Showing posts with label Nhân Đạo. Show all posts
Showing posts with label Nhân Đạo. Show all posts

Wednesday, December 31, 2014

Lý do chủ nghĩa tư bản sẽ là cái chết của chúng ta

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bình luận ngắn "Why Capitalism Will be the Death of Us" của tác giả William Blum về vấn đề y tế trong chủ nghĩa tư bản.

Lý do chủ nghĩa tư bản sẽ là cái chết của chúng ta

Vi khuẩn kháng kháng sinh - "những siêu rệp" - nhưng vẫn chưa được nghiên cứu, có thể dẫn đến 10 triệu cái chết mỗi năm cho đến năm 2050. Các loại thuốc mới chống lại những siêu rệp được được chờ mong vô vọng. Nhưng một nhóm cộng tác viên cố vấn cho tổng thống Obama đã cảnh báo vào tháng 9 rằng "không có kênh cung cấp hiệu quả các loại thuốc mới để thay thế các loại thuốc cũ bị kháng kháng sinh vô hiệu hóa."

Vấn đề dường như là "Kháng sinh nhìn chung mang lại lợi nhuận thấp, nên chúng không phải là lĩnh vực hấp dẫn đối với nghiên cứu và phát triển."

A ha! "Lợi nhuận thấp"! Có gì đơn giản hơn nữa? Đó có phải là khái niệm đáng để giết hại và chết chóc? Giống như hàng triệu người Mỹ đã chết trong thế kỷ 20 để các doanh nghiệp có thể tối ưu hóa lợi nhuận bằng cách không bảo vệ công chúng trước thuốc lá, chì và a-mi-ăng.

Các doanh nghiệp được lập trình để tối ưu hóa lợi nhuận bất chấp cái xã hội mà họ hoạt động trong đó, cũng giống như cách mà các tế bào ung thư được lập trình để nhân lên bất chấp sức khỏe của sinh vật chủ.

Friday, November 21, 2014

Tám lý do phản đối cuộc chiến mới của Obama

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Eight reasons to oppose Obama's (new) war" của hai tác giả Alan Maass and Eric Ruder, nêu ra các lý do phản đối cuộc chiến mới của tổng thống Barack Obama.

Tám lý do phản đối cuộc chiến mới của Obama

Barack Obama tuyên bố cuộc chiến chống lại Nhà Nước Hồi Giáo ở Iraq và Syria (ISIS) là cần thiết để chấm dứt nguy cơ khủng bố và áp bức. Nhưng ẩn khuất phía sau ngôn từ biện minh cho cuộc can thiệp quân sự mới nhất của Hoa Kỳ là động cơ đế quốc cũ kỹ - kiểm soát dầu mỏ, thống trị địa chính trị ở Trung Đông, đua tranh quốc tế - điều chúng ta đã biết từ những cuộc chiến trước đây của Hoa Kỳ.

Cũng giống như các cuộc xung đột đó, cuộc chiến chống ISIS làm cho thế giới bạo lực hơn, áp bức hơn và kém an toàn hơn. Đây, chúng tôi đưa ra một số lý do để chống cuộc chiến mới này – để bạn có thể nói ra và tự mình đánh giá.

Thứ nhất: Obama tuyên chiến với ISIS để thúc đẩy các lợi ích của đế quốc Hoa Kỳ, không phải để chống lại các chế độ bạo ngược và áp bức.

Cuộc chiến mới của chính quyền Hoa Kỳ ở Trung Đông, khởi sự vào mùa hè vừa qua, phản án sự leo thang bạo lực khủng khiếp của cỗ máy quân sự hùng mạnh nhất thế giới. Trong tuyên bố quan trọng sau khi đảng Dân Chủ của ông ta gánh chịu thất bại tơi tả trong bầu cử giữa nhiệm kỳ, Barack Obama công bố “giai đoạn mới” trong chiến tranh, bắt đầu với việc triển khai thêm 1.500 “cố vấn” tới Iraq.

Obama cam kết “các cố vấn” sẽ không tham gia chiến trận, nhưng chúng ta đã từng nghe lời hứa đó trước đây, hãy nhớ về Chiến Tranh Việt Nam. Một trang web dẫn chứng tài liệu “sứ mệnh khủng khiếp” của cuộc chiến chống ISIS cho thấy sự triển khai mới sẽ gia tăng gần gấp đôi số nhân viên quân sự Hoa Kỳ chính thức ở Iraq.

Hoa Kỳ cũng thực hiện các vụ không kích mở rộng ở Iraq, tiếp tục cuộc chiến kéo dài một phần tư thế kỷ đã biến một quốc gia phát triển thành một quốc gia nghèo nhất trái đất, và ở Syria, một quốc gia chưa từng bị ném bom trước đó. Vào giữa tháng 12, chỉ sau một tháng không kích, chiến đấu cơ Hoa Kỳ đã xuất kích 2.750 lần – trung bình gần 100 lần mỗi ngày.

Kẻ thù trong cuộc chiến mới là Nhà Nước Hồi Giáo ở Iraq và Syria (ISIS), một lực lượng quân sự phản động và đạt tới trạng thái quyền lực hiện tại nhờ vào cuộc xâm lược và chiếm đóng tàn khốc ở Iraq của Hoa Kỳ. Hiện nay, ISIS đang đe dọa xóa sổ các đường biên giới ở Trung Đông, nơi mà Hoa Kỳ là quyền lực đế quốc thống trị trong nửa thế kỷ.

Đó là lý do khiến Obama ra lệnh ném bom vào mùa hè năm nay. Nguyên tắc của Hoa Kỳ là kiểm soát dầu mỏ ở Trung Đông – không phải bởi vì người Mỹ cần nhập khẩu, mà bởi vì sự kiểm soát này tạo ra đòn bẩy chống lại các đối thủ quốc tế như Trung Quốc và Nga, chưa kể là các đồng minh của Hoa Kỳ ở Châu Âu. Điều này được rút ra từ một báo cáo của Bộ Ngoại Giao vào năm 1945 tuyên bố các nguồn dầu mỏ ở khu vực là “nguồn vô cùng to lớn của sức mạnh chiến lược và một trong các phần thưởng vật chất vĩ đại nhất lịch sử thế giới”.

Hoa Kỳ cũng muốn phục hồi cỗ máy quân sự sau thảm họa của thập kỷ “cuộc chiến chống khủng bố” – và ISIS cung cấp cho họ “kẻ thù hoàn hảo” để giành được sự ủng hộ. Phần cược rất đáng giá cho tất cả chúng ta: Nếu chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ trỗi dậy mạnh hơn nhờ đánh bại ISIS, những kẻ hiếu chiến ở Washington sẽ có vị thế tốt hơn để đánh bại sự phản kháng tại bất cứ đâu trên thế giới, trong đó có cả Hoa Kỳ.

Thứ hai: Cuộc chiến của Hoa Kỳ sẽ không bảo vệ các nhóm thiểu số tôn giáo và sắc tộc đang bị ISIS khủng bố.

Cuộc không kích đầu tiên đi cùng với tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ “không nhắm mắt làm ngơ” trước sự tuyệt vọng của người Yazidis, một nhóm thiểu số tôn giáo đang bị các chiến binh ISIS bao vây. Obama đã trơ tráo nói về “người dân vô tội” đang đối mặt với “bạo lực ở quy mô khủng khiếp” sau khi đồng minh chủ chốt của chính quyền Hoa Kỳ ở Trung Đông, Israel, đã khủng bố người dân ở dải Gaza trong một tháng trước đó với “bạo lực ở quy mô khủng khiếp”.

Phải nói thêm là, hầu hết các đợt ném bom đầu tiên diễn ra cách nơi người Yazidis bị bao vây vài trăm dặm. Không lực được tập trung quanh thành phố Erbil, nơi ISIS đang đe dọa xâm chiếm thủ đô của người Kurd Iraq, đồng minh kiên định nhất của Hoa Kỳ trong suốt 25 năm chiến tranh. Erbil cũng là – đáng ngạc nhiên, đáng ngạc nhiên – một thành phố chủ chốt trong sản xuất dầu mỏ ở miền bắc Iraq. 

Sự nhạo báng của chính quyền Hoa Kỳ đã được bộc lộ khi các chiến binh ISIS tiến hành tấn công dữ dội vào Kobanê, một thành phố ở khu vực miền bắc Syria có đại đa số người Kurd thiểu số của quốc gia sinh sống. 

Ban đầu, khi thành phố sắp thất thủ, các quan chức Hoa Kỳ như Ngoại Trưởng John Kerry tuy vậy đã giảng giải cho các phóng viên là bảo vệ người Kurd ở Kobanê không nằm trong kế hoạch can thiệp “nhân đạo”. Cùng lúc đó, Thổ Nhĩ Kỳ - một đồng minh tin cậy của Hoa Kỳ đã đàn áp cộng đồng người Kurd thiểu số của họ một cách khủng khiếp – từ chối hỗ trợ phòng thủ Kobanê, nằm ngay biên giới phía nam của họ, trừ khi người Kurd đồng ý với những điều kiện cụ thể.

Bất chấp sự kỳ quặc đó, ISIS bị đẩy lùi trong cuộc xâm lược Kobanê – một phần là nhờ các vụ không kích chiến thuật của Hoa Kỳ, nhưng chủ yếu là nhờ vào sự phòng thủ can trường của thành phố với các chiến binh người Kurd thua kém về hỏa lực nhưng chiến đấu cho nhân dân và quyền lợi của họ.

Trong biến loạn, người Kurd phải chú ý tới tới việc chính quyền Hoa Kỳ tuyên bố rằng họ sẽ “giúp” người Kurd trong cuộc chiến – bởi vì có một sự ràng buộc. Như nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa John Reed đã nói, “Bất cứ ai nhận lời hứa hẹn danh nghĩa của Chú Sam sẽ có nghĩa vụ phải trả lại bằng máu và mồ hôi”. 

Thứ ba: Chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ chịu trách nhiệm rất nhiều về sự trỗi dậy của ISIS. Mở rộng cuộc chiến của Hoa Kỳ dường như sẽ gia tăng sức mạnh của những kẻ phản động hơn là làm suy yếu chúng.

Hãy nghe Barack Obam nói về “bệnh ung thư chủ nghĩa cực đoan bạo lực”, bạn sẽ nghĩ chính quyền Hoa Kỳ không khoan nhượng trong việc đối đầu với những thế lực phản động như ISIS.

Trừ khi họ phục vụ cho các mục tiêu của chủ nghĩa đế quốc. Vào những năm 1980, chính quyền Hoa Kỳ đã tài trợ và cung cấp cho chủ nghĩa Hồi Giáo chính thống chống lại cuộc xâm lược Afghanistan của Liên Bang Soviet cũ. Những người đàn ông mà Ronald Reagan gọi là “các chiến binh của tự do” sau này đã cùng nhau trở thành al-Qaeda.

Trong cuộc chiếm đóng Iraq, các quan chức Hoa Kỳ đã kích động sự chia rẽ bè phái giữa Hồi Giáo dòng Sunni và dòng Shia – một chiến lược chia để trị, nhằm chống lại nguy cơ có một sự phản kháng thống nhất nhằm vào quân đội Hoa Kỳ. Khi sự chia rẽ này biến thành nội chiến đẫm máu, al-Qaeda ở Iraq – tổ chức tiền thân của ISIS – lần đầu tiên giành được địa bàn.

Cũng chỉ mới đây thôi, Hoa Kỳ đã làm ngơ khi đồng minh của họ trong số các chế độ độc tài của khu vực, nhất là Ả-rập Saudi, ủng hộ các tổ chức vũ trang Hồi Giáo giống như ISIS – để đối phó với sức mạnh gia tăng của các chính quyền Shia trong khu vực. Do vậy, xung đột chia rẽ độc hại mà Hoa Kỳ nuôi dưỡng trong cuộc chiếm đóng Iraq đã lan rộng khắp khu vực – do đế quốc Hoa Kỳ kích động.

ISIS hiện đang tuyên bố cai trị một khu vực lớn ở Iraq và Syria – hàng triệu người, trong đó có nhiều người Sunni, những người coi nghị trình phản động và khủng bố đối lập của ISIS là ghê tởm. Nhưng cho đến nay, ISIS vẫn nhận được sự ủng hộ thụ động của nhiều người Sunni do họ bảo vệ các cộng đồng Sunni trước sự đàn áp của chính quyền Shia ở Iraq. Mỗi khi Hoa Kỳ bắn thêm một quả tên lửa thì nó sẽ lại đẩy người Sunni sang gần ISIS hơn – lực lượng duy nhất thành công trong việc bảo vệ họ chống lại bạo lực và áp bức. 

Thứ tư: Nếu Hoa Kỳ có thể làm suy yếu hay phá hủy ISIS, điều đó sẽ củng cố mạng lưới độc tài và vương triều phản động đang cai trị ở Trung Đông.

Hình ảnh từ băng ghi hình ISIS chặt đầu các nhà báo phương Tây đã thực sự làm mọi người ở khắp nơi kinh hãi. Họ là biểu tượng dã man của sự bạo ngược. Nhưng cùng với Hoa Kỳ không kích ISIS còn có Ả-rập Saudi, một trong những chế độ độc tài, thường xử tử hàng tá người bằng cách chặt đầu tại quảng trường công cộng tai tiếng ở Riyadh, được gọi là “Quảng Trường Chặt Đầu”. Trong số các “tội ác” bị chặt đầu có ngoại tình, nổi loạn, phù thủy và ma thuật

Những nhà cầm quyền cũ quanh Trung Đông đã phản ứng cuộc nổi dậy mùa xuân Ả-rập năm 2011 bằng các biện pháp bạo lực nhất đối với người bất đồng chính kiến. Khi quốc đảo Bahrain – căn cứ của Sở Chỉ Huy Trung Tâm Hải Quân Hoa Kỳ - đối mặt với cuộc nổi dậy ủng hộ dân chủ, quân đội Ả-rập Saudi đã xâm lược để đẩy đập tan người nổi loạn. Vào năm 2013, khi người Iraq Sunni tổ chức phong trào biểu tình hòa bình quy mô lớn, chính quyền trung ương Shia đã sử dụng mọi vũ khí mà Hoa Kỳ cung cấp để đàn áp những người đối lập. 

Cùng lúc ở Syria, chế độc độc tài Bashar al-Assad* đã thu lợi lớn nhất từ cuộc chiến chống ISIS của Hoa Kỳ, thế nên không có phe nào kêu la ầm ĩ. Chính quyền Syria và ISIS đã tuân thủ một thỏa thuận ngừng bắn không chính thức trong hai năm qua, đồng thời cả hai bên huấn luyện các tay súng của họ tại các khu vực nổi dậy khác nhau chống lại chế độ độc tài. Hiện nay, chính quyền có thể tiếp tục cuộc chiến chết chóc của họ chống lại cách mạng, khi hiểu rẳng quân đội của họ sẽ chiếm vị trí thượng phong nếu không kích của Hoa Kỳ làm suy yếu ISIS.

Chúng ta muốn nhìn thấy ISIS bị lật đổ. Nhưng nếu điều đó được Hoa Kỳ và các đồng minh độc tài của họ thực hiện, lực lượng phản động ở Trung Đông sẽ được củng cố.

Thứ năm: Bạo lực của ISIS, dù có kinh hoàng đến đâu, cũng chỉ là chuyện nhỏ so với bạo lực của chính quyền Hoa Kỳ.

Trong suốt 25 năm, Hoa Kỳ đã tiến hành một chiến dịch quân sự chết chóc nhất chống lại người dân Iraq. Trong Chiến Tranh Vùng Vịnh năm 1991, họ đã bắn 320 tấn đầu đạn có chứa Uranium nghèo, gây tổn thương cho quốc gia này với bụi phóng xạ, khiến cho tỷ lệ bệnh ung thư và dị tật bẩm sinh tăng lên kinh hoàng. Vào năm 1996, Ngoại Trưởng Madaleine Albrigh của chính quyền Bill Clinton đã nói với chương trình 60 Phút rằng cái chết của nửa triệu trẻ em Iraq do Mỹ trừng phạt Iraq là “một cái giá xứng đáng” để cô lập chính quyền Saddam. Sau cuộc xâm lược năm 2003 của Bush Jr., tạp chí y khoa đáng kính Lancet ước lượng giai đoạn mới nhất trong cuộc chiến của Hoa Kỳ đã dẫn đến cái chết của 600.000 người Iraq khác vào năm 2006. 

Cuộc chiến tranh và xâm lược của Hoa Kỳ cũng tạo ra một trong những cuộc khủng hoảng tị nạn lớn nhất thế giới, với khoảng 4 triệu người Iraq – hơn 10% dân số - sống lưu vong ở nước ngoài hoặc phải tản cư trong nước. Trong khi quan chức Hoa Kỳ và truyền thông theo đuôi lên án sự dã man trong các cuộc bắt giữ con tin của ISIS, thì quân đội Hoa Kỳ tra tấn các tù nhân ở nhà tù Abu Ghraib tại Iraq và Căn Cứ Không Quân Bagram tại Afghanistan cũng không kém kinh khủng.

Như đã nói, Hoa Kỳ đã giết hại hơn một triệu người Iraq, xung đột bè phái bị khoét sâu sẽ tước đoạt nhiều mạng sống hơn trong những năm tới, và buộc hàng triệu người khác phải chịu đựng một cái chết từ từ bởi nghèo khổ, suy dinh dưỡng và ốm đau.

Tại sao chúng ta tin rằng kết quả của cuộc chiến mới sẽ ít tàn phá hơn đối với Iraq?

Thứ sáu: Hoa Kỳ không gây chiến vì lý do nhân đạo và chưa từng làm điều đó.

Hoa Kỳ không chi hàng nghìn tỷ dollar và đổ hàng bể máu vào Trung Đông để thúc đẩy dân chủ và nhân quyền, mà là để phục vụ các lợi ích kinh tế và chiến lược của họ, từ kiểm soát dầu mỏ Trung Đông tới thống trị quân sự đối với các đối thủ cạnh tranh.

Mặc dù vậy, để tiến hành cuộc chiến, các chính khách Hoa Kỳ ít nhất cũng phải tính đến sự ủng hộ thụ động của người dân Mỹ, khó bị thuyết phục bằng lời kêu gọi đảm bảo lợi nhuận của các công ty dầu mỏ đa quốc gia hay củng cố ảnh hưởng chiến lược của Hoa Kỳ. Đó là lý do những kẻ gây chiến của Hoa Kỳ che đậy mục tiêu thật sự của họ với sự biện minh nghe có vẻ cao quý về “can thiệp nhân đạo”.

Nếu Hoa Kỳ thật sự có động cơ nhân đạo, họ sẽ không coi Ả-rập Saudi, một trong những quốc gia vi phạm quyền của phụ nữ tồi tệ nhất khu vực, là đồng minh. “Mặc dù vậy, không có cơ hội nào để Hoa Kỳ ném bom Riyadh chấm dứt sự độc ác này”, nhà báo xã hội chủ nghĩa Eamonn McCann viết. “Chế độ độc tài Saudi đứng đầu danh sách các đồng minh khu vực mà Hoa Kỳ cần có để oanh tạc ISIS. Mới đây, chính quyền Obama phân phát các bức ảnh Ngoại Trường John Kerry trong một cuộc đàm thoại dễ chịu với lãnh đạo của những kẻ chặt đầu Saudi, vua Abdullah.”

Hoa Kỳ sẽ không ủng hộ chế độ phân biệt chủng tộc của Israel khi họ tiến hành thanh lọc người Palestine bản địa, nếu Hoa Kỳ thật sự phản đối “những kẻ gây ra chủ nghĩa cực đoan bạo lực”. Trái lại, Israel là đồng minh đáng giá nhất của chính quyền Hoa Kỳ - dưới thời đảng Dân Chủ cũng như đảng Cộng Hòa – bởi vì họ giúp Hoa Kỳ duy trì sự kiểm soát của đế quốc đối với Trung Đông.

Đế quốc Hoa Kỳ đã luôn tìm các sử dụng vỏ bọc nhân đạo cho các cuộc phiêu lưu quân sự của họ. Như trang SocialistWorker.org đã viết trong một xã luận, vào những ngày đầu của chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ ở cuối thế kỷ 20: 

“Chính khách và truyền thông bịa đặt ra các khiêu khích sống sượng để biện minh cho sự can thiệp vào Philippine, Cuba, Puerto Rico, nơi mà quân đội Hoa Kỳ tiến hành các trận tấn công tổng lực vào cư dân bản địa. Tất cả những điều đó được hoàn thành, theo tổng thống William McKinley, “không phải giống như kẻ xâm lược hay kẻ xâm chiếm, mà như những người bạn, bảo vệ người bản địa tại quê hương của họ, theo sự yêu cầu của họ và với quyền cá nhân và tôn giáo của họ”.

Hơn một thế kỷ sau, các lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ giả bộ làm bạn với người dân Trung Đông – nhưng những người dân đó phải trả giá cho cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ.

Thứ bảy: Cuộc chiến mới chống lại ISIS của Obama sẽ không làm cho người dân ở Hoa Kỳ hay bất cứ đâu an toàn hơn. Trái lại, nó sẽ làm thế giới nguy hiểm hơn.

Một trong những câu hỏi cấm kị nhất trong văn hóa chính trị Hoa Kỳ là tại sao Hoa Kỳ trở thành mục tiêu của vụ tấn công ngày 11 tháng 9. Sự thật là Hoa Kỳ đã thực hiện hàng ngàn cuộc tấn công tương đương với vụ 11 tháng 9 trên khắp thế giới, đó là lý do tại sao họ bị ghê sợ và khinh miệt ở khắp mọi ngóc ngách của thế giới. Đôi khi, sự tức giận đó trực tiếp chống lại mục tiêu Hoa Kỳ - thường là người dân không có gì liên quan tới cỗ máy chiến tranh Hoa Kỳ, nhưng là nạn nhân của cái mà quan chức chính quyền Hoa Kỳ công khai gọi là “nạp đạn tự động”.

Osama bin Laden đã sử dụng hình ảnh gầy gò và suy dinh dưỡng của trẻ em Iraq do các biện pháp trừng phạt của Hoa Kỳ gây ra để tuyển mộ chiến binh cho al-Qaeda. Theo cách tương tự, các chính quyền khắp thế giới đã viện dẫn việc giam giữ không giới hạn các tù nhân Arab và Hồi Giáo ở nhà tù Hoa Kỳ trên Vịnh Guantanamo – chưa nói tới sự biện minh của các quan chức Hoa Kỳ về việc sử dụng tra tấn đối với họ - để hợp pháp hóa sự lạm dụng của họ. Vì lý do này, một tá những người được giải Nobel đã kêu gọi Obama “công khai hoàn toàn cho người dân Mỹ về sự mở rộng và sử dụng tra tấn” của Hoa Kỳ, một lời kêu gọi mà Obama phản đối.

“Cuộc chiến chống khủng bố” cũng đã được sử dụng để biện minh cho việc NSA và các cơ quan chính quyền khác xâm phạm quyền riêng tư và tự do dân sự khác.

Thứ tám: Một cuộc chiến khác sẽ lãng phí tiền bạc và tài nguyên cần thiết cho mọi nơi trên thế giới, trong đó có Hoa Kỳ.

Đầu năm nay, Quốc Hội thông qua việc cắt giảm 8,7 tỷ dollar trong chương trình phiếu thực phẩm cho người nghèo. Cùng lúc, cuộc chiến mới chống ISIS của Obama tiêu tốn từ 18 đến 22 tỷ dollar mỗi năm. Vào tháng trước, Obama hỏi xin Quốc Hội mới do Đảng Cộng Hòa chiếm đa số về 5,6 tỷ dollar tài trợ bổ sung – không phải để sửa chữa mạng lưới an sinh xã hội, mà là cho Lầu Năm Góc và Bộ Ngoại Giao tham gia cuộc chiến chống ISIS.

Như nhà bình luận Trung Đông Juan Cole đã viết: 

“Cũng những người có rắc rối khi biện minh một mạng lưới an sinh cho người lao động nghèo và cảm thấy cần khẩn cấp cắt bỏ hàng tỷ dollar khỏi chương trình vốn giúp cho xã hội văn minh hơn rừng rậm săn mồi sống – cùng những người đó đã không khó khăn chấp thuận hàng tỷ dollar cho các chiến dịch ném bom mơ hồ khó có thể đo lường bằng hệ mét”.

Sự thống trị của Hoa Kỳ ở Trung Đông cũng là sự gia tốc khai thác và đốt cháy nhiên liệu hóa thạch – ngay cả khi các nhà khoa học về khí hậu đã thống nhất kêu gọi để nguyên nhiên liệu hóa thạch trong lòng đất để trái đất có cơ hội chiến đấu duy trì hệ sinh thái. 

Từ Iraq đến Syria cho tới Hoa Kỳ, người dân thường không thu được lợi ích gì từ cuộc phiêu lưu của để quốc để giữ cho tiền tiếp tục chảy vào két của những doanh nghiệp giàu có và quyền lực nhất thế giới.

Trên hết, hệ thống chủ nghĩa tư bản đã đẩy các quốc gia dân tộc và các doanh nghiệp vào một xung đột toàn diện để đánh bại các đối thủ cạnh tranh và thống trị hành tinh. Chỉ bằng cách nhổ rễ hệ thống này và thay thế nó bằng xã hội xã hội chủ nghĩa thì nhu cầu của người dân và môi trường mới được đáp ứng, nếu không hệ thống sẽ tiếp tục mù quáng lao theo lợi nhuận.

Alan Maas là biên tập viên của Socialist Worker. Eric Ruder là một nhà văn ở Chicago.

*Chú thích của người dịch: Khi Mỹ tấn công bất cứ quốc gia nào thì chính quyền quốc gia đó đều bị coi là độc tài, ngay cả khi họ có được bầu cử dân chủ và nhận được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng, rất nhiều tác giả tiến bộ cũng hay mắc cái lỗi là dễ dàng sử dụng lập luận của Mỹ trong bài viết. Trường hợp của chế độ Assad ở Syria cũng vậy, họ chưa từng bị coi là độc tài cho đến khi Mỹ muốn lật đổ họ. 

Friday, November 7, 2014

Những trận chiến bất bình đẳng

Sự bất bình đẳng thu nhập đang tăng lên trên thế giới, và nó dẫn đến hàng loạt những vấn đề khác. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Inequality Battles" của tác giả John White để biết thêm chi tiết.

Những trận chiến bất bình đẳng

Kết quả đây! – bất bình đẳng trở nên tồi tệ hơn. Hay ít nhất một số người có quyền lực đang xì xầm bàn tán về nó, từ chủ tịch Fed Janet Yellen tới thống đốc Ngân Hàng Anh Quốc Mark Carney. Không chỉ là Thomas Piketty, phong trào Chiếm Đóng khắp thế giới hay Oxfarm, đã tóm lược sự bất bình đẳng trong thế giới mới cũ kĩ của chúng ta bằng dải âm thanh quyến rũ nhất: 85 = 3.5 tỷ. Vâng, đó là 85 như trong 85 người.

Bất bình đẳng không khó để thấy trong quá khứ, nhưng có thể là thêm vài người có quyền lực đang nhận thấy sự nguy hiểm của một thế giới thường xuyên mắc nợ. Nhưng tại sao hiện nay là sự chú ý hàng đầu? Dường như bất bình đẳng lớn hơn có thể báo hiệu suy thoái, và đẩy kinh tế vào tình trạng đình đốn. Không bao giờ lòng vị tha hay phép tắc nhân đạo cơ bản khiến chính quyền lo lắng, đó là kinh tế và theo đuổi không ngừng tăng trưởng với bất kỳ giá nào.

Nhưng chúng ta phải quan ngại bởi vì sự thống khổ và kinh hãi thực sự trong cuộc sống của nhiều người. 

Dĩ nhiên thống kê kinh khủng nhất là Bảng Báo Cáo 12 của UNICEF, ghi nhận rằng “2,6 triệu trẻ em đã tụt xuống dưới mức nghèo khổ tại các quốc gia có thịnh vượng nhất thế giới kể từ năm 2008, dẫn đến tổng số trẻ em sống trong nghèo khổ ở thế giới phát triển vào khoảng 76,5 triệu”. Đó mới chỉ là thế giới phát triển. Ai đó không cần phải nhìn lại sân sau để thấy sự tàn phá của hệ thống kinh tế rất ít quan tâm tới những người nghèo yếu thế nhất trong chúng ta.

Một cái nhìn sâu hơn đối với báo cáo của UNICEF cho thấy sự nghèo khổ ở trẻ em đang gia tăng ở đa số các quốc gia OECD được khảo sát. Tại Ireland và Hy Lạp, các quốc gia có chương trình thắt lưng buộc bụng, sự nghèo khổ ở trẻ em đã tăng hơn 50% kể từ năm 2008. Ở Hoa Kỳ, từ khi cuộc khủng hoảng bắt đầu, sự nghèo khổ ở trẻ em đã gia tăng ở 34 bang, hơn 24 triệu trẻ em sống dưới mức nghèo khổ. Dĩ nhiên không phải là cuộc “khủng hoảng” với tất cả mọi người, khi sự giàu có của nhóm Forbes 500 đo bằng đơn vị nghìn tỷ hay nhóm Dow Jones đã tăng gấp đôi so với khi “khủng hoảng” bắt đầu. Về sự gia tăng nghèo khổ ở Hoa Kỳ, Chery và Mercier đã ghi nhận ngắn gọn rằng “Tầng lớp trung lưu trở thành nghèo khổ, và người nghèo khổ thì hiện giờ cùng cực” (Sống với 2 dollar/ngày, ngày 9 tháng 9).

Nếu ai đó ngại nhìn, chúng ta cũng có thể thấy Ebola không phải là vấn đề thể chất mà là vấn đề của nghèo đói. Các cơ sở chăm sóc y tế cơ bản vốn thiếu thốn ở một trong những khu vực bần cùng nhất thế giới, lại tiếp tục bị cướp đoạt bởi nhiều năm nội chiến. Nếu virus kiểu như Ebola xuất hiện ở Hoa Kỳ vào năm 1865, nó sẽ cướp đi số sinh mạng nhiều hơn bốn năm chiến tranh và làm cho sự thịnh vượng ngày nay bất khả thi. Quả thực, thể chất tốt là một chức năng của mã bưu chính.

Khối lượng lớn dữ liệu đã định lượng được tương quan giữa thiếu sức khỏe và năng suất. Liệu có ngạc nhiên khi số sinh viên từ các khu vực nghèo đói đến trường đại học ít hơn (Schofield, 2006); kỹ năng đọc của trẻ em có bố mẹ thất nghiệp kém hơn trung bình (Hill, 2005); tỷ lệ tử vong của người nghèo cao hơn ba lần (Burke, Kenaghan, O’Donovan, & Quirke, 2004)? Hay nghèo đói gia tăng trực tiếp liên quan đến gia tăng ung thư và đột quỵ, một tương quan không thay đổi từ cuối thế kỷ 19 (Dorling, Mitchel, Shaw, Orford, &Smith, 2000)? Dữ liệu đã có nhiều năm, nếu không nói là quá lâu.

Một lần nữa, chúng ta thấy sự phát triển là đáp ứng những nhu cầu cơ bản, và hạnh phúc, một kết quả bình đẳng và tiếp cận tài nguyên. Paul Krugman đã thống kê sự nghèo khổ trong nhiều thập kỷ, và đưa ra sự phàn nàn trung thực về 1%. Trong một bài bình duyệt cuốn sách đột phá của Thomas Piketty về bất bình đẳng, ông ta viết rằng Thời Đại Thịnh Vượng mới đã phát triển từ những năm 1980 và người ta chỉ cần nhìn vào báo cáo thuế để thấy lý do. Đó là toán học căn bản khi người giàu kiếm được nhiều hơn (hay trả ít hơn) và người nghèo kiếm được ít hơn (hay trả nhiều hơn). Bạn có xoay theo bất cứ hướng nào thì người giàu vẫn giàu hơn, hơn bất cứ sự cần thiết hợp lý nào.

Rất dễ dàng để trích dẫn con số nhưng cũng dễ dàng như thấy lý do: lợi ích bản thân và quy tắc chủ nghĩa cá nhân thái quá, khi cuộc sống trở thành một trò chơi phân chia ra thành người thắng và kẻ thua. Có một số nguyên nhân rõ ràng, như lương thấp, luật thuế không công bằng, hệ thống người sử dung thanh toán hai tầng. Cho vay nặng lãi kiểu cũ được áp dụng quá mức trong ngân hàng hiện đại, điều tồi tệ nhất là các công ty cho vay qua mạng Internet ngày càng nảy nở trên các địa chỉ IP, sử dụng công nghệ smart-phone để cung cấp các khoản vay trong vài phút với lãi suất lên đến 5.000%/năm. Cho vay cắt cổ, theo kiểu peer-to-peer. Hiện nay, họ có một cái tên đẹp cho việc cho vay cắt cổ. 

Giải pháp tín dụng tốt hơn là có, nhưng người nghèo khó có thể tiếp cận. Theo chủ nghĩa tư bản cổ điển, chênh lệch lợi nhuận được kỳ vọng giảm xuống khi cạnh tranh gia tăng. Quá tệ khi gã bình thường không thể thu lợi từ lãi suất gần bằng không của Fed! Chênh lệch lãi suất nhỏ nhân với hàng triệu khách hàng được một số ít người khai thác. Chủ ngân hàng thân thiện đáng yêu của mọi nhà, George Bailey, đang xoay tròn trong mộ.

Hơn nữa, khi người nghèo bị nghèo hơn, khoản nợ cũng tệ hơn. Được ngành công nghiệp ô tô Hoa Kỳ khai sinh vào những năm 1920, tín dụng dường như là một giải pháp rõ ràng để xóa bỏ gánh nặng thanh toán giá cả nằm ngoài tầm với của hầu hết người mua – khoảng 20% thu nhập của hộ gia đình theo ghi nhận của Daniel Boorstin trong phân tích về văn hóa tiêu dùng mới, “Người Mỹ: Kinh Nghiệm Dân Chủ”. Được GM, Ford, và các thẻ cho vay thích hợp khác tạo điều kiện, tín dụng nhanh chóng bén rễ trở thành phương tiện thanh toán trong thời đại chúng ta, và hiện giờ tăng lên hơn 3 nghìn tỷ dollar, hơn một phần tư của chúng là “quay vòng”, có nghĩa là kiểu thẻ tín dụng đang hoạt động. Theo Cục Thống Kê Dân Số Hoa Kỳ, gần 1,5 tỷ thẻ tín dụng được lưu hành vào năm 2008. Đáng chú ý hơn, một số hộ gia đình của những người trẻ tuổi chi tới 25% thu nhập của họ cho trả nợ. Và sau đó các thẻ khách hàng “trung thành” với lãi suất cắt cổ tới 30% và được gọi là trò lừa đảo “thuê để sở hữu” (thứ sẽ dẫn đến phí tổn gấp 3 lần giá mua). Rất khó để chơi khi bạn luôn tụt lại phía sau.

Nhưng sao xã hội được gọi là khai sáng của chúng ta lại rơi vào trò chơi bóc lột tiền bạc? Đó là vấn đề của tất cả mọi người khi chúng ta nợ quá nhiều, câu cách ngôn đó đập vào lưng những người tiêu dùng đang chen vai thích cánh. Theo như phép tu từ của ngân hàng truyền thống do John Maynard Keynes đặt ra, “Nếu bạn nợ ngân hàng một trăm bảng thì bạn có vấn đề. Nhưng nếu bạn nợ một triệu thì họ có vấn đề”. Khi nào bất bình đẳng là vấn đề của tất cả mọi người?

Không may là bạn sẽ không thấy bất bình đẳng trong các vấn đề tranh cử gần đây. Như Krugman đã ghi nhận tiếp theo trong “Lương tâm của người tự do: Không phục Hoa Kỳ từ cánh hữu”, “người bỏ phiếu đặc trưng có một thu nhập tương đối cao hơn cá nhân đặc trưng, đó là lý do các chính khách có khuynh hướng thiết kế các chính sách của họ với sự giàu có tương đối trong suy nghĩ”. John Kenneth Galbraith nói nhiều điều tương tự trong “Xã hội thịnh vượng”, ghi nhận sự phân tách lớn dần giữa sự giàu có và xã hội trong những năm 1950. “Pháp luật hiện nay phục vụ các cá nhân giàu có cũng như đối đầu với các cá thể chỉ có thu nhập ít ỏi”. Khó có thể đối mặt với vấn đề tiền bạc của người nghèo trong khi bầu cử tiêu tốn hàng tỷ dollar.

Nực cười thay, kết quả bầu cử và đặc biệt những người thân cận có thể chiến thắng là nhờ người giàu, khi thời tiết xấu cũng phục vụ cho giai cấp lắm tiền, những người có tiếp cận tốt hơn với giao thông vận tải.

Đây là lúc để mặt trời tỏa sáng và tạo ra sự khác biệt. Một sự khác biệt thật sự trong cuộc sống của những người khác. Bất bình đẳng là VẤN ĐỀ của thời đại chúng ta.

JOHN K. WHITE, là trợ giảng ở trường Vật Lý, Đại Học Dublin College, và tác giả của Do The Math!: On Growth, Greed, and Strategic Thinking (Sage, 2013). Do The Math! Cũng có phiên bản cho Kindle. Có thể liên hệ với tác giả qua hòm thư điện tử: john.white@ucd.ie.

Thursday, November 6, 2014

Phía sau nghị quyết của Liên Hiệp Quốc về Uranium nghèo

Mới đây, Liên Hiệp Quốc đã thông qua một nghị quyết về vũ khí chứa Uranium nghèo mà Hoa Kỳ và đồng minh đã sử dụng ở nhiều nơi trên thế giới, xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Inside the UN Resolution on Depleted Uranium" của tác giả John Laforge để biết thêm chi tiết.

Phía sau nghị quyết của Liên Hiệp Quốc về Uranium nghèo

Vào ngày 31 tháng 10, một nghị quyết mới của Ủy Ban Thứ Nhất Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc về vũ khí chứa uranium nghèo được thông qua với đa số tuyệt đối. Có 143 quốc gia ủng hộ, 4 chống và 26 bỏ phiếu trắng. Biện pháp này kêu gọi các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc hỗ trợ các quốc gia bị nhiễm bẩn do các loại vũ khí đó. Nghị quyết cũng ghi nhận sự cần thiết phải nghiên cứu trên góc độ môi trường và sức khỏe về vũ khí chứa uranium nghèo trong các tình huống xung đột. 

Đây là nghị thứ năm của Liên Hiệp Quốc về vấn đề bị bốn quốc gia sử dụng vũ khí chứa uranium nghèo phản đối dữ dội – đó là Anh, Hoa Kỳ, Pháp và Israel – những nước duy nhất bỏ phiếu chống. Hai mươi sáu quốc gia bỏ phiếu trắng được cho là muốn tránh gây tổn thương quan hệ thương mại với bốn quốc gia kia.

Uranium-238 – hay còn được gọi là Uranium nghèo (DU) – là phế thải tồn lại với khối lượng khổng lồ của các tổ hợp vũ khí hạt nhân. Chúng được sử dụng trong các đầu đạn xuyên giáp cỡ lớn và trong các tấm giáp của xe tăng. Chất độc, bụi phóng xạ và mảnh vụn được phát tán khi hạt DU bốc cháy trong mục tiêu, hơi kim loại và bụi của nó đầu độc nguồn nước, đất canh tác và chuỗi thức ăn. DU có liên quan tới các hiệu ứng tổn hại sức khỏe như Hội Chứng Vùng Vịnh của binh lính Hoa Kỳ và đồng minh, và tỷ lệ dị dạng sơ sinh trong dân cư ở các khu vực bị ném bom. Phế thải DU gây ra nhiễm xạ nhiều phần lãnh thổ lớn ở Iraq, Bosnia, Kosovo và dĩ nhiên là Afghanistan. 

Biện pháp này giải thích rằng vũ khí chứa DU được chế tạo bằng một “kim loại nặng độc hại về hóa học và phóng xạ” [uranium-238], “các mảnh vỡ, và vỏ bao hay vỏ bọc sau khi sử dụng có để trên mặt đất hay chôn thật sâu, phần Uranium nghèo còn lại dẫn đến nhiễm độc tiềm tàng không khí, đất canh tác, nước và thực vật”. 

Sự công kích chủ yếu trong nghị quyết mới nhất của Liên Hiệp Quốc, “Khuyến khích các quốc gia thành viên sẵn sàng cung cấp hỗ trợ cho các quốc gia bị ảnh hưởng bởi việc sử dụng vũ khí và đầu đạn chứa Uranium nghèo, đặc biệt là xác định và quản lý các khu vực cũng như vật liệu nhiễm độc”. Yêu cầu này là một sự ám chỉ ngầm cho thấy sự thật là các điều tra viên đã bị ngăn cản trong việc nghiên cứu nhiễm độc Uranium ở Iraq, do Lầu Năm Góc từ chối cung cấp bản đồ của tất cả các vị trí bị tấn công bằng DU.

Trong giới hạn ngoại giao của nghị quyết Liên Hiệp Quốc, các quốc gia không bị nêu tên cụ thể. Mặc dù vậy, thế giới biết rằng gần 700 tấn đầu đạn DU được quân đội Hoa Kỳ trút xuống Iraq và Kuwait vào năm 1991, và các chiến đấu cơ Hoa Kỳ đã nã 3 tấn đạn DU khác vào Bosnia trong năm 1994 và 1995; 10 tấn vào Kosovo trong năm 1999, và khoảng 170 tấn vào Iraq trong năm 2003. 

Liên Minh Quốc Tế Cấm Vũ Khí Uranium (ICBW.org) ở Manchester, Anh và đại diện cho 160 tổ chức xã hội dân sự trên thế giới, đóng vai trò chủ chốt trong việc theo dõi cả 5 nghị quyết của Liên Hiệp Quốc được triển khai và vận động một hiệp ước coi loại đầu đạn này là bất hợp pháp. Vào tháng 10, ICBUW đưa tin rằng quân đội Hoa Kỳ sẽ tiếp tục sử dụng vũ khí DU ở Iraq và trong các cuộc tấn công quân ISIS “nếu điều đó là cần thiết”. Sự thừa nhận xuất hiện bất chấp lời kêu gọi mới đây vào mùa hè 2014 ở Iraq về việc cấm vũ khí loại này và hỗ trợ làm sạch các nhiễm độc còn tồn dư từ các cuộc ném bom năm 1991 và 2003.

Nghị quyết mới của Liên Hiệp Quốc dựa trên Chương Trình Môi Trường Liên Hiệp Quốc (UNEP), do họ đã thực hiện các khảo sát về phóng xạ tại các mục tiêu ném bom của NATO ở Balkan và Kosovo. Nghiên cứu của UNEP năm 2001 đã buộc Lầu Năm Góc thừa nhận rằng DU có trộn lẫn Plutonium. (Associated Press, Capital Times, Feb. 3, 2001: “ Nhưng hiện giờ Lầu Năm Góc tuyên bố rằng các đầu đạn được sử dụng trong cuộc xung đột ở Kosovo năm 1999 bị nhiễm một lượng nhỏ Plutonium, Netunium và Amercium – phụ phẩm của các lò phản ứng hạt nhân phát xạ lớn hơn Uranium nghèo.”)

Đoạn thứ tư đáng chú ý của nghị quyết ghi nhận một phần “… sự thiếu chắc chắn chủ yếu về mặt khoa học phản đối các tác động môi trường dài hạn của Uranium nghèo, đặc biệt là liên quan đến nhiễm độc nước mặt dài hạn. Do những sự thiếu chắc chắn về khoa học này mà Liên Hiệp Quốc kêu gọi một phương thức tiếp cận mang tính phòng ngừa đối với việc sử dụng Uranium nghèo, và khuyến nghị các hoạt động dọn sạch cũng như giải độc cho các khu vực ô nhiễm. Nghị quyết cũng kêu gọi gia tăng nhận thức của cư dân địa phương và sự theo dõi trong tương lai.”

“Nguyên tắc phòng ngừa” có nghĩa là các hoạt động hay chất liệu rủi ro phải được tránh xa và được ngăn cản trừ khi chúng được chứng minh là an toàn. Dĩ nhiên, thay vì áp dụng nguyên tắc phòng ngừa, Lầu Năm Góc phủ nhận việc DU có liên quan tới các vấn đề sức khỏe.

John LaForge làm việc cho tổ chức Nukewatch và sống tại Plowshares Land Trust ở gần Luck, Wisc.

Friday, October 31, 2014

Trung Mỹ đói khát

Nạn đói do hạn hán đang hoành hành ở Trung Mỹ, bạn đọc hẳn đã biết, nhưng con người tạo ra nó như thế nào? Xin mời hãy tham khảo bản dịch bài viết "Starving Central America" của tác giả người Mỹ Nick Alexandrov.

Trung Mỹ đói khát

“Hạn hán đã giết chúng tôi”, một người Honduras trẻ, Olman Funez nói về mùa hè năm ngoái. Anh ta đề cập tới cái mà Ngân Hàng thế giới gọi là “một trong những đợt hạn hán dài nhất suốt nửa thế kỷ qua”. Một nông dân Guatemala 60 tuổi khẳng định rằng ông chưa từng thấy “thảm họa nào như vậy”. Carlos Rosman, một nông dân Guatemala nói với phóng viên rằng “Chả có gì ở đây hết. Chúng tôi ăn những gì có thể tìm thấy.”

Đó là những người trong só 2,8 triệu Trung Mỹ “đang đấu tranh để nuôi sống bản thân” trong khu vực “hàng lang khô hạn” – “một khu vực khô hạn nằm giữa Guatemala, El Salvador, Honduras và Nicaragua”, theo thông tin từ tổ chức Chương Trình Lương Thực Thế Giới của Liên Hiệp Quốc. Chính quyền Nicaragua mô tả đợt hạn hán là tồi tệ nhất trong 32 năm qua. Vào tuần trước tổ chức Chữ Thập Đỏ Quốc Tế và Trăng Lưỡi Liềm Quốc Tế “nói khoảng 571,710 người bị ảnh hưởng bởi hạn hán ở Honduras”, và “các hộ gia đình buộc phải bán tài sản và gia súc để mua thực phẩm cần thiết cho sống sót, trong khi những người khác đi tị nạn để tránh tác động của hạn hán”. Nhưng khủng hoảng lương thực ở Honduras và Nicaragua không phải là hiện tượng mới. Ở cả hai quốc gia này, chính sách của Hoa Kỳ đã gây ra nạn đói Trung Mỹ.

Những người Honduras khẳng định rằng khu vực Choluteca là một phần của “hành lang khô hạn”. Lãnh sự Hoa Kỳ ở Tegucigalpa đã viết vào năm 1904 về “sự đa dạng thực vật” của Choluteca, “từ các loại thông và sồi của thượng du cho đến cọ và dừa dọc theo bờ biển”. Vùng rừng giàu có đã bị tàn phá trong 70 năm sau đó, giảm từ 29% xuống 11% trong khu vực được thống kê vào những năm 1960 và 1970. Bãi chăn thả tăng diện tích bao phủ từ 47% lên 64% trong cùng kỳ. “Gia súc đang ăn hết rừng”, Billie R. DeWalt tường thuật trên Bản Tin Các Nhà Khoa Học Nguyên Tử ba thập kỷ trước đây. Nhà nhân loại học Jefferson Boyer đồng tình, cho biết là các trại chăn nuôi Choluteca “đơn giản chỉ thuê lao động để đốn và đốt cây cũng như bụi rậm, phát quang đất cho cỏ mọc”. 

Honduras “bị biến thành bãi chăn thả gia súc khổng lồ nhằm mục đích xuất khẩu”, DeWalt nói thêm – một sự phát triển phục vụ các mục đích của Washington. Robert G. Williams cho biết một ví dụ, “Liên Minh Tiến Bộ thúc đẩy xuất khẩu thịt bò Trung Mỹ” của Kennedy, và “Ngân Hàng Thế Giới, AID, và IADB” đều coi thịt bò “là con đường thực dụng và nhanh chóng dẫn đến tăng trưởng nhờ xuất khẩu”. DeWalt tiếp tục, thịt bò “không quan tâm tới khoảng 58% trẻ em Honduras dưới 5 tuổi bị ảnh hưởng bởi suy dinh dưỡng dễ thấy”, nhưng không khi nào không quan tâm hơn đến Hoa Kỳ - nguồn “nhu cầu nhập khẩu vô tận các sản phẩm từ gia súc” và “nhà nhập khẩu lớn nhất” “của xuất khẩu thịt bò Trung Mỹ”. Khi các công dân Mỹ nhồi nhét steaks và hamburger, “nguồn cung cấp thực phẩm ở các nước nghèo trở nên thiếu hụt, thất nghiệp gia tăng, và đất đai cũng như các tài nguyên khác bị suy giảm mạnh”. Người Honduras nghèo khổ do đó buộc “phải cạnh tranh với động vật để giành các tài nguyên có sẵn ở địa phương”.

Nhưng nhiều nông dân, vì lý do nào đó, không thể chấp nhận rằng họ bị đối xử như con vật nuôi để giết thịt. Họ đã phản ứng lại sự phá hủy có hệ thống đối với sinh kế của họ bằng cách thành lập các tổ chức tự bảo vệ. Các chủ đất đáp trả theo cách có thể tiên lượng. “Bị chủ bãi chăn thả giết hại là chuyện phổ biến trong những năm 1960 và đầu những năm 1970, và một số vụ thảm sát đã được công khai”, David Nibert kể. “Ví dụ, vào năm 1975, tại một bãi chăn thả lớn có tên là Los Horcones” - ở khu vực Olancho, một địa điểm mở rộng bãi chăn thả khác – “5 người đã bị thiêu chết trong một lò bánh mỳ, hai tu sĩ bị thiến và băm vằm, và hai phụ nữ bị ném xuống giếng rồi cái giếng bị cho nổ sập. Tất cả các nạn nhân đều có liên hệ với phong trào do nông dân tổ chức.

Lịch sử nông nghiệp Nicaragua cũng tương tự, theo nghĩa rộng. Khu vực León, giờ là một phần của “hành lang khô hạn” rất ấn tượng với thương nhân Anh Orlando W. Roberts, ông mô tả vào năm 1827 là “miền đất rừng đẹp như trong tranh”. Phó lãnh sự Hoa Kỳ Peter F. Stout viết vào băm 1859 rằng “khu vực màu mỡ của Leon” được “bao phủ bởi rừng rậm”, các chợ tràn ngập “dưa, cam, chanh cam, chanh, đu đủ”, nhiều “loại ăn được” đều sẵn có. Nhưng sau thế chiến thứ II “khu vực bao quanh León bị biến thành đám bụi khủng khiếp khi những chủ nông trại đốn hạ rừng và trục xuất các gia đình tá điền cũng như các cộng đồng thổ dân ra khỏi đất đai của họ”, Matilde Zimmerman kể lại, đánh dấu bước phát triển của cây bông. “Trong kỳ khô hạn mùa xuân, gió nóng thổi bụi đi khắp các ngóc ngách thành phố, và không khí ở León bốc mùi thuốc trừ sâu”.

Thuốc trừ sâu đã phá hủy nông nghiệp truyền thống ở Nicaragua, giỏ bánh mỳ của khu vực. “Sản lượng lương thực cho nhu cầu nội địa giảm xuống liên tục ở Nicaragua từ năm 1948 tới năm 1978 khi ngày càng nhiều đất hơn được chuyển sang canh tác để xuất khẩu các loại sản phẩm như bong, gia súc hay thịt bò”, Clifford L. Staten viết về thời kỳ Somoza. “Vào cuối những năm 1970, chỉ có 13% dân số làm nông nghiệp có mảnh đất đủ đáp ứng các nhu cầu căn bản hay tối thiểu về lương thực.” ông ta tiếp tục. Joseph Collins chỉ ra rằng các nhà sản xuất bong Nicaragua, biến đổi đất để phục vụ cho lợi ích của họ, “đã thành công trong việc biến đất nước của họ thành thủ đô thuốc trừ sâu của thế giới. Sữa mẹ ở Nicaragua chứa lượng DDT cao hơn 45 lần so với mức cho phép của bộ y tế”.

Douglas L. Murray cho biết rằng phần lớn viện trợ nông nghiệp của Washington được dùng để mua thuốc trừ sâu. “Ví dụ vào giữa những năm 1960, Cơ Quan Phát Triển Quốc Tế Hoa Kỳ (USAID) cho Nicaragua vay 9 tỷ dollar thông qua Chương Trình Lương Thực Cơ Bản để mua thuốc trừ sâu cho các nhà sản xuất ngũ cốc cơ bản”, kể từ khi tiền phục vụ cho “sản xuất bông Nicaragua thuần túy, cũng như tạo ra doanh thu bổ sung cho các công ty hóa chất Hoa Kỳ”. Vận may doanh nghiệp đó là một phần của sự bùng nổ về bông. Những thứ khác là “sự khó khăn và đau khổ của hàng trăm ngàn người” cũng như “sự suy giảm mức độ tiêu thụ caloric của trẻ em”, khi sự bành trướng của bông “thay thế không chỉ sản xuất các ngũ cốc cơ bản và sản phẩm nông nghiệp cần thiết mà còn trục xuất nhiều người đã có đời sống lịch sử trên vùng đất này”, Murray kết luận.

Sự chuyển đổi nông nghiệp mà Honduras và Nicaragua đã trải qua – và đặc biệt là sự tàn phá rừng mà họ kế thừa – có thể liên quan đến sự thiếu nước hiện nay tại khu vực. Nick Nuttall, môt quan chức tham gia Hiệp Ước Khung của Liên Hiệp Quốc về Biến Đổi Khí Hậu, cho biết “mối liên hệ giữa nạn phá rừng và hạn hán là rất rõ ràng”, trong khi các nhà nghiên cứu khác tin rằng “hạn hán, được khuyếch đại bởi nạn phá rừng, là yếu tố chủ yếu trong sự sụp đổ nhanh chóng của đế chế Maya vào khoảng năm 950 trước Công Nguyên”.

“Con người và hệ thống sinh thái” khắp thế giới hiện nay có thể chung số phận với người Maya, Tổ Chức Liên Chính Phủ của Liên Hiệp Quốc (IPCC) về biến đổi khí hậu đã lo sợ. Trong một bản dự thảo báo cáo bị lộ sẽ được công bố vào chủ nhật này, ngày 2 tháng 11, IPCC lập luận rằng “ngay cả khi thích nghi, sự ấm lên vào cuối thế kỷ 21 sẽ dẫn đến nguy cơ cao đến rất cao các tác động khốc liệt, rộng rãi, và không thể đảo ngược toàn cầu”. Do đó chúng ta phải quyết định: Hoặc là mùa hè khốc liệt ở Trung Mỹ cho chúng ta thấy trước tương lai hành tinh của chúng ta, hoặc là nó cho thấy một ác mộng mà chúng ta sẽ thoát khỏi trong tích tắc.

Friday, August 29, 2014

Những nguyên lý của trật tự thế giới đế quốc mới

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài nghiên cứu "Principles of the Imperial New World Order" của giáo sư Edward S. Herman và David Peterson. Hai tác giả đã trình bày những nguyên lý cơ bản nhất của trật tự thế giới đế quốc mới mà trong đó Hoa Kỳ đóng vai trò trung tâm. Đây là một nghiên cứu đã xuất bản năm 2008 và tình hình thế giới hiện tại đang diễn ra theo đúng như những nguyên lý mà các tác giả đã trình bày.

Những nguyên lý của trật tự thế giới đế quốc mới

Chúng ta cần phải chấp nhận trong Trật tự Thế Giới Đế Quốc Mới (INWO), Liên Bang Soviet đã biến mất, Hoa Kỳ hiếu chiến và quân sự hóa cao độ đang thi triển sức mạnh khủng khiếp khắp toàn cầu, gây rối loạn và phá hủy phần lớn các khu vực trên toàn cầu trong các chiến dịch được viện dẫn lý do bảo vệ lợi ích của độc lập và ổn định, những nguyên lý sau khi được điều chỉnh đã trở nên rõ ràng. Phần lớn các nguyên lý là rất mới, nhưng cũng trơ trẽn hơn trong quá khứ khi chúng chuyển từ các quan hệ quyền lực thành sự khẳng định về quyền hay phủ nhận những quyền tương tự, những chuẩn mực kép tiếp tục được áp dụng rất nhiều trên thế giới. Ý nghĩa trong thế giới thực tế của những nguyên lý INWO do đó dựa trên ba nền tảng: (a) hoặc là Washington khẳng định các quyền cho bản thân (và trực tiếp hay ngụ ý cho các đồng minh thân cận, đối tác hay chư hầu); (b) hoặc là Washington phủ nhận các quyền của kẻ thù; và (c) hoặc là Washington không quan tâm theo bất cứ cách nào hay bất cứ ai khác. Như chúng ta trình bày tiếp theo, sự khẳng định dựa trên quyền lực hay phủ nhận các quyền được chấp nhận trong phạm vi từ các lãnh đạo đầy quyền lực của các quốc gia phương Tây, các ứng cử viên chính trị, và quan chức hàng đầu của Liên Hiệp Quốc, tới truyền thông chính thống, giới học giả có tiếng tăm. Họ đại diện cho sự thể chế hóa hệ thống quyền lực mà trong đó công lý không hoạt động và sự xuyên tạc ẩn mình sau đám mây mù của ngôn từ hùng biện và mị dân.

1. Quyền xâm lược: Hoa Kỳ đang tận hưởng quyền xâm lược hạng nhất và từ lâu đã trắng trợn vi phạm Hiến Chương Liên Hiệp Quốc vốn được dùng để ngăn chặn các “tội ác quốc tế cực kỳ nghiêm trọng” mà không bị bất cứ sự trừng phạt nhỏ nào (Việt Nam và toàn bộ Đông Dương, Panama, Nam Tư, Afghanistan, Iraq). Đối tác lớn nhất của họ là Israel cũng hành động tương tự (Lebannon vào năm 1982 và năm 2006, cùng với Syria, Algeria, và phần lãnh thổ Palestine bị chiếm đóng), và cũng không bị trừng phạt. Trong giới trí thức và chính trị của hai quốc gia này, các chủ đề nổi bật trong các cuộc xâm lược hoàn toàn rất thực dụng và liên quan tới hiệu quả, chi phí (đối với kẻ xâm lược), việc quản lý tồi có thể xảy ra. Nhưng quyền xâm lược không bao giờ bị đả phá, cho dù là trong những quốc gia đi xâm lược hay quốc tế. Luật lệ chỉ áp dụng vô điều kiện với những quốc gia khác.

Một tương phản rõ nét, trong trường hợp các vụ chiếm đóng lãnh thổ khác của các quốc gia thù địch với phương Tây và Hoa Kỳ, như Việt Nam chiếm đóng Cambodia năm 1979 hay Iraq chiếm đóng Kuwait năm 1990, các lãnh đạo phương Tây và các học giả đã bày tỏ sự căm phẫn dữ dội, và cả hai vụ chiếm đóng đã bị trừng phạt khốc liệt (cuộc xâm lược trả đũa của Trung Quốc đối với Việt Nam, Hoa Kỳ cấm vận Việt Nam, Khmer Đỏ nhận được ghế của Cambodia tại Liên Hiệp Quốc; Iraq bị cuộc chiến tranh quy mô lớn do Hoa Kỳ lãnh đạo với sự chấp thuận của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, đẩy lùi khỏi Kuwait, cuộc chiến đó đã phá hủy Iraq, dẫn đến 13 năm cấm vận, và trên hết, cuộc xâm lược của Mỹ vào tháng 3 năm 2003). Sự khác biệt cơ bản giữa năm 1979 và năm 1990, mặc dù vậy là việc Liên Bang Soviet đã phủ quyết dự thảo Nghị quyết yêu cầu Việt Nam rút quân khỏi Cambodia của Hội Đồng Bảo An vào năm 1979, thay cho bình luận của đại sứ Australia “Chúng ta không thể chấp nhận chính sách nội bộ của bất kỳ chính quyền nào [Cambodia], bất kể là đáng trách ra sao, có thể biện hộ cho việc một chính quyền khác [Việt Nam] tấn công họ bằng quân sự”, [1] trong khi trong cuộc thảo luận của Hội Đồng Bảo An sau khi Iraq xâm lược Kuwait không có thành viên nào trong nhóm 5 thành viên thường trực phủ quyết một nghị quyết kêu gọi Iraq rút quân hay áp đặt cấm vận đối với nước xâm lược. Sự khác biệt giữa năm 1979 với năm 1990 và những năm sau đó chính là sự tồn tại của Liên Bang Soviet với quyền lực thế giới. 

2. Quyền khủng bố (và quyền giết chóc trên quy mô lớn mà không bị coi là khủng bố): Quyền này đồng thời với quyền xâm lược, ranh giới giữa chủ nghĩa khủng bố và xâm lược rất mờ nhạt và thông thường chỉ đơn giản là vấn đề quy mô; trong cả hai trường hợp, việc Hoa Kỳ ném bom và giết chóc không được diễn tả bằng những từ ngữ gây ác cảm.

Cuộc tấn công “sốc và sợ hãi” ban đầu của Hoa Kỳ vào Iraq rõ ràng là nhằm khủng bố các thành viên quân sự và thường dân, và các cuộc tấn công của Hoa Kỳ vào Fallujah [2] cũng như các nơi khác rõ ràng là kế hoạch khủng bố. Các cuộc tấn công quân sự của Israel cũng tương tự như vậy. Vấn đề là theo thể thức chính trị của phương Tây Israel không bao giờ khủng bố mà chỉ “đáp lại” và “trả đũa” những kẻ khủng bố. Nghị quyết 951 của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc được đề xuất và thông qua ngày 5 tháng 3 với đa số tuyệt đối 404/405 khi Lực Lượng Phòng Thủ Israel tấn công man rợ vào các trại tị nạn của người Palestine ở dải Gaza, [3] tuyên bố “Các chiến dịch quân sự của chính quyền Israel ở dải Gaza chỉ nhằm vào lực lượng Hamas và các tổ chức khủng bố khác”, và bổ sung thêm “các thiệt hại dân sự ngoài ý muốn trong các chiến dịch quân sự phòng thủ nhằm vào các mục tiêu quân sự, mặc dù rất đáng tiếc, nhưng không tương đương về mặt đạo đức với chủ ý nhằm vào thường dân như Hamas và các nhóm khủng bố khác ở dải Gaza”.[4] Đó là lời biện minh rất thành thật cho nhà nước khủng bố Israel. Thứ nhất, các lãnh đạo Israel từ Abba Eban cho tới Ariel Sharon và thủ tướng Ehud Olmert hiện nay công khai thừa nhận mục tiêu khủng bố thường dân Palestine. Thứ hai, sự thật bị che dấu là số người Palestine bị Isreal giết hại “ngoài ý muốn” vượt xa số người Israel bị Hamas và người Palestine giết hại có chủ định (cụ thể, trước phong trào intifada thứ hai, tỷ lệ là 25:1; bắt đầu phong trào intifada thứ hai, là 4,6:1; từ tháng 11 hội nghị “hòa bình” ở Annapolis vừa qua, trở lại 21:1).[5] Thứ ba, sự giết chóc “ngoài ý muốn” của Israel trong thực tế là có chủ ý, quân đội Israel đã không ngần ngại sử dụng hỏa lực mạnh trong các khu vực đông dân cư ở Gaza và ở Lebanon mùa hè năm 2006, tại đó số thường dân thiệt mạng là rất lớn và có thể dự đoán được.[6]

3. Quyền thanh trừng sắc tộc: Phương Tây coi việc thanh trừng sắc tộc là đáng trách, và trút cả biển nước mắt cho các nạn nhân - nhưng chỉ khi thanh trừng sắc tộc do các đối tượng được định trước thực hiện hoặc có thể đổ tội cho họ, như người Serb ở Bosnia và Chính quyền Liên Bang Nam Tư của Milosevic những năm 1990 và chính quyền Hồi giáo Ở Sudan hiện nay. Sự thật là vụ thanh trừng sắc tộc của người Serb ở Bosnia diễn ra trong quá trình trả đũa lẫn nhau trong cuộc nội chiến, hai nhóm đối đầu (người Bosnia Hồi giáo và người Croatia) đã thanh trừng lẫn nhau. Milosevic không thanh trừng sắc tộc ở Kosovo để thay thế người Albania Kosovo bằng người định cư Serb; dân chúng bỏ chạy là hiện tượng đặc trưng của nội chiến và sau đó với bom của NATO cuộc chiến đã biến thành quy mô lớn.[7]

Tiếp tục với sự bịa đặt có tính suy diễn, tờ Cộng Hòa Mới (TNR) cho rằng “Rất nhiều điểm tương đồng giữa Dafur hiện nay và Kosovo năm 1999…Khi những kẻ nổi loạn tới Kosovo và Dafur, cả Belgrade và Khartoum đều quyết định chống lại du kích bằng cách nhắm vào thường dân vì du kích xuất hiện từ đó.”[8] Nhưng sự thật của TNR sai cả ở Dafur lẫn Kosovo; sự tương đồng duy nhất nằm trong những lựa chọn và toan tính của các quyền lực phương Tây đặt vào hai cuộc xung đột đó. Vào năm 2007, bản đánh giá của Chương Trình Môi Trường Liên Hiệp Quốc đã cho thấy “Môi trường suy thoái, cũng như sự biến đổi và bất ổn của khí hậu khu vực là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thiếu an ninh lương thực và xung đột ở Dafur…Khu vực bị bủa vây bởi các vấn đề kết hợp giữa tăng trưởng dân số, khai thác cạn kiệt tài nguyên và sự suy giảm rõ rệt lượng mưa trong dài hạn. Kết quả là phần lớn khu vực phía bắc và miền trung Dafur bị suy thoái trên quy mô rộng không thể cung cấp đủ các thứ thiết yếu cho cư dân nông thôn. [9] 

Mặt khác, trường hợp thật sự thanh trừng sắc tộc, và có liên quan toàn cầu vì gây ra sự oán hờn của người Arab và người Hồi giáo, là việc Isreal thường xuyên trục xuất người Palestine ra khỏi đất đai của họ trong vùng lãnh thổ bị chiếm đóng ở Bờ Tây và Đông Jerusalem để người Do Thái định cư. Phương Tây không bao giờ gọi trường hợp này là “thanh trừng sắc tộc”. Trái với sự thật được các lãnh đạo Israel thừa nhận công khai nhiều năm, mục tiêu của chính sách định cư là thay người Palestine bằng người Do thái, họ đã giết hại nhiều ngàn người trong quá trình định cư, phá hủy hơn 18’000 căn nhà của người Palestine kể từ cuộc xâm lược năm 1967. [10] và xua đuổi nhiều ngàn người phi Do Thái. John Dugard, báo cáo viên đặc trách của Liên Hiệp Quốc về nhân quyền trong phần lãnh thổ bị chiếm đóng của Palestine, đã thường xuyên cảnh báo về các hoạt động của Israel nhằm “làm cho các thành phố Do Thái hơn” và qua đó tước đoạt thủ đô của quốc gia Palestine tương lai. “Ý đồ rõ ràng trong các sự thay đổi là ngăn chặn mọi khả năng biến Đông Jerusalem trở thành thủ đô của quốc gia Palestine”, Dugard giải thích. “Xây dựng bức tường, mở rộng các khu định cư và phi Palestine hóa Jerusalem đang đe dọa sự tồn tại của quốc gia Palestine”.[11] Mặc dù vậy, tiêu chuẩn kép và đạo đức giả của phương Tây là rất đáng kinh ngạc, các lãnh đạo và truyền thông phương Tây đã hậu thuẫn tích cực cho quá trình thanh trừng sắc tộc có hệ thống kéo dài hàng thập kỷ, và Israel đã được vinh danh khi nạn nhân của họ phát khùng.[12] Rất rõ ràng là Israel thanh trừng sắc tộc và ăn cắp đất đai thuộc về người Palestine, nhưng điều đó được phương Tây hợp lý hóa thành cơ sở cho “nhu cầu an ninh” của Israel-theo tiêu chuẩn kép mang tính phân biệt chủng tộc của phương Tây thì người Palestine không có “nhu cầu an ninh”, sự phản đối quá trình khủng bố và chiếm đoạt của Israel đã bị tảng lờ. Đây mới là “phép màu” thực sự của Israel. 

4. Quyền lật đổ: Những vụ lật đổ khắp thế giới diễn ra thường xuyên suốt thời kỳ sau thế chiến thứ hai, cho thấy cùng với quyền xâm lược Hoa Kỳ còn có quyền can dự và lật đổ bất cứ chính quyền nào mà họ muốn. Cuộc can thiệp phản cách mạng vào Hy Lạp (1947-1949), lật đổ chính phủ của Mohammad Mosadded ở Iran (1953) và Jacobo Arbenz Guzman ở Guatemala (1954) trong thập kỷ đầu tiên của thời hậu thế chiến là những ví dụ điển hình cho thấy Hoa Kỳ đã sử dụng quyền ấy mà chỉ bị rất ít ràng buộc.[13] Cuộc can thiệp “chống du kích” của Hoa Kỳ vào nội chiến ở Hy Lạp là bằng chứng “các chiến dịch hoàn toàn do Hoa Kỳ chỉ huy và sự hiện diện của cố vấn trong các chiến dịch đánh phá”, Michael McClintock viết, thủ đoạn “ được ưu tiên hàng đầu trong các chương trình chống phá cách mạng của Hoa Kỳ từ Việt Nam đến El Salvado”.[14] (Mặc dù McClintock kết thúc lịch sử với năm 1990, nhưng chúng ta có thể mở rộng ra để bao quát cả Colombia, Nam Tư, Afghanistan và Iraq). Nhiều người đã đề cập tới “cái nôi trong chiến lược chiến tranh lạnh của Hoa Kỳ” như một bản đánh giá quân sự đã nêu năm những 1960, cuộc can thiệp vào Hy Lạp trở thành tiêu chuẩn vàng của chiến lược phản cách mạng sau đó được đổi tên nhưng không loại bỏ trong thực tiễn bởi “học thuyết Petraeus” huyền thoại và Hướng dẫn Chiến trường Phản Cách mạng được cập nhật của Hoa Kỳ (2006-2007) đang được phô trương như là một phần của “phong trào” Hoa Kỳ ở Iraq. Mặc dù, sự thay đổi thuật ngữ phản ánh “kết thúc của chiến tranh lạnh” và tuyên bố về “cuộc chiến chống khủng bố”, trong đó “làn sóng những kẻ nổi loạn mới” được nuôi dưỡng không phải bằng lật đổ theo kiểu “chủ nghĩa cộng sản” kiểu cũ mà bởi “các quốc gia yếu đuối và sai lầm” và trên tất cả là bởi “các yếu tố phi nhà nước” hay “khủng bố”, nhưng chiến lược thực tế vẫn giữ nguyên. [15]

Nhưng chính sách lật đổ của Hoa Kỳ có nhiều dạng. Trong năm 1982 nghiên cứu Mạng Lưới Khủng Bố Thực Sự trong phần về “Quyền tự nhiên được lật đổ của Hoa Kỳ”, [16] một bảng thống kê đã chính bày 12 loại lật đổ khác nhau được Hoa Kỳ dàn dựng tại 8 quốc gia Mỹ Latin và vùng Caribbe từ năm 1950 đến năm 1980. Bao gồm rất nhiều dạng bạo lực chống lại nhân dân và người nghèo, rất nhiều dạng mua chuộc, “tuyên truyền dối trá”, và trợ cấp trên quy mô lớn cho các ứng cử viên đối lập và phong trào phản kháng như các phong trào sinh viên và phụ nữ. Điều đó được tổng kết muộn hơn trong định nghĩa của Philip Agee về quy trình lật đổ đa cấp độ tại Ecuador trong đầu những năm 1960. Những quy trình đó được áp dụng ở Brazil (1964) và Chile (1973), và vẫn tiếp tục được sử dụng cho tới ngày nay - chúng ta kinh ngạc vì những thứ tương tự giữa giai đoạn đầu thời đại vàng của lật đổ và những thứ đang diễn ra hiện nay trong các mối đe dọa như Iran và Tây Tạng (miền tây Trung Quốc). [17] Nhưng điều đó diễn ở bất cứ đâu mà các hoạt động đội lốt chống lại “chủ nghĩa cộng sản lật đổ”, hiện nay chúng là một phần của “khuyến khích dân chủ”, “ngoại giao biến đổi”, “bảo vệ nhân quyền” và những thứ tương tự.

5. Quyền áp đặt trừng phạt: Quyền lực bá chủ không chỉ có quyền xâm lược, quyền khủng bố, quyền lật đổ mà còn có quyền áp đặt trừng phạt nên các mục tiêu, khiến cho nhân dân phải chịu đựng đau khổ, lãnh đạo của họ bị mất uy tín, thường xuyên trong hợp tác quốc tế. Liên bang Soviet, Cuba của Castro, Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1994, Nicaragua dưới thời Sadinista, Iran kể từ khi Shah bị lật đổ năm 1979, Lybia, Iraq sau cuộc xâm lược Iraq năm 1990, Liên bang Nam Tư từ năm 1992 (và nước cộng hòa Serbia cho tới nay), và Afghanistan dưới thời Taliban, tất cả đều là đối tượng cho sự trừng phạt của Hoa Kỳ. Nhưng cũng cần phải nói thêm là Hoa Kỳ và hầu hết các đối tác không bao giờ là đối tượng bị trừng phạt, ngay cả khi phạm vào những tội thuộc loại Nuremberg như xâm lược hay các tội chiến tranh nghiêm trọng khác. Tiêu chuẩn kép rất hiển nhiên.

Điều thần kỳ khác của tiêu chuẩn kép, không chỉ Israel không bao giờ bị trừng phạt đối với các vi phạm bất tận Hiệp Ước Geneva thứ tư bảo vệ thường dân trong các lãnh thổ bị chiếm đóng quân sự và trả thù tập thể người Palestine ở dải Gaza, nhưng từ năm 2006, “cộng đồng quốc tế” đã tham gia cùng trục Hoa Kỳ-Israel áp đặt trừng phạt đối với các nạn nhân bị cố ý bần cùng hóa, bị đói khát, bị cướp đoạt theo mọi cách. Theo lời của 8 nhóm hoạt động nhân đạo Anh, việc Israel bao vây Gaza đã biến 1,5 triệu người thành “nhân dân bị cầm tù”, vô hiệu hóa kinh tế của họ, phá hủy các cơ sở vật chất, làm hư hại các dịch vụ cơ bản như y tế và giáo dục. Hiện nay, ít nhất 80% người Palestine ở Gaza phải “phụ thuộc vào trợ cấp nhân đạo” để sống hàng ngày. Các nhóm trên báo cáo: “Chính sách của Israel tác động tới dân cư…không phân biệt và tạo thành sự trả thù tập thể…vi phạm luật nhân đạo quốc tế”. [18] Mô tả cuộc sống của người Palestine ở dải Gaza khi “bị bao vây”, báo cáo viên chuyên trách của Liên Hiệp Quốc John Dugard cho biết họ “là đối tượng của cuộc trừng phạt quốc tế nghiêm khắc nhất trong lịch sử hiện đại..lần đầu tiên những người trong lãnh thổ chiếm đóng bị đối xử như vậy…Israel đã vi phạm các nghị quyết chủ chốt của Hội Đồng Bảo An và Đại Hội Đồng về thay đổi lãnh thổ bất hợp pháp và vi phạm nhân quyền cũng như không thực hiện theo ý kiến tư vấn của Tòa Công Lý Quốc Tế năm 2004, mặc dù vậy họ không bị trừng phạt…Cần phải nhắc lại là các quốc gia phương Tây đã từ chối áp đặt trừng phạt kinh tế đối với Nam Phi để kêu gọi họ xóa bỏ chế độ apartheid làm tổn thương người da màu ở Nam Phi. Không có sự ưu ái nào được mở rộng cho người Palestine hay nhân quyền của họ”. [19] Nhưng chúng ta có thể hiểu được sự ngạc nhiên của báo cáo viên chuyên trách khi nhớ rằng nguyên lý thực sự của INWO là không bị trừng phạt vì các tội ác nghiêm trọng và được thưởng vì các hành vi tốt. Quyền lực, quyền lực trên hết, đó là nguyên tắc thống trị.

6. Quyền chống xâm lược: Quan điểm nổi bật trong báo cáo của John Dugard là trong mắt phương Tây thì người Palestine ở dải Gaza không có quyền chống lại các hoạt động xâm lược của Israel, mặc dù các cuộc tấn công đó dẫn đến chiếm đóng bất hợp pháp và quá trình thanh trừng sắc tộc tàn khốc. Trong hệ tư tưởng phương Tây, người Palestine tấn công Israel, nếu không là “xâm lược” thì cũng là một dạng “khủng bố” không thể tha thứ, phản kháng bất hợp pháp, và họ đáng phải gánh chịu bất cứ thứ gì khốc liệt mà Israel sử dụng để trả thù tập thể ở Gaza. Trong một thông cáo công bố đầu tháng tư, Tổng thư ký Sáng Kiến Quốc Gia Palestine và nghị sĩ Quốc Hội Mustafa Al-Barghouthi ghi nhận rằng kể từ hội nghị Annapolis số lượng các cuộc tấn công tăng lên 300%, “riêng khu vực Bờ Tây là 46%”, các cuộc tấn công vào Bờ Tây cho thấy mục tiêu thật sự của Israel “không có liên quan gì đến các vụ tấn công bằng rocket của lực lượng kháng chiến Palestine vào dải Gaza”. Tính đến đầu tháng tư, Israel đã thả 788 tù nhân Palestine kể từ hội nghị Annapolis, nhưng họ lại bắt giam 2175 tù nhân mới; tăng thêm số lượng các điểm kiểm soát ở Bờ Tây, và tiếp tục xây dựng bức tường ngăn; điều quan trọng nhất là tiếp tục gia tăng số lượng các khu định cư Do Thái ở Bờ Tây. [20] John Duguard thậm chí đã so sánh các vụ đánh bom tự sát và bắn rocket Quassam của người Palestine với hoạt động kháng chiến chống phát xít Đức tại các quốc gia châu Âu thời thế chiến thứ II. “Ý thức cộng đồng…thúc đẩy”, Dugard lập luận, “đó là sự khác biệt giữa hành động khủng bố mất trí…và hành động trong chiến tranh giải phóng quốc gia chống lại chế độ thuộc địa, chế độ apartheid hay chiếm đóng quân sự…hậu quả đau thương không thể tránh khỏi của chế độ thuộc địa, chế độ apartheid hay chiếm đóng. Lịch sử luôn tái hiện những ví dụ chiếm đóng quân sự sẽ bị phản kháng bằng bạo lực…Điều đó là lý do khiến cho sự chiếm đóng cần phải nhanh chóng chấm dứt. Trước khi đó thì không thể hy vọng có hòa bình và bạo lực sẽ tiếp diễn”. [21] 

Các cuộc tấn công qua biên giới mà nước thực hiện không có quyền xâm lược - Việt Nam ở Cambodia, Iraq ở Kuwait - nạn nhân của những vụ tấn công bất hợp pháp có quyền kháng chiến và cộng đồng quốc tế đổ xô vào cứu trợ. Trái lại, những nước chống lại các cuộc tấn công từ các quốc gia có quyền xâm lược - Israel xâm lược Lebanon 1982 và 2006, Hoa Kỳ và liên minh tấn công và xâm lược Nam Tư, Afghanistan và Iraq suốt mười năm qua - không có quyền phản kháng, và sự phản kháng của họ được coi là “khủng bố”. Ngay cả khi chỉ hoạt động tại Lebanon, Hezbollah bị tuyên bố là tổ chức “khủng bố” được một nhà nước tài trợ cho chủ nghĩa khủng bố hỗ trợ, đó là Iran. Trước cuộc xâm lược định cư vào tháng 8 năm 2006, lực lượng mũ nồi xanh của Liên Hiệp Quốc đã triển khai ở Lebanon nhanh hơn ở Israel, thậm chí ngay cả khi Israel đã xâm lược Lebanon; lý do của Liên Hiệp Quốc là triển khai để ngăn chặn lực lượng Hezbollah và bảo vệ biên giới phía bắc của nước xâm lược. [22] Tương tự, kháng chiến chống lại cuộc xâm lược-chiếm đóng Iraq của Hoa Kỳ được gọi là “phản loạn” trong các cuộc đối thoại ở thủ đô các nước phương Tây chủ chốt, nhưng không phải ở các nước đang bị quân đội xâm lược chiếm đóng. Trong lời khai trước Quốc Hội Hoa Kỳ vào đầu tháng tư, tướng David Petraeus định nghĩa “bản chất tự nhiên của các xung đột” tại Irag là “cạnh tranh giữa các sắc tộc và giữa các cộng đồng phe phái về quyền lực và tài nguyên”, các lực lượng cạnh tranh bao gồm “khủng bố, phản loạn, quân sự cực đoan, và các băng đảng tội phạm”, cái gọi là “Al Qaeda ở Iraq”, Syria, và các “nhóm đặc biệt” mà Bộ Chỉ Huy Trung Tâm Hoa Kỳ khẳng định là hoạt động theo lệnh của Iran [23] Bởi vì “bản chất tự nhiên của xung đột” loại trừ bất cứ nguyên nhân trực tiếp nào từ quốc gia có quân đội xâm lược Iraq, chiếm đóng lãnh thổ, và hiện giờ đã là sáu năm đàn áp dã man phong trào phản kháng chống lại sự chiếm đóng ấy, không có bất cứ sở chỉ huy nào coi đó là vấn đề. Cộng đồng quốc tế khẳng định quyền của kẻ xâm lược đặc biệt này là được phép đàn áp phong trào phản kháng với bất cứ công cụ nào. Quyền phá hủy một đất nước để bảo vệ nó là sự kết hợp giữa quyền xâm lược và phủ nhận quyền chống xâm lược.

7. Quyền tự vệ: Mục tiêu của kẻ thống trị không có quyền tự vệ. Khi nước Guatemala nhỏ bé vào năm 1953-1954 và Nicaragua vào những năm 1980, bị Hoa Kỳ đe dọa tấn công, yêu cầu vũ khí từ khối Soviet, đã khiến cộng đồng chính trị và truyền thông Hoa Kỳ phẫn nộ và hoảng loạn. Điều đó cho thấy các quốc gia bị đe dọa và việc tìm kiếm vũ khí của họ không phải là tự vệ hợp pháp, đó là sự đe dọa đối với người khổng lồ đáng thương và các quốc gia láng giềng của những nước kia. Tương tự, với Iran trong danh sách mới đây của Hoa Kỳ về những nước cần xử lý, mặc dù bị bao quanh bởi quân đội Hoa Kỳ thù địch và bị cả Hoa Kỳ và Israel đe dọa công khai, quyền tự vệ của họ bị bãi bỏ. Dưới sự thúc ép của Hoa Kỳ, Hội Đồng Bảo An đã thiết lập 3 vòng trừng phạt Iran về chương trình hạt nhân hợp pháp, và Iran rõ ràng là không thể chống lại vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ và Israel với bất cứ vũ khí nào họ có - mặc dù đang bị đe dọa tấn công tức thì, không có bất cứ phân tích nghiêm chỉnh nào cho thấy Iran có vũ khí hạt nhân. Nói ngắn gọn, họ không có quyền tự vệ.

Hoa Kỳ và Israel có thể vũ trang tới tận chân răng và đe dọa gây chiến tranh để đảm bảo nhu cầu “an ninh” và thực hiện quyền tự vệ. Nhưng các mục tiêu của họ không được phép có những quyền hay nhu cầu hợp pháp. Như Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-Moon phát biểu trong cuộc họp khẩn cấp của Hội Đồng Bảo An và ngày 1 tháng 3: “Tôi lên án các vụ tấn công bằng rocket của người Palestine, và kêu gọi chấm dứt ngay lập tức các hành vi khủng bố này…Trong khi khẳng định quyền tự vệ của Israel, tôi lên án việc sử dụng vũ lực không kiềm chế và quá mức cần thiết khiến cho nhiều thường dân bao gồm cả trẻ em bị chết và bị thương. Tôi kêu gọi Israel hủy bỏ các cuộc tấn công đó.”[24] Ở đây chúng ta lưu ý là tuyên bố đó được đưa ra bốn ngày sau cuộc tấn công khủng khiếp của Lực Lượng Phòng Vệ Israel vào dải Gaza, để lại khoảng 120 xác chết người Palestine, 60 người bị giết chỉ trong một ngày, trong đó có 39 thường dân. [25] Ban Ki-Moon đề cập một cách hết sức thận trọng tới cuộc tấn công đẫm máu và bất hợp pháp của Israel vào dải Gaza với cụm từ bổ sung “khẳng định quyền tự vệ của Israel”. Đối với kẻ thống trị, đối tác ưa thích của kẻ thống trị chỉ tự vệ.

8. Quyền chế tạo vũ khí hạt nhân: Hoa Kỳ và các quyền lực lớn khác tận hưởng quyền sở hữu vũ khí hạt nhân, cũng như bất cứ quốc gia nào được Hoa Kỳ chấp nhận (tất nhiên là Israel, ngoài ra còn có Ấn Độ và Pakistan). Nhưng đối với các mục tiêu như Iran hay Bắc Triều Tiên, Hoa Kỳ phủ nhận quyền sở hữu vũ khí hạt nhân của họ; đặc biệt là trường hợp Iran, Hoa Kỳ thậm chí từ chối quyền hợp pháp của Iran theo Hiệp Ước Không Phổ Biến Vũ Khí Hạt Nhân (NPT) là được làm giàu Uranium cho “các mục tiêu hòa bình mà không bị bất cứ sự phân biệt đối xử nào”. [26] Thay vào đó, Hoa Kỳ sử dụng cáo buộc Iran không hợp tác toàn diện với Ủy Ban Quốc Tế Về Năng Lượng Nguyên Tử (IAEA) và quan trọng hơn, Iran không chịu từ bỏ các quyền của họ theo NPT, làm cơ sở cho việc xúc phạm, trừng phạt và cho kế hoạch tấn công lâu dài chống lại Iran cũng như cho khả năng “thay đổi chế độ”. Như Liên Hiệp Quốc và cộng đồng quốc tế đã từng hỗ trợ cuộc xâm lược Afghanistan và Iraq của Hoa Kỳ, họ tiếp tục cùng với kẻ thống trị phủ nhận quyền hạt nhân hòa bình của Iran và nuôi dưỡng môi trường đạo đức cho các cuộc xâm lược khác của Hoa Kỳ và Israel. [27]

Israel tất nhiên là không bao giờ bị bất cứ trừng phạt nào, cho dù là từ chối tham gia NPT hay phát triển trái phép các vũ khí hạt nhân 40 năm trước đây.[28] Cho dù Hoa Kỳ từ chối nghĩa vụ NPT của họ để đàm phán “trong niềm tin chân thành vào các biện pháp hiệu quả nhằm chấm dứt cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân” và về “một hiệp ước giải trừ quân bị tổng thể và hoàn toàn” thì uy tín của họ cũng không ảnh hưởng, ngay cả trong việc kêu gọi các chính sách và sự trừng phạt các quốc gia khác vi phạm NPT ở mức độ thấp hơn.[29] Cũng giống như bất cứ thứ gì khác trong trật tự quốc tế, những quyền lực lớn hơn có cái quyền mà họ phủ nhận của những quyền lực nhỏ hơn, và họ làm vậy mà không hề bị coi là vi phạm các hiệp định hay luật lệ quốc tế.

9. Quyền coi nạn nhân thường dân của họ là xứng đáng với sự đồng cảm quốc tế: Cộng đồng thế giới kinh hoàng về vụ tấn công ngày 11.9 của Al Qaeda, cuộc tấn công đã giết hại gần 3000 người trong lãnh thổ Hoa Kỳ. Nhưng ngay cả một cuộc thảm sát nhỏ các công dân phương Tây, như vụ giết hại tám sinh viên tại học viện Do Thái Mercaz Harav ở Đông Jerusalem ngày 6 tháng 3, cũng được đưa tiêu đề trang nhất với sự căm phẫn cực độ. Từ “thảm sát” thường xuyên được dùng cho các sự kiện đó. Cuộc tấn công của một tay súng Palestine duy nhất vào các sinh viên trường dòng được ngài Ban Ki-Moon mô tả là “man rợ”, và theo các nói của George Bush là “tấn công dã man và độc ác vào thường dân vô tội đáng bị tất cả các quốc gia lên án”.[30] Trái lại, vụ trả thù bằng không lực sau ngày 11 tháng 9 của Hoa Kỳ đã giết hại hơn 3000 người Afghanistan, và chiến dịch “Hot Winter” kéo dài hai tuần (27.2-10.3) của Lực Lượng Phòng Vệ Israel đã giết hại 127 người Palestine ở dải Gaza, phần lớn trong số họ là thường dân không có vũ trang, bao gồm nhiều trẻ em, được xử lý rất nhẹ nhàng, không bị coi là “thảm sát” hay “dã man” và thường được xin lỗi là “thiệt hại ngoài ý muốn” và “nhầm lẫn đáng tiếc”. Thỉnh thoảng Israel bị chỉ trích vì “sử dụng vũ lực không kiềm chế và quá mức cần thiết” và nhắc nhở phải “kiềm chế tối đa”, nhưng họ không bao giờ bị lên án vì các vụ giết hại dã man và không phân biệt, các vụ giết hại được thực hiện với hệ thống mệnh lệnh rõ ràng và chắc chắn từ Văn Phòng Thủ Tướng tới các tướng lĩnh trong IDF cho tới các phi công điều khiển máy bay F-16 hay trực thăng Apache. “Có sự khác biệt rõ ràng giữa các vụ tấn công khủng bố bằng rocket nhằm vào dân thường và các hoạt động tự vệ”, người phát ngôn Ủy Ban An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ (NSA) Gordon Johndroe giải thích [31] - chỉ có rất ít đại diện của phương Tây không đếm xỉa đến sự khác biệt ấy, và chỉ khi sự nghiệp của họ bị nguy hiểm. Thậm chí trong trường hợp bi kịch hơn nhiều, ngoại trưởng Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc Madaleine Albright năm 1996 thú nhận trên đài truyền hình Hoa Kỳ về cái chết của “nửa triệu” trẻ em Iraq, kết quả việc trừng phạt của Hoa Kỳ-Anh-Liên Hiệp Quốc, là “đáng giá”, không chỉ không bao giờ đưa ra lời xin lỗi về vụ “thảm sát”-lời thú nhận ấy cũng hiếm khi được ghi nhận ở phương Tây. [32]

Chúng ta đang bàn luận về sự khác biệt căn bản giữa nạn nhân “đáng giá” và không “không đáng giá”, giữa “con người” và “không phải con người”, sự khác biệt đã cho phép phương Tây giết hại và tước đoạt của hàng triệu người dã man, mọi đen, mọi vàng, mọi Hồi giáo, và những người không phải da trắng phương Tây suốt hàng thế kỷ mà không hề bị ảnh hưởng chút mảy may nào tới đạo đức. [33] Đã từ lâu việc coi họ là mọi đen là không thể chấp được (nhưng mọi Hồi giáo vẫn xuất hiện thường xuyên), song mọi thứ đều ổn thỏa khi ghi nhận rằng “chúng ta không đếm xác” và thú nhận rằng tấn công trực tiếp vào các cơ sở dân sự - dẫn nước vào biển, nơi có những con cá khủng bố đang bơi - là các sự việc có thể chấp nhận được trong hoạt động quân sự. Sự phân chia cổ xưa giữa Chúng Ta và Họ được tiến hành đầy tự tin - chủ yếu là bằng sự im lặng hay áp dụng tiêu chuẩn kép - điều đó được công chúng bình thường hóa và không cảnh báo. Do vậy, có tiếng nói quan ngại về các nạn nhân thường dân ở Darfur, Zimbabwe và Tây Tạng, cả ba trường hợp đều là các lãnh thổ quốc gia nằm trong tầm ngắm của phương Tây; [34] trong khi quan ngại đạo đức về nạn nhân thường dân bị can thiệp một cách có hệ thống để không đề cập tới người dân Afghanistan, Iraq, Công Gô, Columbia, và Palestine, những nước đang bị phương Tây và đối tác của họ lạm dụng. 

10. “Quyền được tồn tại” (và quyền yêu cầu các mục tiêu thừa nhận “quyền được tồn tại của nước khác): Quyền được tồn tại là công cụ chống đỡ cho chính sách từ chối định cư có thỏa thuận với người Palestine của Hoa Kỳ và Israel, dẫn đến cuộc xung đột bị kéo dài, hậu quả là biên giới không được phân định, và đất đai của người Palestine trở thành miếng mồi ngon cho sự xâm chiếm của Israel. Điều đó tạo cơ hội cho Israel và ân nhân của họ công nhận có điều kiện bất cứ tác nhân phi nhà nước nào mà họ chọn, như PLO, Hamas và Hezbollah và các quốc gia khu vực như Iran và Syria trước đó-bất cứ khi nào họ chọn, thì điều kiện là các bên đều phải công nhận “quyền được tồn tại của Israel”. Một phần trong các đàm phán là khẳng định sự tồn tại hữu hình của Israel có thể bị đe dọa nghiêm trọng, nhưng đó là điều ít bị từ chối nhất, bởi nó chỉ tạo ra mâu thuẫn nhỏ, điều dối trá của tuyên truyền nằm ở sự mập mờ: Israel có quyền tồn tại như một nhà nước Do Thái? Quyền được chấp nhận mà không đếm xỉa đến quyền được trở về tổ quốc của những người tị nạn phi Do Thái bị thanh trừng? Chúng ta tin rằng khái niệm tăm tối “quyền” chỉ là một cách để hạ thủ trước trong cuộc xung đột định cư giữa Israel và Palestine, khi mà Israel tiếp tục truất quyền của phần lớn mọi người bằng cách phủ nhận quyền được tồn tại của họ. Những vấn đề là không có gì đáng phải tranh cãi ở phương Tây, nơi quyền được tồn tại của Israel được khẳng định và nhu cầu làm việc đó là tự nguyện không cần bất cứ sự thúc đẩy nào, giống như một dạng kiểm tra về lòng trung thành, sự tuân thủ hay cơ chế kỷ luật. 

Kết quả của những quan sát này cho thấy sự thật là việc sử dụng cụm từ “quyền được tồn tại” hầu như chỉ được áp dụng cho Israel, không cho bất cứ quốc gia hay dân tộc nào khác trên thế giới. Để minh họa điều đó, chúng tôi tạo ra một loạt tìm kiếm trên cơ sở dữ liệu của Factiva và Nexis để xem xét về cụm từ “quyền được tồn tại của Israel” trong 31 tháng từ 1.12.2005 đến 31.3.2008; sau đó chúng tôi lặp lại tìm kiếm tương tự, nhưng thay bằng tên của 28 quốc gia khác nhau vào vị trí từ “Israel”. (Ví dụ “quyền được tồn tại của Palestine”, “quyền được tồn tại của Pháp”, và tương tự.) Khi tìm kiếm trên phân loại toàn diện nhất, phân loại “Tất cả các nguồn”, chúng tôi tìm thấy 8689 mục đề cập đến cụm từ “quyền tồn tại của Israel” trong khi chỉ có 15 mục đề cập tới “quyền được tồn tại của Palestine” và 7 mục đề cập tới “quyền được tồn tại của dân tộc Palestine”. Sử dụng cơ sở dữ liệu Nexis để tìm kiếm nội dung trên tờ New York Times cũng cho kết quả một chiều tương tự: Trong khi có 120 mục đề cập tới “quyền được tồn tại của Israel”, thì không có bất cứ mục nào trong kho dữ liệu của tờ New York Times đề cập tới “quyền được tồn tại’ của bất cứ quốc gia nào trong số 28 quốc đã nêu.

Điều đó có nghĩa là quyền được tồn tại chỉ liên quan tới nhà nước được trang bị vũ khí hạt nhân và được Hoa Kỳ bảo vệ, đó là nhà nước Israel, không bất cứ quốc gia hay dân tộc hay chủng tộc nào khác? Mặt khác, quyền được tồn tại của Palestine là sự thật - thậm chí chúng ta có thể nói là vấn đề sống còn, cũng như Israel đã từ chối công nhận sự tồn tại của quốc gia Palestine suốt sáu thập kỷ qua, chỉ công nhận nhà nước Palestine với biên giới được phân định rõ ràng. Sự thiên lệch mang tính cấu trúc trong bằng chứng đã đạt đến chiều sâu. 

Kết luận: Quyền có dân chủ thực chất hay dân chủ trò hề?

Sự thống nhất các nguyên lý của Trật Tự Thế Giới Đế Quốc Mới cho thấy sự suy giảm trên toàn cầu của dân chủ thực chất, tầng lớp tinh hoa chính trị toàn cầu đã có thể làm cái mà họ muốn để phục vụ cho lợi ích của họ - bộ ba thần thánh của chương trình tân tự do, quân sự hóa và thực thi quyền lực - đang đối đầu phổ biến với bộ phận dân chúng bị cai trị. Một tuyên bố bi kịch trong chương trình đối thoại giữa phóng viên Martha Raddatz của ABC- TV New và phó tổng thống Dick Cheney. Phó tổng thống được hỏi nghĩ gì khi hai phần ba công chúng Hoa Kỳ cho rằng cuộc chiến Iraq là “không đáng để tấn công”, Cheney trả lời: “Thế à?” [35] Sự coi thường cái mà công chúng muốn và niềm tin phổ biến trong giới chính khách đang nắm quyền về sự lầm lẫn của công chúng - ngoại trừ công nhân, người tiêu dùng, và bộ phận mà phiếu bầu của họ chỉ được thu hoạch một lần mỗi kỳ bầu cử - là không thể rõ ràng hơn.

Tầng lớp tinh hoa coi thường sự đồng thuận tỏa ra khắp truyền thông Hoa Kỳ. Trong khảo sát ý kiến quan trọng được công bố hai ngày sau cuộc đối thoại Raddatz - Cheney (sự thật là cuộc đối thoại của họ nhằm nhấn mạnh kết quả khảo sát), 77% người trả lời Hoa Kỳ đồng ý với điều 21 của Tuyên Ngôn Phổ Quát về Nhân Quyền rằng “ý chí của nhân dân [phải] là cơ sở cho quyền lực của chính quyền”. Một tỷ lệ cao đặc biệt 94% người được hỏi cho rằng chính phủ Hoa Kỳ “phải chú ý tới ý kiến của dân chúng khi ra quyết định”. Nhưng khi được hỏi rằng Hoa Kỳ bị “một nhóm nhỏ có lợi ích lớn điểu hành vì lợi ích của bản thân” hay “điều hành vì lợi ích của mọi người”, 80% đã trả lời là “một nhóm nhỏ có lợi ích lớn”. [36] Do được thực hiện trong năm bầu cử tổng thống, và dội gáo nước lạnh vào ý nghĩ của người Mỹ rằng họ sở hữu đời sống chính trị, nên kết quả khảo sát đã không được truyền thông đưa tin, trái lại một khảo sát cũng tương tự của chính hãng đó tại sáu quốc gia trên thế giới hỏi ý kiến mọi người về Trung Quốc đã được đưa tin rộng rãi.[37]

Công chúng Hoa Kỳ thù địch với cuộc xâm lược-chiếm đóng Iraq ngay cả trước khi cuộc chiến nổ ra, [39] và vài năm sau các khảo sát cho thấy phần lớn công chúng Hoa Kỳ có sự khích lệ kịp thời, rút quân hoàn toàn, [40] và giảm vai trò của toàn cầu của Hoa Kỳ, đặc biệt là sự sẵn sàng sử dụng quân sự; [41] nhưng những điều đó hoàn toàn không có tác động tới chính sách của Hoa Kỳ, cả đảng Dân chủ cũng như đảng Cộng hòa đều không đáp ứng cái mà các cử tri muốn. Các khảo sát ở Iraq cho thấy phần lớn người dân muốn Hoa Kỳ rút quân, [42] nhưng một lần nữa lại không có tác động tới chính sách của Hoa Kỳ hay nhận được sự đáp ứng của các lãnh đạo được coi là của các quốc gia dân chủ tại châu Âu và nơi nào đó khác, họ không gây ra bất kỳ sức ép nào để bắt những kẻ xâm lược chiếm đóng phải kết thúc.

Đã từ lâu công chúng Hoa Kỳ rất muốn thấy một ngân sách quân sự nhỏ hơn, chi tiêu cho cơ sở hạ tầng lớn hơn và nhiều nỗ lực hơn cho các giải pháp ngoại giao cũng như tập thể trong các vấn đề quốc tế. Một khảo sát vào năm 2007 cho thấy 73% công dân Mỹ sẽ ủng hộ một hiệp ước phá hủy tất cả vũ khí hạt nhân, một ý kiến đối lập với chính sách dưới thời tổng thống Bush (mà đảng Dân chủ đã không đối lập một cách rõ ràng). [43] Để duy trì nguyên tắc bất chấp sự đồng thuận của tầng lớp bị thống trị mà giai cấp thống trị vẫn sử dụng, chính quyền Hoa Kỳ tiếp tục theo đuổi các vũ khí hạt nhân thế hệ tiếp theo, và làm bất cứ điều gì trong khả năng để ngăn chặn các yêu cầu giải trừ vũ trang của NPT ngay cả khi chúng xuất phát từ các diễn đàn đa phương. Trên phạm vi quốc tế cũng tương tự, ý kiến của công chúng dường như chỉ có tác động nhỏ tới những người làm chính sách, những người đã gia nhập vào cùng với những kẻ cai trị của Trật Tự Thế Giới Đế Quốc Mới. Một loạt các khảo sát trong phạm vi nước cộng hòa Séc suốt 16 tháng qua cho thấy một đa số thường xuyên (đôi khi đạt tới mức 75%) phản đối việc đặt bất cứ thành phần nào của chương trình phòng thủ tên lửa Hoa Kỳ trên lãnh thổ của họ [44]. Nhưng chính quyền Séc đã nhanh chóng chấp nhận, và thủ tướng Mirek Topolanek phản đối mọi lời kêu gọi trưng cầu dân ý về vấn đề này; theo lời của nhà phân tích Philip Coyle, “quan chức chính quyền Séc thậm chí đã nói rằng quyết định đặt các radar là quá quan trọng để đưa ra cho người bỏ phiếu”. [45] Kịch bản tương tự đã diễn ra ở Ba Lan với đa số người Ba Lan nhất quán phản đối sự tham gia của quốc gia vào chương trình phòng thủ tên lửa Hoa Kỳ, còn thủ tướng Donald Tusk cũng đã từ chối đưa ra trưng cầu dân ý về vấn đề này. “Sự thật nghiệt ngã”, Tusk giải thích, “sẽ không có các quyết định mang tính quân sự được chấp nhận bằng phổ thông đầu phiếu”. [46] Công chúng ở những nước lớn nhất châu Âu cũng phản đối chương trình phòng thủ tên lửa của Hoa Kỳ, với số nhiều ở Anh (44%) và Ý (49%), đa số rõ ràng ở Pháp (58%), Tây Ban Nha (61%), Đức (71%). [47] Trong mỗi trường hợp, lãnh đạo của các thành viên NATO ủng hộ chương trình – có thể nói là chống lại ý kiến của công chúng nước họ. Tương tự ở Canada, cuộc khảo sát ý kiến công chúng mới đây nhất cho thấy 59% không đồng ý với quyết định của Nghị viện mở gia hạn nhiệm vụ của họ tại Afghanistan thêm 3 năm. Khoảng 70-80% người Ba Lan phản đối chính quyền tham gia vào cuộc chiến của NATO ở Afghanistan; Tusk cũng phản đối mạnh mẽ sự can dự trước khi ông ta được bầu, nhưng đã chuyển sang ủng hộ khi đã chắc chắn thắng cử. Một cuộc khải sát ở Pháp cho thấy 68% phản đối quyết định của tổng thống Nicolas Sarkozy gửi thêm nhiều lính Pháp tới Afghanistan. [48]

Nói một cách ngắn gọn, sự củng cố các nguyên lý của Trật Tự Thế Giới Đế Quốc Mới dựa trên Hoa Kỳ và các đồng minh, đối tác cũng như tay sai của họ đang trở thành dân chủ giả tạo, tầng lớp tinh hoa cai trị tự do bất chấp công chúng của họ - kết quả là nhà nước thất bại. Điều này dựa trên sự bất công khủng khiếp và đang lớn dần lên một cách phổ biến, cả trong phạm vi một quốc gia cũng như giữa các quốc gia, tài phiệt hóa chính trị, xói mòn môi trường công cộng hợp hiến, người gác cửa cũng như dịch vụ vụ tuyên truyền của truyền thông ngày càng bị tập trung hóa, và công chúng do đó dễ dàng bị quản lý hơn bất chấp sự bất lợi của đám đông đang phải chịu đựng sự bất công và chính phủ ngày càng nguy hại hơn.

INWO không có vẻ là sẽ sớm biến mất bất cứ lúc nào, trừ khi nó tự tạo ra sự hủy diệt đối với bản thân. (Không có nghĩa là không thể, theo quỹ đạo của nó, khi “một ít thay đổi, và số đông nhận lấy sự tồi tệ”.) Nếu không, nó dường như sẽ không kết thúc cho tới khi phần lớn nhân loại ngưng lại để có thể quản lý, tổ chức tại nội địa cũng như quốc tế, và phản công.

Tài liệu tham khảo của tác giả:

[1] Elizabeth Becker, “Soviets Block U.N. Demand for Withdrawal From Cambodia,” Washington Post, January 16, 1979. Becker notes that “all nations but those from the Soviet Bloc agreed with the statement” made by the Australian Ambassador.

[2] See Ali al-Fadhily and Dahr Jamail, “Five Years On, Fallujah in Tatters,” Inter Press Service, April 14, 2008.

[3] See, e.g., “Abed Rabbo Street, East Jabaliya,” Narratives Under Siege (6), Palestinian Center for Human Rights, March 4, 2008; and Mohammed Omer, “What I saw in Jabaliya,” New Statesman, March 6, 2008.

[4] See House Resolution 951 (“Condemning the ongoing Palestinian rocket attacks on Israeli civilians”), March 5, 2008. And for a member-by-member breakdown of the roll call vote, see House Roll Call #93, March 5, 2008. The lone Representative to vote against HR 951 was the Texas Republican and former presidential candidate Ron Paul.

[5] According to the New York Times, “During the first 17 months of the first intifada [1987-],...roughly one Israeli died for every 25 Palestinians killed.” (James Bennet, “Mideast Balance Sheet,” March 12, 2002.) Data provided by B’Tselem shows that from the start of the second intifada on September 29, 2000 through March 31, 2008, the ratio of Palestinians killed by Israelis to Israelis killed by Palestinians is 4.6 - 1, while the same ratio spiked up to 21 - 1 during the recent four-month period between Dec. 1, 2007 and March 31, 2008. (See “Fatalities,” B’Tselem, Sept. 29, 2000 - March 31, 2008, basing our calculation on the first four categories of data represented there.) According to Hamas’ Mahmoud al-Zahar, “in 2007 alone the ratio of Palestinians to Israelis killed was 40 to 1....” (“No Peace Without Hamas,” Washington Post, April 17, 2008.) We believe that the very high level of Israeli military violence against the Gaza Palestinians since the staging of the “peace” conference at the U.S. Naval Academy in Annapolis, Maryland (Nov. 26-30, 2007), including large-scale attacks that appear to have been timed to coincide with the April 16-17 meetings in Cairo between former President Jimmy Carter and representatives of Hamas, shows the real meaning of Annapolis much better than the rhetoric that filled the air in late November.

[6] As York University Professor of International Law Michael Mandel argues convincingly:

Although “there is indeed a moral and legal difference between meaning to kill someone and killing someone accidentally,” we “can’t possibly judge the morality of collateral damage while leaving out the question of the war itself....It is the immorality and illegality of a war that makes collateral damage a crime. The real alternatives are to make war only when it is necessary and moral and legal, and not to make it when it is not. Then, if you take as much care as possible to avoid injury to non-combatants, nobody will have the right to criticize you when they are harmed, because their harm will be the responsibility of those who started the war...” (emphasis added). See How America Gets Away With Murder: Illegal Wars, Collateral Damage and Crimes Against Humanity (Ann Arbor, MI: Pluto Press, 2004), esp. “Collateral Damage,” pp. 46-56; here p. 49.

[7] Population flows in Kosovo prior to and during NATO’s 1999 bombing war correlated, not with a plan of ethnic cleansing and forced expulsion, but with strategic military factors, including the intensity of fighting, the operational presence of the KLA in the various theaters of combat, and the relative density of the national groups living in the areas being contested. Across Kosovo’s 29 municipalities, ethnic Albanians did not flee the territory uniformly. Nor were they alone—members of all ethnic groups fled areas where fighting took place. Municipalities in different parts of Kosovo where the KLA’s presence was thin saw relatively little fighting and therefore little refugee flow. This was particularly true prior to the start of NATO’s bombing war on March 24, 1999. See the report published by the OSCE, Kosovo/Kosova: As Seen, As Told. The human rights findings of the OSCE Kosovo Verification Mission October 1998 to June 1999, esp. Part III, Ch. 14, “Forced Expulsion,” pp. 146-162; and Part V, “The Municipalities,” pp. 226-585.

Also see the treatment of this matter in Noam Chomsky, A New Generation Draws the Line: Kosovo, East Timor and the Standards of the West (Verso, 2000), p. 114 ff. Chomsky summarized the work of former New York Times reporter David Binder, who “notes ‘a curiosity’ documented in the OSCE report: 46 percent of the Albanians left Kosovo during the bombing, along with 60 percent of the Serbians and Montenegrins. Thus, ‘proportionately more Serbs were displaced during the bombing, and they did not return to Kosovo’“ (p. 114).

Last, see the testimony of late British journalist Eve-Ann Prentice during the Defense’s phase of the trial of Slobodan Milosevic. Asked her opinion about the reasons why so many Kosovo Albanians fled the province during NATO’s bombing war, Prentice said, variously, “we were told many times that...ordinary civilian ethnic Albanians...had been told it was their patriotic duty to leave because the world was watching...and that anybody who failed to join this exodus was somehow not supporting the -- the Albanian cause....[T]hey had been told by KLA leaders that their patriotic duty was to join the exodus, was to leave Kosovo, to be seen to be leaving Kosovo.” (Testimony of Eve-Ann Prentice, Prosecutor v. Slobodan Milosevic (IT-02-54), February 3, 2006, pp. 47908 - 47909.)

[8] “Balkan Ghosts,” Editorial, New Republic, March 12, 2008.

[9] Achim Steiner et al., Sudan: Post-Conflict Environmental Assessment, UN Environment Program, 2007, esp. Ch. 3, Ch. 4, Ch. 5, and Ch. 15; here p. 329. This important report continues: “Although not a novel finding to those working in this field in Darfur, it is not commonly understood outside the region. Yet it has major implications for the prospects for peace, recovery and rural development in Darfur and the Sahel. Indeed, the situation in Darfur is uniquely difficult, but many of the same underlying factors exist in other parts of Sudan and in other countries of the Sahel belt. Darfur accordingly holds grim lessons for other countries at risk, and highlights the imperative for change towards a more sustainable approach to rural development” (p. 329). In published comments on the UN Environment Program’s findings, UN Secretary-General Ban Ki-moon noted that, “Almost invariably, we discuss Darfur in a convenient military and political shorthand—an ethnic conflict pitting Arab militias against black rebels and farmers.

Look to its roots, though, and you discover a more complex dynamic. Amid the diverse social and political causes, the Darfur conflict began as an ecological crisis, arising at least in part from climate change....It is no accident that the violence in Darfur erupted during the drought.” (“A Climate Culprit In Darfur,” Washington Post, June 16, 2007; also Julian Borger, “Darfur conflict heralds era of wars triggered by climate change, UN report warns,” The Guardian, June 23, 2007.) The contrast between these “underlying factors” and the Western chorus of denunciation of Khartoum for perpetrating “genocide” there could not be more stark. Also see David M. Cacarious Jr. et al., National Security and the Threat of Climate Change, CNA Corporation, April, 2007. This “blue-ribbon panel of retired admirals and generals” notes that “[s]truggles that appear to be tribal, sectarian, or nationalist in nature are often triggered by reduced water supplies or reductions in agricultural productivity.” It adds that the “situation in Darfur...had land resources at its root....Probably more than any other recent conflict, Darfur provides a case study of how existing marginal situations can be exacerbated beyond the tipping point by climate-related factors” (pp. 15-20).

Last, see the very important analysis by Mahmood Mamdani, “The Politics of Naming,” London Review of Books, March 8, 2007.

[10] See Jeff Halper et al., “18,000 Homes Destroyed by Israel since 1967,” Israeli Committee Against House Demolitions.

[11] John Dugard, Report of the Special Rapporteur of the Commission on Human Rights on the situation of human rights in the Palestinian territories occupied by Israel since 1967 (A/60/271), August 18, 2005, esp. the Summary and para. 51-57.

[12] See Gideon Levy, “With friends like these,” Haaretz , March 23, 2008.

[13] See, e.g., C.M. Woodhouse, New Ed., The Struggle for Greece 1941- 1949 (Chicago: Ivan R. Dee, 2003); Mark J. Gasiorowski and Malcolm Byrne, Eds., Mohammad Mosaddeq and the 1953 Coup in Iran (Syracuse: Syracuse University Press, 2004); and Stephen M. Streeter, Managing the Counterrevolution: The United States and Guatemala, 1954-1961 (Athens, OH: Ohio University Press, 2001).

[14] Michael McClintock, Instruments of Statecraft: U.S. Guerrilla Warfare, Counter-insurgency, and Counter-terrorism, 1940 - 1990 (New York: Pantheon Books, 1992), pp. 11-17. McClintock cites a New York Times article from December 7, 1947, about the ubiquity of the “enemy” (i.e., the Greek population), which bore the revealing title: “The Front in Greece is Everywhere” (n. 44, p. 466).

[15] David H. Petraeus and James N. Matthis, Counterinsurgency (U.S. Department of the Army, 2006), esp. Ch. 1, “Insurgency and Counterinsurgency,” pp. 1-21 - 1-24, where the terminological reorientation from the “Cold War” and counterinsurgency as countering “communism,” to the “War on Terror” and counterinsurgency as countering “terrorism,” is quite explicit.

[16] Edward S. Herman, The Real Terror Network: Terrorism in Fact and Propaganda (Boston: South End Press, 1982). See esp. “The U.S. Natural Right To Subvert,” pp. 132 - 137; and Table 3-5, “Forms of Subversion Engaged in by the United States in Eight Countries in Latin America and the Caribbean, 1950 - 1980,” p. 134.

[17] On possible U.S. Government sponsorship of terrorism-by-proxy inside Iran, see Borzou Daragahi, “Iran says U.S. aids rebels at its borders,” Los Angeles Times, April 15, 2008. And on the sudden prominence of protests around Tibet, see Michel Chossudovsky, “China and America: The Tibet Human Rights PsyOp,” Centre for Research on Globalization, April 13, 2008.

[18] See The Gaza Strip: A Humanitarian Implosion (March, 2008), a collaborative assessment by the U.K.-based Oxfam, Christian Aid, and six other organizations. Also see The Gaza Strip -- One Big Prison, B’Tselem, May, 2007.

[19] John Dugard, Report of the Special Rapporteur on the Situation of Human Rights in the Palestinian Territories Occupied Since 1967 (A/HRC/2/5), September 5, 2006, para. 70.

[20] “Barghouthi: Israeli violations and assaults increased since Annapolis,” Palestinian Information Center, April 5, 2008.—Here we see the irrelevance of the February 27 Qassam rocket strikes on Sderot that killed Roni Yichia to Israel’s overall policy objectives on the West Bank as well as the Gaza. On the West Bank, what Israel seeks is the completion of the separation wall and the expansion of Jewish settlements; how far the settlements will expand, and by how many in number, remain the only unanswered questions. Clearly, it is not the Qassam rocket strikes on southern Israel in late February that explain the increase in violent and repressive activity on the West Bank since the Annapolis conference was held in the final week of November. Also see David Rose, “The Gaza Bombshell,” Vanity Fair, April, 2008.

[21] John Dugard, Human Rights Situation in Palestine (A/HRC/7/17), UN Human Rights Council, January 21, 2008, para. 4.

[22] UN Security Council Resolution 1701 (S/RES/1701), August 11, 2006; “Security Council votes unanimously for an end to hostilities in the Middle East,” UN News Center, August 11, 2006.

[23] See General David H. Petraeus, “Report to Congress on the Situation in Iraq,” September 10-11, 2007.,” April 8-9, 2008, p. 2. (Also see the accompanying charts.). For an earlier example of the “Petraeus Doctrine” and its redefinition of counterinsurgency as “counter-terrorism,” see the General’s “Report to Congress on the Situation in Iraq.

[24] “Secretary-General’s statement to the Security Council on the situation in the Middle East,” March 1, 2008

[25] “Security Council, Secretary-General, alarmed by deadly violence in Middle East,” UN News Center, March 2, 2008.

[26] See Article IV.1, Treaty on the Non-Proliferation of Nuclear Weapons, March 5, 1970 (as posted to the website of the IAEA).

[27] See, e.g., Edward S. Herman and David Peterson, “The U.S. Aggression Process and Its Collaborators: From Guatemala (1950-1954) to Iran (2002-),” Electric Politics, November 26, 2007; and Siddharth Varadarajan, “The UN is escalating the Iran nuclear crisis,” The Hindu, March 5, 2008.

[28] See Avner Cohen, Ed., “Israel Crosses the Threshold,” National Security Archive Electronic Briefing Book No. 189, April 28, 2006.

[29] See Article VI, Treaty on the Non-Proliferation of Nuclear Weapons.

[30] “Statement attributable to the Spokesperson for the Secretary-General on today’s attack in Jerusalem,” March 6, 2008; “President Bush Condemns Terrorist Attack in Israel,” White House Office of the Press Secretary, March 6, 2008.

[31] Helene Cooper, “Gaza Pitfalls in Every Path,” New York Times, March 3, 2008.

[32] Madeleine Albright to Lesley Stahl, “Punishing Saddam,” 60 Minutes, CBS TV, May 12, 1996. Their exchange went exactly as follows: Stahl: “We have heard that a half a million children have died. I mean, that’s more children than died when--wh--in--in Hiroshima. And--and, you know, is the price worth it?” Albright: “I think this is a very hard choice, but the price--we think the price is worth it.”

[33] See John Ellis, The Social History of the Machine Gun (Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1986).

[34] For brief discussions these designer crises, see Roger Howard, “Where anti Arab prejudice and oil make the difference Gideon Levy, “Palestinians versus Tibetans--a double standard,” Haaretz”How come Zimbabwe and Tibet get all the attention?” The Guardian, April 17, 2008. , April 13, 2008; and Seumas Milne,,” The Guardian, May 16, 2007; Dan Glaister, “Not on our watch -- how Hollywood made America care about Darfur,” The Guardian, May 19, 2007;

[35] “Where Things Stand Milestone,” World News with Charles Gibson, ABC TV News, March 19, 2008. The topics under discussion were the U.S. war in Iraq, and American public opinion. The exchange between ABC News correspondent Martha Raddatz and Vice President Dick Cheney went exactly as follows:

Raddatz: “Let me go back to the Americans. Two-thirds of Americans say it’s not worth fighting. And they’re looking at the value gain versus the cost in American lives, certainly and Iraqi lives.” Cheney: “So?” Raddatz: “So? You’re not - you don’t you care what the American people think?” Cheney: “No, I think you cannot be blown off course by the fluctuations in the public opinion polls.”

[36] Steven Kull et al., American Public Says Government Leaders Should Pay Attention To Polls, World Public Opinion.org - Program on International Policy Attitudes, March 21, 2008.

[37] See David Peterson, “Worthy vs. Unworthy Opinion Surveys,” Z.Com, March 28, 2008.

[38] Marshall M. Bouton et al., American Public Opinion and Foreign Policy, Chicago Council on Foreign Relations - Program on International Policy Attitudes, 2002. Based on interviews conducted between June 1 and June 30, 2002, this careful study reported: “When asked in general terms, a strong majority of 75% favor using U.S. troops to overthrow Saddam Hussein’s government, with only 21% opposed. But in responses on another question that differentiates among alternative approaches, it becomes clear that multilateralism is essential to this support. Only 20% say the United States should invade Iraq ‘even if we have to go it alone’. Fully 65% say the United States should only invade Iraq ‘with UN approval and the support of its allies’, while 13% say that the United States should not invade Iraq in any case” (p. 27). Also see Figure 3 - 10, “Attitudes on Using Force in Iraq” (p. 27). Although conducted nine months prior to the March 2003 war, and at the start rather than the finish of a prolonged propaganda campaign that witnessed perhaps the most well-organized and sustained series of lies around a single topic in U.S. history, here we note the crucial difference that giving people an alternative can make to how they respond.

[39] See America’s Image Further Erodes, Pew Global Attitudes Project, March 18, 2003. Based on surveys in nine different countries. In only one country did a majority express support for the looming war: The United States (59%). In the other eight countries, the majorities expressing opposition were: Britain (51%), France (75%), Germany (69%), Italy (81%), Poland (73%), Russia (87%), Spain (81%), Turkey (86%).

[40] See, e.g., Economic Pessimism Grows, Gas Prices Pinch, Pew Center for the People and the Press, September 15, 2005, which reported the “most notable shift in public opinion about the situation in Iraq over the summer is increasing support for the idea of setting a timetable for troop withdrawal, from 49% in July to 57% today.” We believe a strong argument can be made that a majority of the U.S. public concluded early on that a prompt and complete U.S. withdrawal from Iraq would be the best course for their government to take. This can be seen in responses to questions that asked whether they believed the war had made the United States more safe or less safe, whether they believed launching the war was the right decision or the wrong decision, and the like. The U.S. government’s lies about the threat posed by Iraq’s weapons of mass destruction programs and Iraq’s ties to Al Qaeda and the events of 9/11 may have sunk their roots deeply into the captive American mind. But this is a much different matter than what Americans at the same time believed that their government should do about it.

[41] See Steven Kull et al., World Publics Reject U.S. Role as the World Leader, Chicago Council on Global Affairs - World Public Opinion.org, April 17, 2007, passim.

[42] See, e.g., Public Opinion in Iraq: First Poll Following Abu Ghraib Revelations, Coalition Provisional Authority, May 14-23, 2004. The CPA did everything it could to suppress the results of this early poll, and the results were barely reported in the United States. But they presented a “stark picture of anti American sentiment,” Associated Press reported, with “more than half of Iraqis” expressing the belief that “they would be safer if U.S. troops simply left.” (John Solomon, “U.S. poll of Iraqis finds widespread anger at prison abuse, worry about safety,” June 15, 2004.)

[43] See Steven Kull et al., American and Russian Publics Strongly Support Steps to Reduce and Eliminate Nuclear Weapons, World Public Opinion.org - Program on International Policy Attitudes, November 9, 2007, pp. 16-18.

[44] “U.S. missile shield politicized, poll says,” Agence France Presse, February 27, 2008.

[45] Philip E. Coyle, “Missile Defense and the Czech Republic,” The Defense Monitor, March / April, 2008, p. 6.2.

[46] “Poland’s PM rules out referendum on U.S. missile shield,” Poland Business Newswire, February 27, 2008.

[47] See John C. Freed, “Poll finds a broad desire to cooperate with Russia,” International Herald Tribune, March 28, 2008. Also see “Adherence to an American Anti-Missile Defence Project in Eastern Europe,” Harris Interactive Poll, p. 6.

[48] John W. Warnock, “Democracy and the Politics of War,” April 6, 2008 (as posted to the Act-Up-Saskatchewan website).