 triệu dollar cho công ty Ssangyong Motor vì tổ chức bãi công “bất hợp pháp”. (10) Điều đó có nghĩa là mỗi công nhân phải trả hơn 20.000 dollar.

Những người nắm quyền lực “đã khiến công nhân sợ hãi rằng đấu tranh có thể dẫn đến mất tất cả,” Han Sang-kyun, chủ tịch của Tổng Liên Đoàn Công Đoàn Hàn Quốc (KCTU), giải thích. “Khoản tiền phạt khổng lồ và tịch thu tài sản cho những cái được gọi là thiệt hại, lệnh bắt giam, sa thải, giải tán các công đoàn dân chủ - đó là những hình thức trừng phạt đối với những người dám đấu tranh. Một sân chơi không công bằng, trong đó chính quyền nhất quán đứng về phía tư bản, đã phá hủy nghiêm trọng các quyền của công nhân.”

Han kể về kinh nghiệm của ông, đã bị bỏ tù ba năm vì vai trò trong cuộc đình công ngồi ở nhà máy sản xuất của công ty Ssangyong Motor. Hiện nay, ông không thể đi ra khỏi văn phòng, bị hàng trăm cảnh sát bao vây, chờ để bắt giữ ông ngay khi ông ra khỏi tòa nhà.

Trong một nỗ lực đe dọa KCTU, vào ngày 6 tháng 11, khoảng 200 cảnh sát đã đột kích trụ sở của một thành viên Tổng Liên Đoàn, Công Đoàn Công Nhân Vận Tải và Dịch Vụ Công Cộng. Cảnh sát đã tịch thu hồ sơ và ổ cứng máy tính, sau đó thâm nhập và tìm kiếm các văn phòng chi nhánh của công đoàn. Lệnh bắt giữ mười hai thành viên của công đoàn đã được phát ra.

Công nhân bị đàn áp dữ dội, nhưng vẫn chưa đủ để xoa dịu doanh nghiệp. Doanh nghiệp Hàn Quốc coi cải cách lao động chỉ là một bước trong việc tước đoạt lợi ích của công nhân. Một thông cáo được Tổng Liên Đoàn Lao Động Hàn Quốc, phòng Thương Mại và Công Nghiệp Hàn Quốc, cũng như ba nhóm doanh nghiệp khác ký tên nêu rõ rằng kế hoạch cải cách lao động “không đủ để làm cho thị trường lao động linh hoạt hơn,” và “thậm chí là chưa tiến đến gần với cải cách lao động mà xã hội của chúng ta cần.” Công nhân có thể sẽ phải nhận nhiều cuộc tấn công hơn. “Doanh nghiệp sẽ không ngừng thúc đẩy nỗ lực làm cho thị trường lao động linh hoạt hơn,” bản thông cáo cảnh báo. (11)

Phản kháng đang gia tăng, một cuộc tuần hành quy mô lớn ở Seoul được tổ chức vào ngày 14 tháng 11 nhằm lôi kéo khoảng 100.000 người biểu tình. Năm mươi ba tổ chức đã liên kết để tổ chức hành động, trong đó có KCTU, Liên Minh Nông Dân Hàn Quốc và Liên Minh Phụ Nữ Quốc Gia. Các cuộc tuần hành đơn lẻ cũng được tổ chức tại khắp các nơi ở Seoul, sau đó tất cả các nhóm tập hợp lại thành một cuộc biểu tình lớn ở Gwanghwamun Plaza.

Trong khi động cơ tức thời của cuộc biểu tình là kế hoạch cải cách lao động thì những bất bình đối với chính quyền bảo thủ lại có rất nhiều. Liên minh đã cho thấy phạm vi các yêu cầu trải rộng xung quanh mục tiêu được cuộc biểu tình hướng tới, khung cảnh chung là kêu gọi chấm dứt đàn áp cũng như tiến tới một xã hội hướng tới người dân nhiều hơn. (12)

Nông dân được cho là biểu dương sức mạnh, thể hiện sự bất bình đối với việc ký kết hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương, mà bộ nông nghiệp Hoa Kỳ đã chỉ ra rằng sẽ “phá vỡ các rào cản thị trường đối với nhà xuất khẩu Hoa Kỳ.” (13) Điều đó sẽ khiến nhiều nông dân Hàn Quốc bị thiệt hại, nhiều người trong số họ có thể sẽ phá sản. Kim Yeong-ho, chủ tịch của Liên Minh Nông Dân Hàn Quốc, lên án chính phủ Park Geun-hye về việc “tạo ra một cấu trúc bóc lột thường xuyên.” Ông nói thêm: “Họ đang cố gắng tước đoạt dân chủ…. Đó là lý do chúng tôi biểu tình vào ngày 14 tháng 11 – cho công nhân, nông dân, thanh niên và sinh viên để thể hiện những gì đang diễn ra và báo động.”

KCTU đã “ném mọi thứ vào cuộc chiến này,” chủ tịch Han Sang-kyun của KCTU nói. Nếu chính quyền tiếp tục triển khai cải cách lao động, “chúng tôi đã chuẩn bị tiến hành tổng bãi công. Lần này sẽ không phải là bãi công một ngày. Chúng tôi nói về việc ngừng sản xuất, xe tải chở hàng hóa ngừng chạy, công nhân đường sắt và tàu điện ngầm bãi công bất hợp pháp, làm tê liệt đất nước đến mức chính quyền sẽ cảm thấy thiếu công nhân. Đấy là điều mà chúng tôi chuẩn bị.” 

Đấu tranh đang trở nên nóng bỏng ở Hàn Quốc, một nước mà truyền thông doanh nghiệp phương Tây chắc chắn là sẽ bỏ qua. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta phải đi theo con đường lảng tránh của họ. Người dân Hàn Quốc đang mong đợi sự đoàn kết của chúng ta đúng vào lúc mà họ cần tới. 

Notes.

1) “Rethinking Labor Reform,” Korea Times, August 17, 2015

2) Choonsik Yoo, “In South Korea, Park’s Revamp of Rigid Labor Laws Faces Opposition,” Reuters, September 23, 2015.

3) Kim Bok-soon, “Comparison of Wages and Working Conditions by Size of Enterprise,” Issue Paper, Labor News, No. 160, Korea Labor Institute, August 25, 2015.

4) Statement, “Business Stance on the Labor Reform,” The Korea Employers Federation, The Korea Chamber of Commerce and Industry, The Federation of Korean Industries, The Korean Federation of Small and Medium Business, The Korea International Trade Association, August 31, 2015.

5) “S. Korean Firms’ Cash Reserves Hit Record High,” Korea Herald, February 16, 2015.

6) Samsung, Hyundai Motor Groups Pare Cash Reserves in H1,” Yonhap, September 13, 2015.

7) Michael Herh, “Korean Companies’ Offshore Balances Tripled Over Last 4 Years,” Business Korea, October 1, 2015.

8) Kahyun Yang, “With Jobs Scarce, South Korean Students Remain on Campus,” Reuters, January 5, 2015.

9) Wol-san Liem, “Overview of the Korean Labor Movement: the Current Moment,” Korean Public Service and Transport Workers’ Union.

10) “Ssangyong Labor Union Ordered to Pay Compensation for Strikes,” Yonhap, September 16, 2015.

11) Statement, “Business Stance on the Tripartite Agreement,” The Federation of Korean Industries, The Korean Chamber of Commerce and Industry, The Korea Federation of Small and Medium Business, The Korea International Trade Association, the Korea Employers Federation, September 15, 2015.

12) A sampling of demands: Employment and Labor (Stop Retrogressive Labor Market Reform); Agriculture (Stop rice imports, Oppose the TPP); People’s Livelihood/Urban Poor (Abolish the disability ranking system, Stop crackdowns on street vendors); Youth/Students (Open the safes of chaebols to create meaningful jobs for youth); Democracy (Stop state repression, Abolish the National Security Law, Free all prisoners of conscience); Human Rights (Stop government/municipality violation of human rights); Peace and Self-determination (Oppose THAAD deployment om the Korean Peninsula, Improve North-South relations); Sewol (Carry out the salvaging of the Sewol ferry); Environment (Abandon plans for cable car construction in national parks); Public Service (Stop privatization of healthcare, railroad, gas, and water); Chaebol Responsibility (Reclaim chaebol reserve assets to implement a minimum wage of 10,000 won).

13) “Why Trade Promotion Authority is Essential for U.S. Agriculture and the Trans-Pacific Partnership,” U.S. Department of Agriculture, April 2014.

Gregory Elich is on the Board of Directors of the Jasenovac Research Institute and the Advisory Board of the Korea Policy Institute. He is a columnist for Voice of the People, and one of the co-authors of Killing Democracy: CIA and Pentagon Operations in the Post-Soviet Period, published in the Russian language.

Monday, October 12, 2015

Tuyên truyền về GMO và xã hội học về khoa học

Thao túng giới khoa học, và đánh lận con đen giữa khoa học và công nghệ để tuyên truyền và đàn áp các ý kiến phản đối là cách thức mà các công ty cung cấp sản phẩm biến đối gen lớn đang làm. Kristine Mattis đã vạch rõ những mánh lới ấy trong bài "GMO Propaganda and the Sociology of Science". Chuyện của Hoa Kỳ nhưng chắc chắn là không xa lạ với Việt Nam, một thị trường đang lên cho GMO của các công ty đa quốc gia.

Tuyên truyền về GMO và xã hội học về khoa học

Vào tháng 4 năm 2014, trang web Gawker tiết lộ các văn bản cho thấy mức độ mà người khổng lồ hóa chất toàn cầu Monsanto can thiệp để kiểm soát các tường thuật về sản phẩm của họ - đặc biệt là các sản phẩm biến đổi gen. Ở mức tối thiểu, Monsanto hợp tác với công ty xuất bản Condé Nast và kêu gọi các tổ chức phi chính phủ (NGO) cần nguồn tài trợ giúp họ tạo ra các video cổ vũ để hỗ trợ các sản phẩm biến đổi gen (GMO). Trong khi tất cả chúng ta đều tin rằng bộ não khoa học/lý trí sẽ nhìn thấu qua sự minh bạch của marketing, hùng biện quan hệ công chúng tồn tại vì nó làm dịu đi các tư tưởng phê phán. 

Mặc dù chiến dịch được Monsanto đề xuất không bao giờ thành hiện thực, nghiên cứu nhanh các bài báo về GMO trong năm quan cho thấy rõ ràng rằng mối quan hệ giữa Monsanto và Condé Nast chưa kết thúc. Bên cạnh đó, Monsanto hầu như chắc chắn đã nắm trong tay một số chiến dịch tuyên truyền khác. Kể từ năm ngoái, hùng biện ủng hộ GMO đã gia tăng đột ngột trên các bài báo tin tức về biến đổi gen. Các văn bản mới được tiết lộ cho thấy nhiều chuyên gia khoa học hợp tác trao đổi thông tin với Monsanto. Nhưng điều nguy hại nhất là toàn bộ các luận điểm hùng biện mới đã lên tuyến đầu, đe dọa bất cứ ai – nhất là các nhà khoa học – là về phát biểu chống lại công nghệ “trụ cột” của họ: Nếu anh chống lại GMO thì anh chống lại khoa học.

Luận điểm mới thể hiện một chiến lược mạnh mẽ thúc đẩy biến đổi gen. Hầu hết người dân không muốn bị coi là chống khoa học, không chỉ nhà báo, công chức hay giới giải trí, và ít nhất là tất cả mọi người không phải là những nhà khoa học giáo dục và đào tạo. Hơn nữa, tuyên truyền đứng về phía cánh tự do ủng hộ khoa học, cáo buộc cánh bảo thủ là phản khoa học do phủ nhận biến đổi khí hậu.

Không giống như biến đổi khí hậu chịu tác động của con người, hiện nay sự an toàn của GMO hoàn toàn không có sự đồng thuận khoa học nào. Trên thực tế, mỗi và mọi GMO mới đều cần được kiểm tra đầy đủ riêng biệt về mức độ an toàn, bởi vì mỗi sự biến đổi gen không chỉ đưa một gen lạ vào bộ gen, mà còn có khả năng tạo ra tác động qua lại giữa các gen trong bộ gen. Quan niệm một gen luôn chỉ kiểm soát một đặc tính đã được coi là quá đơn giản. Luôn luôn là nhiều gen tham gia vào việc tạo ra một đặc tính và các bộ phận của DNA cũng kích hoạt hoặc tắt các đặc tính. Do vậy, đưa gen lạ vào chuỗi DNA có thể vô tình tác động đến các đặc tính khác. 

Bên cạnh đó, hầu hết GMO không được kiểm tra an toàn. Không chỉ chính sách liên bang phán quyết phản khoa học rằng ngũ cốc GMO là “tương đương về mặt vật chất” với ngũ cốc thông thường, các nghiên cứu độc lập về tác động môi trường và sức khỏe (thông qua nghiên cứu về nuôi động vật) đã bị cản trở phần lớn do bản quyền ngăn chặn việc nghiên cứu và sử dụng hạt giống cũng như ngũ cốc biến đổi gen. Nghiên cứu về nuôi động vật đã diễn ra hầu hết là được nghành công nghiệp này tài trợ, đã bị dìm đi với những vấn đề như thức ăn bị nhiễm bẩn và phương pháp nghiên cứu sai lầm tạo ra các kết quả vô giá trị.

Để chắc chắn, chúng ta chỉ cần quay lại năm 2000 để thấy rằng mọi GMO là khác biệt và không phải tất cả đều an toàn để ăn. Năm đó ngô biến đổi gen “StarLink” – không được chấp nhận sử dụng cho người – được thu hồi sau khi chúng được phát hiện trong các sản phẩm từ ngô và có thể tạo ra nhiều tác động tiêu cực tới sức khỏe của con người. 

Tại sao chúng ta lại ủng hộ việc xuyên tạc mối lo ngại về GMO thành dấu hiệu cho thấy sự thiếu kiến thức khoa học của ai đó? Bởi vì một nhóm các nhà khoa học và truyền thông đại chúng được lựa chọn nói với chúng ta như vậy. Ngay cả Jon Stewart cũng ủng hộ tuyên truyền đơn giản này trong một phần của chương trình Daily Show được phát sóng vào ngày 22 tháng 4 năm 2015. Trong đó, ông ấy có một nhà khoa học nông nghiệp ủng hộ biến đổi gen phản đối các nhà hoạt động chống GMO. Ai sẽ được coi là đáng tin cậy hơn? Trái ngược với bản báo cáo dường như cân bằng, chương trình của Stewart ủng hộ quan điểm của những người cung cấp sản phẩm này hơn quan điểm của những người nghiên cứu về tác động của chúng. Điều cần được làm sáng tỏ khi nói về rủi ro công nghệ đầy tranh cãi này là loại nhà khoa học nào có tiếng nói và loại nào không.

Nghiên cứu cho thấy các nhà khoa học phía đầu nguồn – như các lĩnh vực công nghệ sinh học, kỹ thuật viên nông nghiệp, hoặc bất cứ nhà khoa học nào tạo ra công nghệ - ít quan tâm đến những rủi ro tiềm tàng hơn là những nhà khoa học phía cuối nguồn – như các lĩnh vực chăm sóc y tế công cộng, dịch tễ học và giải độc môi trường. Đâu là tiếng nói của các nhà khoa học phía cuối nguồn trong Daily Show? Tôi có mối quan hệ cá nhân với các nhà công nghệ sinh học, những người này nói với tôi rằng họ thậm chí không thừa nhận rủi ro hoặc các hậu quả không mong muốn của công nghệ GMO. Tôi cũng tham gia lớp giải độc học, tại đó các nhà khoa học phía đầu nguồn nói rằng ông ấy và đồng nghiệp không bao giờ tưởng tượng được sự phát triển nhanh chóng và dữ dội của siêu cỏ dại đáp lại ngũ cốc biến đổi gen kháng thuốc diệt cỏ của Monsanto (và sự sử dụng bừa bãi thuốc diệt cỏ). Trong khi đó, các nhà nghiên cứu môi trường đã ngay lập tức dự báo về siêu cỏ dại kháng thuốc diệt cỏ mà các chuyên gia nông nghiệp không biết đến. 

Báo cáo của Jon Stewart về GMO cũng ghi nhận khảo sát mới đây của Pew cho thấy 88% số nhà khoa học được đại diện bằng các thành viên của Hiệp Hội Tiến Bộ Khoa Học Hoa Kỳ (AAAS) – tin rằng GMO là an toàn. Điều mà cả Stewart cũng như Pew không đề cập là bao nhiêu trong số những nhà khoa học đó thành thạo về công nghệ GMO. Mặc dù chúng được đưa vào nguồn cung cấp thực phẩm của Hoa Kỳ vào đầu những năm 1990, giống như hầu hết công chúng và nhà khoa học, đặc biệt là những nhà khoa học có chuyên môn trong những lĩnh vực hoàn toàn khác, biết rất ít về GMO trước năm 2008. Đó là năm mà phim tài liệu “Food Inc.” cho người Mỹ thấy điều mà người Châu Âu và những nước khác trên thế giới đã biết về công nghệ GMO. Liên Minh Châu Âu và các quốc gia khác đã cấm GMO theo nguyên tắc phòng ngừa, hầu hết các quốc gia Châu Âu hiện nay đối mặt với sự phổ biến toàn cầu của Monsanto vẫn tiếp tục cấm công nghệ này. 

Dĩ nhiên 20% số nhà khoa học trong khảo sát của Pew làm việc trực tiếp hoặc gián tiếp về công nghệ biến đổi gen – hoặc phía đầu nguồn hoặc phía cuối nguồn. Nhưng khoa học, cũng giống như các ngành công nghiệp khác, là một cấu trúc xã hội. Vì mục tiêu thăng tiến và duy trì quan hệ với cộng đồng lớn hơn, các nhà khoa học có khuynh hướng ủng hộ các nhà khoa học khác – đặc biệt là những nhà khoa học có tiền và uy tín. Các nhà khoa học phía cuối nguồn phải tạo ra các nghiên cứu không tì vết, chặt chẽ, không thể gây tranh cãi – thậm chí khi họ thực hiện, họ bị cỗ máy quan hệ công chúng có mặt khắp nơi tra hỏi. Các nhà khoa học phía cuối nguồn không phải là một phần lớn của cộng đồng. 

Hãy xem xét khảo sát đã được đề cập của Pew cụ thể hơn: 11% số nhà khoa học không đồng ý về sự an toàn của GMO là các nhà khoa học phía cuối nguồn, đã nghiên cứu hoặc cố gắng nghiên cứu tác động của chúng. Có thể khoảng 10% số nhà khoa học cho rằng GMO an toàn đang phát triển công nghệ này. Có thể 78% cho rằng GMO an toàn có thể hoặc không có kiến thức sâu sắc về GMO, mà chỉ lặp lại lời của đồng nghiệp. Trên thực tế, như Ralph Nader mới đây đã đề cập, ba cựu chủ tịch của AAAS có quan hệ với Monsanto và/hoặc ngành công nghệ sinh học. Các nhà khoa học phía đầu nguồn tạo ra công nghệ sinh học và AAAS không phải là nguồn thông tin khách quan, bất kể chúng ta muốn hay không muốn có họ. 

Cốt lõi trong hùng biện mới của Mosanto là sự ngưỡng mộ công nghệ và vị thế của khoa học trong xã hội của chúng ta. Mặc dù vậy, khoa học và công nghệ không tương đương. Khoa học là nghiên cứu có hệ thống về kiến thức, trong khi công nghệ là ứng dụng các kiến thức đó – cho việc tốt hoặc việc xấu. Khoa học và công nghệ thường xuyên bị công chúng và các nhà khoa học trộn lẫn với nhau. Không quá khi nói rằng các nhà khoa học công nghệ phía đầu nguồn được ưu tiên và ưa thích trong khi các nhà độc học phía cuối nguồn và những người khác luôn bị theo dõi và quấy rầy bởi vì họ đe dọa ngành công nghiệp này. (Xem tiến sĩ Tyrone Hayes, Ignatio Chapela và Gilles-Éric Séralini, là một số ví dụ phổ biến về việc tấn công các nhà khoa học phía cuối nguồn.) Trong khi khoa học phía cuối nguồn, có thể chỉ ra những sự thật kinh hoàng về nguy hiểm, có thể là khó chịu, khoa học phía đầu nguồn thường đầy những điều kỳ diệu và sự náo động của công nghệ. Sự trộn lẫn khoa học và công nghệ thường được ngành công nghiệp GMO khai thác để khuyến khích sự chấp nhận sản phẩm của họ với thẩm quyền về mặt khoa học. 

Chúng ta từng chứng kiến lịch sử vĩ đại của chấp nhận khoa học và đồng thuận về những công nghệ gây tranh cãi, với các tác động rất tai hại. Sự đồng thuận khoa học đó chào hàng về sự an toàn của liệu pháp thay thế hormone, DDT, DES, sử dụng vô tội vạ chiếu xạ tia x, benzene, asbestos, BPA và hút thuốc lá. Công trình sau này của Theo Colborn, một trong những nhà khoa học phía cuối nguồn đầu tiên phát hiện ra nguy cơ của các hóa chất ngăn cản tuyến nội tiết tổng hợp (đã được nhận là vấn đề sức khỏe công cộng nghiêm trọng), cách đây một thập kỷ đã từng bị coi là rác rưởi hay giả mạo khoa học. 

Trong tuần này, thượng viện Hoa Kỳ bỏ phiếu cho dự luật ngăn cản công chúng biết về GMO trong thực phẩm của họ. Dự luật H. R. 1599 đã được thông qua ở Hạ Viện, bị (các nhóm bảo vệ thực phẩm) gọi là “Luật DARK (Phủ Nhận Quyền Được Biết của Người Mỹ)”, sẽ bãi bỏ nhãn GMO trên nguồn cung cấp thực phẩm của chúng ta. Theo thói quen của ngành và chính quyền phục vụ cho thói quen ấy, đạo luật này được gán tên nhại chính thức theo kiểu Orwell là “Luật Dán Nhãn Thực Phẩm An Toàn và Chính Xác”, mặc dù đạo luật không liên quan. 

Từ những phán quyết khoa học sai lầm trong lịch sử, chúng ta không nên chịu sự áp bức, phải chấp nhận mù quáng một công nghệ đáng ngờ. Như hiện nay, GMO không mang lại gì cho xã hội ngoài việc làm đầy túi tiền của những người khổng lồ hóa chất nông nghiệp tỷ dollar đang sản xuất ra chúng. Chúng không phải nạn đói không thể tránh khỏi, chúng không gia tăng sự bền vững của môi trường; lợi ích công cộng bị thổi phồng của chúng chưa được hiện thực hóa. Câu hỏi về giá trị khoa học và xã hội của chúng – và rủi ro – mang tính quyết định khoa học trong cốt lõi của vấn đề. Ít nhất là công chúng có quyền được biết rõ về thực phẩm mà họ ăn. Mọi thứ khác đều là sự xâm phạm quyền của người dân Mỹ và trên hết, tự bản thân chúng là phản khoa học.

Kristine Mattis received her PhD in Environmental Studies. As an interdisciplinary environmental scholar with a background in biology, earth system science, and policy, her research focuses on environmental risk information and science communication. Before returning to graduate school, Kristine worked as a medical researcher, as a science reporter for the U.S. Congressional Record, and as a science and health teacher. She can be reached at: k_mattis@outlook.com.

Friday, June 12, 2015

Monsanto và sự chinh phục Ấn Độ

Giấc mơ cây trồng biến đổi gien đang trở thành ác mộng ở Ấn Độ, nhưng Colin Todhunter trong bài "Monsanto and the Subjugation of India" cho chúng ta biết rằng chính quyền Ấn Độ vẫn ủng hộ cây trồng biến đổi gien bất chấp mọi sự phản đối và các bằng chứng rõ ràng về tác động tiêu cực của GMO. Tác giả giải thích bằng âm mưu thống trị của Hoa Kỳ, nhưng thực tế đó là cách chủ nghĩa tư bản phát triển, ngoài sự phát triển bằng tàn phá và phá sản, chủ nghĩa tư bản không biết đến cách nào khác.

Monsanto và sự chinh phục Ấn Độ

Sau khi nghiên cứu GMO trong thời gian hơn 4 năm, ủy ban đại diện nông nghiệp đa đảng của quốc hội Ấn Độ đã khuyến nghị cấm cây lương thực biến đổi gien do chúng không có giá trị gì ở đất nước của những nông dân nhỏ. Tòa án tối cao chỉ định một ủy ban chuyên gia kỹ thuật (TEC), ủy ban này đề xuất trì hoãn vô thời hạn việc thử nghiệm thực địa cây trồng biến đổi gien cho đến khi chính quyền đặt ra các quy định phù hợp và cơ chế an toàn. Mặc dù vậy, không có cơ chế nào xuất hiện, việc thử nghiệm thực địa vẫn được tiếp tục. Cây trồng biến đổi gien được chấp nhận thử nghiệm thực địa bao gồm gạo, ngô, đậu Hà Lan, cà tím.

Cây trồng biến đổi gien thương mại duy nhất hiện nay có mặt ở Ấn Độ là bông Bt. Sự thành công trong việc vận động ủng hộ cây trồng biến đổi gien thật khó tin.

Pushpa M Bhargava là giám đốc sáng lập của Trung Tâm Sinh Học Tế Bào và Phân Tử ở Hyderabad, Ấn Độ. Viết trên tờ Hindustan Times, ông khẳng định rằng

*Bông Bt không thành công ở Ấn Độ. Chúng chỉ thích hợp ở khu vực ẩm ướt chứ không phải ở khu vực nhiều mưa chiếm tới 2/3 diện tích đất canh tác bông của quốc gia.

*Trong số 270.000 nông dân đã tự tử, nông dân trồng bông Bt chiếm số lượng đáng kể.

*Ở Andhra Pradesh, hàng ngàn gia súc đã chết khi ăn phần còn lại của cây bông sau khi bông đã được thu hoạch.

*Các loại sâu bọ kháng bông Bt tăng lên sau nhiều năm. Đáng chú ý là sự gia tăng số lượng của sâu bọ thứ cấp như bọ mạt.

*Đất trồng cây bông Bt sau một thời gian dài thì không thể trồng được bất cứ loại cây nào khác.

*Khoảng 90% các nước thành viên của Liên Hiệp Quốc, bao gồm hầu hết các nước Châu Âu, đã không chấp nhận cây trồng biến đổi gien hoặc dán nhãn cho thực phẩm biến đổi gien.

*Có hơn 500 nghiên cứu được các nhà khoa học trung thực, không có xung đột lợi ích, công bố về tác hại của cây trồng biến đổi gien đối với sức khỏe của con người, động vật và thực vật, cũng như đối với môi trường và đa dạng sinh học.

*Mặt khác, dường như mọi bài báo ủng hộ cây trồng biến đổi gien đều do các nhà khoa học có xung đột về lợi ích hoặc sự trung thực hay uy tín đáng ngờ công bố.

*Lập luận rằng chúng ta cần công nghệ biến đổi gien để nuôi sống dân số đang gia tăng của Ấn Độ là ngụy biện. Ngay cả với năng suất thấp, có thể tăng lên, Ấn Độ hiện giờ vẫn sản xuất ra đủ ngũ cốc để đáp ứng các nhu cầu của đất nước.

*Ấn Độ có thể tăng gấp đôi sản lượng lương thực bằng sử dụng các công nghệ không biến đổi gien như nuôi dưỡng phân tử.

*Một số lượng nhỏ kiểm nghiệm độc hại đã được thực hiện ở những nơi canh tác cây lương thực biến đổi gien. Bất cứ khi nào các kiểm nghiệm được thực hiện, thực phẩm biến đổi gien đều cho thấy sẽ dẫn đến ung thư.

Quay lại năm 2003, sau khi nghiên cứu mọi khía cạnh của cây trồng biến đổi gien, các nhà khoa học hàng đầu từ nhiều quốc gia trong Nhóm Khoa Học Độc Lập đã kết luận

“Cây trồng biến đổi gien không đáp ứng được hứa hẹn về lợi ích và tạo ra các vấn đề gia tăng đối với nông nghiệp. Sự lây nhiễm biến đổi gien hiện giờ đã được thừa nhận là không thể tránh khỏi và do đó không thể có sự đồng tồn tại giữa nông nghiệp biến đổi gien và không biến đổi gien. Quan trọng hơn hết, cây trồng biến đổi gien chưa được chứng minh là an toàn. Trái lại, các bằng chứng cho thấy sự lo ngại nghiêm túc về tính an toàn, mà nếu bỏ qua thì có thể gây ra những thiệt hại không thể bù đắp đối với sức khỏe và môi trường. Cây trồng biến đổi gien cần phải được từ chối thẳng thừng ngay.

Trong một ghi nhận tương tự, viết trên tờ The Statesman, Bharat Dogra trích dẫn giáo sư Susan Bardocz:

“Biến đổi gien là công nghệ không thể đảo ngược trong lịch sử nhân loại. Khi cây trồng biến đổi gien được giải phóng khỏi tầm kiểm soát của chúng ta thì không có cách nào thu hồi chúng….”

Dogra cũng cho biết 17 nhà khoa học khác nhau từ Châu Âu, Hoa Kỳ, Canada và New Zealand đã viết thư cho cựu thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh để cảnh báo về “những rủi ro đặc biệt (của cây trồng biến đổi gien) đối với an ninh lương thực, hệ thống nông nghiệp và tác động an toàn sinh học là thứ không thể đảo ngược.” Lá thư này nói thêm:

“Quá trình biến đổi gien là sự đột biến cao độ dẫn đến sự sụp đổ cấu trúc gien và chức năng của cây chủ, gây ra rối loại quá trình sinh hóa của thực vật. Điều này tạo ra chất độc lạ và dị ứng cũng như làm giảm/thay đổi chất lượng dinh dưỡng.”

Viết trên tờ The Hindu, Aruna Rodrigues khẳng định rằng sự đồng thuận về tác động tiêu cực của cây trồng biến đổi gien trong nhiều báo cáo chính thống ở Ấn Độ là đáng chú ý.

Mặc dù vậy, Ấn Độ có vẻ như vẫn tiếp tục ủng hộ cây trồng biến đổi gien. Một sự ngạc nhiên nhỏ sau đó là Bhargava khẳng định rằng các cơ quan chính quyền trung ương của Ấn Độ hành động như những kẻ nghiện công nghệ biến đổi gien, dường như thông đồng với các công ty đa quốc gia bán hạt giống biến đổi gien.

Không có “dường như” về chuyện đó và sự thông đồng còn nhiều hơn cả cây trông biến đổi gien.

Mục tiêu của Ngân Hàng Thế Giới/IMF/WTO theo lệnh của các công ty nông nghiệp lớn và sự mở cửa của Ấn Độ đã được ghi nhận. Với sự trợ giúp của các chính khách ngoan ngoãn, các công ty đa quốc gia muốn đất đai của nông dân và sự tiếp cận không giới hạn thị trường Ấn Độ. Điều này kéo theo việc “tái cấu trúc” của xã hội Ấn Độ với khẩu hiệu hư ảo “tự do thương mại”, dẫn đến (và đang dẫn) sự phá hủy sinh kế của hàng trăm triệu người [xem đây, đâyđây]

Hơn nữa, Monsanto, Walmart và các doanh nghiệp lớn Hoa Kỳ khác ngồi trên bàn lãnh đạo khi Sáng Kiến Kiến Thức Nông Nghiệp được ký kết với Hoa Kỳ. Monsanto cũng thống trị công nghiệp bông ở Ấn Độ và có ảnh hưởng lớn đến chính sách nông nghiệp cũng như hình mẫu kiến thức thông qua việc tài trợ cho nghiên cứu nông nghiệp tại trường đại học và viện nghiên cứu công cộng: Họ chính là “Công ty Đông Ấn đương đại”.

Nếu cần các bằng chứng khác về việc sắp đặt nghị trình, Vandana Shiva sẽ chỉ ra những cánh tay đang vung lên để mở cánh cửa cho GMO vào Ấn Độ, nhiều chính khách đã bị gạt bỏ cho đến khi ô trống trên tờ giấy phép thử nghiệm thực địa của GMO được ký tên.

Những người như Shiva và Rodrigues đấu tranh, phản kháng hợp pháp hay đưa ra các biện pháp xây dựng bị báo cáo của Cục Tình Báo bôi nhọ, tác giả của báo cáo có vẻ như được nhiều công ty đa quốc gia tài trợ, họ đang tìm cách nhào nặn Ấn Độ theo cách của họ.

Bhargava khẳng định rằng 64% dân số Ấn Độ sinh sống bằng các hoạt động liên quan đến nông nghiệp. Do đó, bất cứ ai kiểm soát nông nghiệp Ấn Độ cũng sẽ kiểm soát đất nước. Đây chính là mấu chốt của vấn đề. Để kiểm soát nông nghiệp Ấn Độ, nền tảng của quốc gia, người ta chỉ cần kiểm soát hạt giống và hóa chất nông nghiệp. Monsanto và những người ủng hộ họ trong Bộ Ngoại Giao biết rất rõ điều này. Kiểm soát chính khách Ấn Độ là để kiểm soát Ấn Độ.

Chính sách đối ngoại Hoa Kỳ hầu như đã luôn dựa trên việc kiểm soát nông nghiệp:

“Chính sách đối ngoại Hoa Kỳ hầu như đã luôn dựa trên xuất khẩu nông nghiệp, chứ không phải là xuất khẩu công nghiệp như người ta thường nghĩ. Thông qua việc kiểm soát nông nghiệp và nguồn cung thực phẩm mà ngoại giao Hoa Kỳ có thể kiểm soát hầu hết thế giới thứ ba. Chiến lược cho vay địa chính trị của Ngân Hàng Thế Giới đã khiến nhiều quốc gia thiếu lương thực bằng cách thuyết phục họ trồng cây nguyên liệu – trồng cây xuất khẩu – thay vì nuôi sống bản thân với việc canh tác lương thực.” Giáo sư Michael Hudson

Chính sách đối ngoại Hoa Kỳ là về quyền lực và kiểm soát: quyền lực để kiểm soát lương thực, nhà nước và toàn bộ dân chúng.

Chính khách ở Ấn Độ và bất cứ đâu tiếp tục phớt lờ bằng chứng gắn liền với sự nguy hiểm của GMO. Họ là người hầu gái của lợi ích địa chính trị-doanh nghiệp của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ dựa vào các chính khách ngoan ngoãn ở nước ngoài. Điều này không chỉ quan trọng đối với các mục tiêu tiếp theo của Hoa Kỳ ở Ấn Độ mà còn cả ở những nơi khác nữa.

Colin Todhunter is an extensively published independent writer and former social policy researcher based in the UK and India.

Thursday, May 28, 2015

GMO và sự phá sản của Argentina

Ngay cả ở những nước có quy mô canh tác nông nghiệp lớn như Argentina thì việc phát triển các sản phẩm biến đổi gien cũng khiến họ phải đối mặt với nhiều vấn đề về môi trường và sức khỏe con người. Sau nữa, các sản phẩm biến đổi gien không phải là phương thuốc chữa trị cho đói nghèo, ngược lại, chúng gia tăng sự đói nghèo nhanh hơn, đó có lẽ sẽ là kinh nghiệm quan trọng cho Việt Nam khi xử lý vấn đề cây trồng biến đổi gien. 

Dưới đây là bản dịch chương 13 "In Argentina: Soybeans of Hunger" trong cuốn sách "The World According to Monsanto" của tác giả Marie-Monique Robin, bản tiếng Anh của George Holoch, nhà xuất bản New Press, New York, Hoa Kỳ, phát hành năm 2010.

Ở Argentina: Đậu nành đói khát

Sự gia tăng diện tích canh tác toàn cầu là bằng chứng về lợi ích của cây trồng kháng thuốc diệt cỏ, trong đó có các tác động môi trường tích cực.
—Monsanto, Báo cáo Cam kết, 2005

Đó là ngày 13 tháng 4 năm 2005, ở Buenos Aires, Miguel Campos khó có thể kiềm chế sự giận dữ. Trong nhiều tuần, bộ trưởng nông nghiệp, chăn nuôi, ngư nghiệp và thực phẩm Argentina đã tham gia vào một cuộc đấu tranh gay go với Monsanton. Kỹ sư nông nghiệp này không chỉ phản đối công nghệ sinh học, trái lại, ông được bổ nhiệm, cũng giống như những người tiền nhiệm khác trong 10 năm trước đó, chính xác là bởi vì ông là người ủng hộ vô điều kiện cho GMO. Trong suốt hai giờ đối thoại, ông thường xuyên tán dương lợi ích nông nghiệp và tài chính của đậu nành RR đồng thời cố gắng thuyết phục tôi rằng đạo đức của Monsanto tồi tệ đến mức không thể giải thích được.

“Monsanto chưa bao giờ có thể áp đặt bản quyền gien RR ở Argentina bởi vì luật pháp của chúng tôi không cho phép điều đó,” ông giải thích, nói một cách đầy thuyết phục. “Công ty đã đồng ý bãi bỏ phí bản quyền và hứa rằng không kiện những nông dân tái canh tác một phần vụ thoạch của họ, như họ đã làm, hoàn toàn hợp pháp. Giờ Monsanton lại nuốt lời hứa, đòi 3 dollar cho mỗi tấn đậu nành hoặc bột đậu nành xuất đi từ các cảng của Argentina, hoặc 15 dollar khi chuyến hàng cập bến ở các cảng của Châu Âu. Điều đó không thể chấp nhận được.”

Bắt cóc Argentina

Miguel Campos trông chán nản, giống như một học sinh giỏi bị giáo viên mà anh ta yêu quý đánh giá bất công. Nếu có quốc gia nào mà Monsanto có thể làm bất cứ điều gì mà họ muốn mà không có bất kỳ trở ngại nhỏ nào thì chắc chắn đó là Argentina. Khi Campos nói với tôi, một nửa diện tích canh tác của quốc gia này được trồng đậu nành biến đổi gen – 14 triệu ha và thu hoạch 37 triệu tấn đậu nành, 90% số đó được xuất khẩu, chủ yếu là sang Châu Âu và Trung Quốc. Nếu đạt được mục tiêu đã đề ra, Monsanto sẽ nhận được 160 triệu dollar mỗi năm chỉ riêng phần xuất khẩu sang Châu Âu – giải độc đắc.

“Ông không nghĩ rằng đó là cái bẫy?” Tôi hỏi.

Dường như Campos không chịu hiểu, “Một cái bẫy?” “Đầu tiên Monsanto tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc phổ biến đậu nành RR khắp đất nước, sau đó công ty yêu cầu anh trả tiền.”

“Nếu đó là chiến lược thì chiến lược đó là sai lầm. Anh không thay đổi luật chơi của 10 năm sau.”

“Ông sẽ trả tiền chứ?”

“Cuộc tranh chấp rất nghiêm trọng bởi vì Monsanto đe dọa sẽ tấn công lĩnh vực xuất khẩu của Argentina.” Trong một tuyên bố được tường thuật trên kênh tin tức Dow Jones vào ngày 17 tháng 3 năm 2005, Campos đã thẳng thừng lên án “thái độ giống như kẻ du côn” của Monsanto.

Mặc dù vậy, mười năm trước đây cuộc phiêu lưu biến đổi gien đã bắt đầu giống như chuyện cổ tích ở đất nước của gia súc và những người chăn bò này. Khi FDA cho phép bán đậu nành RR trên thị trường Bắc Mỹ năm 1994, Monsanto đã để mắt tới vùng đất phía Nam. Dĩ nhiên mục tiêu của họ là Brazil, nhà cung cấp đậu nành lớn thứ hai thế giới. Nhưng thỏa thuận khó có thể đạt được do hiến pháp Brazil yêu cầu cây trồng biến đổi gien phải trải qua các thử nghiệm ban đầu về tác động môi trường trước khi được cấp phép. Do vậy Monsanto chuyển hướng sang Argentina, chính quyền Carlos Menem, theo sự dẫn dắt của chính quyền Bush nhiệm kỳ đầu tiên, đã thường xuyên ủng hộ tự do hóa. Trong mười năm cai trị (1989-1999), Menem, người bị ra tòa vào tháng 11 năm 2008 vì tội buôn bán vũ khí trái phép, đã cố gắng hết sức để hoàn thành công việc đã bắt đầu dưới chế độ độc tài quân sự (1976-1983): ông ta vô hiệu hóa những gì đảm bảo cho Argentina là nhà nước phúc lợi, tư nhân hóa bất cứ thứ gì có thể và mở rộng cửa cho tư bản ngoại quốc. Chính sách này đã tàn phá khu vực nông nghiệp, các hàng rào bảo hộ bị dỡ bỏ để đặt toàn bộ sản xuất vào sự điều khiển của các quy luật của thị trường.

Monsanto đã chuẩn bị và thâm nhập qua lỗ hổng vào đầu những năm 1990, trở thành đối tác đặc quyền của Conabia, Ủy Ban Giám Sát Công Nghệ Sinh Học Nông Nghiệp Quốc Gia, do Menem thành lập vào năm 1991 để xây dựng luật pháp cho Argentina với sự xuất hiện của GMO. Ủy ban này, dưới sự giám sát của Bộ Nông Nghiệp, chỉ có vai trò cố vấn và có sự tham gia của các cơ quan công cộng, như Viện Hạt Giống Quốc Gia (INASE) hay Viện Công Nghệ Nông Nghiệp Quốc Gia (INTA) và tổ chức tư nhân trong công nghệ sinh học như Syngenta, Novartis và dĩ nhiên là Monsanto, sự can thiệp thường xuyên của họ không khó để hình dung. Các ý kiến của Conabia trực tiếp dựa trên các mô hình Bắc Mỹ; ngay từ đầu họ đã áp dụng nguyên tắc tương đồng về giá trị, như website của họ khẳng định: “Tiêu chuẩn của Argentina dựa trên đặc trưng và các rủi ro của sản phẩm công nghệ sinh học và không dựa trên quá trình sản xuất.” Cụ thể hơn, ủy ban không làm gì ngoài việc phân tích các dữ liệu do các tập đoàn đa quốc gia cung cấp; nếu các kiểm tra được triển khai, mục đích duy nhất của chúng là đánh giá khả năng áp dụng hạt giống biến đổi gien trong các điều kiện nông nghiệp của Argentina.

Vào năm 1994, Monsanto bán giấy phép cho các công ty hạt giống chủ chốt của quốc gia này như Nidera và Don Mario, họ đã cấy gien kháng thuốc diệt cỏ Roundup Ready cho các giống trong danh mục của họ. Một sự trùng hợp tình cờ, hai tờ tạp chí lớn nhất nước, Nación và đặc biệt là Clarín (có số lượng phát hành lớn nhất nước), nhảy vào xúc tiến – một số người gọi là tuyên truyền – công nghệ sinh học, chụp mũ những người phản đối, thậm chí cả những người ôn hòa nhất, là những kẻ cuồng tín phản tiến bộ hoặc những kẻ lạc hậu, theo lời của cựu bộ trưởng Nông Nghiệp Dan Glickman* dưới thời Bill Clinton. Hàng sa số các bài xã luận ca tụng cuộc cách mạng công nghệ sinh học với các lập luận gợi nhớ đến những điều đã được một công ty cụ thể ở Missouri trình bày: “Với GMO, khoa học đã có một đóng góp quyết định vào cuộc chiến chống lại nạn đói,” ví dụ như tuyên bố của Carlos Menem trên một tờ báo nông nghiệp.1 William Kosinski, “nhà đào tạo công nghệ sinh học” của Monsanto khẳng định:

“Công nghệ sinh học đã tạo ra các vụ thu hoạch có chất lượng tốt hơn, năng suất cao hơn và một nền nông nghiệp bền vững bảo vệ môi trường.”2

“Việc nhập khẩu GMO vào Argentina đã diễn ra mà không hề có tranh luận công khai hay tranh luận ở quốc hội,” theo Walter Pengur, một kỹ sư nông nghiệp chuyên về cây trồng biến đổi gien ở trường đại học Buenos Aires mà tôi gặp ở Buenos Aires vào tháng 4 năm 2005.3 “Vẫn chưa có luật kiểm soát việc marketing của cây trồng biến đổi gien và xã hội dân sự, thậm chí chưa có mặt ở Conabia, vẫn bị đặt ngoài các quyết định. Sau khi chúng được cấp phép vào năm 1996, đậu nành RR được phổ biến khắp Argentina với một tốc độ chưa từng có trong lịch sử nông nghiệp: trung bình hơn tám trăm ngàn ha mỗi năm. Giờ đây chúng ta thấy sa mạc xanh đang nuốt chửng một trong những giỏ bánh mỳ lớn nhất thế giới.”




Hạt giống thần kỳ

Khi ra khỏi Buenos Aires về phía bắc, anh sẽ sửng sốt: chạy hết tầm mắt là đậu nành và đậu nành, điểm xuyết là những bãi cỏ với đàn bò lớn. Tôi ở đó vào tháng mùa thu phương nam, đúng vụ thu hoạch và con đường quốc lộ số 9 chật cứng những xe tải chạy qua lại giữa kho chứa đậu nành và các cảng của Río Parana. Đây là trái tim của pampas, đồng bằng huyền thoại của Argentina bao phủ 20% diện tích lãnh thổ quốc gia, 250.000 dặm vuông nằm ở phía nam khu vực Chaco, phía tây của Río Parana, phía bắc là Río Colorado và phía đông là dãy Andes. Cũng màu mỡ như vành đai ngũ cốc của Hoa Kỳ, llanura pampeana là một trong những vùng đất canh tác tốt nhất thế giới và từ thế kỷ 19 đã trở thành khu vực phát triển nông nghiệp thần tốc, trước khi GMO xuất hiện, cây trồng ở đây là ngũ cốc (ngô, lúa mỳ, kê), cây cho dầu (hoa hướng dương, lạc, đậu nành) cũng như rau cỏ và cây ăn trái, đó là chưa kể đến sản xuất sữa, thứ đã phát triển tốt trong khu vực  được coi là “bể sữa”. Trên phương diện quốc gia, pampas được coi là niềm tự hào của quốc gia, có khả năng sản xuất thực phẩm đủ cho 10 lần dân số của nó và do đó đủ cho xuất khẩu. “Canh tác nông nghiệp là phụng sự quốc gia,” đó là lời của một tranh cổ động ở lối vào trụ sở Hiệp Hội Nông Thôn Argentina.

Người đàn ông mà tôi gặp sau khi lái xe 5 giờ đồng hồ thuộc về một gia đình nông dân thực thụ với tầm nhìn hữu ích về nông nghiệp. Khoảng 40 tuổi, Héctor Barchetta canh tác 125,6 ha ở cách thủ đô Rosario của đế chế biến đổi gien 35 dặm. Một thành viên của Hiệp Hội Nông Dân Argentina, một hiệp hội có 17 ngàn nông dân nhỏ và vừa, ông thú nhận rằng ông đã “thất bại hoàn toàn”. Khi đi dạo trên các cánh đồng đậu nành RR đang chiếm tới 70% diện tích nông trại, ông kể với tôi câu chuyện về sự kỳ diệu đã biến thành ác mộng. Vào những năm 1990, ông đối mặt với một vấn đề mà mọi nông dân ở pampas đều bị ảnh hưởng: sự thoái hóa của đất canh tác do sự khai thác quá mức. Theo INTA, sản lượng thu hoạch đã giảm xuống 30%. “Chúng tôi không biết làm thế nào,” ông nói với tôi, “và đó là khi đậu nành RR xuất hiện. Đầu tiên, chúng là thực sự là hạt giống thần kì, bởi vì chúng tôi lại có sản lượng cao, với chi phí giảm và công việc ít hơn.” Trên thực tế, cũng giống như ở Hoa Kỳ, nông nghiệp biến đổi gien được phát triển với kỹ thuật “gieo hạt trực tiếp” (siembar directa), cho phép gieo hạt trực tiếp mà không cần cày xới đất, ngay trên những gì còn sót lại của vụ trước. Aapresid, Hiệp Hội Nông Dân Không Canh Tác Argentina, khuyến khích và cung cấp các hướng dẫn kỹ thuật, cũng giống như đồng nhiệm Hoa Kỳ, họ chịu ảnh hưởng lớn của Hiệp Hội Đậu Nành Hoa Kỳ (ASA).

Tập hợp của 15 nhà sản xuất lớn, Aapresid là tác nhân chủ chốt thúc đẩy đậu nành RR và là đồng minh trung thành nhất của Monsanto ở Argentina. “Kỹ thuật siembra directa là phần không thể tách rời của mô hình canh tác biến đổi gien,” theo nhà nông học Walter Pengue. “Trước hết nó dẫn đến sự hồi phục độ màu mỡ của đất canh tác thông qua sự gia tăng các thành phần hữu cơ do phế phẩm trên bề mặt cung cấp, đồng thời chúng cũng giữ nước. Kỹ thuật này không thể tách khỏi cái mà Monsanto gọi là “hành trang kỹ thuật”, hạt giống biến đổi gien và thuốc diệt cỏ Roundup được bán cùng nhau, công ty thể hiện kỹ năng tuyệt vời của họ bằng cách chuyển giao “hành trang” với giá chỉ bằng 1/3 so với ở Hoa Kỳ.” Trên thực tế, giá cả thấp đến mức các nhà sản xuất Bắc Mỹ, ngay cả khi họ được trợ cấp nhiều, đã kêu la trong một cuộc biểu tình chống lại “sự cạnh tranh không lành mạnh” này.

Barchetta là người đã đón nhận miếng mồi một cách nồng nhiệt. Ông nói với tôi, “Trước đây, để diệt cỏ dại thì tôi phải phun thuốc diệt cỏ bốn đến năm lần, nhưng với đậu nành RR thì chỉ cần hai lần là đủ. Sau đó, cuộc khủng hoảng bò điên đã khiến giá đậu nành tăng vọt và tôi đã ngừng canh tác ngô, lúa mỳ, hoa hướng dương và đậu lăng, giống như những người hàng xóm của tôi.” Châu Âu cấm các thức ăn gia súc có nguồn gốc động vật dẫn tới nhu cầu tăng vọt về đạm thực vật, trong đó có bột đậu nành. Giá đậu nành cao lịch sử, dẫn đến một cuộc đổ xô đi tìm vàng xanh ở pampas.

“Nhờ vào sự bùng nổ của đậu nành nên tôi đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng,” ông nói tiếp. “Mọi thứ được làm để bảo vệ nhà sản xuất. Trong khi lãi suất tăng vọt thì chúng tôi có thể nhận được “hành trang” của Monsanto và không cần phải trả tiền cho đến vụ thu hoạch”.

Vào năm 2001, Argentina ở bên bờ vực phá sản. Chính phủ Fernando de la Rúa bị buộc phải từ chức dưới sức ép của công chúng. Trong khi piqueteros – những người nổi dậy – chiếm đóng đường phố, sự nghèo khổ thống trị đất nước, 45% dân số sống dưới mức nghèo khổ. Bị trói buộc bởi khoản nợ nước ngoài khổng lồ, chính phủ Eduardo Duhalde và sau đó là Néstor Kirchner đã dùng đậu nành làm cứu cánh. “Đó là động lực của nền kinh tế,” theo Campos. “Nhà nước thu 20% thuế đối với dầu và 23% đối với hạt giống, khoảng 10 tỷ dollar [mỗi năm], mang lại 30% lượng tiền mặt quốc gia. Không có đậu nành thì quốc gia đã sụp đổ.”

Đậu nành bắt cóc đất nước

Cuộc khủng hoảng của Argentina là cơ hội để Monsanto thực hiện những khát vọng hoang dại của họ. Đậu nành RR lan ra từ pampas như lửa cháy rừng, lan sang phía Bắc đến các tỉnh Chalco, Santiago del Estero, Salta, và Formosa. Từ chỗ chỉ có 36.000 ha vào năm 1971, đậu nành đã lan ra 8 triệu ha vào năm 2000, 9,6 triệu ha vào năm 2001, 11,6 triệu ha vào năm 2002, và hơn 15,6 triệu ha vào năm 2007, chiếm tới 60% diện tích đất canh tác. Hiện tượng này thu hút sự chú ý tới mức có hội thảo về sojisación đất nước, một từ mới được tạo ra để chỉ sự tái cấu trúc sâu sắc ngành nông nghiệp, nhưng tác động tai hại của chúng sẽ sớm xuất hiện.

Đầu tiên, bất chấp những cuộc khủng hoảng tàn phá kinh tế quốc gia, giá đất đai tăng vọt, bởi vì chúng trở thành khoản đầu tư an toàn mang lại lợi nhuận đáng kể một cách nhanh chóng. Héctor Barchetta nói, “Ở vùng của tôi, giá của 0,4 ha đất tăng từ 800 dollar lên 3.000 dollar. Những nhà sản xuất yếu nhất đã bán sạch đất đai, dẫn đến sự tập trung sở hữu đất.” Trong vòng một thập kỷ, quy mô trung bình của nông trại ở pampas tăng từ 246,8 ha lên 531,2 ha và số lượng nông trại giảm xuống 30%. Theo một điều tra nông nghiệp của Viện Thống Kê và Điều Tra Quốc Gia (INDEC), 150.000 nông dân đã từ bỏ kinh doanh trong khoảng thời gian từ năm 1991 đến 2001, 103.000 người trong số họ rời bỏ sau khi đậu nành biến đổi gien bắt đầu được gieo trồng. Vào cuối giai đoạn đó, 6.000 chủ đất chiếm hữu một nửa diện tích đất canh tác của quốc gia, trong khi 15,6 triệu ha đã nằm trong tay người nước ngoài, một quá trình đã được gia tốc kể từ khi đó.

Theo Eduardo Buzzi, chủ tịch của Hiệp Hội Nông Nghiệp Argentina, “Chúng ta đã chứng kiến một sự mở rộng chưa từng thấy của kinh doanh nông nghiệp, nông nghiệp công nghiệp hóa hướng tới xuất khẩu, gây thiệt hại cho canh tác gia đình đang dần biến mất. Nông dân bỏ đi được thay thế bằng những người không thuộc về lĩnh vực nông nghiệp: các quỹ hưu trí hoặc các nhà đầu tư ném tiền của họ vào “bể hạt giống”, những người lao vào độc canh đậu nành RR, hợp tác với các doanh nghiệp đa quốc gia như Cargill và Monsanto, tất cả đều với tổn thất của cây lương thực.”

Khi đậu nành RR tiếp tục phát huy sức mạnh không thể kháng cự của chúng, biến giỏ bánh mỳ của thế giới thành nhà sản xuất thức ăn gia súc cho thị trường Châu Âu, các nhà sản xuất thực phẩm teo lại với tốc độ cực nhanh. Theo số liệu chính thức, từ năm 1996-97 đến 2001-2, con số tambos (nông trại sữa) giảm đi 27% và lần đầu tiên trong lịch sử, Argentina đã phải nhập khẩu sữa từ Uruguay. Tương tự, sản xuất gạo đã giảm 44%, ngô giảm 26%, hạt hướng dương giảm 34% và thịt lợn giảm 36%. Cùng với sự biến động đó giá các sản phẩm tiêu dùng thiết yếu đã tăng liên tục: ví dụ vào năm 2003, giá bột mỳ tăng 162%, giá đậu lăng – thành phần quan trọng trong bữa ăn của quốc gia – tăng 272% và giá gạo tăng 130%. Theo Pengue, “Người Argentina trung bình ăn ít hơn 30 năm trước đây. Điều nực cười là chúng ta được khuyến khích thay thế sữa bò và thịt bò, một phần của thực đơn quốc gia, bằng sữa đậu nành và bít tết đậu nành.”

Bình luận của Pengue không phải là chuyện khôi hài mà là mô tả hiện thực. Ở một quốc gia mà  dulce de leche (kẹo sữa) và carne de vaca (thịt bò) là các thành phần quan trọng của di sản văn hóa, bộ trưởng bộ nông nghiệp Miguel Campos nhanh nhảu giới thiệu cho anh địa chỉ của một nhà hàng sojero ở Buenos Aires. Ông ấy ca tụng sự hào phóng của chương trình Soja Solidaria được Aapresid phát động năm 2002, để “giúp đỡ” 10 triệu người bị suy dinh dưỡng, trong đó có 1/6 là trẻ em, theo cách của họ. Ý tưởng rất đơn giản: “Trích ra 1 kg đậu nành từ mỗi tấn xuất khẩu.” Chương trình được các hãng truyền thông chủ chốt ủng hộ, nhanh chóng giới thiệu Soja Solidaria như là một “ý tưởng tuyệt vời sẽ thay đổi lịch sử.”4 Héctor Huergo, biên tập viên của tờ Clarín Rural, đã khuyến nghị chính quyền “thay thế các chương trình phúc lợi xã hội hiện nay bằng một chuỗi các hoạt động đoàn kết mà không tốn phí nhờ vào mạng lưới phân phối đậu nành, một trong những thực phẩm hoàn hảo nhất chỉ mới được du nhập vào văn hóa của chúng ta.”5 Những người ủng hộ GMO tham gia một cách rộng rãi vào chương trình: nhờ vào dầu diesel miễn phí của Chevron-Texaco, các chuyến hàng đậu nành được chuyên chở đến hàng trăm ngân hàng thực phẩm và nhà ăn trường học ở các khu dân cư nghèo và ổ chuột, nhà tế bần, bệnh viện và tất cả các loại tổ chức từ thiện ở Argentina. Khắp đất nước, các cuộc hội thảo được tổ chức và các tình nguyện viên – đại học Thiên Chúa Giáo Córdoba gọi họ là “chiến sĩ đậu nành” – dạy cách nấu nướng, cách làm sữa, bánh hamburger và các loại thịt thay thế khác từ đậu nành. Ví dụ trên website nutri.com, người ta được thấy một chương trình đào tạo sáu ngàn người ở Chimbas, một tỉnh hẻo lánh của San Juan, cách “tiêu dùng đậu nành” và hàng ngàn tình nguyện viên đã đi khắp nơi để phân phối sữa đậu nành cho 12 ngàn trẻ em.

Khi Soja Solidaria tổ chức lễ kỷ niệm lần đầu tiên, Victor Trucco, chủ tịch của Aapresid, không che dấu sự hài lòng của mình. Ông viết trên tờ Clarín rằng, “Vào lúc này, chúng ta sẽ còn nhớ đến năm 2002 khi đậu nành được du nhập vào bữa ăn của người Argentina.”6 Ông đưa ra một bảng tổng kết: “Chúng ta đã đóng góp 700.000 tấn đậu nành, tương đương với hơn 600.000 pound protein giá trị cao, 8 triệu quart sữa, 5 triệu pound trứng hay 3 triệu pound thịt.” Thống kê dường như được thiết kế để cho thấy mục tiêu mà trang web của Soja Solidaria tóm tắt trong một câu: “Kế hoạch hỗ trợ việc phổ biến đậu nành” tại quốc gia này.7

Đậu nành nổi loạn: Tiến tới thoái hóa đất canh tác

Hôm đó, Walter Pengue sắp xếp chuyến viếng thăm Jésus Bello, một nông dân ở pampas đã trồng đậu nành RR từ năm 1997. Trong 7 năm, Pengue đã theo dõi một số nông trại trong vùng và kiểm tra cẩn thận sản lượng thu hoạch của họ. Ông nói, “Lúc đầu, tôi ủng hộ đậu nành biến đổi gen bởi vì tôi cho rằng với phương thức luân canh và sử dụng thuốc diệt cỏ một cách hợp lý, chúng có thể tốt cho môi trường và cho sổ sách của nhà sản xuất, do diệt cỏ chiếm tới 40% chi phí sản xuất. Nhưng giờ thì tôi rất lo lắng, bởi vì mọi thứ đều đang báo động đỏ.” Bello gật đầu đồng ý: “Chúng tôi đã lao đầu vào tường. Chúng tôi tiêu tốn ngày càng nhiều tiền và đất canh tác bị thoái hóa.” Bello, cũng giống như Héctor Barchetta ở cách đó hai trăm dặm, cũng phải đối mặt với vấn đề đang tồi tệ hơn mỗi năm: cỏ dại đề kháng thuốc diệt cỏ. “Trên phương diện nông học, điều đó đã được biết từ trước,” Pengue nói. “Trước khi đậu nành biến đổi gien được canh tác, nhà sản xuất sử dụng 4 hay 5 loại thuốc diệt cỏ khác nhau, một số rất độc như 2,4-D, Atrazine và Paraquat.** Nhưng sự luân chuyển các sản phẩm khác nhau ngăn chặn sự phát triển sức đề kháng đối với từng loại thuốc diệt cỏ. Hiện giờ, việc sử dụng quá mức Roundup vào mọi thời điểm trong năm đã dẫn tới sự xuất hiện của cỏ dại kháng thuốc diệt cỏ; để diệt loại cỏ dại đó thì cần phải tăng liều lượng thuốc diệt cỏ. Cỏ dại kháng thuốc diệt cỏ đã được thấy ở một số khu vực của pampas.”

“Quảng cáo thương mại của Monsanton về công nghệ Roundup Ready làm giảm việc sử dụng thuốc diệt cỏ là sai lầm?”

“Hoàn toàn sai lầm,” Bello nói. “Tôi phải phun thuốc diệt cỏ hai lần, lần thứ nhất sau khi trồng, lần thứ hai là hai tháng trước khi thu hoạch. Trước kia, tôi sử dụng chưa đến một lít thuốc diệt cỏ cho 0,4 ha; giờ thì tôi phải phun gấp đôi.”

Pengue nói thêm: “Trước khi đậu nành RR được trồng, người Argentina sử dụng trung bình 1 triệu lít thuốc diệt cỏ mỗi năm. Vào năm 2005, chúng tôi dùng tới 150 triệu tấn. Monsanto không phủ nhận vấn đề kháng thuốc diệt cỏ và thông báo về một loại thuốc diệt cỏ mới, mạnh hơn với thế hệ GMO mới, nhưng đó không phải là cách thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn này.”

Phí tổn đối với nhà sản xuất là rất lớn. Đã qua rồi cái thời, để kích cầu, Monsanto giảm giá tới 2/3 cho thuốc diệt cỏ của họ. Giá cả nhanh chóng trở lại bình thường, khiến cho các nhà sản xuất quay sang các loại thuốc diệt cỏ phổ thông (chủ yếu là Trung Quốc) ngay khi bản quyền của công ty hết hạn vào năm 2000. Nhưng cùng lúc đó thì một vấn đề mới nổi lên dẫn đến các khoản chi phí gia tăng khác: đó là “đậu nành nổi loạn” ở Argentina (“các tình nguyện viên” ở Canada), cho thấy rằng ở Nam cũng như Bắc Mỹ thì cùng một nguyên nhân dẫn đến cùng một kết quả. Như ở Hoa Kỳ, Syngenta, đối thủ cạnh tranh người Thụy Sĩ của Monsanto, nhà chế tạo Atrazine và Paraquat, đã nắm lấy cơ hội: vào năm 2003, một trong những quảng cáo chủ chốt của họ tuyên bố, “Đậu nành là cỏ dại.”

Thêm vào đó, sử dụng tập trung Roundup có khuynh hướng làm đất đai cằn cỗi. “Tôi thường xuyên phải sử dụng khối lượng phân bón tăng lên, Bello thừa nhận. “Nếu không mùa màng sẽ thất bại.” Khó có thể kỳ vọng rằng thuốc diệt cỏ tiêu diệt mọi loại thực vật lại có thể bảo vệ hệ vi thực vật cần thiết cho sự màu mỡ của đất canh tác. Theo Pengua, “Sự biến mất của những vi khuẩn nhất định khiến đất đai bị trơ lỳ, ngăn cản quá trình phân rã và thu hút ốc sên không vỏ và nấm như fusarium.”

Trên hết, vào năm 2004 giá đậu nành bắt đầu giảm, tiếp tục cho đến năm 2005, tới mức khiến cho các nhà sản xuất như Bello và Barchetta lo lắng.*** “Chúng ta đang làm gì vậy?” Barchetta hỏi, đôi mắt của ông nhìn đăm đăm về phía thửa đất đang thu hoạch. “Trước kia, tôi canh tác 15 loại cây thực phẩm khác nhau; giờ tôi chỉ trồng đậu nành biến đổi gien. Có thể chúng tôi đã rơi vào bẫy. Có thể chúng tôi đang hy sinh Đất và tương lai của con cái.”

Thảm họa sức khỏe cộng đồng

Bác sĩ Darío Gianfelici bực bội khi lái xe dọc theo con đường: “Hãy nhìn này! Ngay cả các rãnh bên đường họ cũng trồng đậu nành. Khi họ phun thuốc diệt cỏ, anh cũng hoàn toàn chìm trong thuốc. Cơ quan sức khỏe công cộng của đất nước này hoàn toàn vô trách nhiệm.” Khi tôi gặp ông vào tháng 4 năm 2005, Gianfelici là bác sĩ ở Cerrito, một thành phố nhỏ với 5.000 dân cách  Paraná ba mươi dặm đường, ở tỉnh  Entre Ríos, ngay trung tâm của vương quốc đậu nành. Ở khu vực đã từng được chú ý về sự đa dạng nông nghiệp của pampas, diện tích canh tác đậu nành tăng từ 0,6 triệu ha vào năm 2000 lên gần 1,2 triệu ha ba năm sau đó. Trong cùng thời gian ấy, diện tích canh tác lúa giảm từ 148.000 ha xuống 51.200 ha.8 Ít nhất là hai lần một năm, máy bay phun thuốc hoặc mosquistos (thiết bị nông nghiệp được kéo bằng máy kéo để phun thuốc diệt cỏ với những cánh tay cơ khi dài có hình dạng như những chiếc cánh) dìm ngập khu vực với Roundup, thường xuyên đến tận cửa nhà, do đậu nành RR đã xâm chiếm toàn bộ khu vực.

“Điều đó giống như cơn sốt, một dạng bệnh dịch,” Gianfelici nói, đề cập tới món xúc xích cay chorizo, các bể chứa nước sốt cay nằm dọc theo vệ đường bởi vì chả còn chỗ nào để chứa khối lượng đỗ tương khổng lồ ấy. Bác sĩ trở thành nhà hoạt động chống GMO không phải xuất phát từ lý tưởng mà do ông lo lắng về sự tiến triển của các loại bệnh tật mà ông bắt gặp trong hoạt động chữa bệnh. “Tôi không biết là công nghệ sinh học nguy hiểm với sức khỏe cộng đồng hay không, nhưng tôi lên án sự tàn phá sức khỏe do phun thuốc Roundup với quy mô lớn gây ra, cũng như việc sử dụng quá mức đậu nành RR.” Ông đề cập tới sự độc hại của thuốc diệt cỏ và nhất là chất hoạt động bề mặt, chất này giúp cho thuốc diệt cỏ thấm vào thực vật, như polyethoxylated tallowamine. Ở Argentina, hiều hơn bất cứ nơi nào khác, quảng cáo của Monsanto đảm bảo rằng Roundup là “phân hủy sinh học” và “tốt cho môi trường” khiến cho mọi người không phòng ngừa khi phun thuốc, có nghĩa là chất đó lây nhiễm toàn bộ môi trường: không khí, đất canh tác và nguồn nước. Trong khi đó đại diện của nhà nước, Miguel Campos khẳng định một cách hoàn toàn hài lòng rằng “Roundup là loại thuốc diệt cỏ ít độc nhất”. Gianfelice nói rõ: “Một số đồng nghiệp trong khu vực và tôi đã quan sát thấy sự gia tăng đáng kể trong việc tái sản xuất ra các biến dị như sảy thai và chết bào thai đẻ non; rối loạn chức năng tuyến giáp, hệ thống hô hấp – như sưng phổi – thận và hệ thống nội tiết; các bệnh gan và da; nhiều vấn đề về mắt. Chúng tôi cũng lo ngại về tác động Roundup có thể gây ra khi thâm nhập vào cơ thể người ăn đậu nành, bởi vì chúng tôi biết một số chất hoạt động bề mặt gây rối loạn nội tiết. Chúng tôi đã quan sát thấy một số lượng đáng kể chứng hở tinh hoàn và hở niệu đạo **** ở bé trai, rối loạn chức năng hormone ở bé gái, một số có kinh nguyệt khi ba tuổi.

Chỉ có một số ít người như Gianfelici không ngại ngần lên tiếng chống lại các tác động phá hoại của chính sách đậu nành. Dĩ nhiên là các tổ chức như Greenpeace và các nhà sinh thái học cực đoan của tổ chức Grupo de Reflexión Rural đã lên án việc thương mại hóa GMO và chỉ ra những nguy cơ của công nghệ sinh học, nhưng họ chỉ nói với cái đầu gối. “Cùng với khủng hoàng, có hàng ngàn vấn đề khác,” theo Horacio Verbitsky, nhà báo của tờ nhật báo cánh tả Página 12, ông đã viết rất nhiều bài báo về đậu nành biến đổi gien. “Tôi thừa nhận rằng thậm chí tôi chẳng biết gì về chúng.” Điều ngạc nhiên là chương trình Soja Solidaria đã dẫn đến những cảnh báo hợp pháp đầu tiên – không phải là về GMO và là về nguy cơ đối với những đứa trẻ ăn quá nhiều sản phẩm từ đậu nành. Ví dụ vào năm 2002, Cosejo Nacional de Coordinación de Políticas Sociales tổ chức một diễn đàn về chủ đề có đề cập tới việc “sữa đậu nành không nên được gọi là “sữa” và nó không bao giờ có thể thay thế sữa.” Các chuyên gia về sức khỏe đã chỉ ra rằng đậu nành có ít calcium hơn sữa bò và sự tập trung cao độ của acid phytic ngăn sự hấp thụ kim loại như sắt và kẽm của cơ thể, gia tăng nguy cơ của bệnh thiếu máu.***** Trên hết, họ cực lực lên án việc cho trẻ em dưới 5 tuổi ăn các sản phẩm từ đậu nành, vì một lý do đơn giản: đậu nành rất giàu isflavone, có tác động như hormone thay thế đối với phụ nữ tiền mãn kinh và do vậy có thể gây ra sự mất cân bằng hormone đáng kể ở cơ thể đang lớn. ††

“Chúng tôi đang gieo trồng hạt giống của thảm họa sức khỏe cộng đồng,” theo Gianfelici, “nhưng đáng tiếc là nhà cầm quyền không chịu thừa nhận và bất cứ ai dám nói về điều đó cũng bị coi là một người điên rồ chống lại phúc lợi của quốc gia.”

Vào ngày đó, bác sĩ có cuộc hẹn ở trường học Thiên Chúa Giáo của một nữ tu người Đức. Tòa nhà kiểu thuộc địa nổi bật nằm giữa những thảm đậu nành khổng lồ. Nữ tu hiệu trưởng nói, “Tuần trước, họ phun Roundup ngay trước khi trời mưa. Sau đó ánh nắng làm bốc hơi. Nhiều học sinh bắt đầu nôn mửa và kêu đau đầu.” Bà yêu cầu cơ quan y tế tỉnh điều tra và họ xác định đó là một loại “virus”. “Họ đã phân tích nước nhưng không tìm thấy gì.”

“Họ có xem xét khả năng nhiễm độc do các sản phẩm hóa chất không?” bác sĩ hỏi.

“Không,” Angela, một giáo viên, trả lời. “Khi chúng tôi nhắc tới giả thuyết đó, họ phủ nhận ngay lập tức.”

Angela biết bà nói về chuyện gì. Bà sống trong một căn nhỏ có cánh đồng đậu nành bao quanh. Mỗi khi họ phun thuốc, bà bị đau nửa đầu dữ dội, buồn nôn, ngứa mắt và đau khớp. “Tôi đã nói với các kỹ thuật viên,” bà nói. “Điều duy nhất mà tôi được nhận lại là họ cảnh báo tôi khi chuẩn bị phun thuốc diệt cỏ và tôi rời khỏi nhà, cùng với gia đình, trong hai ngày. Họ đề nghị tôi bán căn nhà, nhưng tôi sẽ đi đâu? Đậu nành đáng giá hơn cuộc sống của chúng tôi.”


Đập đầu người khác vào tường

Khi tôi thấy cách Campos nổi nóng về câu hỏi liên quan đến các tác động đối với sức khỏe và môi trường của Roundup, tôi hiểu rằng đó không phải là đối tượng được chính quyền ưu tiên. “Một câu hỏi vinh dự của một phóng viên Châu Âu,” ông nói dứt khoát. “Mức độ sử dụng thuốc diệt cỏ của chúng tôi thấp hơn Pháp. Chúng tôi là quốc gia ít ô nhiễm nhất thế giới.”

Bộ trưởng bộ nông nghiệp rõ ràng là đã không đọc các tờ tạp chí của nước mình. Ví dụ, khi xem chúng, bạn sẽ thấy một thẩm phán mở cuộc điều tra ở Rosario, sau khi một cặp vợ chồng có nhà nằm ở giữa cánh đồng đậu nành khiếu nại. Con trai của họ sinh ra không có ngón chân ở bàn chân trái và nhiều vấn đề về tinh hoàn và thận.9 Tương tự, ở Córdoba, các bà mẹ trong khu dân cư Ituzaingó tổ chức biểu tình cộng đồng ngăn cản việc phun thuốc trên cách cánh đồng quanh đó, sau khi họ nhận thấy tỷ lệ bệnh ung thư bất thường, đặc biệt là ở trẻ em và thiếu nữ. Sự kiện gây ra một vài xáo trộn ở nghị viện trước khi mất hút trong hệ thống tư pháp hỗn độn. “Mọi thứ luôn như vậy,” nhà nông học Luis Castellán làm việc cho tổ chức phát triển nông nghiệp ở Formosa, miền bắc Argentina nói. “Bất cứ khi nào có vấn đề môi trường nghiêm trọng, anh không thể tìm được một chuyên gia nào sẵn sàng chống lại sự vận động hùng mạnh của đậu nành.” Castellán hiểu điều mà ông nói: vào tháng 2 năm 2003, các nông dân ở vùng nông thôn Colonia Loma Senés của tỉnh Formosa gần biên giới với Paraguay đã liên lạc với ông. Họ đã tìm kiếm vô vọng một chuyên gia để chứng nhận những thiệt hại mà việc phun thuốc Roundup và 2,4-D trên thửa ruộng rộng 30 ha bị “đậu nành nổi loạn” xâm thực đã gây ra cho cây lương thực của họ. Họ có một người hàng xóm sống ở Paraná, người này cho một công ty ở tỉnh Salta thuê đất, công ty này lại thuê một công ty khác để gieo hạt và phun thuốc.

Hoan nghênh đến với vương quốc của GMO! “Kỹ thuật viên” – thường là lao động công nhật không có đồ bảo hộ, tự đầu độc bản thân vì đồng lương chết đói – đến vào một sáng thứ bảy và phun thuốc cho tới sáng chủ nhật. “Hôm đó rất nóng và có gió mạnh trong vùng,” nông dân Felipe Franco canh tác 10 ha nhớ lại. “Thuốc diệt cỏ bay hơi rất nhanh và bị cuốn đi khoảng 365 m.” Hai mươi ba gia đình đang sống trong các căn nhà bằng gạch xỉ bị nhiễm độc. “Khi tôi tới đó, mắt của họ đỏ và họ có các vết lớn trên mặt và thân trên. Nhiều người bị đau đầu dữ dội và buồn nôn, phàn nàn về phát nhiệt và khô cổ.” Một số người không bao giờ khỏi, một bà già đã được chăm sóc 8 tháng ở Buenos Aires và vẫn phàn nàn về sự đau khớp và xương không thể chịu nổi. Khu dân cư yêu cầu cơ quan y tế tỉnh viết báo cáo, nhưng họ kết luận vệ sinh kém là nguyên nhân của mọi vấn đề. Các gia đình đưa đơn kiện ở tòa án El Colorado, nhưng vụ kiện bị từ chối vì không có báo cáo sức khỏe. Chỉ có Castellán đồng ý chuẩn bị một mô tả khoa học về những thiệt hại đối với cây trồng.

“Chúng tôi mất tất cả,” Franco nói. “Sắn, khoai lang, bông đều bị tàn phá. Gà và vịt chết; một số lợn nái bị sảy thai còn một số khác đẻ ra lợn con gầy nhẳng. Vào ngày phun thuốc, ngựa kéo cày bị tiêu chảy và ngã ra sàn; một số bị chết.”

Castellán chụp ảnh và lấy mẫu các cây trồng bị ảnh hưởng, ông đem chúng đi phân tích ở phòng thí nghiệm của trường đại học Littoral ở Santa Fé. “Tôi suy nghĩ rất nhiều trước khi tham gia vào việc này, bởi vì tôi biết là sẽ phải gánh rủi ro.” Ông thú nhận.

“Tất cả các nhà nông học của Bộ Kinh Tế và Sản Xuất đều từ chối, chúng tôi phải đối mặt với cảnh sát và các chính khách muốn chúng tôi im lặng. Một số người hàng xóm đã bỏ cuộc và chuyển tới các khu ổ chuột ở Formosa.” Franco xác nhận.

“Monsanton nói rằng đậu nành biến đổi gien có thể cùng tồn tại với cây lương thực. Ông nghĩ sao?” Tôi hỏi

“Điều đó là không thể, nhất là ở những khu vực như thế này, nơi những nhà sản xuất nhỏ bị các cánh đồng GMO lớn bao quanh. Nếu có điều gì đó tương tự xảy ra một lần nữa, tôi không biết bao còn bao nhiêu nhà sản xuất nhỏ sẽ tiếp tục ở lại.”

Franco tiếp tục: “Vấn đề cũng là mục đích của mô hình sản xuất này. Những người trồng đậu nành biến đổi gien chỉ có mục đích thương mại thuần túy; họ không sống ở nơi họ canh tác, do vậy họ không phải gánh chịu các thiệt hại liên đới. Còn chúng tôi sản xuất để sống. Chúng tôi chú ý tới môi trường và chất lượng của những gì sản xuất ra, bởi vì chúng tôi tiêu dùng chúng hoặc bán ở chợ. Công nghệ biến đổi gien không phục vụ cho nông dân mà là cho các doanh nghiệp kinh doanh, chủ của chúng sẵn sàng làm bất cứ thứ gì để trở nên giàu có.”

Trục xuất và phá rừng

Mili là một xã nông thôn nhỏ có 98 hộ gia đình sống trong khu vực bán khô hạn rộng 6.800 ha cách Santiago del Estero thuộc miền bắc Argentina 35 dặm. Anh đi đến đó bằng con đường đất đỏ đầy ổ gà, xuyên qua những đồng cỏ đuôi chồn, đây đó xuất hiện một số cây quebrachos, loại cây gỗ quý có nguy cơ tuyệt chủng. Phong cảnh đặc trưng của vùng Gran Chao, trải dài tới tận biên giới Bolivian.

“Ở đây, chúng đơn giản được gọi là el monte,” luật sư Luis Santucho của tổ chức nông dân Mocase nói, đó là khi tôi gặp ông vào tháng 4 năm 2005. “Trước khi GMO xuất hiện, chả ai thèm quan tâm đến vùng đất khốn khổ này, hàng ngàn nông dân nhỏ đã sống kiểu tự cấp tự túc trong vài thế hệ.” Santucho háo hức được gặp lãnh đạo của xã Milli, sự tồn tại của xã đang bị các nhà sản xuất đậu nành đe dọa, họ thường xuyên mở rộng phạm vi canh tác về phía bắc. Một năm trước chuyến viếng thăm, quan tòa địa phương đã xuất hiện với quân lính và máy ủi. “Đây là đất công, không có chứng nhận sở hữu, nhưng với tiền của đậu nành thì mọi mưu mẹo đều có thể.” Santucho giải thích. Các Sojeros đã thay đổi chiến thuật. Họ cố gắng chia rẽ cộng đồng bằng cách trả tiền mặt cho 10 ha của một số gia đình, những người đó do dự vì họ chưa từng thấy nhiều tiền như vậy.

“Điều này dẫn đến rất nhiều rắc rối, nhưng chúng tôi không chấp nhận, bởi vì đây là đất công, nó không thuộc về riêng bất cứ ai. Chúng tôi sẽ đi đâu? Cuộc sống ở đây thật sự vất vả, nhưng chúng tôi đủ ăn hàng ngày.” Gà, vịt và một gia đình lợn đen đang chạy quanh khoảnh sân đất nện. Đằng sau túp lều nhỏ gần rãnh nước là một con bò cái và một con ngựa đang ăn cỏ. Tất cả các gia đình đều trồng sắn, khoai tây và một khoảng nhỏ gạo hay ngô. “El monte là cách sống, nhưng sự đa dạng sinh vật và thực vật của nó đang bị đe dọa.” 

Tỉnh Santiago del Estero có đặc trưng đáng buồn là tỉnh có tỷ lệ phá rừng cao nhất thế giới. Mỗi năm trung bình có 0,81% rừng rậm bị đốn hạ, so với tỷ lệ trung bình thế giới là 0,23%. Ví dụ, từ năm 1998 đến 2002, 216.000 ha rừng đã biến thành khói và được thay thế bằng đậu nành RR.****** Từ năm 1998 đến 2004, gần 800.000 ha đã bị đốn hạ ở Argentina,” giám đốc phụ trách rừng của Bộ Môi Trường và Phát Triển Bền Vững Jorge Menéndez giải thích. “Tình hình đáng lo ngại đến mức tôi không ngủ được. Tất cả bosques natives [rừng nguyên sinh] đều bị đe dọa: chúng là các khu rừng rậm đa dạng sinh thái với hệ động thực vật có từ trước khi Châu Mỹ được phát hiện. Một số loài động vật như báo, báo đốm Mỹ, mèo Andes và heo vòi, không thể sống ngoài hệ sinh thái đặc biệt này. Nếu chúng ta không kiểm soát việc canh tác đậu nành, thiệt hại sẽ không thể sửa chữa được.”

“Chức năng của bộ có phải là xây dựng các luật lệ không?”

“Đúng, nhưng chúng tôi không có nhiều trọng lượng.”

Để thấy được quy mô của thảm họa, mọi người chỉ cần đi dọc theo con đường quốc lộ số 16 theo hướng Salta hoặc Chaco. Các thân cây thường được chất đống bên lề đường. Đôi khi khói đen bốc lên tiết lộ hoạt động của carboneros, hay những người đốt than, thường là các nông dân nhỏ đã bỏ đất đai và đáng bán sức lao động để kiếm sống.

Hoàn toàn cay đắng: bị sự hung bạo dồn đuổi, họ phải giảm đi để nuôi dưỡng chúng. Một lính canh kiểm soát lối vào khu vực. Tôi thuyết phục và anh ta cho tôi vào. Bốn bánh xe đi dọc theo con đường hoang vắng. Chạy dài hết tầm mắt là những bụi cây câm lặng, những thân cây sứt sẹo và các bụi rậm bị moi ruột. “Máy ủi,” Guido Lorenz thì thầm. Lorenz là nhà địa lý học người Đức của trường đại học Santiago del Estero. Cùng với Pedro Colonel, kỹ sư lâm nghiệp, ông thường xuyên đi quanh khu vực để đo lường phạm vi của tai họa. Chúng tôi tiến lại gần các lò đốt than. Những người đàn ông ám bồ hóng đang dỡ xe gỗ. Đâu đó có âm thanh của điệu tango. Ông trưởng nhóm giải thích rằng ông bị mất việc và tìm được công việc này, kéo dài ít nhất hai năm. Đó là dọn sạch khu đất 1.600 ha thuộc về con trai thống đốc của tỉnh Tucumán lân cận. Bản thân vị thống đốc đó cũng sở hữu hàng ngàn ha khác không xa đây. “Chúng tôi đốn hạ, đốt, sau đó trồng đậu nành,” người đàn ông nói.

Chúng tôi đi tiếp. Lorenz và Colonel đã nghe thấy tin đồn về một chiến dịch phá rừng bất hợp pháp rất lớn cách đấy một trăm dặm. Chuyện đó liên quan đến khu đất rộng 24.000 ha mà một nhà đầu tư mới giành được. Trên giấy tờ, luật pháp Argentina rất chặt chẽ: để có thể đốn hạ cây, chủ sở hữu phải xin giấy phép về tỷ lệ rừng được đốn hạ, phụ thuộc vào kiểu đất canh tác. Trong khu vực được xếp hạng “dễ tổn thương” này, con số có thể không quá 15%. “Nhưng một lần nữa, tiền của đậu nành đã dàn xếp mọi chuyện.” Colonel nói. Tham nhũng và thiếu trừng phạt đã để cho các máy ủi tự do san phẳng mọi thứ đến hết tầm mắt.

“Họ nói đang mở rộng nông nghiệp nhưng họ thực sự để lại phía sau một sa mạc,” Colonel tiếp tục. “Họ trồng đậu nành trong một hay hai năm, sau đó họ sẽ buộc phải bỏ đi. Sự màu mỡ của đất canh tác gắn liền với thực vật một ngàn năm tuổi; khi chúng biến mất, đất canh tác sẽ sớm bị thoái hóa.”

“Đây là môi trường dễ tổn thương, bởi vì chúng ta đang ở khu vực khí hậu khô hạn hoặc bán khô hạn,” Lorenz giải thích. “Việc phá rừng dẫn đến suy giảm dự trữ các tổ chức hữu cơ, khiến đất canh tác bị thoái hóa, do chúng mất khả năng giữ nước. Ở mức độ của toàn bộ hệ tuần hoàn nước, nước từ kênh mương gây ra ngập lụt ở các khu vực khác. Phá rừng là nguồn gốc của nước lụt bất thường mà chúng ta được chứng kiến gần đây ở tỉnh Santa Fé. Thêm vào đó, với kỹ thuật gieo trực tiếp, Roundup tồn lại trên bề mặt; khi mưa xuống, thuốc diệt cỏ tồn dư được dòng nước đưa đi xa và gây ô nhiễm ở các khu vực khác trong hệ tuần hoàn nước. Nước khiến các động vật có vú bị nhiễm độc khi uống và do vậy nhiễm vào sữa bò.”

“Bất hạnh thay, đó không chỉ là vấn đề sojeros,” Colonel nói. “Họ là các doanh nghiệp hoặc thương nhân lớn đến từ Santa Fé hay Córdoba và coi đậu nành như nguyên liệu thô. Một nhà thầu phụ gửi người với máy gieo trồng đến, một nhà thầu phụ khác gửi người với máy bay phun thuốc đến, và nhà thầu thứ ba đến cùng với máy liên hợp để thu hoạch đậu và mang chúng đi. Họ không sử dụng lao động địa phương, ngoại trừ khi họ đốn hạ cây.”

“Chúng tôi thật sự đang ở trong tình trạng khẩn cấp, nhưng không một quan chức nào hiểu điều đó,” Lorenz kết luận. “Điều này rất nghiêm trọng, bởi vì thiệt hại là không thể bù đắp được.”

Chú thích:

*Người ủng hộ GMO quan trọng nhất ở Argentina là Héctor Huergo, biên tập viên phụ san Clarín Rural.

**Cần phải nhắc lại rằng 2,4-D là thành phần của chất độc màu da cam; theo lý thuyết là bị cấm ở Liên Minh Châu Âu và Hoa Kỳ vào năm 2003. Atrazine bị cấm ở Liên Minh Châu Âu vào năm 2003. Còn Paraquat, cũng giống như Roundup, một trong những loại thuốc diệt cỏ phổ biến nhất thế giới, bị cấm ở Liên Minh Châu Âu vào ngày 10 tháng 7 năm 2007.

Chúng là Parietaria debilis, Petunia axilaris, Verbena litoralis, Verbena bonariensis, Hybanthus parviiflorus, Iresine diffusa, Commelina erecta, and Ipomoea sp.

***Sau khi đạt mức 230 dollar/tấn vào năm 2003, giá giảm xuống 200 dollar/tấn vào năm 2004, sau đó là 150 dollar/tấn vào giữa năm 2005. Nhưng vào năm 2006, có sự hồi phục ngoạn mục, đạt tới đỉnh cao vào năm 2007, chủ yếu là để chế tạo nhiên liệu sinh học.

****Cryptorchism là dị tật bẩm sinh như tinh hoàn hở; hypospadias là dị dạng niệu đạo (nó không dài tới đỉnh dương vật).

*****Phytates là hỗn hợp phốt pho liên kết với một số kim loại cụ thể, ví dụ như sắt, ngăn cản ruột hấp thụ chúng.

†† Thường được gọi là “phyto-estrogens,” isoflavones tương tự như estrogen của nữ giới.

******Trong cùng thời kỳ, 116.000 ha rừng ở tỉnh lân cận Chaco và 168.000 ha rừng khác ở tỉnh Salta đã bị đốn hạ.

1.    Ámbito financiero, Sec. Ámbito agropecuario, August 11, 2000, 4–5.
2.     La Nación, July 23, 2000.
3.     See Walter Pengue, Cultivos trnasgénicos: Hacia dónde vamos? (Buenos Aires: Lugar Editorial, 2000).
4.     Revista Gente, January 29, 2002.
5.     Ibid.          
6.     Clarín, January 11, 2003.
7.     www.sojasolidaria.org.ar (no longer accessible).
8.     La Nación, February 14, 2003.
9.     La Capital, March 25, 2005.