Monday, November 17, 2014

Lý giải hệ thống giai cấp của Mỹ

Bạn muốn biết người Mỹ nghĩ gì về đất nước mình? Bạn muốn hiểu sự giàu có đã sinh ra sự nghèo khổ ra sao? Hãy đọc Joe Bageant qua bản dịch "Understanding America's Class System"

Lý giải hệ thống giai cấp của Mỹ
Bóp còi nếu anh thích trứng cá muối

Giai cấp thượng lưu chính trị thì thế nào, hử? Năm triệu dollar cho lễ cưới của Chelsea Clinton, 15 ngàn dollar chỉ để thuê nhà vệ sinh có điều hòa nhiệt độ - những bé bi cỡ bự bằng thủy tinh và chrome với nước nóng và đủ mọi thứ. Những người đó không cần mang mặt nạ chống độc và mảnh giấy vệ sinh vuông nhợt nhạt nhỏ xíu.

Phải, thật choáng ngợp khi nhìn từ chỗ tồi tàn. Nhưng sự thật là khi chúng ta nhìn giai cấp thượng lưu chính trị, chúng ta thấy những con khỉ khiêu vũ, không phải là thợ đàn organ đang gõ nhịp điệu. Giai cấp chính trị Washington được moi lên từ dân thường giống như giai cấp cai trị được moi lên từ giai cấp chính trị. Ví dụ, họ không làm việc để sống bằng một công việc bình thường, mà kiếm tiền từ những thứ trừu tượng như đầu tư và luật pháp, cả hai thứ đó đều không làm ai bị sa ruột hay bị chứng ống cổ tay. Hay nói theo cách khác, giai cấp cai trị chả làm việc gì cả.

Trên phương diện tiền bạc, giai cấp chính trị Washington giàu hơn giai cấp lao động cũng cùng mức độ như giai cấp cai trị giàu hơn giai cấp chính trị. Điều đó tạo ra thứ gì đó để giai cấp chính trị phấn đấu. Cuối cùng, họ bắt chước các hành vi, khẩu vị và phong cách sống của giai cấp thượng lưu cai trị, và theo dõi các thành viên mới. Hơn nữa, quá trình lột xác bắt đầu với các trường đại học và liên hệ đúng đắn, đạt đến cực điểm khi chuyển tới Washington với đám sâu bướm trẻ trung tham vọng và đặc quyền đặc lợi nhất trong phần còn lại của thế hệ họ. 

Họ kiếm đủ tiền hoặc ít nhất phải giả vờ như vậy cho đến khi họ kiếm được. Năm mươi mốt trong số 100 thượng nghị sĩ Hoa Kỳ ít nhất là triệu phú – có vẻ như hơn cả mức đó, từ khi nhiều nhiều triệu dollar nhà ở và bất động sản được loại trừ khỏi các bảng kê khai chính thống. Ví dụ như trong nghị viện, giá trị tài sản ròng của Nancy Pelosi là 13 triệu hoặc 92 triệu dollar, phụ thuộc vào việc ai sẽ đếm. Việc họ không ngần ngại che dấu những con số lớn ấy là một điều huyền bí. 13 triệu, 92 triệu, sự khác biệt sẽ không thay đổi quan điểm của chúng ta về Nancy. Quan điểm của chúng ta là khoang đã đầy. Chật cứng luôn. Các thành viên tương đối nghèo của quốc hội, như Barney Frank, cũng gần triệu phú. Bảng kê khai của ông ta cho thấy giá trị tài sản ròng là 976 ngàn dollar. Suốt đời mình, tôi cũng không thể hiểu họ kiếm được bằng cách nào. 

Cùng với tập quán, giai cấp chính trị bắt chước các luật lệ và định kiến của giai cấp cai trị, nhất là điều cực kỳ cần thiết phải chấp nhận: Công chúng có trí tuệ tập thể của một con gà. Ok, điều đó rất khó phản biện vào lúc này, nhưng chúng ta phải duy trì tối thiểu là một chút bình đẳng bề ngoài chứ. Đằng nào cũng vậy, như một nhóm, thượng lưu chính trị nghĩ, nhìn và hành động giống nhau, và hành động vì lợi ích của bản thân. Điều đó làm cho họ thành một giai cấp. 

Mặc xác giai cấp vô sản, chỉ cần đếm tiền

Giai cấp chính trị đứng giữa tất cả chúng ta ở đây và nhóm thiểu số nhỏ bé của giai cấp cai trị tuyệt vời ở đó, bất kể đó là chỗ khốn kiếp nào. Không cần phải liếc mắt. Anh không thể thấy họ từ chỗ chúng ta. Cực kỳ thuận tiện để phủ nhận sự tồn tại của giai cấp cai trị.

Mặt khác, anh không cần phải nhìn một con chó đang liếm bi để biết điều gì được sắp đến – hay không đến. Sổ sách theo dõi thành tích của giai cấp chính trị là sổ công khai. Khi lớp triệu phú làm đệm cho thượng lưu, những kẻ trả tiền cho các chiến dịch tranh cử của họ, thì họ hoàn thành công việc. Họ chấp nhận việc cắt giảm thuế khóa đối với người giàu của chính quyền Bush. Họ xóa bỏ tín dụng thuế trên đầu trẻ em cho các gia đình có thu nhập thấp hơn 20,000 dollar. Họ “cải cách” sắc lệnh về quyền thuốc men ra khỏi bảo hiểm y tế. Họ cải cách chăm sóc sức khỏe thành hàng trăm tỷ lợi nhuận tăng thêm của ngành bảo hiểm.

Mặc dù vậy, giờ khắc đẹp đẽ nhất của giai cấp chính trị Mỹ xuất hiện vào tháng 9 năm 2008 khi cỗ máy tài chính tham lam của các công ty đầu tư Mỹ quật lại. Đảng Dân Chủ và Cộng Hòa, đa số ý kiến của doanh nghiệp và nhà chế tạo Mỹ kết hợp thành một nỗ lực lưỡng đảng vĩ đại trong lịch sử nước Mỹ. Chẳng làm gì hết, chúng ta đều đồng ý, ngoài việc mua lại 700 tỷ dollar các khoản “đầu tư xấu”. “Nếu không”, họ tiên đoán, thế giới sẽ tận số. Có nghĩa là cái hệ thống lừa đảo Ponzi cấp quốc gia mà họ luôn bán cho người dân Mỹ như là kinh tế Mỹ cuối cùng sẽ tiêu tùng.

Trong trường hợp có bất cứ sự hoài nghi nào của những kẻ cùng khổ, công chúng được nhắc nhở về việc họ sẽ tổn thất ra sao – có lẽ là mất sạch. Sâu trong hầm chưng cất, nhân viên túi đen của Goldman Sachs cấp điện cho “kinh tế” với đủ “các công cụ tài chính” dễ bùng nổ để lấy đi mọi căn nhà của người lao động, hay các khoản tiết kiệm hưu trí, mà ngành dược phẩm đã hút cạn đến vạch báo động. Điều gì đó phải hoàn thành trước khi ngành chăm sóc sức khỏe gom sạch, và tái cấp vốn cho cuộc hành trình gia đình.

Vâng thưa ngài, đó sẽ là “sụp đổ hệ thống”, nhờ Chúa, và nếu anh cần bằng chứng, hãy nhìn vào cái cách mà cả George Bush lẫn Barack Obama cùng chấp nhận rằng một số công ty Mỹ quá lớn để phá sản, do đó đây là lúc công chúng phải tát nước ra khỏi thuyền. Cùng lúc, các nhà kinh tế học vương giả đều nhất trí là vụ “cứu trợ” này cần có 10 nghìn tỷ dollar ở đâu đó dưới chân tháp – một ngọn tháp rất thấp. Mọi thứ rất nghiêm trọng và chúng ta phải làm điều đó. Đúng không? 

Trong một sự phản ứng bất thường của nhận thức thông thường, công chúng Mỹ nói “vớ vẩn”, với tỷ lệ 3 hay 4 trên 1, tùy từng khu vực. Điều đó không gây trở ngại cho thượng lưu chính trị và kinh tế nhiều. Đám vô sản thì biết quái gì cơ chứ?

Tiếp đó, giai cấp sở hữu kinh tế và chính trị thay ngựa giữa dòng, sau khi nhận ra rằng có nhiều món lợi bất ngờ cho những nhân vật chủ chốt trong việc cứu trợ các ngân hàng và công nghiệp lớn. Điều đó vi hiến, nhưng khốn kiếp, đó là điều mà Tòa Án Tối Cao ủng hộ. Giai cấp vô sản lầm bầm và chăm chú vào các chương trình truyền hình về những giảng giải không bao giờ thành sự thật.

Dĩ nhiên, đối lập đảng phái trở thành thứ mà trong những ngày đó – lằn ranh đẫm máu của những con linh cẩu gầm gừ - bầu chọn Obama có nghĩa là GOP cần phải lên án tổng thống mới để thể hiện. Hay ít nhất ỉa vào Phòng Bầu Dục, và sau đó phàn nàn về ông ta. Hầu hết các gã Cộng Hòa giữ chức vụ trong năm 2008 đều buộc phải lập luận công khai chống lại “gói cứu trợ sai lầm”, “gói kích thích”, và vụ bảo lãnh khổng lồ. Bên cạnh đó, một số kẻ khác giương lên khẩu hiệu sặc sỡ về “thị trượng tự do tự điều chỉnh”, ít nhất là đủ rộng để GOP nấp đằng sau trong hậu trường, nơi những thỏa thuận thật sự luôn là nhát cắt. Đó là nơi các công ty vũ khí đề xuất hệ thống, sử dụng các nghị viên và tướng lĩnh làm đại diện bán hàng. Đó là nơi phải hiểu rằng, như John Kenneth Galbraith chỉ ra lúc gần cuối đời, khi đã đủ an toàn để nói sự thật, “cổ đông chỉ là vật phụ thuộc, ai đó cầm túi cho doanh nghiệp, cổ phần chỉ là chip sòng bạc của các quỹ đầu tư mạo hiểm và Phố Wall,” và đối với những gã khờ khạo tin rằng chúng đánh lừa được Giao Dịch Tần Suất Cao – hay là Lừa Đảo Tốc Độ Cao. (Cảm ơn độc giả Brent B. đã cho tôi biết điều này).

À, nhưng tôi đã lạc đề. Có gì mới không? Điều cốt yếu là sương khói đã tan, tiền bạc nằm trong két của giai cấp thống trị, và một trò chơi xoay chai tìm ra con tốt thí để giải trí cho đám đông những năm tới. Ngọn lửa công cộng trên quảng trường trung tâm quốc gia của truyền thông luôn thu hút đám đông. 

Boaaaaaa! Obama sẽ không cho chúng ta chơi

May mắn là, đối với cả hai đảng, không có cái gì được gọi là trí nhớ chính trị Hoa Kỳ. Linsay Lohan hẹn hò với bạn cai nghiện, vận động viên trượt tuyến Riley Giles, phải, điều đó có thể ghi nhớ. Đảng Cộng Hòa chấm dứt chuyện tương tự, như sự phản bội nhỏ bé dưới thời Bush và Clinton Sền Sệt – tốt thôi, điều đó có thể giống như là lịch sử Ai Cập cổ đại. Sự thật là cả hai đảng buộc các ngân hàng áp lãi suất cao đối với các khoản vay mua nhà cho những người không đủ điều kiện, bởi vì lạm phát giá nhà do sự phình ra của bong bóng sẽ mang lại hàng tỷ dollar cho các nhà đầu tư lơn, những kẻ biết khi nào phải thoát thân. Họ sẽ còn ở lại khi mọi thứ ổn và khi bong bóng vỡ, họ sẽ kêu gào về “quá lớn để sập”. Chính quyền vốn không trải đời để bán chịu kinh tế, sẽ nhét cho họ hàng đống tiền. Đó là thứ mà các chủ ngân hàng gọi là tình huống đôi bên cùng có lợi: đằng nào thì chủ ngân hàng cũng kết thúc với đống tiền. 

Cùng lúc, tầng lớp thượng lưu Cộng Hòa vẫn cần một miếng thịt bò với gã da đen mới trong chuồng, kẻ sẽ đá vào mông họ và vẫn được ưa chuộng vào lúc này. Kẻ tốt nhất họ có thể đồng hành với vụ cứu trợ mà họ đã được phép bỏ vào quá ít. “Obama sẽ không cho chúng ta chơi với ông ta. Boaaaa!” Dĩ nhiên là một màn tung hỏa mù, do ông ta làm đúng những gì họ sẽ làm, những gã Cộng Hòa chuyển cho chủ ngân hàng mọi tờ bạc mà người dân có và ngay cả khi khốn kiếp là họ không có, nhưng có thể thanh toán trong, ồ, 100 năm tới hay tới tận ngày tận thế, hỏa mù tan đi, bất cứ ai xuất hiện đầu tiên. 

Điều cuối cùng, không ai ở Washington tranh chấp quyền áp đặt chính sách của giai cấp thống trị. Trên hết, giai cấp chính trị đồng ý rằng với giả thuyết chủ chốt của giai cấp thống trị: Công chúng chả đếch biết gì, chưa bao giờ và không bao giờ. Thế nên tốt nhất là đừng có chọc tức công chúng, không phải vì công chúng có quyền lực gì (quyền lực là tiền ở Hoa Kỳ và giới thượng lưu đã nắm cả), mà bởi vì các quan chức dân cử sẽ phải trả lời những câu hỏi đần độn của những người như kiểu Đảng Trà. Hay những kẻ sùng bái Ron Paul. Gawd!

Howard, có thể làm ơn về nhà không

Nước Mỹ luôn có một giai cấp cai trị, và nó luôn làm những điều vớ vẩn với thế giới mà nó không nên. Nhưng ít nhất giai cấp cai trị trong quá khứ thú vị và đa dạng, bởi vì nhiều dạng người Mỹ khác nhau đã trở nên giàu có.

Anh có những gã Texas liều lĩnh trong “đấu giá dầu”. Anh có những quý tộc bông và thuốc lá miền nam tham lam nốc đẫy uýt ki ngô, mơn trớn danh mục đầu tư và cô hầu da đen của họ. Anh có các nhà công nghiệp và các nhà môi giới bất động sản ở California, Florida, các nhà tư bản tài chính ở Boston Brahmins và New York. Có buôn rượu lậu ở chỗ nhà đầu tư chứng khoán Joseph P. Kenedy, chưa nói tới Prescott Bush mang tài sản tài chính của phát xít chạy qua chạy lại hồi Thế Chiến II. Họ là sản phẩm của các nền giáo dục khác nhau, trong một số trường hợp, không có giáo dục. Họ tới từ nhiều khu vực, từ khi nước Mỹ vẫn còn có các khu vực văn hóa khác nhau, trước khi bị thống trị và phân tầng hoàn toàn cho hiệu quả tối đa của chủ nghĩa tư bản.

Bất kể họ từng là gì, họ hiếm khi đần độn. Tôi biết Howard Hughes, một người có thể đạo diễn một bộ phim, và chế tạo một chiếc máy bay lớn nhất từng được chế tạo, 200 tấn, hoàn toàn bằng gỗ vân sam, chưa nói tới áo lót dây nhỏ cho cô nàng ngực bự Jane Russel. Ngừng lại và ngẫm nghĩ về Bill Gates và những món tráng miệng không màu sắc ngày nay. Hầu hết làm anh nhớ những gã lãnh chúa trộm cướp.

Nghĩ rằng Tony Hayward làm điều vớ vẩn? 

Hiện giờ, anh luôn nghe thấy điều đó: 1% trên cùng của người Mỹ sở hữu nhiều của cải hơn 45% người Mỹ còn lại ở phía dưới cùng cộng lại.

Tôi hiếm khi gặp một người Mỹ nghĩ rằng điều đó tốt, và hiếm khi gặp ai đó hiểu tại sao giai cấp thống trị giàu như vậy. Đơn giản là bằng cách thường xuyên nuôi dưỡng một chính quyền lớn hơn và phức tạp hơn, tạo ra các phức hợp luật pháp và kỹ thuật để tháo tiền quốc gia và toàn cầu chảy vào túi họ, và che chở cho những con lừa đương nhiệm của họ. Kết quả là 3.000 trang đạo luật chăm sóc sức khỏe (định nghĩa từng phần bánh cho từng thượng lưu doanh nghiệp), hay 2.000 trang NAFTA với 9.000 mã thuế sản phẩm. 

Khi công chúng bị chôn vùi trong đống hỗn loạn của văn bản luật pháp, giao dịch máy tính, mô hình hóa, vân vân, rất dễ dàng để lập luận rằng thế giới đã trở nên phức tạp đến mức các kỹ năng và tư duy để vận hành hệ thống là rất hiếm hoi và những ai có chúng thì thực sự thiên tài. Những kẻ đang ngụp lặn trong thế giới lơ lửng trên cao, chúng ta phải trả cho họ cả đống tiền mà không bao giờ hoài nghi quyết định của họ. Đó là lý do chúng ta có những gã vô dụng bị lãng quên như Timothy Geithner (kẻ không bao giờ có một công việc phi chính phủ trong đời gã), điều khiển Ngân Khố và hàng ngàn gã vô dụng khác của Đế quốc, đủ loại dân ủy lập pháp tí hon, cho tới Alan Greenspans của thế giới đó – một lão già đánh khinh kiêu căng vụng về không bao giờ đủ trải đời nhưng hiểu quy tắc: Trông bí ẩn và phá tan bất cứ thứ gì chính quyền có quyền. 

Trên thực tế, sự lựa chọn tự nhiên của chủ nghĩa tư bản dành cho kẻ xoàng xĩnh là cái cách British Petrolem xử Tony Howard, một kẻ không mấy may mắn bị quăng ra khỏi thuyền với độc cái quần lót vào dòng thác truyền thông của nhận thức công chúng. Theo như tin tức, con kỳ giông sẽ nhận được 18 triệu dollar, cộng với tiền lương hưu hàng năm 1 triệu dollar, khả năng tước bỏ chúng tạo ra một bản tin đẹp đẽ che đậy cho sự cẩu thả, trộm cắp và hăm dọa của BP. Thế là công chúng gào thét và ném trứng vào gã bù nhìn, kẻ kiếm được 1,6 triệu dollar/năm và giờ ngồi trên du thuyền “cố gắng lấy lại cuộc đời của gã”. Có ai thực sự tin rằng Tony Hayward làm chuyện vớ vẩn? Ồ, có thể là một số tin tức chuyển nhượng của BP, sự “thu hút” của họ đối với doanh nghiệp khác hay thứ gì đó tương tự Enron, bán thanh lý đến từng mẩu sắt vụn cho doanh nghiệp lớn khác với giá thỏa thuận, trong khi mọi người đang theo dõi tiểu thuyết saga về tên tội phạm cổ trắng xoàng xĩnh, Ken Lay. Tôi nghĩ chúng ta đã học được. Doanh nghiệp không thể chuồn đi; họ chỉ luôn chích thuốc, hút sạch tiền từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Đám đông trước cửa 

Anh không bao giờ nghe thấy họ nói vậy, nhưng đám tân bảo thủ hiểu rằng họ có một vận đang đi xuống. Họ cũng biết rằng nếu họ muốn chia sẻ đồ ăn cắp của quốc gia, họ phải giành được trái tim và khối óc. Họ phải trông lễ độ và nghe có lý khi nhe răng và túm lấy cái ví của chúng ta. Hay nói cách khác, họ phải hiểu biết sắc sảo về chính trị và kinh doanh Hoa Kỳ - mặc dù cả hai chỉ là một.

Mặc dù vậy, hầu hết những gã tự do có giáo dục Mỹ, tin một cách đơn giản là trở thành tiến bộ sẽ mặc định làm cho họ thành những kẻ cứu rỗi đất nước – sự đúng đắn về đạo đức và trí tuệ trong mọi thứ. Bằng chứng là họ đọc nhiều hơn và suy nghĩ cở mở hơn hầu hết những gã bảo thủ, ngoại trừ khi đề cập đến vấn đề con gái họ hẹn hò với một gã thô lỗ tên là Ernst sống ở toa xe phía sau trung tâm thương mại. Họ là những người trong số giai cấp có học ở một quốc gia nổi tiếng với các trường học tồi tệ và đần độn, công chúng no nê và không hoài nghi. Giáo dục và tiếp cận giáo dục giờ là kẻ phân chia giai cấp căn bản của chúng ta. Cao học hiện giờ dành cho giới đặc quyền. Đặc quyền đó, hầu như là không liên quan đến chuyên môn hay sự nghiệp, là một tương lai phụ thuộc vào chính quyền. Tự do hay bảo thủ, cũng chả vấn đề gì mấy. Trên thực tế, phiếu bầu của giai cấp đặc quyền dễ tiên đoán hơn giai cấp lao động, người Hispanic hay da màu. 

Thế nên khi những gã tự do có giáo dục nhìn vào bản sao của tờ The Nation hay chương trình của Jon Stewart, họ thấy một cái nhìn ớn lạnh: Đám đông lực lưỡng vung vẩy túi trà và đòi cắt giảm thuế để trợ giúp cho các trường học và những cây cầu mới, Sarah Pralin trỗi dậy từ đám tro tàn trong chiến dịch của McCain để trở thành mục sư tối cao của bộ lạc thiếu bột cà ri, với một gã Mormon tên là Glenn Beck hô hào hàng triệu tín đồ chính thống chiếm đóng quốc gia. Họ cảm thấy điều gì đó thật sự tệ với nước Mỹ.

Ngay tức thì họ kết luận rằng người Mỹ sai lầm do sự lạc hậu, thiếu hiểu biết và giận dữ nhầm chỗ, và điều đó có thể giúp họ không tập hợp sau những tiêu chuẩn tiến bộ đang được phất lên. (Tôi không có tội trong suốt những năm qua, và tôi đang khôi phục nước Mỹ tự do, theo cách của tôi chứ không phải theo phe bảo thủ, nhưng hướng tới chế độ đĩ điếm, chính phủ của những con điếm. Ngôn ngữ thực. Tra google.). Không phải ngọn cờ tiến bộ đó được phất lên; những gã tự do Hoa Kỳ ném tiêu chuẩn 40 năm trước của họ đi để lao vào các công việc kỹ thuật dễ chịu, giảng dạy và hành chính trong chính quyền, trường đại học và tổ chức phi lợi nhuận. “À vâng”, họ rền rĩ, mọi người đã để chúng tôi sụp. “Họ hoàn toàn đáng ghê tởm!”, những gã tự do đồng ý. Họ vẫn đồng ý. Hãy đọc những bình luận trên tờ Hufftington Post hay Daily Kos.

Hay nhìn vào sự ngạo mạn đặc trưng của người miền trung nước Mỹ “bám chặt lấy Chúa và súng” của Barack Obama. Điều mà chúng ta làm. Mặc dù vậy, ngầm trong thông điệp của ông ta là cả Chúa và súng đều là cho thấy một giai cấp thất bại ngu dốt. Khi những đối thủ châm chích bình luận của ông ta, thì ông ta đã bao biện chúng bằng cách chỉ ra là ông ta đã nói “điều mà mọi người đều biết là sự thật”. Có nghĩa là mọi người trong giai cấp của ông ta, giai cấp tự do có giáo dục. Khó có thể tin rằng những người tiền nhiệm của họ là những người đàn ông và đàn bà tiên phong trong phiên tòa xử Scopes, ngày làm 8 tiếng, công đoàn, chống chủ nghĩa Mc Carthy, Cesar Chavez, quyền công dân cho người da màu.

Chó to ăn trước 

Tầng lớp cai trị nắm quyền lực thông qua bảo trợ cho cả hai đảng, những đảng cung cấp người ủng hộ. Họ bám sát hay theo dõi các lãnh đạo đảng của họ tương tự như mồi cá ép bám chặt lấy những con cá mập lớn, và cá thuyền hộ tống cá mập, hạnh phúc với phần thức ăn thừa. Cả hai đảng cung cấp các nhà hoạt động và các môn đệ với sinh kế, thông qua các chương trình hay lập pháp chỉ để làm cho người giàu giàu hơn.

Một ví dụ điển hình là nhà tâm lý học, tiến sĩ và nhân viên xã hội, những người khởi đầu quá trình về thuốc chống giảm đau hay ổn định tâm trạng của nửa quốc gia, một khái niệm làm những người hiểu rõ khái niệm nhà nước doanh nghiệp cực kỳ hốt hoảng. Họ làm việc nhờ vào tài trợ của chính phủ, hoặc nghiên cứu để xác định hành vi bệnh hoạn cần đến các dược phẩm tác động tâm lý mạnh mẽ.

Một sự ưa thích mới là ODD, sự rối loạn ương ngạnh phản kháng, trong đó trẻ con hành động giống như – đáng ngạc nhiên, đáng ngạc nhiên – những kẻ ngớ ngẩn trẻ mà trẻ con đôi khi có thể như vậy. Nổi loạn vị thành niên trở thành rối loạn tâm lý. Các dấu hiệu chuẩn đoán thông thường gồm có “thường xuyên cãi lại người lớn”, hành vi chưa từng thấy của trẻ vị thành niên cần đến thuốc chống tâm thần như Risperidone. Tác dụng phụ của Risperidone gồm thứ nhẹ như tiếng vo ve trong đầu, cương cứng khủng khiếp kéo dài hàng giờ, có khuynh hướng tiết sữa và tự tử. Phù!

Hãng dược phẩm lớn kiếm được thêm hàng tỷ dollar dưới danh nghĩa làm dịu đau khổ con người. Thực ra hàng triệu người đau khổ đã bị lãng quên, nhưng nếu là trường hợp này, sau đó là xã hội Hoa Kỳ đang chịu đựng. Không bao giờ sự đau khổ tâm lý mà xã hội chúng ta đang chịu đựng được công khai hỏi tới. Bởi vì câu trả lời là đại dịch hàng hóa công nghiệp tư bản chủ nghĩa, và khoa bệnh học tâm lý của nước Mỹ. Điều đó là tư vấn của Ngài Marx, người đã tiên đoán nhiều về điều đó, hay Arthur Barsky, người đã cập nhật định nghĩa về nó. 

Đối với người Mỹ, tự phán xét không phải rất hiếm, nguồn của môn bệnh học không tồn tại. Thiếu vắng trong tính cách quốc gia của chúng ta là tình yêu với hàng hóa công cộng, và trách nhiệm công dân tập thể đối với người khác. Nhưng nếu chúng ta thừa nhận trách nhiệm tập thể với các thành viên của xã hội, thì chúng ta phải giải quyết vấn đề giai cấp trong quốc gia này. Tốt hơn là kê đơn thuốc cho toàn bộ quốc gia. Để làm điều đó, anh cần một chính quyền lớn. 

Trong quá trình ấy, người đã giàu trở nên giàu hơn và các dân ủy còn lại của giai cấp trung lưu trở nên phụ thuộc hơn vào người giàu. Như biên tập viên và nhà văn bảo thủ Angelo M. Codevilla, chỉ ra trong một bài báo vào tháng 7 năm 2010: “Bằng đánh thuế và cắt xén hơn một phần ba những gì người Mỹ sản xuất ra, thông qua luật lệ cắm sâu vào đời sống Mỹ, giai cấp cai trị của chúng ta biến bản thân thành kẻ áp đặt giàu có và nghèo khổ”. Một phần ba là quá đủ để bỏ vào đĩa cân theo ý chí của họ. 

Hãy làm cho họ sững sờ với điệu foot work

Trong khi đó, đây là phần còn lại của chúng ta. Một đám đông lớn than vãn, những kẻ yêu gia đình, giống như chuyên gia và nông dân, tự do, yêu nước, những người kính chúa và những người theo tôn giáo bất đắc dĩ – những người vẫn tin rằng lao động vất vả là con đường đến thành công bất chấp bằng chứng, những người biết sự khác biệt bởi vì họ bán những chiếc xe đã qua sử dụng hay làm việc cho Bưu Điện Hoa Kỳ - những công dân hoài nghi hợp lý rằng thuế khóa của chính quyền chỉ để nuôi dưỡng những con quái vật, hay những người tin rằng, một lần nữa hợp lý, không có chính khách nào thật sự đại diện cho lợi ích của họ, và chính quyền giờ là công việc thiết kế xã hội cho mục đích kinh tế. Những người Thiên Chúa Giáo chính thống, đồng tính, kinh doanh nhỏ, Mỹ Latin, nông dân hữu cơ, ủng hộ tù nhân chung thân, ủng hộ phá thai, công nhân công đoàn trong các tổ chức chống công đoàn ở miền Bắc và miền Nam, giáo viên trường học, những người thuyết giáo – tất cả chúng ta đều cảm thấy bị chính quyền đe dọa.

Cùng lúc, để ngăn chặn cách mạng, giữ hợp đồng với lính đánh thuê và công nghiệp quốc phòng, chúng ta đã bị tẩy não thật lực để tin rằng Hoa Kỳ dẫn đầu thế giới về mọi thứ và phần còn lại của nhân loại sống ít thịnh vượng, ít tự do, thèm thuồng “phong cách sống” của chúng ta. Nói ngắn gọn, họ là những kẻ nhẹ cân hơn. 

Tiếp tục suy nghĩ, chúng ta có điểm chung là không ai trong chúng ta thích ý tưởng về giai cấp thống trị. Chúng ta không thích ngay từ đầu. Mặc dù vậy chúng ta từ lâu không có hành động hiệu quả, bởi vì việc xác định rằng chúng ta làm gì để thay đổi tất cả là bất khả thi. Trái lại, chúng ta phản ứng theo sự kiện. Đó là điều mà giai cấp thống trị muốn, bởi vì nếu chúng ta phản ứng, kết quả sẽ được kiểm soát bằng cách kiểm soát tác nhân kích thích. Hãy làm cho họ sững sờ với điệu foot work. Thế nên tác nhân kích thích đến với chúng ta nhanh hơn là chúng ta tưởng. Họ đại diện cho số mệnh, hay kết quả của “các sự kiện nhanh chóng thay đổi thế giới”, hay một vụ sụp đổ ngân hàng mà không ai có thể tiên đoán được – những điều mà chúng ta phải phản ứng ngay lập tức. Hầu hết chúng ta đầu hàng. Một lần nữa, đó chính là thứ mà giai cấp cai trị muốn chúng ta làm – trở thành một đám đông dễ bảo đồng nhất. 

Bởi vì sự phá hủy cách mạng của hệ thống kinh tế hiện thời sẽ phá vỡ kinh tế quốc gia thậm chí còn nhanh hơn quá trình ăn cắp hiện nay, chúng ta dường như muốn thấy một cuộc cách mạng toàn diện, lật đổ giai cấp cai trị. Hãy nhìn vào “Cách Mạng Đảng Trà” thảm hại, họ sẽ liên minh với GOP (đằng nào cũng đã điều khiển ở hậu trường của họ) vào năm 2012 nếu họ muốn trở thành một phần nhỏ. Sự ồn ào truyền thông về Đảng Trà không tạo ra cách mạng, họ không lật đổ giai cấp thống trị, những kẻ không quan tâm tới cơn thịnh nộ của đám đông, chừng nào điều đó còn chưa ảnh hưởng tới tiền bạc.

Bên cạnh đó, giai cấp thống trị nắm giữ tất cả tiền bạc, chưa đề cập đến truyền thông đưa tin cho công chúng về chuyện đang diễn ra ở đất nước. Họ kiểm soát chăm sóc ý tế, ngân hàng, quỹ hưu trí của chúng ta. Họ kiểm soát giáo dục hay thiếu giáo dục của chúng ta, và họ kiểm soát giá cả, số lượng và chất lượng thực phẩm chúng ta ăn. Họ kiểm soát chất lượng không khí mà chúng ta thở và sắp tới, thông qua tín dụng xả thải, thậm chí là giá chúng ta phải trả cho không khí đó. Quan trọng nhất, họ nắm giữ tập trung lật pháp và quyền lực chính phủ, chưa đề cập tới cơ chế mà cả hai đảng tự phong thêm quyền lực cho bản thân.

Đối mặt với tất cả những thứ đó là một công chúng rất đa dạng, không liên quan gì đến những thứ có thể được tuyên bố sau vài vại bia, không phải là về vũ trang hay sử dụng vũ khí để lật đổ giai cấp thống trị. Khi cuộc sống của anh và gia đình anh hoàn toàn bị kiểm soát bởi các cá nhân và vũ lực mà anh không thể thấy, anh sẽ không mạo hiểm. Đó không phải là nhu nhược. Đó là nhận thức thông thường.

Do đó, anh được cho phép với trò chơi có tên là hoạt động lập pháp. Đây là một quy trình quyền lực vô hình, được che đấu bởi các quy trình khác có tên là chiến lược quan hệ công chúng, nuôi dưỡng mình trong một quá trình khác có tên là truyền thông, để tạo ra “các quyết định mới” giống như anh phải nghe hay thấy. Có nhiều thứ mà anh không cần phải nghe. Ví dụ, NPR, tờ New York Times và hàng ngàn tờ báo khác từ chối sử dụng từ tra tấn để mô tả nhấn nước, trái lại liên hệ tới “các phương pháp thẩm vấn hung bạo”, thẩm vấn không bị ràng buộc, thẩm vấn tự do hay những lối nói trại tương tự. Sự tô vẽ bọc đường của NPR cho tra tấn của Hoa Kỳ là “từ tra tấn hàm chứa các ám chỉ chính trị và xã hội”

Nghĩ sao?

Sự thật là con đường khó đi

Sau nhiều thập kỷ tiêu dùng quân sự cực độ và xa lánh có chủ ý, và ý thức quốc gia xoay tròn trong những điều vớ vẩn chủ nghĩa tư bản thuần túy và hình bón của nó, cần phải nói cho người Mỹ biết là họ vẫn còn nhìn thấy đái thẳng, rất ít người thừa nhận bất cứ loại sự thật nào. Mặc dù vậy một bộ phận người Mỹ thấu hiểu sự thật của những chuyện đang xảy ra với đất nước – điều này phải được mua và thanh toán bởi giai cấp thượng lưu trong một quốc gia được coi là không giai cấp. Họ bắt đầu nhận ra rằng, khi họ thực sự điều hành đất nước, họ cũng vô quyền lực như các cá nhân – ngay cả các thành viên của giai cấp chính trị - và phục vụ ý chí phổ biến của người chủ thực sự. Đó là con đường dài mà chúng ta phải chấp nhận như là trạng thái tự nhiên, một số điều mà chúng ta không thể thay đổi, và cũng không biết phải đặt câu hỏi ra sao bởi vì giống như khí quyển, chúng đã có sẵn.

Sự thật cao hơn là điều gì đó mà chúng ta nhận ra khi chúng ta đối đầu với chúng. Chúng ta có thể không có từ ngữ chính xác nhưng chúng ta cảm thấy chúng trong máu thịt mình. Trực giác là ngọn lửa đầu tiên ở nơi xa xăm. Không thể nói rằng chúng ta luôn lựa chọn không nhìn về phía sự thật, hay hoàn toàn không tìm kiếm nó. Hiếm khi là một cái nhìn dễ chịu, trong cái nhìn đầu tiên là sự thật. Ngay cả thứ tốt nhất trong chúng tới gõ vào những cái chuông báo động.

Tôi nghĩ về độc giả trẻ, Brent B, người đã bỏ thời gian để gửi thư điện tử cho tôi hiện nay và sau đó. Hôm nay anh ấy viết, tóm tắt điều duy nhất mà tôi chắc chắn: 
Khó có thể biết sự thật trong thế giới này, nó giống như điều gì đó trong cái chết của bạn, nhưng đôi khi bạn vẫn cần phải biết nó

Friday, November 14, 2014

Nguyễn Khắc Mai xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản

Lần đầu tiên tôi được biết đến ông Nguyễn Khắc Mai là qua một bài viết có tên là "Minh Triết Các Mác hay những nghịch lý cộng sản". Than ôi, đó là một bài viết đầy những dối trá, bịa đặt và xuyên tạc tư tưởng của Marx. Ông Lữ Phương, một người nghiên cứu chủ nghĩa Marx khác đã phơi bày sự xuyên tạc của ông Nguyễn Khắc Mai trong bài "Minh triết thế này sao?".

Có lẽ ông Lữ Phương khi đó chưa biết là ông Nguyễn Khắc Mai dùng những điều bịa đặt và xuyên tạc tư tưởng của Marx để quảng bá cho cái Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Minh Triết của ông ấy.

Khái niệm minh triết của ông Nguyễn Khắc Mai là một thứ chủ nghĩa duy linh đội lốt khoa học, thế nên nó được học bằng thần hứng (trực cảm, tâm linh). Nói nôm na là người ta có thể sẽ gọi hồn ông Marx lên để học tư tưởng Marx cho nhanh. Đấy là nhổ vào mặt ông Marx chứ nghiên cứu cái gì.

Còn một điểm nữa là ông Nguyễn Khắc Mai bịa đặt hoàn toàn về từ "Kommunismus" [một từ tiếng Đức], nếu tra từ đó bằng tiếng Đức, tiếng Anh, tiếng Pháp hay bất cứ thứ tiếng nào, với bất cứ từ điển nào thì kết quả đều là khái niệm về "chủ nghĩa cộng sản", nhấn mạnh đến yếu tố kinh tế. Khái niệm "chủ nghĩa cộng đồng" mà ông Nguyễn Khắc Mai cho là đúng thì trong tiếng Đức người ta dùng một từ khác để diễn đạt, đó là từ "Kommunalismus". Các ngôn ngữ khác cũng có từ tương tự, "chủ nghĩa cộng đồng" là một khái niệm đề cập đến văn hóa và chủng tộc.

Chả biết minh triết rồi sẽ đi đến đâu, nhưng "ngu" triết thì đã rất rõ ràng.

Thursday, November 13, 2014

Obama và Tập cam kết những gì ở APEC?

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Obama-Xi talks underscore US war threat in Asia" của tác giả Patrick Kelly, để theo dõi các bình luận về mối quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ tại hội nghị thượng đỉnh Hợp Tác Kinh Tế Châu Á-Thái Bình Dương. Tiêu đề do người dịch đặt.

Hội đàm Tập-Obama nhấn mạnh nguy cơ chiến tranh của Hoa Kỳ ở Châu Á

Ngày hôm qua ở Bắc Kinh sau cuộc đối thoại với chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, tổng thống Barack Obama khoe khoang rằng quân sự Hoa Kỳ-Trung Quốc, biến đổi khí hậu và hiệp định thương mại đã đưa sự hợp tác “song phương, khu vực và toàn cầu của hai quốc gia lên một tầm cao mới”. Trên thực tế, hai ngày hội đàm giữa Obama và Tập cho thấy những nguy cơ chiến tranh đang lớn dần sau những căng thẳng địa chính trị được tạo ra từ sự “xoay trục” hùng hổ sang Châu Á của Hoa Kỳ. 

Kể từ khi nhậm chức, Obama đã tập trung vào nỗ lực kết hợp để duy trì sự thống trị của Đế quốc Hoa Kỳ đối với toàn bộ khu vực Châu Á-Thái Bình Dương thông qua việc bao vây Trung Quốc cả về ngoại giao lẫn quân sự. Sự “xoay trục” chính thức được công bố vào tháng 11 năm 2011, cũng đã được Hoa Kỳ tiếp sức trước đó bằng các tranh chấp lãnh thổ cấp độ thấp giữa Trung Quốc và các nước láng giềng, trong đó có Nhật Bản với quần đảo Sensaku/Điếu Ngư và một số quốc gia Đông Nam Á về biển Nam Trung Hoa.

Trong 18 tháng kể từ khi Obama đón tiếp Tập Cận Bình lần đầu tiên ở miền bắc California, có hàng loạt các biến cố tại các khu vực tranh chấp đã đe dọa châm ngòi cho một cuộc xung đột quân sự khu vực, với khuynh hướng leo thang thành một cuộc chiến toàn diện giữ Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Đế quốc Hoa Kỳ đang tích cực chuẩn bị quân đội cho một cuộc chiến tranh chống lại quyền lực Châu Á đang trỗi dậy, di chuyển 60% năng lực không quân và hải quân tới khu vực và phát triển chiến lược “Hải-Không Chiến”, dựa trên việc bắn phá bằng tên lửa và ném bom cùng với phong tỏa đường biển của Trung Quốc. 

Mặc dù vậy, chính quyền Obama không muốn bị lôi kéo vào một cuộc xung đột với Trung Quốc vào lúc này và về những vấn đề không nằm trong sự lựa chọn của họ. Đó là lý do Washingtown thúc giục thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, người mới gặp Tập lần đầu tiên vào thứ hai vừa qua, giảm căn thẳng với Trung Quốc về những quần đảo nhỏ bé và không có người ở trên biển Đông Trung Hoa mà cả hai quốc gia đều tuyên bố chủ quyền.

Những toan tính này nhấn mạnh các nghị định thư quân đội với quân đội mà Obama và Tập đã nhất trí trong tuần. Ben Rhodes, một phó cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ, nói với các phóng viên trước hội nghị thượng đỉnh: “Điều cực kỳ quan trọng là chúng ta tránh leo thang thiếu thận trọng và chúng ta không lao vào các tình huống bất ngờ dẫn đến những thứ có thể gây ra một cuộc xung đột”.

Bình luận này tự bản thân đã lên án các khiêu khích đầy khinh suất ở Đông Á suốt hai năm qua của chính quyền Obama, giờ đây chúng đang có nguy cơ dẫn cuộc chiến toàn diện giữa hai thế lực có vũ khí hạt nhân.

Tờ Wall Street Journal đưa tin lãnh đạo Trung Quốc từ trước đây rất lâu “phản đối một hiệp định đối đầu quân sự với Hoa Kỳ vì lý do điều đó tạo một quan hệ đối đầu kiểu như giữa Hoa Kỳ và Soviet trước kia”. Mặc dù vậy, bài báo bình luận, điều đó “đã thay đổi vào nào ngoái khi cả hai phía thừa nhận rằng họ không thể nhất trí trong việc giải thích luật pháp quốc tế về vấn đề biển, nhưng cũng không cho phép các đối đầu quân sự vô tình làm chệch hướng mối quan hệ tổng thể của họ”.

“Cơ chế tạo dựng tin cậy” quân sự mới không giải quyết được các vấn đề nằm sau sự đối đầu hung hăng của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc. Một biện pháp được áp dụng là thông báo thiện chí về “các hoạt động quân sự chủ chốt”, trong đó có sự phát triển chính sách và chiến lược, trong khi biện pháp khác đề cập tới “các quy tắc ứng xử an toàn trong các đối đầu không gian và biển”. Một tuyên bố của Nhà Trắng bổ sung thêm là cả hai phía đã cùng góp sức phát triển thêm “các cơ chế tạo dựng tin cậy”, biện pháp được Washington ưu tiên là trao đổi thông tin về các vụ phóng tên lửa đạn đạo.

Các thoản thuận cho thấy sự nhượng bộ rõ ràng của Bắc Kinh đối với lời kêu gọi thường xuyên được Washington lặp lại về “sự minh bạch hơn” trong các hoạt động quân sự của Bắc Kinh. Yêu cầu này không chỉ là một phần trong tuyên truyền của Hoa Kỳ để vẽ ra “nguy cơ Trung Quốc”, mà còn giúp Lầu Năm Góc có cái nhìn sâu hơn vào năng lực quân sự của đối thủ tiềm tàng.

Ở Bắc Kinh, phó cố vấn an ninh quốc gia Rhodes lặp lại khẳng định từ lâu của chính quyền Obama là Bắc Kinh hoàn toàn phụ thuộc vào khuôn khổ địa chiến lược và quân sự ở Châu Á-Thái Bình Dương mà Hoa Kỳ thống trị từ sau Thế Chiến II. “Chúng ta thể hiện rất rõ ràng khi chúng ta thấy rằng các hành động của Trung Quốc đang được đẩy ra ngoài những ràng buộc mà chúng ta tin là những quy định quốc tế cần thiết để điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia cũng như cách thức mà chúng ta giải quyết xung đột”, ông ta tuyên bố

Trong cuộc họp báo chung với Tập, Obama tìm cách che đậy căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, ông ta tuyên bố rằng “ngay cả khi chúng ta ganh đua và bất đồng về một số điểm, tôi tin rằng chúng ta có thể tiếp tục thúc đẩy an ninh và thịnh vượng của nhân dân trong nước cũng như thế giới”.

Tổng thống Hoa Kỳ khuyến khích những thỏa thuận mới về nhiều vấn đề khác. Một thỏa thuận thương mại sẽ hủy bỏ thuế quan khoảng 1 nghìn tỷ dollar doanh số hàng năm của chất bán dẫn cũng như các công nghệ thông tin và truyền thông khác. Tờ Washington Post đưa tin là thỏa thuận này sẽ “mang lại cơ hội lớn hơn cho các công ty Hoa Kỳ tại Trung Quốc cũng như các công ty Hoa Kỳ và Trung Quốc có nhà máy ở Trung Quốc trong việc cung cấp sản phẩm cho thị trường Hoa Kỳ.”

Xúc tiến nổi bật nhất của Nhà Trắng và truyền thông Hoa Kỳ là cam kết mới về khí thải nhà kính. Obama tuyên bố một “thỏa thuận lịch sử” sẽ cho thấy Hoa Kỳ giảm khí thải các bon khoảng 26-28% so với năm 2005 vào năm 2025. Trung quốc cam kết sẽ ngừng tăng khí thải nhà kính vào “khoảng năm 2030” và chuyển 20% nguồn năng lượng quốc gia sang loại không phát thải.

Các khẳng định về việc những mục tiêu mới sẽ giảm nhẹ khủng hoảng biến đổi khí hậu hoàn toàn là lừa dối. Tổ Chức Liên Chính Phủ Của Liên Hiệp Quốc Về Biến Đổi Khí Hậu (IPCC) trước đó đã kết luận rằng các nền kinh tế phát thải hàng đầu phải giảm 25-40% phát thải so với năm 1990 vào năm 2020 và 80-95% vào năm 2050. Hơn nữa, những con số đó bị nhiều nhà khoa học về khí hậu phản đối do đánh giá thấp những điều cần thiết để ngăn chặn mức độ không thể đảo ngược nguy hiểm và tiềm tàng của sự nóng lên toàn cầu.

Lãnh đạo Trung Quốc xứng đáng với sự ít ỏi trong lời hứa che đậy của Obama về việc giảm khí thải 26-28% so với năm 2005 vào năm 2025. Một số bản tin cho thấy lượng khí thải các bon của Trung Quốc được dự đoán sẽ đạt đỉnh vào khoảng năm 2030, sự đóng góp của Tập kéo theo rất ít hay không có hoạt động bổ sung đối với việc giảm khí thải nhà kính.

Tiếp theo hàng loạt thất bại ở các cuộc họp thượng đỉnh quốc tế cấp cao để thúc đẩy một hiệp ước khí hậu sau nghị định thư Kyoto, trong đó có Copenhagen vào năm 2009, vòng đối thoại khác sẽ được tổ chức ở Paris vào năm tới. Không mở đường cho một cam kết tích cực tại hội nghị thượng đỉnh, cam kết của Obama-Tập về khí thải các bon chỉ nhấn mạnh sự bất khả thi trong việc giải quyết khủng hoảng biến đổi khí hậu toàn cầu với khuôn khổ của hệ thống quốc gia-nhà nước tư bản chủ nghĩa.

Kiev leo thang chiến tranh ở miền đông Ukraina

Xin mời bạn đọc blog theo dõi bản dịch bài viết "Kiev escalates war in eastern Ukraine" của tác giả Christoph Dreier với các bình luận mới về tình hình chiến sự tại Ukraina.

Kiev leo thang chiến tranh ở miền đông Ukraina

Cuối tuần qua nổ ra trận chiến khốc liệt nhất tại các thành phố Donetsk và Luhansk ở miền đông Ukraina kể từ khi hiệp định ngừng bắn được ký kết vào đầu tháng 9. Cuộc tấn công quân sự của chính quyền Kiev cho thấy NATO đang tăng cường đe dọa Nga. 

Nhân chứng cho biết đạn pháo hạng nặng đã được bắn đi từ các khu vực do quân đội Kiev kiểm soát cũng khu vực của quân nổi dậy. Sân bay Donetsk là một chiến trường đẫm máu. Hiệp định Minsk yêu cầu giao sân bay cho phe nổi dậy. Mặc dù vậy, các binh lính trung thành với Kiev đã từ chối rút quân và đụng độ dữ dội hàng ngày với quân nổi dậy.

Theo quân nổi dậy cho biết, các xe tăng quân đội Ukraina đã tiến về phía Donetsk. Hai xe tăng được cho biết là bị quân nổi dậy phá hủy trong cuộc tấn công vào làng Nikichino.

Quân nổi dậy cáo buộc quân đội Ukraina đã ném bom các khu vực dân cư và sử dụng các loại bom cháy. Trong bản tin ngày thứ ba, tổ chức Human Rights Watch xác nhận bom cháy được sử dụng trong trận chiến trước đó ở khu vực Donetsk.

Nhiều dân thường đã trở thành nạn nhân của các vụ tấn công. Vào cuối tuần, hai thiếu niên đã thiệt mạng trong một vụ nã pháo vào trường học. Theo phe nổi dậy cho biết, ít nhất có 12 thường dân đã thiệt mạng trong một cuộc tấn công vào làng Frunze gần Luhansk. 

Chính quyền Kiev và đồng minh của họ ở Washington cáo buộc Nga gửi xe tăng và các trang thiết bị quân sự khác qua biên giới để gia tăng sức mạnh cho các tổ chức nổi dậy. Nhiều phóng viên đã đưa tin về sự di chuyển của quân đội tại khu vực Donetsk.

Tổ Chức An Ninh Và Hợp Tác Châu Âu (OSCE), có một đội quan sát viên ở khu vực, đưa tin về hai đoàn xe với 40 chiếc xe tải 9 xe tăng di chuyển theo hướng đông ở khu vực Donbass. Nguồn gốc của những chiếc xe này và loại hàng hóa được chuyên chở vẫn chưa rõ. Chỉ huy phó của quân nổi dậy, Eduard Basurin, nói trong đoàn xe có các đơn vị dân quân được thành lập để bảo vệ Donetsk trước các cuộc tấn công của chính quyền Ukraina.

Người phát ngôn chính thức Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, Jen Psaki, nói vào thứ hai là “Nga và dân quân mà họ ủng hộ” đã “thường xuyên” phá vỡ Hiệp định Minsk. Ngoại trưởng John Kerry đe dọa Nga bằng những biện pháp trừng phạt mới vào ngày thứ bảy sau cuộc hội đàm với người đồng sự phía Nga Sergei Lavrov.

Giám đốc chính sách đối ngoại Liên Minh Châu Âu, Federica Mogherini, gọi sự di chuyển của quân đội là “một sự tiến triển rất đang lo ngại”. Bà ta thúc giục Nga thể hiện sự kiềm chế và giảm leo thang xung đột. Bà ta cũng yêu cầu Moscow ngăn chặn binh lính, vũ khí và chiến binh tiến vào Ukraina từ lãnh thổ Nga.

Cuối tuần tới, ngoại trưởng của 28 nước Liên Minh Châu Âu sẽ họp để quyết định về các biện pháp trừng phạt mới đối với Nga. “Cuộc tranh luận sẽ không chỉ xoay quanh các biện pháp trừng phạt chặt chẽ, mà còn chú trọng tới việc chúng ta có thể hỗ trợ Ukraina ra sao trong thời gian khó khăn này”, Mogherini nói. 

Thủ tướng Đức Angela Merkel thông báo về một sự mở rộng có thể danh sách những người sẽ bị trừng phạt.

Thủ tướng Anh David Cameron cáo buộc Nga không tuân thủ luật pháp quốc tế. Nếu Nga “tiếp tục theo con đường hiện tại, chúng tôi sẽ gia tăng sức ép và quan hệ của Nga với phần còn lại thế giới sẽ rất khác trong tương lai”, Cameron nói.

Vào thứ ba, tổng thống Hoa Kỳ Barack Obam và người đồng sự Nga, Vladimir Putin, đã họp ngắn bên lề hội nghị thượng đỉnh Hợp Tác Kinh Tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) ở Bắc Kinh. Bên cạnh vấn đề Ukraina, họ cũng thảo luận về chương trình hạt nhân của Iran. Không có bản tin chính thức nào về cuộc họp của họ được công bố. Có thể kỳ vọng rằng hai nhà lãnh đạo sẽ lại gặp nhau vào tuần tới ở hội nghị thượng đỉnh G20 ở Australia.

Vào thứ hai, một bản tin được công bố liệt kê 40 tình huống đối đầu quân sự giữa Nga và NATO có thể biến thành chiến tranh. Tuần trước, tướng Đức của NATO Hans-Lothar Domröse đã thống báo rằng đồng minh sẽ tiếp tục mạnh tay hơn với Nga. 

Tổng thống Ukraina Petro Poroshenko ký hiệp định ngừng bắn Minsk sau khi chính quyền Ukraina đánh nhau với quân nổi dậy ở miền đông và phải gánh chịu nhiều thiệt hại nghiêm trọng. Chính quyền Kiev hy vọng câu giờ bằng ngừng bắn để ổn định sự cai trị của họ và tái tổ chức quân đội.

Nhưng chính phủ đã vi phạm hiệp định ít nhất cũng thường xuyên như phe nổi dậy. Quân đội của họ từ chối rút khỏi các khu vực bên cạnh sân bay Donetsk theo như quy định trong hiệp định Minsk. Hơn nữa, họ lại liên tục nã pháo Donetsk và Luhansk.

Quyền tự trị của miền đông Ukraina đã bị tước đoạt. Mặc dù nghị viện Ukraina đã thông qua luật liên quan, người phát ngôn nghị viện Alexander Turchinov từ chối ký tên hay chuyển đạo luật đó tới tổng thống. Sau khi quân nổi dậy tổ chức bầu cử một tuần trước ở miền đông Ukraina, Turchinov tuyên bố là luật tự trị không có giá trị.

Một đạo luật thanh thanh lọc cơ quan và dịch vụ công cộng đã được thông qua trước cuộc bầu cử nghị viện do chính quyền Kiev tổ chức vào tháng 10, đạo luật đó được dùng để đưa các cơ quan nhà nước vào khuôn khổ. Nhiều vị trí trước đó thuộc về những người phê phán chính quyền đã được chuyển giao cho lực lượng cực đoan cánh hữu, lực lượng đóng vai trò trọng yếu trong cuộc đảo chính lật đổ tổng thống thân Nga Viktor Yanukovych vào tháng 2 vừa qua.

Juri Michaltschisin, người sáng lập viện Joseph Goebbels vào năm 2005, được đưa tin là trở thành lãnh đạo mới của cục “tuyên truyền và phân tích” thuộc cơ quan mật vụ Ukraina, SBU. Tân phát xít Vadim Troyan được Bộ Nội Vụ phong chức cảnh sát trưởng Kiev.

Các tiểu đoàn cánh hữu của Vệ Binh Quốc Gia, được nhiều nhà tài phiệt tài trợ và đóng vai trò quan trọng trong cuộc nội chiến, tìm cách can thiệp trực tiếp hơn vào chính trị thông qua các ứng cử viên tham gia vào tranh cử nghị viện. Mặc dù các đảng phát xít công khai nhận được rất ít phiếu bầu, nhưng các chính đảng lớn đã đưa nhiều thành viên cực hữu vào danh sách đề cử của họ. Một đại diện nổi bật là Yuri Bereza, thủ lĩnh của tiểu đoàn Dnepr khét tiếng, vốn phải chịu trách nhiệm về hàng loạt các vi phạm nhân quyền. 

Bereza được bầu vào nghị viện theo danh sách đề cử của đương kim thủ tướng Arseniy Yatsenyuk. Với vai trò là thành viên mới của nhóm lớn nhất trong nghị viện, ông ta tuyên bố ngay sau cuộc bầu cử là tiểu đoàn của ông ta sẽ chuẩn bị các cuộc tấn công khủng bố vào Nga. Dựa vào những lực lượng như vậy, và sự hậu thuẫn của Washington, Berlin và NATO, Kiev đang chuẩn bị tái diễn các tấn công quân sự ở miền đông.

Wednesday, November 12, 2014

Nghèo, da trắng và say khướt

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Poor, white and pissed" của tác giả Joe Bageant, một nhà báo tự do nổi tiếng chuyên viết về cuộc sống của những người dưới đáy xã hội Mỹ. Bài viết này đã có từ lâu nhưng cuộc sống của người lao động nghèo da trắng ở Mỹ trong đó vẫn mang những đặc trưng ít thay đổi. 

Nghèo, da trắng và say khướt

Nếu mày đang đọc những dòng này, rất có khả năng mày là một gã tự do, thậm chí đang kêu gào đầy phẫn nộ kiểu như hãy-đốt-trụi-đất-nước-cộng-sản-mắc-dịch-đi – trong trường hợp ấy tao sẽ nói, “Tới ngồi cạnh tao đi đồng chí!" (Nhất là khi mày là một cô nàng tóc vàng). Giống như hầu hết những đứa cánh tả, mày sẽ sống ở thành thị, hay chỗ nào đó có sự đa dạng văn hóa hợp lý. Hơn nữa mày được học hành và có thể đọc những dòng này mà không phải mấp máy môi. Có thể mày sống trong cộng đồng tự do tư duy kiểu như Nước Cộng Hòa Nhân Dân Berkeley, hay đang lăng xăng dưới ánh sáng đèn của Manhattan, chỗ mày có thể xem những bộ phim độc lập và mua tỏi tây và sữa đậu nành ở cửa hàng tạp hóa.

Mặc dù vậy, tao sống ở một thị trấn nhỏ, chỗ có thể dễ dàng kiếm được lòng lợn, bánh pudding và dưa chuột ngâm dấm hơn là tỏi tây trong cửa hàng tạp hóa … và ở đó phim “Smokey và Kẻ cướp” vẫn được chiếu trong các rạp lèn chặt người hết năm này qua năm khác. Thị trấn của tao nổi tiếng trong vụ cháy lốp xe của hãng “Rhinehart” vào năm 1983, 5 triệu lốp xe phế thải đã cháy suốt 9 tháng, được đăng trên trang nhất các bản tin ở Winchester, Virginia và tin tức quốc gia, cũng như trên dòng cập nhật trạng thái của siêu quỹ dọn dẹp EPA. Khói của vụ cháy có thể được nhìn thấy trên các bức ảnh vệ tinh, việc dọn dẹp kéo dài 18 năm và vụ cháy là sự kiện vĩ đại nhất tại thị trấn của tao trong thế kỷ 20. Về đời sống trí tuệ thì đây là một thị trấn có cực kỳ ít người từng nghe đến những cái tên như Susan Sontag [nhà văn nữ nổi tiếng người Mỹ], mặc dù các biên tập viên tạp chí địa phương đã đăng xã luận cáo phó về bà ta, bài ấy có tiêu đề là: Vĩnh biệt, đồ-cặn-bã-cộng-sản-Do-Thái-của New-York! 

Hầu hết mọi người đọc báo tại bàn ăn sáng trong thị trấn đều hỏi nhau, “Susan Sontag là đứa chết tiệt nào vậy?”. Họ sẽ hỏi tương tự về Daniel Barenboim hay Hunter S. Thompson bởi vì cả hai chưa bao giờ xuất hiện ở chương trình của Oprah. Bầu không khí chung bị một luật sư, từ Atlanta đến để ngó quanh thị trấn và được nhìn ngó, phá bĩnh bằng câu: “Đồ đần, tính tiền!” Đó là từ một gã thấy quanh mình toàn những kẻ da trắng nghèo khổ đần độn. Hãy cười nếu mày muốn, nhưng đó là trái tim của bang đỏ ở Hoa Kỳ mà mọi người đang nói đến trong những ngày này. 

Một người thuộc tầng lớp cao hơn của Hoa Kỳ có thể sống ở những nơi như Winchester, Virginia? Không hẳn. Chỉ có những gia đình thượng lưu tiểu thương cũ kỹ và những gã quản lý nhà máy lương cao bị thuyên chuyển đến đây là cảm thấy nơi này đáng sống – đám đầu tiên là vì địa vị xã hội và đám thứ hai là vì biết chắc rằng một ngày nào đó lại sẽ được thuyên chuyển đi nơi khác. 

Hầu hết phần còn lại trong đám chết dí ở Winchester là những kẻ thường được gọi là giai cấp lao động truyền thống. Giờ thì tất cả mọi người đều gọi bọn tao là Rác Trắng. Đó là những gã lao động nghèo khổ da trắng, những kẻ cùng lắm chỉ có cái bằng tốt nghiệp trung học. Trên quy mô cả nước thì bọn tao chiếm một phần tư số công nhân da trắng, tức là 35 triệu gã cả thảy theo như con số đã bị cắt xén của chính quyền. Không ai biết chắc điều gì ở một quốc gia gọi hàng triệu gã thợ sửa chữa lặt vặt với giá 7 dollar/giờ và những gã bên lề xã hội làm việc không có bảo hiểm hay trợ cấp là “cá nhân kinh doanh độc lập” và “doanh nhân”.

Những gã kinh doanh độc lập nhỏ, như bọn tao được nghe, là “xương sống của nền kinh tế Mỹ”. Nếu điều đó là thật, thì đó là điều đáng buồn vì bọn tao đang nói về những công dân kiếm được khoảng 25-30 ngàn dollar trước thuế mỗi năm. Với cả hai vợ chồng cùng đi làm. Tao nói với gã bạn là một thợ sửa chữa vặt tự do, tên là Gator, rằng hắn là xương sống của nền kinh tế Mỹ; hắn trả lời là hắn cảm thấy giống lỗ đít của nước Mỹ hơn.

Trong bất cứ hoàn cảnh nào thì những người ở chỗ tao không phải là những người ở phòng ngủ trưa cạnh chỗ mày tại nơi làm việc (nhưng họ có thể dọn vệ sinh vào ban đêm khi mày đang ngủ). Những người chỗ tao không phải là những kẻ phàn nàn về việc thanh toán nợ học phí, hay những kẻ nhận được chỗ đỗ xe tốt nhất ở khu tổ hợp văn phòng. Họ có những vấn đề hoàn toàn khác, hầu hết là khoản thanh toán lặt vặt. Hay những người giống như lão thợ cả Dany của dịch vụ cắt tỉa cây, sau khi xén mất một ngón tay trong lúc làm việc với cưa xích, lão gói nó lại với giấy gói bánh Mac-Donald và chạy bổ đến bệnh viện để gắn nó lại. Hoặc như hàng ngàn người khác trong thị trấn đang nghiền táo để làm nước sốt táo hay nấu chúng thành giấm ở công ty Sản Phẩm Trái Cây Quốc Gia, một công việc theo ca tẻ nhạt đến phát khùng hết năm này qua năm khác mà không có bất cứ cơ hội thăng chức nào, hay được chăm sóc y tế. Tất cả bọn họ đều bị giãn thợ theo mùa vụ khi toàn bộ táo đã bị nghiền và hàng triệu lít giấm đã được đóng chai – giai cấp lao động chẳng đi bất cứ đâu trong một thành phố bốc mùi dấm.

Một trong những vấn đề mà giai cấp lao động miền bắc gặp phải là những người Mỹ tiến bộ có giáo dục coi họ là một đám béo mập, những gã trộm cắp cực kỳ thính mũi có vũ trang. Vấn đề này cũng có một phần sự thật là nhiều người trong số bọn tao đúng như vậy. Hãy gọi chúng là hội chứng “Những-thằng-nghèo-da-trắng-đần-độn-tao-tính-tiền”. Nhưng sai lầm của đám tự do trong suy nghĩ về những gã công nhân có vũ trang và say khướt là ở chỗ họ không chỉ có nòi giống phương bắc. Bất kể là mày sống ở đâu trên đất nước này, mày cũng sẽ thấy bọn tao. Bọn tao là một dân tộc ở ngay trước mũi mày tại lối ra của Wal-Mart, xử lý vấn đề về dầu máy trong khi vẫn hút thuốc lá. Nhưng ngay cả ở những sự kiện dân chủ như mua sắm, sự va chạm sẽ bị giới hạn bởi vì tụi tao không mua bia loại sang và mày không mua đạn hay dầu máy. Nếu tụi mình không đứng cùng hàng chờ thanh toán thì có lẽ là tụi tao đang đợi mày thực hiện nhiệm vụ của một nhân viên bàn giấy. Trong chiếc áo chẽn màu đỏ sáng với thẻ ghi tên, tụi tao trông không đến nỗi nghèo nàn và tuyệt vọng. Nhưng hãy để tao kể về Roy, một gã lớn tuổi vui vẻ, thông minh với chiếc áo chẽn màu cam trong bộ phận hàn chì của cửa hàng Home Depot địa phương. Gã biết tất cả mọi thứ về hàn chì, và gã khập khiễng với cái đầu gối tồi tệ đã được ghép đĩa đệm hai lần trong đời công nhân xây dựng, nhưng gã chỉ có bảo hiểm y tế cho một bên. Không có bảo hiểm y tế của Home Depot, mày nghĩ coi – tất cả lương của gã phải dùng để thanh toán bảo hiểm y tế tư nhân nếu gã không muốn mất luôn căn nhà gỗ một tầng xập xệ mà hai vợ chồng gã mua sau chiến tranh Triều Tiên, cho những hóa đơn y tế kinh khủng. Căn nhà gỗ đó hiện giờ nằm ở khu dân cư tồi tệ, chỉ có chủ nhà chuyên cho thuê khu ổ chuột đang thống trị cái thị trấn này mới thèm mua, và cũng chẳng đáng gì. Roy sẽ mất nhà trong 25 năm, không có bất cứ khách hàng trung lưu rám nắng của vùng ngoại ô nào ở đây hay bất cứ đâu thèm ngó ngàng. 

Đây hoàn toàn là bang đỏ tân bảo thủ Virginia, nơi mọi người sẵn sàng giải thích cho tình trạng của Roy trong đời: như chủ quầy báo Jimbo nói, “Họ là những kẻ thất bại, những kẻ không thể loại bỏ khỏi xã hội vĩ đại nhất quả đất. Darwin đã đúng. Gandhi đã sai. Toàn là phân!” Jimbo cũng là gã đã khuyên tao rằng “Hãy luôn đạp những gã đã ngã; điều đó giúp gã ấy có động lực để đứng lên.” Đôi khi tao nghĩ rằng đó là điều khốn kiếp có ý nghĩa nhất mà những thị trấn lao động nhỏ nhoi của Hoa Kỳ như Winchester đã tạo ra.

Móng vuốt à, tao có mâu thuẫn không?

Nghèo và da trắng là một mâu thuẫn ở Hoa Kỳ. Da trắng, nhất là đàn ông, được kỳ vọng là sẽ có lợi thế mà họ bóc lột tàn nhẫn. Mặc dù vậy hầu hết người nghèo ở Hoa Kỳ là da trắng (51%), vượt xa da đen với tỷ lệ 2:1 và vượt xa các nhóm nghèo khổ thiểu số khác cộng gộp lại. Hoa Kỳ tràn ngập câu chuyện hoang đường về sự kết hợp giữa da trắng với sức mạnh, giáo dục cũng như cơ hội. Xã hội tư bản dạy tụi tao là tụi tao nhận được những gì đã đóng góp, thế nên nếu một gã da trắng không thành công thì đó chỉ là bởi vì gã lười biếng. Nhưng cũng giống như những gã cặn bã da đen và Latin trong các khu ổ chuột, lao động nghèo da trắng sống tận đáy xã hội chả có gì khác ngoài thất bại. Nếu ông bố bỏ dở trung học của mày vất vả với đồng lương rẻ mạt và không bao giờ đọc sách cũng như mẹ mày là công nhân dệt vải, thì mày sẽ không được Hội Đầu Lâu và Xương của Yale [Hội kín ở Đại học Yale có các thành viên trở thành tổng thống] tuyển mộ để trở thành tổng thống Hoa Kỳ sau này, bất chấp chuyện cổ tích quốc gia. Mày sẽ bị công việc làm ca 8-dollar-một-giờ ở đâu đó tóm cổ và sẽ phải cầu nguyện có đủ việc làm thêm giờ để thanh toán hóa đơn sưởi ấm. Mày là một công nhân.

Chính trị cánh tả từng là chỗ dựa cho những công nhân này, từng đứng vào hàng nhận đòn roi ở cửa nhà máy cùng với họ. Giờ đây khi đang thu mình dễ chịu trong tầng lớp trung lưu, cánh tả Hoa Kỳ coi công nhân da trắng là những kẻ khiêu chiến mù quáng, móng vuốt tâm phúc của đế quốc. Họ mô tả giai cấp lao động rẻ rúng và cầu xin câu trả lời cho việc làm thế nào mà họ lại đi con đường đó. Coi họ là nguồn gốc sâu xa của vấn đề chính trị quốc gia thì thật nực cười. Họ là triệu chứng của vấn đề, và họ có thể làm cho điều đó tồi tệ bởi vì họ dễ bị điều khiển, hoặc bởi vì họ không thể nói về ý tưởng chân thật của một gã say bia. Nhưng họ hoàn toàn không phải là nguyên nhân gốc rễ. Cánh tả nên nhận lấy tâm trạng của họ từ Malcom X, người hiểu rằng phải giáo dục và cung cấp thông tin cho toàn bộ xã hội Phi-Mỹ trước khi xử lý mục tiêu thống nhất. Đó là điều tương tự đối với người lao động nghèo da trắng. Không ai cho rằng việc đó đơn giản.

Đừng cười, mày là đứa kế tiếp! 

Đám tự do trung lưu, hay bảo thủ giàu có trong trường hợp này khó có thể thấu hiểu văn hóa của giai cấp lao động nghèo da trắng. Với khẩu súng, Chúa và khiếu thẩm mỹ ồn ào lỗ mãng (NASCAR và Shania Twain?), tụi tao trông giống loại hạ cấp, phái sinh bốc mùi bia. Sự thật là văn hóa của của giai cấp lao động nghèo da trắng không phái sinh từ bất cứ giai cấp nào khác ở Mỹ. Nó không nằm dưới tầng lớp trung lưu và thượng lưu, mà song song với chúng. Chỉ là có ít cách để thoát khỏi cũng như để gia nhập vào đó. Cư dân của nó được sinh ra ở đây. Cánh tả có giáo dục không thể dễ dàng thâm nhập. Khi họ tiếp cận, đám viện sĩ xã hội tự do giống như những con lạc đà diễu ngang qua cái nhìn mắt châm chọc, nhưng tao chưa bao giờ gặp ai thừa nhận điều đó, hay thậm chí biết rằng theo dõi không nhất thiết là phải hiểu. Hệ quả là tụi tao thấy rất nhiều sách/nghiên cứu tập trung vào nhóm dân tộc thiểu số, nhưng rất ít đáng tin cậy để bảo vệ những người bản địa lớn lên trong nghèo khó. Đối với tao, không thể thuyết phục và đáng tin, tao chỉ là một gã châm biếm lỗ mãng đầy định kiến từ Winchester, Virginia, hay gọi cách khác là “xóm cặc”

Mặc dù cái chỗ mà tao đang ngồi và viết về nó, có thể là hàng ngàn nơi khác trên khắp nước Mỹ. Một thế giới song song được hệ thống Hoa Kỳ tạo ra, nơi đẳng cấp và sự tự tin được đánh giá qua thứ mà một kẻ có thể tiêu dùng hay không thể tiêu dùng, giáo dục và dĩ nhiên là giai cấp mà từ đó hắn được sinh ra. Sự khác biệt giữa chúng ta được định sẵn từ bẩm sinh và những quy định tàn bạo. Ví dụ, rất ít người Mỹ trung lưu ngày nay bán tạp chí ở góc phố vào lúc 12 tuổi để kiếm tiền may đồng phục trường học hay vác than tới lò sưởi phòng khách bẩn thỉu vào mùa đông. Tao thì đã làm cả hai. Họ không bao giờ ngồi ăn bữa chính với café và buôn chuyện tào lao sau những giờ lạnh giá ở góc phố. Nếu điều này nghe giống như chuyện kể nức nở về thời kỳ Đại Suy Thoái, thì hãy để tao nói cho mà biết, đó là vào khoảng năm 1959-1962. Ngay bây giờ, tao có thể thấy hàng trăm người trong cộng đồng đang làm việc tương tự, hay một số đứa trẻ vẫn làm vậy (thường là đám trẻ Latin). 

Quan điểm của tao là luôn có rất nhiều đứa khốn kiếp không biết gì về con cái của giai cấp lao động, cho dù là những người Mỹ may mắn có thừa nhận nỗ lực của tụi tao hay không. Nhưng họ phải thừa nhận. Mày thấy đấy, nó kiểu như: Khi hệ thống nhẫn tâm của Hoa Kỳ đã biến hết tụi tao thành những xác sống nốc bia dãi nhớt lòng thòng trong các trại lao động khổ sai kiểu Mỹ thì mày sẽ là đứa kế tiếp. 

Tất cả đều yêu mến Đạt Lai Lạt Ma, nhưng không ai yêu mến cái thằng khốn khổ này! 

Không có gì đáng ngạc nhiên khi đám tự do không được tin cậy. Không có gì đáng ngạc nhiên khi một gã hề nghiện ma túy như Limbaugh có thể được gọi là thượng lưu tự do và dính chặt lấy họ. Theo quan điểm của tụi tao, nếu không ngập trong hóa đơn của bác sĩ đến đầu gối và phải cầu nguyện để nhà máy địa phương rẻ rách của Styrofoam không cắt ca làm việc thứ hai, thì mày là thượng lưu. Đám tự do trung lưu có giáo dục (và giáo dục là sự khác biệt chủ yếu giữa những gã da trắng bên lề xã hội với mày) không đến thăm những cộng đồng kiểu tụi tao, ngay cả khi cùng trong một thị trấn. Họ uống ở những quán bar đẹp hơn, đến nhà thờ đẹp hơn và hầu hết trong đời tụ tập trong những khu vực tách biệt của đất nước, chủ yếu là đô thị. Hệ quả là đám tự do gần gũi hơn với những vấn đề xã hội của người nhập cư, hay cảnh ngộ khốn khổ của Tây Tạng, hơn là vụ mùa bội thu của người lao động bản địa lớn lên ở nông thôn, những người đang tô điểm cho những thị trấn như Winchester. Người Mỹ tự do yêu mến Đạt Lai Lạt Ma nhưng ghê tởm cuộc sống ở miền quê của những gã ăn thùng uống chậu và những gã thợ hàn chì diễn trò. Không thể nói là tao trách mắng toàn bộ bọn họ, nhưng đó là lý do tại sao Chúa tạo ra bia. Để làm cho cuộc sống hấp dẫn hơn, hay ít nhất là có thể tiêu hóa được.

Bất kể trường hợp này ra sao, giúp đỡ người lao động nghèo không phải là việc viết một nghiên cứu khoa học được tài trợ bộn tiền khác về họ. Điều đó chỉ đơn giản là phục vụ một trường đại học tự đào tạo của tầng lớp trung lưu. Mặc dù đó là nguyên nhân tạo ra tầng lớp lao động nghèo da trắng khốn khổ mà những gã trung lưu có giáo dục lớn lên trên những bãi cỏ xanh rì ở khu ngoại ô nhắc tới. Tuy được học và có ý định tốt, nhưng họ không được trang bị để thấu hiểu hoàn toàn ý nghĩa của trại lao động khổ sai mới của Mỹ - hay quá già cho vấn đề đó. Họ không thể hiểu được một sự nghiệp chỉ biết đến việc moi ruột gà ở trại gia cầm địa phương trong cuộc đời của những người khác (Giả định là lò mổ đó không bị chuyển ra nước ngoài). Giai cấp lao động bẩm sinh mang những giá trị đạo đức tinh thần chỉ có thể hiểu được khi trải nghiệm chúng. Điều đó quay trở lại với sự tin cậy.

Cục thống kê dân số lưu giữ nhưng con số về người lao động nghèo. Các trường đại học nghiên cứu và các nhà kinh tế đọc liến thoắng những bản thống kê. Nếu chỉ cần nghiên cứu và con số là có thể giải quyết vấn đề người lao động nghèo khổ thì thanh toán séc ăn cắp sẽ không phải là ngành nhượng quyền nóng nhất nước và Manpower sẽ không phải là chủ lao động lớn nhất của chúng ta. Đúng như vậy, nếu những con ễnh ương có cánh thì chúng sẽ không bị ngã dập mông. Duy lý và khoa khọc xã hội không thể giải quyết nó, cũng như con số không thể mô tả linh hồn và cá tính của con người. Cũng giống như những gã bốc mùi gạt tàn thuốc lá trong hàng người chờ ở lối ra, đọc ngấu nghiến một thùng carton của Little Debbies ở chỗ ngồi và cầu Chúa Jesus về bất cứ thứ thường nhật nhỏ mọn đáng thương chết tiệt nào đó (Nếu phần cuối không đáng chú ý thì mày đã chứng minh quan điểm của tao về sự rạn nứt tự do thế tục.)

Một sự khởi đầu tốt để hàn gắn sự rạn nứt đó có thể là: lần tới khi ai đó ở cánh tả đụng mặt những gã có vẻ là tự kinh doanh, ngoan cố, bị ám ảnh bởi chúa, thì họ có thể khai mạc phiên phán xử, hiểu tình hình phức tạp của họ, bước tới và nói, “Người anh em, tôi có thể giúp anh một tay không?” Chắc chắn điều đó sẽ làm cho những bóng ma như như Joe Hill, Franklin Roosevelt hay Mohandas Gandhi mỉm cười.

Nhiều thứ tào lao hơn giá trị

Trước khi tao nhận được câu hỏi đặc biệt hơn, “Mày nghĩ đám tự do trung lưu phải làm quái quỷ gì?”. Tao sẽ trả lời nó. TỔ CHỨC! Chấm dứt bỏ phiếu cho một đám trời đánh thánh đâm có tên là Đảng Dân Chủ và TỔ CHỨC! – TỔ CHỨC! Chấm dứt đùa cợt bản thân là Đế Quốc sẽ bảo vệ mày một cách chuyên nghiệp cũng như bán chuyên nghiệp và TỔ CHỨC! Hãy dành thời gian cho ghế băng nhà thời Pentecostal hay tham gia một hội bia cổ xanh và TỔ CHỨC! Hãy gia nhập câu lạc bộ Elks và TỔ CHỨC! Hãy tỉnh ra rằng không có bất cứ đảng nào ở Hoa Kỳ đại diện cho bất cứ thứ gì ngoài lợi ích doanh nghiệp và TỔ CHỨC! Hãy khởi đầu trong cộng đồng da trắng yếu đuối lén lút của mày và TỔ CHỨC! Gõ những cánh cửa và TỔ CHỨC! Lay chuyển thiên đường, trái đất, trái tim, tinh thần và TỔ CHỨC! Nếu có đủ những người làm điều đó, đám thượng lưu chính trị và doanh nghiệp sẽ sợ đến tè ra quần và đánh gục mày luôn như chúng từng làm ở Miami và Seattle. Nhưng ít nhất mày sẽ được viết trong lịch sử như một kẻ cao quý. Ngay bây giờ. Tao loại nó khỏi hệ thống của tao. Hãy coi tất cả những câu nói hay những lời khốn khiếp về Hoa Kỳ ngày nay có ý nghĩa chính trị và phù hợp cuộc bầu cử xảo trá 2004, hãy nói về những giận dữ chính trị và “vấn đề giá trị” được thảo luận nhiều của giai cấp lao động tự kinh doanh cho đến nay vẫn chưa có mặt mũi gì. Hãy nói điều gì đó. Tao vừa cầu nguyện vừa tránh đánh cú chót với những người đó và tao KHÔNG xem những giận dữ được quảng cáo rùm beng về những giá trị thường được trích dẫn nhất, như kiểm soát súng, phá thai, hay hôn nhân đồng tính … Thật sự, đó là vấn đề mà những gã chuyên trích dẫn Kinh Thánh cứng nhắc và những lãnh đạo chính thống đã nhai đi nhai lại suốt nhiều thập kỷ. Các chính khách yêu thích chuyện tào lao đó. Có vẻ như đám truyền thông theo đuôi cũng vậy. Nhưng ở trung tâm đặc biệt này, tao tránh xa khỏi những gã chính thống, tao chỉ đơn giản không nhìn nỗi ám ảnh con người rộng như các thiết chế tự do tuyên bố. Khốn kiếp, tụi tao có ba gã đồng tính và ít nhất một nàng đồng tính hay tụ bạ ở quán rượu lỗ mãng, họ đều có quyền uống, khóc và tán nhảm như bất cứ ai khác. Khi bạn Pootie rậm lông nặng 120 kg của tao nói: “Đồ chết tiệt, tao có rất nhiều điểm chung với đồng tính nữ!” (Mặc dù vậy. tao thừa nhận rằng hôn nhân đồng tính là hơi quá nhiều để chấp nhận trong cuộc bầu cử năm 2004 đối với một số người lao động nghèo. Đó là sự nhìn nhận.). Những người lao động nghèo ở thị trấn của tao giận dữ, nhưng không đặc biệt giận dữ với Cái Nhìn Kỳ Quặc Đối Với Gã Bình Thường, hay những bào thai vô hình. Tao nghĩ sự giận dữ của người lao động ở cấp độ căn bản hơn và đó là về: đẳng cấp và trạng thái của công dân trong xã hội chúng ta. Tao nghĩ đó là về sự tổn thương hàng ngày mà chủ doanh nghiệp, chính quyền, quốc gia, bang và địa phương, cũng như những nghiên cứu sinh Mỹ có giáo dục hơn, các tiến sĩ, luật sư, nhà báo, học giả và những gã lặng lẽ khinh bỉ người lao động với cách hành xử thiếu văn hóa mà họ buộc giai cấp lao động phải gánh chịu. 

Tao nghĩ giai cấp lao động cũng giận dữ về những thứ khác nữa: 

Đó là về sự sỉ nhục mà các ông chủ và các quản lý bắt họ phải chịu đựng – họ đã bị tha hóa thành một đơn vị sản xuất không có mặt mũi gì trong nền kinh tế toàn cầu vinh quang của chúng ta. 

Đó là về việc những tầng lớp có học và những tầng lớp thượng lưu có chuyên môn tương tự khác, chính trị và kinh doanh lảng tránh rằng Hoa Kỳ không thừa nhận họ là thượng lưu. 

Đó là những ưu tiên của ai đó trở nên ít đáng kể và bình thường hơn của những người đầy quyền lực đang quyết định cuộc sống của chúng ta. 

Đó là về việc hàng ngày phải chịu đựng sự thiếu tôn trọng nhân bản của chính quyền, và những cơ quan thể chế khác, ngoại trừ nhà thờ. 

Đó là khi làm việc ở Wal-Mart hay Home Depot hoặc Arby phải đeo một thẻ ghi tên mà không có họ. Mày chỉ là Melanie hay Bobby, ở đó để bợ đít quản lý hoặc tìm kiếm một công việc tạm bợ khác. 

Đó là về nỗ lực sống cuộc đời theo cách duy nhất mày biết bởi vì mày được nuôi dạy theo cách đó. Nhưng đôi khi quy tắc thay đổi đối với mày. 

Đó là về nỗ lực duy trì thứ giống như phẩm giá bề ngoài, khi cả mày và hàng xóm đang sống từ ngày thanh toán này tới ngày thanh toán khác, tuy không ai thừa nhận cả. 

Đó là về những chuyện hoang đường của truyền thông mà mày không bao giờ thấy trong gia đình: quỹ đại học dành sẵn cho lũ trẻ, danh mục cổ phiếu, nhà nghỉ cuối tuần … 

Đó là sự căng thẳng không được thừa nhận của cả hai vợ chồng do làm việc nhiều hơn nhưng chỉ đủ trả tiền điện của năm 1976.

Phải, đó là về giá trị. Đó là về giá trị mà tụi tao đã từng bỏ rơi như một con người – như phẩm giá, giáo dục và cơ hội cho mọi người. Và đó là về sự giận dữ của giai cấp lao động bị đánh lạc hướng khỏi những gì ít nhất họ thấu hiểu. Mày. Và tao. Theo cách này, người lao động mà tao đang nói tới không hoàn toàn khổ sở với cuộc sống, chỉ là giận dữ (và buộc phải giận dữ hơn khi chính quyền Bush cuối cùng cũng đẩy kinh tế quốc gia xuống mép vực thẳm). Họ chỉ đơn giản phản kháng lại sự thay đổi bởi vì nhiều thập kỷ thay đổi đã luôn đem tới những thứ tồi tệ - ngày 11 tháng 9, khủng bố, thuê ngoài … luôn là những điều xấu, tiến thẳng về phía tồi tệ.

Tỉnh dậy, hỡi những kẻ tự do ương bướng!

Một bình luận khốn kiếp về giai cấp lao động Mỹ mà tao phải trả lời, viết về và thể hiện nói chung cho các nhóm tự do thấy sự tồn tại của 250 triệu người lao động Mỹ, có một chiếc xe hơi Mỹ cố định, lát đường phố của họ và ngồi chờ bên bàn ăn từng ngày. Như một biên tập viên sách tự do cao quý và tử tế Thành Phố New York đã nói với tao, “Nhìn từ đây thì người của mày trông giống một dạng ngoại lai, như thể tụi mày đến từ Yemen hay gì đó.” Ôi! 

Đây không phải là nhiếc móc người Mỹ tự do có giáo dục – tốt thôi, OK, một chút. Nhưng nếu người Mỹ tự do có gì đó quá tự mãn thì giai cấp lao động đồng đạo của tao đã hết sức dại dột ngu xuẩn để bị dắt mũi dễ dàng bởi những gã như Karl Rove và gã mộ đạo giả danh George Bush. (Pootie khốn kiếp, Saddam KHÔNG tấn công Trung Tâm Thương Mại Thế Giới!). Mặc dù vậy, đám tự do và giai cấp lao động không cần nhau để sống sót trước những gì chắc chắn sẽ tới, thứ được sẽ được mang đến cho chúng ta bởi chính quyền đã từng hứa hẹn với chúng ta là họ sẽ “điều hành đất nước này như một vụ kinh doanh”. Ôi khốn kiếp, phải, họ sẽ làm điều đó. Thế nên cánh tả phải thật sự suy nghĩ mặt đối mặt với những người Mỹ không thấy cần thiết phải chia sẻ mọi ưu tiên của tụi tao, nếu điều đó có thể lại thích hợp. 

Một khi tụi tao bắt đầu nhìn vào khuôn mặt của những phần đang thay đổi trong nước cộng hòa đang suy tàn này, trên hết là cử tri của giai cấp lao động độc lập không thể cắt nghĩa được này không phải không cắt nghĩa được. Chỉ riêng Chúa, đồng tính, súng thì không giải thích được sự ưa chuộng phe bảo thủ trong cuộc bầu cử năm 2004. Đám tự do có bằng đại học và công nhân cổ xanh cần phải bắt đầu phân tách các vấn đề chính sách trọng yếu từ một biểu tượng. Chiến đấu về thực chất, những vấn đề thực tế mà người lao động bình thường có thể cảm nhận và thấy – đưa ra những lời hứa về những thứ có thật. Giống như chăm sóc sức khỏe được đảm bảo chắc chắn và mức lương đủ sống tử tế. Nói và làm. 

Ai, ô hô! Mọi thứ không đơn giản, bởi vì người Mỹ lao động nghèo, cũng giống như phần còn lại trong số chúng ta, đã trở nên đầy sợ sệt, sùng bái quyền lực, dư thừa sự ngớ ngẩn để từ bỏ thứ heroin vô hồn về chủ nghĩa tiêu dùng rẻ tiền … cũng giống như mày … giống như tao. Họ sẽ không bao giờ đến với chúng ta, nên chúng ta phải đến với họ. Điều đó có nghĩa làm việc nhà thờ, việc ở xã và hồ chứa nước tưới, làm bánh nướng bữa sáng Kiwanis, chỗ làm việc của chúng ta và trông lạ chưa kìa! Ngay cả cái bụng dưới bốc mùi bia nhất của nước Mỹ … nơi tầng lớp trung lưu tự do tốt lành sẽ không cho lũ trẻ của họ tới vì sợ rằng điều đó sẽ làm hỏng điểm SAT quý giá nhỏ nhoi của chúng. Một lần nữa, không ai nói điều đó sẽ dễ dàng. Tình anh em. Tình đoàn kết. Lòng trắc ẩn. Quá lý tưởng? Phù phiếm? Có thể. Nhưng nếu những điều này không là mục tiêu đáng giá, thì chả có gì hết.

Đưa đến tất cả những điều đó theo kiểu hòa bình ngăn nắp sẽ là một con điếm. Sự thật khó nhằn đến nỗi tao không định tham gia mấy. Kệ đời. Tao muốn thoát và ngay lập tức có một cuộc khởi nghĩa vũ trang từ sau cuộc bầu cử tháng 11. Nhưng đó là vấn đề khác và gã đang lắng nghe ở Bộ An Ninh Nội Địa có thể ra một cú đòn chớp nhoáng. Viết thư cho tao ở Gitmo [nhà tù ở vịnh Guantanamo], tất cả tụi mày! Hãy đề địa chỉ người gửi là “Joe từ Yemen”.

Monday, November 10, 2014

Một cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam phản đối chủ nghĩa quân phiệt Hoa Kỳ

Vào ngày 11 tháng 11 hàng năm, Hoa Kỳ sẽ vinh danh những anh hùng chiến tranh của họ. Nhưng nhiều cựu chiến binh Hoa Kỳ lại nghĩ khác, xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch "Reclaim Armistice Day and Honor the Real Heroes" của tác giả Arnold Olivier để biết tâm sự của họ. Tiêu đề bài viết do người dịch đặt.

Khôi phục Ngày Đình Chiến và vinh danh những người hùng chân chính

Không ít những cựu binh, tổ chức Cựu Chiến Binh Vì Hòa Bình cũng trong số họ, đang bối rối vì cái cách mà người Mỹ kỷ niệm lễ Cựu Chiến Binh vào ngày 11 tháng 11. Nguyên gốc của ngày lễ đó là Ngày Đình Chiến*, được Quốc Hội thông qua vào năm 1926 để “duy trì hòa bình bằng ý nguyện tốt lành và sự thấu hiểu đầy thiện cảm giữa các quốc gia, (và sau đó) là một ngày đặc biệt dẫn đến hòa bình thế giới”. Trong nhiều năm, rất nhiều nhà thờ đã rung chuông vào giờ thứ 11 của ngày 11 tháng 11 – giờ khắc mà súng ngừng bắn tại Mặt Trận Phía Tây, cho tới lúc đó 16 triệu người đã chết.

Cần phải nói thẳng ra là vào năm 1954, Ngày Đình Chiến đã bị một quốc hội quân phiệt chiếm đoạt, và ngày nay rất ít người Mỹ còn hiểu mục đích ban đầu của sự kiện đó, hay là nhớ tới nó. Thông điệp tìm kiếm hòa bình đã biến mất. Hiện giờ ngày đó được coi là Ngày Cựu Chiến Binh, nó đã tiến triển thành một dạng lễ tưởng niệm tôn kính theo kiểu chủ nghĩa quốc gia quá khích đối với chiến tranh và các chiến binh được cho là dũng cảm tham chiến. 

Đây là tin tức mới. Hầu hết những gì xảy ra trong thời chiến thật ra là phi anh hùng, và những người hùng trong chiến tranh rất ít cũng như rất thưa thớt.

Tôi sẽ kể cho các bạn nghe về thời gian tôi ở Việt Nam, tôi không phải là người hùng, và tôi không chứng kiến bất cứ chủ nghĩa anh hùng nào trong những năm tôi ở đó, đầu tiên là binh nhì và sau đó là trung sĩ quân đội Hoa Kỳ.

Đúng như vậy, có chủ nghĩa anh hùng trong chiến tranh Việt Nam. Ở cả hai phía tham gia xung đột đều có những hành động cao quý như hy sinh bản thân và dũng cảm. Quân lính trong đơn vị của tôi ngạc nhiên về việc quân lính Bắc Việt có thể kiên trì đối mặt suốt nhiều năm với hỏa lực dữ dội của Hoa Kỳ. Các y tá của quân đội Hoa Kỳ đã có những hành động dũng cảm khó tin để giải cứu thương binh dưới làn đạn.

Nhưng tôi cũng chứng kiến một số lượng đáng kể những hành vi xấu, một số là của bản thân tôi. Việc thiếu tôn trọng và lạm dụng thường dân Việt Nam, trong đó có rất nhiều tội ác chiến tranh, là phổ biến. Hơn nữa, mọi đơn vị đều có, và vẫn có các thành phần tội phạm, lừa đảo và côn đồ. Thiếu anh hùng nhất là các lãnh đạo quân sự và dân sự của Hoa Kỳ, những người này lập kế hoạch, dàn dựng và kiếm lợi lớn từ cuộc chiến hoàn toàn có thể tránh khỏi đó.

Sự thật rùng mình là cuộc xâm lược và chiếm đóng Việt Nam của Hoa Kỳ không liên quan gì đến việc bảo vệ hòa bình và tự do của Hoa Kỳ. Trái lại, chiến tranh Việt Nam đã chia rẽ Hoa Kỳ một cách cay đắng, và chiến tranh là để ngăn chặn chứ không phải bảo vệ sự độc lập của Việt Nam.

Không may mắn, Việt Nam không phải là ví dụ duy nhất. Nhiều cuộc chiến của Hoa Kỳ - trong đó có cuộc chiến tranh Mexico-Hoa Kỳ năm 1846, cuộc chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ năm 1898, và cuộc chiến tranh Iraq (danh sách không phải là đầy đủ) – được tiến hành với cái cớ ngụy tạo để chống lại các quốc gia không hề đe dọa Hoa Kỳ. Khó có thể hiểu được anh hùng ra sao khi lao vào những cuộc chiến tranh phi nghĩa. 

Nhưng nếu đại đa số các cuộc chiến không diễn ra bởi các lý do cao quý, và chỉ có một ít binh lính là anh hùng, thì có anh hùng thực sự nào đã bảo vệ cho hòa bình và tự do không? Nếu có thì họ là ai?

Tốt thôi, có rất nhiều, từ thời Chúa Jesus cho đến hiện giờ. Tôi liệt kê Gandhi, Tolstoy, tiến sĩ Martin Luther King, Jr. trong cùng một danh sách với nhiều người dòng Quaker và Mennonite. Cũng không nên quên tướng Smedley Buttler, người đã viết rằng “Chiến tranh là một thủ đoạn làm tiền”, và thậm chí là những loại như Robert McNamara, người đã đến vào phút chót.

Ở Việt Nam, chuẩn úy Hugh Thompson đã ngăn chặn không cho vụ thảm sát Mỹ Lai trở nên tồi tệ hơn.

Một ứng cử viên khác là cựu chuyên gia quân đội Hoa Kỳ Josh Stieber, người đã gửi thông điệp này tới người dân Iraq: “Trái tim nặng nề của chúng tôi vẫn nuôi hy vọng rằng chúng tôi có thể khôi phục sự thừa nhận trong nội bộ quốc gia của chúng tôi đối với bản chất con người của các bạn, thứ mà các bạn đã được dạy phải phủ nhận”. Hãy cân nhắc về một triệu người Iraq đã chết. Chelsea Manning ngồi sau chấn song sắt để trưng bày điều đó và những sự thật khác.

Những người hùng thật sự là những người chống lại chiến tranh và chủ nghĩa quân phiệt, thường là với thiệt hại cá nhân rất lớn.

Bởi vì chủ nghĩa quân phiệt đã tồn tại từ rất lâu, ít nhất từ khi Gilgamesh cùng với chiếc khiên lưới đi tới Sumeria vào khoảng 5000 năm trước đây, người ta cho rằng điều đó luôn luôn ở bên chúng ta. Nhưng nhiều người cũng nghĩ rằng bắt phụ nữ làm nô lệ và nô dịch sẽ tồn tại mãi mãi, và họ đã được chứng minh là sai. Chúng ta hiểu rằng chủ nghĩa quân phiệt sẽ không biến mất sau một đêm, loại bỏ nó là điều bắt buộc nếu chúng ta muốn tránh phá sản về mặt kinh tế cũng như đạo đức.

Như vị tướng nội chiến W. T. Sherman đã nói ở West Point, “Tôi thú nhận không hề xấu hổ rằng tôi mệt mỏi và phát ốm vì chiến tranh”. Chúng tôi sát cánh với bạn, người anh em.

Ngày 11 tháng 11 năm nay, Cựu Chiến Binh Vì Hòa Bình sẽ khôi phục lại truyền thống ban đầu của Ngày Đình Chiến. Hãy tham gia với chúng tôi và để cho những cái chuông được rung lên.

Arnold “Skip” Oliver writes for Peace Voice and is Professor Emeritus of Political Science at Heidelberg University in Tiffin, Ohio. A Vietnam veteran, he belongs to Veterans For Peace, and can be reached at soliver@heidelberg.edu.

*Chú thích của người dịch: Ngày Đình Chiến là ngày lễ kỷ niệm kết thúc chiến tranh thế giới thứ I

Sunday, November 9, 2014

Cách mạng ở Hoa Kỳ

Tại sao cần có một cuộc cách mạng ở Hoa Kỳ? Đế quốc Hoa Kỳ phi dân chủ ra sao? Họ tấn công thế giới Hồi Giáo để làm gì? Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Revolution in the United States" của tác giả Garry Leech để có câu trả lời.

Cách mạng ở Hoa Kỳ

Tại sao một số ít người lại có thể áp đặt cuộc sống của rất nhiều người? Tôi không đề cập tới vấn đề 1% và 99%. Tôi đang nói về số cử tri ở Hoa Kỳ và những tay chân Canada và Anh của họ. Trong khi đó, hàng tỷ người trên thế giới có cuộc sống chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những quyết định của các quan chức dân cử ở những quốc gia thịnh vượng dường như không có tiếng nói. Đế quốc Hoa Kỳ hoàn toàn không dân chủ. Nó là toàn trị! Nó là đế quốc! Nó bất công! Cần có một cuộc cách mạng.

Vào cuộc bầu cử tổng thống năm 2012, 121 triệu người Mỹ bỏ phiếu, chiếm 57% số người trong độ tuổi bầu cử. Tuy tổng số phiếu bầu không đạt đa số tuyệt đối nhưng cũng đủ đảm bảo sự hợp hiến cho hệ thống chính trị Hoa Kỳ, nhất là trong con mắt của nhiều người Mỹ.

Nhưng quyết định chính trị do các quan chức dân cử Hoa Kỳ đưa ra vượt ra ngoài biên giới quốc gia rất xa. Thông qua chính sách đối ngoại và vai trò thống trị trong các thiết chế quốc tế như Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, NATO, Quỹ Tiền Tệ Thế Giới (IMF) và Ngân Hàng Thế Giới, Hoa Kỳ tác động đến cuộc sống của hầu hết mọi người trên trái đất. Hay nói cách khác, sự lựa chọn của 121 triệu người Mỹ tác động trực tiếp đến cuộc sống của hàng tỷ người trên trái đất. Dân chủ ở đâu?

Các biên giới quốc gia liên tục bị bào mòn dưới danh nghĩa của chủ nghĩa tư bản “thị trường tự do”, để doanh nghiệp có thể di chuyển tư bản và lợi nhuận quanh trái đất, nhằm khai thác lợi thế về lao động và tài nguyên thiên nhiên giá rẻ, đặc biệt là ở bán cầu phía Nam. Nhưng khi kinh tế ngày càng bị toàn cầu hóa thì dân chủ lại vẫn cắm rễ vào quốc gia-nhà nước. 

Song mọi quốc gia không bình đẳng. Hoa Kỳ được thừa hưởng vai trò mà những kẻ thực dân Châu Âu đã nắm giữ từ hàng trăm năm nay. Giống như tầng lớp cai trị ở các hệ thống thuộc địa cũ, Hoa Kỳ nắm giữ một khối lượng bất cân xứng về quyền lực chính trị, kinh tế và quân sự trong chủ nghĩa đế quốc hiện thời. Kết quả của sự thống trị đó là 121 triệu cử tri người Mỹ quyết định số phận của hàng tỷ người trên trái đất bốn năm một lần. 

Nhưng số phận của dân cư trên thế giới là một điều cực kỳ xa lạ với suy nghĩ của đại đa số cử tri trong thời gian bầu cử. Họ chủ yếu tập trung vào các lợi ích nhất thời như việc làm, thuế khóa, an ninh và các vấn đề khác, những vấn đề mà họ thấy là quan trọng đối với đời sống hàng ngày của họ. Họ không quan tâm – hay không nhìn thấy – các chính sách chính trị, kinh tế và quân sự được chính quyền mà họ lựa chọn triển khai trên toàn cầu có tác động tiêu cực đến đời sống của rất nhiều người trên thế giới ra sao. Hệ quả là có rất ít người Mỹ bỏ phiếu chống lại những gì họ cho là lợi ích của bản thân để ủng hộ lợi ích của đa số nhân dân trên thế giới. 

Điều gì sẽ xảy ra khi những người chịu tác động tiêu cực từ chính sách của Hoa Kỳ tìm cách tự mình đối đầu với mô hình đế quốc Hoa Kỳ phi dân chủ? Washington không thể tránh khỏi phải trả lời bằng bạo lực để bảo vệ hiện trạng. Đó là lý do tại sao có rất nhiều người trên thế giới không tin rằng Hoa Kỳ là lực lượng của điều tốt. Trên thực tế, theo kết quả một khảo sát tại 68 quốc gia vào năm 2013 của WIN/Gallup, Hoa Kỳ được coi là mối nguy hiểm lớn nhất đối với hòa bình thế giới – như mỗi năm khảo sát được thực hiện. 

Đế quốc Hoa Kỳ

Sự thống trị chính trị toàn cầu của Hoa Kỳ tự khẳng định bản thân thông qua hỗ trợ quân sự và kinh tế cho các chính quyền đồng minh, bất kể là các chính quyền đó có tham nhũng, phi dân chủ và bạo lực đến đâu khi bảo vệ các lợi ích của Hoa Kỳ. Những lợi ích đó chủ yếu dựa trên việc cho phép các hoạt động tìm kiếm lợi nhuận của các công ty đa quốc gia và đảm bảo sự tiếp diễn của phong cách sống tiêu dùng mà nhiều người Mỹ đang tận hưởng. 

Hậu quả của việc ưu tiên lợi nhuận doanh nghiệp và phong cách sống tiêu dùng ở các quốc gia giàu có là sự tàn phá đối với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Theo như Tổ Chức Y Tế Thế Giới, hơn 10 triệu người chết hàng năm ở Châu Mỹ Latin, Châu Phi và Châu Á do thiếu chăm sóc y tế và thuốc men thích hợp.

Ví dụ, các công ty dược phẩm sản xuất các thuốc men kiểu “phong cách sống” để xử lý các vấn đề khó chịu hay các nguy cơ không tổn hại tính mạng cho người dân ở các nước giàu, những người có thể mua chúng, thì có lợi nhuận hơn là chế tạo các dược phẩm thiết yếu cho người nghèo, những người không tạo ra thị trường khả thi. Hệ quả không thể tránh khỏi là diệt chủng cơ cấu; một thảm kịch đang mà bệnh dịch Ebola ở Tây Phi đang cho thấy rõ.

Khi các chính quyền trở nên can đảm và thách thức các lợi ích của Hoa Kỳ thì Washington sẽ không thể không trả lời bằng trừng phạt kinh tế, ủng hộ các cuộc đảo chính quân sự và nếu cần thiết là can thiệp quân sự trực tiếp. Mục tiêu là đảm bảo rằng mô hình tư bản chủ nghĩa sẽ thống trị khắp thế giới. Để đảm bảo mô hình đó được chấp nhận là hợp pháp thì điều cốt yếu là nhân dân khắp thế giới phải thấm nhuần các giá trị tự do phương Tây. Đó chính là lý do tại sao Hoa Kỳ can thiệp quân sự vào thế giới Hồi Giáo, trái ngược với những hùng biện phát ra từ Nhà Trắng, là một cuộc chiến tranh chống lại Hồi Giáo. Sự chấp nhận các giá trị tự do phương Tây là cần thiết để duy trì chủ nghĩa tư bản và rất nhiều các giá trị của chủ nghĩa cá nhân mâu thuẫn với một số giá trị tập thể của Hồi Giáo.

Các cuộc can thiệp quân sự tiếp diễn ở Trung Đông và Trung Á là một sự tiếp tục xây dựng đế quốc được bắt đầu từ năm 1492, sau khi Christopher Columbus “khám phá” ra Châu Mỹ. Các giá trị và hoạt động văn hóa của người bản địa Châu Mỹ không phù hợp với các giá trị tự do và Thiên Chúa Giáo nổi bật ở Châu Âu, nhất là là tư tưởng Khai Sáng, thứ đã cung cấp nền tảng triết học cho chủ nghĩa tư bản. Hệ quả là những thổ dân phản kháng – và cả những người không phản kháng – sự áp đặt của những giá trị Châu Âu đối với văn hóa của họ đã bị tàn sát.

Đa số những người sống sót đã bị nhốt trong các khu bảo tồn và từ thế hệ này sang thế hệ khác là đối tượng của sự đồng hóa thông qua hệ thống giáo dục lấy Châu Âu làm trung tâm. Tương tự ở Châu Phi và Châu Á, chủ nghĩa thực dân Châu Âu đã áp đặt các ý tưởng tự do và Thiên Chúa Giáo cho người dân, buộc họ ghi nhớ các giá trị Châu Âu thiết yếu để chấp nhận hệ thống chủ nghĩa tư bản đang điều khiển các dự án thuộc địa.

Nhiều nỗ lực gần đây thách thức quá trình đó của chủ nghĩa đế quốc đều bị đáp lại bằng bạo lực. Hoa Kỳ đã lật đổ hầu như mọi chính quyền đối đầu với sự thống trị của họ. Đây là chỉ là danh sách một phần các quốc gia có chính quyền bị lật đổ trong các cuộc đảo chính do Hoa Kỳ hậu thuẫn hay can thiệp quân sự trong những thập kỷ gần đây: Iran (1953), Guatemala (1954), Nam Việt Nam (1963)*, Brazil (1964), Indonesia (1965), Chile (1973), Argentina (1976), Haiti (1991 and 2004), Afghanistan (2001), Iraq (2003), Honduras (2009) và Libya (2011). Một số chính quyền đó được lựa chọn dân chủ trong tự do và bầu cử công bằng. 

Những chính quyền khác đủ can đảm đối đầu với sự thống trị của Hoa Kỳ phải rất nỗ lực trong đơn độc để tồn tại trước những âm mưu lật đổ. Cuba đẩy lùi cuộc xâm lược Vịnh Con Lợn năm 1961 và phải cam chịu lệnh cấm vận kinh tế của Hoa Kỳ hơn nửa thế kỷ. Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc mới đây bỏ phiếu với đa số tuyệt đối lên án lệnh cấm vận lần thứ 23, 188 quốc gia đã kêu gọi chấm dứt lệnh cấm vận và chỉ có hai nước – Hoa Kỳ và Israel – bỏ phiếu chống lại nghị quyết đó. Tương tự, Venezuela đã trụ được qua cuộc đảo chính do Hoa Kỳ hậu thuẫn vào năm 2002 nhằm lật đổ tổng thống Chavez và tiếp đó thường xuyên bị các chính khách Hoa Kỳ bôi nhọ.

Cực đoan hóa Hồi Giáo 

Chủ nghĩa quân phiệt Hoa Kỳ trong thế giới Hồi Giáo cũng tìm cách đối đầu với những ai phản đối việc phổ biến các giá trị tự do phương Tây thiết yếu đối với toàn cầu hóa chủ nghĩa tư bản. Năm mươi năm trước đây không hề có các nhóm Hồi Giáo cực đoan nổi bật nào. Sự tiến hóa hiện thời của chủ nghĩa cực đoan có thể bắt đầu từ khi Hoa Kỳ hậu thuẫn cho việc lật đổ thủ tướng thế tục và được tín nhiệm Mohamad Mossadegh của Iran vào năm 1953 sau khi ông ta quốc hữu hóa công nghiệp dầu mỏ. Shah đã được tái lập làm người cai trị Iran và ông ta lập tức lại mở cửa quốc gia cho các công ty dầu mỏ phương Tây, đồng thời cảnh sát mật được Hoa Kỳ huấn luyện của ông ta đàn áp tàn bạo những người bất đồng chính kiến.

Dưới sự cai trị độc đoán của chính quyền Shah do Hoa Kỳ hậu thuẫn thì hoạt động văn hóa phương Tây trở thành phổ biến ở Iran cùng với sự hiện diện của rất nhiều công nhân dầu mỏ Hoa Kỳ và Anh. Đồng thời, một số lượng ngày càng lớn người Iran phải gánh chịu sự nghèo khổ khi Shah và công nhân dầu mỏ phương Tây đánh cắp tài nguyên giàu có của quốc gia ngay trước mắt họ. Sự oán giận lớn dần bắt nguồn từ tình trạng ấy đã tạo ra môi trường lý tưởng để chủ nghĩa Hồi Giáo chính thống xây dựng lực lượng trong lòng nhân dân Iran. Vào năm 1979, đa số người Iran đã ủng hộ cuộc cách mạng của những người chính thống, lật đổ chế độ tha hóa và tàn bạo của Shah. 

Trong những thập kỷ tiếp theo, sự ủng hộ của Washington đối với các chính phủ tha hóa nhưng phục vụ cho lợi ích của phương Tây trong khu vực, đặc biệt là liên quan đến việc đảm bảo cho dầu chảy liên tục, đã cực đoan hóa nhiều thành phần của thế giới Hồi giáo. Hoa Kỳ đã viện trợ quân sự và kinh tế hơn 4 tỷ dollar cho những kẻ nổi loạn Mujahideen, để họ chống lại Liên Bang Soviet ở Afghanistan trong những năm 1980. Một trong những kẻ nổi loạn Mujahideen được Hoa Kỳ hậu thuẫn là Osama bin Laden, sau khi loại bỏ những kẻ xâm lược Soviet của phương Tây khỏi thế giới Hồi giáo, ông ta đã thành lập Al-Qaeda và chuyển hướng sang kẻ xâm lược phương Tây cuối cùng, khi quân đội Hoa Kỳ lập căn cứ ở Arab Saudi vào năm 1991. Rất nhiều cuộc can thiệp quân sự của Hoa Kỳ tại khu vực kể từ năm 1991 và sự hỗ trợ vô điều kiện của Washington cho Israel đã chỉ đổ thêm dầu vào ngọn lửa của chủ nghĩa cực đoan.

Rõ ràng là can thiệp quân sự của Hoa Kỳ ở Trung Đông không xuất phát từ động cơ khuyến khích dân chủ và nhân quyền. Trên hết, nếu chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ bắt nguồn từ những động cơ cao quý đó thì Washington đã lật đổ từ lâu chế độ độc tài tàn nhẫn tại nước đồng minh thân cận Arab Saudi của họ cũng như giải thoát khu vực khỏi những người bạn toàn trị của họ. Cần biết là chính quyền Arab Saudi thường xuyên chặt đầu công khai người dân của họ - 19 người vào tháng 7 và 8 – quyết định của Obama cho phép quân đội Hoa Kỳ với những kẻ chặt đầu Saudi chiến đấu chống lại những kẻ chặt đầu của Quốc Gia Hồi Giáo đã chứng minh hùng hồn về nhân quyền. Hiển nhiên là việc chặt đầu tự bản thân nó không làm ai đó trở thành “độc ác”, giống như việc chặt đầu người phương Tây để chống lại các lợi ích kinh tế của Hoa Kỳ.

Sự thất bại của những nhóm quốc gia thế tục và ôn hòa hơn trong việc đáp ứng nhu cầu của chủ nghĩa Hồi giáo đã dẫn đến sự trỗi dậy của các tổ chức chính thống cực đoan hơn như Hezbollah, Hamas, Taliaban, al-Qaeda và giờ là Nhà Nước Hồi Giáo. Nói ngắn gọn, chúng ta chứng kiến sự cực đoan hóa trên quy mô khu vực tương tự như những gì đã diễn ra trên quy mô quốc gia ở Iran sau khi Hoa Kỳ can thiệp và ủng hộ chế độ Shah tàn bạo.

Chính sách đế quốc của Washington ưu tiên cho các lợi ích của công ty dầu mỏ và kinh tế phương Tây hơn nhân dân Hồi Giáo. Không có gì đáng ngạc nhiên khi điều đó dẫn đến sự cực đoan hóa của phe đối đầu với can thiệp quân sự, chính trị và kinh tế của Hoa Kỳ vào thế giới Hồi Giáo. Hoa Kỳ phản ứng trước sự trỗi dậy của chủ nghĩa cực đoan không phải bằng cách xem xét lại phương thức tiếp cận kiểu đế quốc của họ, mà theo cách ngược lại là gia tăng chúng. Các cuộc xâm lược và chiếm đóng quân sự do Hoa Kỳ cầm đầu ở Afghamistan và Iraq còn có thể giải thích theo cách nào khác? Ở cả hai quốc gia đó, mục tiêu là áp đặt bằng quân sự nền dân chủ tự do kiểu phương Tây đối với người dân Hồi Giáo và sáp nhập tài nguyên cũng như kinh tế của những quốc gia đó vào hệ thống tư bản toàn cầu.

Bất chấp những hùng biện được lặp đi lặp lại của các lãnh đạo phương Tây rằng can thiệp quân sự vào khu vực không tạo thành cuộc chiến tranh chống Hồi Giáo, đó chính là chiến tranh chống Hồi Giáo. Đó là cuộc chiến tranh chống lại các giá trị Hồi Giáo vốn xung đột với hoạt động tìm kiếm lợi nhuận thô bạo và bất nhân của các công ty đa quốc gia cũng như các ngân hàng đầu tư. Đó là cuộc chiến tranh chống lại các giá trị tập thể và niềm tin, những thứ vốn xung đột với chủ nghĩa cá nhân và văn hóa tiêu dùng buông thả trong cốt lõi của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Đó là cuộc chiến tranh chống lại những người Hồi Giáo đã hết ảo tưởng với mô hình dân chủ và hệ thống kinh tế chỉ mang lại cho họ sự bất lực và bần cùng.

Toàn cầu hóa theo kiểu tân tự do không chỉ khiến cho thế giới Hồi Giáo nghèo khổ, mà nó cũng thất bại trong việc đem lại tiếng nói chính trị của họ thông qua hòm phiếu. Khi người Hồi Giáo lựa chọn một đảng Hồi Giáo trong các cuộc bầu cử kiểu phương Tây, chính phủ mới sẽ lập tức trở thành mục tiêu của Hoa Kỳ và đồng minh của họ. Người Ai Cập nổi dậy trên đường phố vào năm 2011 trong Mùa Xuân Arab đòi lật đổ nhà độc tài Hosni Mubarak được Hoa Kỳ hậu thuẫn và bầu cử được tổ chức. Năm tiếp theo, đa số người dân Ai Cập lựa chọn ứng cử viên tổng thống đại diện cho tổ chức Hồi Giáo của quốc gia, Huynh Đệ Hồi Giáo. Một năm sau, Washington và đồng minh của họ quay mặt làm ngơ khi quân đội Ai Cập do Hoa Kỳ hậu thuẫn đã đảo chính lật đổ chính quyền được bầu chọn dân chủ. 

Đây không phải là lần đầu tiên các quyền lực phương Tây phá hoại dân chủ trong thế giới Hồi Giáo. Vào năm 1991, khi kết quả bầu cử nghị viện ở Algeria cho thấy có vẻ Mặt Trận Cứu Nguy Hồi Giáo sẽ thắng với đa số 2/3, quân đội đã can thiệp và hủy bỏ cuộc bầu cử, không cho phép đảng Hồi Giáo thắng cử. Hoa Kỳ và Pháp hỗ trợ cuộc đảo chính đó bởi vì họ phản đối việc thiết lập một chính quyền Hồi Giáo ở Algeria, ngay cả khi chính quyền được bầu cử dân chủ đó đại diện cho nguyện vọng của đa số người dân Algeria. Cái giá của việc phá hoại tiến trình dân chủ đó là một cuộc nội chiến cướp đi sinh mạng của hơn 150.000 người trong thập kỷ tiếp theo. 

Tương tự vào năm 2006, người dân Palestin bỏ phiếu cho đảng Hồi Giáo Hamas nhiều hơn là đảng Fatah, kết quả là Hamas được 76 ghế còn Fatah được 45 ghế, do đó Hamas có quyền thành lập chính phủ. Hoa Kỳ, Canada và Liên Minh Châu Âu đáp lại kết quả bầu cử bằng cách ngay lập tức cắt viện trợ cho chính phủ Hamas và cho phép Israel phong tỏa một cách vô nhân đạo căn cứ của Hamas ở dải Gaza. Những trường hợp đó đã gửi một thông điệp rõ ràng đến cho người Hồi Giáo: Chấp nhận dân chủ theo kiểu phương Tây nhưng không được bầu cho đảng Hồi Giáo. Có gì ngạc nhiên khi ngày càng nhiều người Hồi Giáo vỡ mộng với dân chủ kiểu phương Tây và hệ thống kinh tế toàn cầu chủ yếu phục vụ cho lợi ích phương Tây?

Sự vỡ mộng đó đã thể hiện bản thân trong một “nguy cơ” bắt nguồn tự cuộc xâm lược và chiếm đóng Iraq của Hoa Kỳ. Nhà Nước Hồi Giáo còn cực đoan hơn cả al-Qaeda trong những nỗ lực chống đế quốc phương Tây. Bất chấp thực tế, phương Tây đáp lại Nhà Nước Hồi Giáo bằng bản sao của cuộc can thiệp quân sự trước đó ở Trung Đông, thứ đã khai sinh ra al-Qaeda và Nhà Nước Hồi Giáo. 

Washington đang gia tăng can thiệp quân sự vào thế giới Hồi Giáo, họ đã giết hại hàng ngàn thường dân vô tội. Trong thực tế, số lượng người Hồi Giáo vô tội bị bom Mỹ giết hại đã vượt xa số người phương Tây bị các nhóm Hồi Giáo cực đoan giết hại. Lịch sử cho thấy rằng ngay cả khi quân đội Hoa Kỳ và đồng minh đánh bại Nhà Nước Hồi Giáo, số lượng thường dân bị quân đội phương Tây giết hại sẽ lại dẫn đến việc một nhóm cực đoan hơn nữa xuất hiện để thay thế Nhà Nước Hồi Giáo.

Nguyên nhân thực sự khiến Hoa Kỳ và đồng minh phương Tây nhắm vào Nhà Nước Hồi Giáo dường như sẽ rõ ràng hơn khi so sánh nhóm cực đoan đó với các cartel ma túy Mexico. Cartel ma túy Mexico là mối đe dọa bạo lực lớn hơn đối với thường dân, bao gồm cả người Mỹ, hơn là Nhà Nước Hồi Giáo. Họ đã giết hại hơn 13.000 người trong năm 2013, gần gấp đôi số người chết ở Iraq. Quan trọng hơn theo quan điểm của Hoa Kỳ, hơn 300 công dân Hoa Kỳ đã bị cartel ma túy Mexico sát hại trong 6 năm qua, vượt xa số người Mỹ bị Nhà Nước Hồi Giáo giết hại.

Hơn nữa, các cartel không chỉ chặt đầu các nạn nhân, họ còn chặt xác ra nhiều mảnh. Họ thường xuyên tuyển mộ các thiếu niên tầm 11 tuổi và thường xuyên tấn công phụ nữ và trẻ em. Các cartel kiểm soát các khu vực lãnh thổ rộng lớn ở miền Bắc Mexico và chính quyền không thể đánh bại họ. Mặc dù vậy, chúng ta không ném bom miền Bắc Mexico để tiêu diệt nhóm bạo lực đó. Tại sao không? Bởi vì đó không phải là loại khuyến khích nhân quyền hay dân chủ mà chính quyền Hoa Kỳ muốn làm; Washington chỉ phản ứng trước các nguy cơ rõ ràng đối với hệ thống tư bản.

Ở Mexico, các hoạt động bạo lực của cartel ma túy không xâm hại đến năng lực tạo lợi nhuận dựa trên bóc lột lao động và tài nguyên tự nhiên giá rẻ của các công ty đa quốc gia. Các cartel ma túy không gây phiền toái cho mô hình kinh tế tự do thương mại, vốn hiện diện công khai ở Mexico với Hiệp Định Tự Do Thương Mại Bắc Mỹ (NAFTA). Mặt trái là những kẻ buôn ma túy dựa trên dòng thương mại thường xuyên và liên tục qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico để vận chuyển ma túy. Nói ngắn gọn, không giống như Nhà Nước Hồi Giáo, các cartel ma túy Mexico không thách thức các giá trị tự do phương Tây cũng như mô hình kinh tế tư bản mà Hoa Kỳ khuếch trương.

Kết luận

Chủ nghĩa đế quốc phương Tây đã tiêu tốn hơn 500 năm để áp đặt các giá trị phương Tây cho người dân khắp thế giới. Những người dân đó không bao giờ có tiếng nói trong các chính sách chính trị, xã hội và kinh tế được áp đặt cho họ. Chủ nghĩa đế quốc, theo định nghĩa, là phi dân chủ. Trong khi chính sách của Hoa Kỳ ảnh hưởng đến hàng tỷ người trên thế giới, chỉ có một ít phần trăm dân số toàn cầu có tiếng nói trong việc lựa chọn chính quyền đó. Đại đa số trong 121 triệu cử tri người Mỹ không mấy quan tâm đến vệc lá phiếu của họ sẽ có ảnh hưởng ra sao tới người Hồi Giáo ở Trung Đông, thổ dân ở Châu Mỹ Latin, và hàng triệu người khác khắp Châu Phi, Châu Á. Quyết định bầu cử của họ chủ yếu được xác định dựa vào nhận thức về các nhu cầu tức thời, thứ đó là cái vỏ hợp hiến không chỉ cho dân chủ Hoa Kỳ mà còn cho cả chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ.

Hệ quả là dường như trong một tương lai có thể thấy trước, một cuộc cách mạng sẽ nổ ra ở trái tim của đế quốc. Có vẻ là sẽ nổ ra ở các khu vực hẻo lánh của Đế quốc Hoa Kỳ. Trong thực tế, đã có nhiều dạng cách mạng diễn ra, từ phong trào thổ dân đòi chủ quyền ở Châu Mỹ Latin tới các nhóm Hồi Giáo chính thống cực đoan như al-Qaeda và Nhà Nước Hồi Giáo ở Trung Đông. Vào lúc này, đại đa số dân chúng thế giới đang đối đầu với chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ một cách ôn hòa, họ tìm kiếm chủ quyền và tiếng nói trong các quyết định chủ chốt có ảnh hưởng đến đời sống của họ theo cách bất bạo động. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục tiêu diệt mọi sự đối đầu ôn hòa với chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ, chúng ta sẽ phổ cập những dạng chủ nghĩa cực đoan như đang trỗi dậy ở Trung Đông.

Vì lợi ích của thế giới, điều quan trọng là một cuộc cách mạng diễn ra để lật đổ hệ thống đế quốc Hoa Kỳ trước khi các thế lực bạo lực cực đoan châm ngòi cho hỗn loạn toàn cầu. Nếu đế quốc Hoa Kỳ không bị lật đổ bởi những người đang sống tại trung tâm của nó thì cũng sẽ bị lật đổ bởi những “đối tượng” của nó ở những khu vực hẻo lánh, những người đang phải gánh chịu thuế khóa – thông qua việc bóc lột lao động và tài nguyên giá rẻ của họ - mà không có ai đại diện. Trên hết, chúng ta không có gì để mất ngoài xiềng xích của mình.


Garry Leech is an independent journalist and author of numerous books including Capitalism: A Structural Genocide (Zed Books, 2012); Beyond Bogota: Diary of a Drug War Journalist in Colombia (Beacon Press, 2009); and Crude Interventions: The United States Oil and the New World Disorder (Zed Books, 2006). ). He is also a lecturer in the Department of Political Science at Cape Breton University in Canada.

*Chú thích của người dịch: Tác giả đã nhầm lẫn về vụ đảo chính lật đổ nhà độc tài Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam năm 1963. Ngô Đình Diệm chưa bao giờ chống lại Mỹ để bảo vệ lợi ích quốc gia. Ông ta rất trung thành với Mỹ nhưng thất bại trong việc thực thi các chính sách của Mỹ và ngoan cố không chịu rời bỏ quyền lực khi đã hết giá trị lợi dụng. Do đó, Mỹ buộc phải cho tay chân lật đổ Ngô Đình Diệm.