Showing posts with label Quân sự. Show all posts
Showing posts with label Quân sự. Show all posts

Wednesday, September 30, 2015

Cái chết của hiến pháp hòa bình: Nhật Bản quay trở lại truyền thống quân phiệt

Giáo sư lịch sử Gary Leupp của trường đại học Tufts, Hoa Kỳ bình luận về việc Nhật Bản từng bước tái vũ trang trong bài "The Death of  the "Pacifist" Constitution: Japan's Return to Its Martial Roots". Nhật Bản tái vũ trang với khát vọng quay trở lại thành một đế quốc theo truyền thống quân phiệt, còn Hoa Kỳ muốn họ trở thành mũi xung kích chống Trung Quốc. Sau Thế Chiến Thứ II, Nhật Bản bị tước vũ khí hoàn toàn và lệ thuộc vào sự đảm bảo của Hoa Kỳ, đã chớp cơ hội làm giàu nhờ các cuộc chiến của Mỹ ở Châu Á. Sự hồi phục về kinh tế sau hơn nửa thế kỷ dẫn đến hy vọng khôi phục chủ nghĩa đế quốc khi gặp thời cơ thuận lợi.

Cái chết của hiến pháp "hòa bình": Nhật Bản quay trở lại truyền thống quân phiệt


Việc quốc hội Nhật Bản thông qua luật cho phép quân đội Nhật Bản hành động để hỗ trợ một “đồng minh thân cận” khi bị tấn công là vi phạm hiến pháp Nhật Bản, vốn (từ năm 1947) đã cấm nhà nước tham gia vào chiến tranh.

Ba chuyên gia hiến pháp được các luật sư mời bình luận về chủ đề đều đã xác nhận sự vi phạm này.

Hành động của các nghị sĩ cho thấy rõ điều có vẻ đang được hiểu rộng rãi: không có sự liên hệ nào giữa luật chính thống ở những nước đế quốc về căn bản là phi luật lệ và tất cả những định đề đẹp đẽ xuất hiện trọng các điều luật của quốc gia đó. 

Ở quốc gia này, chúng ta quen với sự thật là chính quyền Hoa Kỳ không bảo vệ hiến pháp để chống lại “những khám xét phi lý” bằng những nhát cắt kiểu Stasi đối với đối thoại cá nhân. Chúng ta cũng quen với sự thật là hành pháp của Hoa Kỳ đã bất chấp các điều khoản của hiến pháp quy định về việc quốc hội phải phê chuẩn chiến tranh.

Thế thì tại sao điều này lại có vẻ bất thường, trong khi hiến pháp Nhật Bản cấm thẳng thừng mọi hình thức duy trì quân đội, Nhật Bản thực tế lại có quân đội lớn thứ tám thế giới? Tầng lớp thượng lưu cai trị Nhật Bản đang chuẩn bị để triển khai quân đội bất hợp pháp hung hăng hơn?

Đừng ngây thơ. Đừng nghiêm túc về những người làm điệu bộ bảo vệ luật pháp, canh gác những thứ mà họ gọi là “cộng đồng quốc tế.” Những người đó nói dối thường xuyên, kích động sự sợ hãi (về vũ khí hủy diệt, đặc biệt là khi việc khai thác sự lo lắng đã được chứng minh có hiệu quả), nói dài dòng văn tự như con bạch tuộc phun mực để đánh lừa những người mà họ đang đe dọa, phân tích ngôn ngữ của sự đồng thuận được mã hóa để rút ra những diễn giải thiên kiến. 

Các nhà bình luận ở Nhật Bản và nơi khác đều thống nhất trong cáo buộc rằng thủ tướng Abe Shinzo đã tạo ra thay đổi lớn bằng cách áp đặt “sự diễn giải lại” điều 9 của hiến pháp Nhật Bản. Điều này không chỉ là một bước chắc chắn nữa của cánh hữu Nhật Bản trong việc viết lại hiến pháp đã bị ruồng bỏ. Đây là một thành tích trọng yếu. Một bước chủ chốt quay trở lại quá khứ quân phiệt vinh quang! 

Một số quan chức quân sự đã nói, “Giờ thì chúng ta có thể làm mọi thứ” – tất cả những thứ mà một quân đội bình thường làm ở bất cứ đâu.

Điều này rất đáng phiền đối với tôi, một người đã sống ở Nhật Bản nhiều năm, viếng thăm định kỳ, có liên hệ gia đình và bạn bè và lo ngại sâu sắc về tương lai của đất nước xinh đẹp mong manh này. Điều đó thúc đẩy tôi viết về quá khứ quân phiệt mà quốc gia này tự hào và cách thức nó tạo ra Nhật Bản ngày nay.

* * *

Hãy cùng bắt đầu vào thế kỷ 16, khi những người Châu Âu đầu tiên đến Nhật Bản, tiếp xúc ban đầu và người Nhật Bản đầu tiên đi vòng quanh thế giới tới Châu Âu.

Vào ngày 23 tháng 3 năm 1585, ba nhà quý tộc khởi hành từ Nhật Bản cùng với tùy tùng được chào đón trong lễ tiếp đón chính thức tại Vatican ở Rome. Hội truyền giáo Jesuit ở Nhật Bản, hoạt động tại đất nước “mới được khám phá” này từ năm 1549, muốn thể hiện cho toàn bộ Châu Âu thấy sự thành công của họ trong việc cải đạo cho hàng trăm ngàn người Nhật sang Thiên Chúa Giáo. Vào lúc những người Kháng Cách tràn ngập miền bắc Châu Âu, chống lại và làm suy yếu nhà thờ Catholic Rome, công việc truyền giáo ở “các quốc gia mới được phát hiện” là sự mở rộng phạm vi của Tòa Thánh.

Nhật Bản là một trong những khu vực truyền giáo hứa hẹn nhất. Một số daimyo (“vua” đối với các giáo sĩ Bồ Đào Nha) của họ, hăm hở thu hút những tàu chiến thương mại đến bờ biển, sẵn sàng cải đạo – vì những lý do chung chung – và sau đó ra lệnh cho thuộc hạ cũng làm như vậy. (Các thương nhân Bồ Đào Nha theo sự hướng dẫn của Nhà Thờ nói các chủ nhà Nhật Bản rằng khi họ tuân theo đức tin, họ sẽ nhận được thêm nhiều chuyến viếng thăm của thương thuyền Châu Âu, chất đầy tơ lụa Trung Quốc và các hàng hóa quý giá khác.) 

Nhiều cuộc cải đạo là giả dối hoặc bị cưỡng bức, khi các truy tố nghiêm khắc được bắt đầu vào những năm 1620, đại đa số những người cải đạo đã bỏ đạo. Nhưng vào thời đó, Nhật Bản là sự ưa thích trong nỗ lực truyền giáo toàn cầu của nhà thờ Catholic Rome để chống lại phái Cải Cách.

Sự tác động qua lại đầy đam mê này cũng có khía cạnh “cực đoan”. Người Nhật Bản, Francis Xavier viết vào năm 1550, là “chủng tộc tốt nhất từng được [người Châu Âu] khám phá và tôi không cho rằng anh sẽ tìm thấy đối thủ của họ trong số các quốc gia ngoại đạo.” “Những người này da trắng và có văn hóa,” giáo sĩ dòng Jesuit người Italia Alessandro Valignano đến thăm Nhật Bản viết lại vài thập kỷ sau đó, ngay cả những người bình thường cũng “lịch sự đáng chú ý” đến mức “họ vượt trội so không chỉ với người Đông Âu mà cả người Châu Âu.” Khoảng năm 1590, giáo sĩ dòng Jesuit người Bồ Đào Nha Luis Frois nói rằng người Nhật Bản “trong cách ứng xử và phong tục tập quán của họ” vượt trội hơn người Châu Âu ở nhiều góc độ, “thật xấu hổ khi nói về điều đó.”

(Ngay từ những tiếp xúc ban đầu, người Châu Âu coi người Nhật Bản là “da trắng” và gán cho màu da sáng của họ ưu điểm đạo đức và hiểu biết trí tuệ. Valignano thậm chí còn nói rằng “sự khác biệt giữa người Thiên Chúa Giáo Ấn Độ [Đông Á] và Nhật Bản … tự nó đã chứng minh rằng không có cơ sở nào để so sánh họ, nhóm thứ nhất cải đạo vì một số động cơ cá nhân thầm kín; do họ [người Ấn Độ] là da đen, trí thông minh kém, hệ quả là họ rất khó có thể cải tạo và trở thành người Thiên Chúa Giáo tốt; trong khi người Nhật Bản … do họ da trắng, có trí thông minh và hành vi tốt … trở thành những người Thiên Chúa Giáo rất tốt.”)

Trước khi viếng thăm Vatican, người Nhật Bản đã gặp thống đốc của Bồ Đào Nha, hồng y giáo chủ Albert ở Lisbon; Philip II ở Madrid; nữ hoàng Marie của Áo cũng ở Madrid; và Francesco dei Meidici, đại công tước xứ Tuscany ở Pisa. (Bicanco Capello vợ của Francesco đã ôm từng người, rõ ràng là vui thích về sự mềm mại của những bộ kimono lụa). Khi tới Vatican, được chào đón với đám đông tung hô, một loạt đại bác và chuông nhà thờ, đoàn đại diện được giáo sĩ dòng Jesuit và nhà nhân học người Bồ Đào Nha Gaspare Gonsalves đón tiếp với những lời như sau:

“Quốc đảo Nhật Bản thực sự là rất xa đây và tên của quốc đảo hiếm khi được biết đến, một số người thậm chí còn không biết nó tồn tại. Trái lại, có người biết rằng nó đứng trên tất cả các quốc gia ở phương Đông và so sánh nó với phương Tây, theo diện tích, số lượng thành phố và con người thiện chiến cũng như có văn hóa.”

Con người thiện chiến và có văn hóa! Xavier đã viết, “Chưa bao giờ trong đời mình tôi gặp những người dựa vào vũ khí nhiều như vậy … Họ rất thiện chiến và thường xuyên tham gia chiến tranh …” Tất nhiên là hơn cả những gã thực dân Iberia mà Xavier, một người xứ Basque từ Navarre phải bóp vai khi có dịp. Họ không chỉ chế tạo ra những thanh kiếm tinh tế nhất thế giới, vượt xa kiếm Damas, mà họ cũng hăm hở tiếp nhận súng hỏa mai từ khi chúng được đưa đến Nhật Bản vào năm 1543. Họ đã cải tiến súng trường Châu Âu và sản xuất hàng loạt để Nhật Bản vào năm 1600 có nhiều vũ khí nóng hơn mọi quốc gia Châu Âu. (Vào thời đó, một daimyo đơn lẻ của Nhật Bản cũng có thể kiêu hãnh về khẩu pháo lớn hơn của nữ hoàng Anh Quốc.)

Truyền thống quân phiệt của Nhật Bản có nguồn gốc sâu sa. Những cư dân đầu tiên của quần đảo (người Jomon, dường như đến thông qua Siberia) thiết lập một xã hội không đẳng cấp và hòa bình. Nhưng vào năm 400 trước công nguyên, người Yayoi đến, thông qua bán đảo Triều Tiên, mang theo văn hóa lúa nước, nghề luyện kim, cấu trúc đẳng cấp, quan niệm về nhà nước và văn hóa chiến tranh. Sau sự thống nhất Nhật Bản ban đầu, mà chúng ta có thể gọi là nhà nước “Yamato” (khoảng giữa năm 350 và 400), nhà nước mở rộng tới miền nam Kyushu và đông bắc Honshu bằng quân đội và tham gia vào chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên. Những ngôi mộ tưởng niệm (kofun) xuất hiện vào thời kỳ này có chứa những bức tượng nhỏ bằng sứ mô tả hình chiến binh mặc giáp cưỡi ngựa. 

Sự du nhập của đạo Phật, một hệ thống tín ngưỡng xa lánh cuộc sống, vào năm 538 có thể đã làm giảm nhẹ truyền thống quân phiệt. Mặc dù các cuộc nổi dậy vũ trang địa phương vẫn diễn ra thường xuyên, triều đình vương quốc đóng ở Heian (Kyoto) từ cuối thế kỷ thứ 8 đã phát triển đặc tính văn hóa tao nhã và yêu chuộng hòa bình, khá xa lạ với văn hóa của các chiến binh cha truyền con nối (samurai) tại các vùng hẻo lánh. Nhưng từ cuối thế kỷ 12, samurai đã trỗi dậy thành tầng lớp thống trị mới và tại vị cho đến khi tầng lớp này chính thức bị xóa bỏ vào những năm 1870. 

Quay trở lại Rome vào năm 1585, thật đáng trân trọng khi chào đón các chiến binh Thiên Chúa Giáo từ phía bên kia của thế giới, công khai ở St. Peter’s! Chuyến viếng thăm Vatican này đánh dấu sự khởi đầu của một cuộc tình dai dẳng đau đớn Đông-Tây. Người Bồ Đào Nha, độc quyền thương mại của Châu Âu với Nhật Bản cho tới khi chiến thuyền Tây Ban Nha đóng ở thuộc địa mới Philippine cập bến muộn hơn, các samurai Nhật Bản tình nguyện chiến đấu chống lại người Malay tại thuộc địa Batavia ở Java (sau này mất về tay người Hà Lan). Người Tây Ban Nha thiện chiến thích samurai ngay từ cái nhìn đầu tiên, tuyển mộ họ làm lính đánh thuê cho các cuộc xâm lược ở Trung Quốc và dự định xâm lược Campuchia.

Cuối cùng, mối tình bắt đầu vỡ tan từng mảnh vào năm 1590, khi Toyotomi Hideyoshi, tư lệnh thống trị của Nhật Bản mới tái thống nhất, bắt đầu truy tố người Thiên Chúa Giáo và đe dọa người Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippine với một cuộc xâm lược. (Nực cười thay, những nhà truyền đạo Thiên Chúa Giáo đầu tiên tới Triều Tiên cùng với một đạo quân samurai lên đến hơn 200.000 vào năm 1592.)

Sau đó, shogun Tokugawa nắm quyền (từ năm 1600) tiêu diệt truyền giáo Catholic Rome mà Vatican cho rằng rất hứa hẹn. Nhật Bản trục xuất các thương nhân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha với lý do (chính xác) rằng những người này luôn tìm cách buôn lậu trong khi truyền giáo và giới hạn thương mại với phương tây bằng cách chỉ giao dịch với người Hà Lan. 

(Những người Hà Lan – thuộc phái Kháng Cách giữ đức tin cho bản thân – cho thấy rõ rằng họ không phải là Catholic và không quan tâm tới việc cải đạo. Họ đều cố gắng lấy lòng chủ nhà bằng cách giẫm đạp lên các bức tranh của Catholic Rome và thậm chí bắn đại bác vào các nông dân Thiên Chúa Giáo nổi loạn để đổi lấy việc được kinh doanh ở Nhật Bản.)

Nhưng sau đó – đáng ngạc nhiên – những người Nhật Bản “thiện chiến” tụt hậu trong một thế kỷ rưỡi nội chiến liên miên. Hideyoshi và những người kế nghiệp đã tước vũ khí của nông dân, gom kiếm và súng trường, dồn samurai (chiếm khoảng 7% dân số) vào các thành lũy – mỗi lãnh địa một thành lũy, có khoảng 260 thành lũy như vậy. 

Điều này dẫn đến thứ mà các nhà nhân học lịch sử gọi là “sự thuần hóa của samurai”, diễn ra trong suốt thế kỷ 17. Hòa bình được lập lại. Nhật Bản chỉ xâm lược một quốc gia duy nhất từ năm 1598 (kết thúc tạm thời chiến tranh Triều Tiên) và cuối thời kỳ Edo (Tokugawa) vào năm 1868. Đó là triều đình Ryukyu (hiện giờ là quận Okinawa của Nhật Bản), bị lãnh địa của Satsuma tấn công vào năm 1609 và bị buộc phải chấp nhận địa vị chư hầu.

Từ những năm 1630, người Nhật Bản bị cấm đi ra nước ngoài, ngoại trừ một số nhỏ được phép đến Triều Tiên hoặc phục vụ cho mục đích thương mại của triều đình Ryukyu. Không trở thành một quốc gia hiếu chiến, Nhật Bản đã buông vũ khí, tham gia vào hoạt động thương mại nhộn nhịp nhưng được kiểm soát cẩn thận với Trung Quốc, Triều Tiên, triều đình Ryukyu và Hà Lan. (Người Hà Lan là người phương tây duy nhất được cấp phép thương mại ở Nhật Bản cho đến năm 1859). Trong phạm vi đất nước, hòa bình nói chung được đảm bảo; không có các cuộc nổi loạn của daimyo chống lại các luật lệ của shogun và không có chiến tranh giữa các daimyo. Nhật Bản vẫn luôn có các cuộc nổi loạn của nông dân nổ ra ở địa phương, một số bị đàn áp bằng súng trường, nhưng không bao giờ có các cuộc nổi loạn của nông dân khắp cả nước như thế kỷ 16 ở Đức. 

Trong khi Châu Âu bị xé nát bởi cuộc Chiến Tranh 30 Năm (1618-1648) kinh hoàng, hoàng đế Tokugawa thống trị ở Nhật Bản. Tầng lớp chiến binh, không được hướng nghiệp nhiều như các nhóm chiến binh cha truyền con nối (bao gồm cả phụ nữ), đánh mất tính cách quân phiệt và bị chuyển hóa thành giới hành chính cầm bút khi đất nước đi vào thời kỳ hòa bình ổn định. Dưới những điều kiện đó, dân số tăng gấp đôi trong thế kỷ 17, sản xuất nông nghiệp tăng lên, các thành phố lớn xuất hiện và văn hóa thị dân nảy nở.

Điều đó tiếp tục diễn ra cho đến giữa thế kỷ 19 khi chiến hạm Hoa Kỳ tiến vào cảng Edo, yêu cầu Nhật Bản mở cửa cho thương mại của Hoa Kỳ. Chiến thuyền Anh, Hoa Kỳ và Nga đã xâm nhập bờ biển Nhật Bản trong nhiều thập kỷ, với cường độ gia tăng. Một số thành viên của tầng lớp samurai Nhật Bản đã kêu gọi đáp trả bằng vũ lực. 

Vào năm 1808 (trong thời kỳ chiến tranh Napoleon, đẩy Anh Quốc chống lại Hà Lan thân Pháp), một chiến thuyền Anh Quốc lẻn vào cảng Nagasaki với cờ Hà Lan. Thủy thủ đoàn của họ bắt cóc các thương nhân Hà Lan và bắn đại bác để dọa cư dân thành phố. Sau đó, chế độ shogun bị sốc đã ban hành sắc lệnh có tên “Đánh trả các thuyền nước ngoài không cần cần nhắc,” yêu cầu daimyo của các lãnh địa dọc bờ biển bắn vào các thuyền nước ngoài lạ mặt. 

Trước khi họ đến, chiến thuyền Hoa Kỳ dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Matthew Pery đã từng xâm nhập vịnh Edo (Tokyo) vào năm 1853, yêu cầu Nhật Bản mở cửa cho kinh tế thế giới.

Nhận thức được tình hình, chế độ shogun khuất phục trước sức ép, đồng ý thiết lập “các cảng hiệp ước”. Nhưng những tổn thất kinh tế sinh ra khi Nhật Bản hội nhập vào kinh tế thế giới và sự mất uy tín của chính quyền đối với dân chúng đã dẫn đến cuộc đảo chính đẫm máu trong Chiến Tranh Boshin năm 1867-1869. 

Chế độ shogun bị lật đổ trong cuộc chiến này, tổn thất 8.000 sinh mạng. Một chế độ mới (được lãnh đạo, theo lý thuyết, bởi một hoàng đế thiếu niên) tập trung vào việc học hỏi từ phương tây đồng thời chống lại các sự xâm lược khác, được thiết lập. Thời kỳ này được gọi là Khôi Phục Meiji. 

Bất chấp gánh nặng là các hiệp ước bất bình đẳng mà Hoa Kỳ cùng với các đế quốc khác áp đặt, Nhật Bản đã nhanh chóng thoát khỏi hai thế kỷ tương đối cô lập để trở thành một quyền lực toàn cầu theo đúng nghĩa. Trong khi đẳng cấp samurai bị bãi bỏ vào những năm 1870, một hệ thống nghĩa vụ quân sự và chính sách quốc gia về “quốc gia giàu, quân đội mạnh” đảm bảo cho sự hồi sinh của truyền thống quân phiệt lâu đời. 

Vào khoảng năm 1873, chỉ 5 năm sau thời kỳ mới Meiji, các lãnh đạo (đều có nền tảng samurai) đã lên kế hoạch xâm lược nước láng giềng gần nhất, Triều Tiên, để buộc nước này chấp nhận các quan hệ ngoại giao và thương mại. Kế hoạch bị hủy bỏ (chủ yếu là do sự phản đối của phương tây). Nhưng ngoại giao chiến hạm của Nhật Bản mô phỏng theo các đế quốc phương tây đã buộc Triều Tiên phải khuất phục vào năm 1876.

Cũng trong thời kỳ đó, chính quyền mới của Nhật Bản đã gửi chiến thuyền đi Đài Loan, để trừng phạt các bộ lạc trên đảo về việc giết hại 54 ngư dân Nhật Bản và Ryukyu bị đắm tàu. Thanh triều của Trung Hoa tuyên bố chủ quyền đối với hòn đảo (cũng như Bắc Kinh hiện nay vẫn tiếp tục khẳng định rằng Đài Loan luôn luôn là một phần của Trung Hoa). Sau khi tàn sát nhiều người, Nhật Bản buộc Trung Hoa phải bồi thường và thừa nhận chủ quyền của Nhật Bản đối với vương quốc Ryukyu (Okinawa). 

Sao hàng loạt các can thiệp vũ trang ở Triều Tiên, quân đội Nhật Bản đụng độ với quân đội Trung Hoa ở Triều Tiên vào năm 1894. Sau khi quân đội Trung Hoa can thiệp vào quốc gia này (theo yêu cầu của hoàng đế Triều Tiên) để đàn áp một cuộc nổi loạn của nông dân, Nhật Bản cũng viện dẫn hiệp ước để gửi đưa quân đội đến. Sau một số đụng độ khiêu khích lẻ tẻ với người Trung Quốc, chiến tranh toàn diện nổ ra. Cuộc chiến bao trùm bán đảo Triều Tiên, miền nam Manchuria và Đài Loan. Nhật Bản chiến thắng đòi hỏi và nhận được Đài Loan cũng như bán đảo Liaodong ở Manchuria để bồi thường chiến phí. 

Nhưng can thiệp ngoại giao của Nga, Đức và Pháp đã ngăn cản Tokyo nuốt gọn Liaodong và tạo ra sự oán giận của Nhật Bản đối với Sa hoàng. Sự oán giận này tăng lên nhanh chóng sau khi Nga tự giành nhượng địa ở Liaodong ngay sau khi ngăn cản nỗ lực của Nhật Bản.

Vào năm 1900, khi cuộc nổi loạn nông dân Boxer chiếm các đại sứ quán nước ngoài ở Bắc Kinh, Nhật Bản tham gia cùng với các đế quốc phương tây đàn áp cuộc nổi dậy. Quân đội Nhật Bản là đồng minh Châu Á duy nhất trong lực lượng đa quốc gia, được các nước phương tây ca ngợi, đặc biệt là Anh Quốc, vì sự chuyên nghiệp. Đột ngột trở thành tình nhân của đế quốc Anh, Nhật Bản ký Hiệp Ước Hàng Hải Anh-Nhật vào năm 1902 – khi người Anh bãi bỏ các điều khoản nặng nề trong hiệp ước bất bình đẳng mà Anh đã ký với Nhật Bản vào những năm 1850.

Đột nhiên các trí thức Anh nói về sự tương đồng rõ ràng giữa hai quốc đảo – xã hội vương quyền, đẳng cấp, sự tao nhã của họ; những di sản hàng hải và phong kiến của họ; niềm tự hào về truyền thống quân phiệt của họ. Điều đó tạo ra ý nghĩa cho cả hai để liên minh, đặc biệt là trong mối lo ngại chung về sự mở rộng vai trò của Nga ở Châu Á.

Nga đã giành được các nhượng địa của Trung Quốc ở Liaodong sau khi ngăn cản Nhật Bản chiếm bán đảo này vào năm 1895. Nhật Bản tấn công vào năm 1904 và khi quân đội của họ tràn ngập Manchuria thì hải quân của họ phá hủy chiến hạm Baltic của Nga ở eo biển Tsushima trong năm tiếp theo. Nga buộc phải cầu hòa. Đó là thất bại cay đắng của Sa hoàng, chiến thắng đầu tiên của đế quốc Châu Á trước đế quốc Châu Âu trong thời hiện đại, dẫn đến niềm tự hào dân tộc ở Nhật Bản. Họ sáp nhập Triều Tiên (chính thức vào năm 1910) vào đế quốc Nhật Bản, cùng với phần đất của Nga ở Manchuria và nửa phía nam của đảo lớn Sakhalin.

Thế Chiến thứ I có vẻ ít liên quan đến Nhật Bản. Nhưng viện dẫn một điều khoản trong Hiệp Ước Hàng Hải Anh-Nhật, yêu cầu Nhật Bản tham chiến cùng với Anh khi nước Anh có chiến tranh với nước khác, Tokyo đã tấn công nhượng địa Shandong của Đức ở Trung Quốc, chiếm phần đất này cho bản thân đồng thời chiếm đóng luôn các tài sản của Đức ở Nam Thái Bình Dương, bao gồm cả quần đảo Samoa. Vào năm 1918, đế quốc Nhật Bản đã dùng quân đội chiếm đóng lãnh thổ từ cận Bắc Cực đến Polynesia. Tất cả đều diễn ra trong vòng nửa thế kỷ của thời kỳ Phục Hồi Meiji.

Một quốc gia rất hiếu chiến! Rất hung hãn. Nhưng cả người Anh và người Yankee đều trở nên bồn chồn. Cả hai đều muốn tự do tiếp cận thị trường Trung Hoa khổng lồ và Nhật Bản đã thể hiện sự thích thú được hành xử đúng như các đế quốc phương tây trong Thế Chiến thứ I. Nhật Bản áp đặt “21 Yêu Cầu” không thể chịu đựng nổi cho Trung Quốc, mà cả London và Washington đều can thiệp để giảm nhẹ. Anh Quốc cho phép mở rộng hiệp ước Anh-Nhật, tuyên bố rằng các hiệp ước đa phương hậu chiến như Hiệp Ước Hàng Hải Washington 1922 trái với nó là vô hiệu. 

Trong khi đó, chính quyền Nhật Bản, đáp lại các chính sách phân biệt chủng tộc chống người nhập cư Nhật Bản ở Hoa Kỳ và những nơi khác, cũng như để tạo ra Lebensraum [tiếng Đức: Không gian sống] ở bên ngoài biên giới cho dân số đang gia tăng của họ, theo đuổi phương thức mở rộng vương quốc ở đông bắc Châu Á.

Nhật Bản chiếm đóng toàn bộ Manchuria vào năm 1931 – dựa vào hoạt động quả cảm của các đơn vị quân đội phiêu lưu hơn là các chính sách có tính toán – sáp nhập nhà nước “Manchukuo” vào đế quốc. Sự cố Manchuria dẫn đến sự sụp đổ của Liên Đoàn Quốc Gia do đại diện Nhật Bản rút khỏi sau khi Liên Đoàn lên án hành động của Nhật Bản. Cuộc chiến toàn diện ở Trung Hoa diễn ra vào năm 1937, một cuộc chiến bí mật với Soviet về biên giới Manchuria-Mongolia dấy lên vào năm 1939. (Trong cuộc chiến biên giới, quân đội Nhật Bản có vẻ như bị đánh bại; Tokyo đồng ý ký hiệp ước không xâm lược với USSR hai năm sau đó.)

Tổng thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt, bị kiềm chế bằng quan điểm chủ nghĩa biệt lập thông dụng, lên án sự xâm lược của Nhật Bản ở Trung Quốc, công bố “cấm vận đạo đức” đối với Nhật Bản, từng bước áp dụng thêm các trừng phạt thương mại. Sau khi Nhật Bản xâm nhập thuộc địa Việt Nam của Pháp vào năm 1940 (theo lý thuyết, thực hiện hiệp ước với chính quyền Pháp thời phát xít chiếm đóng), các trừng phạt của Hoa Kỳ được siết chặt. Hoa Kỳ phong tỏa tài sản của Nhật Bản tại ngân hàng Hoa Kỳ và cắt nguồn cung cấp dầu. 

Washington yêu cầu Tokyo rút quân khỏi Trung Quốc về vị trí trước chiến tranh ở miền bắc và rút khỏi Hiệp Định Ba Bên với Đức và Italia, như là điều kiện để khôi phục các quan hệ thương mại bình thường. Các lãnh đạo Nhật Bản, do Tojo Hideki dẫn đầu, kết luận rằng điều đó bất khả thi về mặt chính trị. (Công chúng đã bị tiêm nhiễm một dạng kích động hậu chiến thường lan truyền ở các nước tư bản đế quốc hiện đại. Bất cứ thông báo đầu hàng nào trước Hoa Kỳ cũng sẽ dẫn đến sự giận dữ lan rộng cùng với những hậu quả không thể lường trước.)

Giới lãnh đạo, chỉ với kho dự trữ dầu lửa cho một năm để phát động chiến tranh, đã lựa chọn một con đường khác: Chiếm các bãi khoan dầu của Hà Lan ở Đông Indonesia. Nhưng điều này đó có nghĩa là hạ đo ván các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ và Anh ở Philippine, Hong Kong, Singapore, Malaya và Hawai’i. Điều đó được hoàn thành, thần tốc và hiệu quả. Vào tháng 12 năm 1941, thần chết đã được gọi lên.

Bốn năm sau, Tokyo và Osaka bị ném bom san phẳng, Hiroshima và Nagasaki bị bom nguyên tử biến thành thứ giống như bề mặt của mặt trăng. 

Giới lãnh đạo Nhật Bản không đầu hàng quân đồng minh vì bị ném bom nguyên tử. (Trên thực tế không kinh khủng hơn loại bom thông thường đã thiêu cháy 100.000 người ở Tokyo vào ngày 9 tháng 3 năm 1945.) Sự tham chiến của Liên Bang Soviet (trước đó là trung lập) vào ngày 8 tháng 8 năm 1941, viễn cảnh quân Soviet đóng ở phía bắc, phân chia đất nước và khả năng một cuộc cách mạng cộng sản nổ ra đã cho lãnh đạo Nhật Bản thấy rằng đầu hàng Hoa Kỳ là lựa chọn tốt nhất. Khi bị quân đội Hoa Kỳ chiếm đóng, người dân Nhật Bản bị buộc phải chấp nhận hiến pháp mới (vào năm 1947) do nước ngoài soạn thảo, rời bỏ văn hóa quân phiệt lịch sử lâu đời đã được mô tả ở phía trên.

Và như vậy một thời đại mới bắt đầu.

* * *

Điều 9 của hiến pháp Nhật Bản rất rõ ràng: “Khát khao chính đáng đối với hòa bình quốc tế dựa trên công lý và trật tự, người dân Nhật Bản vĩnh viễn rút khỏi chiến tranh như là chủ quyền của quốc gia cũng như đe dọa hay sử dụng bạo lực để làm phương tiện giải quyết các tranh chấp quốc tế.

“Để thực hiện mục tiêu của đoạn nêu trên, bộ binh, hải quân và không quân cũng như các tiềm năng chiến tranh khác, sẽ không bao giờ được duy trì. Quyền tham chiến của nhà nước sẽ không được thừa nhận.” 

Nghịch lý thay, hiến pháp được nước ngoài soạn thảo này đã – đặc biệt là điều khoản này – trở thành tài sản quốc gia mà hàng triệu người Nhật bảo vệ kiên quyết. Không có ai chống lại việc bổ sung vào hiến pháp kiên quyết hơn những người cộng sản Nhật Bản. 

Nhưng bản thân các lãnh đạo Hoa Kỳ đã áp đặt hiến pháp “hòa bình” cho Nhật Bản lại bắt đầu thay đổi suy nghĩ ngay sau khi nó được quốc hội phê chuẩn. Mục tiêu của người chiếm đóng vào năm 1947 là tước vũ khí Nhật Bản vĩnh viễn, nếu không nói là biến nước công nghiệp này thành một nước nông nghiệp lạc hậu. Trung Hoa có triển vọng trở thành đồng minh lớn nhất của Hoa Kỳ ở Đông Á, căn cứ quân sự của Hoa Kỳ và thị trường không giới hạn cho hàng hóa của Hoa Kỳ.

Tuy vậy, cuộc cách mạng cộng sản đã đảo lộn kế hoạch đó. Sau năm 1949, khi chính khách Washington băn khoăn “ai mất Trung Hoa?”, họ định nghĩa lại vai trò của Nhật Bản như là đồng minh tái thiết mới. 

Cùng với sự bùng nổ của chiến tranh Triều Tiên vào năm 1959, Hoa Kỳ thúc ép thủ tướng Nhật Bản Yoshida Shigeru gửi quân tới tham chiến để thể hiện nỗ lực chống lại cộng sản phương Bắc của Liên Hiệp Quốc. Yoshida trả lời thẳng thừng rằng điều đó không khả thi theo hiến pháp Nhật Bản (do Hoa Kỳ soạn thảo). (Yoshida là một người chống cộng sản cứng rắn, đó là lý do khiến chính quyền chiếm đóng thích ông ta, nhưng ông ta không muốn dùng các nguồn lực hiếm hoi cho việc tái quân sự hóa vào lúc đó.)

Như đã diễn ra, công nghiệp Nhật Bản đóng góp lớn vào các nỗ lực chiến tranh, nước Nhật thời hậu chiến phục hồi là nhờ vào “sự thu mua đặc biệt” của Hoa Kỳ (các chi tiêu liên quan đến chiến tranh ở Nhật Bản). Yoshida gọi điều đó là “món quà tặng của chúa”. Vào năm 1948, GDP của Nhật Bản chỉ bằng 55% của năm 1936; vào năm 1953 là 155%. Không phải “viện trợ chung” của Hoa Kỳ mà là chi tiêu chiến tranh của Hoa Kỳ đã tạo ra sự hồi phục hậu chiến của Nhật Bản.

Dưới sức ép của Hoa Kỳ, Tokyo tạo ra một mầm mống của cỗ máy chiến tranh vào năm 1950: “Dự bị cảnh sát quốc gia” với 75.000 người. Con số này tăng lên 110.000 người vào năm 1952, sau khi kết thúc thời kỳ chiếm đóng. Vào cùng ngày Nhật Bản nhận lại chủ quyền (ngày 28 tháng 4 năm 1952), Tokyo ký một “hiệp ước an ninh” với Hoa Kỳ để hợp pháp hóa sự tiếp tục hiện diện của mười ngàn lính Hoa Kỳ (được phép là đàn áp mọi nổi loạn nội địa). Vào tháng 7 năm 1954, “cảnh sát” được tái lập thành “Lực Lượng Phòng Vệ” đất, biển và không. Hiện nay, quân số của họ vào khoảng 250.000 người.

Cục Phòng Vệ Nhật Bản được thiết lập vào năm 1954 – nhưng không phải như là quân đội, hãy nhớ! Chỉ là “lực lượng phòng vệ”. Ít nhất đó là luồng chính thống. Nhưng liệu “lực lượng đất, biển, không, cũng như các tiềm năng chiếng tran khác” có vi phạm hiến pháp? Để đáp lại các nỗ lực không ngừng của nhiều nhóm dân chúng lên án điều đó, Tòa Án Tối Cao Nhật Bản (dưới sức ép bằng văn bản của Hoa Kỳ) đã tuyên bố rằng quyết định về tính hợp pháp phụ thuộc vào quyết định của quốc hội và nằm ngoài phạm vi quyền lực của họ. 

Từng bước một, các bộ phận trong Đảng Dân Chủ Tự Do (LPD, được thiết lập với sự đỡ đầu của CIA vào năm 1955, và nắm quyền lực từ đó cho đến nay, chỉ có một số ngắt quãng nhỏ vào năm 1993-4 và 2009-12) đã vận động để xóa bỏ điều 9 cũng như tái lập Nhật Bản như là “quốc gia bình thường” với quân đội thông thường, hợp pháp, giống như các nước đế quốc khác vẫn triển khai.

Nhưng người dân Nhật Bản không đồng tình với chương trình đó. Các cuộc biểu tình địa phương và toàn quốc phản đối căn cứ Hoa Kỳ ở Uchinada, quận Ishikawa, vào những năm 1950 (quân đội Hoa Kỳ được huấn luyện ở đây trước khi đến Triều Tiên tham chiến) đã buộc căn cứ phải đóng cửa vào năm 1957. Các cuộc biểu tình tại căn cứ quân sự của Hoa Kỳ ở Tokyo vào năm 1957 dẫn đến vụ bắt giữ 7 người vì tội vượt qua ranh giới. Họ được toà chung thẩm Tokyo tuyên án vô tội dựa trên lý do sự tồn tại của căn cứ là vi hiến. (Tòa Án Tối Cao bác bỏ quyết định của tòa cấp thấp hơn sau khi chánh án trao đổi với đại sứ Hoa Kỳ.)

Vụ nhiễm xạ của 23 ngư dân Nhật Bản, một người bị chết, do Hoa Kỳ thử vũ khí hạt nhân ở quần đảo Marshall vào năm 1954, đã thúc đẩy phong trào chống vũ khí hạt nhân và chống quân phiệt của Nhật Bản. Khi thủ tướng Kishi Nobuosuke tìm cách thúc đẩy một đạo luật ở quốc hội để tiếp tục Hiệp Ước An Ninh Hoa Kỳ-Nhật Bản vào năm 1960, hơn bảy triệu người đã tuần hành phản đối. Ý kiến công chúng hầu hết là phản đối hiệp ước an ninh.

Nhưng Kishi đã thông qua đạo luật vào giờ sớm buổi sáng, sau khi đuổi các nghị sĩ đối lập. Sự giận dữ của công chúng lớn đến mức Tokyo phải thông báo với tổng thống Dwight Eisenhower, định đến thăm Nhật Bản để ký hiệp ước, rằng lực lượng an ninh Nhật Bản không thể đảm bản an toàn cho ông.

Vị thủ tướng này từng bị quân đồng minh bắt giữ và giam ở nhà tù Sugamo với cáo buộc tội ác chiến tranh loại A. Ông ta trở thành bộ trưởng bộ quân khí dưới thời thủ tướng Tojo Hideki và là đồng minh thân cận nhất của Tojo. Ông ta đã phát biểu ủng hộ cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng. Ông ta tham gia tích cực vào việc bắt hàng trăm ngàn người Trung Quốc và Triều Tiên làm nô lệ trong các hầm mỏ và nhà máy trong thời kỳ chiến tranh. Ông ta thoát khỏi truy tố nhờ sự can thiệp của “Hội Đồng Hoa Kỳ về Nhật Bản” chống cộng sản, họ cảm thấy rằng ông ta sẽ có ảnh hưởng tới chính trị Nhật Bản theo hướng “thân Mỹ”. 

Kishi Nobusuke cũng là ông của thủ tướng Nhật Bản đương nhiệm, Abe Shinzo. Abe, cũng hiếu chiến như ông của mình, mới đây tuyên bố (trong lễ kỷ niệm kết thúc Thế Chiến thứ II) rằng người Nhật không nên tiếp tục hối lỗi về quá khứ.

Trong thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam, quan điểm công chúng Nhật Bản hầu như là chống chiến tranh và phê phán chủ nghĩa phát xít đứng đằng sau cuộc chiến. Nhưng một lần nữa, công nghiệp Nhật Bản hưởng lợi khổng lồ từ các hợp đồng liên quan đến chiến tranh. Kinh tế Nhật Bản đã nhảy vọt và bùng nổ vào những năm 1960, vượt qua Tây Đức để trở thành nền kinh tế lớn thứ ba thế giới vào năm 1970. Mặc dù Nhật Bản tạo ra Cánh Tả Mới đầy sinh lực so với Hoa Kỳ và Châu Âu, nhưng người dân không thể tách đất nước khỏi liên minh với chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ.

Trong suốt lịch sử, lực lượng cánh hữu vận động để xóa bỏ điều 9 và đưa Nhật Bản quay trở lại con đường lịch sử của chủ nghĩa quân phiệt vinh quang. Bộ giáo dục, đặc trưng với sự điều hành của các chính khách LPD phản động và ngu dân nhất (như Fujio Masayukio, vào năm 1986 đã gọi cuộc thảm sát Nam Kinh là một ngụy tạo và tuyên bố Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên là theo yêu cầu của Triều Tiên), đã từng bước khôi phục nội dung quốc gia chủ nghĩa trong phần “giáo dục đạo đức” bắt buộc của chương trình trung học; buộc các trường học phải treo cờ mặt trời và buộc các khoa và sinh viên phải hát quốc ca đế quốc; chấp nhận cho các trường công sử dụng sách giáo khoa lịch sử tô vẽ hoặc thanh minh cho các tội ác chiến tranh của Nhật Bản. 

Trong khi đó, văn phòng thủ tướng thường xuyên thử nghiệm giới hạn của việc diễn giải lại điều 9. Vào năm 1981, thủ tướng Suzuki Zenko đã khơi lên một cơn bão chỉ trích khi ông ta đề xuất rằng Lực Lượng Phòng Vệ Biển được phép bảo vệ vận chuyển của Nhật Bản trong phạm vi 1.000 hải lý quanh Nhật Bản. Hai năm sau, thủ tướng Nakasone Yasuhiro (bạn tinh thần của những người cùng thời như Ronald Reagan, Margaret Thatcher và Helmut Kohl) khơi dậy một làn sóng chỉ trích khác khi ông ta cho phép ngân sách quân đội (“phòng vệ”) vượt qua giới hạn 1% GDP truyền thống – chỉ để thử giới hạn và xem công chúng phản ứng ra sao. Ông ta cũng gây ra sự giận dữ khi khẳng định quốc hội Hoa Kỳ mô tả Nhật Bản là “tàu sân bay không thể bị đánh chìm trên Thái Bình Dương” đang phục vụ cho nhu cầu của Hoa Kỳ.

Trong chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, Tokyo (cần thiết) phải từ chối gửi quân đến mặt trận. Điều này đã khiến các nghị sĩ Hoa Kỳ thiếu trải đời tức giận về vấn đề hiến pháp, phàn nàn rằng người Nhật Bản nhận được dầu mỏ giá rẻ ở Trung Đông là do hoạt dộng quân sự của Hoa Kỳ đảm bảo. Một số thậm chí còn đe dọa rút quân đội Hoa Kỳ khỏi Nhật Bản (chi phí duy trì của họ cho tới nay vẫn do người đóng thuế Nhật Bản thanh toán) nếu Nhật Bản không tham gia vào tấn công Saddam Hussein. (Một thành viên cao cấp của Lực Lượng Phòng Vệ trong một dịp thẳng thắn công khai hiếm hoi đã tuyên bố rằng nếu Hoa Kỳ muốn rút quân, người Nhật Bản sẽ nói tạm biệt; trên hết, người Nhật Bản chưa bao giờ nhất mực yêu cầu sự có mặt của họ.) 

Cuối cùng Tokyo trả cho Hoa Kỳ 13 tỷ dollar để đóng góp vào nỗ lực chiến tranh, nhằm buộc quân đội Iraq rời khỏi Iraq. (Arab tuyên bố đóng gớp cho Washington 36 tỷ dollar, trong khi Đức chi 5 tỷ dollar). Các lãnh đạo LDP coi điều này là đáng xấu hổ; “ngoại giao sổ séc,” họ tuyên bố, phải được thay thế bằng những dấu giày thực sự trên mặt đất. 

Vào năm 1992, quốc hội thông qua một đạo luật cho phép Lực Lượng Phòng Vệ triển khai trong “các chiến dịch gìn giữ hòa bình” (PKO) của Liên Hiệp Quốc cùng với các lực lượng quốc tế khác. Đó là bước khởi đầu quan trọng, một liệu pháp tâm lý. Kể từ đó SDF thực hiện các nghĩa vụ ở Campuchia, Mozambique, Đông Timor, Cao Nguyên Golan, Haiti và Nam Sudan.

Bước tự nhiên tiếp theo trong chiến dịch tái vũ trang là gửi tàu chở dầu và tàu khu trục tới bờ biển Pakistan vào cuối năm 2001 để hỗ trợ Hoa Kỳ trong chiến tranh Afghanistan. (Vùng biển này dĩ nhiên là nằm ngoài phạm vi 1.000 hải lý giới hạn cho hoạt động của SDF mà Suzuki Zenko đề xuất). Đây là một nhiệm vụ đầy tai tiếng, kết thúc theo lời hứa tranh cử của thủ tướng mới đắc cử Hatoyama Yukio vào năm 2009.

Nhật Bản trong vai trò là quốc gia chư hầu của Hoa Kỳ không bao giờ thể hiện quan điểm khác biệt cứng rắn với Washington về bất cứ vấn đề quốc tế nào. (Ít nhất thì họ cũng khác với Washington như Warsaw khác với Moscow). Họ tuân thủ hoàn toàn. Vào năm 2003, khi tổng thống George W. Bush bắt đầu dối trá để chống lại Iraq, thủ tướng Koizumi Junichiro (không giống với các lãnh đạo Đức và Pháp) đã tuyên bố hoàn toàn ủng hộ và đóng góp 600 quân cho nỗ lực của Bush.

Đây là sự đột phá chủ yếu của phe quân phiệt Nhật Bản. Dĩ nhiên, quân lực Nhật Bản không được tham chiến, do bị ràng buộc bởi điều 9. Nhưng họ có thể xây dựng một pháo đài ở Samawa, miền nam Iraq, được cung cấp các tiện nghi gia đình như karaoke bar, cửa hiệu massage, từ đó họ có thể mạo hiểm ra ngoài mỗi sáng sớm – với sự hộ tống của quân đội Hà Lan được phép giết người - để làm các công việc “nhân đạo” như lọc nước và làm đường. (Như thể là người Iraq không tự làm được.) Hai phần ba số người Nhật Bản được hỏi đã phản đối nhiệm vụ đó, nhiều người hiểu rõ ràng điều đó có nghĩa là gì: chỉ là một bước tiếp theo để vi phạm điều 9 và bình thường hóa việc triển khai quân đội trên phương diện quốc tế.

Người kế nhiệm Koizumi là Abe Shinzo – một lần nữa, đứa cháu đáng tự hào của Kishi Nobusuke đã được nhắc đến phía trên – tái định hình thiết chế quân sự để thiết lập Bộ Quốc Phòng có trụ sở ở Shinjuku của Tokyo. Người đứng đầu Bộ Quốc Phòng hiện giờ đang tham gia nội các. Vào năm 2009, trong khi một người hiếu chiến khác, Aso Taro, tái lập nhiệm vụ tiếp liệu trên Ấn Độ Dương để cho phép SDF biển gửi các tàu khu trục tới bờ biển Somali để bảo vệ không chỉ người Nhật Bản mà cả những người khác khỏi cướp biển. Kể từ đó, các thủy thủ Nhật Bản đã đóng quân tại Djibouti ở vùng Sừng của Châu Phi – cách quê nhà rất xa.

Gần tổ quốc hơn là một số đảo đá không người ở trên Biển Đông Trung Hoa, mà người Trung Hoa đã đến đó trong hơn sáu trăm năm gọi là Daioyutai. Tên Nhật Bản, được tạo ra vào những năm 1870, là Sensaku. Bất kì ai sở hữu chúng cũng sẽ sở hữu ngư trường và nguồn dầu lửa có diện tích 21.000 dặm vuông, nên chúng không phải là không quan trọng. Trung Hoa (cũng như Đài Loan) khẳng định chủ quyền dựa trên các cơ sở lịch sử chắc chắn. Tokyo khẳng định chủ quyền dựa trên cơ sở những gì họ khẳng định – rất phi lý – là được thừa nhận bằng cơ sở pháp lý quốc tế.

* * *

Nhưng (một lần nữa) sự khinh thường của chính quyền Nhật Bản đối với hiến pháp Nhật Bản khiến chúng ta phải đặt ra câu hỏi “luật pháp” có liên quan gì ở đây? 

Tokyo nói rằng khi họ tuyên bố quyền sở hữu đối với bốn đảo đá trên Biển Đông Trung Hoa (không có người Nhật Bản nào biết cho đến trong khi vào thế kỷ 15 người Trung Hoa vẽ bản đồ, đến thăm và đặt tên cho chúng) vào năm 1895 thì chúng không có dân cư, do đó bất cứ ai cũng có thể chiếm lấy. Chúng thuộc về khái niệm pháp lý phương tây “terra nullius” hay đảo không người ở. Bất kể là nhà địa lý vĩ đại nhất của Nhật Bản, Hayashi Shihei, đã vẽ một bản đồ toàn diện vào năm 1785 cho thấy những đảo đó thuộc Trung Hoa. Bất kể là ngoại trưởng Nhật Bản, Inoue Kaoru, đã từ chối lời yêu cầu sáp nhập của chính quyền Okinawa vào năm 1885 dựa trên cơ sở là những đảo này thuộc về Trung Hoa.

Tất cả vấn đề là khi Nhật Bản đang lên đánh bại Trung Hoa vào năm 1895 và gây ấn tượng với các đế quốc phương tây, tuyên bố quyền sở hữu với những hòn đảo đó trong thời kỳ chiến tranh (trước khi chiếm Đài Loan sát đó làm thuộc địa), các đế quốc thực dân đã chấp nhận đòi hỏi của Nhật Bản. Thật hợp pháp làm sao! Kể từ khi Nhật Bản có “luật pháp” ở phe mình. Thế thì lịch sử nào liên quan đến điều đó? (Nghiêm túc mà nói, tôi được nghe một nhà ngoại giao Nhật Bản đặt nó đúng vào khái niệm này)

Nhưng tranh chấp về những hòn đảo này thực tế phức tạp hơn, ngay cả từ quan điểm pháp lý. Trong Tuyên Bố Cairo năm 1943, phe thắng trận gồm Roosevelt, Churchill và Chiang Kai-shek đã tuyên bố rằng, sau khi đầu hàng vô điều kiện, “Nhật Bản phải trả lại tất cả các lãnh thổ đã cướp đoạt của người Trung Quốc, như Manchuria, Formosa và Pescadores, tất cả phải được trao trả cho nước cộng hòa Trung Hoa.” Yêu cầu này được Truman, Churchill và Stalin nhắc lại ở Potsdam. Khi bại trận, Tokyo bị buộc phải từ bỏ những tài sản đó. 

Nhưng tình trạng của Diaoyutai/Senkaku vẫn không rõ ràng. Chúng liên quan đến khu vực chiếm đóng ở Ryukyu của Hoa Kỳ, tách biệt với khu vực tạo thành đất liền của Nhật Bản. (Kể từ khi Nhật Bản sáp nhập Ryukyu vào những năm 1870, chính quyền khu vực chiếm đóng không chắc chắn hoặc không biết phải đối xử với chúng như là một phần của Nhật Bản hay là quốc gia độc lập tiềm tàng.) Vào năm 1945, Hoa Kỳ có thể giao lại các đảo có tranh chấp cho Trung Hoa một cách đơn giản, khi mặt trận thống nhất giữa Guomindang của Chiang Kai-shek và những người cộng sản còn lãnh đạo Trung Hoa. Trái lại, họ giữ lại chúng trong phạm vi quận Okinawa.

Vào năm 1972, Hoa Kỳ “trao trả” quần đảo Ryukyu cho Nhật Bản (trong khi vẫn giữ lại, thực tế là đòi hỏi, quyền đóng 25.000 quân tại các căn cứ quân sự trên đảo Okinawa). Các đảo Diaoyutai cũng được trả lại cùng với Ryukyu và hiện giờ Tokyo tính toán rằng nếu nổ ra tranh chấp đảo với Bắc Kinh, Hoa Kỳ sẽ đứng về phía họ. Sau một số rào đón, Hoa Kỳ đã tuyên bố rõ ràng rằng hiệp ước an ninh giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản bao gồm cả những đảo có tranh chấp.

Đây là thắng lợi chủ chốt cho cháu của Kishi Nobushuke. Khi ông ta dẫn dắt Nhật Bản đến vị trí của đế quốc toàn cầu “bình thường” có thể bắt nạt các quốc gia khác giống như Hoa Kỳ vẫn làm – có thể mở rộng ảnh hưởng của Nhật Bản khắp Đại Đông Á (không hối lỗi) – ông ta có thể dựa vào những người Yankee. Ông ta khôi phục vị thế quốc gia da trắng, văn minh của Nhật Bản. Ông ta khuyến khích nguồn gốc thiện chiến. Mọi thứ đều đang theo lộ trình, giống như trước khi có những thập kỷ hòa bình phiền nhiễu. 

Nhưng vào lúc này, “những người có văn hóa và thiện chiến” đang đứng chông chênh trên nỗ lực “xoay trục” hướng sang Đông Á và Biển Đông Trung Hoa, để đối đầu với Trung Hoa đang lên như vũ bão, của đế quốc Hoa Kỳ. Trung Hoa tiến hành một cách hợp lý trong việc đòi hỏi chủ quyền, lãnh thổ và các vấn đề khác. Trái lại, cháu của Kishi là kẻ nóng đầu, có quan điểm phục hồi quân phiệt – móc nối với cánh hữu băng đảng-tân phát xít, luôn luôn là những kẻ quá khích của chính trị Nhật – có thể tạo ra những điều rất xấu xa, sẽ sớm thôi.

Việc chính quyền Nhật Bản mua lại các đảo Daioyu/Sensaku từ các chủ sở hữu tư nhân vào tháng 12 năm 2012 (bị Washington phản đối là sự khiêu khích không cần thiết đối với Trung Quốc) có thể được coi là khởi đầu cho một giai đoạn đối đầu mới. 

Kịch bản khôi phục là rất rõ ràng. Từng bước một, phe quân phiệt giành lấy ảnh hưởng ở Nhật Bản. Họ đã giành được thắng lợi lớn trong tuần qua. Hiến pháp Nhật Bản năm 1947 không còn ý nghĩa gì hết. Hachiman (thần chiến tranh) đang mỉm cười. Trở lại bình thường, sự bình thường của hai thiên niên kỷ. Samurai quay trở lại trên yên ngựa, thẳng tiến tới chiến trường, với sao và vạch dưới lá cờ mặt trời của đế quốc đang tung bay.

* * *

Trong tuần qua, hơn một trăm ngàn người Nhật đã biểu tình bên ngoài quốc hội khi LPD và các đối tác của họ thông qua luật ủng hộ chiến tranh. Họ cần sự đoàn kết quốc tế. Bài báo này là một sự đóng góp nhỏ cho điều đó.

Gary Leupp is Professor of History at Tufts University, and holds a secondary appointment in the Department of Religion. He is the author of Servants, Shophands and Laborers in in the Cities of Tokugawa Japan; Male Colors: The Construction of Homosexuality in Tokugawa Japan; and Interracial Intimacy in Japan: Western Men and Japanese Women, 1543-1900. He is a contributor to Hopeless: Barack Obama and the Politics of Illusion, (AK Press). He can be reached at: gleupp@tufts.edu

Tuesday, September 29, 2015

"Mỹ Tân": Sự ngu dốt ở Washington

Việt Tân, rận chủ Bờ Hồ, cuồng Mỹ luôn ca ngợi sức mạnh, giá trị và văn minh Mỹ hết lời, nhưng không khi nào họ dám trích dẫn "Mỹ Tân" chưa nói là phân tích hay mổ xẻ bất cứ điều gì. Trong thời đại Internet, chúng ta rất dễ dàng tìm thấy "Mỹ Tân", một cựu quan chức chính quyền Mỹ và giờ là nhà báo nổi tiếng Paul Craig Roberts phê phán nước Mỹ từ quan điểm dân túy cánh hữu trong bài báo "Brainless in Washington", tất nhiên là cũng đầy đủ các khía cạnh như sự ngu dốt của chính quyền Mỹ, sự bất bình đẳng thu nhập khủng khiếp, sự tuyệt vọng của dân chúng bị bần cùng, kinh tế sụp đổ, thậm chí giờ còn tồi tệ hơn cả Việt Nam .... Tất nhiên, sự khác biệt không phải ở chỗ người ta phê phán cái gì, mà là ở chỗ người ta phê phán từ quan điểm nào. Cho dù là phê phán nước Mỹ tư bản chủ nghĩa, phê phán kinh tế học tân tự do, nhưng vẫn sử dụng quan điểm của nhà tư bản cá biệt, của chính kinh tế học tân tự do thì sẽ không bao giờ có thể thoát khỏi cái hệ thống đó, kết cục chỉ có thể là thỏa hiệp hoặc buông xuôi tuyệt vọng.

Sự ngu dốt ở Washington

Hình minh họa: Obama và Tập Cận Bình
Chỉ số IQ của Washington đã đi theo lãi suất của Fed – nó âm. Washington là lỗ đen hút cạn tư duy lành mạnh của chính quyền.

Sự thất bại của Washington là rõ ràng ở mọi nơi. Chúng ta có thể thấy thất bại trong những cuộc chiến của Washington và trong cách Washington tiếp cận Trung Quốc và Nga. 

Chuyến viếng thăm của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, được xếp lịch vào cuối tuần sau chuyến viếng thăm Washington của giáo hoàng. Liệu có phải là Washington hạ cấp Trung Quốc bằng cách bắt chủ tịch nước của họ đóng vai trò thứ cấp sau giáo hoàng? Chủ tịch Trung Quốc ở đây để cho truyền thông đưa tin vào cuối tuần? Tại sao Obama không nói với ông ấy là cút xuống địa ngục đi?

Sự kém cỏi về không gian mạng của Washington cũng như sự bất lực trong việc đảm bảo an ninh mạng của họ được dùng để đổ lỗi cho Trung Quốc. Vào ngày trước khi Tập Cận Bình đến Washington, thư ký báo chí của Nhà Trắng khởi động chuyến thăm của chủ tịch Tập Cận Bình bằng cách thông báo rằng Obama có thể đe dọa Trung Quốc với các biện pháp trừng phạt tài chính. 

Và không để lỡ cơ hội nào để đe dọa hay làm hạ nhục chủ tịch của Trung Quốc, bộ trưởng bộ thương mại Hoa Kỳ đã gửi cho chủ tịch Trung Quốc một cảnh báo rằng chính quyền Obama rất không hài lòng với thực tiễn kinh doanh của Trung Quốc để hy vọng một cuộc gặp trôi chảy ở Washington. 

Trái lại, khi Obama viếng thăm Trung Quốc, chính quyền Trung Quốc đã đối xử với ông ta lịch sự và tôn trọng.

Trung Quốc là chủ nợ lớn thứ hai của Hoa Kỳ, sau Fed. Nếu như chính quyền Trung Quốc tức giận, Trung Quốc có thể gây ra cho Washington nhiều vấn đề nghiêm trọng về kinh tế, tài chính và quân sự. Mặc dù vậy, Trung Quốc vẫn theo đuổi hòa bình trong khi Washington thường xuyên đe dọa.

Cũng giống như Trung Quốc, Nga có một chính sách đối ngoại độc lập với Washington và sự độc lập trong chính sách đối ngoại của họ đã đưa Trung Quốc và Nga thoát khỏi Washington.

Washington coi các quốc gia có chính sách đối ngoại độc lập là mối đe dọa. Lybia, Iraq và Syria đều có chính sách đối ngoại độc lập. Washington đã tàn phá hai trong số ba quốc gia đó và đang tiếp tục với quốc gia còn lại. Iran, Nga và Trung Quốc cũng có chính sách đối ngoại độc lập. Hệ quả là Washington coi những quốc gia này là mối đe dọa và tô vẽ họ như là mối đe đối với người dân Mỹ.

Tổng thống Nga Vladimir Putin gặp Obama vào tuần tới tại cuộc họp của Liên Hiệp Quốc ở New York. Đó là cuộc họp có vẻ như sẽ chẳng đi tới đâu. Putin muốn cung cấp cho Obama sự giúp đỡ của Nga để đánh bại ISIS, nhưng Obama muốn sử dụng ISIS để lật đổ tổng thống Assad của Syria, thiết lập chính quyền tay sai và đá đít Nga khỏi cảng duy nhất trên biển Địa Trung Hải ở Tartus, Syria. Obama muốn ép Putin phải giao Crimea của Nga và đoạn tuyệt với những nước cộng hòa không chịu thần phục chính quyền bài Nga mà Washington đã thiết lập ở Kiev.

Bất chấp sự thù địch của Washington, Tập Cận Bình và Putin tiếp tục hợp tác với Washington, ngay cả khi có nguy cơ bị hạ nhục trước mặt người dân nước họ. Putin và Tập Cận Bình có thể chấp nhận bao nhiêu sự coi thường, lên án và những cái tên (như “Hitler mới”) trước khi mất mặt ở quê nhà? Họ làm sao có thể lãnh đạo khi dân chúng cảm thấy nỗi xấu hổ mà Washington gán cho lãnh đạo của họ. 

Tập Cận Bình và Putin rõ ràng là những người ôn hòa. Họ không phải đang làm mọi cách để cứu thế giới khỏi cuộc chiến cuối cùng đó sao?

Người ta có thể giả định rằng Putin và Tập Cận Bình biết về học tuyết Wolfowitz, cơ sở của chính sách đối ngoại và quân sự Hoa Kỳ, nhưng dĩ nhiên họ không thể tin rằng những thứ ngu xuẩn trơ trẽn như vậy lại có thể có thật. Nói ngắn gọn, học thuyết Wolfowitz tuyên bố rằng nguyên tắc khách quan của Washington là ngăn chặn các quốc gia phát triển đến mức có đủ sức mạnh để chống lại sự thống trị của Hoa Kỳ. Do đó, Washington tấn công Nga thông qua Ukraina và Washington tái quân sự hóa Nhật Bản để làm phương tiện chống lại Trung Quốc, bất chấp sự phản đối của 80 dân chúng Nhật Bản. 

“Dân chủ ư?” “Sự thống trị của Washington không cần đến thứ dân chủ thối tha,” nhà cầm quyền Nhật Bản và là tay sai của Washington tuyên bố, là kẻ đầy tớ tin cậy của Washington, ông ta chà đạp lên đại đa số người dân Nhật Bản.

Trong khi đó, cơ sở thật sự của quyền lực Hoa Kỳ - nền kinh tế của nó - tiếp tục vỡ nát. Hàng triệu công ăn việc làm của tầng lớp trung lưu đã biến mất. Cơ sở hạ tầng của Hoa Kỳ đang sụp đổ. Các cô gái Mỹ, chết ngập trong các khoản nợ tiền học, tiền nhà, tiền đi lại và chẳng có gì ngoài công việc bán thời gian lương thấp, đăng lên các trang Internet lời khẩn cầu xin được làm tình nhân cho những người đàn ông có đủ khả năng giúp họ trả nợ. Đây là hình ảnh của một nước thuộc thế giới thứ ba.

Vào năm 2004, tôi đã dự đoán trong một hội thảo được truyền hình quốc gia ở Washington, DC, rằng Hoa Kỳ sẽ trở thành nước thế giới thứ ba trong 20 năm. Noam Chomsky nói rằng chúng ta đã như vậy vào năm 2015. Đây là đoạn trích dẫn gần đây của Noam Chomsky:

“Hãy nhìn quanh đất nước. Đất nước này đang sụp đổ dần. Ngay cả khi anh trở về Hoa Kỳ từ Argentina thi cũng giống như thấy một nước thế giới thứ ba, khi anh trở về từ Châu Âu thì điều đó càng rõ hơn. Cơ sở hạ tầng đang sụp đổ. Không có gì hoạt động hết. Hệ thống giao thông không hoạt động. Hệ thống y tế hoàn toàn là nhục nhã – chi phí trên đầu người cao gấp đôi các quốc gia khác và kết quả thì không tốt. Từ thứ này đến thứ khác. Trường học đang suy thoái ….”

Một chỉ số khác của nước thế giới thứ ba là sự bất bình đẳng lớn trong phân phối thu nhập và của cải. Theo CIA, Hoa Kỳ hiện giờ là nước có phân phối thu nhập tồi tệ nhất thế giới. Phân phối thu nhập ở Hoa Kỳ tồi tệ hơn Afghanistan, Albania, Armenia, Australia, Áo, Azerbaijan, Bangladesh, Belarus, Bỉ, Benin, Bosnia/Herzegovina, Burkina Faso, Burundi, Campuchia, Cameroon, Canada, Cote d’Ivoire, Croatia, Cyprus, Cộng hòa Czech, Đan Mạch, Ai Cập, Estonia, Ethiopia, Phần Lan, Pháp, Đức, Ghana, Hy Lạp, Guinea, Guyana, Hungary, Iceland, Ấn Độ, Indonesia, Iran, Ireland, Israel, Italy, Nhật Bản, Jordan, Kazakhstan, Kenya, Hàn Quốc, Kyrgyzstan, Lào, Latvia, Liberia, Lithuania, Luxembourg, Macedonia, Malawi, Mali, Malta, Mauritania, Mauritius, Moldova, Mongolia, Montenegro, Morocco, Nepal, Hà Lan, New Zealand, Nicaragua, Niger, Nigeria, Na uy, Pakistan, Philippines, Poland, Portugal, Romania, Nga, Senegal, Serbia, Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Đài Loan, Tajikistan, Tanzania, Timor-Leste, Tunisia, Thổ Nhĩ Kỳ, Turkmenistan, Uganda, Ukraine, Anh, Uzbekistan, Venezuela, Việt Nam và Yemen.

Sự tập trung của thu nhập và tài sản của Hoa Kỳ vào tay của những người rất giàu là sự tiến triển triển mới trong thời của tôi. Điều này có hai nguyên nhân. Thứ nhất là chuyển công ăn việc làm của Hoa Kỳ ra nước ngoài. Việc này đã chuyển các công việc năng suất cao, giá trị gia tăng cao của Hoa Kỳ sang các nước mà sự thừa thãi của nguồn cung lao động khiến cho tiền lương tụt xuống dưới mức đóng góp của người lao động vào giá trị đầu ra. Chí phí lao động thấp ở quốc tế đã chuyển hóa tiền lương và thu nhập cao của người Mỹ và do đó là thu nhập của hộ gia đình Mỹ thành lợi nhuận doanh nghiệp, phần thưởng cho người điều hành doanh nghiệp và thu nhập tư bản cho cổ đông, vô hiệu hóa con đường tiến bộ đã biến Hoa Kỳ thành “miền đất hứa”. 

Nguyên nhân còn lại gây ra sự bất bình đẳng kinh khủng đang ngự trị ở Hoa Kỳ là điều mà Michael Hudson trong cuốn sách Giết vật chủ gọi bằng cái tên tài chính hóa kinh tế, cho phép các ngân hàng chuyển hướng thu nhập khỏi nền kinh tế để thanh toán lãi suất cho các khoản nợ mà ngân hàng cung cấp.

Cả hai sự tiến triển này tối đa hóa thu nhập và tài sản của Một Phần Trăm với chi phí của dân chúng và kinh tế. 

Như Michael Hudson và tôi đã khám phá, kinh tế học tân tự do mù lòa trước hiện thực và biện minh cho sự phá hủy các triển vọng kinh tế của Thế Giới Phương Tây. Hãy nhìn xem liệu Nga và Trung Quốc có thể phát triển kinh tế học khác hay những siêu quyền lực mới nổi này sẽ trở thành nạn nhân của “kinh tế học rác rưởi” đã phá hủy phương Tây. Với nhiều nhà kinh tế học Trung Quốc và Nga được đào tạo theo truyền thống Mỹ, triển vọng của họ có thể không tốt hơn chúng ta.

Toàn bộ thế giới này có thể cùng rơi xuống hố.

Paul Craig Roberts is a former Assistant Secretary of the US Treasury and Associate Editor of the Wall Street Journal. Roberts’ How the Economy Was Lost is now available from CounterPunch in electronic format. His latest book is How America Was Lost.

Thursday, September 24, 2015

Hội chứng Việt Nam của báo chí: Suy nghĩ về việc Brian Williams quay trở lại làm việc

Một cựu chiến binh trong chiến tranh Việt Nam, hiện giờ là giáo sư xã hội học ở Mỹ, phản đối huyền thoại về sự tự do của phóng viên chiến trường Mỹ trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Đó là nội dung của bài viết "Journalism’s Vietnam Syndrome: Thoughts Upon Brian Williams’s Return to Work". Qua đó chúng ta có thể thấy tự truyền thông Hoa Kỳ đã tạo ra huyền thoại về tự do báo chí ra sao, sự tự do ấy không chỉ đánh lừa công chúng về độ tin cậy của tin tức mà nó còn giúp cho các chủ hãng tin tức có lý do để đẩy phóng viên vào sự nguy hiểm của chiến tranh.

Hội chứng Việt Nam của báo chí: Suy nghĩ về việc Brian Williams quay trở lại làm việc

Một trong những người bạn tốt nhất của tôi ở Việt Nam là Ron Gawthrope. Vào năm 1969, cả hai chúng tôi được chỉ định vào khẩu đội chỉ huy của tập đoàn pháo binh số 41. Căn cứ của chúng tôi là trại Fidel, một tổ hợp nhỏ cách hàng rào phía nam của sân bay Phù Cát 800 m, gần Quy Nhơn và khoảng 300 dặm về phía đông bắc Sài Gòn.

Ron dường như chẳng có gì để làm. Anh ấy chạy loanh quanh trong doanh trại, tán gẫu suốt ngày, dễ chịu với cả sĩ quan và lính nghĩa vụ. Anh ấy hiếm khi rời khỏi doanh trại. Một lần tôi hỏi mỉa mai – Ron, anh làm gì ở đây? “Liên lạc báo chí” cho tập đoàn số 41, anh ấy trả lời. Anh giải thích rằng thường hay tường thuật về những thứ diễn ra ở khu vực chiến sự của tập đoàn số 41 tại Cao Nguyên Trung Phần; và anh nói thêm rằng công việc của anh là “ngăn chặn mọi phóng viên tin tức đi quá xa, cung cấp cho họ một câu chuyện và đẩy họ lên chuyến bay đầu tiên quay lại Sài Gòn.”

Đó là lời của Ron mà tôi nhớ tới khi được nghe những câu chuyện về tương phản giữa sự tự do đưa tin tức chiến sự mà các phóng viên ở Việt Nam được hưởng với những điều kiện khắt khe được áp đặt khi họ đưa tin chiến sự ở Trung Đông hiện nay. Một trong những điều tương phản được nhà văn Ward Just viết trong lời dẫn của cuốn sách vào năm 2000, Đưa tin Việt Nam: Báo chí Hoa Kỳ 1959-1973:

Việt Nam là cuộc chiến tranh cuối cùng mà nhà cầm quyền quân sự Hoa Kỳ sẵn sàng đưa các phóng viên tới chiến sự. Tất cả những gì anh cần phải làm là xuất hiện ở đường băng Tân Sơn Nhất, réo gọi một chiếc C-130 hay Caribou, sau đó trèo lên khoang. Khi anh tới sở chỉ huy, anh được tóm tắt, chỉ dẫn về nơi đọ súng và sau đó anh tự do làm công việc của mình. 

Giờ là tiếng cười thầm của Ron mà tôi đã được nghe. Một chiếc C-130 rời khỏi Tân Sơn Nhất gần Sài Gòn cần hơn nửa dặm đường băng để hạ cánh. Một số khu hạ cánh (LZ) lớn được tổ chức tốt như LZ Betty có khả năng đáp ứng điều đó vào cuối những năm 1960, nhưng phóng viên sẽ được thả xuống ở đâu đó, có thể là sân bay Phú Cát – nơi mà nhân viên Không Lực sẽ không thể biết về đọ súng nếu họ nghe thấy điều đó, ở hướng nào thì lại càng không. “Sở chỉ huy” quân đội gần nhất mà anh ta có thể tìm thấy đường đến, bên ngoài tường rào sân bay, là trại Fidel, nơi mà Ron sẽ cung cấp cho anh ta “một câu chuyện” và đưa anh ta quay trở lại sân bay.

Thực tế là kịch bản này được vẽ ra trong hồi ức của Ward Just – ông ấy đã đưa tin ở Việt Nam vào những năm đầu chiến tranh – hương vị của những ngày tháng cũ, phóng viên của trí tưởng tượng xa xưa, tính hợp lý của các chi tiết được kiểm tra bằng kinh nghiệm và những quy tắc quân sự mà tôi biết hồi đó. Phần lớn trách nhiệm của tôi với vai trò trợ lý tuyên úy trong tập đoàn số 41 và các đơn vị pháo binh khác là lái xe jeep cùng với cha tuyên úy tới các cứ điểm và LZ nằm dọc theo đường cao tốc số 1, 19 và 14, hoặc hộ tống ông ấy trên máy bay trực thăng tới các địa điểm xa hơn. Muốn đến cứ điểm Pony? Máy bay lên thẳng của chúng tôi đến LZ English và từ đó chúng tôi lái xe đến Pony – khá xa. Đó là điều chưa bao giờ diễn ra, hay tôi chưa bao giờ thấy một thường dân Hoa Kỳ nào hỏi hoặc đi theo cách này. Điều đó cũng không thể diễn ra bởi vì chúng tôi cần được cho phép để đưa bất kỳ người nào đi, ngay cả nhân viên quân sự. Chuyện đó không bao giờ xảy ra. 

Điều quan trọng đối với tôi là tôi chưa từng nghe thấy chuyện đó diễn ra. Liệu có phóng viên tin tức, bằng cách nào đó, đi một mình tới nơi như Pony, cái gã ở đó ngày hôm nay có thể nói về điều đó trong nhiều tuần sau – nhưng tôi chưa từng thấy bất cứ phóng viên nào ở những nơi đó.

Có nghĩa là sự thật của câu ngạn ngữ là có nhiều gã “Việt Nam” nhớ như thể là có ai đó đã từng ở đó. Một cuộc chiến tranh dài với chính sách và hoạt động quân sự của Hoa Kỳ đã thay đổi theo thời gian bởi địa điểm, các chi nhánh và đơn vị. Điều mà Ward Just nhớ có thể là thật ở Tân Sơn Nhất gần Sài Gon, vào lúc ông ấy có mặt ở đó, hơn là ở nơi khác sâu trong nội địa vào năm năm sau. Cũng như với các câu chuyện chiến tranh khác, huyền thoại về tường thuật không sợ hãi bắt nguồn từ hiện thực là rất khó đưa tin về Việt Nam, với công việc cũng như điều kiện sống khó khăn và đôi khi là nguy hiểm. Trong lịch sử đưa tin tức hàng tuần về chiến tranh, tờ Weekly War, nhà báo James Landers mô tả sức ép đối với phóng viên để tạo ra các câu chuyện “bi kịch chiến tranh” mà họ cho rằng độc giả mong muốn, cũng như những khó khăn và nguy hiểm mà phóng viên phải đối mặt để đáp ứng nhu cầu đó.

Nhưng Lander cũng ghi nhận rằng các phóng viên ít khi rời khỏi Sài Gòn và thậm chí là theo các chuyến đi được cấp phép đưa phóng viên tới các sở chỉ huy sư đoàn và tập đoàn – nơi mà họ sẽ được Ron đón tiếp.

Điều sẽ không thay đổi là sự miễn cưỡng của các sĩ quan chỉ huy khi phải đón tiếp một cá nhân vô ích ở cứ điểm, cũng như ít có phóng viên “được tự do làm công việc [của họ]”, như Mr. Just đã nói. Nhà sử học Milton Bates, trong cuốn sách The Wars We Took to Vietnam, mô tả “công việc chiến tranh” là “rất rõ ràng giống như công việc ở nhà máy hay xây dựng” với nguy cơ phụ thêm về những thanh niên kiệt sức và chỉ được huấn luyện tối thiểu để vận hành cỗ máy hạng nặng tinh vi trong nhưng điều kiện khắc nghiệt. Ở Việt Nam, công việc đó là nóng bức, nặng nhọc và bẩn thỉu với sự phân chia lao động chặt chẽ và không có chỗ cho sự sao lãng mà những khán giả - như các phóng viên – sẽ đem tới. Chính vì lý do này, cha tuyên úy và tôi thường xuyên được hộ tống đi khỏi các công sự pháo khi có lệnh khai hỏa; máy bay trực thăng của chúng tôi có lần phải lượn vòng vòng cho đến khi người bị thương được dọn sạch khỏi LZ bị bộ binh địch tấn công vào đêm trước đó. 

Kinh nghiệm về phóng viên ở Việt Nam đươc nhớ lại là quan trọng hơn những thành tích lịch sử mà nó tạo ra. Sự nhầm lẫn phổ biến về việc người Mỹ được đưa tin tốt hơn về chiến tranh ở Việt Nam so với những cuộc chiến tranh gần đây ở Trung Đông hầu hết dựa trên niềm tin rằng các phóng viên đã được tự do đi bất cứ đâu họ muốn và tường thuật những gì họ thấy – một quan điểm lý tưởng đáp ứng kỳ vọng của công chúng về cấp độ căn bản của việc đưa tin mà các hãng tin tức hiện nay không thể thực hiện được.

Trong khi đó, huyền thoại về các phóng viên Rambo hung hãn khắp vùng châu thổ sông Mekong trở thành chuẩn mực về khí phách nhà nghề mà các phóng viên hiện nay có – hoặc họ tưởng rằng họ có. Sức ép đáp ứng kỳ vọng có thể đưa họ vào nguy hiểm. Khi phóng viên Bob Woodruff bị thương ở Iraq vào năm 2006, anh ta chỉ trích chủ lao động, hãng ABC News, đã đặt anh vào tình thế nguy hiểm để thu được đánh giá cao hơn của độc giả, bản thân Woodruff là “gã ngốc”, tự gây nguy hiểm không cần thiết cho bản thân khi thò đầu ra khỏi cửa xe bọc thép mà anh ta đang đi. 

Vào tháng giêng năm 2015, phóng viên Brian Wiliams của hãng NBC khẳng định rằng anh đã ở trên chiếc trực thăng bị kẻ địch bắn ở Iraq vào năm 2003. Anh ta đã kể nhiều phiên bản của câu chuyện trong nhiều năm nhưng khi mà cựu chiến binh cùng tham gia nhiệm vụ với máy bay trực thăng đã nói rằng đội của anh ta chưa bao giờ gặp nguy hiểm – câu chuyện của Willams là không thật. Williams đã bị NBC sa thải, tạo nên một bóng tối bao phủ những di sản của anh ta và hoài nghi về tương lai của anh ta trong lĩnh vực báo chí. Giờ đây, khi NBC chuẩn bị đưa William quay trở lại thông quan chi nhánh liên kết nhỏ MSNBC, những người theo đuôi sẽ lặp lại những chi tiết trong câu chuyện ngụy tạo về chiến sự đã làm anh ta mất việc và NBC bị bất ngờ. 

Mặc dù vậy, bình luận về sự phục chức của William sẽ giống như chỉ dừng ở mức độ thất bại cá nhân. Những người có học hơn sẽ bắt đầu phân tích tâm lý, để kết luận rằng “nam tính bị tàn phá” của anh ta là nguyên nhân của việc không kiểm chứng sự thúc đẩy của nam tính đã xác thực thông qua một sự liên hệ nhầm lẫn với sự dũng cảm chiến trận. Nhưng hầu hết các bình luận sẽ không thừa nhận hình mẫu mà trường hợp của anh ta và Woodruff (cũng như những người khác) đã tạo ra, một hình mẫu cho thấy thứ văn hóa mà theo đó các phóng viên chiến trường phải đối mặt với những kỳ vọng phi thực tế của các ông chủ và công chúng tiêu thụ tin tức. Vẫn tiếp tục bị loại bỏ khỏi bình luận là di sản của việc đưa tin trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, theo đo những kỳ vọng phi thực tế vẫn tiếp tục tồn tại. Đó là huyền thoại về việc lợi ích của công chúng được binh đoàn những “gã phóng viên đúng đắn” tự do, mà trực thăng tha lôi từ nơi này qua nơi khác, những kẻ vẫn còn ám ảnh sự tôn kính nghề nghiệp của phóng viên chiến tranh hiện nay, phục vụ tốt hơn trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam

Sự thật là các cuộc chiến tranh hiện nay rất khác xưa, chiến trận –thậm chí là ngay cả với những cuộc chiến đang diễn ra – ít đặc trưng bằng nguy cơ thiệt hại tính mạng hay vật chất hơn trước kia; sự thật là ngay cả Việt Nam cũng khác với những năm tháng vinh quang tưởng tượng hiện nay mà một thế hệ phóng viên anh hùng được cho là đã tạo ra; sự thật là những tên cướp biển tự do mà Ward Just nhớ đến gần với Ernie Pyle, phóng viên chiến tranh huyền thoại của Thế Chiến Thứ II (không có trực thăng), hơn là các phóng viên đã gặp (hoặc không) anh bạn Ron của tôi ở Việt Nam.

Sự thật là nếu các hồi ức báo chí coi Ron là hình tượng trung tâm trong lịch sử báo chí của thời kỳ Việt Nam, Bob Woodruff có thể không bị nguy hiểm để thu thập vài “bi kịch chiến trường”, anh ta có thể giữ đầu an toàn trong khoang của APC và không bị thương cũng như Brian Williams vẫn có thể là phóng viên của hãng NBC. 

Jerry Lembcke is Associate Professor Emeritus of Sociology at College of the Holy Cross in Worcester, Mass. He is the author of The Spitting Image: Myth, Memory and the Legacy of Vietnam and Hanoi Jane: War, Sex, and Fantasies of Betrayal. His newest book is PTSD: Diagnosis or Identity in Post-empire America? He can be reached at jlembcke@holycross.edu.

Wednesday, May 20, 2015

Việt Nam: Chiến tranh vẫn chưa qua đi

Chiến tranh Việt Nam vẫn chưa kết thúc ở nước Mỹ, ít nhất là với chính quyền và truyền thông của họ, cuộc chiến dai dẳng của những người Mỹ tiến bộ chống lại âm mưu xét lại cuộc chiến về mặt lịch sử để biện minh cho sự sai trái của chính quyền vẫn tiếp tục. Đó là nội dung bài viết "Vietnam: The war that won’t go away" của tác giả Don North đăng trên tạp chí Coldtype số 98 tháng 5 năm 2015.

Việt Nam: Chiến tranh vẫn chưa qua đi

Chiến tranh diễn ra hai lần, lần thứ nhất trên chiến trường và lần thứ hai trong hồi tưởng. Theo cách đó, chiến tranh Việt Nam – mặc dù nó đã kết thúc trên chiến trường 40 năm trước đây – vẫn tiếp tục là cuộc chiến của hồi ức, lịch sử và sự thật. Phần đặt cược vẫn cao. Những tường thuật trung thực nhất về các sự kiện quan trọng của quá khứ có thể phác thảo định mệnh của chúng ta, giúp ích cho việc quyết định xem có nên có thêm chiến tranh hay hòa bình. Vài năm trước đây, tôi vui mừng khi được biết Lầu Năm Góc tài trợ cho một ủy ban kỷ niệm chiến tranh Việt Nam. Tôi cho rằng cuối cùng chúng ta cũng có thể ghi nhận một cách thẳng thắn. Nhưng tôi không cần phải đọc thêm gì ngoài các trích dẫn chủ chốt trên đầu website mới để biết điều đó không xảy ra.

Trích dẫn tổng thống Richard Nixon, đó là: “Không có sự kiện nào trong lịch sử bị hiểu nhầm nhiều hơn chiến tranh Việt Nam. Nó đã bị tường thuật sai lệch vào lúc đó và giờ thì bị hiểu nhầm.”

Tôi thuộc về nhóm nhỏ các nhà báo đưa tin về cuộc chiến. Chúng tôi tự gọi bản thân là “Những gã bồi bút già của Việt Nam” và chúng tôi đã thực hành kha khá công việc mà đoạn trích dẫn đề cập kể từ khi nó bất tử hóa điều hoang đường rằng cuộc chiến tranh sẽ không thất bại nếu không có những từ ngữ làm nản lòng của một số phóng viên. Tôi viết một lá thư cho chủ tịch ủy ban kỷ niệm, trung tướng nghỉ hưu Claude Kicklighter, phản đối sự vu khống đối với hàng ngàn nhà báo, những người đã cố gắng đưa tin trung thực về cuộc chiến, một lời vu khống của tổng thống Hoa Kỳ, người đầu tiên phải chịu trách nhiệm cho việc đánh lừa công chúng về chiến tranh.

Tôi đã quấy nhiễu ủy ban nhiều tháng nhưng họ chỉ miễn cưỡng rút lại đoạn trích dẫn. Tôi tranh thủ tình cảm của những người bạn ở Trung Tâm Lịch Sử của Quân Đội Hoa Kỳ, những người đề xuất với ủy ban là đoạn trích dẫn không thể chấp nhận được. Sau sáu tháng với những lý lẽ sắc bén, cuối cùng họ cũng rút lại đoạn trích dẫn. Nhưng nhiều điều hoang đường và lừa dối về chiến tranh Việt Nam vẫn còn ở trên website. 
————————
Bốn thập kỷ trước đây Hoa Kỳ gánh chịu thất bại trong một cuộc chiến không thể thắng, chống lại một quốc gia mà họ thực sự chẳng biết gì và ở đó họ không có các lợi ích sống còn. Sau những vô vọng ở Việt Nam thì việc lặp lại một cách kiêu ngạo những năm tháng điên rồ sau đó ở Afghanistan và Iraq là không thể tha thứ. Một bài học mà quân đội Hoa Kỳ đã học được ở Việt Nam là hình ảnh và bài viết có thể mang tới tác động tàn phá và dẫn đến yêu cầu trách nhiệm giải trình. Dường như các phóng viên chiến tranh sẽ không bao giờ còn được tiếp cận chiến tranh tự do như chúng tôi từng có ở Việt Nam.

Điều gì sai? Một trong những điều hoang đường phổ biến và dai dẳng là Hoa Kỳ đã bị các phóng viên không trung thành lừa dối. Ngay cả tư lệnh quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam, tướng William Westmoreland, cũng bám lấy câu chuyện cũ rích đó.

Có vẻ như cho dù các nhà sử học – thậm chí là sử học quân sự - phản đối điều hoang đường đó bao nhiêu lần đi nữa, họ ghi nhận rằng báo chí Hoa Kỳ đã thực hiện tương đối tốt việc đưa tin về một cuộc chiến tranh phức tạp và nguy hiểm, thì cũng chả hề hấn gì. Điều hoang đường về các nhà báo không trung thành, họ phải bị trừng phạt, là thứ cần thay đổi để chiến thắng của Hoa Kỳ quay trở lại.

Cuộc sống của tôi ở Việt Nam

Tôi đến Việt Nam vào tháng 5 năm 1965, là một phóng viên trẻ và háo hức từ Canada. Tôi cũng giống như hàng trăm người sẽ trở thành nhà báo khác, đi tới chiến trường để đưa tin về chiến tranh như những người hành nghề tự do, chuyển đến khi cuộc chiến tranh đàn áp nổi dậy biến thành một cuộc chiến tranh toàn diện ở Châu Á. Giống như nhiều người trong số chúng tôi, đầu tiên tôi cũng tin vào lý lẽ của Washington – bảo vệ nền dân chủ nhỏ bé khỏi sự chiếm đoạt của những người Cộng Sản và khởi đầu chuỗi domino đổ ở Châu Á.

Mặc dù vậy, sự thật không cần lâu để học. Vào lúc đó, Hoa Kỳ đã hưởng lợi từ một số nhà báo nổi bật, những người thực hiện công việc của họ nghiêm túc – và nhiều người ở mặt trận, đưa tin về khoảng cách giữa màn PR sặc sỡ và thực tế khắc nghiệt.

Ví dụ người bạn của tôi, David Halberstam của tờ New York Times, nói với tôi về trận chiến lịch sử ở châu thổ sông Mekong vào cuối năm 1962 khi thực tế trận chiến đã trở thành bằng chứng. Hàng trăm máy bay trực thăng Hoa Kỳ đã đến Việt Nam, hứa hẹn một sự vượt trội về công nghệ mới để đánh bại Việt Cộng. Vào ngày đầu tiên của trận chiến, một số Việt Cộng bị giết. Vào ngày thứ hai, một cuộc tấn công khổng lồ bằng máy bay trực thăng được tiến hành nhưng không có gì xảy ra. Vào ngày thứ ba, điều tương tự diễn ra, không kẻ thù, không chiến trận. Trên đường trở về Sài Gòn, Neil Sheehan, sau đó với UPI, càu nhàu về sự lãng phí thời gian. Homer Bigart, một phóng viên của tờ New York Times có kinh nghiệm từ Thế Chiến thứ II nói, “Có vấn đề gì vậy, ngài Sheehan?” Sheehan cằn nhằn về việc mất ba ngày bay trên các cánh đồng lúa và không có câu chuyện nào để viết. “Không có chuyện gì”, Bigart bình luận hơi có chút ngạc nhiên. “Nhưng có chuyện đấy. Chiến dịch không thành công. Đó là câu chuyện, thưa ngài Sheehan.”

Chiến lược của Hoa Kỳ ở Việt Nam không thành công, chưa từng thành công bất cứ khi nào. Nhưng cái giá của sự điên rồ rất cao. Người Việt Nam phải gánh chịu 2 triệu cái chết của thường dân, nhiều người chết trong các trận bom lớn nhất trong lịch sử. Theo nhiều cách, những lính trẻ Hoa Kỳ, những người bị ném vào Việt Nam, cũng là nạn nhân khi họ thấy bản thân chỉ được chuẩn bị một cách tồi tàn cho trận chiến đàn áp khắc nghiệt và tàn bạo, thường diễn ra trong các ngôi làng với phụ nữ và trẻ em. 58.000 binh lính Hoa Kỳ đã chết trong cuộc chiến và nhiều người bị tổn thương thể chất hoặc tâm lý.

Việt Nam không phải hoàn toàn là câu chuyện cũ. Bom mìn chưa nổ, ung thư do hóa chất gây ra và di chứng của chất độc màu da cam tiếp tục giết hại, làm bị thương và gây dị dạng. Nick Turse, người viết cuốn sách “Giết hết mọi thứ động đậy,” đã khẳng định: “Việc Hoa Kỳ sử dụng một cách nhẫn tâm sức mạnh gây ra tổn thất dân sự ở Việt Nam là yếu tố cốt lõi của cuộc chiến tranh. Tôi hỏi xem Henry Kissinger của ngày hôm nay, nhóm quản lý chiến tranh mới nhất của Washington, có sẵn sàng thừa nhận điều đó hơn Kissinger của ngày hôm qua không.”
————————
Tôi vừa trở về sau chuyến đi Việt Nam và Campuchia kéo dài 3 tuần và thấy rằng có nhiều người ở Việt Nam cũng như ở Hoa Kỳ vẫn chưa sẵn sàng nghe những tiếng nói trung thực về cuộc chiến tranh.

Trong một cuộc chiến đầy những điều bất ngờ, không có bất ngờ nào lớn hơn cuộc tấn công đại sứ quán Hoa Kỳ trong dịp Tết vào ngày 31 tháng 1 năm 1968. Các chuyên gia phân tích quân sự nói rằng cách duy nhất để tạo ra một bất ngờ quyết định trong chiến tranh là làm điều gì đó thật sự ngớ ngẩn, 15 đặc công Việt Cộng thực hiện cuộc tấn công vào đại sứ quán được huấn luyện tồi và thiếu chuẩn bị, nhưng tác động của nó đã tạo ra một bước ngoặt của chiến tranh và trở thành một đoạn đáng chú ý trong lịch sử quân sự.

Ngày nay tòa đại sứ Hoa Kỳ từng đứng vững trong cuộc tấn công đã bị phá bỏ và thay thế bằng một lãnh sự Hoa Kỳ hiện đại. Một phiến đá nhỏ trong vườn, xa cách công chúng, ghi tên của bảy lính thủy và một cảnh sát quân sự đã chết ở đây. Trên vỉa hè bên ngoài cửa lãnh sự là một đài tưởng niệm bằng gạch khắc tên những đặc công việt cộng và các điệp viên đã chết. 

Tôi không thể hình dung được khung cảnh mà PFC quân đội Hoa Kỳ Bill Sebast và đặc công Việt Cộng Nguyễn Văn Sáu, hai người lính đã chết ở hai phía tường của đại sứ quán, có thể quay trở lại để ngạc nhiên về sự tiến bộ kinh tế của Sài Gòn, với việc Việt Nam và Hoa Kỳ đã bỏ qua sự thù hằn cũ để trở thành các đối tác thương mại đáng giá.

Lần đầu tiên, Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao Việt Nam đối xử với những gã bồi bút già chúng tôi như những người đáng để biết, quan tâm tới kiến thức của chúng tôi về cuộc chiến đẫm máu mà chúng tôi từng đưa tin. Sự thật là Việt Nam hiện nay quan ngại hơn về người hàng xóm khổng lồ Trung Quốc ở phía bắc, thậm chí tìm kiếm ở Hoa Kỳ một sự đối trọng với khuynh hướng gia tăng sự ảnh hưởng của Trung Quốc. 

Phán xét nhà báo 

Thế còn đề xuất mới đây của Lầu Năm Góc về việc cánh nhà báo chúng ta “đưa tin sai về chiến tranh”? Tôi có hài lòng với việc đưa tin của mình về chiến tranh Việt Nam không? Không. Tôi cho rằng đầu tiên là sự ngu dốt về lịch sử và văn hóa Việt Nam và sau đó là sự giới hạn của tin tức truyền hình đôi khi che dấu sự thật. Một phút rưỡi là tối đa cho một tin tức buổi tối. Gần như không đủ thời gian để mô tả các sự kiện phức tạp của chiến tranh Việt Nam. 

Tôi cũng biết các biên tập viên của ABC News ở New York miễn cưỡng đưa tin tiêu cực về chiến tranh. Các tường thuật phê phán đã bị loại bỏ thẳng thừng hoặc biến mất một cách bí ẩn trước giờ lên sóng. Chỉ có một sự kiểm duyệt duy nhất mà tôi từng thấy ở hãng thông tấn của mình. Tại đại sứ quán Hoa Kỳ, khi đặc công Việt Cộng cuối cùng bị giết hay bị bắt, tôi nhanh chóng quay phim một “đoạn độc thoại”. Để kết thúc bản tin, tôi nói, “Kể từ Tết âm lịch, Việt Cộng và người Bắc Việt đã chứng tỏ rằng họ có thể đạt được những hoạt động quân sự mạnh mẽ và ấn tượng mà người Mỹ không bao giờ có thể tưởng tượng được. Họ cũng cho thấy có thể theo đuổi cuộc chiến tranh này một cách lâu dài.

“Điều thay đổi cuộc chiến đã diễn ra, việc chiếm giữ tòa đại sứ Hoa Kỳ trong bảy giờ đồng hồ là một thắng lợi tinh thần sẽ thu hút và khích lệ Việt Cộng. Don North của ABC News Sài Gòn.”

Phân tích tức thời của tôi không bao giờ được lên sóng ở ABC News. Tôi bị cáo buộc là “biên tập” và đoạn độc thoại bị một số nhà sản xuất loại bỏ khỏi chương trình tin tức buổi tối. Mặc dù vậy, nực cười là đoạn độc thoại cùng với những trích đoạn khác nằm trong “Thư viện Simon Grinberg của ABC” sau đó đã được nhà sản xuất Peter David tìm thấy và sử dụng cho bộ phim được giải của Viện Hàn Lâm “Những trái tim và tâm hồn”

Rõ ràng là sự thật về chiến tranh Việt Nam thường xuyên bị che giấu nhưng không phải theo kiểu trong trích dẫn của Nixon. Hầu hết tin tức của truyền thông Hoa Kỳ về cuộc chiến tranh đều quá lạc quan – không phải là quá khắc nghiệt. Báo chí chính xác hơn đã thường xuyên phản đối điều mà Neil Sheehan sau đó gọi là “Lời nói dối tỏa sáng,” một khúc PR lạc quan cho cuộc chiến tranh sai lầm.

Không có gì được học 

Những bài học về Việt Nam - được thảo luận vô vọng suốt nửa thế kỷ - đã dạy Washington rất ít nên những kẻ diều hâu hiếu chiến ngày nay lặp lại những sai lầm tương tự như Việt Nam ở Afghanistan và Iraq – sự ngạo mạn tương tự, sự lệ thuộc tương tự vào công nghệ và tuyên truyền, sự ngu dốt tương tự về văn hóa nước ngoài phức tạp.

Đâu là bài học thật sự đã được học về báo chí trong chiến tranh Việt Nam? Bất chấp sự khó khăn, kiểm duyệt và sự hoang mang của chiến tranh, tôi tin rằng nhiều bản tin của chúng tôi về Việt Nam là chính xác và đã đứng vững với sự thử thách của thời gian. Mặc dù vậy, các bản tin chiến tranh của Hoa Kỳ ngày nay có cải thiện chính sách đối ngoại Hoa Kỳ chút nào không?

Mark Twain đã có lần viết về thứ mà tôi cho là nghịch lý chủ chốt của thời đại chúng ta. Ông nói, “Nếu bạn không đọc báo thì bạn thiếu thông tin. Nếu bạn đọc báo thì bạn bị thông tin sai.”

Phóng viên vĩ đại A. J. Liebling của tờ Baltimore Sun đã có lần nói, “Báo chí là cái giát giường yếu của chiếc giường dân chủ.” Bill Moyes, khi còn ở PBS, đã mượn ý tưởng của Liebling, khi ông viết: “Sau cuộc xâm lược Iraq, chiếc giát gường đã gẫy và một số người mới nằm trên giường ngã ra sàn … các nhà báo chính quyền, những kẻ luận chiến tân bảo thủ, các học giả bâu xâu, những kẻ khiêu chiến cánh hữu phất lá cờ đầu lâu xương chéo của “sư đoàn cân bằng và công bằng.” Những khẩu súng phòng không của chính quyền có những lỗ hổng bị che dấu chế tạo ra những lời dối trá … tất cả nô đùa trên tấm nệm trong màn dạo đầu của dịch bệnh. 

Hàng ngàn người thiệt mạng và hàng tỷ dollar sau đó, đa số những người đồng mưu truyền thông dính líu vào “hành động tàn bạo” vẫn tỏa sáng, vẫn được chào đón, vẫn được giữ lại mà lời xin lỗi không khác gì một người dự báo thời tiết sai lầm về nhiệt độ trong ngày tiếp theo. 

Dạng tương tự của “tư tưởng nhóm” và thù địch với người có ý kiến đối lập đã cho thấy sự tai hại ở Việt Nam nửa thế kỷ trước đây và ở Iraq một thập kỷ trước đây lại một lần nữa là lá số tử vi của Washington ngày nay. Tờ New York Times và Washington Post nằm trên bậc cửa nhà tôi mỗi ngày và tôi bị thôi thúc đọc xem hệ tư tưởng tân bảo thủ đã nắm quyền kiểm soát trang xã luận ra sao, một sự phát triển khiến mọi người Mỹ lo ngại. Sức mạnh quân sự không thể tránh khỏi được khuyến nghị trước hết, thay vì là giải pháp cuối cùng. Đề xuất về việc xem xét cuộc xung đột từ các quan điểm khác bị coi như là đầu đất và không phải người Mỹ. Trái lại, rất đơn giản để nói hung hăng và phất cờ, trong khi phung phí tiền thuế quốc gia vào các trang thiết bị quân sự và phiêu lưu quân sự, ngay cả khi hàng triệu gia đình Hoa Kỳ tuột xuống bờ vực nghèo đói. 

Ở West Point và tháng 5 vừa qua, tổng thống Obama thừa nhận, “Một trong những sai lầm đắt giá nhất của chúng ta là từ sự sẵn sàng lao vào các cuộc phiêu lưu quân sự mà không hề nghĩ tới hậu quả, chứ không phải từ sự kiềm chế. Cho dù chúng ta là cái búa tốt nhất thì điều đó không có nghĩa là mọi vấn đề đều là chiếc đinh.”

Don North is a veteran war correspondent who covered the Vietnam War and many other conflicts around the world. He is the author of a new book, “Inappropriate Conduct,” the story of a Canadian World War II correspondent whose career was crushed by the intrigue he uncovered.

Wednesday, April 29, 2015

Chiến tranh lạnh phiên bản 2.0: Từ Việt Nam đến Iran

Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch Bản Tin Chống Đế Quốc số 138 "Cold War 2.0" của tác giả William Blum. Tiêu đề do người dịch đặt.

Chiến Tranh Lạnh Phiên Bản 2.0

Chiến tranh lạnh 2.0, phần I

Trong “Bản Tin Chống Đế Quốc” mới nhất của tôi (ColdType số 95), tôi đã mang đến cho các bạn cuộc phiêu lưu mới nhất của người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Jen Psaki trong việc cố gắng bảo vệ thứ không thể bảo vệ. Bà ta đã nói: “Trong vấn đề chính sách dài hạn, Hoa Kỳ không ủng hội việc thay đổi chính trị bằng các phương tiện vi hiến”, điều đó đã thúc đẩy tôi cung cấp tin tức cho độc giả: “Nếu bạn biết cách liên lạc với bà Psaki, hãy bảo bà ấy xem danh sách hơn 50 chính quyền mà Hoa Kỳ đã cố gắng lật đổ kể từ khi kết thúc Thế Chiến Thứ II của tôi”. 

Vào ngày 13 tháng 3, cuộc tấn công thường lệ của bà ta vào tất cả những gì của Nga bao gồm cả chuyện này, trong cuộc trao đổi với phóng viên Matthew Lee của hãng thông tấn AP:
Lee: Về chủ đề này, bà có thể cho biết thêm về yêu cầu đối với Việt Nam về vịnh Cam Ranh và không cho phép người Nga – không muốn họ cho phép – bà không muốn họ cung cấp nhiên liệu cho máy bay Nga ở đó?
Psaki: Vâng, cần phải rõ ràng – và tôi có thể đã không rõ ràng vào ngày hôm qua, hãy để tôi cố gắng làm lại điều đó – điều đó – mối lo ngại của chúng ta là các hoạt động mà họ có thể thực hiện trong khu vực, câu hỏi là: Tại sao họ ở khu vực này? Không phải là việc tiếp liệu cụ thể hay yêu cầu Việt Nam không cho phép họ tiếp liệu. [thêm gạch chân]
Lee: Vậy là không có yêu cầu ngừng tiếp liệu cho họ? Hay là có?
Psaki: Điều đó còn hơn là về mối lo ngại. Đó không chỉ là về Việt Nam – mà còn là mối lo ngại về những hành động mà họ sẽ có ở khu vực.
Lee: Vâng, thưa bà – tôi cho rằng có máy bay Hoa Kỳ bay lượn ở đó suốt.
Psaki: Chắc chắn vậy.
Lee: Vậy là bà không muốn máy bay Nga bay ở đó, nhưng máy bay Hoa Kỳ bay ở đó thì được? Tôi muốn nói là, tôi chỉ - điều này là theo ý của bà – phỏng đoán rằng mọi thứ người Nga làm vào bất cứ khi nào ở bất cứ đâu đều bất chính và có ý định khiêu khích. Nhưng bà không thể - bà dường như không thể hiểu hay chấp nhận rằng máy bay Hoa Kỳ bay lượn ở khắp nơi, bao gồm cả khu vực đó, là quấy nhiễu Trung Quốc, đối với họ cũng như đối với Nga. Nhưng giả định rằng các chuyến bay của Hoa Kỳ luôn luôn tốt và có lợi và không gây ra căng thẳng, và chuyến bay của những người khác gây ra căng thẳng. Vậy bà có thể giải thích cơ sở cho mối lo ngại của bà về việc các chuyến bay của Nga ở khu vực Đông Nam Á – gây ra sự căng thẳng?
Psaki: Tôi không thể đi sâu hơn vào chi tiết.

Chiến tranh lạnh 2.0, phần II

Vào tháng trước, chính quyền Obama công bố một loạt các hình ảnh vệ tinh được coi là cho thấy quân đội Nga đã tham gia phe nổi loạn trong các trận tấn công tổng lực để bao vây các binh lính trong khu vực quanh thành phố. Nga đã phủ nhận rằng họ tham gia xung đột, không thể xác thực ba bức ảnh vệ tinh đen trắng có nhiều nhiễu được đại sứ Hoa Kỳ ở Ukraina Geofrey Piat đăng trên Twitter

Theo Hoa Kỳ, các bức ảnh thu được từ công ty vệ tinh tư nhân Digital Global cho thấy hệ thống pháo binh và súng phóng rocket nhiều nòng vào ngày thứ năm ở khu vực gần Debaltseve. “Chúng tôi tin chắc đây là các hệ thống của quân đội Nga, không phải của quân ly khai”, Pyatt đăng tin. (Washington Post, ngày 5 tháng 2 năm 2015) Khi liệt kê những cách mà Hoa Kỳ chìm dần xuống cát lún, từ từ biến chất thành một nước Thế Giới thứ ba, chiến dịch của Washington vào năm 2014-2015 để thuyết phục thế giới rằng Nga đã liên tục xâm lược Ukraina chiếm vị trí gần đầu bảng. Hàng sa số các ví dụ như trên có thể được đưa ra. Nếu tôi vẫn còn là gã quốc gia sô-vanh hiếu chiến như tôi đã được nuôi dạy thì tôi cũng sẽ cảm thấy bối rối bởi sự hiển nhiên trơ trẽn của tất cả chúng.

Hình ảnh lịch sử ngắn về sự suy tàn và sụp đổ của Đế quốc Hoa Kỳ, hãy xem video “Sự Tan Rã của Đế Quốc” của Class War Films (8 phút 50)

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh 1.0, truyền thông Hoa Kỳ ưa thích chế giễu truyền thông Soviet về việc không đáp ứng được các tiêu chuẩn sáng láng của báo chí phương tây. Một trong những nhận xét phổ biến nhất là về hai tạp chí chủ chốt của Nga – Pravda (có nghĩa là “sự thật” theo tiếng Nga) và Izvestia (có nghĩa là “tin tức” theo tiếng Nga). Chúng ta được nghe đi nghe lại rằng “không có sự thật ở Pravda và không có tin tức ở Izvestia”. Về sự giễu cợt như tôi đã làm nhiều năm đối với cách mà truyền thông chính thống Hoa Kỳ đưa tin về những kẻ thù chính thức (ODE), các tin tức mới về Nga đã vượt qua cả dự đoán tồi tệ của tôi. Tôi kinh ngạc mỗi ngày vì sự bất chấp tính khách quan hay công bằng trong các tin tức về Nga. Dĩ nhiên ví dụ quan trọng nhất về sự thiên vị này là việc không lưu ý các độc giả của họ rằng Hoa Kỳ và NATO đã bao vây Nga – với vụ đảo chính của Washington ở Ukraina là ví dụ mới nhất – và Moscow, vì một số lý do kỳ quặc, cảm thấy bị đe dọa bởi điều đó. (Hãy nhìn bản đồ trực tuyến các căn cứ quân sự của NATO và Nga, với một mô tả như: “Tại sao anh lại đặt nước mình vào giữa các căn cứ quân sự của tôi?”) 

Chiến tranh lạnh 2.0, phần III

Sau vụ sát hại lãnh tụ đối lập và là cựu phó thủ tướng Nga Boris Nemtsov ở Moscow vào ngày 27 tháng 2, phương tây đã có một ngày thu hoạch. Từ ám chỉ bóng gió mạnh mẽ tới cáo buộc phẫn nộ về vụ sát hại, truyền thông và chính khách phương tây đã không từ một cơ hội nào để mô tả Vladimir Putin như là một cầu thủ bóng đá ngớ ngẩn. Nghị viện Châu Âu ra nghị quyết thúc giục một cuộc điều tra quốc tế về cái chết của Nemtsov và đề xuất tổ chức an ninh và hợp tác Châu Âu, Hội đồng Châu Âu, Liên Hiệp Quốc có thể tham gia điều tra. Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ John McCain và Lindsey Graham đề xuất nghị quyết của thượng viện lên án vụ giết hại Nemtsov. Nghị quyết cũng kêu gọi tổng thống Obama và cộng đồng quốc tế theo đuổi một cuộc điều tra độc lập về vụ sát hại và các nỗ lực không khoan nhượng thúc đẩy tự do ngôn luận, nhân quyền, thượng tôn pháp luật ở Nga. Thêm vào đó, họ còn thúc giục Obama tiếp tục trừng phạt những người vi phạm nhân quyền ở Liên Bang Nga và gia tăng sự hỗ trợ của Hoa Kỳ đối với các nhà hoạt động nhân quyền ở Nga. Chuyện đã diễn ra như vậy … khắp phương tây.

Trong cùng lúc đó ở Ukraina, bên ngoài khu vực thân Nga ở đông nam, các sự kiện dưới đây được đưa tin:
Ngày 29 tháng 1: Cựu chủ tịch chính quyền địa phương của khu vực Kharkov, Alexey Kolesnik, treo cổ tự tử.
Ngày 24 tháng 2: Stanislav Melnik, một thành viên của đảng đối lập (Partia Regionov), tự sát bằng súng.
Ngày 25 tháng 2: Thị trưởng Melitopol, Sergey Valter, treo cổ tự tử vài giờ trước phiên tòa xét xử ông ta.
Ngày 26 tháng 2: Alexander Bordiuga, phó giám đốc cảnh sát Melitopol, được phát hiện đã chết trong nhà để xe của ông ta.
Ngày 26 tháng 2: Alexander Peklushenko, cựu nghị sĩ quốc hội Ukraina, cựu thị trưởng của Zaporizhi, được phát hiện bị bắn chết.
Ngày 28 tháng 2: Mikhail Chechetov, cựu nghị sĩ quốc hội, thành viên của đảng đối lập (Partia Regionov), “rơi từ cửa sổ căn hộ tầng 17 của ông ta ở Kiev”.
Ngày 14 tháng 3: Công tố viên 32 tuổi ở Odessa, Sergey Melnichuk, “rơi” từ tầng 9 và chết.
Đảng Các Khu Vực đã trực tiếp cáo buộc chính quyền Ukraina trong cái chết của các đảng viên và kêu gọi phương tây phản ứng trước các sự kiện đó. “Chúng tôi kêu gọi Liên Minh Châu Âu, PACE [Thường Trực Hội đồng Nghị Viện Châu Âu] và các tổ chức nhân quyền Châu Âu cũng như quốc tế ngay lập tức phản ứng với tình hình ở Ukraina, đưa ra một đánh giá pháp lý với các hoạt động tội ác của chính quyền Ukraina, họ đã giết hại các đối thủ chính trị.” Chúng ta không thể kết luận từ những điều ở trên rằng chính quyền Ukraina phải chịu trách nhiệm về mọi thứ hay bất cứ thứ gì trong những cái chết đó. Nhưng chúng ta cũng không thể kết luận rằng chính quyền Nga phải chịu trách nhiệm về cái chết của Boris Nemtsov, truyền thông và chính khách Hoa Kỳ cũng vậy. Một tìm kiếm trên cơ sở dữ liệu tin tức khổng lồ của Nexus phát hiện không có bất cứ đề cập vào về cái chết của những người Ukraina ngoại trừ trường hợp cuối cùng ở trên là Sergei Melnichuk, nhưng rõ ràng đây không phải là người đó. Dường như là không có cái chết nào ở trên được quy cho chính quyền Ukraina đồng minh của phương tây. 

Yêu cầu điều tra quốc tế về những cái chết đó đâu? Ở Hoa Kỳ hay ở Châu Âu? Thượng nghị sĩ McCain đâu rồi?

Hành hạ bằng trừng phạt

Thảo luận về việc kiềm chế chương trình vũ khí hạt nhân của Iran đã diễn ra hơn một năm giữa Iran và P5+1 (năm cường quốc hạt nhân của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc cùng với Đức), do Hoa Kỳ chủ trì. Suốt thời kỳ này, chướng ngại vật đáng chú ý trong việc đạt được một thỏa thuận là tuyên bố của Yukiya Amano, giám đốc của Ủy Ban Năng Lượng Hạt Nhân Quốc Tế (IAEA). IAEA là cơ quan giám sát hạt nhân của Liên Hiệp Quốc, và các cuộc thanh sát của họ được coi là biện pháp an toàn chủ chốt chống lại các quốc gia sử dụng công nghệ năng lượng hạt nhân dân sự để sản xuất vũ khí hạt nhân.

Amano đã thường xuyên cáo buộc Iran không đáp ứng đầy đủ và cần thiết các chất vấn về “các khuynh hướng quân sự có khả năng” của các hoạt động hạt nhân hiện tại và quá khứ, hay không tạo điều kiện cho các tiếp cận cần thiết đối với các cơ sở hạt nhân. 

Việc Iran thất bại trong việc đáp ứng toàn diện các yêu cầu của IAEA đã phá hủy các nỗ lực đạt được việc dỡ bỏ các biện pháp trừng phạt của Liên Hiệp Quốc và Hoa Kỳ, hiện nay đang ngăn cản các công ty nước ngoài hợp tác với Iran và không cho Iran tiếp cận hệ thống tài chính toàn cầu. Tường thuật của truyền thông về các cuộc đàm phán thường xuyên nhấn mạnh cáo buộc của Amano về việc Iran không đáp ứng các yêu cầu của IAEA. Do vậy rất đáng để điều tra xem Amano là ai. 

Vào năm 2009, nhà ngoại giao Nhật Bản Yukiya Amano trở thành người đứng đầu IAEA. Điều mà truyền thông phương tây không lưu ý độc giả của họ là điện tín của đại sứ quán Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 2009 (do Wikileaks công bố vào năm 2010) đã nói rằng Amano “chấp nhận đau đớn để khẳng định sự ủng hộ của ông ta đối với các mục tiêu chiến lược của Hoa Kỳ đối với ủy ban. Amano lưu ý đại sứ [Hoa Kỳ] vào một số dịp rằng … ông ta hoàn toàn nhất trí trong các phiên điều của Hoa Kỳ về mọi quyết định chiến lược, từ chỉ định các nhân sự cấp cao cho tới đàm phán về chương trình vũ khí hạt nhân được gán cho Iran.”

Ngay cả khi Iran có nỗ lực phi thường thỏa mãn các yêu cầu của IAEA và Washington về mọi vấn đề, thì vẫn chưa rõ là phạm vi và các biện pháp trừng phạt sẽ bị dỡ bỏ nhanh ra sao, nhất là khi quốc hội do phe cộng hòa nắm. Các chuyên gia của Iran và tác giả Gareth Porter mới đây đã viết rằng “Hoa Kỳ và các đồng minh của họ đã nỗ lực che dấu sự thật rằng họ có ý định duy trì “thiết chế trừng phạt” trong nhiều năm sau khi việc triển khai hiệp định đã bắt đầu. Vào tháng 11 vừa qua, các quan chức chính quyền đã giải thích rằng biện pháp trừng phạt của Hoa Kỳ sẽ được dỡ bỏ sau khi IAEA xác nhận rằng “Tehran tuân thủ các quy định của một thỏa thuận về gia hạn thời gian nhằm 'thúc đẩy Iran tôn trọng hiệp định'.”

Để thấy mức độ khủng khiếp của sức ép và sự áp bức mà Hoa Kỳ áp đặt đối với một quốc gia khác thì chúng ta có thể xem xét trường hợp của Libya trong thập kỷ tiếp theo vụ phá hủy chiếc máy bay số 103 của hãng hàng không PanAm vào năm 1988 trên bầu trời Scotland. Để buộc Libya “phải nhận trách nhiệm” về tội ác, Washington áp đặt các biện pháp trừng phạt nặng nề đối với chính quyền Gaddafi, trong đó có cấm các chuyến bay quốc tế tới Libya và bồi thường hàng tỷ dollar cho gia đình các nạn nhân. Libya đã “phải nhận trách nhiệm về tội ác” mặc dùy họ vô tội. Điều này khó có thể tin được nhưng là sự thật. Hãy xem tường thuật của tôi về chuyện đó ở đây.

Ngay cả khi Libya nhận trách nhiệm thì vẫn mất nhiều năm để Hoa Kỳ dỡ bỏ các biện pháp trừng phạt, và không rõ là vào lúc Gaddafi chết năm 2011 thì tất cả các biện pháp trừng phạt đã được dỡ bỏ hay chưa. Khi một quốc gia được chính thức coi là kẻ thù của đế chế thì các phương pháp tra tấn có thể tinh tế và bất tận. Cuba mới đây đàm phán để chấm dứt các biện pháp trừng phạt của Hoa Kỳ đối với Havana. Họ sẽ cần phải rất cẩn trọng.
Giống như những anh chàng cùng loại khác – như David Horowits và Christopher Hitchens – anh ta học quá nhiều ở trường đại học và quá ít sau đó.” Sam Smith
Tôi chưa bao giờ quá ấn tượng bởi trường đại học của một cá nhân, hay thậm chí là họ có đi học đại học không. Gore Vidal không học đại học; H. L. Mencken cũng vậy; Edward Snowden, người đã cho thấy khả năng ăn nói lưu loát và tư duy có giáo dục, cũng không. Trong số nhiều người cao quý bỏ dở việc học đại học có Bernard Shaw, Ernest Hemingway và Johann Wolfgang von Goethe.

Rồi chúng ta có những gã tốt nghiệp trường đại học thuộc Ivy League như George W. Bush, Barack Obama và Tom Cotton. Tôi không cần phải giới thiệu về trường hợp tư duy thiếu giáo dục của Bush; chúng ta đều quá quen thuộc với sự hấp dẫn của nó. Nhưng Obama đã bắt kịp cậu chàng Georgie về sự ngu ngốc và ngớ ngẩn hết lần này đến lần khác. Câu yêu thích của tôi, thứ mà ông ta sử dụng ít nhất là năm lần, là câu trả lời của ông ta về việc tại sao chính quyền của ông ta không truy tố Bush, Cheney và những kẻ khác về tội tra tấn và các tội ác chiến tranh khác: “Tôi mong muốn nhìn về phía trước hơn là phía sau.” Bức ảnh một bị cáo trước khi quan tòa xét hỏi được thấy vô tội trên cơ sở những lý do như vậy. Điều đó đơn giản khiến cho luật pháp, hành pháp, tội ác, công lý và sự phật là phi lý. Bức ảnh Chelsea Manning và những người tiết lộ khác cũng sử dụng lập luận này. Bức ảnh trái ngược với điều đó của Barack Obama, người trở thành công tố viên hàng đầu đối với những người tiết lộ trong lịch sử Hoa Kỳ.

Có ai còn nghĩ Barack Obama là một dạng tiến bộ tiến trí tuệ hơn so với George W. Bush? Dường như có dạng người vẫn còn nghĩ như vậy: (1) Những người coi trọng vấn đề màu da; (2) Những người bị ấn tượng mạnh bởi khả năng đặt câu đúng ngữ pháp. Nào chúng ta hãy xem Mr. Cotton, thượng nghị sĩ từ Arkansas và tốt nghiệp trường cao đẳng và trường luật Harvard. Ông ta có thể giải trí cho chúng ta nhiều năm với những phẩm chất như bình luận của ông ta trong chương trình “Đối mặt quốc gia” (15 tháng 3): “Hơn nữa, chúng ta phải chống lại các nỗ lực của Iran trong việc tiến tới thống trị khu vực. Họ đã kiểm soát Tehran, tiếp đó, họ kiểm soát Damascus, Beirut và Bagdad. Hiện giờ là Sana'a.”

Trời đất, Iran kiểm soát Tehran! Ai biết được? Thứ tiếp theo mà chúng ta sẽ được nghe là Nga kiểm soát Moscow! Sarah Palin, hãy vượt qua. Cậu chàng Cotton đã sẵn sàng cho chương trình Truyền Hình Trực Tiếp Đêm Thứ Bảy.