Showing posts with label Nga. Show all posts
Showing posts with label Nga. Show all posts

Sunday, November 2, 2014

Putin chỉ rõ nguy cơ chiến tranh

Lịch sử đang lặp lại theo đúng quy luật của nó. Nếu như trước đây giai cấp tư sản đã dựa vào nhà nước quốc gia dân tộc để đánh bại các lãnh chúa phong kiến xây dựng lên các quốc gia tư bản chủ nghĩa, thì giờ đây chính các quốc gia dân tộc đang ngày càng trở nên chật hẹp đối với giai cấp tư sản. Đã đến lúc giai cấp tư sản phải thanh toán các quốc gia dân tộc để mở đường cho một cấu trúc siêu quốc gia, cho một giai cấp tư sản thế giới. Các quốc gia dân tộc đang vỡ nát dưới sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, không phải vì chúng vô đạo đức hay tàn bạo, mà trước hết là vì chúng đã phá sản về mặt kinh tế. Một mặt các quốc gia dân tộc không còn có thể bảo vệ cho giai cấp tư sản khỏi sự thôn tính lẫn nhau về kinh tế, mặt khác chính các quốc gia dân tộc dưới sự thống trị của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bên cạnh việc phát triển sức sản xuất không ngừng lại đang lãng phí một cách vô độ các tài nguyên và lao động của quốc gia, sự lãng phí đó là nguồn nuôi dưỡng vô tận các phong trào cực đoan phản động nhất. Sự phá sản về kinh tế thể hiện ra thành sự phá sản về mặt chính trị khi các quốc gia dân tộc không ngừng đối đầu với nhau với quy mô ngày càng lớn và các lực lượng cực đoan phản động không ngừng gây ra các cuộc xung đột khu vực dữ dội. Trong cuộc đối đầu không thể tránh khỏi giữa chủ nghĩa tư bản và quốc gia dân tộc, giai cấp tư sản sẽ một lần nữa buộc phải đặt vũ khí vào tay giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản với vũ khí trong tay sẽ không đứng về phía đế quốc này để chống lại đế quốc kia, sứ mệnh của giai cấp vô sản là thanh toán chủ nghĩa tư bản đã phá sản hoàn toàn và xây dựng chủ nghĩa xã hội.


Để hiểu thêm về sự đối đầu giữa các đế quốc hiện nay, mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Putin points to growing war dangers" của tác giả Nick Beams. 

Putin chỉ rõ nguy cơ chiến tranh đang gia tăng 

Tổng thống Nga Vladimir Putin đã thẳng thắn cảnh báo các hoạt động của Washington, vi phạm các quy tắc đã chi phối quan hệ quốc tế kể từ khi thế chiến thứ II kết thúc, có thể dẫn đến chiến tranh. 

Tuyên bố của ông ta xuất hiện trong một bài diễn văn vào ngày 20 tháng 10 tại một cuộc mít-ting được Câu Lạc Bộ Thảo Luận Quốc Tế Valdai tổ chức ở khu nghỉ dưỡng mùa đông Sochi của Nga. Chủ đề của cuộc thảo luận, có sự tham gia của các nhà báo, chuyên gia về chính sách đối ngoại, và các học giả của Nga cũng như quốc tế, là Trật Tự Thế Giới: Quy Tắc Mới hay Cuộc Chơi không Quy Tắc 

Putin đã mở đầu, “công thức này mô tả chính xác điểm nút lịch sử mà chúng ta đạt tới hôm nay và sự lựa chọn mà tất cả chúng ta phải đối mặt … Sự thay đổi của trật tự thế giới – và những gì chúng ta thấy hôm nay là những sự kiện ở quy mô này – thường xuyên được xác nhận bởi, nếu không phải là chiến tranh và xung đột toàn cầu, thì cũng là các chuỗi xung đột sâu sắc ở quy mô khu vực”. 

Bài phát biểu của Puti bao gồm hàng loạt các lên án đối với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ kể từ khi kết thúc Chiến Tranh Lạnh. Ông ta nói, Hoa Kỳ đã tự tuyên bố là người chiến thắng, không thấy nhu cầu cần phải thiết lập “một cân bằng quyền lực mới, cấp thiết để duy trì trật tự và ổn định” và thay vào đó “tiến tới đẩy hệ thống vào mất cân bằng nghiêm trọng và sâu sắc”. 

Mặc dù vậy, điểm nhấn mạnh của Putin không chỉ là sự lên án đối với Hoa Kỳ mà cũng là hệ quả của việc Kremlin giải tán Liên Bang Soviet vào năm 1991 để khôi phục chủ nghĩa tư bản. Vào lúc đó, tất cả tầng lớp quan liêu chủ nghĩa Stalin đều nhất trí phủ nhận khái niệm chủ nghĩa đế quốc, coi đó là một điều hư cấu chính trị do Lenin và Đảng Bolshevik sáng tạo ra 

Kể từ đó, sự hình thành tầng lớp tư bản tài phiệt kinh doanh siêu giàu, xa lạ với nhân dân, cai trị một tập hợp các nước cộng hòa Soviet cũ dựa trên nền tảng của chủ nghĩa quốc gia dân tộc, đã tạo ra cho các quyền lực đế quốc NATO một mảnh đất màu mỡ để gieo trồng “cách mạng màu” và nội chiến sắc tộc. Điều đó dẫn đến cuộc đảo chính do Hoa Kỳ và Đức hậu thuẫn ở Ukraina vừa qua, đẩy Nga và NATO đến bờ vực chiến tranh. 

Putin kết nối các hoạt động của Hoa Kỳ với hành vi của những kẻ mới phất, “khi họ đột ngột kiếm được một tài sản lớn, trong trường hợp này là dưới dạng sự lãnh đạo và thống trị thế giới. Thay vì quản lý của cải của họ một cách khôn ngoan, tất nhiên là vì lợi ích của bản thân họ, tôi cho rằng họ đã gây ra nhiều điều rồ dại.” 

Trong thập kỷ qua, Putin nói, luật pháp quốc tế đã bị cưỡng bức phải thoái lui dưới hình thức của “chủ nghĩa vô chính phủ pháp lý”. Các quy định pháp lý đã bị thay thế bởi “sự diễn giải độc đoán và đánh giá thiên kiến.” Đồng thời, “kiểm soát toàn diện truyền thông toàn cầu đã tạo ra khả năng, nếu muốn, biến trắng thành đen và đen thành trắng.” 

Liên hệ với những sự tiết lộ về các chiến dịch của cơ quan tình báo Hoa Kỳ, tổng thống Nga nói “đại ca” đang chi “hàng tỷ dollar để theo dõi toàn bộ thế giới, bao gồm cả các đồng minh thân cận nhất”. 

Phê phán các hoạt động của Hoa Kỳ ở Trung Đông, Afghanistan và Ukraina, Putin nói sự áp đặt độc đoán đơn phương thay vì dẫn đến hòa bình và thịnh vượng, đã tạo ra các kết quả trái ngược. “Thay vì giải quyết các xung đột thì dẫn đến sự leo thang của chúng, thay vì chủ quyền và quốc gia ổn định thì chúng ta thấy sự mở rộng của hỗn loạn, và thay vì dân chủ thì những lực lượng rất đáng ngờ, từ phát xít mới cho đến cực đoan Hồi giáo được hỗ trợ.” 

Ở Syria, Hoa Kỳ và đồng minh của họ có những kẻ nổi loạn được vũ trang và cung cấp tài chính, cũng như cho phép họ thu nhận lính đánh thuê từ nhiều quốc gia khác nhau. “Hãy cho tôi hỏi rằng những kẻ nổi loạn lấy tiền, vũ khí và chuyên gia quân sự từ đâu? Tất cả mọi thứ đến từ đâu? Làm thế nào mà nhóm ISIL khét tiếng trở thành một nhóm đầy quyền lực, một lực lượng vũ trang căn bản?” 

Không có gì phải hoài nghi khi Washington và các đồng minh Châu Âu đã đẩy thế giới tới bờ vực chiến tranh bằng cách chống lưng cho những tay sai Hồi giáo Sunni bảo thủ có liên hệ với Al Quaeda ở Trung Đông, và lực lượng phát xít như du kích Right Sector ở Ukraina. 

Tuy nhiên, sự phê phán của Putin là trống rỗng và bất lực về mặt chính trị. Chính phủ của ông ta dựa trên các gã côn đồ và du côn chủ nghĩa quốc gia để kiểm soát các khu vực thuộc Nga bị chia rẽ bởi chiến tranh sắc tộc, như Chechnya và Bắc Caucasus, cũng như ủng hộ du kích phản động Shiite do Iran hậu thuẫn ở Iraq và khắp Trung Đông. Các bình luận của Putin rút cục phản ánh nỗ lực triển khai thỏa thuận với các bộ phận của tầng lớp thống trị ở Hoa Kỳ cũng như Châu Âu, vốn đang quan ngại sự tin cậy của Hoa Kỳ đối với Al Qaeda và phát xít Ukraina có thể quá rủi ro đối với chính sách. 

Putin thúc giục một sự thừa nhận lớn hơn đối với các lợi ích của Kremlin, cho rằng thời kỳ đơn cực dưới sự thống trị của Hoa Kỳ đã cho thấy chỉ có một trung tâm quyền lực không làm cho chính trị thế giới dễ điều khiển hơn. Điều đó đã mở ra con đường cho sự thổi phồng tự hào quốc gia, thâu tóm ý kiến công chúng và “để cho những kẻ mạnh bắt nạt và đàn áp kẻ yếu. Về căn bản, thế giới đơn cực đơn giản là công cụ biện minh cho chế độ độc tài đối với nhân dân và quốc gia”. 

Putin cảnh báo rằng nếu không có một hệ thống các hiệp ước và cam kết rõ ràng để quản trị quan hệ quốc tế, cùng với cơ chế quản lý và xử lý các tình huống khủng hoảng, “hội chứng vô chính phủ toàn cầu sẽ gia tăng không thể tránh khỏi.” 

“Nhiều quốc gia không thấy con đường nào khác để đảm bảo chủ quyền của họ ngoài việc với lấy những quả bom của họ. Điều này cực kỳ nguy hiểm”, ông ta nói thêm. 

Những bình luận thẳng thắn của người đứng đầu một quốc gia trong số các quốc gia chính yếu sở hữu vũ khí hạt nhân là sự cảnh báo sâu sắc đối với giai cấp lao động. 

Mặc dù vậy, trong sự leo thang quân sự này, nguy cơ chủ yếu đối với giai cấp lao động quốc tế là chủ nghĩa sô vanh phản động Nga của chính quyền Putin. Thù địch mọi lời kêu gọi tình cảm chống chiến tranh của tầng lớp lao động quốc tế, mà họ sợ là sẽ gây nguy hiểm cho của cải phi nghĩa của họ, chính quyền Putin đã phản ứng với cuộc khủng hoảng Ukraina bằng cách gia tăng chủ nghĩa quân phiệt Nga và hoan nghênh chính quyền kiểu Sa hoàng. 

Trong bài phát biểu vào ngày 1 tháng 8 tại lễ kỷ niệm 100 năm thế chiến thứ I ở đồi Poklonnaya của Moscow, Putin đề cao cuộc tấn công “huyền thoại” của tướng Sa hoàng Aleksei Brusilov và lên án những người Bolshevik cũng như Cách Mạng Tháng Mười. Ông ta nói: “Chiến thắng đã bị đánh cắp khỏi đất nước. Chiến thắng bị đánh cắp bởi những kẻ kêu gọi sự bại trận của tổ quốc và quân đội, gieo mầm bất hòa cho trong nước Nga, và bất thình lình giành quyền lực, phản bội các lợi ích quốc gia”. 

Chủ nghĩa quốc gia phản cách mạng Nga sẽ phá sản hoàn toàn khi đối mặt với sự bùng nổ mới của khiêu khích và chiến tranh đế quốc. 

Bình luận mới nhất của Putin dường như được thúc đẩy, ít nhất là một phần, bởi nỗi sợ hãi đối với việc giá dầu toàn cầu sụt giảm nhanh chóng, cùng với các biện pháp trừng phạt được áp đặt ngoan cố của Hoa Kỳ, sẽ phá hủy kinh tế Nga. 

Giá dầu giảm, từ khoảng 100 dollar xuống 80 dollar/ thùng, có thể làm giảm 2 điểm phần trăm trong tổng sản phẩm quốc nội của Nga và ảnh hưởng nghiêm trọng tới ngân sách của chính quyền, do đó gây mất ổn định chính quyền Putin, vốn dựa trên một mạng lưới các tư bản tài phiệt hùng mạnh. 

Bất kể động cơ của bài phát biểu là gì, nguy cơ chiến tranh mà nó chỉ ra là có thực và đang gia tăng. Vấn đề được Putin công khai về vai trò của Hoa Kỳ không cần phải hoài nghi là sẽ được thảo luận sau những cánh cửa đóng kín tại các phòng họp chính trị ở các quốc gia chủ chốt. 

Tác động của giá dầu giảm đối với Nga đã cho thấy, những cẳng thẳng địa chính trị sẽ được thổi bùng lên bởi cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng hơn và khuynh hướng dẫn đến giảm phát cũng như trì trệ kinh tế khắp thế giới. 

Nguy cơ chiến tranh mà Putin mô tả được nhấn mạnh trong các bình luận về hội thảo của một chuyên gia Hoa Kỳ về Nga, Christopher Gaddy của viện Brookings. Hai ngày trước khi Putin phát biểu. Gaddy nhắc đến "Người Mộng Du", một cuốn sách về nguồn gốc thế chiến thứ I của nhà sử học Christopher Clark, và đưa ra sự tương đồng với tình hình hiện tại. 

“Tôi rất sợ rằng .. có các thành phần mộng du trong chính sách của những người chơi chủ chốt trên thế giới ngày nay”, Gaddy nói, đề cập rằng các biện pháp trừng phạt đối với Nga được Hoa Kỳ thiết kế và lôi kéo bởi một nhóm nhỏ với mục tiêu không rõ ràng cũng như kết quả đáng ngờ. 

Friday, October 31, 2014

Lầu Năm góc cáo buộc "Nga xâm lược" NATO và trò lố của báo chí Việt Nam

Bạn đọc muốn biết về việc máy bay Nga đã làm gì hay Lầu Năm Góc cáo buộc Nga xâm lược ra sao, xin mời đọc bản dịch bài viết "Pentagon claims “Russian aggression” against NATO" của tác giả Patrick Martin.

Lầu Năm Góc cáo buộc "Nga xâm lược" NATO

Chính quyền Obama và Lầu Năm Góc đang nạp nhiên liệu cho căng thẳng quân sự với Nga sau cuộc bầu cử nghị viện Ukraina ngày 26 tháng 10, họ tuyên bố rằng các chuyến bay của một số lượng nhỏ chiến đấu cơ quan vùng biển quốc tế vào thứ tư đã tạo thành “khua gươm chính trị” và thậm chí là “xâm lược của Nga”.

Sự mô tả tiếp theo được tướng lĩnh hàng đầu trong quân đội Hoa Kỳ, tổng tham mưu trưởng Raymond Odierno, đưa ra trong cuộc phỏng vấn ngày thứ tư của CNN. Được biết là các chuyến bay chưa bao giờ xâm phạm không phận của bất cứ quốc gia nào, khẳng định của Odierno là sự kích động có chủ ý. Theo điều 5 của Hiến Chương NATO, “Sự xâm lược của Nga” đã tạo ra lý do hợp pháp cho một cuộc phản kích của quân đội Hoa Kỳ đối với nước sở hữu vũ khí hạt nhân. 

Theo các thông cáo báo chí được trụ sở NATO ở Bỉ cung cấp, có tổng cộng 4 chuyến bay của chiến đấu cơ Nga trên vùng biển Châu Âu trong ngày thứ ba và thứ tư. “Các chuyến bay có số lượng đáng kể của Nga phản ánh mức độ bất thường của hoạt động không lực trên bầu trời Châu Âu”, tuyên bố của NATO nêu rõ, mặc dù họ thừa nhận rằng các chuyến bay đó là trên vùng biển quốc tế và không xâm phạm không phận của bất cứ quốc gia nào.

Vào thứ ba, 7 chiến đấu cơ Nga rời căn cứ của họ ở Kaliningrad, một khu vực của Nga nằm xen kẹt giữa Ba Lan và Lít-va (trước đây là Konigsberg, thủ đô của Đông Phổ cho đến kết thúc thế chiến thứ II). Họ bay dọc theo bờ biển Lít-va, Latvia và Estonia vào vịnh Phần Lan, hạ cánh tại căn cứ ở Nga. Các chiến đấu cơ của Đức, Đan Mạch và Phần Lan đã theo dõi chuyến bay của Nga ở nhiều chặng. 

Phần Lan và Thụy Điển không phải là thành viên NATO, nhưng họ hợp tác chặt chẽ với NATO từ khi có cuộc đảo chính do Hoa Kỳ và Đức hậu thuẫn ở Ukraina đầu năm nay. Tháng trước Thụy Điển đã khẳng định hai máy bay Nga xâm phạm không phận của họ, và đầu tháng này hải quân Thụy Điển đã tìm kiếm suốt một tuần tàu ngầm Nga trong lãnh hải của họ trên vùng biển Baltic nhưng không thành công.

Vào thứ tư, 7 chiến đấu cơ Nga, tất nhiên là vẫn 7 chiếc đó, rời căn cứ ở miền bắc Nga và bay trở lại dọc theo bờ biển Baltic đến Kalinigrad. Họ bị chiến đấu cơ Bồ Đào Nha của NATO ở căn cứ tại Estonia và Lít-va theo dõi

Cũng vào thứ tư, 4 chiến đấu cơ Nga, hai máy bay ném bom và hay tiêm kích, bay từ miền nam Nga vào Biển Đen theo hướng Thổ Nhĩ Kỳ, ở đó họ bị hai chiến đấu cơ Thổ Nhĩ Kỳ theo dõi cho đến khi họ quay trở lại.

Một lần nữa vào thứ tư, 8 chiến đấu cơ Nga, bốn máy bay ném bom và bốn máy bay tiếp nhiên liệu, bay từ miền bắc Nga vào biển Na-uy, dọc theo bở biển Na-uy vào Biển Bắc và sau đó là Đại Tây Dương. Hai máy bay ném bom tiếp tục bay về phía tây và nam, vòng qua quần đảo Anh xa về phía bắc Bồ Đào Nha, trước khi trở lại Nga theo đường cũ. Chiến đấu cơ NATO từ Na-uy, Anh và Bồ Đào Nha đã theo dõi chiến đấu cơ Nga nhiều chặng.

Sự kiện được tường thuật tiếp theo biến thành một trường hợp nhận dạng lầm, khi chiến đấu cơ của Không Lực Hoàng Gia Anh hộ tống một máy bay do Nga sản xuất tới sân bay Stansted ở ngoại ô London vào thứ tư. Đó là một máy bay phản lực dân sự từ Latvia, hoàn toàn không có liên hệ với các cuộc tập trận của quân đội Nga.

Tờ Wall Street Journal, một trong những người phát ngôn hàng đầu của chủ nghĩa quân phiệt Hoa Kỳ, đăng tin rất sốt sắng về các hoạt động của Nga, trích dẫn bình luận của “một quan chức cấp cao chính quyền Obama”, để tăng ấn tượng, “Khuynh hướng gây rối với các sự kiện ngoài lãnh thổ được Nga gia tăng sử dụng cùng với đường ống của họ nhằm khua gươm chính trị, những cuộc xâm nhập thử nghiệm bằng đường không và đường biển của quân đội Nga đã trở nên đáng kể và trắng trợn”.

Tờ Journal cũng trích dẫn sự lưu ý của Odierno về “xâm lược của Nga”, và thực hiện một cuộc phỏng vấn với tổng thư ký mới được bầu của NATO, cựu thủ tướng Na-uy Jens Stoltenberg, người đã thúc giục tiếp tục gia tăng lực lượng quân sự của NATO ở Đông Âu, sát với biên giới Nga. 

Stoltenberg thảo luận về sự gia tăng quy mô lớn của NATO, bao gồm cả việc thành lập Lực Lượng Xung Kích, đơn vị NATO mang tên khiêu khích được thiết lập để đối phó căng thẳng đang bùng nổ với Nga sau cuộc đảo chính ở Ukraina.

Quan chức NATO nói, “Kế hoạch mà chúng tôi đồng ý là sự tăng viện lớn nhất trong phòng thủ tập thể của chúng tôi kể từ kết thúc Chiến Tranh Lạnh. Chúng ta có nhiều chiến đấu cơ hơn trên bầu trời – gấp 5 lần chúng ta có một năm trước đây. Chúng ta có nhiều chiến hạm hơn trên biển Baltic và Biển Đen, và chúng ta có một sự gia tăng quan trọng trong các khởi sự trên đất liền, tập trận và quân đội đóng quân luân chuyển ở các nước đồng minh phía đông”.

Stoltenberg giải thích thêm về đội quân phản ứng nhanh, Lực Lượng Xung Kích là “một phần của các yếu tố chỉ huy và kiểm soát sẽ có ở các đồng minh phía đông: các quốc gia vùng Baltic, Ba Lan, Rumania và Bulgaria. Những hạt nhân chỉ huy và kiểm soát này đóng vai trò quan trọng vì chúng sẽ gia tăng khả năng tăng viện của chúng ta. Và thêm vào đó, tập kết trước các trang thiết bị và quân nhu sẽ gia tăng khả năng tăng viện nhiều hơn”.

Trong khi chính quyền Obama, NATO và truyền thông nô lệ của Hoa Kỳ mô tả Nga là kẻ xâm lược, các chuyến bay quân sự như được mô tả vào thứ hai và thứ ba không hề khiêu khích cũng hay bất hợp pháp chiếu theo các luật lệ quốc tế. Chiến đấu cơ Nga không có bất cứ nỗ lực nào thách thức phòng thủ của NATO hay gây ra báo động. 

Đây là sự tương phản sắc nét trong thực tiễn Hoa Kỳ suốt Chiến Tranh Lạnh, khi Lầu Năm Góc thường xuyên can dự vào cái được gọi là các chiến dịch DE SOTO, mật hiệu được áp dụng cho các thử nghiệm xâm nhập không phận của Liên Bang Soviet, các nước khối Hiệp Ước Warsaw ở đông Âu, Trung Quốc, Bắc Việt Nam và Bắc Triều Tiên.

Các chiến dịch DE SOTO thường có sự tham gia của máy bay ném bom Hoa Kỳ giả định một cuộc tấn công vào các quốc gia mục tiêu, khiêu khích sự đáp trả của lực lượng phòng không, trong khi các máy bay tác chiến điện tử theo dõi và vẽ bản đồ vị trí của hệ thống radar cũng như các cơ sở khác phục vụ cho việc xác định mục tiêu trong tương lai. Hành động xấu xa nhất là cuộc tấn công giả định đối với hệ thống phòng thủ Viễn Đông của Soviet vào tháng 9 năm 1983, dẫn đến vụ chiến đấu cơ phòng không của Soviet bắn hạ máy bay KAL007 do nhầm máy bay dân dụng lạc đường là chiến đấu cơ Hoa Kỳ.

Các cáo buộc về những chuyến bay bất thường của quân đội Nga là một phần trong tuần Hoa Kỳ gia tăng sức ép đối với Nga. Vào thứ hai, bộ trưởng bộ quốc phòng Chuck Hagel nói chuyện qua điện thoại với bộ trưởng quốc phòng mới được bổ nhiệm của Ukraina, tướng Stepan Poltorak.

Theo người phát ngôn Lầu Năm Góc, “Bộ trưởng Hagel thảo luận với bộ trưởng Poltorak về những kiểu viện trợ an ninh mà Hoa Kỳ đang cung cấp nhằm xác định các yêu cầu của Ukraina”. Một Ủy Ban Hỗn Hợp Hoa Kỳ-Ukraina mới đây tổ chức buổi họp đầu tiên ở Kiev dựa vào các mối liên hệ giữa quân đội với quân đội, quan chức này cho biết. 

Vào thứ ba có các bản tin trên truyền thông Hoa Kỳ về việc các hackers ở Nga đã đột nhập vào mạng máy tính của Nhà Trắng đầu tháng này, dẫn đến một cuộc điều tra của FBI, Ủy Ban An Ninh Quốc Gia và Mật Vụ. Không có quan chức nào của chính quyền Obama xuất hiện trong các bản tin về sự cố đó, các bình luận nặc danh bài Nga được ưu tiên xuất hiện trên tờ Washington Post và nhiều tờ báo khác. 

Tờ Post cho biết vụ đột nhập nghi là của Nga gần đây vào năm 2008 “đã khuyến khích các nỗ lực thành lập Tư Lệnh Không Gian Mạng Hoa Kỳ, một tổ chức quân đội đảm nhiệm việc bảo vệ các hệ thống máy tính trọng yếu của quốc gia”, họ bổ sung thêm là “Khi được tổng thống hay bộ trưởng bộ quốc phòng chỉ đạo, Tư Lệnh Không Gian Mạng có thể thực hiện các chiến dịch tấn công”.

Vào thứ tư, Hagel mô tả Liên Hoan Ý Tưởng Washington, được tạp chí Atlantic tài trợ, phác thảo viễn cảnh mà tờ tạp chí mô tả là “ được sử dụng cho cuộc chiến bất tận”.

Hagel nói với phóng viên James Fallows, “Tôi nghĩ chúng ta đang sống ở một trong những thời điểm có tính chất ranh giới và lịch sử. Chúng ta đang nhìn thấy trật tự thế giới mới – hậu thế chiến thứ II, hậu sụp đổ của Liên Bang Soviet – đang được hình thành”. 

Khi Fallows hỏi Hagel, “Khi nào Hoa Kỳ sẽ thấy kết thúc của các cuộc chiến, đặc biệt là cuộc chiến đã kéo dài 13 năm ở Iraq và Afghanistan?” Câu trả lời của Hagel là rất ấn tượng, bạn đừng nín thở. 

“Điều mà chúng ta thấy ở Trung Đông với ISIS-ISIL đang đòi hỏi một nỗ lực ổn định, dài hạn”, ông ta nói. “Thật không may, tôi thấy những điều này tiếp tục ở ngoài đó, Jim. Tôi nghĩ chúng ta ở trong một thách thức dài hạn hơn bất cứ ai trong chúng ta có thể hy vọng. Nhưng đó là thế giới mà chúng ta đang sống, và chúng ta cần phải trung thực về điều đó”.

Sau đó ông ta liệt kê danh sách “tất cả các khuynh hướng khác – sự trỗi dậy của Trung Quốc, những gì Nga đã làm trong sáu tháng qua; thảm họa bệnh dich, Ebola là một ví dụ”, để minh họa cho những vấn đề sẽ đòi hỏi một số dạng vận động của quân đội Hoa Kỳ.

P/s: Nhân tiện mời bà con đọc bài viết trên xong thì xem hình ảnh dưới đây để thấy căn bệnh nặng của báo chí Việt Nam. NATO theo dõi máy bay Nga nhưng báo Việt Nam đầu độc người dân bằng cách đưa tin NATO chặn máy bay Nga. Chặn máy bay của nhau có nghĩa là đánh nhau to rồi!



Monday, October 27, 2014

Ukraina và Phát xít mới

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Ukraine and Neo-Nazis" của tác giả nổi tiếng William Blum, bài viết được đăng trên tạp chí ColdType số 87 tháng 10 năm 2014.

Ukraina và Phát xít mới

Kể từ khi cuộc biểu tình nghiêm trọng nổ ra ở Ukraina vào tháng hai, truyền thông chính thống phương tây, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, đã che dấu sự thật về nghi phạm thường trực – chế độ tam hùng Hoa Kỳ /Liên Minh Châu Âu /NATO – đứng cùng phe với Phát xít mới. Ở Hoa Kỳ điều đó hoàn toàn không được đề cập. Tôi chắc chắn rằng một cuộc khảo sát được thực hiện ở Hoa Kỳ về chủ đề này sẽ cho thấy sự lảng tránh phổ biến đối với hàng loạt các hoạt động của Phát xít mới, bao gồm công khai kêu gọi giết “Người Nga, Cộng Sản và Do Thái”. Nhưng những bí mật nhỏ bẩn thỉu đôi khi ló đầu ra khỏi bức màn che một chút.

Vào ngày 9 tháng 9, trang NBCnews.com đưa tin “Truyền hình Đức cho thấy các biểu tượng phát xít trên mũ sắt của binh lính Ukraina”. Truyền hình Đức đã đăng các hình ảnh của một người lính mang mũ sắt chiến đấu với “dấu hiệu SS” của đơn vị cảnh sát tinh nhuệ mặc đồng phục đen dưới thời Hitler. (Dấu hiệu là một ký tự của người Đức cổ). Một người lính khác mang hình chữ thập ngoặc trên mũ sắt.

Vào ngày 13, tờ Washington Post đăng tải các bức ảnh của một tiểu đội đang ngủ, thuộc tiểu đoàn Azov, một trong các đơn vị bán quân sự Ukraina đang tấn công những người ly khai thân Nga. Trên bức tường phía trên giường ngủ là một biểu tượng chữ thập ngoặc lớn. Không ngại ngần, tờ Post trích dẫn lời của trung đội trưởng cho rằng binh lính mang biểu tượng của chủ nghĩa cực đoan chỉ là một kiểu ý tưởng “lãng mạn”.

Mặc dù vậy, tổng thống Nga Vladimir Putin bị tất cả mọi người từ Hoàng tử Charles cho tới Công chúa Hillary so sánh với Adolf Hitler bởi vì đã sáp nhập Crimea vào Nga. Putin đã trả lời câu hỏi đó: 

Nhà cầm quyền Crimea đã dựa trên tiền lệ quen thuộc Kosovo, một tiền lệ mà các đối tác phương Tây đã tự tạo ra, với bàn tay của họ, có thể nói như vậy. Trong một tình huống hoàn toàn tương tự với Crimea, họ tách lãnh thổ Kosovo ra khỏi Serbia một cách hợp pháp, tuyên bố ở khắp nơi rằng không cần đến sự cho phép của chính quyền trung ương để đơn phương tuyên bố độc lập. Tòa án quốc tế của Liên Hiệp Quốc, dựa trên đoạn 2 của điều 1 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc đồng ý với điều đó, và trong quyết định vào ngày 22 tháng 7 năm 2010 đã ghi nhận điều sau đây, tôi trích dẫn nguyên văn: Không sự ngăn cấm nói chung nào có thể suy luận từ thực tiễn của Hội Đồng Bảo An liên quan đến tuyên bố độc lập đơn phương”.

Putin giống như Hitler được bao trùm bởi những câu chuyện về kẻ xâm lược Putin (Vlad Kẻ Xuyên Thủng). Trong bốn tháng truyền thông phương Tây đã giong trống về việc Nga xâm lược Ukraina. Tôi đề nghị đọc: “Sao Bạn Có Thể Nói Rằng Nga Xâm Lược Ukraina?” của Dmitry Orlov. Và hãy nhớ rằng NATO đang bao vây Nga. Hãy tưởng tượng Nga thiết lập các căn cứ quân sự ở Canada và Mexico, từ Đại Tây Dương tới Thái Bình Dương. Hãy nhớ lại xem căn cứ Soviet ở Cuba đã gây ra điều gì.

Hoa Kỳ có từng tạo ra các ví dụ xấu không? 

Kể từ ngày định mệnh 11 tháng 9 năm 2001, mục tiêu quan hệ công chúng hàng đầu của Hoa Kỳ là vô hiệu hóa ý tưởng kiểu như Hoa Kỳ nhận được điều đó là do hàng loạt các hoạt động xâm lược chính trị và quân sự của bản thân. Đây người hùng ưa thích của công chúng, George W. Bush, phát biểu một tháng sau ngày 11 tháng 9: 

“Tôi có thể trả lời thế nào khi tôi thấy ở một số nước Hồi giáo có lòng căm thù sâu sắc đối với Hoa Kỳ? Tôi sẽ nói với bạn điều mà tôi sẽ trả lời: Tôi ngạc nhiên. Tôi ngạc nhiên về sự hiểu lầm, cho rằng người ta ghét chúng ta bởi vì nước ta đáng như vậy. Tôi – giống như hầu hết người Mỹ, tôi không thể tin điều đó bởi vì tôi biết chúng ta tốt ra sao.” 

Cảm ơn George. Giờ hãy uống thuốc đi!

Tôi và những sử gia khác về chính sách đối ngoại Hoa Kỳ đã lưu trữ rất nhiều các tuyên bố của những kẻ khủng bố chống Mỹ, những người đã làm rõ rằng hành động của họ là để trả thù cho hàng thập kỷ can thiệp quốc tế kinh tởm của Hoa Kỳ. Nhưng quan chức Hoa Kỳ và truyền thông thường lảng tránh bằng chứng đó và trung thành với ý tưởng rằng những kẻ khủng bố chỉ đơn giản là độc ác và điên khùng vì tôn giáo; nhiều trong số chúng quả thực như vậy, nhưng không làm thay đổi sự thật chính trị và lịch sử.

Suy nghĩ của người Mỹ dường như sống động và lành mạnh. Ít nhất bốn con tin bị quân ISIL bắt ở Syria, trong đó có nhà báo Hoa Kỳ James Foley, đã bị nhấn nước trong khi bị giam cầm. Tờ Washington Post trích dẫn một quan chức Hoa Kỳ: “ISIL là một nhóm thường đóng đinh và chặt đầu người. Phỏng đoán rằng có bất cứ sự liên quan nào giữa sự tàn bạo của ISIL và hành động trong quá khứ của Hoa Kỳ thì thật nực cười và bổ sung cho sự tuyên truyền xuyên tạc của họ”.

Mặc dù vậy, tờ Post có thể đã suy luận một chút, thêm vào rằng “Quân ISIL … dường như mô phỏng theo các kỹ thuật nhấn nước mà CIA sử dụng để thẩm vấn các nghi phạm khủng bố kể từ sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001.”

Bài nói chuyện của William Blum ở một hội thảo về Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, Đại học Hoa Kỳ, Washington, DC, ngày 6 tháng 9 năm 2014

Tôi chắc chắn rằng mỗi người trong số các bạn đã gặp nhiều người ủng hộ chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, với họ bạn phải tranh cãi và tranh cãi. Bạn chỉ ra rằng hết những điều kinh hoàng này đến những điều kinh hoàng khác, từ Việt Nam tới Iraq. Từ những vụ ném bom như cơn thịnh nộ của chúa cùng với xâm lược cho tới vi phạm luật pháp quốc tế và tra tấn. Nhưng chẳng có tác dụng gì. Không gì thay đổi được những người đó.

Tại sao lại vậy? Có phải những người đó thực sự ngớ ngẩn? Tôi nghĩ một câu trả lời tốt hơn là họ có định kiến nhất định. Dù chủ ý hay vô ý, họ có một niềm tin cơ bản về Hoa Kỳ và chính sách đối ngoại, và nếu bạn không xử lý được niềm tin căn bản đó, thì sẽ giống như bạn lao đầu vào tường đá.

Nền tảng căn bản nhất của niềm tin đó, tôi cho rằng, là một sự vững tin trong sâu thẳm rằng bất kể Hoa Kỳ làm gì ở nước ngoài, bất kể nó tồi tệ ra sao, bất kể hậu quả khủng khiếp ra sao, chính quyền Hoa Kỳ vẫn có ý định tốt. Lãnh đạo Hoa Kỳ có thể sai lầm, họ có thể vấp váp, họ có thể nói dối, họ thậm chí có thể trong một dịp vớ vẩn gây ra nhiều thiệt hại hơn là điều tốt, nhưng họ làm điều tốt. Ý đinh của họ luôn đáng tự hào, thậm chí là cao quý. Đa số người Mỹ nghĩ như vậy.

Frances FitzGerald, trong nghiên cứu nổi tiếng của bà về sách giáo khoa Hoa Kỳ, tổng kết các thông điệp của chúng: “Hoa Kỳ là một kiểu Đạo Quân Cứu Thế đối với phần còn lại của thế giới: trong lịch sử họ đã phục vụ cho lợi ích của các quốc gia nghèo đói, bị ruồng bỏ và bị thảm họa. Hoa Kỳ luôn hành động theo kiểu vô tư, luôn từ động cơ cao nhất; họ cho đi, không bao giờ nhận lại”.

Và người Mỹ thuần khiết ngạc nhiên tại sao phần còn lại của thế giới không thấy đạo đức và sự vị tha của người Mỹ. Thậm chí nhiều người tham gia vào phong trào phản chiến đã có một thời gian vất vả để lay chuyển một phần của tư tưởng đó; họ diễu hành để khích lệ nước Mỹ – nước Mỹ mà họ yêu, tôn kính và tin tưởng – họ diễu hành để khích lệ nước Mỹ cao quý quay trở lại con đường tốt đẹp.

Nhiều công dân tin vào tuyên truyền của chính quyền để biện minh cho hoạt động quân sự của họ rất thường xuyên và ngây thơ như Charlie Brow tin vào môn bóng đá của Lucy.

Người Mỹ giống đám trẻ con của một bố già Mafia, chúng chẳng biết gì về công việc kiếm sống của ông bố, và cũng không muốn biết, nhưng chúng ngạc nhiên tại sao một số người lại ném bom cháy qua cửa sổ phòng khách. Niềm tin căn bản trong ý định tốt đẹp của Mỹ thường được gắn với “chủ nghĩa ngoại lệ Hoa Kỳ”. Hãy cùng nhìn xem chính sách đối ngoại ngoại lệ Hoa Kỳ ra sao. Kể từ khi kết thúc thế chiến thứ II, Hòa Kỳ đã:

1. Nỗ lực lật đổ hơn 50 chính quyền nước ngoài, đa số được bầu cử dân chủ. 

2. Ném bom người dân tại hơn 30 quốc gia. 

3. Nỗ lực ám sát hơn 50 lãnh đạo ngoại quốc.

4. Nỗ lực đàn áp các phong trào dân túy hay quốc gia tại 20 quốc gia. 

5. Can thiệp thô bỉ vào các cuộc bầu cử dân chủ tại ít nhất 30 nước. 

6. Dẫn đầu thế giới về tra tấn; không chỉ người Mỹ trực tiếp tra tấn người nước ngoài, mà còn cung cấp dụng cụ tra tấn, hướng dẫn tra tấn, danh sách những người phải tra tấn, huấn luyện viên Hoa Kỳ trực tiếp hướng dẫn, đặc biệt là ở châu Mỹ Latin.

Đây thực sự là ngoại lệ. Không có quốc gia nào khác trong lịch sử có thể cạnh tranh với kỷ lục này.

Thế nên lần tới khi bạn lao đầu vào tường đá … hãy hỏi người đó rằng Hoa Kỳ phải làm gì với chính sách đối ngoại để không được ủng hộ nữa. Điều gì đối với người đó cuối cùng là quá đủ. Nếu người đó đề cập tới điều gì đó thật sự tồi tệ, thì có thể đó là điều mà Hoa Kỳ đã thực hiện, hoặc có thể lặp lại.

Cần phải ghi nhớ rằng tổ quốc quý giá của chúng ta, trên hết cả, tìm cách thống trị thế giới. Vì lý do kinh tế, lý do quốc gia, hệ tư tưởng, Thiên Chúa Giáo, và vì những lý do khác, thống trị thế giới từ lâu đã là đường cơ sở của Hoa Kỳ. Không nên quên rằng quan chức hành pháp đầy quyền lực có lương, thưởng, ngân sách hoạt động và công việc được trả lương hậu hĩnh trong tương lai ở khu vực tư nhân, phụ thuộc vào cuộc chiến tranh liên miên. Những lãnh đạo này không đắn đo về hậu quả cuộc chiến của họ đối với thế giới. Họ không thật sự là người xấu; nhưng họ phi đạo đức, giống như một lối mòn xã hội.

Hãy xem Trung Đông và Nam Á. Người dân ở khu vực đó phải gánh chịu sự khủng khiếp vì chủ nghĩa Hồi Giáo bảo thủ. Điều mà họ thực sự cần là một chính quyền thế tục, tôn trọng các tôn giáo khác nhau. Và chính quyền đó đã từng được thiết lập trong quá khứ gần đây. Nhưng số phận của những chính phủ đó ra sao?

Vào những năm 1970 cho đến những năm 1980, Afghanistan đã có một chính quyền thế tục tương đối tiến bộ, với quyền bầu cử hoàn chỉnh cho phụ nữ, điều khó tin phải không? Thậm chí ngay cả một báo cáo của Lầu Năm Góc về thời gian đó đã xác thực quyền thực tế của phụ nữ ở Afghanistan. Và điều gì xảy ra với chính quyền đó? Hoa Kỳ lật đổ nó, cho phép Taliban nắm quyền lực. Hãy nhớ điều đó khi bạn nghe một quan chức Hoa Kỳ nói rằng chúng ta ở Afghanistan là để bảo vệ quyền của phụ nữ.

Sau Afghanistan là tới Iraq, một xã hội thế tục khác, dưới thời Saddam Hussein. Và Hoa Kỳ cũng lật đổ chính quyền đó, giờ đây đất nước đó bị giày xéo bởi đám thánh chiến cũng như bảo thủ đủ loại, điên khùng và khát máu; phụ nữ không che mặt sẽ gặp nguy hiểm.

Tiếp theo là Libya; một lần nữa, một quốc gia thế tục, dưới thời Moammar Gaddafi, giống như Saddam Hussein, là bạo chúa nhưng theo những cách đặc biệt có thể là đạo đức và làm được những điều kỳ diệu cho Libya và Châu Phi. Có thể nhắc tới một ví dụ, Libya có thứ hạng cao trong Chỉ Số Phát Triển Con Người của Liên Hiệp Quốc. Dĩ nhiên là Hoa Kỳ cũng lật đổ chính quyền đó. Vào năm 2011, với sự trợ giúp của NATO, chúng ta ném bom người dân Libya hầu như mỗi ngày trong suốt sáu tháng. Và một lần nữa, điều đó dẫn đến việc các chiến binh thánh chiến xuất hiện. Tại sao tất cả những chuyện đó xảy ra với người dân Libya, chỉ có Chúa mới biết được, hoặc có thể là Allah.

Ba năm trước đây, Hoa Kỳ đã làm mọi cách để lật đổ chính quyền thế tục ở Syria. Hãy đoán xem? Syria giờ là sân chơi và chiến trường của mọi thể loại quân đội cực hữu, trong đó có món ưa thích mới của mọi người, IS, nhà nước Hồi giáo. Sự trỗi dậy của IS dựa vào phần lớn những thứ mà Hoa Kỳ đã làm ở Iraq, Lybia và Syria trong những năm gần đây.

Chúng ta có thể bổ sung vào danh sách những điều kỳ diệu này cựu Liên Bang Nam Tư, một chính quyền thế tục đã bị Hoa Kỳ lật đổ, cùng với NATO vào năm 1999, thúc đẩy sự hình thành của nhà nước Hồi giáo ở Kosovo, được điều khiển bởi Quân Đội Giải Phóng Kosovo (KLA). KLA bị Hoa Kỳ, Anh và Pháp coi là tổ chức khủng bố trong nhiều năm, với hàng sa số các báo cáo về việc KLA được vũ trang, huấn luyện bởi al-Qaeda, tại trại của al-Qaeda ở Pakistan, và thậm chí có các thành viên của al-Qaeda tham gia hàng ngũ KLA trong cuộc chiến chống lại người Serb ở Nam Tư. Mối lo ngại chủ yếu của Washington là hạ gục Serbia, vốn được biết đến như là “chính quyền cộng sản cuối cùng ở Châu Âu”.

KLA trở nên nổi tiếng với tra tấn, buôn bán phụ nữ, heroin, và nội tạng người; một khách hàng hấp dẫn khác của đế quốc.

Ai đó nhìn xuống những chuyện này từ bên ngoài không gian có thể nghĩ rằng Hoa Kỳ là thế lực Hồi giáo đang nỗ lực xâm chiếm thế giới – Allah Akbar!

Nhưng bạn có thể ngạc nhiên hỏi các chính quyền bị lật đổ có gì chung để trở thành mục tiêu của Washington? Câu trả lời là họ không để cho đế quốc kiểm soát dễ dàng; họ từ chối trở thành quốc gia tay sai; họ theo chủ nghĩa quốc gia; nói cách khác, họ độc lập; một tội các nghiêm trọng đối với đế quốc.

Hãy đề cập tới tất cả những điều đó với người ủng hộ giả định đối của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ và nhìn xem anh ta có tiếp tục tin rằng Hoa Kỳ có ý định tốt nữa không. Nếu anh ta ngạc nhiên cách này diễn ra bao lâu thì hãy chỉ cho anh ta thấy rằng khó có thể kể ra một chế độ độc tài tàn bạo nào trong nửa sau thế kỷ 20 mà không được Hoa Kỳ ủng hộ; không chỉ ủng hộ, mà còn thường xuyên đưa họ lên nắm quyền và bảo vệ quyền lực của họ bất chấp ước muốn của dân chúng. Trong những năm gần đây, Washington đã ủng hộ các chính quyền rất hà khắc như Arab Saudi, Honduras, Indonesia, Ai Cập, Colombia, Qatar và Israel.

Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ nghĩ gì về kỷ lục của bản thân? Cựu ngoại trưởng Condoleezza Rice đã nói tại một câu lạc bộ tư nhân về lãnh đạo chính sách đối ngoại khi bà ấy viết vào năm 2000 rằng để đáp ứng an ninh quốc gia thì Hoa Kỳ không cần được dẫn dắt bởi “các khái niệm của quy tắc và luật pháp quốc tế” hay “các thiết chế như Liên Hiệp Quốc” bởi vì Hoa Kỳ đứng bên phía đúng đắn của lịch sử”.

Hãy để tôi nhắc lại với các bạn kết luận của Daniel Ellsberg về Hoa Kỳ ở Việt Nam: “Không phải là chúng ta ở phía sai trái; chúng ta là sự sai trái”.

Cách rất xa phía đúng đắn của lịch sử, chúng ta thấy trong thực tế - Tôi muốn đề cập tới sự can dự vào chiến tranh – cùng phía với al-Qaeda và các con đẻ của họ trong một số dịp, bắt đầu là với Afghanistan vào những năm 1980 và 1990s để hỗ trợ Moujahedeen Hồi giáo, hay còn gọi là Chiến Binh Thần Thánh.

Hoa Kỳ đã viện trợ quân sự, hỗ trợ ném bom, Bosnia và Kosovo, cả hai đều được al-Qaeda ủng hộ trong cuộc xung đột ở Nam Tư vào đầu những năm 1990.

Ở Libya vào năm 2011, Washington và Jihadist có cùng kẻ thù chung, Gaddafi, như đã được đề cập, Hoa Kỳ ném bom người dân Libya trong hơn sáu tháng, cho phép jihadist chiếm lấy nhiều phần đất nước; và họ đang chiến đấu với phần còn lại. Trong thời kỳ chiến tranh, đồng minh thể hiện sự biết ơn của họ đối với Washington bằng cách ám sát đại sứ Mỹ và ba người Mỹ khác, có vẻ là CIA, ở thành phố Benghazi.

Vào giữa và cuối những năm 2000, Hoa Kỳ ủng hộ quân đội Hồi giáo ở khu vực Caucasus của Nga, một khu vực được chú ý nhiều hơn sau khi có các hoạt động khủng bố tôn giáo ở Chechnyan vào những năm 1990.

Cuối cùng, ở Syria, trong nỗ lực lật đổ chính quyền Assad, Hoa Kỳ đã đứng về cùng phía với một số dạng quân đội Hồi giáo. Có sáu lần Hoa Kỳ trở thành đồng minh của lực lượng jihadist trong thời chiến.

Tôi khẳng định rằng tôi phải cung cấp cho bạn rất nhiều điều tiêu cực mà Hoa Kỳ đã làm với thế giới, và có thể đó là một thứ khó nuốt trôi đối với bạn. Nhưng mục đích của tôi là cố gắng gạt bỏ chỗ dựa trong trí tuệ và cảm xúc mà bạn đã trưởng thành dựa trên đó – hoặc giúp bạn hỗ trợ người khác gạt bỏ chúng – chỗ dựa đó đảm bảo rằng Hoa Kỳ thân yêu của bạn muốn điều tốt.

Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ không có ý nghĩa gì đối với bạn chừng nào bạn còn tin rằng ý định của nó là cao quý; cũng như bạn phớt lờ kịch bản thường xuyên tìm cách thống trị thế giới, được phổ cập quốc gia từ rất lâu, được biết đến dưới cái tên như Tuyên Ngôn Định Mệnh, Thế Kỷ Hoa Kỳ, chủ nghĩa ngoại lệ Hoa Kỳ, toàn cầu hóa, hay, như Madaleine Albright đưa ra, “quốc gia không thể thiếu” … trong khi những người ít lịch sự hơn thì dùng từ “đế quốc”.

Trong bối cảnh nay tôi không thể không đưa ra ví dụ về Bill Clinton. Khi là tổng thống vào năm 1995, ông ta đã nói: “Bất kể điều gì mà chúng ta có thể nghĩ về các quyết định chính trị trong thời kỳ Việt Nam, người Mỹ can đảm, những người đã chiến đấu và chết ở đó, có những động cơ cao quý. Chiến đấu cho tự do và độc lập của người Việt Nam”. Vâng, đó là cách thực tế mà các lãnh đạo của chúng ta nói. Nhưng ai biết họ thực sự tin vào điều gì? 

Hy vọng của tôi là nhiều người trong số các bạn, những người chưa phải là các nhà hoạt động chống đế quốc và chiến tranh, sẽ tham gia vào phong trào phản chiến giống như tôi đã làm năm 1965 để chống lại chiến tranh ở Việt Nam. Đó là điều đã khiến tôi và nhiều người khác cực đoan.

Khi tôi nghe người dân ở độ tuổi nhất định nói về thứ khởi đầu cho quá trình mất niềm tin của họ, niềm tin vào ý định tốt đẹp của Hoa Kỳ, đó là Việt Nam cách rất xa nhưng là nguyên nhân chính.

Tôi nghĩ, nếu các quyền lực Hoa Kỳ biết trước rằng “cuộc chiến đáng yêu” của họ sẽ thất bại thì họ có thể sẽ không tạo ra sai lầm lịch sử khổng lồ đó. Cuộc xâm lược Iraq vào năm 2003 cho thấy rằng bài học Việt Nam vẫn chưa được học vào lúc đó, nhưng các cuộc biểu tình tiếp tục chống chiến tranh và đe dọa chiến tranh ở Afghanistan, Iran, Syria, và những nơi khác có thể - có thể! – cuối cùng tạo ra một vết sứt mẻ trong tinh thần chiến tranh uy nghiêm. Tôi mời các bạn tham gia vào phong trào của chúng tôi.

Tuesday, September 23, 2014

Những vụ bắn hạ máy bay trong hệ thống tuyên truyền

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Plane Shootdowns in the Propaganda System" của giáo sư người Mỹ chuyên nghiên cứu về kinh tế và chính trị quốc tế Edward S. Herman, để có một cái nhìn so sánh về cách thức truyền thông chính thống đưa tin các vụ bắn hạ máy bay dân sự.

Cách thức truyền thông Hoa Kỳ đổ lỗi vụ bắn hạ máy bay dân sự số hiệu 17 của hãng hàng không Malaysia cho “những người ly khai” miền đông Ukraina và đặc biệt là Putin và Nga, tuân thủ theo một kịch bản đã có từ lâu về việc chấp nhận nhanh chóng và đầy phẫn nộ các cáo buộc chính thống phục vụ cho chính trị, bất chấp các kỷ lục lừa dối đã có về vấn đề này. Nếu chúng ta tập trung vào hành xử của truyền thông trong các trường hợp Hoa Kỳ hay Israel bắn hạ máy bay dân sự, sự tương phản và tiêu chuẩn kép sẽ đầy bi kịch và thậm chí là lố bịch.

Khi Họ làm điều đó

KAL-007. Trường hợp yêu thích của tôi là vụ Soviet bắn hạ máy bay KAL-007 của hãng hàng không Hàn Quốc vào ngày 31 tháng 8 năm 1983. Đó là thời kỳ mà chính quyền Reagan đang trong thời kỳ chạy đua vũ trang và liên minh tấn công “đế chế ma quỷ”. Như âm mưu ám sát Giáo hoàng vào năm 1981, sự kiện đó đã được chào đón như một cơ hội tuyên truyền tuyệt vời, chính quyền lên án Liên Bang Soviet nhanh chóng và đầy phẫn nộ. Chiếc máy bay đã rời quá xa đường bay và bay trên bầu trời Soviet cũng như phía trên căn cứ hải quân của Soviet, nó cũng không phản hồi lại điện đàm của máy bay chiến đấu Soviet. Một trường hợp tốt nhất có thể tạo ra là chiếc máy bay thực hiện nhiệm vụ quân sự đồng thời chuyên chở hành khách dân sự (P.Q. Mann, “Reassessing the Sakhalin Incident,” Defense Attache, June 1994; David Pearson, “K.A.L. 007,” the Nation, August 25, 1984). Cáo buộc của chính quyền Reagan là Soviet đã cố ý bắn hạ máy bay dân sự – được biên tập cho truyền thông để phục vụ cho lời tuyên truyền dối trá – mặc dù các trao đổi thông điệp điện đàm đã cho thấy là Soviet không xác định được chiếc máy bay đó là dân sự. 

Truyền thông tham gia chiến dịch tuyên truyền này rất hăng hái, lên án Soviet là “man rợ” và can dự vào vụ “sát hại máu lạnh”. Tờ New York Times đã đăng 147 tin tức về vụ bắn hạ chỉ riêng trong tháng 9 năm 1983, tổng số cột báo dài tới gần 71 m, và trong 10 ngày liên tục họ xuất bản các bản đặc biệt của tạp chí về sự kiện này. “Hành động dã man” của Liên Bang Soviet theo như James Reston mô tả là “tự gánh lấy sự căm hờn của thế giới văn minh” (NYT, September 4, 1983). Bài xã luận của tờ Times vào ngày 2 tháng 9 đề cập rằng “Không thể có lời xin lỗi chính đáng đối với bất kỳ quốc gia nào bắn hạ máy bay dân sự vô hại”.

Chiến dịch tuyên truyền là một thành công lớn của Hoa Kỳ, khi Liên Bang Soviet bị tổn hại danh tiếng và phải chịu sự tẩy chay tạm thời ở khắp các sân bay trên thế giới. Như phóng viên Bernard Gwertzman ghi nhận một năm sau thảm kịch, các quan chức Hoa Kỳ “xác nhận sự chỉ trích toàn cầu đối với hành xử của Soviet trong cuộc khủng hoảng đã gia tăng sức mạnh cho Hoa Kỳ trong các tác động với Moscow” (NYT, August 31, 1984). Khi các bằng chứng cho thấy KAL-007 thực hiện nhiệm vụ do thám, và khi chính quyền Reagan lặng lẽ thừa nhận rằng phi công Soviet không biết đó là máy bay dân sự, bằng chứng mới đó đã bị tảng lờ, hoàn toàn không được chú ý tới hay bị coi như chưa được chứng minh hoặc tuyên truyền của Soviet. Nó hoàn toàn không gây trở ngại cho chiến thắng của truyền thông. Gwertzman không cần phải dè dặt khi tuyên bố về một chiến thắng mãn nguyện của chiến dịch truyền thông chính thống trước sự dã man.

Vào ngày 18 tháng 1 năm 1988, tờ New York Times xuất bản bài xã luận có tiêu đề “Lời nói dối rằng đó không phải là bắn hạ”. Trong đó các biên tập viên thừa nhận rằng chính quyền Reagan đã biết trong vòng vài giờ sau vụ bắn hạ là Soviet không coi máy bay 007 là máy bay dân sự và chính quyền đã “đánh lừa người dân Mỹ cũng như thế giới”. Nhưng bản thân tờ báo cũng là một phần của chương trình nói dối, khi nó nhảy bổ vào các lên án phẫn nộ và đưa tin ồ ạt mà không có chút hoài nghi hay bất cứ nỗ lực điều tra nào. Cần biết rằng năm năm sau đó tờ báo đã thừa nhận rằng họ là một thành viên có lỗi của truyên truyền và đã không thực hiện bất cứ điều tra nào để đưa ra kết luận. Sau năm năm, tờ báo đã bỏ qua hay lảng tránh đưa thông tin về các nỗ lực điều tra nhằm tìm kiếm sự thật về vụ việc, các biên tập viên ưu tiên bỏ qua việc lời nói dối mà họ đã hung hăng và cấp tốc gieo rắc khắp nơi được làm rõ bởi những người khác.

Pan Am-103. Tờ Times và các đồng sự chính thống của họ làm báo rất tệ nhưng tuyên truyền rất tốt trong vụ đánh bom và rơi máy bay Pan Am-103 vào tháng 12 năm 1988 tại Lockerbie, Scotland , khiến 270 người thiệt mạng. Ngay lập tức Iran bị nghi ngờ là đứng sau vụ đánh bom, và vụ việc nhanh chóng trở thành lời cáo buộc Tổng Chỉ Huy Mặt Trận Nhân Dân Giải Phóng Palestine (PFLP-GC) hành động theo lệnh của Iran. Vụ việc được tin rằng là để trả đũa việc Hoa Kỳ bắn hạ máy bay số 655 của hãng hàng không Iran, một máy bay dân sự với 299 người thiệt mạng, vào tháng 7 năm 1988, chỉ 5 tháng rưỡi trước vụ Lockerbie. Việc PFLP-GC có liên hệ với Iran được truyền thông chấp nhận và phát tán đúng lúc. Nhưng chỉ một năm sau, sự thay đổi của địa chính trị do Hoa Kỳ và Anh quốc muốn xoa dịu Syria, nơi trú ẩn của PFLP, và Iran, có ảnh hưởng ở Lebanon, để giúp họ đối đầu với Iraq và giải cứu con tin ở Lebanon. Chỉ trong thời gian ngắn, cáo buộc đối với PFLP (và gián tiếp là Iran) bị đặt sang một bên, những gã quê mùa của Muammar Qaddafi và Lybia bị coi là kẻ đánh bom.

Sự lạc quan chính trị trong vụ này đã thất bại trong việc báo động truyền thông chính thống, họ đưa tin theo mục tiêu mới mặc dù họ vẫn giữ mục tiêu cũ (khi mà mọi thứ đã được chuẩn bị tốt hơn). Lybia bị cưỡng bách phải bắt giữ hai công dân của họ, những người bị cáo buộc là thực hiện vụ tấn công và khi họ từ chối thực hiện thì “cộng đồng quốc tế” áp đặt các trừng phạt đắt giá đối với Lybia, cho tới khi họ đầu hàng và đồng ý chịu xét xử theo luật Scotland bởi quan tòa Scotland tại Camp Zeist ở Hà Lan. Các quan tòa đã phán quyết một trong số hai người Libya có tội mặc dù họ thừa nhận rằng mọi bằng chứng là “suy diễn”.

Có rất nhiều dấu hiệu cho thấy sự can thiệp ngay từ ban đầu khi CIA và FBI có mặt tại hiện trường vụ Lockerbie chỉ hai giờ sau khi máy bay rơi và dường như được nhà cầm quyền Scotland trao quyền (for a good account, see John Ashton and Ian Ferguson, Cover-Up of Convenience: The Hidden Scandal of Lockerbie). Quyết định là một cú sốc đối với các chuyên gia như giáo sư luật Scotland Robert Black và nhà quan sát Hoa Kỳ Hans Kochler, cả hai người cảm thấy “không thể hiểu nổi” và là “thất bại mất mặt nhất trong lịch sử tư pháp Scotland hàng trăm năm nay” (Black, in Scotsman, November 1, 2005). Lời kêu gọi và quyết định vào tháng 6 năm 2007 của Ủy Ban Thẩm Tra Các Vụ Án Hình Sự Scotland giải thích sáu cơ sở riêng biệt của quyết định năm 2001 có thể là sai lầm. Nhưng trước khi phiên tòa mới được mở, tù nhân Ali Al-Megrahi đã được thả vì lý do sức khỏe và trở về Lybia. 

Truyền thông chính thống thất bại trong việc ghi nhận sự kỳ quặc về việc chỉ một trong số những người cáo buộc bị buộc tội, khi mà các quan tòa Scotland, dưới sức ép chính trị nặng nề và định kiến của truyền thông, đã quyết định rằng họ phải quăng ít nhất một khúc xương cho những con chó như là biện pháp chính trị cần thiết. Truyền thông, trong khi thừa nhận với các quan tòa về sự suy diễn của vụ án, đã không kêu gọi sự chú ý đối với hàng loạt các vi phạm đáng chú ý trong quản lý bằng chứng và thủ tục tố tụng, điều mà Black, Kochler và dường như là Ủy Ban Thẩm Tra của Scotland. Trong số 15 bài xã luận của tờ Times về vụ hạ máy bay Pan Am 103 và liên hệ với Libya, không có bất cứ bài nào biểu lộ sự e dè dù là nhỏ nhất về quy trình hay sự xác thực của cáo buộc chống lại những người Lybia. Truyền thông tỏ ra phẫn nộ với việc phóng thích về lý do sức khỏe của Al-Megrahi, nhưng khi họ lảng tránh các quyết định và phân tích căn bản của Hội Đồng Thẩm Tra, thì họ cũng bỏ qua khả năng trong đó công bố là biện pháp tốt nhất để tránh các hệ quả của đánh giá đó. Hai người Libya bị xét xử - đặc biệt là Al-Megrahi, và Libya trong suốt nhiều năm bị trừng phạt và Kaddafi cũng như Lybia bị tô vẽ như kẻ khủng bố - đã nhận những đòn nặng nề. Đồng thời Phương Tây tô điểm cho hình ảnh của họ là chiến sĩ đấu tranh cho công lý, luật pháp và trật tự toàn cầu, trái với sự thật trong vụ việc này, các lãnh đạo của họ đã lạm dụng nghiêm trọng các nguyên tắc danh nghĩa về tư pháp dựa trên cơ sở mà họ đưa ra một cách giả định cho vụ việc.

Khi Chúng Ta làm điều đó 

Iran Air Flight 655. Chiếc máy bay dân sự của hãng hàng không Iran bị bắn hạ vào tháng 7 năm 1988 theo lệnh của chỉ huy tàu chiến USS Vincennes, khi thi hành nhiệm vụ tại Vịnh Ba Tư trong chiến dịch hỗ trợ cuộc chiến xâm lược Iran của Saddam Hussein. Không giống như chiếc máy bay 007, chiếc 655 không rời khỏi đường bay và cũng không tạo ra mối đe dọa đối với binh lính Hoa Kỳ. Tờ New York Times, đã có một xã luận mang tiêu đề “Sát hại” liên hệ với vụ hạ máy bay 007 và nhắc lại năm 1983 rằng, “Không thể có lời xin lỗi chính đáng đối với bất kỳ quốc gia nào bắn hạ máy bay dân sự vô hại,” dường như là một dự đoán cho trường hợp chiếc 655: “sự cố vẫn không được coi như là một tội ác [chỉ riêng “sát hại”] mà chỉ là một sai lầm và là một bi kịch.” Cả Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ lẫn Tổ Chức Hàng Không Dân Dụng đều không lên án Hoa Kỳ về hành động đó, mặc dù cả hai đã làm điều đó với Soviet trong vụ KAL-007. Tất nhiên, Hội Đồng An Ninh đã tiến hành một hoạt động trả đũa Lybia trong vụ Pan Am 103. Không có bất cứ trừng phạt nào đối với thuyền trưởng Will Rogers (được biết tới với biệt danh Rambo), người được “chào đón như người hùng” khi trở về San Diego năm tháng sau vụ bắn hạ (Robert Reinhold, “Crew of Cruiser That Downed Iranian Airliner Gets a Warm Homecoming,” NYT, October 25, 1988), và tiếp đó được trao tặng phần thưởng Legion of Merit cho “hành xử phi thường xứng đáng được khen ngợi trong khi thi hành nhiệm vụ nổi bật.”

Người Iran đã giận dự với sự đón tiếp và cách đối xử với người đàn ông phải chịu trách nhiệm về sinh mạng của 290 thường dân Iran và cảm thấy phẫn uất về hoạt động của hệ thống tư pháp quốc tế cũng như tác động của nó đối với họ. Các khảo sát cho thấy sự đón tiếp nồng nhiệt Rogers nhận được ở San Diego là một sự lầm lạc – công chúng hài lòng với những gì ông ta đã hoàn thành. 

Điều này phản ánh sự thật là truyền thông đưa tin về vụ bắn hạ 655 đã tập trung vào các cáo buộc chính thống về nguyên nhân của hành động chết chóc, chứ không phải hoàn cảnh của các nạn nhân và nỗi đau khổ của gia đình họ - những thứ được tập trung mạnh mẽ và liên tục trong cả vụ chiếc 007 lẫn Pan Am 103. Sự đau khổ của thuyền trưởng Rogers nhận được nhiều sự chú ý hơn sự đau khổ của 290 nạn nhân và gia đình của họ. Chúng ta quay trở lại sự tương phản giữa nạn nhân “đáng giá” và “không đáng giá” và “mục đích hữu ích” của sự tập trung chú ý, như chính quyền và truyền thông Hoa Kỳ thấy.

Israel bắn hạ máy bay Libya 

Vào ngày 21 tháng 2 năm 1973, chiếc máy bay dân sự số 114 của hãng hàng không Libya, đi lệch đường bay trong một trận bão cát, lấn vào vùng trời bán đảo Sinai, và đã bị chiến đấu cơ Israel bắn hạ, 108 người thiệt mạng. Israel bị Tổ Chức Hàng Không Dân Dụng Quốc Tế lên án và bị Hoa Kỳ chỉ trích, mặc dù là họ biết rằng đã bắn hạ máy bay dân sự, nhưng không có bất cứ sự trừng phạt nào, không có tố cáo nào đối với Israel. Họ không bị buộc tội sát nhân, tấn công, tàn ác hay man rợ - những từ ngữ được áp dụng cho Soviet năm 1983. Lãnh đạo Israel Golda Meier được chào đón tới Washington trong vòng một tuần sau sự cố mà không có bất cứ câu hỏi gây ngạc nhiên nào của truyền thông hay chính giới. 

Tờ New York Times đã có 25 bài báo về vụ bắn hạ (so với 147 trong vụ chiếc 007), và không có số tạp chí đặc biệt nào cho vụ việc. Đáng chú ý nhất là các xã luận của họ về sự cố, khẳng định rằng “Không có mục đích hữu ích nào trong tranh luận về các chi tiết của cáo buộc đối với vụ hạ máy bay của hãng hàng không Libya tại bán đảo Sinai tuần qua” (Ngày 1 tháng 3 năm 1973).

Nhưng cũng như truyền tải cấp tốc và tranh luận cho mục đích hữu ích trong vụ chiếc 007, giúp biến “đế chế ma quỷ” thành ác quỷ, thì truyền tải tối thiểu và lảng tránh tranh luận phục vụ cho lợi ích của đồng minh Israel. Chúng ta thấy sự thừa nhận công khai về tiêu chuẩn kép và chính trị hóa báo chí.

Nga và đối tác Ukraina có thể đã bắn hạ máy bay 

Vụ bắn hạ máy bay số 17 của hãng hàng không Malaysia vào ngày 17 tháng 7 là một của trời cho về tuyên truyền đối với phe cánh hiếu chiến Hoa Kỳ và đối tác Ukraina của họ, cũng như tiếp tục nuôi dưỡng việc biến Putin và nước Nga hung hăng thành ác quỷ, có thể biện minh cho các chính sách khắc nghiệt đối với Nga, tăng thêm viện trợ quân sự cho chính quyền Kiev và ủng hộ cuộc chiến bình định của họ. Sự tương đồng với vụ 007 là rất rõ ràng, khi việc sử dụng vụ bắn hạ năm 2014 để giành lợi thế cho phe hiếu chiến tương tự như chính quyền Reagan đối đầu với “đế chế ma quỷ” vào năm 1983.

Sự khác biệt quan trọng trong hai trường hợp là vào năm 1983 xác định phe bắn hạ máy bay là rõ ràng, mặc dù chính quyền Reagan lựa chọn sự dối trá về động cơ của Soviet để đạt được mục đích, trong khi vụ chiếc 17 thì ai bắn hạ vẫn chưa được xác định tại thời điểm này (ngày 2 tháng 8). Obama và Kerry nhanh chóng cáo buộc “những người ly khai” miền đông Ukraina, cùng với Nga, đã cung cấp cho họ tên lửa. Nga cũng bị cáo buộc là đã không ngăn chặn những người ly khai và che chở cho cuộc kháng chiến.

Obama và Kerry nhanh chóng khẳng định rằng những người ly khai-người Nga có lỗi trong vụ bắn hạ, khẳng định về các bằng chứng vững chắc, mà họ không cung cấp để kiểm tra công khai. Nga đã phủ nhận trách nhiệm của họ và người ly khai, đồng thời cung cấp bằng chứng cho Liên Hiệp Quốc và công chúng thấy rằng chiếc 17 đã rời khỏi đường bay và bị hai chiến đấu cơ phản lực của Không Quân Ukraina bám đuổi, thậm chí chỉ cách chiếc máy bay của Malaysia khoảng từ 3 đến 5 km (see letter dated July 22 from the Permanent Representative of the Russian Federation to the United Nations addressed to the Secretary-General. One can actually watch this on a 29-minute video at the RT website). Trung tướng Nga A. V. Kartapolov hỏi: “Tại sao máy bay quân sự lại bay vào đường bay dân sự hầu như cùng lúc và cùng trạng thái với máy bay dân sự? Chúng tôi muốn câu hỏi này được trả lời.” Nga đã liên tục kêu gọi một cuộc điều tra quốc tế để tìm ra chân tướng vụ việc, đồng thời thúc giục Hoa Kỳ cung cấp các bằng chứng cho việc điều tra.

Điều chưa rõ ràng là ai đã bắn hạ máy bay, nhưng điều rõ ràng là người ly khai và Nga không có lợi ích gì khi làm điều đó, nên nếu họ có trách nhiệm thì đó sẽ là một sai lầm tệ hại và đắt giá về mặt chính trị đối với họ. Chính quyền Kiev, trái lại, có lợi ích khi làm điều đó nếu nó có thể gán cho người ly khai và Nga, và nó đã được gán ngay cả khi các bằng chứng chưa rõ ràng. Như vụ 007 và Lockerbie, sức mạnh tuyên truyền Hoa Kỳ có thể tạo ra dối trá về chuyến bay (007) và kẻ hung đồ có thể được chọn cũng như thay đổi để phục vụ cho lợi ích chính trị (Lockerbie, từ Iran sang Libya), cùng với các đòn tuyên truyền khổng lồ về vụ chiếc 17 thì mục tiêu đã đạt được trước khi sự thật được phơi bày. Chiến thắng tuyên truyền dựa trên hãng truyền thông, chiến dịch tuyên truyền của truyền thông trong vụ này cũng tương tự như vụ 007 và Lockerbie. Điểm chủ chốt của chiến dịch tuyên truyền là chấp nhận một cách phổ biến khẳng định của Obama-Kerry về trách nhiệm của người ly khai-Nga trong vụ bắn hạ. Cũng như vụ chiếc 007, không có câu hỏi nào được đưa ra và sự chân thực trong khẳng định của Kerry về bằng chứng được chấp nhận mà không cần phải thấy bằng chứng, bất chấp kỷ lục về các tuyên bố sai lệch của Kerry (On these false statements, and more, see Veteran Intelligence Professionals for Sanity Steering Committee, “Obama Should Release Ukraine Evidence,” ConsortiumNews.com, July 29, 2014.) Một đặc trưng khác của truyền thông là sự chấp nhận giả định của Obama/Kerry về trách nhiệm tối cao của tất cả những gì khó chịu đang diễn ra ở miền đông Ukraina thuộc về Putin và chính sách của ông ta – sự ủng hộ của ông ta đối với “những người ly khai” và thất bại của ông ta trong việc ngăn chặn họ cũng như chấp nhận hay thậm chí là ủng hộ nỗ lực bình định của Kiev.

Xã luận của tờ Times, “Vladimir Putin có thể ngăn chặn cuộc chiến này” (ngày 18 tháng 7) là mẫu mực về sự thiên lệch. Hoa Ky có thể ngăn chặn cuộc chiến dễ dàng hơn nhiều băng cách thuyết phục chính quyền tay sai Kiev ngừng cuộc tấn công của họ ở miền đông và đàm phán một giải pháp với “những người ly khai”. Điều đó không được bàn luận ở tờ Times và truyền thông chính thống một cách rộng rãi hơn.

Đối với truyền thông, Hoa Kỳ có quyền hỗ trợ tích cực chính quyền Kiev, ở rất xa biên giới Hoa Kỳ; nhưng Nga thì không có quyền hỗ trợ những người ly khai láng giềng trong một cuộc nội chiến kết hợp với chiến tranh tay sai của Hoa Kỳ nhắm chống lại Nga. Trong khi cáo buộc Nga đã giật dây các hoạt động ly khai ở miền đông (Sabrina Tavernise, “Orchestrated Conflict,” NYT, June 15, 2014) thì Hoa Kỳ không bao giờ “giật dây” các xung đột, chỉ là sự giúp đỡ từ bên ngoài đối với chính quyền Ukraina hợp pháp trong việc ổn định và chống trả xâm lược nước ngoài. Đó là những sự thật được thể chế hóa trong hệ thống tuyên truyền hoạt động đẹp đẽ, đôi khi là sống sượng.

Tuesday, September 16, 2014

Nhà dân chủ đã tìm ra dư luận viên

Ba nhà dân chủ từ các nước Nga, Mỹ và Việt Nam gặp nhau trong một hội nghị quốc tế. Cả ba cùng đồng ý rằng lực lượng dư luận viên là đối thủ nguy hiểm nhất của phong trào dân chủ, cần phải nhanh chóng tìm ra dư luận viên để nhân dân đấu tố.

Nhà dân chủ Nga sử dụng hệ thống vệ tinh do thám cực kỳ hiện đại chụp ảnh từng cm trên bề mặt trái đất nhưng không phát hiện được dư luận viên nào.

Nhà dân chủ Mỹ dùng hệ thống máy tính siêu hiện đại lùng sục khắp các ngóc ngách của các mạng xã hội nhưng cũng không tìm được dư luận viên.

Nhà dân chủ Việt Nam đi ra phố, một lúc sau dắt về một con chó hoang và nói: Đây chính là dư luận viên!

Hai nhà dân chủ Nga và Mỹ ngạc nhiên hỏi: Sao anh biết điều đó?

Nhà dân chủ Việt Nam trả lời: Vì nó bỏ chạy khi tôi cho nó ngửi bài viết của tôi.

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí, nhân dịp ông Nguyễn Quang Lập đăng bài tự thú của một dư luận viên)

Wednesday, August 20, 2014

Tại sao truyền thông và chính quyền Obama lại im lặng về vụ máy bay MH17?

Vụ máy bay chở khách số hiệu MH17 của hãng hàng không Malaysia bị bắn hạ trên bầu trời Ukraina một tháng trước đây đã gây ra sự ồn ào trên truyền thông khắp thế giới. Hoa Kỳ và Phương Tây đã liên tục cáo buộc Nga mà không đưa ra bất cứ bằng chứng nào, nhưng rồi đột nhiên họ im lặng. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Why have the media and Obama administration gone silent on MH17?" của tác giả Niels Williamson để biết thêm chi tiết.

Sự im lặng ồn ào của truyền thông và chính quyền Hoa Kỳ về việc điều tra vụ rơi máy bay MH17 của hãng hàng không Malaysia một tháng trước đây đang bốc mùi khỏi cái vung che đậy.

Hàng ngày hàng giờ ngay sau khi máy bay rơi, mặc dù không có bất cứ mảnh nhỏ bằng chứng nào, quan chức Hoa Kỳ cáo buộc máy bay chở khách bị bắn hạ bằng tên lửa đất đối không SA-11 từ khu vực do những người ly khai thân Nga kiểm soát ở miền đông Ukraina. Họ đã tiến hành một chiến dịch chính trị để đạt được các biện pháp trừng phạt kinh tế khắc nghiệt đối với Nga và củng cố vị thế quân sự của NATO ở Đông Âu.

Đánh hơi được vụ việc, những con chó dữ của CIA trong truyền thông Hoa Kỳ và Châu Âu cáo buộc tổng thống Nga Vladimir Putin về vụ máy bay rơi. Trang bìa ấn bản ngày 28 tháng 7 của tạp chí Đức Der Spiegel đăng bức ảnh các nạn nhân trong vụ MH17 ở xung quanh dòng chữ tô đậm mầu đỏ “Chặn Putin ngay!”. Bài xã luận ngày 26 tháng 7 của tờ Economist tuyên bố Putin là tác giả của vụ phá hủy MH17, trong khi tạp chí đăng một cách ghê tởm khuôn mặt của Putin với mạng nhện lên trang bìa, để thể hiện “mạng lưới dối trá” của Putin.

Bất cứ ai so sánh sự bôi nhọ Putin của truyền thông với hành xử của truyền thông trong trường hợp Saddam Hussein hay Muammar Gaddafi thì đều có thể kết luận là Washington đang tiến hành một chiến dịch thay đổi chính quyền ở Nga giống như những gì đã diễn ra ở Lybia và Iraq – lần này đã thúc đẩy một cách khinh suất Hoa Kỳ vào cuộc chiến với một quốc gia có vũ khí hạt nhân, đó là Nga.

Mặc dù định biến vụ máy bay rơi thành một biến cố gây chiến đối với Nga nhưng truyền thông Hoa Kỳ đột ngột bỏ rơi hoàn toàn sự kiện. Tờ New York Times đã không đăng một từ nào về vụ MH17 kể từ ngày 7 tháng 8.

Không có bất cứ giải thích đơn giản nào về sự biến mất đột ngột của MH17 khỏi truyền thông và tiêu điểm chính trị. Hộp đen của máy bay do Anh giữ để điều tra trong nhiều tuần, các vệ tinh do thám của Hoa Kỳ và Nga cũng như radar quân sự đã quét cấp tốc khu vực miền đông Ukraina vào thời điểm máy bay rơi. Tuyên bố rằng Washington không có thông tin về tình hình vụ máy bay rơi và các lực lượng có can dự là không đáng tin.

Nếu bằng chứng trong tay Washington chỉ chứng minh tội lỗi của Nga và lực lượng thân Nga, nó sẽ được công bố để đáp ứng sự điên cuồng chống Nga của truyền thông. Nếu như nó không được công bố thì bởi vì bằng chứng cho thấy sự can dự của chính quyền Ukraina ở Kiev và những người ủng hộ họ ở Washington và các thủ đô của châu Âu.

Ngay từ đầu, chính quyền Obama đã không đưa ra được bất cứ bằng chứng nào chứng minh cho lời buộc tội đầy kích động rằng Putin phải chịu trách nhiệm về vụ rơi máy bay MH17. Trong buổi họp báo ngắn vào ngày 18 tháng 7 sau khi máy bay rơi, tổng thống Obama tuyên bố rằng vẫn còn “quá sớm đối với chúng ta để có thể phỏng đoán về ý đồ của những người đã bắn tên lửa đất đối không”. 

Trong khi nhẫn tâm khai thác vụ máy bay rơi để gia tăng sức ép và đe dọa Nga, Obama cảnh báo rằng “dường như có sự thông tin lệch lạc” trong việc tường thuật về vụ máy bay rơi. Thừa nhận một cách nửa đùa nửa thật rằng ông ta không có bằng chứng chứng minh cho cáo buộc của mình, ông ta nói: “Theo nghĩa xác định xem cá nhân hay nhóm cá nhân hay nhân vật nào đã ra lệnh tấn công, cũng như điều đó đã diễn ra như thế nào, theo tôi nghĩ sẽ là đối tượng cho những thông tin bổ sung mà chúng ta sẽ thu thập”.

Trong sự kiện, thông tin lệch lạc về vụ MH17 xuất phát từ chính bản thân chính quyền Obama. Ngoại trưởng John Kerry phát biểu trước truyền thông vào ngày 20 tháng 7, lập luận rằng những người ly khai thân Nga và chính quyền Nga phải chịu trách nhiệm về vụ bắn hạ.

Bằng chứng duy nhất mà ông ta trình bày là một ít không rõ nguồn gốc các “dữ liệu truyền thông xã hội” được đưa lên mạng Internet. Ông ta trưng ra một đoạn ghi âm không rõ nguồn gốc cho thấy những người ly khai đang nói về máy bay rơi, được cơ quan tình báo Ukaraina (SBU) vốn hợp tác chặt chẽ với CIA biên tập và công bố; một đoạn video YouTube cho thấy một chiếc xe tải chở một thiết bị quân sự không rõ danh tính suốt một đoạn đường; và một tuyên bố trên mạng xã hội đã bị rút lại rằng trách nhiệm về vụ bắn hạ máy bay thuộc về thủ lĩnh của phe ly khai Igor Strelkov.

Rất nhanh chóng, câu chuyện của chính quyền Hoa Kỳ về vụ MH17 sụp đổ. Tại buổi họp báo vào ngày 21 tháng 7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao và cựu chuyên gia phân tích CIA ở Trung Đông Marie Harf tuyên bố rằng kết luận của chính quyền Obama về vụ máy bay rơi “dựa trên các thông tin công khai mà hoàn toàn là theo nhận thức thông thường”. Khi được các phóng viên yêu cầu đưa ra bằng chứng, bà ta thừa nhận là không thể: “Tôi biết điều đó gây nản lòng. Hãy tin tôi, chúng tôi cố gắng làm hết mức có thể. Và vì một số lý do, đôi khi chúng tôi không thể”. 

Sau một tháng, Washington đã thất bại trong việc cung cấp các bằng chứng cho lời cáo buộc đối với Putin, rõ ràng là cuộc tấn công chính trị của các chính quyền NATO và sự điên cuồng của truyền thông chống Putin dựa trên sự dối trá.

Nếu những người ly khai thân Nga đã bắn tên lửa đất đối không, như chính quyền Hoa Kỳ tuyên bố, năng lực của Không Quân sẽ bị hoài nghi. Các vệ tinh trong Chương Trình Hỗ Trợ Phòng Không của Hoa Kỳ với cảm biến hồng ngoại để phát hiện tên lửa bắn đi từ bất cứ đâu trên hành tinh, và radar của Hoa Kỳ đặt tại châu Âu sẽ theo dõi tên lửa khi nó được phóng lên bầu trời. Dữ liệu vệ tinh và radar đã không được công bố, bởi vì mọi điều mà chúng cho thấy đều không phù hợp với câu chuyện do chính quyền Hoa Kỳ và truyền thông dựng lên. 

Trái lại tiếng vọng của bằng chứng cho thấy vai trò của chính quyền được Hoa Kỳ hậu thuẫn ở Kiev trong vụ bắn hạ máy bay MH17. Ngay sau khi Kerry đưa ra cáo buộc, quân đội Nga công bố dữ liệu radar và vệ tinh cho thấy một máy bay chiến đấu SU-25 của Ukraina ở rất gần và tiến tới MH17 khi nó bị bắn hạ. Khẳng định này không được làm rõ, chỉ đơn giản là bị chính quyền Hoa Kỳ bác bỏ.

Người tiết lộ bí mật của NSA William Binney và các điệp viên tình báo đã nghỉ hưu của Hoa Kỳ phát hành một tuyên bố và cuối tháng 7 đề cập sự hoài nghi về bằng dữ liệu truyền thông xã hội của John Kerry, và yêu cầu công bố các bức ảnh vệ tinh về vụ phóng tên lửa. Họ bổ sung thêm, “Chúng tôi được biết một cách không trực tiếp từ một số các bạn đồng cấp cũ là những gì Kerry đưa ra không phù hợp với tình báo thực tế”.

Vào ngày 9 tháng 8, tờ New Straits Times của Malaysia đăng một bài báo buộc tội chính quyền Kiev đã bắn hạ MH17. Bài báo tuyên bố rằng bằng chứng từ hiện trường cho thấy máy bay bị bắn hạ bởi chiến đấu cơ phản lực của Ukraina bằng tên lửa và tiếp theo là súng máy hạng nặng.

Trong khi còn quá sớm để kết luận MH17 đã bị bắn hạ ra sao, ưu thế về bằng chứng cho thấy trách nhiệm của chính quyền Ukraina, và sau họ là chính quyền Hoa Kỳ cũng như châu Âu. Họ tạo ra các điều kiện cho vụ phá hủy MH17, ủng hộ cuộc đảo chính do phát xít cầm đầu ở Kiev vào tháng hai, cuộc đảo chính đã đưa chính quyền thân phương Tây hiện nay lên nắm quyền. Truyền thông phương Tây ủng hộ cuộc chiến của chính quyền Kiev để đàn áp phe đối lập ở miền đông, biến khu vực thành vùng chiến sự và tại đó máy bay MH17 bị bắn hạ.

Sau vụ sát hại 298 hành khách trên máy bay MH17, trong đó họ đóng một vai trò quan trọng nếu không phải là một vai trò vẫn chưa được giải thích, chính quyền phương Tây và các điệp viên tình báo đã sử dụng thảm kịch cho một âm mưu khinh suất và hung hãn mở rộng đe dọa chiến tranh chống chính quyền Putin. Im lặng là đồng lõa, và sự im lặng của truyền thông phương Tây trước sự can dự của chính quyền Kiev trong vụ MH17 chứng minh rằng tội lỗi không chỉ thuộc về người điều hành chính sách đối ngoại mà còn cả sự quỵ lụy của truyền thông và toàn bộ giai cấp thống trị.

Thursday, July 24, 2014

Vụ rơi máy bay MH17 và bộ mặt chính trị của phương Tây

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "What are the politics of the crash of Malaysian Airlines flight MH17?" của Alex Lantier bình luận về những tin tức mới nhất trong sự kiện máy bay MH17 của hãng hàng không Malaysia rơi tại miền đông Ukraina. Tiêu đề do người dịch đặt lại.

Một cuộc họp báo ngắn trong ngày thứ hai của Bộ Ngoại Giao với người phát ngôn Marie Harf về vụ rơi máy bay MH17 ở miền đông Ukraina đã phơi bày sự thực là chính quyền Hoa Kỳ không có bằng chứng đáng tin cậy cho các cáo buộc của họ về việc Nga can dự vào thảm kịch kinh hoàng đó. Trong khi không ngừng chống đỡ các công kích của phóng viên Matt Lee thuộc hãng thông tấn AP, Harf đã không thể đưa ra bất cứ thông tin chính xác nào.

Đầu tiên, Lee trích dẫn báo cáo của quân đội Nga về dữ liệu radar và các hình ảnh vệ tinh cho thấy chiến đấu cơ của chính quyền Kiev và dàn phóng tên tửa đã theo dõi máy bay MH17 ngay trước khi chiếc máy bay bị rơi. Sau đó, ông ta hỏi bà Harf về phản ứng đối với việc Moscow yêu cầu Washington công bố các tài liệu chứng minh cho sự kiện, như dữ liệu vệ tinh do thám của Hoa Kỳ mà Moscow quan sát thấy có mặt tại khu vực vào thời điểm xảy ra vụ rơi máy bay.

Câu trả lời của Harf hoàn toàn ngớ ngẩn. Bà ta nói, “Chúng tôi biết, chúng tôi đã thấy trên truyền thông xã hội sau đó, chúng tôi đã xem các video, chúng tôi đã xem các bức ảnh mà những người ly khai thân Nga khoe khoang về việc bắn hạ một máy bay và họ sau đó họ…xin lỗi, đã rút xuống khi nhận ra rằng đó có thể là máy bay dân sự”.

Lee hỏi Harf rằng Washington có đưa ra các bằng chứng xác đáng như dữ liệu mà quân đội Nga đã cũng cấp không. Harf đã từ chối bình luận về việc đó, chỉ đơn giản khẳng định rằng bà ta không lấy làm phiền phải theo dõi trình bày của quân đội Nga. “Tôi chưa hề thấy bất cứ thứ gì của sự trình bày đó”, bà ta nói. 

Lee dồn ép Harf về chuyện Washington trên thực tế biết gì về việc tên lửa được bắn đi từ khu vực do lực lượng thân Nga kiểm soát. Harf trả lời, “Trước hết chúng tôi biết rằng những người ly khai thân Nga có một hệ thống SA-11 [tên lửa đất đối không] vào ngày thứ hai, 14 tháng 7. Điều này thu được từ việc chặn bắt trao đổi thông tin của những người ly khai mà chính quyền Ukraina đã đưa lên mạng YouTube.

Lee cắt ngang Harf bằng câu hỏi Washington có thể đưa ra bất cứ bằng chứng nào cho những khẳng định của họ ngoài những thứ được đăng trên truyền thông xã hội không. Câu trả lời của Harf cho thấy rõ ràng là không thể: “Nếu có thêm thông tin liên quan mà chúng tôi có thể chia sẻ, chúng tôi sẵn lòng làm điều đó. Chúng tôi đang tiếp tục tìm kiếm thông tin về sự kiện. Nhưng hãy chú ý, đây là những gì chúng chúng tôi đang nắm được. Dựa trên các thông tin công khai theo lẽ thông thường, đúng vậy, chúng tôi biết về nơi tên lửa đã được bắn đi, chúng tôi biết ai có vũ khí đó”. Bà ta bổ sung thêm, “Tôi biết là nó gây bực dọc. Hãy tin tôi, chúng tôi cố gắng thu thập thông tin trong chừng mực có thể. Và vì một số lý do, đôi khi chúng tôi không thể”.

Thật kinh ngạc là chính quyền Hoa Kỳ có thể mong đợi mọi người chấp nhận những thứ vô nghĩa là bằng chứng cho tất cả. Các điệp viên tình báo Hoa Kỳ đã tiêu tốn hàng tỷ dollar mỗi năm vào các chiến dịch giám sát quy mô lớn; họ dường như đã theo dõi khu vực có máy bay rơi qua vệ tinh. Mặc dù vậy, bằng chứng duy nhất mà Harf trích dẫn là một đoạn thu âm cuộc đối thoại giữa hai người không rõ danh tính được cơ quan an ninh Ukraina, vốn nằm dưới sự kiểm soát của CIA, đưa lên mạng YouTube.

Nội dung của đoạn thu âm đó chẳng chứng được minh điều gì. Quân đội Ukraina cũng có hệ thống tên lửa SA-11 và có thể bắn vào máy bay MH17. Dàn phóng tên lửa, số hiệu 312, mà truyền thông mới cáo buộc đã bắn tên lửa vào máy bay MH17 đã được chứng minh là thuộc về kho vũ khí của quân đội Ukraina.

Đây là cách làm việc mà chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ đã sử dụng nhiều năm: dựa trên các cáo buộc chưa được xác minh về công cụ khủng bố như vũ khí hủy diệt hàng loạt hay rơi máy bay để dẫn dắt nhân dân Hoa Kỳ tới chiến tranh, với những hậu quả khủng khiếp. Thuyết trình năm 2003 của Bộ trưởng Ngoại giao Colin Powell tại Liên Hiệp Quốc, tuyên bố rằng Iraq sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt, đã được chứng minh là dối trá. Cáo buộc vào năm ngoái về việc Syria sử dụng vũ khí hóa học, nhằm thúc đẩy một cuộc chiến tranh, đã bị nhà báo Seymour Hersh phơi bày là chuyện bịa đặt của Thổ Nhĩ Kỳ, Al Qaeda và các cơ quan chức năng nhà nước Hoa Kỳ 

Đáng chú ý, tổng thống Obama và ngoại trưởng John Kerry đã dấy lên câu hỏi về cuộc khủng hoảng hiện tại với Nga, với cảnh báo của Obama về “thông tin sai lệch” trên truyền thông và Kerry bày tỏ rằng ông ta không muốn nhận xét về việc Nga “có tội” trong thảm họa này. 

Ít nhất, chiến dịch chống Nga của truyền thông phương Tây vẫn không suy yếu. Viết trên tờ New York Times vào thứ tư, Bernard-Henri Lévy điên cuồng lên án Putin, đổ lỗi cho ông ta về vụ rơi máy bay. Lévy viết: “Ông ta đã thu nạp đám côn đồ, trộm cắp, hiếp dâm, tù tội, phá hoại và biến chúng thành lực lượng bán quân sự… Với bộ sưu tập tạp nham đó, ngài Putin, tổng thống Nga, đã tạo ra một vũ khí khủng khiếp mà những người lính nghiệp dư không thể so sánh và với những gì chúng đã làm, giống như những đứa trẻ với pháo hoa.”

Những lời lên án cay độc đối với Putin và Nga đang kêu gọi sự can thiệp của NATO vào Ukraina là nguy cơ trực tiếp thúc đẩy cuộc nội chiến, được tạo ra sau cuộc đảo chính được NATO hậu thuẫn và phát xít đóng vai trò xung kích trong tháng hai vừa qua, trở thành chiến tranh hạt nhân toàn cầu. Trong bài báo bẩn thỉu trên tờ New York Times, nhà báo Roger Cohen kêu gọi bỏ qua kết quả điều tra vụ rơi máy bay MH17 và thay vào đó là xâm lược Ukraina cũng như lao vào chiến tranh thế giới.

Bài báo của ông ta có tiêu đề “Mặt trời tháng tám”, ông ta viết: “Một thế kỷ trôi qua kể từ thế chiến thứ nhất, không ai muốn khẩu súng của tháng tám. Mặc dù vậy cần phải hỏi rằng liệu những năm tháng chờ đợi cho kết luận lẩn tránh của một cuộc điều tra chính thức về số phận của chiếc máy bay số 17 có tốt hơn hành động ngay lập tức về thứ mà chúng ta đã biết rõ không… Nga sẽ phủ quyết bất cứ nghị quyết nào của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc cho phép thực hiện một nhiệm vụ giới hạn để bảo vệ thi hài và bằng chứng. Nhưng Ukraina, trên lãnh thổ của họ có những mảnh vụn và thi hài đang nằm, sẽ ủng hộ điều đó. Các chính quyền Mỹ, Anh, Hà Lan và Australia sẽ đưa ra tối hậu thư dựa trên sự đe dọa nghiêm túc về việc buộc phải thực hiện yêu cầu tiếp cận không giới hạn với địa điểm máy bay bị rơi.

Những cảnh báo khẩn cấp nhất đối với giai cấp lao động quốc tế là cần thiết. Những nhà báo như Cohen và các nhân viên tình báo, qua những gì mà họ thể hiện, có nguy cơ gây ra một cuộc chiến tranh với tổn thất ít nhất có thể lên đến hàng trăm triệu mạng người. Trong bài phát biểu tuần này, tổng thống Nga Putin tuyên bố rằng ông ta sẽ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Nga và có các vũ khí để làm điều đó. Kho vũ khí của quân đội Nga, giống như Hoa Kỳ, có đủ vũ khí hạt nhân để phá hủy hành tinh này vài lần.

Trong khi bằng chứng thực sự vẫn chưa cho phép các nhân viên điều tra xác định nguyên nhân vụ rơi máy bay, bằng chứng chính trị tích lũy mỗi ngày cho thấy truyền thông phương Tây, phát ngôn cho một số bộ phận giai cấp thống trị Hoa Kỳ và Châu Âu, có ý định gây chiến. Cái gì khiến người ta sẵn sàng chấp nhận sự hiếu chiến đó đối với sinh mạng của 298 người trên máy bay MH17 của hãng hàng không Malaysia?


Sunday, July 20, 2014

Vụ máy bay MH17 của hãng hàng không Malaysia rơi ở Ukraina

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "The crash of Malaysian Airlines flight MH17 in Ukraine" của Alex Lantier. Vụ máy bay MH17 của hãng hàng không Malaysia bị bắn rơi trên bầu trời miền đông Ukraina có thể làm thay đổi cục diện cuộc nội chiến ở Ukraina. Cho đến nay, phương Tây vẫn không đưa ra được bất cứ bằng chứng nào cho thấy Nga can dự hay viện trợ cho phe ly khai ở miền đông Ukraina, nhưng ngay khi chiếc máy bay MH17 bị bắn rơi thì truyền thông phương Tây đã lập tức lên án Nga, và theo đúng kịch bản quen thuộc "Anh bị coi là có tội cho đến khi anh chứng minh được rằng mình vô tội".

Những lời bình luận của tổng thống Obama về thảm kịch rơi máy bay MH17 của hãng hàng không Malaysia ở miền đông Ukraina làm dấy lên nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời. 

Obama tiếp tục củng cố chiến lũy tuyên truyền của quan chức và truyền thông Hoa Kỳ, lên án Nga và lực lượng ly khai thân Nga ở miền đông Ukraina về việc bắn hạ chiếc máy bay cũng như yêu cầu những người ly khai đầu hàng chính phủ được phương Tây hậu thuẫn ở Kiev. Mặc dù vậy, những lời bình luận của ông ta tự nó đã nhấn mạnh rằng chiến dịch tuyên truyền đó chẳng dựa trên một cơ sở thực tế nào và đang đẩy Washington tới sự đối đầu dữ dội với Nga. 

Obama nói: “Theo như những gì chúng ta biết. Bằng chứng cho thấy chiếc máy bay bị bắn hạ bởi hệ thống tên lửa đất đối không được phóng đi từ khu vực bị những người ly khai thân Nga kiểm soát trong phạm vi lãnh thổ Ukraina. Chúng ta cũng biết rằng đây không phải là lần đầu tiên một máy bay bị bắn rơi ở miền đông Ukraina. Trong những tuần vừa qua, những kẻ ly khai thân Nga đã bắn hạ một máy bay vận tải và một máy bay trực thăng của Ukraina, và họ đã nhận trách nhiệm về việc bắn hạ một chiến đấu cơ phản lực của Ukraina. Hơn nữa, chúng ta biết rằng những kẻ ly khai này đã nhận được sự hỗ trợ đều đặn từ Nga”. 

Nếu đọc lại những lời bình luận của Obama một cách cẩn thận, bạn sẽ thấy không có bất cứ điều gì ông ta nói chứng minh rằng lực lượng thân Nga bắn tên lửa vào máy bay MH17. Những người nổi dậy đã bắn rơi những máy bay quân sự của Ukraina khi chúng bay ở tầm thấp với tên lửa vác vai, nhưng điều đó không có nghĩa là họ dự định hay có khả năng phá hủy một máy bay dân dụng bay ở độ cao hơn 10.000 m – một hành động mà họ biết rằng sẽ mang tới cho Washington vũ khí tuyên truyền tối thượng. 

Khi Obama khẳng định rằng những người ly khai kiểm soát khu vực mà từ đó tên lửa được phóng đi thì ông ta cũng không đưa ra bất cứ bằng chứng nào, điều đó chả có nghĩa lý gì trong hoàn cảnh hỗn loạn ở miền đông Ukraina. Ở thành phố Donetsk, pháo đài của những người ly khai chống lại chính quyền Kiev, lực lượng trung thành với chính quyền Kiev vẫn kiểm soát sân bay, từ đó họ thường xuyên nã pháo vào thành phố. Thực tế là ngay trước khi chiếc máy bay MH17 được coi là bị bắn hạ bởi tên lửa BUK ở gần Donetsk, chính quyền Kiev đã tăng viện các khẩu đội pháo phòng không cho khu vực. 

Đáng chú ý là Obama cho thấy chính quyền của ông ta không biết ai và tại sao đã bắn hạ chiếc máy bay MH17. Ông ta nói, “Tôi nghĩ là còn quá sớm để chúng ta có thể phỏng đoán về mục đích của người phóng tên lửa đất đối không… Theo nghĩa là xác định được cá nhân hay nhóm cá nhân nào, các bạn biết đấy, cá nhân ra lệnh bắn tên lửa, điều đó diễn ra như thế nào – tôi cho rằng sẽ cần phải thu thập thêm thông tin”. 

Một lần nữa, đọc cẩn thận lại tuyên bố của Obama, có thể thấy ngoài những tuyên bố tình trạng và những lời rào đón, ông ta không nói gì về người bắn tên lửa. Bình luận của Obama trực tiếp mâu thuẫn với phát ngôn của đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc, Samantha Power, người vừa tuyên bố rằng có “bằng chứng đáng tin cậy” cho thấy Nga phải chịu trách nhiệm về vụ rơi máy bay, thêm vào đó, “Nga có thể kết thúc cuộc chiến này. Nga phải kết thúc cuộc chiến này”. 

Obama tiếp tục đưa ra một dấu hỏi về toàn cảnh sự kiện máy bay MH17 bị rơi: “Tôi muốn lưu ý về sự nhiễu loạn thông tin. Tôi nghĩ rằng điều quan trọng đối với dân chúng là phân biệt được đâu là sự thật và đâu là suy đoán”. 

Bức tranh về hoàn cảnh được đưa ra trong phát biểu của Obama là đáng chú ý. Qua sự thừa nhận của ông ta, Hoa Kỳ và đồng minh của họ đang lao vào một cuộc đối đầu quân sự với Nga, ngay cả khi Nhà Trắng không biết ai phải chịu trách nhiệm về vụ chiếc máy bay MH17 rơi và các lực lượng chính trị đầy uy quyền được tin cậy đang cung cấp các thông tin sai lệch cho truyền thông. 

Ngay cả khi khẳng định rằng CIA đã không báo cáo ông ta trước khi theo dõi quan chức Đức, Obama dường như cố gắng phác thảo những gì mà chính quyền của ông ta sẽ làm – mọi thứ trong khi đổ tội cho Nga 

Có thể khẳng định rằng mọi sự giải thích có lý về vụ bắn tên lửa vào máy bay MH17 đều cho thấy câu hỏi nghiêm trọng nhất về nguy cơ một cuộc đụng độ trực tiếp giữa các quyền lực phương Tây và Nga. 

Trong khi đó thì truyền thông Hoa Kỳ lại làm thinh về khả năng lực lượng trung thành với Kiev có thể đã bắn hạ chiếc máy bay MH17 với tên lửa BUK. Chiến dịch truyền thông của Hoa Kỳ đã cho thấy động cơ phía sau hành động đó: lên án Nga, thúc đẩy chiến dịch can thiệp vào Ukraina của NATO, và tìm cách tập hợp các đồng minh của châu Âu của Washington, những người đang lẩn tránh áp đặt trừng phạt đối với Nga. 

Khả năng lớn nhất là các lực lượng ủng hộ Kiev đã bắn hạ chiếc máy bay, có thể kể tới các lực lượng có quan hệ mật thiết với các hoạt động của CIA, lính đánh thuê của công ty Hoa Kỳ Blackwater, điệp viên tình báo châu Âu, và quân du kích phát xít đóng vai trò mũi nhọn trong lực lượng vũ trang Ukraina. Điều đó dẫn tới khả năng về việc đồng lõa trực tiếp của một bộ phận trong nhà nước Hoa Kỳ với vụ giết hại các hành khách và phi hành đoàn trên máy bay MH17. 

Đáng chú ý là truyền thông Nga đưa tin máy bay MH17 bay sớm hơn qua đường bay của máy bay chở tổng thống Nga Vladimir Putin trở về từ World Cup và hội nghị quốc tế tại Brazil, và cơ quan ở Moscow tin rằng tên lửa bắn hạ chiếc MH17 có thể là nhằm vào Putin. Không thể xác minh được bản tin đó có chính xác hay không. Mặc dù vậy, nếu cơ quan nhà nước Nga tin rằng tình báo Hoa Kỳ và châu Âu âm mưu ám sát người đứng đầu nhà nước Nga, thì sự dính líu thật không thể tin được. 

Mặt khác, nếu theo như chiến dịch tuyên truyền của Hoa Kỳ khẳng định, chiếc máy bay MH17 bị lực lượng liên minh với Nga hay được Nga viện trợ trực tiếp bắn hạ, thì thông điệp mà Nga muốn đưa ra là gì khi họ sẵn sàng giết hại gần 300 người. Điều đó có thể cho thấy Moscow muốn đưa cuộc khủng hoảng Ukraina đi xa hơn mức mà Washington có thể kiểm soát, và tình hình sẽ cực kỳ nguy hiểm. 

Truyền thông và chính khách Hoa Kỳ, trong khi cấp tốc lên án Nga, dường như hoàn toàn không quan tâm tới câu hỏi đó. Đây là thái độ vừa khinh suất vừa bộp chộp. Thảm họa MH17 đã tiết lộ cuộc khủng hoảng sâu sắc của chủ nghĩa đế quốc phương Tây và nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới.

Thursday, June 5, 2014

Nhà nước do Obama hậu thuẫn khủng bố miền đông Ukraina

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Obama backs state terror against eastern Ukraine" của tác giả Bill Van Auken, bình luận những tin tức mới nhất về tình hình chiến sự tại Ukraina.

Trong cuộc họp với tổng thống tỷ phú Ukraina Petro Poroshenko ở Warsaw vào thứ tư, tổng thống Obama đã tuyên bố hoàn toàn ủng hộ cái được gọi là “chiến dịch chống khủng bố” ở miền đông Ukraina và hứa hẹn về quân nhu mới cũng như huấn luyện để thực hiện thứ mà đang nhanh chóng trở thành một vụ tắm máu.

Tuyên bố trung thành với Poroshenko của Obama, Poroshenko được biết đến như “vua sô cô la”, được đưa ra giữa những bằng chứng mới về tội ác chiến tranh của của quân đội chính quyền Kiev và du kích phát xít đang chiến đấu theo lệnh của họ. Những tội ác này nhằm khủng bố để buộc người dân Donetsk và Luhansk phải khuất phục, đây là những khu vực đã phủ nhận tính hợp pháp của chính phủ được dựng lên bằng cuộc đảo chính do phương Tây hậu thuẫn và do phát xít đóng vai trò mũi nhọn vào tháng hai vừa qua.

Quan chức thành phố Krasnyi Lyman ở khu vực Donetsk phát biểu với truyền thông là bệnh viện địa phương đã bị nã pháo dồn dập vào đêm thứ ba, gây ra thiệt hại lớn. Một báo cáo sơ bộ cho biết bác sĩ phẫu thuật hàng đầu bị giết bởi mảnh đạn và ít nhất ba bệnh nhân bị một số thương tích. Nhưng vào thứ tư, nước cộng hòa nhân dân Donetsk (DPR), tự phong sau cuộc trưng cầu dân ý về chủ quyền tháng trước, đã đưa tin là quân đội chính quyền xâm nhập vào bệnh viện và xử tử hơn 25 thương binh địa phương.

“Hơn 25 người đã bị giết, và con số có thể tăng lên”, chủ tịch DPR Denis Pushilin nói với hãng truyền hình Rossiya-24. “Đây là tội ác chiến tranh hiển nhiên; đó là diệt chủng”.

Đó chỉ là một trong số những trận chiến chống đang gia tăng nhằm chống lại các mục tiêu dân sự khi chính quyền Kiev sử dụng chiến đấu cơ phản lực, trực thăng chiến đấu, pháo binh hạng nặng, súng phóng rocket và các vũ khí chiến tranh khác để tấn công khu vực nhằm buộc những người đối lập phải công nhận sự cai trị của họ.

Các trường học, các trung tâm chăm sóc trẻ em, các khu nhà ở và các tòa nhà công sở đều bị tấn công, buộc các gia đình phải trú ẩn dưới hầm tránh bom hoặc tìm cách rời khỏi khu vực chiến sự.

Một trong những cuộc tấn công đẫm máu, vào thứ hai một chiến đấu cơ phản lực bắn đạn rocket trụ sở chính quyền địa phương ở Luhansk, giết chết 5 phụ nữ, những người đang nói chuyện với nhau phía bên ngoài tòa nhà. Ba người đàn ông trong tòa nhà cũng thiệt mạng và có ít nhất 11 người bị thương.

Một video được đăng lên mạng vào thứ tư cho thấy kết quả thảm khốc của vụ không kích. 

Chính quyền Kiev tìm cách phủ nhận việc chiến đấu cơ của họ phải chịu trách nhiệm về cuộc tấn công – cho dù đã bị nhiều cư dân địa phương ghi hình – tuyên bố rằng vụ nổ xảy ra là do các phần tử chống chính quyền bắn nhầm một tên lửa đất đối không cá nhân.

Lời nói dối đó nhanh chóng bị một nhóm điều tra của tổ chức An Ninh và Hợp Tác Châu Âu lật tẩy, nhóm điều tra dựa trên đường đạn đạo và sự phá hủy đối với cây cối ở công viên gần đó đã kết luận là vụ nổ chỉ có thể do tên lửa bắn từ máy bay. Tuy nhiên, Bộ ngoại giao và phần lớn truyền thông Hoa Kỳ vẫn tiếp tục khẳng định rằng nguyên nhân của vụ thảm sát dân thường này vẫn “chưa rõ ràng”. 

Vũ khí được sử dụng trong vụ tấn công được xác định là tên lửa loại S-8KO, một dạng bom chùm đã bị nhiều công ước quốc tế coi là bất hợp pháp.

Bản thân chính quyền Kiev cũng đã đưa ra các báo cáo mâu thuẫn nhau về số thiệt mạng trong “chiến dịch chống khủng bố” của họ. Chỉ huy chiến dịch báo cáo là có 300 người chống chính quyền đã bị tiêu diệt và 500 người khác bị thương. Lãnh đạo của các nhóm tự vệ ở Luhansk và Donetsk đã chế nhạo khẳng định đó, tuyên bố rằng quân đội và du kích của chính quyền chịu nhiều thiệt hại hơn phía họ.

Một ước lượng khác của chưởng công tố lâm thời Kiev, Oleg Makhnitsky, một thành viên của đảng tân phát xít Svoboda, cho biết có 181 người chết, trong đó có 59 quân nhân chính quyền, và 293 người bị thương.

Các khẳng định của Kiev rằng quân đội của họ “đang dọn sạch” miền đông khỏi những kẻ nổi loạn mâu thuẫn với các sự kiện hiện trường, với sự thừa nhận của chính quyền vào thứ tư rằng trại lính biên phòng và các sở chỉ huy của trung đoàn vệ binh quốc gia, cả hai đều ở khu Luhansk đã đầu hàng sau các cuộc tấn công tiếp đó của một lực lượng hoàn toàn vượt trội với các chiến binh chống chính quyền

Trong một nỗ lực đảo ngược thất bại, chính quyền thông báo vào thứ tư rằng họ đang triển khai một kế hoạch áp đặt thiết quân luật tại các khu vực Donetsk và Luhansk. “Đây là một cuộc chiến thật sự, và những gì chúng ta đang làm là nâng cấp tình trạng pháp luật để đáp ứng hiện thực”, Victoria Siuma, phó thư ký hội đồng anh ninh và quốc phòng quốc gia nói với báo chí. “Đây là quyết định gọi sự vật đúng với tên đích thực của nó”, bà ta bổ sung thêm.

Dường như mục tiêu chính của sự thay đổi là cho phép chính phủ ra lệnh thường dân phải di tản khỏi những khu vực như Luhansk, một thành phố có nửa triệu dân, nhờ đó họ có thể đặt những người còn ở lại vào một trận ném bom tổng lực.

Quan đội Kiev đã tăng cường bao vây Slovyansk, trung tâm trọng yếu của phe đối lập. Cùng với các trận không kích và pháo kích, họ đã ngắt nguồn cung cấp nước của thành phố.

Trong cuộc gặp với Poroshenko vào thứ tư, Obama đã bày tỏ thẳng thắn rằng Washington bị thuyết phục khi chứng kiến chiến lược tội ác này thành công, không quan trọng là bao nhiêu người chết. Có nhiều lý do để tin rằng các chiến dịch quân sự được triển khai dưới sự điều phối của Hoa Kỳ. Cuộc tấn công mới nhất nổ ra ngay sau khi trợ lý an ninh quốc tế của bộ quốc phòng Hoa Kỳ, Derek Chollet, tới thăm Kiev.

Obama thông báo về một khoản bổ sung trị giá 5 triệu dollar cho cái được gọi là viện trợ không sát thương để hỗ trợ chính quyền Kiev trong các trận chiến ở miền đông Ukraina. Khoản này được bổ sung thêm cho gói viện trợ các thiết bị quân sự trị giá 18 triệu dollar đã được chấp nhận trước đó, bao gồm kính nhìn đêm, áo giáp, và thiết bị liên lạc. Ông ta cũng khẳng định rằng Hoa Kỳ cũng sẽ cung cấp huấn luyện quân sự.

Ông ta hợp với tổng thống Ukraina trong 70 phút, vượt qua cả cuộc hợp lâu nhất giữa Poroshenko và ngoại trưởng John Kerry. Ông ta nói họ thảo luận về “các kế hoạch mang tới hòa bình và trật tự cho miền đông” của Kiev cũng như “các kế hoạch kinh tế” sẽ áp đặt các biện pháp thắt lưng buộc bụng cực quyết liệt chống lại giai cấp lao động Ukraina.

Obama gọi việc thiết lập Poroshenko làm tổng thống là “một sự lựa chọn thông thái” mặc dù theo các tài liệu điện tín ngoại giao bí mật bị công khai bởi WikiLeaks thì Washington trước đó vẫn coi nhà tỷ phú này là một “tài phiệt tha hóa”, người “bị bại hoại bởi các cáo buộc tham nhũng đáng tin cậy”

Obama bày tỏ là “ấn tượng sâu sắc bởi tầm nhìn của ông ấy, một phần là bởi kinh nghiệm của ông ấy trong vai trò là doanh nhân”. “Tầm nhìn” này đã dẫn dắt Poroshenko tới sự tha hóa và kịp thời cướp bóc đầy bạo lực tài sản quốc gia, thứ đã biến ông ta thành tỷ phú.

Trong khi đó Nga đã cố gắng không thành công để thúc đẩy một nghị quyết của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc kêu gọi chấm dứt bạo lực ở miền đông Ukraina và thiết lập “các hành lang nhân đạo” cho phép thường dân rời khỏi khu vực giao tranh và cho phép tổ chức Chữ Thập Đỏ cũng như các tổ chức nhân đạo khác tiếp cận. Washington và các quyền lực phương Tây chủ chốt khác đã ngăn cản các biện pháp đó bằng cách khẳng định rằng không có khủng hoảng nhân đạo.

Một quan chức Nga xác nhận vào thứ tư là Moscow không đề xuất áp đặt khu vực cấm bay tại miền đông Ukraina. Tuyên bố trên rõ ràng gợi nhắc đến thủ đoạn của Hoa Kỳ và đồng minh năm 2011 tại Liên Hiệp Quốc, thiết lập vùng cấm bay đối với Lybia với lý do là ngăn chặn quân đội chính quyền thảm sát dân thường ở miền đông quốc gia này.

Mặc dù chính quyền Ukraina tiến hành các cuộc đàn áp đẫm máu ở miền đông, Washinton và các chính quyền châu Âu vẫn không quan tâm tới vấn đề nhân đạo. Trái lại, với sự hợp tác với chính quyền được dựng lên sau cuộc đảo chính tháng hai vừa qua, họ quyết định củng cố chính quyền tay sai bằng cách loại bỏ mọi sự phản kháng.