Friday, November 7, 2014

Những trận chiến bất bình đẳng

Sự bất bình đẳng thu nhập đang tăng lên trên thế giới, và nó dẫn đến hàng loạt những vấn đề khác. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Inequality Battles" của tác giả John White để biết thêm chi tiết.

Những trận chiến bất bình đẳng

Kết quả đây! – bất bình đẳng trở nên tồi tệ hơn. Hay ít nhất một số người có quyền lực đang xì xầm bàn tán về nó, từ chủ tịch Fed Janet Yellen tới thống đốc Ngân Hàng Anh Quốc Mark Carney. Không chỉ là Thomas Piketty, phong trào Chiếm Đóng khắp thế giới hay Oxfarm, đã tóm lược sự bất bình đẳng trong thế giới mới cũ kĩ của chúng ta bằng dải âm thanh quyến rũ nhất: 85 = 3.5 tỷ. Vâng, đó là 85 như trong 85 người.

Bất bình đẳng không khó để thấy trong quá khứ, nhưng có thể là thêm vài người có quyền lực đang nhận thấy sự nguy hiểm của một thế giới thường xuyên mắc nợ. Nhưng tại sao hiện nay là sự chú ý hàng đầu? Dường như bất bình đẳng lớn hơn có thể báo hiệu suy thoái, và đẩy kinh tế vào tình trạng đình đốn. Không bao giờ lòng vị tha hay phép tắc nhân đạo cơ bản khiến chính quyền lo lắng, đó là kinh tế và theo đuổi không ngừng tăng trưởng với bất kỳ giá nào.

Nhưng chúng ta phải quan ngại bởi vì sự thống khổ và kinh hãi thực sự trong cuộc sống của nhiều người. 

Dĩ nhiên thống kê kinh khủng nhất là Bảng Báo Cáo 12 của UNICEF, ghi nhận rằng “2,6 triệu trẻ em đã tụt xuống dưới mức nghèo khổ tại các quốc gia có thịnh vượng nhất thế giới kể từ năm 2008, dẫn đến tổng số trẻ em sống trong nghèo khổ ở thế giới phát triển vào khoảng 76,5 triệu”. Đó mới chỉ là thế giới phát triển. Ai đó không cần phải nhìn lại sân sau để thấy sự tàn phá của hệ thống kinh tế rất ít quan tâm tới những người nghèo yếu thế nhất trong chúng ta.

Một cái nhìn sâu hơn đối với báo cáo của UNICEF cho thấy sự nghèo khổ ở trẻ em đang gia tăng ở đa số các quốc gia OECD được khảo sát. Tại Ireland và Hy Lạp, các quốc gia có chương trình thắt lưng buộc bụng, sự nghèo khổ ở trẻ em đã tăng hơn 50% kể từ năm 2008. Ở Hoa Kỳ, từ khi cuộc khủng hoảng bắt đầu, sự nghèo khổ ở trẻ em đã gia tăng ở 34 bang, hơn 24 triệu trẻ em sống dưới mức nghèo khổ. Dĩ nhiên không phải là cuộc “khủng hoảng” với tất cả mọi người, khi sự giàu có của nhóm Forbes 500 đo bằng đơn vị nghìn tỷ hay nhóm Dow Jones đã tăng gấp đôi so với khi “khủng hoảng” bắt đầu. Về sự gia tăng nghèo khổ ở Hoa Kỳ, Chery và Mercier đã ghi nhận ngắn gọn rằng “Tầng lớp trung lưu trở thành nghèo khổ, và người nghèo khổ thì hiện giờ cùng cực” (Sống với 2 dollar/ngày, ngày 9 tháng 9).

Nếu ai đó ngại nhìn, chúng ta cũng có thể thấy Ebola không phải là vấn đề thể chất mà là vấn đề của nghèo đói. Các cơ sở chăm sóc y tế cơ bản vốn thiếu thốn ở một trong những khu vực bần cùng nhất thế giới, lại tiếp tục bị cướp đoạt bởi nhiều năm nội chiến. Nếu virus kiểu như Ebola xuất hiện ở Hoa Kỳ vào năm 1865, nó sẽ cướp đi số sinh mạng nhiều hơn bốn năm chiến tranh và làm cho sự thịnh vượng ngày nay bất khả thi. Quả thực, thể chất tốt là một chức năng của mã bưu chính.

Khối lượng lớn dữ liệu đã định lượng được tương quan giữa thiếu sức khỏe và năng suất. Liệu có ngạc nhiên khi số sinh viên từ các khu vực nghèo đói đến trường đại học ít hơn (Schofield, 2006); kỹ năng đọc của trẻ em có bố mẹ thất nghiệp kém hơn trung bình (Hill, 2005); tỷ lệ tử vong của người nghèo cao hơn ba lần (Burke, Kenaghan, O’Donovan, & Quirke, 2004)? Hay nghèo đói gia tăng trực tiếp liên quan đến gia tăng ung thư và đột quỵ, một tương quan không thay đổi từ cuối thế kỷ 19 (Dorling, Mitchel, Shaw, Orford, &Smith, 2000)? Dữ liệu đã có nhiều năm, nếu không nói là quá lâu.

Một lần nữa, chúng ta thấy sự phát triển là đáp ứng những nhu cầu cơ bản, và hạnh phúc, một kết quả bình đẳng và tiếp cận tài nguyên. Paul Krugman đã thống kê sự nghèo khổ trong nhiều thập kỷ, và đưa ra sự phàn nàn trung thực về 1%. Trong một bài bình duyệt cuốn sách đột phá của Thomas Piketty về bất bình đẳng, ông ta viết rằng Thời Đại Thịnh Vượng mới đã phát triển từ những năm 1980 và người ta chỉ cần nhìn vào báo cáo thuế để thấy lý do. Đó là toán học căn bản khi người giàu kiếm được nhiều hơn (hay trả ít hơn) và người nghèo kiếm được ít hơn (hay trả nhiều hơn). Bạn có xoay theo bất cứ hướng nào thì người giàu vẫn giàu hơn, hơn bất cứ sự cần thiết hợp lý nào.

Rất dễ dàng để trích dẫn con số nhưng cũng dễ dàng như thấy lý do: lợi ích bản thân và quy tắc chủ nghĩa cá nhân thái quá, khi cuộc sống trở thành một trò chơi phân chia ra thành người thắng và kẻ thua. Có một số nguyên nhân rõ ràng, như lương thấp, luật thuế không công bằng, hệ thống người sử dung thanh toán hai tầng. Cho vay nặng lãi kiểu cũ được áp dụng quá mức trong ngân hàng hiện đại, điều tồi tệ nhất là các công ty cho vay qua mạng Internet ngày càng nảy nở trên các địa chỉ IP, sử dụng công nghệ smart-phone để cung cấp các khoản vay trong vài phút với lãi suất lên đến 5.000%/năm. Cho vay cắt cổ, theo kiểu peer-to-peer. Hiện nay, họ có một cái tên đẹp cho việc cho vay cắt cổ. 

Giải pháp tín dụng tốt hơn là có, nhưng người nghèo khó có thể tiếp cận. Theo chủ nghĩa tư bản cổ điển, chênh lệch lợi nhuận được kỳ vọng giảm xuống khi cạnh tranh gia tăng. Quá tệ khi gã bình thường không thể thu lợi từ lãi suất gần bằng không của Fed! Chênh lệch lãi suất nhỏ nhân với hàng triệu khách hàng được một số ít người khai thác. Chủ ngân hàng thân thiện đáng yêu của mọi nhà, George Bailey, đang xoay tròn trong mộ.

Hơn nữa, khi người nghèo bị nghèo hơn, khoản nợ cũng tệ hơn. Được ngành công nghiệp ô tô Hoa Kỳ khai sinh vào những năm 1920, tín dụng dường như là một giải pháp rõ ràng để xóa bỏ gánh nặng thanh toán giá cả nằm ngoài tầm với của hầu hết người mua – khoảng 20% thu nhập của hộ gia đình theo ghi nhận của Daniel Boorstin trong phân tích về văn hóa tiêu dùng mới, “Người Mỹ: Kinh Nghiệm Dân Chủ”. Được GM, Ford, và các thẻ cho vay thích hợp khác tạo điều kiện, tín dụng nhanh chóng bén rễ trở thành phương tiện thanh toán trong thời đại chúng ta, và hiện giờ tăng lên hơn 3 nghìn tỷ dollar, hơn một phần tư của chúng là “quay vòng”, có nghĩa là kiểu thẻ tín dụng đang hoạt động. Theo Cục Thống Kê Dân Số Hoa Kỳ, gần 1,5 tỷ thẻ tín dụng được lưu hành vào năm 2008. Đáng chú ý hơn, một số hộ gia đình của những người trẻ tuổi chi tới 25% thu nhập của họ cho trả nợ. Và sau đó các thẻ khách hàng “trung thành” với lãi suất cắt cổ tới 30% và được gọi là trò lừa đảo “thuê để sở hữu” (thứ sẽ dẫn đến phí tổn gấp 3 lần giá mua). Rất khó để chơi khi bạn luôn tụt lại phía sau.

Nhưng sao xã hội được gọi là khai sáng của chúng ta lại rơi vào trò chơi bóc lột tiền bạc? Đó là vấn đề của tất cả mọi người khi chúng ta nợ quá nhiều, câu cách ngôn đó đập vào lưng những người tiêu dùng đang chen vai thích cánh. Theo như phép tu từ của ngân hàng truyền thống do John Maynard Keynes đặt ra, “Nếu bạn nợ ngân hàng một trăm bảng thì bạn có vấn đề. Nhưng nếu bạn nợ một triệu thì họ có vấn đề”. Khi nào bất bình đẳng là vấn đề của tất cả mọi người?

Không may là bạn sẽ không thấy bất bình đẳng trong các vấn đề tranh cử gần đây. Như Krugman đã ghi nhận tiếp theo trong “Lương tâm của người tự do: Không phục Hoa Kỳ từ cánh hữu”, “người bỏ phiếu đặc trưng có một thu nhập tương đối cao hơn cá nhân đặc trưng, đó là lý do các chính khách có khuynh hướng thiết kế các chính sách của họ với sự giàu có tương đối trong suy nghĩ”. John Kenneth Galbraith nói nhiều điều tương tự trong “Xã hội thịnh vượng”, ghi nhận sự phân tách lớn dần giữa sự giàu có và xã hội trong những năm 1950. “Pháp luật hiện nay phục vụ các cá nhân giàu có cũng như đối đầu với các cá thể chỉ có thu nhập ít ỏi”. Khó có thể đối mặt với vấn đề tiền bạc của người nghèo trong khi bầu cử tiêu tốn hàng tỷ dollar.

Nực cười thay, kết quả bầu cử và đặc biệt những người thân cận có thể chiến thắng là nhờ người giàu, khi thời tiết xấu cũng phục vụ cho giai cấp lắm tiền, những người có tiếp cận tốt hơn với giao thông vận tải.

Đây là lúc để mặt trời tỏa sáng và tạo ra sự khác biệt. Một sự khác biệt thật sự trong cuộc sống của những người khác. Bất bình đẳng là VẤN ĐỀ của thời đại chúng ta.

JOHN K. WHITE, là trợ giảng ở trường Vật Lý, Đại Học Dublin College, và tác giả của Do The Math!: On Growth, Greed, and Strategic Thinking (Sage, 2013). Do The Math! Cũng có phiên bản cho Kindle. Có thể liên hệ với tác giả qua hòm thư điện tử: john.white@ucd.ie.

Thursday, November 6, 2014

Phía sau nghị quyết của Liên Hiệp Quốc về Uranium nghèo

Mới đây, Liên Hiệp Quốc đã thông qua một nghị quyết về vũ khí chứa Uranium nghèo mà Hoa Kỳ và đồng minh đã sử dụng ở nhiều nơi trên thế giới, xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Inside the UN Resolution on Depleted Uranium" của tác giả John Laforge để biết thêm chi tiết.

Phía sau nghị quyết của Liên Hiệp Quốc về Uranium nghèo

Vào ngày 31 tháng 10, một nghị quyết mới của Ủy Ban Thứ Nhất Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc về vũ khí chứa uranium nghèo được thông qua với đa số tuyệt đối. Có 143 quốc gia ủng hộ, 4 chống và 26 bỏ phiếu trắng. Biện pháp này kêu gọi các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc hỗ trợ các quốc gia bị nhiễm bẩn do các loại vũ khí đó. Nghị quyết cũng ghi nhận sự cần thiết phải nghiên cứu trên góc độ môi trường và sức khỏe về vũ khí chứa uranium nghèo trong các tình huống xung đột. 

Đây là nghị thứ năm của Liên Hiệp Quốc về vấn đề bị bốn quốc gia sử dụng vũ khí chứa uranium nghèo phản đối dữ dội – đó là Anh, Hoa Kỳ, Pháp và Israel – những nước duy nhất bỏ phiếu chống. Hai mươi sáu quốc gia bỏ phiếu trắng được cho là muốn tránh gây tổn thương quan hệ thương mại với bốn quốc gia kia.

Uranium-238 – hay còn được gọi là Uranium nghèo (DU) – là phế thải tồn lại với khối lượng khổng lồ của các tổ hợp vũ khí hạt nhân. Chúng được sử dụng trong các đầu đạn xuyên giáp cỡ lớn và trong các tấm giáp của xe tăng. Chất độc, bụi phóng xạ và mảnh vụn được phát tán khi hạt DU bốc cháy trong mục tiêu, hơi kim loại và bụi của nó đầu độc nguồn nước, đất canh tác và chuỗi thức ăn. DU có liên quan tới các hiệu ứng tổn hại sức khỏe như Hội Chứng Vùng Vịnh của binh lính Hoa Kỳ và đồng minh, và tỷ lệ dị dạng sơ sinh trong dân cư ở các khu vực bị ném bom. Phế thải DU gây ra nhiễm xạ nhiều phần lãnh thổ lớn ở Iraq, Bosnia, Kosovo và dĩ nhiên là Afghanistan. 

Biện pháp này giải thích rằng vũ khí chứa DU được chế tạo bằng một “kim loại nặng độc hại về hóa học và phóng xạ” [uranium-238], “các mảnh vỡ, và vỏ bao hay vỏ bọc sau khi sử dụng có để trên mặt đất hay chôn thật sâu, phần Uranium nghèo còn lại dẫn đến nhiễm độc tiềm tàng không khí, đất canh tác, nước và thực vật”. 

Sự công kích chủ yếu trong nghị quyết mới nhất của Liên Hiệp Quốc, “Khuyến khích các quốc gia thành viên sẵn sàng cung cấp hỗ trợ cho các quốc gia bị ảnh hưởng bởi việc sử dụng vũ khí và đầu đạn chứa Uranium nghèo, đặc biệt là xác định và quản lý các khu vực cũng như vật liệu nhiễm độc”. Yêu cầu này là một sự ám chỉ ngầm cho thấy sự thật là các điều tra viên đã bị ngăn cản trong việc nghiên cứu nhiễm độc Uranium ở Iraq, do Lầu Năm Góc từ chối cung cấp bản đồ của tất cả các vị trí bị tấn công bằng DU.

Trong giới hạn ngoại giao của nghị quyết Liên Hiệp Quốc, các quốc gia không bị nêu tên cụ thể. Mặc dù vậy, thế giới biết rằng gần 700 tấn đầu đạn DU được quân đội Hoa Kỳ trút xuống Iraq và Kuwait vào năm 1991, và các chiến đấu cơ Hoa Kỳ đã nã 3 tấn đạn DU khác vào Bosnia trong năm 1994 và 1995; 10 tấn vào Kosovo trong năm 1999, và khoảng 170 tấn vào Iraq trong năm 2003. 

Liên Minh Quốc Tế Cấm Vũ Khí Uranium (ICBW.org) ở Manchester, Anh và đại diện cho 160 tổ chức xã hội dân sự trên thế giới, đóng vai trò chủ chốt trong việc theo dõi cả 5 nghị quyết của Liên Hiệp Quốc được triển khai và vận động một hiệp ước coi loại đầu đạn này là bất hợp pháp. Vào tháng 10, ICBUW đưa tin rằng quân đội Hoa Kỳ sẽ tiếp tục sử dụng vũ khí DU ở Iraq và trong các cuộc tấn công quân ISIS “nếu điều đó là cần thiết”. Sự thừa nhận xuất hiện bất chấp lời kêu gọi mới đây vào mùa hè 2014 ở Iraq về việc cấm vũ khí loại này và hỗ trợ làm sạch các nhiễm độc còn tồn dư từ các cuộc ném bom năm 1991 và 2003.

Nghị quyết mới của Liên Hiệp Quốc dựa trên Chương Trình Môi Trường Liên Hiệp Quốc (UNEP), do họ đã thực hiện các khảo sát về phóng xạ tại các mục tiêu ném bom của NATO ở Balkan và Kosovo. Nghiên cứu của UNEP năm 2001 đã buộc Lầu Năm Góc thừa nhận rằng DU có trộn lẫn Plutonium. (Associated Press, Capital Times, Feb. 3, 2001: “ Nhưng hiện giờ Lầu Năm Góc tuyên bố rằng các đầu đạn được sử dụng trong cuộc xung đột ở Kosovo năm 1999 bị nhiễm một lượng nhỏ Plutonium, Netunium và Amercium – phụ phẩm của các lò phản ứng hạt nhân phát xạ lớn hơn Uranium nghèo.”)

Đoạn thứ tư đáng chú ý của nghị quyết ghi nhận một phần “… sự thiếu chắc chắn chủ yếu về mặt khoa học phản đối các tác động môi trường dài hạn của Uranium nghèo, đặc biệt là liên quan đến nhiễm độc nước mặt dài hạn. Do những sự thiếu chắc chắn về khoa học này mà Liên Hiệp Quốc kêu gọi một phương thức tiếp cận mang tính phòng ngừa đối với việc sử dụng Uranium nghèo, và khuyến nghị các hoạt động dọn sạch cũng như giải độc cho các khu vực ô nhiễm. Nghị quyết cũng kêu gọi gia tăng nhận thức của cư dân địa phương và sự theo dõi trong tương lai.”

“Nguyên tắc phòng ngừa” có nghĩa là các hoạt động hay chất liệu rủi ro phải được tránh xa và được ngăn cản trừ khi chúng được chứng minh là an toàn. Dĩ nhiên, thay vì áp dụng nguyên tắc phòng ngừa, Lầu Năm Góc phủ nhận việc DU có liên quan tới các vấn đề sức khỏe.

John LaForge làm việc cho tổ chức Nukewatch và sống tại Plowshares Land Trust ở gần Luck, Wisc.

Ba nguyên tắc chi tiêu ngân sách của bộ trưởng Vinh

Trước đây cũng khá lâu, bác Giao có yêu cầu bình luận về phát biểu của bộ trưởng bộ kế hoạch đầu tư Nguyễn Quang Vinh trong bài "Bộ trưởng Kế hoạch-Đầu tư: Việt Nam vi phạm ba nguyên tắc trụ cột", bình luận qua comment thì sẽ quá dài nên phải viết một bài riêng cho bác Giao.

Hoàn cảnh của cuộc tranh luận về ngân sách

Trước hết nếu chỉ nhìn vào bài báo đó thì không thể bình luận nhiều, cần phải nhìn vào bối cảnh lịch sử của Việt Nam để hiểu tại sao có bài báo đó.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam mấy năm gần đây đang chậm lại, nguồn thu ngân sách bị giảm sút trong khi đó các khoản phải chi lại phình ra rất nhanh. Kế hoạch tăng lương đã phải hoãn hai năm, chính phủ thậm chí đã phải phát hành trái phiếu để đảo nợ. Thu chi ngân sách trở thành vấn đề nóng bỏng tại diễn đàn Quốc Hội. 

Ngân sách thì có rất nhiều cơ quan tiêu nhưng giải trình về ngân sách trước Quốc Hội thì chỉ có hai bộ là Bộ Tài Chính (BTC) và Bộ Kế Hoạch-Đầu Tư (BKHĐT). Song hai bộ này cũng chỉ nắm chung về chi tiêu và đầu tư, họ không nắm được chi tiêu của các bộ khác và các địa phương. Ngân sách cũng là vấn đề phức tạp, dưới Luật Ngân Sách Nhà Nước thì còn có 300 văn bản khác. Đa phần các đại biểu cũng không bao quát hết được vấn đề ngân sách.

Tuy cùng phải giải trình về vấn đề ngân sách trước Quốc Hội song quan điểm của BTC và BKHĐT lại đối chọi nhau. Điều này dẫn đến bài phát biểu của bộ trưởng Vinh.

Gần đây nhất hai bộ này đã trực tiếp đối thoại với nhau về ngân sách là trong cuộc hội thảo về Kế Hoạch và Đầu Tư ở Đà Nẵng vào ngày 7.8.2014. Trong cuộc hội thảo đó đại diện của BKHĐT đã nói về việc xây dựng kế hoạch đầu tư trung hạn, còn đại diện của BTC nhấn mạnh việc ưu tiên chi cho cải cách tiền lương và an sinh xã hội.

Mới đây, chủ tịch Quốc Hội đã phát biểu về vấn đề chi ngân sách, nhấn mạnh việc phải thực hiện cải cách tiền lương, trong khi bộ trưởng BTC muốn ưu tiên trả nợ và chi cho quốc phòng. 

Chưa đầy hai tuần sau, bộ trưởng Vinh đã phát biểu về ba trụ cột kinh tế của quản lý ngân sách, quan điểm của BKHĐT là giảm chi thường xuyên, giảm chi an sinh xã hội và gia tăng chi đầu tư phát triển. BTC cũng đã nhanh chóng đưa ra quan điểm của mình. BTC một lần nữa nhấn mạnh việc chi cho an sinh xã hội là dựa trên các nghị quyết của Quốc Hội và chính phủ. Một điểm đáng chú ý là BTC đã đề cập đến vấn đề phải xiết lại việc lập dự toán đầu tư, tức là công việc của BKHĐT.

Nguyên tắc kinh tế nào?

Về nguyên tắc kinh tế, dựa trên kinh tế học thì chỉ có hai loại quan điểm. Quan điểm của trường phái Keynes là nhà nước có thể can thiệp vào thị trường để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngược lại theo quan điểm của phái tân cổ điển thì nhà nước nên hạn chế can thiệp vào thị trường, chỉ nên can thiệp để sửa chữa các khuyết tật của thị trường.

Thu chi ngân sách về bản chất là liên quan chặt chẽ đến nhau, không thể tách rời việc thu riêng và chi riêng. Ví dụ như tăng chi lương chẳng hạn, thì cũng có nghĩa là khoản thu từ thuế thu nhập và thuế giá trị gia tăng cũng tăng lên, do vậy phải tính toán cân đối cả thu và chi. Khoa kinh tế học gộp hai vấn đề đó lại thành chính sách tài khóa.

Phái Keynes khuyến khích nhà nước chi tiêu để điều tiết nền kinh tế do vậy chính sách tài khóa là vấn đề trọng tâm của họ. Một người theo phái Keynes, giáo sư kinh tế học Warron Smith đã đúc kết nguyên tắc về chính sách tài khóa là: "Quy tắc tốt nhất là ngân sách không bao giờ nên cân bằng, trừ một khoảnh khắc khi thay đổi từ dư thừa để chống lạm phát sang thâm hụt để chống suy thoái". Còn các đại biểu của phái tân cổ điển thì thường dẫn quan điểm ngắn gọn của người sáng lập ra khoa kinh tế chính trị cổ điển, Adam Smith: "Ngân sách tốt duy nhất là ngân sách cân bằng"

Khoản 1 điều 8 Luật Ngân Sách Nhà Nước năm 2002 ghi rõ: Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách.

Bàn về ba nguyên tắc của bộ trưởng Vinh

Nguyên tắc trong trường hợp này chỉ có hai loại, một là dựa trên lý thuyết kinh tế, hai là dựa trên luật.

Về vi phạm nguyên tắc thứ nhất, "tăng chi cho lương cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Đây là vi phạm nguy hiểm, bởi ở các nước chỉ tăng lương khi năng suất lao động tăng, hiệu quả lao động tăng lên thì được bù đắp.". Khoa kinh tế học chưa bao giờ chứng minh được lương tương ứng với năng suất lao động. Khoa kinh tế học cho rằng lương là do cung và cầu về lao động quyết định. Doanh nghiệp thuê lao động dựa trên nguyên tắc lương bằng giá trị sản phẩm biên của lao động, tức là không chỉ liên quan đến năng suất lao động của lao động, mà còn phụ thuộc vào giá cả của sản phẩm đầu ra và công nghệ sản xuất. Khoa kinh tế chính trị học Marx-Lenin thì coi lương là giá cả của sức lao động, nên cũng không liên quan đến năng suất lao động. Khoa kinh tế chính trị học cổ điển thì còn có quy luật sắt về tiền lương, như của Malthus, tức là theo quy luật thị trường thì lương thực tế luôn chỉ bằng mức tối thiểu đủ sống. Còn về mặt thực tiễn thì doanh nghiệp không bao giờ áp dụng tăng lương bằng tăng năng suất lao động, nguyên tắc được áp dụng phổ biến là tỷ lệ tăng lương nhỏ hơn tỷ lệ lạm phát.

Vi phạm nguyên tắc thứ hai, tốc độ tăng cho chi an sinh xã hội cao hơn tốc độ tăng thu ngân sách, mất cân đối ngayChi an sinh xã hội là nhu cầu bức xúc quan trọng của mọi quốc gia nhưng dù muốn thế nào thì muốn, nhu cầu an sinh xã hội rất lớn phải cân đối, phải thấp hơn tốc độ thu về ngân sách.

Vi phạm nguyên tắc thứ ba là trong quy luật kinh tế quy định tốc độ tăng chi cho phát triển phải cao hơn tốc độ tăng chi thường xuyên, để tiến lên nếu ngược lại thì khó khăn.

Tôi đã tra cứu các loại sách giáo khoa về kinh tế học và không tìm thấy nguyên tắc thứ hai và thứ ba của bộ trưởng ở bất cứ chỗ nào, có lẽ đó là loại nguyên tắc cao cấp chỉ dành riêng cho các chuyên gia cao cấp chăng?

Nếu đối chiếu với quy định của khoản 1 điều 8 của luật NSNN thì nguyên tắc số 2 và 3 của Bộ trưởng Vinh chỉ là những trường hợp cụ thể của quy định ấy. Lý do là cả chi lương, chi an sinh xã hội đều thuộc về khoản chi thường xuyên. Hãy lấy quy tắc thứ 3 để xem xét, tốc độ tăng chi thường xuyên phải thấp hơn tốc độ tăng chi phát triển, điều đó có nghĩa là tốc độ tăng chi thường xuyên phải thấp hơn tốc độ tăng thu ngân sách, vì chi thường xuyên cộng với chi đầu tư phát triển chính bằng tổng chi. Nhưng ngay cả khi tốc độ tăng chi thường xuyên lớn tốc độ tăng thu ngân sách thì tốc độ tăng chi đầu tư phát triển vẫn có thể lớn hơn nhờ bội chi theo luật NSNN. Xét quy tắc thứ hai, khi tốc độ tăng chi thường xuyên được duy trì thấp hơn tốc độ tăng thu ngân sách, đương nhiên theo logic đơn giản thì các cấu thành của chi thường xuyên, như  tốc độ chi an sinh xã hội phải thấp hơn tốc độ tăng thu ngân sách, nhưng ngay cả trong trường hợp đó thì chi an sinh xã hội vẫn có thể có tốc độ cao hơn tốc độ thu ngân sách nếu tốc độ gia tăng của các khoản khác thuộc về chi thường xuyên giảm đi. 

Trong bài báo bộ trưởng nêu rõ là Việt Nam đang gặp rắc rối vì không tuân thủ ba nguyên tắc này, nhưng suy nghĩ kĩ hơn một chút sẽ thấy áp dụng cả ba nguyên tắc này thì Việt Nam cũng không tránh khỏi rắc rối. Các khoản chi cho lương, an sinh xã hội đều nằm trong khoản chi thường xuyên. Trong thực tế sẽ xảy ra tình huống các nguyên tắc đó tạo sức ép lên nhau, ví dụ tuân thủ nguyên tắc thứ ba, giữ tốc độ tăng chi phát triển lớn hơn tốc độ tăng chi thường xuyên mà năng suất lao động tăng nhanh buộc phải tăng lương đẩy tốc độ tăng chi thường xuyên vượt quá tốc độ chi phát triển thì lúc đó không biết sẽ phải hy sinh nguyên tắc nào. Nếu có thể hy sinh nguyên tắc này để chọn nguyên tắc khác thì ba nguyên tắc đó không thể là nguyên tắc mà chỉ có thể là tùy chọn.

Tại sao quan điểm của Bộ trưởng Vinh được ủng hộ?

Quan điểm của bộ trưởng Vinh là gia tăng chi đầu tư phát triển để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chi đầu tư phát triển là những khoản chi như sau: chi xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, chi hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước và góp vốn vào doanh nghiệp, chi dự trữ nhà nước. Bộ trưởng Vinh vốn chỉ nắm được khoản chi xây dựng cơ sở hạ tầng còn hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước và góp vốn lại thuộc BTC, dự trữ nhà nước thì do Tổng Cục Dự Trữ quản lý trong đó khoản dự trữ lớn nhất là ngoại tệ lại do Ngân Hàng Nhà Nước nắm. Với các dự án cơ sở hạ tầng thì đương nhiên là doanh nghiệp có lợi, xét trên phương diện kinh tế vĩ mô thì cơ sở hạ tầng tốt sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí sản xuất, xét trên phương diện trực tiếp thì các doanh nghiệp sẽ được nhận thầu thêm các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng mới. Trong bối cảnh kinh tế trì trệ thì quan điểm của bộ trưởng Vinh sẽ được nhóm doanh nghiệp công nghiệp và xây dựng ủng hộ mạnh mẽ. 

Song vấn đề nằm ở chỗ, Việt Nam đã từng sử dụng chính sách tài khóa theo kiểu Keynes trước đây không lâu. Vào năm 2008 khi thế giới bị chìm trong cuộc khủng hoảng tài chính do nợ dưới chuẩn của Mỹ gây ra, chính phủ Việt Nam đã tung ra gói kích thích tài khóa trị giá 8 tỷ USD. Cho đến nay chưa có bất cứ nghiên cứu nào đánh giá tác động của gói kích thích kinh tế đó. Những năm tiếp theo Việt Nam đã phải chứng kiến mức lạm phát kinh hoàng và tình trạng các doanh nghiệp đua nhau đầu cơ làm rối loạn thị trường. Hiện nay trong chính phủ không còn nhiều người nhắc đến kích thích tăng trưởng kinh tế bằng chính sách tài khóa nữa. Từ sau cuộc chạy đua lãi suất của hệ thống ngân hàng năm 2012, chính sách tiền tệ đã bắt đầu có tiếng nói nhất định đối với việc ổn định kinh tế vĩ mô.

Điều đáng chú ý hơn trong bài phát biểu của bộ trưởng Vinh.

Đó là đoạn cuối bài:

Bộ trưởng Bùi Quang Vinh kể rằng, Quốc hội từng yêu cầu ông phải trả lời câu hỏi những dự án nào không hiệu quả, kém hiệu quả. Để làm việc này, Bộ Kế hoạch đã gửi công văn đến tất cả các địa phương thì nhận được phản hồi là "dự án nào cũng hiệu quả". “Tôi hỏi tiêu chí nào là hiệu quả thì các ông ấy bảo không hiệu quả chỗ này thì hiệu quả chỗ khác”, Bộ trưởng chia sẻ.

Những người làm quản lý doanh nghiệp đều thuộc lòng câu cách ngôn của nhà kinh tế học Peter Drucker "Không thể quản lý khi thiếu đo lường". Câu chuyện của bộ trưởng Vinh cho thấy BKHĐT hoàn toàn không có chuẩn mực để đo lường hiệu quả dự án. Việc bộ hỏi các địa phương là vô ích vì thứ nhất họ sẽ không biết dựa trên tiêu chí nào để trả lời BKHĐT. Thứ hai là cho dù có được đầy đủ báo cáo của các địa phương thì BKHĐT cũng chẳng thể làm gì vì mỗi báo cáo ấy sẽ theo một chuẩn mực khác nhau và không thể nào tổng hợp vào một báo cáo để phân tích hay đánh giá. Chỗ này làm tôi nhớ đến câu khen của một người bạn khi phải chứng kiến tình trạng tương tự ở nhiều bộ ngành: "Thế mà Việt Nam vẫn quản lý được mới tài!". 

Những người thầy tốt nhất mà tôi từng có

Người ta thường được nghe các hùng biện đề cao giáo dục, coi giáo dục là con đường thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, con đường để trở nên giàu sang và hạnh phúc. Ảo tưởng tư sản thường được tiếp sức bằng câu chuyện kiểu Fukuzawa vẽ nên một tương lai nhờ học hành mà trở thành tầng lớp thượng lưu trong xã hội. Nhưng đối với giai cấp vô sản, không có điều kiện để học hành thì cuộc sống là trường học đồng thời là nơi thực hành của họ, những người xung quanh là thầy dạy của họ. Thứ mà họ học được không phải là cách trở nên giàu có hay giành được địa vị cao trong xã hội mà là đấu tranh để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch "The Best Teachers I Ever Had" của tác giả Bill Quigley để biết những người nghèo ở Hoa Kỳ đã tự giáo dục mình ra sao.

Những người thầy tốt nhất mà tôi từng có

Tôi thường sống và làm việc tại Nhánh Người Ireland ở Nhà Hy Vọng của New Orleans. Tôi làm việc với những người sống trong Cơ Sở Phát Triển Nhà Ở St. Thomas. Hơn 1500 hộ gia đình sống trong các tòa nhà bằng gạch xếp chiếm ba trong số bốn khối nhà của khu vực mà hiện nay là khu chung cư River Garden.

Một số sơ dòng Catholic sống ở St. Thomas muốn tôi tham gia cùng với họ trong việc chăm sóc người nghèo và tôi đã đồng ý. Một trong các sơ nhận được một khoản lương nhỏ cho việc dạy tôn giáo ở Học Viện Mercy. Bà nói với tôi rằng bà sẽ đưa cho tôi khoản lương 250 dollar đó nếu tôi tham gia cùng với họ. 

Tôi biết giảng dạy xã hội của đạo Catholic ưu tiên cho việc giúp đỡ người nghèo, nên tôi đã tham gia cùng với họ để giúp đỡ mọi người.

Tôi đã làm việc với những sơ đó và các gia đình trong cộng đồng vài năm trước khi tôi đi học ở trường luật. Tôi giúp đỡ khi có ai đó bị ốm và cần giúp đỡ để đến bệnh viện, với trách nhiệm thu thập các hóa đơn và điền chúng vào các bản kê khai của chính quyền.

Tôi cũng hợp tác chặt chẽ với các bà mẹ và các bà nội/ngoại, những người đã lập ra hội đồng dân cư. Những phụ nữ này thường là chủ gia đình, phần lớn chỉ kiếm được rất ít tiền hoặc không kiếm được đồng nào từ các công việc có mức lương tối thiểu, trợ giúp công cộng hay an sinh xã hội. Họ nuôi dạy con cháu và thường là các cháu nội/ngoại với rất ít tiền trong một môi trường tương đối cam go.

Sau nhiều tháng, tôi bắt đầu hiểu rằng những người phụ nữ mà tôi trợ giúp đang sống một cuộc sống anh hùng. Họ có rất ít tiền, không xe hơi, không tài khoản tiết kiệm và đầy gánh nặng trách nhiệm. Mặc dù vậy họ rất sùng tín, rất tích cực trong cộng đồng, bỏ nhiều thời gian để nuôi dạy trẻ em và rất sẵn sàng dấn thân cũng như giúp đỡ người khác.

Phần lớn mọi người không biết đến những cư dân này do những người kém may mắn đó là người Mỹ gốc Phi và họ không sống trong “dự án”.

Thậm chí sau một ngày mệt mỏi chăm sóc những trẻ nhỏ, đưa những trẻ lớn hơn tới trường và đón về, tìm cách mặc cả để ngân sách nhỏ bé của họ vừa đủ, giặt giũ, làm các công việc nhà thờ và cầu nguyện, dọn dẹp và nhiều việc khác, họ sẵn sàng tới cuộc họp ở Nhà Hy Vọng hay St. Alphonsus để học chương trình giáo dục phổ cập (GED), cùng với những người khác dọn dẹp trong cộng đồng hay tuần hành đòi cải thiện nhà ở hoặc quyền bầu cử. 

Tôi hỗ trợ họ bởi vì tôi có thể đọc và viết tốt hơn họ. Nhưng tôi cũng học được rất nhiều điều về sự quan trọng của gia đình, sự rộng lượng, tính quyết đoán, sự can đảm, chia sẻ và lòng thành kính.

Tôi hiểu rằng những bà mẹ và bà nội/ngoại đó đang dạy và truyền cảm hứng cho tôi. Tôi giúp đỡ họ nhưng họ cũng giúp đỡ tôi.

Đây là câu thành ngữ của người dân bản địa Australia, “Nếu bạn phải tới giúp tôi thì bạn đang lãng phí thời gian. Nhưng nếu bạn phải tới bởi vì tự do của bạn được ràng buộc với tôi, thế thì chúng ta hãy cùng đấu tranh”. 

Tôi tới St. Thomas để giúp đỡ những người nghèo. Nhưng tôi ở lại đó bởi vì tôi thấy rằng mình cần tự do cũng như họ cần. Bằng cuộc sống của bản thân, họ đã dạy tôi về tự do, hy vọng và tình yêu. Những bà mẹ và bà nội/ngoại là những người thầy tốt nhất mà tôi từng có. Chúng tôi đã cùng nhau hoàn thành việc đấu tranh cho công lý.

Bill Quigley là giảng viên tại trường Luật của đại học Loyola New Orleans.


Wednesday, November 5, 2014

Những cảnh báo mới về chiến tranh ở Châu Á

Nếu chiến tranh nổ ra giữa Nhật Bản và Trung Quốc về vấn đề quần đảo Sensaku/Điếu Ngư thì đồng minh của Hoa Kỳ là Australia có tham gia không? Để trả lời câu hỏi đó, xin mời bạn đọc blog tham khảo bản dịch bài viết "New warnings of war in Asia" của tác giả Peter Symonds.

Những cảnh báo mới về chiến tranh ở Châu Á

Trong khi truyền thông hướng sự chú ý vào cuộc chiến tranh mới do Hoa Kỳ lãnh đạo ở Trung Đông, cũng như sự đối đầu của Washington với Nga về Ukraina, chính sách “chuyển trục sang châu Á” của Hoa Kỳ nhằm chống lại Trung Quốc tiếp tục khoét sâu những căng thẳng ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương. 

Một bản báo cáo đáng chú ý được phát hành vào thứ hai có tiêu đề “Xung đột ở biển Đông Trung Hoa: Liệu ANZUS có được áp dụng?” chỉ rõ những nguy cơ mà đất nước có thể tạo ra trong một cuộc chiến tranh về quần đảo tranh chấp Senskuku/Điếu Ngư, gài bẫy Trung Quốc đối đầu với Nhật Bản, với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ. ANZUS liên hệ tới hiệp ước an ninh được ký năm 1951 giữa Australia, New Zeeland và Hoa Kỳ trong nguy cơ một cuộc chiến tranh Thái Bình Dương với Nhật Bản.

Bản báo cáo phản ánh sự bất đồng đang diễn ra trong bộ máy chính trị và chiến lược của Australia về sự thông thái của việc ủng hộ một cách nhất quán chính sách “chuyển trục” của Hoa Kỳ. Chi phí kinh tế đối với tư bản Australia đã được nhấn mạnh vào cuối tháng trước khi chính quyền Obama, với lý do an ninh, đã ép buộc chính quyền của thủ tướng Tony Abbott phải đảo ngược bất chấp nguyên tắc quyết định của chính phủ về việc gia nhập ngân hàng cơ sở hạ tầng mới do Trung Quốc hậu thuẫn.

Bản báo cáo hướng sự chú ý vào các nguy cơ chiến tranh thật sự và tức thời bằng các kịch bản chi tiết có thể châm ngòi xung đột ở biển Đông Trung Hoa: một vụ đụng độ giữa máy bay Trung Quốc và Nhật Bản, một vụ va chạm giữa tàu ngầm Trung Quốc và chiến hạm Hoa Kỳ, một vụ đối đầu giữa cảnh sát biển Nhật Bản và tàu du lịch Trung Quốc. Trong mỗi kịch bản, các sự kiện nhanh chóng vượt ra ngoài tầm kiểm soát và đặt ra vấn đề chính quyền Australia phải tham gia vào cuộc chiến tranh chống lại Trung Quốc.

Khi bản báo cáo được phát hành, một trong số các tác giả của nó, giáo sư Nick Bisley của La Trobe Asia tuyên bố: “Chúng [xung đột] là những điều mà chúng tôi thấy rằng rất hợp lý. Đây không phải là nguy cơ tưởng tượng.” Như bản báo cáo đã viết, quân đội Nhật Bản đã cho chiến đấu cơ phản lực đột ngột cất cánh hơn 230 lần trong nửa đầu năm nay để trả đũa việc các vụ việc bị coi là Trung Quốc xâm nhập không phận của họ. 

Báo cáo trích dẫn các bình luận của Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng David Johnston vào tháng 6, nói rằng ông ta không tin rằng Hiệp Ước ANZUS sẽ buộc Australia sát cánh cùng Hoa Kỳ trong một cuộc chiến giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Những Bisley và đồng tác giả là giáo sư Brendon Taylor từ Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Phòng của trường Đại Học Quốc Gia Australia (ANU) đã chỉ ra vào ngày hôm qua trên tờ Australian rằng chính quyền có rất ít sự chọn lựa.

“Canberra đã buộc phải đóng góp quân sự mỗi khi Hoa Kỳ yêu cầu hỗ trợ. Hãy quên sự hợp pháp của hiệp ước liên minh mập mờ [ANZUS] được ký giữa Australia và Hoa Kỳ vào năm 1951 đi. Nếu xung đột nổ ra theo cách mà Washington kỳ vọng Australia sẽ tham gia thì đứng ngoài chiến tuyến không phải là một lựa chọn,” họ viết. 

Bisley và Taylor cũng cảnh báo rằng chính quyền sẽ đối mặt với sức ép phải tham gia vào cuộc chiến tranh với Trung Quốc từ Nhật Bản. “Trong khi cả hai phe chính trị từ lâu đã ủng hộ mối ràng buộc an ninh sâu sắc với Tokyo, điều này sẽ trở thành quyết định đối với chính quyền Abbott. Mối liên hệ Canberra-Tokyo được tầng lớp thượng lưu chính trị xác định, cả ở trong và ở quanh chính quyền Nhật Bản, gần như là đồng minh chính thức. 

Viết vào ngày hôm qua trên tờ Sydney Morning Herald, cựu ngoại trưởng Australia Bob Carr, người đã đóng góp vào bản báo cáo, cảnh báo phải chống lại bất cứ liên minh nào với Nhật Bản. “Chúng ta có thiện cảm với Nhật Bản và giá trị của họ, nhưng cần dè dặt về những quan điểm chủ nghĩa quốc gia trong chính sách của họ. Chúng ta không phải là đồng minh.” Carr tuyên bố.

Carr khuyến nghị: “Với ngoại giao khéo léo, Australia nên để Hoa Kỳ hiểu rằng lao vào cuộc chiến tranh với đối tác thương mại chủ chốt không phải là lợi ích của chúng ta, nếu có bùng nổ xung đột về những quần đảo không người ở, mà trong một thế giới lý tưởng sẽ là một phần của khu bảo tồn biển quốc gia.” Trong một cú đâm lén Tokyo sắc lẻm, ông ta nói các quần đảo tranh chấp đã ngủ yên “trong sự thờ ơ dễ chịu… cho đến khi Nhật Bản đơn phương thay đổi hiện trạng bằng cách quốc hữu hóa chúng vào năm 2012”.

Cả Carr cũng như bản báo cáo đều không nói thêm về “những quan điểm chủ nghĩa quốc gia” trong chính trị Nhật Bản, hay vai trò của Hoa Kỳ trong việc kích động chúng. Lập trường cứng rắng hơn của Nhật Bản về vấn đề quần đảo Sensaku xuất hiện sau vụ từ chức của thủ tướng Yukio Hatoyama vào tháng 6 năm 2010, người có khuynh hướng quan hệ gần gũi hơn với Trung Quốc nhưng bị đặt vào xung đột với chính sách “chuyển trục” đối đầu và gia tăng quân sự chống lại Trung Quốc của tổng thống Obama. 

Hatoyama đã bị buộc phải từ chức, với sự hỗ trợ của Washington, và được thay thế bới Naoto Kan, người đã áp dụng một chính sách cứng rắn hơn đối với Bắc Kinh. Vòng ngoại giao đầu tiên về quần đảo có tranh chấp diễn ra vào tháng 9 năm 2010 khi Nhật Bản bắt giữ thuyền trưởng tàu đánh cá Trung Quốc và đưa ông ta ra tòa. Căng thẳng leo thang dữ dội sau khi chính quyền Nhật Bản mua lại các hòn đảo từ các chủ sở hữu tư nhân vào tháng 9 năm 2012. 

Chính quyền Đảng Dân Chủ Tự Do cánh hữu của thủ tướng Shinzo Abe, giành được quyền lực vào tháng 12 năm 2012, đã áp dụng một lập trường không khoan nhượng về quần đảo Sensaku, từ chối ngay cả việc thừa nhận tranh chấp với Trung Quốc về hiện trạng của chúng. Abe đã gia tăng ngân sách quân sự, gia tốc định hướng chiến lược của quốc gia theo hướng “phòng thủ đảo”, thiết lập Ủy Ban An Ninh Quốc Gia theo kiểu Hoa Kỳ và tìm cách khôi phục các truyền thống quân sự Nhật Bản – tất cả đều làm gia tăng sự thù địch giữa hai quốc gia. Trong chuyến viếng thăm Tokyo vào tháng 4, Obama đã đổ thêm dầu vào lửa bằng cách tuyên bố rằng các quần đảo có tranh chấp được Hiệp Ước An Ninh Nhật Bản-Hoa Kỳ che chở.

Tại buổi công bố báo cáo vào thứ hai, giáo sư Taylor tuyên bố: “Đối với tôi sự quan ngại sâu sắc là ít hơn đối với mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Australia và nhiều hơn, theo một số cách nào đó, về sự gia tăng đáng báo động quan hệ Australia-Nhật Bản trong 12 tháng qua”. Kể từ khi nhậm chức cách đây một năm, thủ tướng Abbott đã tiến tới mối quan hệ an ninh gần gũi hơn với chính quyền Abe, mô tả Nhật Bản như là “người bạn tốt nhất ở Châu Á” của Australia. Chính quyền Abbott đã ký một thỏa thuận công nghệ quốc phòng với Nhật Bản năm nay và dường như là sẵn sàng để mua các tàu ngầm Nhật Bản.

Sự thể hiện công khai của những lo ngại về chiến tranh trong thiết chế chính trị Australia cho thấy mức độ sâu sắc của xung đột địa chính trị ở Châu Á, cũng như ở phần còn lại của thế giới. Sự ủng hộ của Canberra đối với “chuyển trục” được đánh giá theo cách mà nó ăn khớp với diễn biến ở Tokyo. Chỉ ít tuần sau khi Hatoyama bị buộc phải từ chức, thủ tướng Kevin Rudd đã bị lật đổ trong một cuộc đảo chính nội bộ đảng bởi một nhóm nhỏ liên minh và bộ phận nặng ký có quan hệ chặt chẽ với đại sứ quán Hoa Kỳ. Giống như Hatoyama, Rudd đã đề xuất một sự thỏa hiệp giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, ngay sau khi Obama quyết định đối đầu với Bắc Kinh.

Người thay thế Rudd, Julia Gillard, đã đánh đu sau các kế hoạch của Hoa Kỳ, biến nghị viện Australia thành một sân khấu cho Obama công bố chính thức “chuyển trục” vào tháng 11 năm 2011. Kể từ đó, các phê phán đối với chính sách hiếu chiến của Washington ở Châu Á hầu như đã bị phớt lờ. Carr, người được Rudd trao vị trí bộ trưởng bộ ngoại giao vào tháng 3 năm 2012, đã vội vàng chỉ trích quyết định mở cửa các căn cứ quân sự của Australia cho quân đội Hoa Kỳ của Gillard, tuyên bố rằng Australia là một đối tác theo hiệp định của Hoa Kỳ, chứ “không phải là một tàu sân bay”. Khi tại nhiệm, Carr đè nén nỗi lo âu, nhưng đã bộc lộ, giữa những dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế và địa chính trị sâu sắc, để phục hồi những phê phán của ông ta.

Biển Đông Trung Hoa chỉ là một trong số những điểm bùng nổ ở Châu Á, như chương trình “Lateline” của tập đoàn truyền hình Australia vào thứ hai về tranh chấp lãnh thổ trên biển Nam Trung Hoa đã cho thấy rõ. Khi được hỏi về chiến tranh ở Châu Á, một phê phán khác của Hugh White, giáo sư nghiên cứu chiến lược của ANU, đã phác họa một so sánh với sự bùng nổ của thế chiến thứ nhất, ông ta nói: “Có một chút gì đó giống điều đã xảy ra năm 1914 và một loạt các tính toán sai lầm khác của cả hai bên có thể tạo ra tình huống mà tại đó cả hai bên buộc phải lao vào khủng hoảng với hy vọng là phe khác sẽ lùi bước hoặc đầu hàng và họ sẽ kết thúc trong một trận chiến mà không phe nào thực sự muốn có. Đó là kiểu khả năng mà chúng ta thật sự phải đối mặt ở Châu Á hiện nay và đó là một trong những lý do tại sao tôi nghĩ rằng Châu Á lúc này nguy hiểm hơn là đa số chúng ta thấy.” 

Hoa Kỳ là quốc gia khủng bố hàng đầu và tự hào về điều đó

Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài bình luận của giáo sư Noam Chomsky, một chuyên gia hàng đầu về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, "Noam Chomsky: The Leading Terrorist State" . Bài bình luận nhấn mạnh vai trò của Hoa Kỳ trong việc tạo ra những kẻ khủng bố trên khắp thế giới. Tiêu đề do người dịch đặt.

Noam Chomsky: Quốc Gia Khủng Bố Hàng Đầu

“Tin chính thống: Hoa Kỳ là quốc gia khủng bố hàng đầu thế giới, và tự hào về điều đó.”

Đó nên là tiêu đề cho câu chuyện nổi bật trên tờ New York Time vào ngày 15 tháng 10, vốn được đặt tiêu đề rất lịch sự “Nghiên cứu về viện trợ bí mật của CIA dấy lên thái độ hoài nghi về sự trợ giúp những kẻ nổi loạn Syria.”

Bài báo đưa tin về một đánh giá của CIA đối với các chiến dịch bí mật của Hoa Kỳ nhằm xác định hiệu quả của chúng. Nhà Trắng kết luận rằng không may mắn là thành công rất hiếm hoi nên sự cân nhắc về chính sách đã được đặt ra.

Bài báo trích dẫn lời của tổng thống Barack Obam khi nói rằng ông ta đã yêu cầu CIA thực hiện đánh giá để tìm ra các trường hợp “tài trợ và cung cấp vũ khí cho sự nổi loạn ở một quốc gia hiện nay có kết quả tốt. Và họ đã không thể tìm ra”. Do đó Obama cảm thấy miễn cưỡng về việc tiếp tục những nỗ lực kiểu này.

Đoạn đầu của bài báo trên tờ Times trích dẫn ba ví dụ chính của “viện trợ bí mật”: Angola, Nicaragua và Cuba. Trên thực tế, mỗi trường hợp là một chiến dịch khủng bố trọng yếu của Hoa Kỳ.

Angola bị Nam Phi xâm lược, mà theo Washington là bảo vệ bản thân khỏi một trong những “nhóm khủng bố tàn bạo hơn” của thế giới – Đại Hội Dân Tộc Phi của Nelson Mandela. Đó là vào năm 1988.

Sau đó chính quyền Reagan dường như đã đơn độc ủng hộ chính quyền arpartheid, ngay cả khi vi phạm các biện pháp trừng phạt của Quốc Hội để gia tăng thương mại với đồng minh Nam Phi.

Khi đó Washington ủng hộ Nam Phi bằng cách cung cấp các viện trợ thiết yếu cho quân đội Unita của tên khủng bố Jonas Savimbi ở Angola. Washington tiếp tục làm việc đó ngay cả sau khi Savimbi đã bị đánh bại hoàn toàn trong một cuộc bầu cử tự do được theo dõi kỹ càng, và Nam Phi cũng đã hủy bó sự ủng hộ của họ. Savimbi là một “quái vật khát khao với quyền lực đã mang đến nghèo khổ cùng cực cho người dân của hắn”, theo lời của Marrack Goulding, đại sứ Anh ở Angola.

Hậu quả thật kinh hoàng. Một cuộc khảo sát năm 1989 của Liên Hiệp Quốc ước lượng rằng sự cướp bóc của Nam Phi đã dẫn đến cái chết của 1,5 triệu người ở quốc gia láng giềng, đó là chỉ tính riêng phần của Nam Phi. Quân đội Angola cuối cùng đã đẩy lui được những kẻ xâm lược Nam Phi và kêu gọi họ từ bỏ chiếm đóng bất hợp pháp Namibia. Hoa Kỳ đã một mình tiếp tục ủng hộ quái vật Savimbi.

Ở Cuba, sau thất bại trong cuộc xâm lược Vịnh Con Lợn năm 1961, tổng thống John F. Kenedy đã tiến hành một chiến dịch giết chóc và phá hủy để mang “sự kinh hoàng của trái đất” đến Cuba – theo lời một cộng sự thân tín của Kenedy, sử gia Arthur Shlesinger, trong tiểu sử bán chính thức của Robert Kennedy, người được gán trách nhiệm về cuộc chiến tranh khủng bố.

Sự tàn ác đối với Cuba là rất kinh khủng. Các kế hoạch khủng bố lên đến cực điểm trong cuộc nổi dậy vào tháng 10 năm 1962, dẫn đến cuộc xâm lược của Hoa Kỳ. Hiện nay, giới học giả thừa nhận rằng đó là lý do khiến thủ tướng Nga Nikita Khrushchev đặt tên lửa ở Cuba, khởi đầu cho cuộc khủng hoảng đến gần chiến tranh hạt nhân. Bộ trưởng Quốc Phòng Robert McNamara sau đó đã thừa nhận rằng nếu ông ta là lãnh đạo Cuba thì ông ta “sẽ tiên lượng một cuộc xâm lược của Hoa Kỳ” 

Cuộc tấn công khủng bố của Hoa Kỳ vào Cuba tiếp diễn hơn 30 năm. Chi phí mà Cuba phải gánh chịu dĩ nhiên là khắc nghiệt. Số lượng nạn nhân, hiếm khi được nghe thấy ở Hoa Kỳ, được báo cáo chi tiết lần đầu tiên trong một nghiên cứu của học giả Canada Keith Bolender vào năm 2010, “Tiếng nói từ phía khác: Một lịch sử truyền miệng về chủ nghĩa khủng bố chống Cuba”.

Thiệt hại trong cuộc chiến tranh khủng bố kéo dài được khuếch đại bởi lệnh cấm vận chí mạng, thứ vẫn tiếp tục thách thức cả thế giới cho đến ngày nay. Vào ngày 28 tháng 10, Liên Hiệp Quốc lần thứ 23 xác nhận “sự cần thiết phải chấm dứt các cấm vận kinh tế, thương mại, tài chính do Hoa Kỳ áp đặt đối với Cuba”. Kết quả bỏ phiếu là 188 thuận và 2 chống (Hoa Kỳ, Israel), với ba đảo quốc độc lập ở Thái Bình Dương thuộc Hoa Kỳ bỏ phiếu trắng.

Hiện nay, một số phản đối lệnh cấm vận đã lên cao ở Hoa Kỳ, ABC News đưa tin, bởi vì “đã từ lâu không còn cần thiết” (trích dẫn cuốn sách mới của Hillary Clinton “Những sự lựa chọn khó khăn”). Học giả người Pháp Salim Lamrani đánh giá chi phí cay đắng của người Cuba trong cuốn sách của ông ta vào năm 2013 “Cuộc chiến kinh tế chống Cuba”.

Nicaragua khó có thể không đề cập. Cuộc chiến tranh khủng bố của tổng thống Ronald Reagan đã bị Tòa Án Quốc Tế lên án, họ yêu cầu Hoa Kỳ ngừng “sử dụng vũ lực bất hợp pháp” và bồi thường. 

Washington phản hồi bằng cách gia tăng chiến tranh và phủ quyết một nghị quyết năm 1986 của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc kêu gọi mọi quốc gia – có nghĩa là cả Hoa Kỳ - tôn trọng luật pháp quốc tế.

Một ví dụ khác về chủ nghĩa khủng bố được kỷ niệm vào ngày 16 tháng 10, lễ tưởng niệm lần thứ 25 ngày 6 mục sư dòng Jesuit ở San Salvador bị một đơn vị khủng bố của quân đội Salvador sát hại. Quân đội Salvador được Hoa Kỳ vũ trang và huấn luyện. Theo lệnh của tư lệnh cấp cao quân đội, các binh lính xông vào trường đại học dòng Jesuit để giết hại các mục sư và mọi nhân chứng – bao gồm cả gia nhân và con gái của họ.

Sự kiện này đẩy những cuộc chiến tranh khủng bố của Hoa Kỳ ở Trung Mỹ lên đến cực điểm vào những năm 1980, nhưng hậu quả thì đến nay vẫn còn xuất hiện trên trang nhất báo chí trong các bản tin về “tị nạn bất hợp pháp”, chạy trốn khi không có bất cứ cách nào thoát khỏi hậu quả của của vụ tàn sát đó, và bị trục xuất khỏi Hoa Kỳ để sống sót nếu họ có thể, trong đống hoang tàn đổ nát của quê nhà. 

Washington cũng vô địch thế giới trong kiến tạo khủng bố. Cựu chuyên gia phân tích CIA Paul Pillar cảnh báo về “tác động hình thành sự oán giận của các cuộc tấn công của Hoa Kỳ” ở Syria, có thể xui khiến các tổ chức jihad Jabhat al-Nusra và Nhà Nước Hồi Giáo “hàn gắn sự chia rẽ vào năm ngoài và cùng tiến hành các chiến dịch chống lại sự can thiệp của Hoa Kỳ bằng coi chúng là cuộc chiến chống lại Hồi giáo”. 

Cho đến hiện giờ những hậu quả tương tự của các chiến dịch của Hoa Kỳ đã phát tán chủ nghĩa jihad từ một góc của Afghanistan sang một phần lớn thế giới.

Biểu hiện rụt rè nhất của chủ nghĩa jihad là Nhà Nước Hồi Giáo, hay ISIS, thiết lập đế chế giết chóc của họ ở những khu vực rộng lớn của Iraq và Syria. 

“Tôi nghĩ Hoa Kỳ là một trong những người kiến tạo chủ chốt của tổ chức này”, cựu chuyên viên phân tích CIA Grahm Fuller, một nhà bình luận xuất sắc về khu vực đó, cho biết. Ông ta bổ sung thêm: “Hoa Kỳ không lập kế hoạch tạo ra ISIS, nhưng sự can thiệp phá hủy của họ ở Trung Đông và cuộc chiến Iraq là nguyên nhân căn bản sinh ra ISIS”. 

Chúng ta có thể bổ sung chiến dịch khủng bố lớn nhất thế giới vào đó: Dự án ám sát toàn cầu đối với “những kẻ khủng bố” của Obama. “Tác động hình thành sự oán giận” của những cuộc tấn công bằng máy bay không người lái và lực lượng đặc nhiệm đã quá rõ để có thể bình luận thêm.

Đây là một kỷ lục cần phải lo ngại.

© 2014 Noam Chomsky
Distributed by The New York Times Syndicate

Tuesday, November 4, 2014

Ba Lan gửi quân đội đến biên giới phía đông

Nội chiến ở Ukraina ngày càng nghiêm trọng. Mới đây nhất Ba Lan đã chuyển hàng ngàn lính sang phía đông, về phía biên giới với Ukraina. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Poland to send troops to eastern border" của Sonja Bach để biết thêm chi tiết. 

Ba Lan gửi quân đến biên giới phía đông

Chính quyền Ba Lan đang chuyển hàng ngàn quân đến biên giới phía đông trong một sự tái tập hợp mang tính lịch sử của quân đội. Sự di chuyển được Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Tomasz Siemoniak công bố vào tuần trước,  sau hội nghi thượng đỉnh NATO vào tháng 9, khi khối đồng minh do Hoa Kỳ lãnh đạo quyết định gia tăng đối đầu quân sự với Nga

Cho tới hiện giờ, đại đa số trong 120,000 lính Ba Lan đã đóng quân ở nửa phía tây của quốc gia. Hiện nay, hàng ngàn lính sẽ được triển khai tới các căn cứ quân sự ở phía đông, vốn đang được hiện đại hóa và nâng cấp. Năng lực của ba căn cứ, trong đó có Trung Tâm Phòng Không Siedlce, được gia tăng từ 30 đến 90%. 

Bên cạnh đó, chính quyền đang lập kế hoạch mua sắm các trực thăng mới bà trang bị tên lửa AGM-158 không đối đất cho các chiến đấu cơ phản lực F-16. Vào tháng 3, Hoa Kỳ đã đưa 12 máy bay loại đó đến Ba Lan.

Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng nói di chuyển quân đội là cần thiết bởi sự thay đổi trong “tình hình địa chính trị”. Ông ta nói với hãng thông tấn AP rằng Ba Lan coi đó là “cuộc khủng hoảng an ninh lớn nhất kể từ Chiến Tranh Lạnh” và phải “rút ra các kết luận từ điều đó”.

Siemoniak nhắc tới các sự kiện ở Ukraina mà không đề cập rằng chính quyền Ba Lan đã can dự sâu sắc vào việc kích động cuộc khủng hoảng, vốn được NATO sử dụng để biện minh cho đối đầu quân sự với Nga.

Vào tháng hai, phong trào đối lập bài Nga do Vitali Klitschko, Arseniy Yatsenyuk và gã phát xít Oleh Tyahnybok dẫn đầu giành quyền lực ở Kiev và lật đổ tổng thống dân cử Viktor Yanukovych. Ba Lan là một trong những tác nhân chính của cuộc đảo chính, vốn được Hòa Kỳ và Đức cổ vũ cũng như tài trợ.

Người sau này là bộ trưởng Bộ Ngoại Giao, Radoslav Sirkorski, đã hợp tác chặt chẽ để thúc đẩy Hiệp Ước Gia Nhập giữa EU và Ukraina với mục đích phá vỡ ảnh hưởng của Nga tại nước cộng hòa cựu thành viên Soviet và mở cửa cho các nhà đầu tư Châu Âu cũng như liên minh quân sự với NATO. 

Khi Yanukovych từ chối ký Hiệp Định, biểu tình nổ ra ở Maidan (Quảng Trường Độc Lập), chính quyền Ba Lan đã ngay lập tức ủng hộ phong trào đối lập. Theo một số báo cáo, nhiều bộ phận của những nhóm du kích cực hữu đóng vai trò mũi nhọn trong cuộc đảo chính đã được huấn luyện ở Ba Lan.

Chính quyền mới của Ukraina có cả đảng phát xít Svoboda, họ được nắm giữ ba ghế bộ trưởng. Đảng này có nguồn gốc là Tổ Chức Độc Lập Quốc Gia Chủ Nghĩa (OUN), trước đây hợp tác với Phát xít Đức và phải chịu trách nhiệm về hàng loạt các vụ thảm sát ở Ba Lan tại khu vực biên giới của Volhynia và Đông Galacia trong thế chiến thứ II. Hiện nay các thành viên đảng Svoboda vẫn kỷ niệm các sự kiện kinh hoàng – trong đó lực lượng phát xít Ukraina đã giết hại hơn 100,000 người Ba Lan, hầu hết là phụ nữ và trẻ em, ở khu vực Ba Lan bị phát xít chiếm đóng – như là chiến thắng “cuộc xâm lược của Ba Lan-Đức”.

Kể từ các sự kiện Maidan và diễn biến tiếp theo ở Crimea, Ba Lan, vốn đã gia nhập NATO vào năm 1999, đã đóng vai trò trung tâm trong cuộc đối đầu với Nga. Vào tháng tư, ngay sau cuộc trưng cầu dân ý ở Crimea, người sau này là thủ tướng Ba Lan Donald Tusk đã kêu gọi NATO gửi nhiều quân hơn đến quốc gia của ông ta. 

Kể từ đó, 9 tàu chiến NATO đã được gửi tới Biển Đen. Vào tháng 3,600 lính đã được gửi tới Ba Lan và các nước vùng Baltic. Một cuộc tập trận tiếp theo đã được tổ chức vào tháng 9 ở gần Lvov tại phía tây Ukraina với sự tham gia của quân đội Ba Lan. 

Hội nghị thượng đỉnh NATO ở xứ Wales đã phác thảo một kế hoạch quân sự chi tiết để tăng cường lực lượng chống lại Nga. Thông cáo chính thức của hội nghị thượng đỉnh được phát ra vào cuối tháng 9 kêu gọi một “sự tiếp tục hiện diện trên không, trên bộ, trên biển và các hoạt động quân sự hữu ích ở phần phía đông của Liên Minh” 

Điều này bao gồm cả việc thiết lập một “lực lượng phản ứng nhanh” từ 3,000 đến 5,000 lính, để có thể gửi tới khu vực khủng hoảng trong ít ngày. Do các tài liệu thiết lập của Hội Đồng NATO-Nga vào năm 1997 cấm đóng quân NATO tại các nước cộng hòa cựu Soviet, quân đội đã được giữ tại các doanh trại của họ cho đến hiện tại. 

Trong bài phát biểu nhậm chức vào ngày 1 tháng 10, người kế vị Tusk, Ewa Kopacz nói rằng Ba Lan sẽ đáp ứng yêu cầu triển khai của NATO bằng cách gia tăng chi tiêu quân sự. Ngân sách quốc phòng sẽ được tăng thêm 190 triệu vào năm 2016, chiếm 2% GDP – mục tiêu được tổng thống Obama đưa ra tại hội nghị thượng đỉnh. Đồng thời Kopacz kêu gọi sự hiện diện lớn hơn của quân đội Hoa Kỳ ở Ba Lan.

Chính sách quân sự của quốc gia hợp tác chặt chẽ với Đức. Vào tháng 3, bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Đức Ursula von Leyen tham dự một cuộc họp công vụ ở Warsaw. Trong hội nghị các bộ trưởng quốc phòng của NATO vào tháng 6, được tổ chức ở Brussels, cả hai quốc gia đã cùng kêu gọi gia tăng nhân sự của Quân Đoàn Đa Quốc Gia Đông Bắc đóng ở Stettin của Ba Lan.

Một cuộc gặp tiếp theo của hai bộ trưởng đã được tổ chức vào tháng 6, tại đó “sự tăng cường và phát triển tiếp theo của quan hệ quốc phòng Đức-Ba Lan” đã được thảo luận, theo quan chức Đức.

Mới đây nhất, sau một gặp tại Hội Nghị Bundeswehr (quân đội Đức) ở Berlin vào ngày 29 và 30 tháng 10, bộ trưởng quốc phòng Ba Lan đã bình luận, “Rất dễ dàng để cho xe tăng, vũ khí phòng không và máy bay vào viện bảo tàng”. Cả hai quốc gia đã đồng ý phối hợp bộ binh.

Phía sau chính sách quốc phòng liên minh chặt chẽ với Đức và Hoa Kỳ của Ba Lan là tham vọng bành trướng khu vực ảnh hưởng của quốc gia về phía đông. Sự hợp tác với lực lượng phát xít bài Ba Lan như Svoboda và chính sách quân sự hiếu chiến nóng vội cho thấy rõ ràng là tầng lớp thượng lưu Ba Lan sẵn sàng làm bất cứ thứ gì để kết thúc. Một sự khiêu khích quân sự của thành viên NATO có thể nhanh chóng biến thành cái cớ cho một cuộc chiến thảm họa với nước Nga được trang bị vũ khí hạt nhân.