Showing posts with label Báo chí. Show all posts
Showing posts with label Báo chí. Show all posts

Tuesday, March 29, 2016

Ủy viên Bộ Chính Trị và huyền thoại về Hòn Ngọc Viễn Đông

Việt Nam đã tự mình tạo ra một huyền thoại có thật của thời đại. Chỉ trong một thời gian chưa đầy nửa thế kỷ, người Việt Nam đã đánh bại những đế quốc sừng sỏ nhất thời đại để giành độc lập dân tộc, người Nhật phải từ bỏ giấc mơ Đại Đông Á, người Pháp bị đánh bại ở Điện Biên Phủ, người Mỹ bỏ chạy khỏi miền Nam Việt Nam và Trung Quốc không còn dám nhòm ngó biên giới phía Bắc, bên cạnh đó là cuộc chiến 10 năm đánh bại quân Khmer đỏ được cả Trung Quốc, Hoa Kỳ và Anh hậu thuẫn. Việt Nam là một huyền thoại có thật mà tất cả các nước thuộc địa kiểu cũ và mới đều mơ tới.

Những huyền thoại không có thật

Sau nhiều năm thoát khỏi những gian khổ hậu chiến và xây dựng lại đất nước, dường như huyền thoại của chính bản thân đã bị một số người Việt Nam quên lãng và họ dựa vào những huyền thoại mới, không có thật, thậm chí là bôi nhọ và bác bỏ điều thần kỳ thật sự mà người Việt Nam đã làm được.

Một ông bộ trưởng sắp về hưu đã mượn chuyện bịa đặt về một cậu bé Nhật Bản để noi gương cho Việt Nam, mặc dù đó là một câu chuyện ngớ ngẩn. 

Trước đây tại sao TPHCM được gọi là Hòn ngọc Viễn Đông. Nói Singapore là số 1 của khu vực. Hơn 50 năm trước, ông Lý Quang Diệu đã nhìn về Sài Gòn và mơ ước liệu sau này Singapore có được như Sài Gòn không? Thực chất là khi tách ra khỏi Malaysia thì Singapore mới chỉ là một cái làng chài. Do đó, tôi cho rằng khi đã là số 1 thì phải là toàn diện, tổng thể.
Ông bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh kiêm ủy viên Bộ Chính Trị đã nhắc lại một huyền thoại chống cộng nổi tiếng. Không hiểu từ bao giờ đám chống cộng cặn bã đã bịa ra chuyện Lý Quang Diệu nói rằng Singapore từng ao ước được như Sài Gòn, mục đích là để xuyên tạc rằng Sài Gòn dưới thời thuộc địa xưa giàu có trù phú và cộng sản Việt Nam đã phá hủy nó. 
Lee thinks there's some point to buying time with a shield because he believes in the great-man theory of history. And the great man is none other than Lee Kuan Yew, who thinks that because of his own competence and shrewdness Singapore has succeeded where South Vietnam has failed. "If you can find the group of men who could do it," Lee said in Dunster, "Saigon can do what Singapore did." In fact, the prime minister boasted, "If one looked at Saigon and Singapore in 1954, one would have said Singapore was the goner, not Saigon." (in nghiêng thêm vào)

Trong quá khứ, Singapore đã phát triển hơn Sài Gòn rất nhiều, chính trong bài báo vào năm 1967 đã dẫn ở trên, tờ The Crimson đã cho biết thu nhập bình quân đầu người của Singapore vào lúc đó là 500 dollar/năm và Singapore có mức sống cao nhất Đông Nam Á, nên việc Singapore ước ao như Sài Gòn rõ là chuyện hoang đường. Trong bài phát biểu tại Havard vào năm 1967, Lý Quang Diệu chê ngụy quyền Sài Gòn không làm được điều mà Singapore đã làm khi nói rằng: “Nếu ai đó nhìn lại Sài Gòn và Singapore vào năm 1954, họ sẽ phải thừa nhận rằng Singapore dễ sụp đổ hơn nhiều.” Ở đây Lý nói về tình hình chính trị hồi đó. Ông ta cho rằng ngụy quyền Sài Gòn đã có điều kiện chính trị thuận lợi hơn Singapore nhiều vào năm 1954 để duy trì sự độc lập và chống lại cộng sản, nhưng ngụy quyền Sài Gòn không làm được điều ấy. Một câu nói chỉ trích sự thất bại của chính quyền Sài Gòn của Lý Quang Diệu đã bị đám chống cộng xuyên tạc thành câu ca tụng Sài Gòn thời thuộc địa.

Tất nhiên cho dù ông bí thư thành ủy có ngây thơ, không biết rằng đó là một câu chuyện bịa đặt thì cũng chưa phải là vấn đề lớn. Chuyện quan trọng hơn nhiều là lập trường chính trị của một bí thư thành ủy và ủy viên bộ chính trị. 

Về Lý Quang Diệu

Báo chí Việt Nam hiện nay thường hay trích dẫn những điều Lý Quang Diệu nói về Việt Nam mà họ thấy vừa tai, thậm chí một số tờ báo còn gọi Lý là bạn của nhân dân Việt Nam (mặc dù người bạn tốt này thường xuyên ủng hộ đế quốc chia cắt đất nước và ném bom xuống đầu người dân Việt Nam), nhưng họ không bao giờ đưa tin về hoạt động chống phá Việt Nam điên cuồng của ông ta. Thời chiến tranh chống Mỹ, Lý Quang Diệu là kẻ ủng hộ Mỹ triệt để nhất. Singapore không chỉ tham gia cung cấp hậu cần và đạn dược cho quân đội Mỹ, khi Mỹ định ngừng ném bom miền Bắc và rút quân khỏi miền Nam, Lý Quang Diệu đã kêu gọi Mỹ tiếp tục tham chiến ở Việt Nam. Ông ta so sánh Việt Nam với Nam Tư ở Châu Âu và nói rằng nếu Mỹ không can thiệp thì cộng sản Việt Nam sẽ xâm lược hết toàn bộ bán đảo Đông Dương. 

Theo con gái của Lý kể lại thì sau khi chế độ ngụy quyền Sài Gòn sụp đổ, Lý Quang Diệu đã gọi cả gia đình vào phòng ngủ và nói rằng: “Mẹ các con và ta sẽ ở lại đây cho đến sự kết thúc cay đắng. Hiển Long đã tham gia quân đội và phải thực hiện nghĩa vụ. Nhưng cả ba người không bị bắt buộc phải ở lại.” Điều này lý giải thái độ chống phá Việt Nam đến cùng của Lý, ông ta sợ rằng Việt Nam sẽ là hình mẫu để người cộng sản ở Malaysia và Singapore noi theo. 

Sau đó, khi Việt Nam chống lại quân du kích Khmer đỏ ở Campuchia thì Lý cũng công khai ủng hộ Khmer đỏ, ông ta không chỉ tiếp tay cung cấp vũ khí cho chúng mà còn bảo vệ chúng trên truyền thông, phủ nhận mọi tội ác mà Khmer đỏ đã gây ra với người Campuchia cũng như người Việt Nam (chi tiết này được nhà báo nổi tiếng John Pilger nhắc đến trong bài báo xuất sắc Year Zero nói về nạn diệt chủng ở Campuchia). Lý chưa bao giờ là người muốn thấy một nước Việt Nam cộng sản giàu mạnh, ông ta sợ điều đó ảnh hưởng tới chế độ gia đình trị thân phương Tây mà ông ta đã tạo ra ở Singapore. Do vậy, những điều mà Lý nói về Việt Nam đều thiên kiến và rất không đáng tin cậy.

Huyền thoại “Hòn Ngọc Viễn Đông”

Có lẽ các nước thực dân có thói quen gọi thuộc địa của họ ở Châu Á là “Hòn Ngọc Viễn Đông” nên Châu Á có rất nhiều “Hòn Ngọc Viễn Đông”. 

Hong Kong là “Hòn Ngọc Viễn Đông” từ lâu.


Manila của Philippines cũng là “Hòn Ngọc Viễn Đông” từ rất lâu.

Sri Lanka cũng vậy. Thậm chí Sri Lanka còn thường xuyên được so sánh với Singapore vì cùng từng là thuộc địa của Anh, cùng là quốc đảo có vị trí thuận lợi trên con đường biển quan trọng, giành độc lập sớm hơn nhưng lại không phát triển như Singapore.

Đảo Penang của Malaysia cũng được gọi là “Hòn Ngọc Viễn Đông”.

Cả Manila của Philippines và đảo Penang của Malaysia đều bị so sánh với Singapore. Lý Quang Diệu đã từng nói rằng ông ta không hiểu lý do Manila từng rất phát triển vào những năm 1960 rồi sau đó lại suy tàn dưới thời Marcos. Đảo Penang thì gần giống với Singapore và người Malaysia đã hỏi tại sao Singapore phát triển còn đảo Penang thì không. 

Thành phố Hồ Chí Minh không phải là "Hòn Ngọc Viễn Đông" duy nhất ở Đông Nam Á. 

Điều duy nhất mà người ta có thể hy vọng là sau khi nghe ông bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh kiêm ủy viên Bộ Chính Trị phát biểu về "Hòn Ngọc Viễn Đông" các cựu chiến binh không trở về nhà và họp gia đình. 

Thursday, March 17, 2016

Những huyền thoại an ủi: Canada và chiến tranh Việt Nam

Trong bài viết "Những huyền thoại an ủi: Canada và Chiến Tranh Việt Nam", tác giả Yves Engler đã phơi bày sự thật về huyền thoại một cựu thủ tướng Canada chống chiến tranh Việt Nam, mà thực ra ông ta ủng hộ nó. Điều này làm chúng ta liên tưởng đến huyền thoại Ngô Đình Diệm là người theo chủ nghĩa dân tộc và chống lại Hoa Kỳ. Tất nhiên đó là sự dối trá.

Những huyền thoại an ủi: Canada và chiến tranh Việt Nam

Trong khi việc đưa tin về chuyến viếng thăm Washington mới đây của Justin Trudeau vô vị một cách đáng ngạc nhiên trong sự nhấn mạnh vào “sự thân thiết” giữa Obama và thủ tướng Canada, ít nhất nó cũng chính xác (theo nghĩa giới hạn mà truyền thông chính thống đặt ra), ngoại trừ việc chương trình 60 Phút đã nhầm lẫn một cách nực cười bức ảnh ngôi sao Kim Cattral của phim Sex and the City với Margaret Trudeau. Tuy vậy, một nội dung khác đã không bị truyền thông chống lại như là lời nói dối và huyền thoại quốc gia nguy hiểm.

Một số hãng truyền thông đã thảo luận về việc Lester Pearson viếng thăm Lyndon Johnson sau khi ông ta được cho là “có một bài phát biểu lên án sự can dự của Hoa Kỳ ở Việt Nam.” Báo chí Canada đã tường thuật bài phát biểu của cự thủ tướng và cuộc gặp mặt với tổng thống Hoa Kỳ như sau: “’Pearson không bao giờ viếng thăm nữa, sau xung đột nổi tiếng năm 1965. Ông ấy phản đối chiến tranh Việt Nam và Johnson đã tóm lấy ve áo của ông ta rồi nói gằn giọng: “Đừng đến phòng ngủ của tao và đái ra chăn của tao.’”

Phát biểu của Pearson tại đại học Temple ở Philadelphia vào đêm trước khi ông ta gặp Johnson dường như là ví dụ được trích dẫn nhiều nhất về việc lãnh đạo Canada (được cho là) phản đối chủ nghĩa quân phiệt Hoa Kỳ. Ngay cả các tác giả nói chung là quan trọng như Linda McQuaig cũng nhắc đến nó như là “sự đóng góp vào nỗ lực chấm dứt của chiến tranh Hoa Kỳ ở Việt Nam.”

Nhưng đây là điều mà Pearson đã thực sự nói ở Philadelphia: “Chính quyền và đại đa số người dân ở đất nước tôi hoàn toàn ủng hộ chính sách giữ gìn hòa bình và tạo dựng hòa bình của Hoa Kỳ ở Việt Nam.” 

Trong Sự đồng phạm lặng lẽ: Sự can dự của Canada trong Chiến Tranh Việt Nam, Victor Levant đặt phát biểu của Pearson vào bối cảnh chính xác: 

“Trong bài diễn văn ở Temple, thủ tướng không chấp nhận tất cả những điều kiện và hầu hết các kết luận của chính sách Hoa Kỳ. Theo quan điểm của Pearson, nguyên nhân chính gây ra sự gia tăng chiến tranh ở Việt Nam là sự xâm lược của Bắc Việt. Ông ta nói, ‘tình hình này không thể cải thiện được cho đến khi Bắc Việt hiểu rằng sự xâm lược, dưới bất cứ vỏ bọc nào, vì bất kỳ lý do gì, đều không được chấp nhận và sẽ không thể thành công.’ Điều này có tác động rộng lớn, do ‘không có quốc gia nào… có thể cảm thấy an toàn nếu như sự đầu hàng ở Việt Nam dẫn đến sự biện hộ cho xâm lược thông qua lật đổ và chiến tranh giải phóng quốc gia giả tạo.’ Nếu như hòa bình có thể đạt được, điều kiện đầu tiên là ngừng bắn và điều này chỉ diễn ra nếu như Hà Nội thừa nhận những sai lầm trong đường lối của họ: ‘hành động xâm lược của Bắc Việt để mang sự giải phóng cộng sản (có nghĩa là sự cai trị của cộng sản) đến Nam Việt Nam phải chấm dứt, chỉ khi đó thì đàm phán mới có thể diễn ra.’ Hành động quân sự của Hoa Kỳ nhằm mục đích chống lại sự xâm lược của Hà Nội, các biện pháp có đi quá xa, trong đó có việc ném bom miền Bắc, song hoàn toàn chính đáng: ‘các cuộc tấn công trả đũa đối với các mục tiêu quân sự của Bắc Việt, vốn là một sự khiêu khích lớn, nhằm mục đích cho thấy rõ rằng việc duy trì chính sách xâm lược đối với miền nam sẽ trở thành một gánh nặng lớn đối với chế độ miền Bắc. Sau khoảng hai tháng không kích, thông điệp đã được đưa ra rõ ràng và sáng tỏ.’”

Levant viết tiếp:

“Mặt khác, Pearson khẳng định rằng việc tiếp tục ném bom, thay vì làm suy yếu ý chí kháng cự của Hà Nội, có thể dẫn đến tình thế không khoan nhượng. Do đó, ông ta đề xuất một động thái chiến thuật là Hoa Kỳ nên cân nhắc “tạm ngừng” ném bom: ‘có nhiều yếu tố mà tôi không ở vị thế để cân nhắc. Nhưng ở đây ít nhất là việc tạm ngừng không kích Bắc Việt, vào đúng thời điểm, có thể cho nhà cầm quyền Hà Nội một cơ hội. Nếu họ muốn đón nhận cơ hội đó, để tạo ra một số sự linh hoạt cho chính sách của họ mà không có vẻ như là phải làm điều đó dưới sức ép quân sự. Nếu như sự tạm ngừng diễn ra trong một thời gian giới hạn, tỷ lệ đụng độ ở Nam Việt Nam có thể cho thấy cách đo lường chính xác sự hữu dụng và mong muốn tiếp tục. Dĩ nhiên, tôi không đề xuất bất cứ sự nhượng bộ nào về nguyên tắc, hay bất cứ cắt giảm sức kháng cự xâm lược nào ở Nam Việt Nam. Sự kháng cự có thể đòi hỏi gia tăng sức mạnh quân sự được dùng để chống lại và tấn công cộng sản có vũ trang. Tôi chỉ muốn đề xuất rằng một sự tạm ngừng có tính toán và được thông báo trên chiến trường vào đúng lúc có thể tạo điều kiện thuật lợi cho sự phát triển các giải pháp ngoại giao vốn không dễ dàng áp dụng cho vấn đề trong tình thế hiện tại. Ít nhất, điều đó cũng có thể cho thấy sự không khoan nhượng của chính quyền Bắc Việt.’” 

Hãy tiếp tục phân tích lập trường “chống chiến tranh” của Pearson. Khoảng 3 triệu người Việt Nam đã chết trong chiến tranh của Hoa Kỳ ở Đông Dương, với khoảng 100.000 người chết khi Hoa Kỳ ném bom miền Bắc. Đánh giá phát biểu của Pearson ở Temple theo các khái niệm hời hợt nhất, sự phản đối ném bom miền Bắc là lời kêu gọi chấm dứt 3,3% số người chết.

Khi Pearson gặp Johnson vào ngày kế tiếp, tổng thống đang phát khùng vì các quan chức lập chính sách đối ngoại cao cấp đã tranh luận về việc tạm ngừng ném bom Bắc Việt (điều sẽ diễn ra một tháng sau đó và khi Washington tái khởi động chiến dịch ném bom thì Pearson lại công khai bảo vệ nó). Bằng phát biểu của mình, Pearson đã đứng về phía các đối thủ của Johnson trong chính quyền Hoa Kỳ sau khi Johnson ra lệnh ném bom. Theo các tài liệu nội bộ của chính quyền được tiết lộ trong Hồ Sơ Lầu Năm Góc, vào tháng 5 năm 1964, Pearson đã đồng ý với yêu cầu của Johnson về việc có các thanh sát viên Canada trong Ủy Ban Kiểm Soát Quốc Tế, vốn được coi là để giám sát việc triển khai Hiệp Định Geneva và thống nhất hòa bình Việt Nam, để chuyển thông điệp đe dọa ném bom của Hoa Kỳ cho các lãnh đạo Bắc Việt. Khi làm điều đó, chủ nhân giải Nobel Hòa Bình của Canada đã tiếp tay cho tội ác chiến tranh nghiêm trọng. 

Câu chuyện về việc Johnson phản đối Pearson vào ngày kế tiếp chỉ được phơi bày một thập kỷ sau đó, khi hành động của Hoa Kỳ ở Việt Nam đã hoàn toàn tai tiếng. Vào năm 1974, cựu đại sứ Canada ở Washington Charles Ritchie viết, “tổng thống bước về phía ông ta và nắm lấy ve áo khoác của ông ta, đồng thời đưa tay kia lên trời.” Ritchie tường thuật Johnson đã nói: “Mày đừng có đến đây và đái ra chăn của tao.”

Trong khi mô tả của vị đại sứ hầu như là một sự cường điệu, các nhà bình luận sau đó đã tô vẽ cho lời kể của Ritchie. Một người nói Johnson “tóm lấy ve áo khoác của Pearson và lắc ông ta rất mạnh.”

Dĩ nhiên là một câu chuyện giải trí nhưng không phải là sự thật, cũng như việc nói rằng Lester Pearson phản đối chiến tranh là sự dối trá.

Trong khi đối với những người tạo ra huyền thoại quốc gia logic và sự kiện không cần phù hợp thì điều quan trọng là chúng ta hiểu thực tế của quá khứ nếu như chúng ta muốn xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn.

Yves Engler là tác giả của cuốn sách The Ugly Canadian: Stephen Harper’s Foreign Policy

Monday, November 16, 2015

Sắc màu của thảm kịch: Paris và truyền thông

Nhà báo nữ Tamara Pearson trong bài viết "The Colors of Tragedy: Paris and the Media" mổ xẻ sự thiên lệch của truyền thông trong sự kiện thảm sát ở Paris. Màu cờ nước Pháp tràn ngập thế giới sau vụ thảm sát ở Paris, còn khi phương tây thảm sát hàng triệu người ở đâu đó trên thế giới thì không có lá cờ nào được vẫy lên. Thảm kịch được tầm thường hóa, chỉ được đưa tin nhằm mục đích câu khách, đồng thời lảng tránh sự thật. 

Sắc màu của thảm kịch: Paris và truyền thông

Khi Paris run rẩy đối mặt với vụ tấn công kinh hoàng vào thứ sau, Beirut cũng vậy sau vụ đánh bom kép vào thứ năm và Palestin cũng vậy hàng ngày. Nhưng nhà hát Opera Sydney chỉ đổi màu vì Pháp và cho nước Pháp – lặp lại sự phản ứng đối với sự kiện Hebdo – các tổng thống phương tây phát biểu trong sự bàng hoàng và truyền thông tư nhân tường thuật trực tiếp, các slide show và các trang đăng video.

Ưu tiên về thảm kịch của truyền thông phản ánh và duy trì ưu tiên về chính trị, theo đó cuộc sống của một số người được coi là quan trọng hơn. Hơn nữa, bằng cách sử dụng thảm kịch có lựa chọn, biến thảm kịch thành giật gân để câu khách và do đó tầm thường hóa thảm kịch, thâm chí bỏ qua việc đưa tin số người chết bởi vì họ không thật sự hiểu. 

Truyền thông đã cực kỳ hấp tấp. Cho dù là truyền hình về tổn thất và đau khổ của địa phương cho sự tò mò tọc mạch của khán giả phương tây mà không cần quan tâm nhiều đến câu chuyện ở phía sau – như trong trường hợp động đất ở Nepal – hay cá nhân hóa các nạn nhân ở Paris, bao quát dòng thời gian của bạo lực theo chi tiết từng phút nhưng dàn xếp để duy trì sự thờ ơ bất chấp sự kiện.

Truyền thông không chỉ tác động tới cái mà khán giả biết, mà còn là cách họ suy nghĩ và điều mà họ quan tâm. Truyền thông không đưa tin về bốn năm biến Syria thành đống hoang tàn, theo cách chi tiết. Truyền thông đã lãng quên Nepal, những dòng tít tuyệt vời nhất đã biến mất và các phân tích về khôi phục và xây dựng dường như quá khó để theo dõi. Người tị nạn chỉ hiện ra trên truyền thông khi họ đặt chân lên đất của thế giới thứ nhất. Truyền thông có có vai trò trong nhận thức phê phán về các cấu trúc kinh tế cũng như xã hội phía sau thảm kịch, nhưng trong thực tế, do chủ sở hữu của truyền thông và động cơ lợi nhuận, nó sẽ không làm vậy. Không chỉ là về bán hàng, truyền thông là sức mạnh phục vụ cho một phe.

Gói tin tức mà truyền thông giới thiệu – những thảm kịch mà chúng trình bày cũng như những thảm kịch mà chúng bỏ qua củng cố một sự bất bình đẳng xã hội nghiêm trọng. Bất cứ đứa trẻ nào cũng biết, điều quan trọng là ai và cái gì phải được chú ý. Thảm kịch của nghèo đói và sự cô lập xã hội quy mô lớn bị truyền thông hạ thấp trong khi máy bay rơi và các vụ nổ súng chiếm vị trí trung tâm. Không phải là chúng phải như vậy mà thực ra là kém may mắn, những thảm kịch lớn nhất diễn là hàng ngày, chúng là dài hạn, tuần hoàn, chúng có nguyên nhân, nhưng đó là những con người sai lầm và thiếu những tiêu đề hấp dẫn, do vậy chúng bị kiểm duyệt bằng sự chung chung, cam chịu, im lặng. Điều đó có nghĩa là chúng được bình thường hóa và chấp nhận.

Các thảm kịch bị hạ thấp 

Những vụ thảm sát hàng triệu người mỗi năm cho tới các dịch bệnh có thể ngăn chặn được không được thừa nhận.

Sự xô đẩy tán loạn trong im lặng của những công nhân quá mệt mỏi bị trả lương thấp không được nhận thấy. Biến trí tuệ sâu sắc thành tư duy tầm thường, sự thể hiện chết cứng, bởi vì giáo dục cao đắt đỏ hơn truyền hình và điện thoại. Sự sáng tạo, nếu nó còn sống sót, được bán cho người đặt giá cao hơn.

Giới hạn với tình dục, giới tính và tồn tại. Có nghĩa là truy tố sự đa dạng và sản xuất có hệ thống ra sự cô độc.

Đầu độc hành tinh, cuộc sống trở thành bốc dầu hỏa và hận thù chờ bùng cháy.

Sự miễn tố của cảnh sát đối với tội sát nhân và sự miễn tố các quốc gia đối với bom đạn.

Ở trường học, lịch sử được dạy theo một chuỗi sự kiện, từ sự kiện này đến sự kiện khác, như là những anh hùng ngẫu nhiên và cá nhân, hơn là một quá trình. Đối với truyền thông ngày nay cũng vậy, Paris là một chuỗi sự kiện, không phải là một chủ đề phức tạp. Nếu có hành động nào xảy ra, điều đó sẽ đơn giản – trừng phạt kẻ thù, cho phép kẻ thù trở thành người dân, bỏ qua bối cảnh, câu hỏi và hậu quả. Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đã tràn ngập các mạng xã hội sau khi Paris được mổ xẻ bằng phân tích nguyên nhân-kết quả - hiện nay đa số bản tin của truyền thông thiếu sự toàn diện . Đâu là các lực lượng và quyền lực tham gia? Đâu là bạo lực xâm lược, cô lập toàn bộ người dân, chuyện đó có liên quan đến chuyện này không? Tạo sao một số vụ bạo lực đối với một số dạng người được chấp nhận, còn đối với những người khác thì không? Đó có phải là một thảm kịch tự sát không?

Tamara Pearson is a long time journalist based in Latin America, and author ofThe Butterfly Prison. Her writings can be found at her blog.

Thursday, October 15, 2015

Thao túng thực tại: Facebook đang nghe lén bạn

Trong bài "Manipulating Reality: Facebook is Listening to You" giáo sư Mel Gurtov cảnh báo về việc các doanh nghiệp cung cấp mạng xã hội thu thập thông tin cá nhân người dùng để bán quảng cáo và tệ hơn nữa là cung cấp cho chương trình giám sát của chính quyền Hoa Kỳ, vi phạm quyền riêng tư căn bản của cá nhân. Nhưng xã hội tư bản là như vậy, khao khát biến con người thành cỗ máy tiêu thụ vô tận những gì doanh nghiệp sản xuất ra sẽ không bao giờ chấm dứt.

Thao túng thực tại: Facebook đang nghe lén bạn

Điều mà chúng ta đều quá quen thuộc là thực tại của chúng ta có thể bị thao túng để tạo thành vẻ ngoài của một thứ gì đó hoàn toàn khác biệt. Xâm lược quốc gia khác là tự vệ, bầu cử gian lận được coi là dân chủ trong hành động, thêm súng đạn (hoặc vũ khí hạt nhân) để đảm bảo hòa bình, thương mại và đầu tư nước ngoài tạo ra nhiều công ăn việc làm ở quê nhà. Logic kiểu Orwell đã trở nên phổ biến.

Điều mà tôi muốn bàn luận ở đây là một dạng thao túng khác: Cách thức Facebook và các loại truyền thông xã hội khác sử dụng thông tin mà chúng ta hầu như không biết rằng đang cung cấp chúng cho họ – bao gồm cả những từ ngữ chúng ta nói riêng tư ở nhà – để quảng cáo các sản phẩm mà chúng ta không yêu cầu hay hầu như không muốn, cũng như chuyển dữ liệu cho chính quyền.

Tôi không phải là người đầu tiên khám phá ra năng lực đáng kinh ngạc này. Một số người khác đã bày tỏ sự ngạc nhiên và tức giận khi họ nhận thấy những từ khóa mà họ sử dụng khi trao đổi thông tin trên Facebook và Twitter, như thông điệp, vị trí, tâm trạng, cũng như các đàm thoại riêng tư ở bất cứ đâu tại nhà của họ, đã bị thu gom và hầu như ngay lập tức chuyển hóa thành quảng cáo. Anh đề cập tới một môn thể thao nào đó và quảng cáo của đại lý bán vé xuất hiện. Anh nói thích lái xe Lexus và quảng cáo xe Lexus bật ra. Anh nói về kỳ nghỉ và quảng cáo Facebook giới thiệu với anh bãi biển Hawaii hoặc một khách sạn nhỏ ở Paris – nhìn kìa và thấy đấy – anh mới chỉ nhắc đến chuyện đó ngày hôm qua!

Đây là ảo giác? Liệu Facebook (hay Instagram, Google hoặc Yahoo) có khả năng nghe được trong đàm thoại của chúng ta không? Facebook đã thừa nhận rằng mô hình kinh doanh của họ dựa trên dữ liệu mà chúng ta nhập hoặc trao đổi trực tuyến, dữ liệu mà chúng ta tạo ra trở thành tài sản của Facebook, (như Mark Zuckerberg, CEO của Facebook đã lập luận) đằng nào thì hầu hết mọi người cũng không quan tâm nhiều đến sự riêng tư. Dĩ nhiên Facebook và truyền thông xã hội đều bảo vệ mô hình của họ bằng cách nói với bạn rằng họ đáp ứng sự mong muốn của bạn và nếu bạn muốn thì họ có thể giảm bớt (nhưng không chấm dứt hoàn toàn) quảng cáo khi mà bạn chỉ cần kiểm tra danh mục được cung cấp trong phần thiết lập chương trình. Nhưng như mới đây, Facebook cam đoan rằng chỉ có bạn kiểm soát microphone và (theo lãnh đạo an ninh của Facebook) bạn phải cho phép Facebook kích hoạt nó. Có ai được nhớ là đã được xin phép không?

Có vẻ như là bạn có thể tắt chức năng của microphone ở Windows hoặc ứng dụng di động Facebook trên điện thoại di động hoặc máy tính bảng của mình. Nhưng liệu “tắt” có thực sự là tắt hoàn toàn? Có vẻ như là không. Thí nghiệm của Jodi , vợ tôi, và tôi sau khi tắt microphone trên máy tính của cô ấy và nói về một số thứ khác, quảng cáo xuất hiện trong vòng vài giây sau khi chúng tôi nói.

*Jodi bình luận về diễn viên Robin Wright Penn. Quảng cáo về phim của Sean Penn đã xuất hiện ngay lập tức.

*Chúng tôi thảo luận áo phông cho cháu nội. Quảng cáo áo phông xuất hiện. 

*Jodi nói về trò chơi Scrabble dang dở. Ngay lập tức quảng cáo về trò chơi Yahtzee xuất hiện.

*Jodi mô tả bề ngoài phù hợp với tuổi của cô ấy, như nếp nhăn và tóc xám, quảng cáo về “Chiến thắng tuổi tác” của Maybeline hiện ra.

Giờ thì bạn nói ổn thôi, nhưng sự rình mò đó có phải là bất hợp pháp, một sự xâm phạm tính riêng tư không? Người ta đã phản đối trên quy mô lớn việc rình mò trên điện thoại di động của Facebook, nhưng dường như chính sách của Facebook không thay đổi, như tôi đã nhận thấy. Ở mức độ hợp pháp, một nghiên cứu của Bỉ đã chỉ ra – bằng cách này, người Châu Âu lo ngại và quan tâm tới trò lừa dối của Facebook hơn là người Mỹ —“tùy chọn tắt” quảng cáo không phải là thứ đã được thông tin và trực tiếp đồng thuận. Hơn nữa, Facebook không cần đến sự đồng thuận của chúng ta để thu thập dữ liệu từ các nguồn khác, để thu thập dữ liệu vị trí mà điện thoại di động cung cấp, để sử dụng các bức ảnh hay dữ liệu khác (như “like”) mà người dùng nhập vào.

Tôi cho rằng báo cáo của Bỉ phù hợp với tuyên bố chính sách mới đây của Facebook (2015), Facebook có thể thu thập mọi và toàn bộ dữ liệu phát sinh từ việc sử dụng facebook của bạn cũng như thiết bị mà bạn dùng để truy cập Facebook. “Mọi thông tin” có nghĩa là toàn bộ các dữ liệu bạn nhập vào, bất kể là về bản thân bạn hay một bên nào khác, bất kể là dưới dạng chữ viết, tiếng nói hay hình ảnh. Ngay cả khi bạn xóa bỏ tài khoản Facebook của mình, tất cả thông tin mà bạn cung cấp vẫn tồn tại.

Bên cạnh đó cũng có một vấn đề nghiêm trọng hơn: Các cơ quan chính quyền Hoa Kỳ thu thập và sử dụng dữ liệu truyền thông xã hội, đáng chú ý là Ủy Ban An Ninh Quốc Gia (NSA). Thực tiễn đã bị Edward Snowden tiết lộ này có cả sự tham gia của Facebook, Apple và một số công ty công nghệ khác trong chương trình PRISM của NSA, nhằm thu thập trực tiếp dữ liệu từ các doanh nghiệp hơn là qua mạng Internet.

Sự xâm phạm tính riêng tư đã bị Liên Minh Châu Âu phản đối. Vào năm 2000, EU chấp nhận đề xuất của Hoa Kỳ về việc thiết lập một chương trình “Bến An Toàn” để chuyển giao dữ liệu cá nhân ở Châu Âu, mà Facebook, Google và Amazon thu thập được, cho Hoa Kỳ. Thỏa thuận này đã được Tổng Chưởng Lý của Tòa Án Hình Sự Châu Âu (ECJ) xem xét lại, họ cho rằng thỏa thuận này vi phạm quyền cơ bản của người dân Châu Âu. Tổng Chưởng Lý phát hiện ra rằng dữ liệu có thể được “NSA và các cơ quan an ninh khác của Hoa Kỳ truy cập trong khuôn khổ một chương trình giám sát quy mô lớn và không phân biệt.”

Tòa Án Hình Sự Châu Âu đã đồng ý với ý kiến này, tuyên bố “Bến An Toàn” vô hiệu. Tòa án phán quyết rằng Bến An Toàn “phải phù hợp với quyền căn bản để tôn trọng đời sống riêng tư.” Đó là cú đòn nặng, mặc dù chưa phải là đòn kết kiễu, đối với Facebook và các công ty khác tham gia vào việc chuyển giao dữ liệu ở Châu Âu. Châu Âu đã thúc ép các công ty này, đặc biệt là Google và Amazon, về những vấn đề khác, như luật anti-trust. Một cách lý tưởng, phán quyết của ECJ cũng như các hành động khác của Châu Âu sẽ tạo động lực cho người Mỹ đấu tranh đòi quyền riêng tư và sự minh bạch hơn trong cách thức các doanh nghiệp khổng lồ về công nghệ thực hiện kinh doanh.

Việc truyền thông xã hội xâm phạm sự riêng tư có khiến bạn phiền lòng, hay bạn sẽ cân nhắc sự đánh đổi giữa sự riêng tư và kết giao xã hội? Bạn có thể kiểm soát sự riêng tư của mình với máy tính, điện thoại và máy tính bảng ra sao? Bạn có kinh nghiệm về các kiểu nghe lén mà tôi đã đề cập không?

Mel Gurtov is Professor Emeritus of Political Science at Portland State University, Editor-in-Chief of Asian Perspective, an international affairs quarterly and blogs at In the Human Interest.

Sunday, October 11, 2015

Trung Quốc cho Việt Nam thuốc chữa sốt rét còn Mỹ cho Việt Nam chất độc màu da cam

Trong bài viết "For Vietnam: Artemisinin From China, Agent Orange From America", giáo sư John Walsh so sánh về nỗ lực của Hoa Kỳ và Trung Quốc trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, chỉ ra rằng Hoa Kỳ đã thất bại trong việc phát triển thuốc chữa bệnh sốt rét trong khi Trung Quốc nghèo nàn hơn lại thành công. Thuốc chữa bệnh sốt rét đóng vai trò rất quan trọng trong việc cứu sống nhiều triệu mạng người, nỗ lực của Trung Quốc đã được công nhận rất muộn bằng giải Nobel sinh học/y học. Ngay cả khi phải thừa nhận thành công của Trung Quốc, truyền thông phương Tây cũng không quên xuyên tạc, bóp méo sự thật để hạ thấp Trung Quốc. 


Chiến dịch Ranch Hand, rải chất độc màu da cam ở Việt Nam
Một nửa giải Nobel về y học hoặc sinh lý học sẽ được trao cho Tu Youyou vì khám phá ra thuốc artemisinin chống lại bệnh sốt rét. Nhiều người nghiên cứu khoa học công nghệ sinh học cảm thấy điều này đã bị trì hoàn quá lâu.

Phát hiện ra artemisinin đã cứu sống hàng triệu người. Giải Nobel là một thừa nhận xứng đáng đối với tiến sĩ Tu, đối với Trung Quốc và vai trò tiến bộ của phụ nữ trong khoa học ở Trung Quốc cũng như khắp thế giới.

Đây là câu chuyện kể thú vị về phát kiến của bác sĩ Tu. Tờ The Hindu của Ấn Độ đã công bố câu chuyện ở đây:
(Vào những năm 1960, Bắc Việt và Việt Cộng đang có chiến tranh chống lại sự xâm lược quy mô lớn của Hoa Kỳ, bệnh sốt rét lan tràn trong khu vực. jw) Đấu tranh với căn bệnh sốt rét đang tàn phá quân đội, thủ tướng Hồ Chí Minh [1] của Việt Nam yêu cầu chủ tịch Mao thiết lập một chương trình nghiên cứu quân sự bí mật để điều trị bệnh sốt rét với thuốc truyền thống của Trung Quốc. Dự án 523 (có thể được khởi sự vào ngày 23 tháng 5) bắt đầu nghiên cứu cách điều trị vào năm 1967. Chương trình được chính thức kết thúc vào năm 1981.
Sự thúc giục của Mao dẫn đến khám phá của Tu 

Trong gần hai thiên niên kỷ, các thầy thuốc Trung Quốc đã sử dụng lá cây thanh hao hoa vàng để chữa sốt. Nhóm của Tu đã thu thập 2.000 công thức với 640 loại thảo mộc, từ đó Tu thu gọn lại thành một số ứng cử viên tiềm năng. Dự án dẫn đến việc khám phá ra thuốc chữa sốt rét artemisinin, là một trong những sự chuyển hóa thành công nhất liệu pháp truyền thống thành phương thuốc hiện đại.

“Trong vài năm, hàng trăm nhà khoa học đã thử nghiệm hàng ngàn chất tổng hợp nhân tạo mà không thành công, cũng cần phải biết rằng chương trình tương tự ở Hoa Kỳ cũng không đem lại kết quả gì,” một bài báo trên tờ New Scientist được xuất bản vào thứ hai sau thông báo về giải thưởng ghi nhận. “Thuốc tổng hợp không được tiếp tục, sự chú ý quay trở lại với các phương thuốc truyền thống của Trung Quốc. Chính quyền yêu cầu Học Viện Y Học Cổ Truyền Trung Quốc ở Bắc Kinh bổ nhiệm một nhà nghiên cứu để tìm kiếm các thảo mộc trong vườn của Trung Quốc cho việc chữa trị. Học viện chọn Tu, một nhà khoa học ở giữa sự nghiệp đã nghiên cứu cả thuốc Trung Quốc và phương tây, đủ hiểu biết về cả hai để thực hiện điều đó không phải là công việc đơn giản.” Tu làm theo các hướng dẫn trong văn bản cổ 1.600 tuổi đời có tên là “Đơn thuốc cấp cứu giữ mạng người”. Văn bản viết rằng cây thanh hao hoa vàng phải sắc bằng nước và uống lỏng. 

“Các nhà nghiên cứu thủ nghiệm liều thuốc trên khỉ và chuột và thấy hiệu quả 100%,” tờ New Scientist trích dẫn lời của Tu. “Chúng tôi đã tạo ra thuốc chữa sốt rét,” Tu nói. “Chúng tôi rất phấn khởi.”

Giờ là điều mà Hoa Kỳ làm cùng lúc đó, Hoa Kỳ tham gia vào cuộc chiến bất hợp pháp và tội ác ở Việt Nam dựa trên lời nói dối về sự kiện Vịnh Bắc Bộ, cáo buộc tàu chiến Việt Nam đã bắn vào tàu chiến Hoa Kỳ trên Vịnh Bắc Bộ [2]. Kết thúc cuộc xâm lược của Hoa Kỳ, có ít nhất hai triệu người Đông Nam Á đã bị giết hại, theo Robert McNamara, kiến trúc sư trưởng của cuộc chiến do JFK bổ nhiệm. Còn có nhiều người Châu Á hơn nữa bị thương và phải di cư – 50.000 người Mỹ thiệt mạng, cũng không kém phần bi thảm hơn con số nhỏ của họ.

Để chống lại cuộc chiến tranh du kích của người Việt Nam, Hoa Kỳ đã rải nhiều tấn chất độc màu da cam xuống rừng rậm và dân cư, chắc chắn là một tội ác chiến tranh khủng khiếp. Điều này gây ra các bệnh tật nghiêm trọng và dị tật bẩm sinh của hàng trăm ngàn người, một di sản vẫn đang ám ảnh người Việt Nam. Hàng chục ngàn, có thể là hàng trăm ngàn, lĩnh Mỹ cũng bị nhiễm độc.*

Nhưng sự tương phản không thể rõ ràng hơn. Trung Quốc phát triển thuốc artemisinin trong khi đế quốc Hoa Kỳ rải chất độc màu da cam tại Việt Nam. Mỗi quốc gia có sự ưu tiên của mình và một hóa chất để phục vụ.

Rõ ràng là ngày nay vẫn không hề có sự thay đổi căn bản – khung cảnh những cánh đồng chết của đế quốc chỉ chuyển sang Trung Đông trong chốc lát và đang được lên kế hoạch để quay trở lại Đông Á với móng vuốt Nhật Bản của Hoa Kỳ vào lúc này. Nếu như kẻ khát máu Hillary trở thành tổng thống, Việt Nam và Iraq sẽ chỉ như là trò trẻ con so với những tàn phá và thiệt hại nhân mạng mà bà ta sẽ mang đến Đông Á. 

Dĩ nhiên, chúng ta biết rằng đây là lúc để chống lại chiến tranh và thừa nhận sự độc ác của đế quốc. Mark Twain và Andrew Carnegie đã đúng khi họ tham gia thành lập Liên Đoàn Phản Đế để phản đối cuộc chiến của Hoa Kỳ ở Philippine. Từ lâu, chống chiến tranh đã không còn đủ nữa. Liên Đoàn Phản Đế thế kỷ 21 của chúng ta đâu? 

Bình luận bài đưa tin về bác sĩ Tu của tờ New York Time 

Nhìn chung, mục khoa học của tờ New York Times tương đối khách quan, tạo ra độ tin cậy cho một tờ tạp chí mà sự thật bị bác bỏ và nhào nặn điên cuồng trong phần tin tức quốc tế và chính trị. Nhưng ngay cả mục khoa học của tờ NYT cũng không thể tránh được việc tấn công kẻ thù chính thống như Trung Quốc.

Ví dụ, khi tờ Times đưa tin về thành tích của bác sĩ Tu, họ viết:
Nhưng người ta đã từ chối công nhận vị trí học giả cho bác sĩ Tu trong tổ chức khoa học danh giá nhất của Trung Quốc, dường như là bởi vì bà không được đào tạo ở nước ngoài và thiếu bằng tiến sĩ, một nhà bình luận khác cho biết. 
Đó có thể là sự thật và cũng có thể là không, nhưng tình hình đó không phải là duy nhất ở Trung Quốc. Viện Hàn Lâm Khoa Học Hoa Kỳ cũng không kết nạp các nhà khoa học xuất chúng – sau đó họ lại vội vã công nhận khi các nhà khoa học gây bất ngờ và nhận giải Nobel. Tôi quen biết hai người được giải Nobel được Viện Hàn Lâm Quốc Gia công nhận “muộn” và rất nhanh chóng.

Sau đó là điều tương tự trong bài báo của tờ NYT:
Bà nói rằng bà “rất may mắn” là phụ nữ được tới trường đại học, theo một bài đăng trên blog của Songshuhui, một tổ chức phi chính phủ chuyên viết về khoa học.
Nhưng ở đây chúng ta đã không xem xét tới bối cảnh lịch sử. Bác sĩ Tu sinh năm 1930 và bà đủ lớn để tới trường đại học trước Giải Phóng vào năm 1949. Ít nhất cùng cần phải nói rằng, vào thời gian trước Giải Phóng, phụ nữ có ít quyền và là công dân hạng hai. Sau đó cùng với Giải Phóng và tuyên ngôn của Mao về việc phụ nữ “giữ một nửa bầu trời”, vị thế của phụ nữ đã tiến một bước khổng lồ chỉ trong vài năm ngắn ngủi. Dĩ nhiên là hồ sơ lưu trữ của Hoa Kỳ không công nhận bất cứ thành tích nào của Đảng Cộng Sản Trung Quốc.

Cuối cùng, có hai lý do lớn khiến Hoa Kỳ chiếm phần lớn số người được giải Nobel. Thứ nhất, Hoa Kỳ rất giàu có – mặc dù nguồn gốc của sự giàu có đó không liên quan đến chủ đề của chúng ta ở đây. Làm khoa học cần phải có rất nhiều tiền, Hoa Kỳ có sự giàu có đó. Thứ hai, nhà khoa học chúng ta đi đến nơi có tiền để có thể làm công việc của mình, đó là vấn đề ưu tiên số một đối với chúng ta. Do vậy, các nhà khoa học ngoại quốc tới Hoa Kỳ khi họ có thể. Hầu hết các những người giành giải Nobel của Hoa Kỳ được giáo dục ở quốc gia khác và là sản phẩm của hệ thống giáo dục và nền văn hóa khác. Hoa Kỳ thực chất là chỉ mua lại những khoản đầu tư. 

Dĩ nhiên sự xuyên tạc của tờ New York Times không chỉ là những điều trơ trẽn được Michael R. Gordon và các cộng sự đăng hầu như mỗi ngày trên mục tội phạm của trang nhất.

*Một ghi nhận về phát triển thuốc chữa sốt rét. Hoa Kỳ được cho là cũng có chương trình phát triển thuốc chữa sốt rét vào thời chiến tranh ở Việt Nam. Nhưng bất chấp nguồn lực khổng lồ của Hoa Kỳ, họ đã thất bại trong khi Trung Hoa nghèo nàn hơn lại thành công. Khi chú ý tới việc Hoa Kỳ sẵn sàng khiến cho binh lính của họ nhiễm chất độc màu da cam, người ta không ngạc nhiên về sự nghiêm túc của Hoa Kỳ trong việc bảo vệ binh lính. Nếu như vậy thì dĩ nhiên là Hoa Kỳ không thực sự nỗ lực phát triển thuốc chữa sốt rét. Đây là câu hỏi đáng để đặt ra.


Prof. John V. Walsh, MD, can be reached at john.endwar@gmail.com. He usually does not include his title in a little bio like this, but in this case the political essay above involved a bit about science. Can be reached at John.Endwar@gmail.com

Chú thích của người dịch:

[1] Giáo sư John V. Walsh đã nhầm lẫn, thủ tướng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ những năm 1955 trở đi là Phạm Văn Đồng chứ không phải Hồ Chí Minh. 

[2] Hoa Kỳ đã can dự vào Việt Nam từ những năm 1954 khi viện trợ cho Pháp để chống lại Việt Minh. Sự kiện Vịnh Bắc Bộ chỉ là cái cớ để Hoa Kỳ chính thức đưa quân đội vào chiếm đóng miền Nam Việt Nam và ném bom miền Bắc Việt Nam.

Thursday, September 24, 2015

Hiếp dâm ở khuôn viên đại học: Súng không phải là câu trả lời

Báo chí Việt Nam từng kêu gào rằng tự do hóa mại dâm sẽ làm giảm nạn hiếp dâm, với logic là những kẻ hiếp dâm có thể tự do mua dâm thì sẽ không hiếp dâm nữa, tất nhiên đó là một lập luận có phần đần độn để vận động cho việc hợp pháp hóa mại dâm. Báo chí Mỹ thì kêu gào rằng phụ nữ mang súng sẽ ngăn chặn được nạn hiếp dâm, song sự thật thì ngược lại, không những không ngăn chặn được mà phụ nữ còn có nguy cơ bị giết cao hơn. Lập luận cũng không kém phần đần độn đó của báo chí Mỹ là để thúc đẩy doanh số bán súng. Trong xã hội tư bản, bạn không cần phải quan tâm tới mối quan hệ với người khác, bạn chỉ cần mua thứ gì đó để được an toàn, giải pháp tối cao của kinh tế thị trường luôn là như vậy, ở Mỹ cũng như ở Việt Nam. Dưới đây là nội dung bài viết "Rape on Campus: Guns are not the answer" của nữ giảng viên ngành tội phạm học Laura Finley trình bày về vấn đề súng không bảo vệ được phụ nữ khỏi bị hiếp dâm tại trường đại học.

Hiếp dâm ở khuôn viên đại học: Súng không phải là câu trả lời

Vài ngày trước đây, tờ Miami Herald đăng bài xã luận của một sinh viên lập luận rằng cho phép sinh viên bí mật mang theo súng trong khuôn viên trường đại học không chỉ là quyền hợp hiến mà còn giúp ngăn chặn hiếp dâm. Tôi tôn trọng sự đam mê của cô ấy về chủ đề này và buồn rầu khi được đọc về các nạn nhân, nhưng quan điểm này rất có vấn đề. Tôi không muốn bàn về lập luận hợp hiến ở đây, nhưng tôi không thể bất chấp lương tâm để không trả lời lập luận về việc một người phụ nữ với súng có thể ngăn chặn kẻ thủ ác hiếp dâm cô ấy. 

Thứ nhất, các nghiên cứu không cho thấy phụ nữ có vũ trang có thể ngăn chặn tấn công tình dục hay bạo lực gia đình và bạo lực hẹn hò. Một phần, điều này là bởi vì hầu hết các tấn công tình dục xảy ra trong khuôn khổ của quan hệ hẹn hò. Do đa số nạn nhân không chỉ “quen thuộc” kẻ tấn công mà thực tế còn có quan hệ theo cách nào đó với chúng, chẳng có vẻ gì là họ sẽ vũ trang khi đi ra ngoài chơi đêm với bạn bè vì vũ khí không tạo ra điều gì tốt đẹp cả.

Hơn nữa, hầu hết các vụ tấn công tình dục diễn ra khi sinh viên (cả thủ phạm và nạn nhân) đều bị ảnh hưởng bởi rượu, có một khẩu súng tham dự sẽ không làm cho mọi chuyện tốt hơn. Trên thực tế, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng súng làm cho tình hình tồi tệ hơn, rất tệ, thậm chí ngay cả khi không có tác động kích động sự hung hãn và mất phản xạ của rượu. Các nghiên cứu cho thấy phụ nữ thường bị giết hại với súng ngắn hơn là giết một người lạ để tự vệ. Trên thực tế, tỷ lệ đó nhiều gấp 300 lần. Tỷ lệ hiếp dâm thường xuyên cao hơn ở những bang có tỷ lệ sử dụng súng cao hơn. Phụ nữ bị đối tác gần gũi giết hại cao gấp 83 lần so với việc cô ấy giết anh ta để tự vệ. Sự hiện diện của súng trong tình huống bạo lực gia đình được dự đoán là gia tăng nguy cơ tự tử (đối với nạn nhân của tấn công tình dục, phần lớn) 500 phần trăm. Do tiếp cận súng dễ dàng, phụ nữ ở Hoa Kỳ có nguy cơ bị giết hại cao gấp 11 lần bằng vũ khí nóng so với phụ nữ ở các nước có thu nhập cao khác. Tôi có thể tiếp tục, nhưng không cần thiết. Dữ liệu là hoàn toàn rõ ràng đối với chủ đề này: Súng dường như được sử dụng để chống lại nạn nhân của tấn công tình dục hơn là bảo vệ họ, gia tăng nguy cơ thiệt hại thay vì làm giảm.

Thêm vào đó việc cho phép mang vũ khí bí mật ở khuôn viên đại học chỉ làm rối những người phản ứng đầu tiên, những người không biết đến bối cảnh hay chi tiết của tình huống, sẽ không thể tránh khỏi sự sợ hãi cũng như bối rối giữa khoa và sinh viên, lo lắng về những người đang tức giận, kết quả là một thùng thuốc súng dựa trên hùng biện, chứ không phải hiện thực. 

Tuy vậy hùng biện thì mạnh và được những thế lực tài chính và tuyên truyền của Hiệp Hội Súng Trường Quốc Gia (NRA) hậu thuẫn. Ví dụ, một nghị sĩ Nevada đã đề xuất vào đầu năm rằng “các cô gái trẻ, hấp dẫn ở khuôn viên đại học” phải tự vũ trang để chống hiếp dâm. Bình luận của bà ta không chỉ bốc mùi phân biệt giới tính kỳ dị, chúng cũng khuyến khích dạng cực kỳ nguy hiểm của việc lên án nạn nhân, khi cho rằng trách nhiệm chống lại sự tấn công không phải là của kẻ thủ ác mà là của nạn nhân. Chúng ta sẽ không bao giờ chấm dứt được nạn cưỡng hiếp khi chúng ta tiếp tục nói với phụ nữ rằng trách nhiệm của họ là tránh chúng. Chỉ có một bên có lỗi trong mọi vụ hiếp dâm: kẻ hiếp dâm. 

Ở Florida, đại diện bang Dennis K. Baxley lập luận, “Nếu bạn biết một người tốt bị cưỡng hiếp bởi vì bạn không cho phép họ mang vũ khi tự vệ, tôi cho rằng bạn phải chịu trách nhiệm.” Nếu Baxley muốn lặp lại rằng trách nhiệm của các khuôn viên trường đại học là ngăn chặn cưỡng hiếp thì thật hoang tưởng, nhưng đó không phải là vấn đề. Trái lại, ông ta cũng đáng bị coi là thủ phạm, khi buộc mọi người gánh trách nhiệm, ngoại trừ thủ phạm.

Điều mà các khuôn viên trường đại học phải làm là đối mặt với sự thật, hiếp dâm là tội ác mà thủ phạm thường gây do họ đắm chìm trong văn hóa hiếp dâm. Các chương trình, chính sách và luật lệ buộc nạn nhân thay đổi cũng tham gia vào văn hóa này, như vậy không bao giờ thực sự có hiệu quả. Thay vì thay đổi nhận thức của mục tiêu, chúng ta cần thay đổi động cơ của thủ phạm. Chương trình tốt nhất là nhận diện tính chất của mối quan hệ, tập trung vào việc giúp mọi người tạo ra các ràng buộc và đối thoại hiệu quả với người khác, giúp những người khác học cũng như được khuyến khích chống lại, lên tiếng khi họ nhìn hoặc nghe thấy chuyện gì có khả năng nguy hiểm. Hãy rời khỏi hùng biện để đến với hiện thực, để chúng ta thực sự có thể ngăn chặn nạn hiếp dâm ở khuôn viên trường đại học.

Laura Finley, Ph.D., teaches in the Barry University Department of Sociology & Criminology and is syndicated by PeaceVoice.

Hội chứng Việt Nam của báo chí: Suy nghĩ về việc Brian Williams quay trở lại làm việc

Một cựu chiến binh trong chiến tranh Việt Nam, hiện giờ là giáo sư xã hội học ở Mỹ, phản đối huyền thoại về sự tự do của phóng viên chiến trường Mỹ trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Đó là nội dung của bài viết "Journalism’s Vietnam Syndrome: Thoughts Upon Brian Williams’s Return to Work". Qua đó chúng ta có thể thấy tự truyền thông Hoa Kỳ đã tạo ra huyền thoại về tự do báo chí ra sao, sự tự do ấy không chỉ đánh lừa công chúng về độ tin cậy của tin tức mà nó còn giúp cho các chủ hãng tin tức có lý do để đẩy phóng viên vào sự nguy hiểm của chiến tranh.

Hội chứng Việt Nam của báo chí: Suy nghĩ về việc Brian Williams quay trở lại làm việc

Một trong những người bạn tốt nhất của tôi ở Việt Nam là Ron Gawthrope. Vào năm 1969, cả hai chúng tôi được chỉ định vào khẩu đội chỉ huy của tập đoàn pháo binh số 41. Căn cứ của chúng tôi là trại Fidel, một tổ hợp nhỏ cách hàng rào phía nam của sân bay Phù Cát 800 m, gần Quy Nhơn và khoảng 300 dặm về phía đông bắc Sài Gòn.

Ron dường như chẳng có gì để làm. Anh ấy chạy loanh quanh trong doanh trại, tán gẫu suốt ngày, dễ chịu với cả sĩ quan và lính nghĩa vụ. Anh ấy hiếm khi rời khỏi doanh trại. Một lần tôi hỏi mỉa mai – Ron, anh làm gì ở đây? “Liên lạc báo chí” cho tập đoàn số 41, anh ấy trả lời. Anh giải thích rằng thường hay tường thuật về những thứ diễn ra ở khu vực chiến sự của tập đoàn số 41 tại Cao Nguyên Trung Phần; và anh nói thêm rằng công việc của anh là “ngăn chặn mọi phóng viên tin tức đi quá xa, cung cấp cho họ một câu chuyện và đẩy họ lên chuyến bay đầu tiên quay lại Sài Gòn.”

Đó là lời của Ron mà tôi nhớ tới khi được nghe những câu chuyện về tương phản giữa sự tự do đưa tin tức chiến sự mà các phóng viên ở Việt Nam được hưởng với những điều kiện khắt khe được áp đặt khi họ đưa tin chiến sự ở Trung Đông hiện nay. Một trong những điều tương phản được nhà văn Ward Just viết trong lời dẫn của cuốn sách vào năm 2000, Đưa tin Việt Nam: Báo chí Hoa Kỳ 1959-1973:

Việt Nam là cuộc chiến tranh cuối cùng mà nhà cầm quyền quân sự Hoa Kỳ sẵn sàng đưa các phóng viên tới chiến sự. Tất cả những gì anh cần phải làm là xuất hiện ở đường băng Tân Sơn Nhất, réo gọi một chiếc C-130 hay Caribou, sau đó trèo lên khoang. Khi anh tới sở chỉ huy, anh được tóm tắt, chỉ dẫn về nơi đọ súng và sau đó anh tự do làm công việc của mình. 

Giờ là tiếng cười thầm của Ron mà tôi đã được nghe. Một chiếc C-130 rời khỏi Tân Sơn Nhất gần Sài Gòn cần hơn nửa dặm đường băng để hạ cánh. Một số khu hạ cánh (LZ) lớn được tổ chức tốt như LZ Betty có khả năng đáp ứng điều đó vào cuối những năm 1960, nhưng phóng viên sẽ được thả xuống ở đâu đó, có thể là sân bay Phú Cát – nơi mà nhân viên Không Lực sẽ không thể biết về đọ súng nếu họ nghe thấy điều đó, ở hướng nào thì lại càng không. “Sở chỉ huy” quân đội gần nhất mà anh ta có thể tìm thấy đường đến, bên ngoài tường rào sân bay, là trại Fidel, nơi mà Ron sẽ cung cấp cho anh ta “một câu chuyện” và đưa anh ta quay trở lại sân bay.

Thực tế là kịch bản này được vẽ ra trong hồi ức của Ward Just – ông ấy đã đưa tin ở Việt Nam vào những năm đầu chiến tranh – hương vị của những ngày tháng cũ, phóng viên của trí tưởng tượng xa xưa, tính hợp lý của các chi tiết được kiểm tra bằng kinh nghiệm và những quy tắc quân sự mà tôi biết hồi đó. Phần lớn trách nhiệm của tôi với vai trò trợ lý tuyên úy trong tập đoàn số 41 và các đơn vị pháo binh khác là lái xe jeep cùng với cha tuyên úy tới các cứ điểm và LZ nằm dọc theo đường cao tốc số 1, 19 và 14, hoặc hộ tống ông ấy trên máy bay trực thăng tới các địa điểm xa hơn. Muốn đến cứ điểm Pony? Máy bay lên thẳng của chúng tôi đến LZ English và từ đó chúng tôi lái xe đến Pony – khá xa. Đó là điều chưa bao giờ diễn ra, hay tôi chưa bao giờ thấy một thường dân Hoa Kỳ nào hỏi hoặc đi theo cách này. Điều đó cũng không thể diễn ra bởi vì chúng tôi cần được cho phép để đưa bất kỳ người nào đi, ngay cả nhân viên quân sự. Chuyện đó không bao giờ xảy ra. 

Điều quan trọng đối với tôi là tôi chưa từng nghe thấy chuyện đó diễn ra. Liệu có phóng viên tin tức, bằng cách nào đó, đi một mình tới nơi như Pony, cái gã ở đó ngày hôm nay có thể nói về điều đó trong nhiều tuần sau – nhưng tôi chưa từng thấy bất cứ phóng viên nào ở những nơi đó.

Có nghĩa là sự thật của câu ngạn ngữ là có nhiều gã “Việt Nam” nhớ như thể là có ai đó đã từng ở đó. Một cuộc chiến tranh dài với chính sách và hoạt động quân sự của Hoa Kỳ đã thay đổi theo thời gian bởi địa điểm, các chi nhánh và đơn vị. Điều mà Ward Just nhớ có thể là thật ở Tân Sơn Nhất gần Sài Gon, vào lúc ông ấy có mặt ở đó, hơn là ở nơi khác sâu trong nội địa vào năm năm sau. Cũng như với các câu chuyện chiến tranh khác, huyền thoại về tường thuật không sợ hãi bắt nguồn từ hiện thực là rất khó đưa tin về Việt Nam, với công việc cũng như điều kiện sống khó khăn và đôi khi là nguy hiểm. Trong lịch sử đưa tin tức hàng tuần về chiến tranh, tờ Weekly War, nhà báo James Landers mô tả sức ép đối với phóng viên để tạo ra các câu chuyện “bi kịch chiến tranh” mà họ cho rằng độc giả mong muốn, cũng như những khó khăn và nguy hiểm mà phóng viên phải đối mặt để đáp ứng nhu cầu đó.

Nhưng Lander cũng ghi nhận rằng các phóng viên ít khi rời khỏi Sài Gòn và thậm chí là theo các chuyến đi được cấp phép đưa phóng viên tới các sở chỉ huy sư đoàn và tập đoàn – nơi mà họ sẽ được Ron đón tiếp.

Điều sẽ không thay đổi là sự miễn cưỡng của các sĩ quan chỉ huy khi phải đón tiếp một cá nhân vô ích ở cứ điểm, cũng như ít có phóng viên “được tự do làm công việc [của họ]”, như Mr. Just đã nói. Nhà sử học Milton Bates, trong cuốn sách The Wars We Took to Vietnam, mô tả “công việc chiến tranh” là “rất rõ ràng giống như công việc ở nhà máy hay xây dựng” với nguy cơ phụ thêm về những thanh niên kiệt sức và chỉ được huấn luyện tối thiểu để vận hành cỗ máy hạng nặng tinh vi trong nhưng điều kiện khắc nghiệt. Ở Việt Nam, công việc đó là nóng bức, nặng nhọc và bẩn thỉu với sự phân chia lao động chặt chẽ và không có chỗ cho sự sao lãng mà những khán giả - như các phóng viên – sẽ đem tới. Chính vì lý do này, cha tuyên úy và tôi thường xuyên được hộ tống đi khỏi các công sự pháo khi có lệnh khai hỏa; máy bay trực thăng của chúng tôi có lần phải lượn vòng vòng cho đến khi người bị thương được dọn sạch khỏi LZ bị bộ binh địch tấn công vào đêm trước đó. 

Kinh nghiệm về phóng viên ở Việt Nam đươc nhớ lại là quan trọng hơn những thành tích lịch sử mà nó tạo ra. Sự nhầm lẫn phổ biến về việc người Mỹ được đưa tin tốt hơn về chiến tranh ở Việt Nam so với những cuộc chiến tranh gần đây ở Trung Đông hầu hết dựa trên niềm tin rằng các phóng viên đã được tự do đi bất cứ đâu họ muốn và tường thuật những gì họ thấy – một quan điểm lý tưởng đáp ứng kỳ vọng của công chúng về cấp độ căn bản của việc đưa tin mà các hãng tin tức hiện nay không thể thực hiện được.

Trong khi đó, huyền thoại về các phóng viên Rambo hung hãn khắp vùng châu thổ sông Mekong trở thành chuẩn mực về khí phách nhà nghề mà các phóng viên hiện nay có – hoặc họ tưởng rằng họ có. Sức ép đáp ứng kỳ vọng có thể đưa họ vào nguy hiểm. Khi phóng viên Bob Woodruff bị thương ở Iraq vào năm 2006, anh ta chỉ trích chủ lao động, hãng ABC News, đã đặt anh vào tình thế nguy hiểm để thu được đánh giá cao hơn của độc giả, bản thân Woodruff là “gã ngốc”, tự gây nguy hiểm không cần thiết cho bản thân khi thò đầu ra khỏi cửa xe bọc thép mà anh ta đang đi. 

Vào tháng giêng năm 2015, phóng viên Brian Wiliams của hãng NBC khẳng định rằng anh đã ở trên chiếc trực thăng bị kẻ địch bắn ở Iraq vào năm 2003. Anh ta đã kể nhiều phiên bản của câu chuyện trong nhiều năm nhưng khi mà cựu chiến binh cùng tham gia nhiệm vụ với máy bay trực thăng đã nói rằng đội của anh ta chưa bao giờ gặp nguy hiểm – câu chuyện của Willams là không thật. Williams đã bị NBC sa thải, tạo nên một bóng tối bao phủ những di sản của anh ta và hoài nghi về tương lai của anh ta trong lĩnh vực báo chí. Giờ đây, khi NBC chuẩn bị đưa William quay trở lại thông quan chi nhánh liên kết nhỏ MSNBC, những người theo đuôi sẽ lặp lại những chi tiết trong câu chuyện ngụy tạo về chiến sự đã làm anh ta mất việc và NBC bị bất ngờ. 

Mặc dù vậy, bình luận về sự phục chức của William sẽ giống như chỉ dừng ở mức độ thất bại cá nhân. Những người có học hơn sẽ bắt đầu phân tích tâm lý, để kết luận rằng “nam tính bị tàn phá” của anh ta là nguyên nhân của việc không kiểm chứng sự thúc đẩy của nam tính đã xác thực thông qua một sự liên hệ nhầm lẫn với sự dũng cảm chiến trận. Nhưng hầu hết các bình luận sẽ không thừa nhận hình mẫu mà trường hợp của anh ta và Woodruff (cũng như những người khác) đã tạo ra, một hình mẫu cho thấy thứ văn hóa mà theo đó các phóng viên chiến trường phải đối mặt với những kỳ vọng phi thực tế của các ông chủ và công chúng tiêu thụ tin tức. Vẫn tiếp tục bị loại bỏ khỏi bình luận là di sản của việc đưa tin trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, theo đo những kỳ vọng phi thực tế vẫn tiếp tục tồn tại. Đó là huyền thoại về việc lợi ích của công chúng được binh đoàn những “gã phóng viên đúng đắn” tự do, mà trực thăng tha lôi từ nơi này qua nơi khác, những kẻ vẫn còn ám ảnh sự tôn kính nghề nghiệp của phóng viên chiến tranh hiện nay, phục vụ tốt hơn trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam

Sự thật là các cuộc chiến tranh hiện nay rất khác xưa, chiến trận –thậm chí là ngay cả với những cuộc chiến đang diễn ra – ít đặc trưng bằng nguy cơ thiệt hại tính mạng hay vật chất hơn trước kia; sự thật là ngay cả Việt Nam cũng khác với những năm tháng vinh quang tưởng tượng hiện nay mà một thế hệ phóng viên anh hùng được cho là đã tạo ra; sự thật là những tên cướp biển tự do mà Ward Just nhớ đến gần với Ernie Pyle, phóng viên chiến tranh huyền thoại của Thế Chiến Thứ II (không có trực thăng), hơn là các phóng viên đã gặp (hoặc không) anh bạn Ron của tôi ở Việt Nam.

Sự thật là nếu các hồi ức báo chí coi Ron là hình tượng trung tâm trong lịch sử báo chí của thời kỳ Việt Nam, Bob Woodruff có thể không bị nguy hiểm để thu thập vài “bi kịch chiến trường”, anh ta có thể giữ đầu an toàn trong khoang của APC và không bị thương cũng như Brian Williams vẫn có thể là phóng viên của hãng NBC. 

Jerry Lembcke is Associate Professor Emeritus of Sociology at College of the Holy Cross in Worcester, Mass. He is the author of The Spitting Image: Myth, Memory and the Legacy of Vietnam and Hanoi Jane: War, Sex, and Fantasies of Betrayal. His newest book is PTSD: Diagnosis or Identity in Post-empire America? He can be reached at jlembcke@holycross.edu.

Sunday, May 24, 2015

Hạt giống tự tử ở Ấn Độ và bài học cho Việt Nam

Monsanto đã quay trở lại Việt Nam, cùng lúc đó TPP với các điều khoản bí mật về thương mại và bản quyền đang được đàm phán. Qua trường hợp của Ấn Độ thì có thể thấy rõ rằng các sản phẩm của những công ty như Monsanton chỉ phù hợp với các nhà sản lớn và họ cần có luật bảo vệ bản quyền chặt chẽ để có thể kinh doanh. Rõ ràng TPP là một hiệp định nhằm bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp lớn, nếu không tính đến các ý đồ chính trị của Hoa Kỳ. Ấn Độ đã phải chứng kiến nạn dịch tự tử của nông dân trồng bông biến đổi gien Bt của Monsanto và những quả bom sinh thái đang chờ nổ, sau những hoạt động theo đuổi lợi nhuận bất chấp luật pháp, khoa học, từ hối lộ đến mua chuộc và lừa dối của Monsanto. Kinh nghiệm của Ấn Độ cũng có thể rất hữu ích đối với Việt Nam trong việc xử lý vấn đề sản phẩm biến đổi gen và bản quyền.


Dưới đây là bản dịch chương 15 "India: The Seeds of Sucide" trong cuốn sách "The World According to Monsanto" của tác giả Marie-Monique Robin, bản tiếng Anh của George Holoch, nhà xuất bản New Press, New York, Hoa Kỳ, phát hành năm 2010.

Ấn Độ: Hạt giống của tự tử


Sản phẩm của chúng tôi đem lại lợi ích ổn định và rõ ràng cho cả các nông trại lớn và nhỏ. Nông dân luôn có thể tạo ra các vụ thu hoạch chất lượng cao hơn và thu nhập tốt hơn.
—Monsanto, Báo cáo cam kết, 2006

Đó là tháng 12 năm 2006, chúng tôi vừa mới tới nơi khi đoàn đưa đám đi vòng qua góc hẻm nằm giữa những bức tường sơn trắng, phá vỡ sự uể oải của một ngôi làng Ấn Độ nhỏ dưới ánh nắng mặt trời thiêu đốt. Mặc trang phục truyền thống – áo dài trắng bằng vải bông và quần dài – những người đánh trống dẫn đoàn về phía bờ sông, nơi giàn hỏa thiêu đã được sắp sẵn. Ở giữa đoàn đưa tang, một người phụ nữ đang khóc tuyệt vọng, bám vào một thanh niên cường tráng với khuôn mặt  u sầu đang mang chiếc cáng được phủ đầy những bông hoa sặc sỡ. Xúc động, tôi nhìn lướt qua khuôn mặt của người chết: đôi mắt nhắm nghiền, mũi khoằm, ria mép màu nâu. Tôi sẽ không bao giờ quên cảnh tượng thoáng qua ấy, thứ đã biến những hứa hẹn hào nhoáng của Monsanto thành sự ô nhục.

Ba vụ tự tử một ngày

“Chúng ta có thể quay phim không?” Tôi hỏi, đột nhiên bối rối khi người quay phim hỏi tôi với cái hất đầu. “Dĩ nhiên,” Tarak Kate nói, nhà nông học lãnh đạo của tổ chức phi chính phủ (NGO) chuyên về canh tác hữu cơ này đã đi với tôi xuyên qua khu vực trồng bông ở Vidarbha, tây nam bang Maharashtra của Ấn Độ. “Đó là lý do Kishoir Tiwari đưa chúng ta tới làng này. Ông ấy biết ở đây có lễ tang của một nông dân đã tự tử.”

Kishoi Tiwari là lãnh đạo của tổ chức Vidarbha Jan Andolan Samiti (VJAS), một phong trào nông dân có thành viên là những người bị cảnh sát quấy nhiễu vì họ đã quyết liệt lên án “thảm họa” mà giống bông Bt gây ra cho khu vực nông nghiệp này, chất lượng “vàng trắng” của nó trước đây từng được ca ngợi. Tiwwari gật đầu khi ông nghe thấy câu trả lời của Kate. “Tôi không nói bất cứ điều gì với anh vì lý do an toàn. Người làng thông báo cho chúng tôi bất cứ khi nào nông dân tự tử và tất cả chúng tôi đều tới lễ tang. Hiện giờ có ba vụ tự tử trong một ngày ở khu vực này. Người thanh niên này đã uống một lít thuốc trừ sâu. Đó là cách nông dân tự tử: họ dùng thứ hóa chất mà bông biến đổi gien được cho là sẽ giúp họ tránh phải dùng.” 

Khi đoàn đưa tang đi thẳng đến bờ sông, nơi thi hài nạn nhân trẻ sẽ sớm được hỏa thiêu, một nhóm đàn ông tiến lại gần người quay phim của tôi. Họ tỏ ra nghi ngờ nhưng sự có mặt của Tiwari đã trấn an họ: “Hãy nói với thế giới rằng bông Bt là một điều bất hạnh,” một ông già nói đầy giận dữ. “Đây là vụ tự tử thứ hai trong làng của chúng tôi kể từ đầu vụ thu hoạch. Nó chỉ có thể tệ hơn bởi vì hạt giống biến đổi gien không đem lại gì cả.”

“Họ đã nói dối chúng tôi,” người trưởng làng nói thêm. “Họ nói rằng những hạt giống thần kỳ này sẽ giúp chúng tôi kiếm được tiền, nhưng tất cả chúng tôi đều nợ nần và vụ thu hoạch biến mất. Chúng tôi sẽ ra sao đây?”

Sau đó, chúng tôi thẳng tiến đến làng Bhadumari kế bên, ở đó Tiwari muốn giới thiệu tôi với góa phụ trẻ 25 tuổi có chồng tự tử ba tháng trước đây. “Cô ấy đã trả lời một phóng viên của tờ New York Times,” ông nói với tôi, “và cô ấy sẵn sàng làm lại điều đó. Điều này rất hiếm hoi bởi vì thông thường các gia đình sẽ xấu hổ.”1 Rất trang nghiêm trong chiếc sari màu xanh, người phụ nữ trẻ gặp chúng tôi trong khoảng sân trước căn nhà đất giản dị của cô. Đứa bé nhất trong số hai con trai của cô, một đứa ba tuổi và đứa kia mới mười tháng, đang ngủ trên chiếc võng mà cô dùng tay đu đưa trong khi nói chuyện, cùng lúc bà mẹ chồng đứng cạnh cô lặng lẽ chìa bức ảnh con trai đã chết của bà. Góa phụ nói, “Anh ấy tự tử ở ngay đây. Anh ấy lợi dụng lúc tôi vắng mặt để uống can thuốc trừ sâu. Khi tôi trở về thì anh ấy đã hấp hối. Chúng tôi không thể làm gì cả.”

Khi tôi lắng nghe cô, tôi nhớ đến một bài báo được xuất bản trên tờ International Herald Tribune vào tháng 5 năm 2006, một bác sĩ mô tả sự kinh hoàng của những nạn nhân bị hiến tế cho trường thiên tiểu thuyết biến đổi gien. “Thuốc trừ sâu tác động lên hệ thần kinh – đầu tiên họ bị co giật, sau đó hóa chất làm thủng dạ dày và dạ dày bắt đầu chảy máu, sau đó là suy hô hấp ở phổi – họ đều khó thở - sau đó tim của họ ngừng đập.”2
Anil Kondba Shend, chồng của góa phụ trẻ, mới 35 tuổi và canh tác khoảng 1,4 ha. Vào năm 2006, anh ấy quyết định thử trồng bông Bt của Monsanto, còn được gọi là “Bollgard”, được quảng bá bằng quảng cáo truyền hình của công ty. Trong những quảng cáo đó, cây bông biến đổi gien đã thoát khỏi những con sâu bướm béo mập: “Bollgard bảo vệ bạn! Phun thuốc ít hơn, lợi nhuận cao hơn! Hạt giống bông Bollgard: sức mạnh chế ngự côn trùng!” Người nông dân đã vay tiền để mua hạt giống quý giá, đắt hơn  hạt giống truyền thống bốn lần. Anh ấy phải gieo ba lần, góa phụ nhớ lại, “bởi vì mỗi lần anh ấy gieo hạt thì chúng không chịu được mưa. Tôi nghĩ rằng anh ấy nợ đại lý 60.000 rupees.* Tôi sẽ không bao giờ biết rõ bởi vì vào những tuần trước khi chết thì anh ấy đã không nói gì hết. Anh ấy bị ám ảnh bởi nợ nần.”

“Đại lý là ai?” Tôi hỏi.

“Đó là người bán hạt giống biến đổi gien,” Tiwari trả lời. “Họ cũng cung cấp phân bón, thuốc trừ sâu và cho vay tiền với lãi suất cắt cổ. Nông dân bị nợ nần trói buộc vào các đại lý của Monsanto.”

“Đó là một vòng tròn xấu xa,” Kate nói thêm, “một thảm họa nhân đạo. Vấn đề là cây trồng biến đổi gen (GMO) không hoàn toàn thích ứng với đất canh tác của chúng tôi, vốn ngập nước ngay khi gió mùa về. Thêm vào đó, hạt giống khiến nông dân hoàn toàn phụ thuộc vào các lực lượng thị trường: không chỉ khiến họ phải trả nhiều tiền hơn cho hạt giống mà cũng phải mua phân bón và thuốc trừ sâu nếu không mùa màng sẽ thất bát, bởi vì Bollgard có thể chống lại sự phá hoại của sâu nang bông nhưng không chống lại được các loại sâu hút nhựa cây. Trái ngược với những gì quảng cáo khẳng định, nếu anh tính thêm rằng Bollgard không đủ sức đánh bại sâu nang thì anh sẽ có thảm họa, bởi vì anh cũng vẫn phải sử dụng thuốc trừ sâu.”

“Monsanto nói rằng GMO phù hợp với tiểu nông: anh nghĩ thế nào?” Tôi hỏi, nghĩ đến tuyên bố của hãng trong Báo cáo Cam kết năm 2006 của họ. “Kinh nghiệm của chúng tôi cho thấy điều đó là dối trá.” Nhà nông học nói, “Trong trường hợp tốt nhất, chúng có thể phù hợp với những nông dân lớn có đất tốt nhất và có phương tiện để tưới tiêu theo nhu cầu, nhưng không phải là đối với những tiểu nông chiếm 70% dân số của quốc gia này.”

“Hãy nhìn xem,” Tiwari chen ngang, trải ra một bản đồ rất lớn mà ông ấy lấy từ thùng xe.

Cảnh tượng thật sửng sốt: tất cả những điểm thuộc về vành đai bông ở Vidarbha đều được đánh dấu bằng một hình đầu lâu. “Đây là tất cả những vụ tự tử mà chúng tôi thống kê lại từ giữa tháng 6 năm 2005, khi bông Bt được nhập vào bang Maharashtra, đến tháng 12 năm 2006,” nhà lãnh đạo nông dân nói. “Có tất cả 1.280 cái chết. Cứ tám giờ có một người chết. Đó lá lý do khiến chúng tôi nói rằng bông Bt đang trong quá trình gây ra một nạn diệt chủng thực sự.”**

Kate chỉ cho tôi thấy một khoảng trống nhỏ không có hình đầu lâu. “Đây là khu vực Ghatanji ở huyện Yavatamal,” ông mỉm cười. “Đây là nơi hiệp hội của tôi thúc đẩy canh tác hữu cơ với 500 hộ gia đình trong 20 làng. Anh thấy đấy, chúng tôi không có vụ tự tử nào cả.”

“Đúng vậy, nhưng nạn tự tử của nông dân trồng bông chẳng có gì mới. Chúng tồn tại trước khi GMO xuất hiện.”

“Điều đó đúng. Nhưng với bông Bt, chúng đã tăng nhanh. Anh có thể quan sát thấy điều tương tự ở bang Andhra Pradesh, là bang đầu tiên cho phép canh tác hạt giống biến đổi gien, trước khi họ lao vào cuộc chiến với Monsanto.”

Theo chính quyền bang Maharashtra, trong toàn bang có 1.920 nông dân đã tự tử trong khoảng từ 1 tháng 1 năm 2001 đến 19 tháng 8 năm 2006. Hiện tượng này đã tăng tốc sau khi hạt giống Bt xuất hiện trên thị trường vào tháng 6 năm 2005.3
  
Bắt cóc ngành bông Ấn Độ

Trước khi tôi bay sang bang lớn Andhra Prahdesh ở đông nam Ấn Độ, Kishor Tiwari tha thiết chỉ cho tôi chợ bông của Pandharkawada, chợ lớn nhất ở Maharashtra. Trên đường đi tới đó, chúng tôi cắt ngang qua một đoàn xe trâu chở đầy những bao bông. “Tôi cảnh báo anh,” Tiwari nói, “chợ đang bên bờ sụp đổ. Nông dân dân đang mệt mỏi, vụ thu hoạch thất bại và giá bông thấp chưa từng thấy. Đây là kết quả của việc chính quyền Hoa Kỳ trợ giá cho nông dân của họ, có tác động phá giá đối với giá cả thế giới.”***

Chúng tôi chỉ vừa đi qua vòm cổng uy nghi để vào chợ thì đã bị bao vây bởi hàng trăm nông dân trồng bông giận dữ khiến chúng tôi không thể đi tiếp. “Chúng tôi ở đây đã nhiều ngày với hàng hóa của mình,” một trong số họ nói, hai tay giơ hai nắm bông. “Thương lái đưa ra giá thấp đến mức không thể chấp nhận được. Chúng tôi còn có nợ phải trả.”

“Anh nợ bao nhiêu?” Tarak Kate hỏi.

“52.000 rupee,” người nông dân trả lời.

Sau đó là một khung cảnh hiếm thấy khi hàng tá nông dân ngẫu nhiên lên tiếng, hết người này đến người khác, số nợ của họ: 50.000 rupee, 20.000 rupee, 15.000 rupee, 32.000 rupee, 36.000 rupee.

Dường như không gì có thể ngăn lời cầu nguyện này lan truyền trong đám đông giống như một làn sóng thủy triều không thể cưỡng lại được.

“Chúng tôi không muốn bông Bt nữa!” một người đàn ông hét lên, tôi không thể xác định vị trí của người đó trong đám đông.

“Không!” hàng tá giọng nói hùa theo.

Kate tiến lại gần và hỏi: “Bao nhiêu người trong số các anh sẽ không trồng bông Bt vào năm tới?”

Một rừng cánh tay giơ lên, thật thần kỳ là người quay phim, Guillaume Martin, đã quay được phim, ngay cả khi chúng tôi bị chen giữa đám đông, khiến cho việc quay phim cực kỳ khó khăn. Kate nói, “Vấn đề là các nông dân này sẽ khó mà tìm được hạt giống bông không biến đổi gien bởi vì Monsanto thực sự kiểm soát toàn bộ thị trường.” 

Bắt đầu vào đầu những năm 1990 – trên thực tế là cùng lúc với việc thiết lập cơ sở ở Brazil, nhà sản xuất đậu tương lớn nhất thế giới – Monsanto đã chuẩn bị cẩn thận cho việc nhập GMO của họ vào Ấn Độ, nhà sản xuất bông lớn thứ ba thế giới, sau Trung Quốc và Hoa Kỳ. Loại cây mang tính biểu tượng ở quê hương của Mahatma Gandhi, người biến việc trồng bông thành mũi nhọn trong phong trào đấu tranh bất bạo động chống lại sự chiếm đóng của người Anh, bông đã được trồng hơn năm ngàn năm trên tiểu lục địa Ấn Độ. Hiện giờ là sinh kế của 17 triệu gia đình, chủ yếu ở các bang phía nam như (Maharashtra, Gujarat, Tamil Nadu, và Andhra Pradesh).

Được thành lập ở Ấn Độ từ năm 1949, Monsanto là một trong những nhà cung cấp sản phẩm bảo vệ thực vật chủ yếu của quốc gia. Đây là thị trường lớn của thuốc diệt cỏ và đặc biệt là thuốc trừ sâu, bởi vì bông rất dễ bị tổn thương bởi nhiều loại sâu bọ khác nhau, như sâu nang, sâu đục thân, mọt bông, sâu ăn bột, ve nhện và rệp vừng. Trước cuộc “cách mạng xanh”, cuộc cách mạng đã mở rộng việc độc canh bông với các giống lai ghép có năng suất cao, nông dân Ấn Độ kiểm soát sự phá hoại của các loại sâu bọ bằng một hệ thống đảo vụ và sử dụng thuốc trừ sâu hữu cơ chiết xuất từ lá cây neem. Đặc tính hữu ích của loại cây này, được tôn kính như là “cây tự do” ở tất cả các làng của tiểu lục địa, nổi tiếng đến mức các công ty quốc tế đã đăng ký hàng tá bản quyền, các trường hợp sao chép sinh học rõ ràng đã dẫn đến các tranh chấp bất tận ở cục bản quyền. Ví dụ vào tháng 9 năm 1994, công ty hóa chất Hoa Kỳ W.R. Grace, một đối thủ cạnh tranh của Monsanto, đăng ký bản quyền ở Châu Âu cho việc sử dụng dầu cây neem làm thuốc trừ sâu, ngăn chặn các công ty Ấn Độ đưa sản phẩm của họ ra nước ngoài, trừ khi họ trả tiền bản quyền cho các công ty đa quốc gia, đang bán đầy rẫy thuốc trừ sâu hóa học ở đất nước này.4

Thuốc trừ sâu hóa học đã dẫn đến làn sóng tự tử đầu tiên của những nông dân trồng bông bị nợ nần vào cuối những năm 1990. Việc sử dụng nhiều thuốc trừ sâu vô cơ dẫn đến hiện tượng mà các nhà côn trùng học quen thuộc: sự phát triển sức đề kháng của côn trùng đối với các sản phẩm được tạo ra để tiêu diệt chúng. Kết quả là để chống lại sâu bọ, nông dân phải tăng liều lượng và sử dụng ngày càng nhiều các hóa chất độc, đến mức mà ở Ấn Độ bông chỉ chiếm 5% diện tích đất canh tác nhưng tiêu thụ tới 55% thuốc trừ sâu.

Sự mỉa mai của câu chuyện này là khả năng kiếm lợi hoàn hảo của Monsanto từ vòng xoáy chết chóc do sản phẩm của họ tạo ra, cùng với sự sụt giảm của giá bông (từ 98,20 dollar/1 tấn vào năm 1995 xuống 49,10 dollar/tấn vào năm 2001), đã dẫn đến cái chết của hàng ngàn nông dân nhỏ. Công ty ca ngợi các đặc tính tốt của bông Bt là phương thuốc bách bệnh tối cao sẽ làm giảm hoặc thủ tiêu nhu cầu phun thuốc chống sâu nang, như website công ty con của họ ở Ấn Độ tuyên bố.

Vào năm 1993, Monsanto đàm phán hợp đồng giấy phép công nghệ Bt với công ty hạt giống lai ghép Maharashtra (Mahyco), công ty hạt giống lớn nhất Ấn Độ. Hai năm sau, chính quyền Ấn Độ cấp phép nhập khẩu cho loại bông Bt sinh trưởng ở Hoa Kỳ (Cocker 312, chứa gien Cry1Ac) để các kỹ thuật viên của Mahyco có thể lai chéo chúng với các giống lai ghép địa phương. Vào tháng 4 năm 1998, Monsanto thông báo rằng họ đã có 26% cổ phần của Mahyco và họ thành lập một công ty liên doanh 50-50 với đối tác Ấn Độ, Mahyco Monsanto Biotech (MMB), cho mục tiêu thương mại hóa các hạt giống bông biến đổi gien của tương lai. Cùng lúc, chính quyền Ấn Độ cấp phép cho công ty trồng thử nghiệm thực địa bông Bt lần đầu tiên.

“Quyết định này là trái pháp luật”, Vandana Shiva nói, tôi gặp bà ở văn phòng tại Quỹ Nghiên Cứu Khoa Học, Công Nghệ và Sinh Thái ở New Delhi vào tháng 12 năm 2006. Bà có bằng tiến sĩ vật lý, là một người nổi tiếng quốc tế trong phong trào phản đối toàn cầu hóa, được nhận “Giải Nobel tương đương” vào năm 1993 cho những đóng góp của bà về sinh thái và những nỗ lực chống lại việc các công ty hóa chất nông nghiệp đa quốc gia kiểm soát nông nghiệp Ấn Độ. “Vào năm 1999”, bà nói với tôi, “tổ chức của tôi kêu gọi Tòa Án Tối Cao phán quyết việc thử nghiệm của Mahyco Monsanto là bất hợp pháp. Vào tháng 7 năm 200, mặc dù kiến nghị của chúng tôi vẫn chưa được xem xét, việc thử nghiệm đã được cấp phép cho quy mô lớn hơn, trên bốn mươi địa điểm ở sáu bang, mặc dù kết quả không bao giờ được công bố, bởi vì chúng tôi được nghe rằng chúng là bí mật. Ủy Ban Chấp Thuận Biến Đổi Gien đã yêu cầu kiểm tra an toàn thực phẩm đối với bông Bt, sử dụng như là cỏ khô cho bò và trâu, chúng có thể ảnh hưởng đến chất lượng sữa, cũng như dầu hạt giống được con người tiêu thụ, nhưng điều đó không bao giờ được thực hiện. Trong vài năm, Monsanto đã bắt cóc ngành bông Ấn Độ với sự đồng lõa của quan chức chính quyền, những người mở cửa cho GMO bằng cách bỏ qua các nguyên tắc đề phòng mà Ấn Độ đã luôn theo đuổi.”

“Điều đó diễn ra như thế nào?” Tôi hỏi.

“Phải, Monsanto đã vận động hành lang một cách đáng kể. Ví dụ vào tháng 1 năm 2001, một đoàn đại biểu pháp lý và khoa học Hoa Kỳ đã gặp Chánh Án A.S. Anand của Tòa Án Tối Cao rất đúng lúc và ca ngợi lợi ích của công nghệ sinh học vào ngay thời điểm mà tòa án phải đưa ra quyết định về kiến nghị của chúng tôi. Đoàn đại biểu do Viện Khoa Học, Sức Khỏe Einstein và tòa án dẫn đầu đã đề nghị thiết lập một hội thảo để đào tạo cho các quan tòa về các vấn đề liên quan đến GMO.5 Monsanto cũng tổ chức một số chuyến viếng thăm trụ sở của họ ở St. Louis cho các nhà báo, nhà khoa học và quan tòa Ấn Độ. Báo chí đã nhanh chóng được sử dụng để tuyên truyền các tin tức tốt. Thật không khó để biết xem có bao nhiêu người có khả năng chống chọi một cách kiên cường đối với công nghệ sinh học khi họ thực sự không biết gì về nó.”

Cũng cần phải ghi nhận rằng không chỉ có người Ấn Độ quy phục Monsanto. Một thông cáo báo chí của công ty được phát hành vào ngày 3 tháng 7 năm 2002 đưa tin với sự hài lòng rõ ràng rằng một đoàn đại biểu Châu Âu đã viếng thăm Chesterfied Village, trung tâm nghiên cứu công nghệ sinh học ở St. Louis. “Đoàn khách đại diện cho các cơ quan chính quyền, các tổ chức phi chính phủ, các viện khoa học, nông dân, người tiêu dùng và báo chí từ 12 nước, có liên quan đến công nghệ sinh học và an toàn thực phẩm,” theo thông cáo báo chí công bố.6

“Bà có cho rằng đó cũng là một dạng tham nhũng?” Tôi hỏi.

“Tốt thôi,” Shiva trả lời tôi với nụ cười, tìm từ ngữ, “Tôi không có bằng chứng nào, nhưng tôi cũng không thể loại trừ điều đó. Hãy xem những gì xảy ra ở Indonesia.”

Vào ngày 6 tháng 1 năm 2005, Ủy Ban Giao Dịch Chứng Khoán Hoa Kỳ (SEC) tiến hành một thủ tục hai gọng kìm chống lại Monsanto, cáo buộc về tham nhũng ở Indonesia. Theo SEC, những phát hiện của họ được đăng tải trên web, đại diện của Monsanto ở Jakarta hối lộ khoảng 700.000 dollar cho 140 quan chức chính quyền Indonesia từ năm 1997 đến 2002 để được triển khai bông Bt tại nước này.7 Ví dụ họ đã cung cấp 374.000 dollar cho vợ của một quan chức cao cấp ở Bộ Nông Nghiệp để xây một căn nhà xa hoa. Những món quà hào phóng đó đã được che dấu bằng các hóa đơn thuốc trừ sâu giả, SEC khẳng định như vậy. Thêm vào đó, vào năm 2002, công ty con Châu Á của Monsanto được cho là đã hối lộ một quan chức cấp cao ở Bộ Môi Trường 50.000 dollar để nhận được đánh giá tác động môi trường cho bông Bt trước khi nó được tung ra thị trường. Không chống lại các cáo buộc, Monsanto ký một thỏa thuận với SEC vào tháng 4 năm 2005 về khoản tiền phạt 1,5 triệu dollar. “Monsanton thừa nhận toàn bộ trách nhiệm về các hành động trái phép này và chúng tôi thành thực xin lỗi về việc những người thừa hành lệnh của Monsanto đã tham gia vào cách hành động đó.”8 

Thất bại thảm hại của bông biến đổi gien của Monsanto

Sự thật là vào ngày 20 tháng 2 năm 2002, ngày rất thất vọng của các tổ chức nông dân và sinh thái, Ủy Ban Chấp Nhận Biến Đổi Gien Ấn Độ đã bật đèn xanh cho việc canh tác bông Bt. Mahyco Monsanto Biotech đã vượt qua mọi rào cản: họ thuê một ngôi sao Bollywood để quảng bá GMO trên truyền hình (có lượng khán giả lớn ở Ấn Độ), đồng thời hàng chục ngàn tranh cổ động được dán khắp đất nước thể hiện các nông dân cười tươi đứng cạnh những máy kéo mới tinh, như thể được mua bằng lợi nhuận của bông Bt.

Năm đầu tiên, 55.000 nông dân, 2% số người trồng bông Ấn Độ, đã đồng ý tham gia vào cuộc phiêu lưu biến đổi gien. “Tôi được nghe là hạt giống thần kỳ này sẽ giải phóng tôi khỏi việc phun thuốc trừ sâu,” một nông dân 26 tuổi từ bang Andhra Pradesh, một trong số những bang đầu tiên cấp phép cho việc thương mại hóa GMO (vào tháng 3 năm 2002), nói với tờ Washington Post vào năm 2003. “Vụ mùa trước, mỗi khi tôi nhìn thấy sâu bọ, tôi phát hoảng, tôi phun thuốc trừ sâu lên bông khoảng 20 lần. Vụ mùa này, với hạt giống mới, tôi chỉ phải phun thuốc 3 lần.”9

Bất chấp lợi thế rõ ràng này (sớm biến mất do côn trùng phát triển sức đề kháng với cây bông Bt), phần còn lại của bức tranh cũng kém sáng sủa, khi tờ Washington phỏng vấn nông dân vào cuối vụ thu hoạch GMO đầu tiên. “Tôi nhận được ít tiền hơn từ bông Bt bởi vì người mua trên thị trường nói rằng chiều dài của sợi bông ngắn hơn,” một người nói. Thu nhập cũng không được cải thiện. “Giá hạt giống rất cao, giờ tôi tự hỏi là nó có thực sự đáng giá vậy không.”10

Trên thực tế, do bản quyền hạt giống (cho đến hiện giờ) vẫn bị cấm ở Ấn Độ, Monsanto không thể áp dụng hệ thống tương tự như ở Bắc Mỹ, có nghĩa là bắt buộc nông dân mua hạt giống của họ hàng năm bằng cách đe dọa về mặt pháp lý. Để bù đắp cho “tổn thất”, họ quyết định tăng giá hạt giống lên bốn lần: trong khi một gói 450g hạt giống truyền thống được bán với giá 450 rupee thì khối lượng tương đương hạt giống Bt có giá 1.850 rupee.

Cuối cùng, tờ Washington Post đưa tin, “mọt hại nang cũng không biến mất.” Thành quả hiếm hoi không ngăn cản Ranjana Smetacek, giám đốc quan hệ công chúng của Monsanto Ấn Độ**** tuyên bố một cách hài lòng: “Bông Bt đã có kết quả rất tốt ở cả năm bang được trồng.”11 Mặc dù vậy, câu chuyện do tờ Washington Post trình bày đã được một số nghiên cứu xác nhận. Đầu tiên là cáo buộc của Liên Minh Bảo Vệ Đa Dạng (CDD) Andhra Pradesh, tập hợp của 140 tổ chức dân sự, trong đó có Hiệp Hội Phát Triển Deccan (DDS), một NGO rất có uy tín, chuyên sâu về canh tác an toàn và phát triển bền vững. CDD đã yêu cầu hai nhà nông học, tiến sĩ Abdul Qayum, cựu quan chức Bộ Nông Nghiệp bang và Kiran Sakkhari, so sánh các kết quả nông nghiệp và kinh tế của Bollgard với các giống bông không biến đổi gien ở huyện Warangal, nơi có 12.300 nông dân nghe theo những lời hứa hẹn của Monsanto.

Hai nhà khoa học tuân theo một phương pháp chặt chẽ dựa trên quan sát hàng tháng các vụ mùa biến đổi gien, được trồng vào khoảng từ tháng 8 năm 2002 tới cuối vụ vào tháng 4 năm 2003, trong 3 nhóm thí nghiệm. Ở hai làng, nơi có 24 nông dân trồng GMO, bốn nông dân được chọn ngẫu nhiên. Vào giữa vụ (tháng 11 năm 2002), 22 nông dân ở 11 làng được hỏi về tình hình vụ canh tác biến đổi gien, sau đó là viếng thăm cánh đồng của họ. Cuối cùng, vào cuối mùa, tháng 4 năm 2003, một khảo sát được thực hiện với 225 nông dân nhỏ, chọn ngẫu nhiễn trong số 1.200  nhà cung cấp bông trong huyện, 38,2%  trong số đó sở hữu ít hơn 2 ha, 37,4% sở hữu từ 5 đến 10 ha, 22,4% có hơn 10ha (nhóm cuối cùng được coi là nông dân lớn ở Ấn Độ). Trong cùng một thời kỳ đó, họ cũng ghi lại năng suất của các nhà cung cấp bông truyền thống (nhóm kiểm soát). Tôi đưa ra tất cả những chi tiết này để khẳng định rằng nghiên cứu khoa học đáng để nêu ra cho những nỗ lực kiểu này, nếu không sẽ chả có gì ngoài gió và mây. Kết quả nghiên cứu quy mô lớn này được tổng kết: “Chi phí canh tác bông Bt nhiều hơn bông không phải là Bt là 1092 rupee bởi vì chỉ có một sự giảm bớt không đáng kể trong việc tiêu thụ thuốc trừ sâu cho canh tác bông Bt. Tính trung bình thì có một sự giảm bớt đáng kể (35%) trong tổng thu nhập của bông Bt, trong khi tổn thất ròng là 1295 rupee/ trong canh tác bông Bt so với bông không phải Bt, lợi nhuận ròng là 5368 rupee/-. Khoảng 78% nông dân canh tác Bollgard trong năm nay nói rằng họ sẽ không canh tác Bt vào năm tới.”12

Để làm cho nghiên cứu khoa học không thể chê trách được này thêm sinh động, DDS bổ sung vào sáng kiến một nhóm “phụ nữ quay phim chân đất”, theo cách nói của P. V. Satheesh, người sáng lập và giám đốc của tổ chức sinh thái. Sáu phụ nữ, tất cả đều là nông dân mù chữ và là dalits (tiện dân, lớp dưới cùng của hệ thống đẳng cấp xã hội truyền thống), được hướng dẫn các kỹ thuật quay phim trong một hội thảo do DDS tổ chức vào tháng 10 năm 2001 ở làng nhỏ Patapur với cái tên Community Media Trust. Từ tháng 8 năm 2002 tới tháng 4 năm 2003, họ đã quay phim hàng tháng 6 nhà cung cấp bông Bt nhỏ ở huyện Warangal tham gia vào nghiên cứu nông học. Kết quả là một bộ phim tư liệu phi thường về sự thất bại của hạt giống biến đổi gien.

Nó cho thấy trước hết mọi hy vọng mà nông dân đã đặt vào hạt giống Bt. Mọi thứ đều tốt trong hai tháng đầu: cây bông khỏe mạnh và không có sâu bọ. Sau đó là sự thất vọng. Cây bông rất nhỏ và quả bông ít hơn so với các cánh đồng bông truyền thống ngay bên cạnh. Vào mùa khô tháng 10, khi sâu bọ tàn phá bông truyền thống, các cây bông biến đổi gien bị rầy và ruồi trắng bao vây. Vào tháng 11, khi vụ thu hoạch bắt đầu, có thể thấy sự thất vọng trên khuôn mặt của nông dân: sản lượng rất thấp, quả nang khó nhặt, đuôi sợi bông ngắn hơn, điều đó có nghĩa là giá giảm mất 20%.

Tôi gặp những người làm phim vào tháng 12 năm 2006 ở cánh đồng bông Warangal, nơi họ tới để quay phim cùng với hai nhà nông học. Tôi rất ấn tượng bởi sự chuyên nghiệp của những phụ nữ phi thường này, họ mang theo những đứa trẻ đang ngủ trên lưng, sắp đặt máy quay, chân đế, mic và gương phản xạ để phóng vấn một nhóm nông dân đang thất vọng vì sự thất bát của vụ canh tác bông Bt.

Kể từ khi báo cáo đầu tiên được hai nhà nông học công bố, tình hình đã tệ hơn, châm ngòi cho làn sóng tự tử thứ hai, sớm tiến đến bang Maharashtra. Lo lắng vì tình trạng bi kịch này, chính quyền bang Andhra Pradesh đã triển khai một nghiên cứu, xác nhận các kết luận của Qayum và Sakkhari.13 Nhận thức được tác động đến kết quả bầu cử của thảm họa này, lãnh đạo của Bộ Nông Nghiệp, Raghuveera sau đó đã yêu cầu Mahyco hoàn tiền cho các nông dân bị mất mùa, nhưng công ty đã từ chối yêu cầu đó.

Tuyên truyền và độc quyền

Để tự bảo vệ, Monsanto tung ra một nghiên cứu được công bố rất đúng lúc trên tờ Science vào ngày 7 tháng 2 năm 2003. 14 Ảnh hưởng của nghiên cứu khoa học rất lạ lùng khi chúng dựa trên các bài báo uy tín, hiếm khi hoặc không bao giờ xác thực nguồn của các dữ liệu được trình bày. Matin Qaim, ở trường đại học Bonn, và David Zilberman ở trường đại học California, Berkeley, cả hai đều “chưa từng đặt chân đến Ấn Độ,” như Vandana Shiva cho biết, đã chỉ ra rằng theo các thử nghiệm thực địa diễn ra tại “các bang khác nhau của Ấn Độ,” bông Bt “giảm thiểu một cách chắc chắn thiệt hại của sâu bọ và gia tăng sản lượng … tới 88%.” “Điều đáng phiền là bài báo mô tả hiệu quả phi thường của bông Bt lại dựa hoàn toàn trên dữ liệu do công ty sở hữu bông Bt, Mahyco-Monsanto, cung cấp,” tờ Times of India bình luận. “Dữ liệu được các tác giả trình bày  … không dựa trên vụ thu hoạch bông Bt đầu tiên -  như được kỳ vọng – mà dựa trên thu hoạch của một số thửa ruộng được lựa chọn thuộc về công ty, cũng không có dữ liệu từ các cánh đồng của nông dân kèm theo trong bài báo.”15 Mặc dù vậy, tờ tạp chí ghi nhận rằng “bài báo đó đã được nhiều cơ quan trích dẫn rộng rãi làm bằng chứng cho hiệu quả đặc biệt của hạt giống GMO” – vốn là mục đích của việc công bố trên tờ Science.

Bài báo cũng được bình luận dài trong báo cáo năm 2004 của FAO có tiêu đề “Công nghệ sinh học nông nghiệp có đáp ứng được nhu cầu của người nghèo?”16 Tài liệu này đã khiến người ta tốn rất nhiều giấy và mực vì đó là một lập luận bảo vệ GMO. Nó khẳng định rằng chúng có khả năng “gia tăng tổng thể năng suất nông nghiệp” và chúng “có thể giúp giảm bớt các thiệt hại môi trường do hóa chất độc hại gây ra,” theo lời giới thiệu của Jacques Diouf, tổng giám đốc của tổ chức trực thuộc Liên Hiệp Quốc. Bản báo cáo đã làm Monsanto rất hài lòng, họ đã nhanh chóng đưa nó lên mạng.17

Tương tự ở Pháp, ngay trước khi bài báo trên tờ Science được công bố, hãng AFP đã phân phát một bản thuyết trình tán dương nó. Tôi trích dẫn một đoạn, bởi vì nó minh họa hoàn hảo cho cái cách mà sự đánh lạc hướng được lặng lẽ triển khai thông qua truyền thông, cho dù điều này khó có thể lên án hãng thông tấn, bởi vì trên hết là họ chỉ ngoại suy từ các đề xuất ngầm được tính toán cẩn trọng trong bài báo gốc: “Bông được biến đổi gien để kháng lại các côn trùng có hại có thể tăng sản lượng thu hoạch lên 80%, theo các nhà nghiên cứu thực hiện thử nghiệm ở Ấn Độ cho biết,” bài dẫn khẳng định. “Kết quả công việc của họ rất đáng kinh ngạc: trước đây chỉ có một sự gia tăng nhỏ trong sản lượng được quan sát thấy trong các thử nghiệm tương tự ở Trung Quốc và Hoa Kỳ.”18 Người ta có thể tưởng tượng ra tác động của thông tin này – được truyền thông đón nhận rộng rãi, ví dụ như tờ Le Bullentin des Agriculteurs ở Quebec – đối với những nông dân cỡ nhỏ và vừa thường xuyên phải đấu tranh để sinh tồn. Đặc biệt là trường hợp này bởi vì, bỏ qua mọi dữ liệu được thu thập trên cánh đồng, Qaim nhấn mạnh vào khẳng định rằng “ngay cả khi chi phí cho hạt giống cao, nông dân đã tăng thu nhập lên 5 lần với bông biến đổi gien.” Đồng nghiệp David Zilberman đã vô tình tiết lộ mục tiêu thực sự của nghiên cứu này trong bài phỏng vấn của tờ Washington Post vào tháng 5 năm 2003: “Thật là xấu hổ khi nỗi sợ hãi về GMO tiếp tục ngăn cản công nghệ quan trọng này đến với những người được hưởng lợi nhiều nhất từ nó.”19

Tờ Times of India thậm chí còn sáng tạo hơn. “Ai sẽ trả tiền cho thất bại của bông Bt?”, tờ báo hỏi, chỉ ra rằng một đạo luật được thông qua vào năm 2001, Luật Bảo Vệ Đa Dạng Thực Vật và Quyền của Nông Dân, yêu cầu nhà cung cấp hạt giống phải bồi thường cho những nông dân bị mất mùa do hạt giống mà họ bán để đảm bảo “sản lượng, chất lượng, kháng sâu bọ,” và vân vân.20

Đó chính là đạo luật mà bộ trưởng Nông Nghiệp của Andhra Pradesh định áp dụng. Khi không thể làm như vậy, ông ấy đã quyết định cấm ba loại bông Bt do Mahyco Monsanto cung cấp trong phạm vi bang vào tháng 5 năm 2005 (các giống bông này được được bán không lâu sau đó ở bang Maharashtra.)21 Vào tháng 1 năm 2006, xung đột với Monsanto đã tiến đến một mức mới: Bộ trưởng Nông Nghiệp Raghuveera Reddy đưa đơn kiện Mahyco Monsanto tại Ủy Ban Hạn Chế Thương Mại và Độc Quyền (MRTPC), cơ quan Ấn Độ chịu trách nhiệm về quản lý thương mại và luật chống liên kết, phản đối giá cắt cổ của hạt giống biến đổi gien cũng như sự độc quyền của Monsanto ở tiểu lục địa Ấn Độ. Vào ngày 11 tháng 5 năm 2006, MRTPC đã đáp ứng đòi hỏi của bộ trưởng và yêu cầu giá một gói hạt giống 450 g phải được giảm xuống bằng giá mà Monsanto bán ở Hoa Kỳ và Trung Quốc, tối đa là 750 rupee (thay vì 1.850 rupee). Năm ngày sau đó, công ty phản đối quyết định đó tại Tòa Án Tối Cao, nhưng sự kháng cáo bị phủ quyết với lý do quyết định đó hoàn toàn thuộc thẩm quyền của bang.22 Đó là tình hình khi tôi tới Andhra Pradesh vào tháng 12 năm 2006. Mahyco Monsanto cuối cùng cũng phải giảm giá hạt giống theo yêu cầu của chính quyền bang, nhưng xung đột vẫn chưa kết thúc, bởi vì vấn đề bồi thường tài chính gai góc vẫn tồn tại. “Vào tháng 1 năm 2006,” Kiran Sakkharin nói với tôi, “bộ Nông Nghiệp đe dọa sẽ thu hồi giấy phép thương mại hóa của công ty nếu họ không chịu bồi thường cho nông dân ba vụ thu hoạch mới đây.”

“Nhưng tôi nghĩ là Andhra Pradesh đã cấm ba loại bông Bt vào năm 2005.”

“Đúng vậy. Nhưng Mahyco Monsanto đã ngay lập tức thay thế chúng với các loại biến đổi gien mới. Chính quyền không thể ngăn chặn chúng, họ đã từng yêu cầu New Delhi cấm hoàn toàn GMO. Kết quả chỉ là tại họa như chúng ta đã thấy trong nghiên cứu thứ hai.23 Vụ thu hoạch năm nay còn tệ hơn bởi vì như anh thấy, trên các cánh đồng bông Bollgard, bệnh rhizoctonia khiến cây bông bị thối ở phần giữa rễ và thân. Cây bông khô đi và chết. “Nông dân nói họ chưa bao giờ thấy chuyện này,” Addul Qayum nói. “Trong nghiên cứu đầu tiên, chúng tôi thấy bệnh chỉ xuất hiện ở một số ít cây bông Bt. Nhưng nó lan nhanh và giờ tôi có thể quan sát thấy ở nhiều cánh đồng bông Bt đã bắt đầu làm nhiễm bệnh sang các cánh đồng bông không biến đổi gien. Trên quan điểm cá nhân, tôi cho rằng đây là sự tác động qua lại giữa cây chủ và gien được cấy vào. Nó khiến cây bông suy yếu và không kháng được bệnh rhizoctonia.”

“Nói chung,” Sakkhari nói tiếp, “bông Bt không đề kháng được các điều kiện khắc nghiệt như khô hạn hay mưa nhiều.”

“Nhưng,” tôi nói, “theo Monsanto, doanh số của hạt giống biến đổi gien tăng đều đặn ở Ấn Độ.”24

“Đó là khẳng định của công ty và nói chung là đúng, ngay cả khi số liệu mà họ trình bày khó có thể xác thực. Nhưng tình hình nhìn chung có thể giải thích bằng sự độc quyền mà họ có thể tạo ra ở Ấn Độ, rất khó có thể tìm thấy các hạt giống không biến đổi gien. Điều này rất đang lo ngại bởi vì, như chúng tôi đã phát hiện trong nghiên cứu thứ hai, những hứa hẹn về việc bông Bt sẽ làm giảm mức độ sử dụng thuốc trừ sâu đã thất bại; nếu không nói là ngược lại.”

Sâu bọ kháng cây bông Bt: Một quả bom hẹn giờ

Các nhà nông học cho tôi xem kết quả của nghiên cứu thứ hai, bao quát vụ mùa 2005-2006. Trong khi ở vụ mùa 2002-2003, năm sau khi triển khai hạt giống Bt, việc sử dụng thuốc trừ sâu thấp hơn ở cây bông biến đổi gen thấp hơn một chút so với cây bông truyền thống, ba năm sau “lời hứa vĩ đại” đã hoàn toàn bị chôn vùi: chi tiêu cho thuốc trừ sâu trung bình đối với cây bông truyền thống là 1.311 rupee cho 0,4 ha và 1.351 rupee đối với cây bông Bt. “Kết quả không khiến chúng tôi ngạc nhiên, nó chỉ có thể tệ hơn,” Qayum giải thích, “bởi vì bất cứ nhà nông học hay côn trùng học nghiêm túc nào cũng biết rõ rằng côn trùng phát triển sự đề kháng đối với các sản phẩm hóa học dùng để chống lại chúng. Việc cây bông Bt thường xuyên tạo ra chất độc kháng côn trùng là một quả bom hẹn giờ mà chúng tôi sẽ phải trả giá vào một ngày nào đó, cái giá có thể rất cao, cả từ quan điểm kinh tế lẫn sinh thái.”

Quan điểm côn trùng gây hại cho bông (hoặc ngũ cốc) sẽ biến đổi bằng cách phát triển sức đề kháng với chất độc của cây bông Bt đã được xới lên trước cả khi Monsanton đưa GMO của họ ra thị trường. Vào giữa những năm 1990, chiến lược mà công ty áp dụng, theo thỏa thuận với EPA, thuyết phục các nông dân trồng bông Bt bằng hợp đồng duy trì các thửa ruộng bông không Bt, được gọi là “nơi trú ẩn,” nơi các côn trùng bình thường được sinh sôi để lai chéo với các anh em họ đã kháng lại Bacilus thuringiensis, gây ra sự pha loãng gen. Khi côn trùng thường xuyên đối mặt với một hàm lượng thuốc độc chết chóc theo lý thuyết, chúng đều bị loại bỏ, ngoại trừ một số nhóm nhỏ được sự hỗ trợ của các gien kháng chất độc. Các côn trùng sống sót sẽ kết hợp với đồng loại, có thể chuyển các gien đó cho thế hệ kế tiếp, tiếp tục trong vài thế hệ. Đây là sự “đồng tiến hóa,” suốt chiều dài lịch sử của sự sống, đã cho phép các giống loài bên bờ vực tuyệt chủng thích nghi để sống sót sau các dịch bệnh chết chóc. Để giữ cho hiện tượng này không phát triển ở các côn trùng gây hại cho bông Bt, các học trò của phù thủy cho rằng họ chỉ cần duy trì một số lượng côn trùng khỏe mạnh ở các thửa ruộng bông không biến đổi gien – nơi trú ẩn – để chúng có thể kết hợp với anh em họ kháng Bt, qua đó ngăn chặn các côn trùng kháng Bt sinh sôi.

Khi điều đó được thực hiện thì vấn đề chỉ là quyết định quy mô của nơi trú ẩn để kế hoạch thành công. Chủ đề này dẫn đến các thương lượng gay go giữa Monsanto và các nhà khoa học, với sự ghi nhận kết quả của EPA. Đầu tiên, một số nhà côn trùng học lập luận rằng khu vực bề mặt của nơi trú ẩn ít nhất cũng phải tương đương với khu vực biến đổi gen. Dĩ nhiên là Monsanton phản đối, cho rằng bề mặt khu vực trú ẩn chỉ nên chiếm 3% diện tích trồng GMO. Vào năm 1997, một nhóm nghiên cứu đại học làm việc ở vành đai ngũ cốc trung tây đã can đảm tham gia vào trận chiến với khuyến nghị rằng nơi trú ẩn nên chiếm 20% diện tích các thửa trồng biến đổi gen , thứ hai là các thửa đó nên được phun loại thuốc sâu khác với thuốc sâu dùng ở các thửa trồng bông Bt.

Điều này là quá nhiều đối với Monsanto, như Daniel Charles tường thuật trong Lords of the Harvest. ““Monsanto xem xét khuyến nghị và nói, “chúng ta không thể sống được với điều này,”” Scott McFarland nói, ông là một luật sư trẻ đang làm việc cho tổ chức Pioneer.” Công ty liên hệ với “Hiệp Hội Canh Tác Ngũ Cốc Quốc Gia (NCGA), cũng có trụ sở ở St. Louis. Đại diện của Monsanto thuyết phục lãnh đạo của NCGA rằng khu vực trú ẩn lớn sẽ ảnh hưởng đến việc tự do canh tác bông Bt của nông dân.”25 Điều này diễn ra cho đến tháng 9 năm 1998, khi các bên gặp nhau ở thành phố Kansas để thỏa hiệp. Khi các cuộc thảo luận được quy thành tranh luận về tỷ lệ tùy ý, một nhà kinh tế nông nghiệp của đại học Minnesota đã khẳng định rằng theo các nghiên cứu của ông thì khu vực trú ẩn chiếm 10% diện tích canh tác biến đổi gien, sau đó sâu ngũ cốc bore – côn trùng gây hại mục tiêu của ngũ cốc Bt – sẽ có 50% cơ hội phát triển sức đề kháng trong ngắn hạn và khiến nông dân khá tốn kém. Do trực tiếp bị ảnh hưởng đến túi tiền nên nông dân đã đứng về phía các nhà côn trùng học.

Đó là lý do trên khắp thế giới, các hướng dẫn trồng Bt đều yêu cầu rằng khu vực trú ẩn phải tương đương tối thiểu là 20% diện tích canh tác GMO. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng con số đó cũng chắp và và tùy hứng, bởi vì không có nghiên cứu nghiêm túc nào được thực hiện để xác nhận rằng tỷ lệ đó – được thảo ra ở một góc của Missouri – có giá trị khoa học. Khi Michael Pollan hỏi các đại diện của Monsanto về chủ đề này cho tờ New York Time vào năm 1998, họ trả lời: “Nếu mọi thứ đều tốt, sự đề kháng có thể bị trì hoãn trong hơn 30 năm,” chỉ có thể gọi là chính sách ngắn hạn.26 Khi Pollan tiếp tục với Jerry Hjelle, phó chủ tịch quan hệ đối ngoại của Monsanto, cố gắng tìm hiểu điều gì xảy ra sau thời kỳ đó, “câu trả lời [còn] đáng ngại hơn … “Có một ngàn loại Bt khác … Chúng tôi có thể xử lý vấn đề với những sản phẩm mới … Những người chỉ trích không biết chúng tôi có những gì … Hãy tin ở chúng tôi.””

Trong thời gian đó, mười năm sau khi bắt đầu canh tác Bt, có thể phác thảo một đánh giá ban đầu về bộ máy quan liêu. Đầu tiên, bản tin của AP đã cho thấy vào tháng 1 năm 2001, theo một nghiên cứu được thực hiện vào năm 2000, “30% số nhà cung cấp ngũ cốc Bt [Mỹ] không tuân thủ theo các khuyến nghị về quản lý sự đề kháng,” bởi vì họ cho rằng chúng quá nghiêm khắc.27 Phải nói thật là tôi hiểu họ. Nhưng dĩ nhiên là họ nên ngừng ủng hộ hệ thống nực cười này, thứ sớm hay muộn cũng sẽ sụp đổ như ngôi nhà bằng quân bài, theo như nghiên cứu vào năm 2006 của các chuyên gia nghiên cứu đại học Cornell hợp tác với Viện Hàn Lâm Khoa Học Trung Quốc cho thấy.28 Họ đã chỉ ra rằng “lợi nhuận đáng kể mà họ thu được trong nhiều năm nhờ tiết kiệm thuốc trừ sâu đã bị ngốn sạch.” Theo các tác giả này, trong 3 năm đầu sau khi gieo trồng Bt, nông dân “đã giảm thuốc trừ sâu đi hơn 70% và kiếm được nhiều hơn 36% so với các nông dân gieo trồng bông truyền thống,” vào năm 2004 “họ đã phun thuốc sâu nhiều như các nông dân truyền thống, khiến cho thu nhập ròng thấp hơn 8% so với các nông dân truyền thống, do hạt giống Bt đắt gấp ba lần hạt giống truyền thống.” Cuối cùng, sau 7 năm, “côn trùng đã tăng lên nhiều đến mức nông dân phải phun thuốc tới 20 lần trong một vụ.” Kết luận của các nhà nghiên cứu, bất chấp sự ủng hộ của họ đối với GMO, rất tai hại:

“Kết quả này cảnh báo các nhà nghiên cứu và chính phủ rằng họ cần phải có các hành động cứu trọ nông dân trồng bông Bt. Nếu không, các nông dân này sẽ ngừng sử dụng bông Bt và điều đó sẽ rất bất hạnh.”

Khẳng định này khiến Abdul Qayum và Kiran Sakkhari mỉm cười. “Ở Ấn Độ, nơi có đa số nông dân canh tác từ 0,8 đến 2 ha, chiến lược trú ẩn thật là nực cười. Nó cho thấy rằng GMO, phiên bản mới nhất của cách mạng xanh, được phát minh ra cho các nông dân lớn ở bán cầu Bắc.”

Chú thích:

*Khoảng 1.200 dollar (1 dollar tương đương với 50 rupee). Không có mức lương tối thiểu ở Ấn Độ nhưng đa phần công nhân kiếm được ít hơn 6.000 rupee một tháng vào năm 2006.

**Từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2007, VJAS ghi nhận có 1.168 vụ tự tử.

***Trợ cấp cho nông dân Hoa Kỳ là 18 tỷ dollar vào năm 2006. Xem Somini Sengupta, “Về nông nghiệp Ấn Độ, một nạn dịch tự tử,” New York Times, 19 tháng 12 năm 2006. Ba ngày sau khi chúng tôi quay phim, một vụ bạo loạn nổ ra ở chợ và cảnh sát đã bắt giam một số người, trong đó có Kishor Tiwari.

****Bạn đọc sẽ nhớ tới tên của những nhà khoa học giả mạo đã tiến hành chiến dịch bôi nhọ Ignacio Chapela về ngũ cốc Mexico; một người trong số họ có tên là “Andura Smetacek,” Jonathan Matthews, nhà nghiên cứu người Anh đã khám phá ra sự thật, đã bình luận về những cái tên bất thường này. Dĩ nhiên là những kẻ chủ mưu ở St. Louis đã đơn giản là lấy chúng từ các nhân viên Ấn Độ.


1. Somini Sengupta, “On India’s Farms, a Plague of Suicide,” New York Times, September 19, 2006.
2. Amelia Gentleman, “Despair Takes Toll on Indian Farmers,” International Herald Tribune, May 31, 2006.

3. Jaideep Hardikar, “One Suicide Every 8 Hours,” DNA India. In this article, the Mumbai newspaper specifies that, according to government sources, 2.8 million cotton farmers in the state (out of a total of 3.2 million) are in debt.

4. This was patent no. 0436257 B1 (see my film Les Pirates du vivant).

5. Gargi Parsai, “Transgenics: US Team Meets CJI,” The Hindu, January 5, 2001.

6. “Food, Feed Safety Promote Dialogue with European Delegation,” Monsanto news release, July 3, 2002.

7. www.sec.gov/litigation/litreleases/lr19023.htm. See also Peter Fritsch and 354 notes to pages 253–297
Timothy Mapes, “Seed Money: In Indonesia, Tangle of Bribes Creates Trouble for Monsanto,” Wall Street Journal, April 5, 2005; Agence France-Presse, January 7, 2005.

8. Quoted by Fritsch and Mapes, “Seed Money”; Agence France-Presse, January 7, 2005.

9. Rama Lakshmi, “India Harvests First Biotech Cotton Crop; Controversy Surrounds Policy Change,” Washington Post, May 4, 2003.

10. Ibid.

11. Ibid.

12. Abdul Qayum and Kiran Sakkhari, “Did Bt Cotton Save Farmers in Warangal? A Season Long Impact Study of Bt Cotton—Kharif 2002 in Warangal District of Andhra Pradesh,” AP Coalition in Defense of Diversity and Deccan Development Society, Hyderabad, June 2003, www.ddsindia.com/www/pdf/English%20Report.pdf.

13. “Performance Report of Bt Cotton in Andhra Pradesh: Report of State Department of Agriculture,” 2003, www.grain.org/research_files/AP_state.pdf.

14. Matin Qaim and David Zilberman, “Yield Effects of Genetically Modified Crops in Developing Countries,” Science 299 (February 7, 2003): 900–2.

15. Times of India, March 15, 2003.

16. The State of Food and Agriculture 2003–2004; Agricultural Technology Meeting the Needs of the Poor? FAO, Rome, 2004, www.fao.org/docrep/006/Y5160E/Y5160E00.HTM.


18. “Le Coton génétiquement modifié augmente sensiblement les rendements,” Agence France-Presse, February 6, 2003.

19. Washington Post, May 4, 2003.

20. Times of India, March 15, 2003.

21. Hindu Business Line, January 23, 2006. These were Mech-12 Bt, Mech-162 Bt, and Mech-184 Bt.

22. “Court Rejects Monsanto Plea for Bt Cotton Seed Price Hike,” The Hindu, June 6, 2006.

23. Abdul Qayum and Kiran Sakkhari, “False Hope, Festering Failures: Bt Cotton in Andhra Pradesh 2005–2006. Fourth Successive Year of the Study Reconfirms the Failure of Bt Cotton,” AP Coalition in Defense of Diversity and Deccan Development Society, November 2006, www.grain.org/research_files/APCIDD%20report-bt%20cotton%20in%20AP-2005-06.pdf.

24. “Monsanto Boosts GM Cotton Seed Sales to India Five-Fold,” Dow Jones Newswires, September 7, 2004. According to this article, the company sold 1.3 million packets of Bt seeds in 2004, compared to 230,000 in 2003.

25. Daniel Charles, Lords of the Harvest: Biotech, Big Money, and the Future of Food (Cambridge, MA: Perseus, 2002), 182. notes to pages 297–304 355

26. Michael Pollan, “Playing God in the Garden,” New York Times Magazine, October 25, 1998.

27. “Farmers Violating Biotech Corn Rules,” Associated Press, January 31, 2001.

28. Susan Lang, “Seven-Year Glitch: Cornell Warns that Chinese GM Cotton Farmers Are Losing Money Due to ‘Secondary’ Pests,” Cornell Chronicle Online, July 25, 2006, www.news.cornell.edu/stories/July06/Bt.cotton.China.ssl.html.