Friday, January 2, 2015

Mùa đông thứ tư của Fukushima

Đã bốn năm sau thảm họa nhà máy điện nguyên tử Fukushima, người Nhật Bản vẫn còn đang vật lộn để dọn dẹp và khắc phục hậu quả. Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "The Fourth Winter of Fukushima" của tác giả Alexis Dudden về cuộc sống của những người phải đi tị nạn do thảm họa nhà máy điện nguyên tử.

Mùa đông thứ tư của Fukushima

“Không, chẳng có gì hết. Tôi chẳng có kế hoạch gì cho năm mới. Chẳng có gì hết. Không có ai tới.” Một phụ nữ bẽn lẽn với khuôn mặt tròn trịa ném những lời đó như mũi phi tiêu vào mặt nạ bảo vệ mà bà ấy mang. Một lúc trước đó bà ấy đang cười hạnh phúc cùng với vài người là cựu cư dân của thành phố nhỏ Tomioka khi họ hồi tưởng về một người bạn mà họ cùng biết. Mặc dù vậy, bà ấy nhanh chóng trở nên sống sượng khi được hỏi về những ngày nghỉ sắp tới. 

Tomioka có 15.839 cư dân trước vụ động đất, sóng thần và nổ lò hạt nhân kinh hoàng vào ngày 11 tháng 3 năm 2011. Tất cả ngoại trừ một người đã rời đi – Matsumura Naoto, một nông dân trồng lúa nổi tiếng đã từ chối bỏ rời bỏ nông trại gia đình đã tồn tại qua 5 thế hệ của ông ấy.

Hoang mang và thất vọng phổ biến trong những người còn lại, một tình trạng tồn tại mà các quan chức chính quyền lúng túng làm tồi tệ hơn vào ngày 25 tháng 3 năm 2012 khi họ chia khu vực 25 dặm vuông bên bờ biển thành 3 khu vực: không bao giờ quay lại, quay lại trong thời gian ngắn, quay lại để sửa chữa. Các nhà khoa học được chính quyền tại trợ quyết định sự phân chia ở đó và các khu vực khác gần nhà máy hạt nhân dựa trên cái được gọi là tỷ suất về liều lượng hàng năm có thể chấp nhận. Những sự thiết kế đó có thể tạo ra cảm giác thiếu thực tế theo các khái niệm khoa học. Mặc dù vậy, trong cuộc sống hàng ngày, điều đó có nghĩa là các đường phố bị chia đôi, một nửa “an toàn” trong khi các căn nhà quanh góc phố được tuyên bố là phải chờ hàng ngàn năm nữa mới có thể quay lại.

Mọi người liên quan hiểu rằng sự phân chia chính thức là cấp thiết đối với việc bồi hoàn. Nếu tài sản của bạn ở bất cứ đâu thuộc chỗ “không bao giờ quay lại” thì bạn sẽ không được trả tiền nữa. Có rất ít sự đánh giá xem những biện pháp đó tác động ra sao tới những người đang đón mùa đông thứ tư ở trong sự quên lãng.

Cuộc sống ở nơi tị nạn nội địa

Nhiều cựu cư dân của Tomioka hiện đang sống cách đó 25 dặm về phía tây trong một thị trấn nông thôn của Miharu, nổi tiếng với cây anh đào 1.000 năm tuổi. Miharu hiện đang mang khoảng 2.000 người trong số 140.000 được chính thức coi là “phải di cư” do khủng hoảng. Khái niệm “tị nạn hạt nhân” biến mất. Tất cả trộn lẫn vào thành một. Mặc dù vậy, những người đó bị tách vĩnh viễn khỏi cuộc sống ngày trước của họ sau khi nhà máy điện nguyên tử Daiichi của Fukushima tan chảy nhanh hơn, trong đó có những người phải sống trong nhà lều suốt 3 năm rưỡi.

Vào một buổi chiều gần đây, một nhóm dân làng bị “di cư” vĩnh viễn của Tomioka tụ tập để nói chuyện trong một căn phòng chung được chiếu sáng rực rỡ, náu mình giữa 20 hay nhiều dãy những tòa nhà sơn màu cát đứng sát nhau, được phân chia thêm thành các phòng nhỏ cho cặp đôi và cá nhân chủ yếu là ở độ tuổi 60 và 70. Một người trẻ hơn ở độ 50 tuổi đã kiên trì trụ lại. Trước cuộc khủng hoảng, công việc kinh doanh của ông là cung cấp bữa ăn trưa cho công nhân nhà máy điện hạt nhân. Sôi nổi và dường như có thể đi bất cứ đâu, ông bị cầm tù bởi những quy tắc của những thứ khiến ông không thể sống ở Tomioka mặc dù cho phép ông tới thăm con chó chồn đáng yêu Chocolat vài lần một tuần, con chó mà ông đã không để cho nó chết.

Nhiều người phải di cư vẫn tin vào khả năng quay trở về trong vài tháng trước đây. Trưởng nhóm Matsumoto-san không tin vào giải pháp đó từ lâu. “Nếu chỉ là họ nói với tôi sau đó, nói với tôi rằng chúng tôi sẽ không thể quay lại, tôi sẽ có thể mang gia đình chuyển tới Aomori (ở miền bắc Nhật Bản), và chúng tôi sẽ sống cùng nhau,” ông nói. Ông cũng chia sẻ nhiều ấn tượng tồi tệ: gia đình bị chia ly, con cái và cháu chắt giờ đang sống phân tán khắp Nhật Bản và hiếm khi viếng thăm. Nhà lều thì nhỏ, nhiều khối gắn với nhau, mặc dù vậy có ít không gian mở và hoàn toàn không có đất canh tác. Những biển chỉ đường mới trên phố chỉ dẫn tới các khu nhà và có vẻ hoan nghênh, nhưng những người bên trong nói họ biết họ đang “trên đường” và “một lúc sau bạn hiểu rằng họ không muốn tiếp đón bạn nữa.

Một người trúng số

Một người phụ nữ có điều ngạc nhiên cho những người khác. “Tôi rất tiếc là đã không nói với các bạn trước,” bà nói, dĩ nhiên là giành lấy lợi thế trước hai người lạ để thông báo tin tức của bà. “Tôi đã xin bốc thăm (nhà), và tôi tiếc là là không nói với các bạn rằng tôi đã thắng. Tôi rất tiếc. Trong một vài tuần tới tôi sẽ chuyển tới một căn nhà định cư. Chả nhiều nhặn gì. Tôi biết là tôi có cơ hội tốt hơn bởi vì tôi làm chủ bản thân mình. Tôi hy vọng rằng các bạn tha thứ cho tôi.

Một số người có thể coi những lời này là bản chất văn hóa, mặc dù một bầu không khí căng thẳng tràn ngập căn phòng. Cảm xúc mong manh của cồng đồng lại bị chia rẽ một lần nữa, một số người chúc bà ấy may mắn – bà đã sống trong 6 căn nhà lều khác nhau trước đây – những người còn lại trông như họ bị ốm và chẳng nói gì. Một người phụ nữ khác bật khóc.

Chính sách nhà ở mới được công bố với khẩu hiệu ngượng nghịu bằng cả tiếng Nhật và tiếng Anh – “Tương lai từ Fukushima” – tiết lộ về những thứ đã có ngay từ ban đầu: tô điểm cho mọi thứ tiếp tục. Những chi tiết nhỏ đưa đến hiện thực về nhà ở. Ngay cả khi nếu bạn đủ may mắn để trúng được một nơi định cư và bạn cố gắng sống sót hơn 11 năm, bạn cũng sẽ phải trả tiền thuê nhà.

Người phụ nữ không biết điều đó, hay không có ai nói cho bà về việc họ làm. Bà sẽ chuyển đến một nơi được gọi là nhà định cư vào mùa đông này. Cùng lúc đó, những người khác trở thành một phần của bảng thống kê xấu, một trong những sự thật rõ ràng kể từ tháng 3 năm 2011. Người chết do nguyên nhân căng thẳng nhiều hơn là do những thảm họa ban đầu ở Fukushima 

Alexis Dudden is a professor of history at the University of Connecticut and the author of Troubled Apologies Among Japan, Korea, and the United States (Columbia University Press, 2008). 

This article originally appeared in Foreign Policy In Focus.

Cảnh sát được tạo ra để kiểm soát người nghèo và nhân dân lao động

Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "The Police Were Created to Control Poor and Working Class People" của tác giả Sam Mitrani về vai trò của cảnh sát trong xã hội tư bản hiện đại. Theo F. Engel trong cuốn "Nguồn gốc gia đình, nhà nước và chế độ tư hữu" thì các quốc gia thời kỳ chiếm hữu nô lệ cũng đã có một dạng cảnh sát, nhưng những người tự do khinh rẻ công việc đó, công việc cảnh sát như đi tuần và bắt giữ được giao cho nô lệ làm. Như vậy sự hình thành của cảnh sát ở miền nam nước Mỹ tương đối giống với chế độc chiếm hữu nô lệ cổ xưa.

Cảnh sát được tạo ra để kiểm soát người nghèo và nhân dân lao động

Trong hầu hết các cuộc tranh luận tự do về việc cảnh sát giết hại người da màu không có vũ trang mới đây, có một giả định ngầm là cảnh sát được mong đợi bảo vệ và phục vụ dân chúng. Trên hết, đó là lý do cảnh sát được tạo ra. Nếu chỉ là việc tái thiết lập quan hệ bình thường, tử tế giữa cảnh sát và cộng đồng, vấn đề này có thể được giải quyết. Người nghèo nói chung dễ trở thành nạn nhân của tội ác hơn bất cứ ai khác, lý do này vẫn tiếp diễn theo cách này, họ có nhu cầu lớn hơn những người khác đối với sự bảo vệ của cảnh sát. Có thể là trong số họ có vài kẻ xấu, nhưng nếu chỉ là cảnh sát không phân biệt chủng tộc, hay không thực hiện các biện pháp như chặn-và-khám xét, hay không e ngại người da màu, hoặc bắn vài người không có vũ trang, họ có thể hoạt động như là một dịch vụ hữu ích mà tất cả chúng ta đều cần.

Các nhìn nhận vấn đề độc lập kiểu này dựa trên nhầm lẫn về nguồn gốc của cảnh sát và mục đích họ được tạo ra. Cảnh sát không được tạo ra để bảo vệ và phục vụ dân chúng. Họ không được tạo ra để ngăn chặn tội ác, ít nhất là không như hầu hết mọi người hiểu. Họ chắc chắn không được tạo ra để thúc đẩy công lý. Họ được tạo ra để bảo vệ một dạng mới của chủ nghĩa tư bản lao động-làm thuê phát sinh từ giữa đến cuối thế kỷ 19 khỏi nguy hiểm do con đẻ của hệ thống gây ra, đó là giai cấp lao động.

Đây là cách khẳng định thẳng thừng một sự thật nhỏ bé, mặc dù đôi khi sự nhỏ bé cũng hữu ích để làm bối rối. 

Trước thế kỷ 19, không có lực lượng cảnh sát mà chúng ta sẽ thừa nhận ở bất cứ đâu trên thế giới. Ở Bắc Hoa Kỳ, có một hệ thống các đốc quân và cảnh sát trưởng được bầu cử, chịu trách nhiệm với dân chúng theo cách trực tiếp hơn cảnh sát ngày nay. Ở miền nam, thứ gần gũi nhất với lực lượng cảnh sát là đội tuần tra nô lệ. Sau đó, khi các thành phố miền Bắc lớn lên và tràn ngập người lao động làm thuê nhập cư, những người vốn tách biệt cả về vật chất lẫn xã hội với giai cấp thống trị, tầng lớp thượng lưu giàu có đang điều hành các chính quyền thành phố đã thuê hàng trăm và sau đó là hàng ngàn người có vũ trang để thiết lập trật tự tại các các khu dân cư lao động mới.

Xung đột giai cấp bùng nổ cuối thế kỷ 19 ở những thành phố của Hoa Kỳ như Chicago, nơi trải qua nhiều cuộc bãi công và bạo loạn vào những năm 1867, 1877, 1894. Trong mỗi biến động đó, cảnh sát tấn công người bãi công cực kỳ bạo lực, thậm chí trong những năm 1877 và 1894 quân đội Hoa Kỳ đóng một vai trò lớn trong việc đàn áp tối đa giai cấp lao động. Kết quả của những phong trào đó là cảnh sát ngày càng coi bản thân họ là một vạch xanh nhỏ bảo vệ nền văn minh, họ muốn nói tới nền văn minh tư sản, khỏi sự phá hoại của giai cấp lao động. Ý tưởng về trật tự được phát triển vào cuối thế kỷ 19 vang vọng tới ngày nay – ngoại trừ hôm nay, người da màu nghèo và người Latin là mối đe dọa chủ yếu, hơn là người lao động nhập cư.

Dĩ nhiên là giai cấp thống trị không nhận được mọi thứ mà họ muốn, và cũng không thu được nhiều điểm trong việc kiểm soát người lao động nhập cư. Đó là lý do tại sao các chính quyền thành phố lùi bước trước việc cấm nhậu nhẹt vào ngày chủ nhật, và là lý do khiến họ thuê nhiều người nhập cư làm cảnh sát, nhất là người Ireland. Bất chấp những sự nhượng bộ đó, các chủ doanh nghiệp liên kết với nhau để đảm bảo rằng cảnh sát ngày càng bị tách ra khỏi sự kiểm soát dân chủ, và thiết lập hệ thống quan chức, hệ thống quản trị cũng như các quy tắc ứng xử. Cảnh sát phân biệt với dân chúng bởi đồng phục, thiết lập các quy định riêng về thuê mướn, thăng cấp và sa thải, làm việc để xây dựng một tinh thần đồng đội độc nhất, cũng như đồng nhất bản thân họ với trật tự. Bất chấp những phàn nàn về tham nhũng và thiếu hiệu quả, họ thu nhận được nhiều hơn và nhiều hơn sự ủng hộ của giai cấp thống trị, để mở rộng chuyện đó ở Chicago, một ví dụ, các doanh nhân đóng góp tiền để mua cho cảnh sát súng trường, pháo, súng Gatling, các tòa nhà và tiền để thiết lập quỹ lương hưu cho cảnh sát cũng tuôn ra từ túi của họ.

Chưa bao giờ cảnh sát của một thành phố lớn thi hành “pháp luật” một cách trung lập, hay ở bất cứ đâu đến gần lý tưởng đó (trong vấn đề này, luật pháp không bao giờ trung lập). Ở miền bắc, họ hầu hết bắt giữ người dân với các “tội ác” được định nghĩa mập mờ về gây rối trật tự và sống lang thang suốt thế kỷ 19. Điều này có nghĩa là cảnh sát có thể bắt giữ bất kỳ ai mà họ cho là mối đe dọa đối với “trật tự”. Ở miền nam thời hậu chiến, họ đảm bảo uy quyền tối cao của người da trắng và bắt giữ phổ biến người da màu bằng cách vu cáo để cung cấp nhân lực cho hệ thống lao động trong các nhà tù.

Bạo lực mà cảnh sát gây ra và sự phân biệt đạo đức của họ với những người họ giám sát không phải là hệ quả của sự tàn bạo của cá nhân viên chức cảnh sát, mà là hệ quả của một chính sách được thiết kế cẩn trọng để nhào nặn cảnh sát thành một lực lượng có thể sử dụng bạo lực để giải quyết các vấn đề xã hội đồng hành với sự phát triển của nền kinh tế lao động-làm thuê. Ví dụ, trong một thời gian ngắn, khủng hoảng sâu sắc giữa những năm 1880s, Chicago tràn ngập gái điếm làm việc trên đường phố. Nhiều cảnh sát thừa nhận rằng những gái điếm đó là các phụ nữ nghèo khổ tìm một cách sống sót, và ban đầu dung tha cho hành vi của họ. Nhưng hệ thống quan chức của cảnh sát khẳng định rằng những người tuần tra phải làm nhiệm vụ bất kể là họ cảm thấy ra sao, và bắt giữ những phụ nữ đó, phạt và đưa họ ra khỏi đường phố, đưa vào nhà thổ, nơi mà họ có thể được một số thành viên của giới thượng lưu bỏ qua và một số khác kiểm soát. Tương tự, vào năm 1885, khi Chicago bắt đầu trải qua làn sóng bãi công, một số cảnh sát có cảm tình với người bãi công. Nhưng khi hệ thống quan chức cảnh sát và thị trưởng quyết định bẻ gẫy các cuộc đình công, những cảnh sát từ chối thực hiện đã bị sa thải. Theo những cách đó và hàng ngàn cách tương tự, cảnh sát được nhào nặn thành một lực lượng sẽ thiết lập trật tự đối với giai cấp lao động và người nghèo, bất chấp cảm xúc cá nhân của các viên chức tham gia.

Mặc dù một số người tuần tra cố tỏ ra tốt tính nhưng những người khác tàn bạo công khai, bạo lực của cảnh sát trong những năm 1880 không phải là trường hợp của một vài gã xấu – cũng như ngày nay.

Rất nhiều điều đã thay đổi kể từ khi cảnh sát được thiết lập – quan trọng nhất là dòng người da màu tràn vào các thành phố miền bắc, phong trào của người da màu giữa thế kỷ 19, và sự thiết lập hệ thống giam giữ quy mô lớn hiện hành để đáp lại trong trào đó. Nhưng những sự thay đổi đó không dẫn đến sự dịch chuyển nền tảng trong ngành cảnh sát. Chúng dẫn đến các chính sách mới được thiết kế để duy trì sự tiếp tục mang tính nền tảng. Cảnh sát được tạo ra để sử dụng bạo lực hòa giải nền dân chủ đại điện với chủ nghĩa tư bản công nghiệp. Ngày nay, họ chỉ là một phần của hệ thống “tư pháp hình sự” đang tiếp tục đóng vai trò tương tự. Công việc cơ bản của họ là thiết lập trật tự đối với những người phẫn nộ hoàn toàn có lý với hệ thống – những người trong xã hội của chúng ta hiện nay đa phần là người nghèo da màu.

Một hệ thống cảnh sát dân chủ là không thể tưởng tượng – một trong số đó là cảnh sát được bầu chọn và đáng tin cậy đối với những người mà họ giám sát. Nhưng đó không phải là điều mà chúng ta có. Đó cũng không phải là điều mà hệ thống cảnh sát hiện tại được tạo ra để làm.

Nếu như có một bài học tích cực từ lịch sử nguồn gốc của cảnh sát, đó là khi công nhân tổ chức nhau, phản đối giao nộp hay hợp tác, và gây ra nhiều vấn đề đối với các chính quyền thành phố, cảnh sát buộc phải tạm ngưng những hoạt động khó chịu nhất của họ. Sát hại các cá nhân cảnh sát, như đã diễn ra ở Chicago vào ngày 3 tháng 5 năm 1886 và mới đây là ở New York vào ngày 20 tháng 12 năm 2014, chỉ khiến cho những người đó phải chịu sự đàn áp tàn nhẫn – một phản ứng mà chúng ta đã thấy ngay từ đầu. Nhưng phản kháng với quy mô lớn có thể khiến cảnh sát lưỡng lự. Điều này xảy ra ở Chicago trong những năm 1880, khi cảnh sát rút lui khỏi cuộc đàn áp bãi công, thuê các viên chức nhập cư và tái thiết lập sự tín nhiệm đối với giai cấp lao động sau khi vai trò của họ trong cuộc triệt hạ tàn bạo vào năm 1877 thay đổi đột ngột.

Cảnh sát có thể lùi bước một lần nữa nếu sự phản kháng đối với vụ giết hại Eric Garner, Micheal Brown, Tamir Rice và hàng sa số những người khác được tiếp tục. Nếu chúng được tiếp tục, đó sẽ là chiến thắng của những ngày rung chuyển này và sẽ cứu sống nhiều sinh mạng – Nhưng chừng nào mà hệ thống này còn yêu cầu cảnh sát kiểm soát bằng bạo lực đối với một phần lớn những người sống sót, mọi sự thay đổi trong chính sách cảnh sát sẽ hướng tới việc kiềm chế người nghèo một cách hiệu quả.

Chúng ta không nên kỳ vọng cảnh sát trở một thứ không phải là họ. Như các nhà sử học, chúng ta cần phải biết nguồn gốc của vấn đề, và cảnh sát được tạo ra bởi giai cấp thống trị để kiểm soát giai cấp lao động cũng như người nghèo, chứ không phải để giúp họ. Cảnh sát đang tiếp tục thực hiện vai trò của họ.

Sam Mitrani is an Associate Professor of History at the College of DuPage. He earned his PhD from the University of Illinois at Chicago in 2009. He is the author of The Rise of the Chicago Police Department: Class and Conflict, 1850-1894 (University of Illinois Press).

This essay was originally published by LAWCHA, the Labor and Working Class History Association.

Thursday, January 1, 2015

Tra tấn và chủ nghĩa ngoại lệ Hoa Kỳ

Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "American Exceptionalism and American Torture" của tác giả William Blum. Bài viết nhắc nhở rằng vụ scandal tra tấn mới đây của CIA không phải là sự ngẫu nhiên, tra tấn là truyền thống của Hoa Kỳ.  

Tra tấn và chủ nghĩa ngoại lệ Hoa Kỳ

Vào năm 1964 trong cuộc đảo chính do Hoa Kỳ thiết kế, quân đội Brazil đã lật một chính quyền độc lập (không có gì tả hơn họ) và cai trị với bàn tay sắt trong 21 năm tiếp theo. Vào năm 1979, chính quyền quân sự thông qua một đạo luật ân xá ngăn chặn việc xét xử các thành viên của họ về tội tra tấn và các tội ác khác. Đạo luật ân xá đó vẫn còn hiệu lực. 

Đó là cách họ xử lý vấn đề tại nơi được gọi là Thế Giới Thứ Ba. Mặc dù vậy, tại Thế Giới Thứ Nhất thì họ không cần đến sự tinh tế pháp lý kiểu ấy. Tại Hoa Kỳ, quân đội tra tấn và các bố già chính trị của họ tự động đảm bảo sự ân xá, đơn giản chỉ là người Mỹ, hay chỉ cần là thành viên của “Câu Lạc Bộ Những Gã Tốt”. 

Hiện nay, sau khi báo cáo của Ủy Ban Tình Báo Thượng Viện về việc tra tấn của CIA được công bố, chúng ta bị sốc hơn bởi những tiết lộ về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Mặc dù vậy, người Mỹ và thế giới có cần một người khác nhắc nhở rằng Hoa Kỳ dẫn đầu thế giới về tra tấn? Thông điệp không thể tường thuật quá thường xuyên bởi sự tẩy não đối với người Mỹ và các tín đồ Mỹ trên khắp thế giới đã sâu sắc đến mức họ nhận được những cú sốc lặp đi lặp lại để đánh bật chúng ra khỏi đầu. Không ai làm công việc tẩy não tốt như quan hệ công chúng và quảng cáo của các nhà đầu tư Yankee già cỗi. Luôn luôn có một thế hệ mới tiến vào thời đại với những ngôi sao (và vạch) [chú thích: quốc kỳ Mỹ] trong ánh mắt. 

Mặc dù vậy, công chúng cũng được gợi nhắc lại chuyện cũ một lần nữa – trái với những điều mà hầu hết truyền thông và ngài Obama sẽ làm cho chúng ta tin tưởng – tổng thống thực sự chưa bao giờ cấm tra tấn về bản chất, bất chấp phát ngôn mới đây rằng ông ta đã “dứt khoát cấm tra tấn” sau khi nhậm chức. 

Ngay sau lễ nhậm chức của Obama, cả ông ta và Leon Panetta, giám đốc mới của CIA, tuyên bố rõ ràng rằng “chuyển giao” sẽ không chấm dứt. Như tờ Los Angeles Times tường thuật vào lúc đó: “Theo các mệnh lệnh mới đây của Obama, CIA vẫn có quyền thực hiện những thứ được coi là chuyển giao, lạm dụng bí mật và đưa các tù nhân sang các quốc gia hợp tác với Hoa Kỳ.” 

Từ “hợp tác” dịch sang tiếng Anh là “tra tấn”. Chuyển giao đơn giản là thuê ngoài tra tấn. Không có lý do nào khác để đưa tù nhân tới Lít-va, Ba Lan, Rumania, Ai Cập, Jordan, Kenya, Somalia, Kosovo, hay hòn đảo Diego Garcia trên Ấn Độ Dương, hay các trung tâm tra tấn khác do Hoa Kỳ thuê. Kosovo và Diego Garcia – cả hai đều có căn cứ quân sự lớn và rất bí mật của Hoa Kỳ - nếu không phải là một số nơi khác, vẫn có thể mở cửa cho công việc tra tấn, như căn cứ Guantánamo ở Cuba. 

Hơn nữa, quyết định của tổng thống dựa trên luật số 13491, công bố vào ngày 22 tháng 1 năm 2009, đó là “Thẩm vấn đảm bảo đúng pháp luật”, có một lỗ hổng lớn. Đạo luật khẳng định lặp đi lặp lại rằng đối xử nhân đạo, trong đó có việc không tra tấn, chỉ áp dụng đối với những tù nhân bị giam giữ trong một cuộc “xung đột vũ trang”. Do vậy, tra tấn bởi người Mỹ bên ngoài môi trường “xung đột vũ trang” không bị cấm hoàn toàn. Thế còn tra tấn trong phạm vi môi trường “chống khủng bố”? 

Quyết định của tổng thống yêu cầu CIA chỉ được sử dụng các biện pháp thẩm vấn được phác thảo trong Sổ Tay Quân Đội Chiến Trường đã chỉnh sửa. Mặc dù vậy việc sử dụng Sổ Tay Quân Đội Chiến Trường làm hướng dẫn đối xử với tù binh và thẩm vấn vẫn cho phép biệt giam, tước đoạt giác quan hay nhận thức, làm quá tải giác quan, cấm ngủ, gây sợ hãi và thất vọng, thuốc làm thay đổi thần kinh, can thiệp môi trường như nhiệt độ và tiếng ồn, các tư thế căng thẳng, đó là những ví dụ hấp dẫn của Chủ nghĩa ngoại lệ Hoa Kỳ. 

Sau khi Panetta bị một nhóm Thượng Viện thẩm vấn, tờ New York Times viết rằng ông ta đã “để ngỏ khả năng cục có thể tìm cách để được phép sử dụng các biện pháp thẩm vấn nghiêm khắc hơn là danh sách sách giới hạn mà tổng thống Obama cho phép theo các quy định mới …. Ngài Panette cũng nói rằng cục sẽ tiếp tục thực hiện việc “chuyển giao” của chính quyền Bush …. Nhưng ông ta nói rằng cục sẽ từ chối giao các nghi phạm cho các quốc gia được biết là có tra tấn hay có những hành động ‘xâm phạm các giá trị nhân bản của chúng ta’.” 

Câu cuối cùng dĩ nhiên là lố bịch một cách trẻ con. Những quốc gia được chọn để chuyển giao tù nhân đã được lựa chọn chính xác và duy nhất chỉ bởi vì họ sẵn sàng và có khả năng tra tấn tù nhân. 

Bốn tháng sau khi Obama và Panetta nhậm chức, tờ New York Times có thể đưa tin rằng việc chuyển giao đã đạt một tầm cao mới. 

Các bản tin mới cho biết sự ám ảnh của Washington với tra tấn bắt nguồn từ ngày 11 tháng 9, để ngăn chặn một sự lặp lại. Tổng thống nói về “sự sợ hãi quá mức của kỷ nguyên hậu 11 tháng 9”. Có một số điều đúng trong ý tưởng đó, nhưng đó không phải là một ý tưởng tốt. Tra tấn ở Hoa Kỳ thực sự đã cổ xưa như đất nước này. Liệu có chính quyền nào can dự vào sự kinh khủng đó nhiều hơn Hoa Kỳ? Huấn luyện, cung cấp hướng dẫn, cung cấp trang thiết bị, dựng lên các trung tâm tra tấn quốc tế, bắt cóc người dân tới những nơi đó, biệt giam, cưỡng bức ăn, Guantánamo, Abu Ghraib, Bagram, Chile, Brazil, Argentina, Chicago … Chúa tha tội cho chúng ta! 

Vào năm 2011, Brazil thiết lập Ủy Ban Sự Thật Quốc Gia để chính thức điều tra các tội ác của chính quyền quân sự đã kết thúc vào năm 1985. Obama trên thực tế từ chối lời kêu gọi về một ủy ban sự thật điều tra việc tra tấn của CIA. Mặc dù vậy, vào ngày 17 tháng 6 năm nay khi phó tổng thống Joseph Biden có mặt ở Brazil, ông ta đã trao cho Ủy Ban Sự Thật 43 bức điện tín và báo cáo của Bộ Ngoại Giao liên quan đến chính quyền quân sự Bazil, trong đó có một tài liệu mang tên “Bắt giam phổ biến và Thẩm vấn tâm sinh lý học đối với các nghi phạm lật đổ.” 

Do đó, một lần nữa Hoa Kỳ sẽ không phải chịu trách nhiệm về việc vi phạm pháp luật Hoa Kỳ, luật pháp quốc tế và luật pháp cơ bản về phép tắc nhân bản. Obama có thể kỳ vọng sự tử tế tương tự của người kế nhiệm như ông ta đã kế tục George W. 

“Một trong những thế mạnh tạo ra ngoại lệ Hoa Kỳ là sự sẵn sàng công khai đối đầu với quá khứ của chúng ta, đối mặt với sự không hoàn hảo của chúng ta, thay đổi và làm tốt hơn.” – Barack Obama, viết trong tuyên bố được đưa ra vào thời điểm sau khi bản báo cáo của Thượng Viện được công bố. 

Nếu đống đạo đức giả đó chưa đủ lớn hay chưa đủ bốc mùi, hãy thêm bình luận của Biden trong chuyến viếng thăm Brazil: “Tôi hy vọng rằng trong khi tiến tới thấu hiểu quá khứ thì chúng ta có thể tìm ra cách để tập trung vào những hứa hẹn tốt đẹp của tương lai.” 

Nếu những kẻ tra tấn của chính quyền Bush và Obama không phải chịu trách nhiệm ở Hoa Kỳ thì họ sẽ phải bị truy nã quốc tế theo những nguyên tắc của quyền lực pháp lý phổ quát. 

Vào năm 1984, Liên Hiệp Quốc có một bước tiến lịch sử với việc soạn thảo “Hiệp Ước Chống Tra Tấn và Các Đối Xử hay Trả Thù Tàn Bạo, Phi Nhân Đạo, Thấp Hèn” (có hiệu lực vào năm 1987, Hoa Kỳ phê chuẩn năm 1994). Điều 2 khoản 2 của Hiệp Ước khẳng định: “Không có bất kỳ ngoại lệ nào, bất kể là tình trạng chiến tranh hay đe dọa chiến tranh, bất ổn chính trị nội bộ hay các tình trạng khẩn cấp công cộng khác, có thể biện minh cho việc tra tấn.” 

Rất rõ ràng, rất chắc chắn, và rất chuẩn mực về ngôn ngữ, đặt ra một tiêu chuẩn duy nhất cho thế giới, điều đó gây khó khăn cho những người cảm thấy tự hào về nhân tính. Chúng ta không thể giở lại trang trước. Nếu ngày nay dường như việc tra tấn ai đó có thể chấp nhận được, như người bị tình nghi là có thông tin về “đánh bom tự sát” bảo vệ cuộc sống của nhiều người, thì ngày mai sẽ có thể chấp nhận việc tra tấn anh ta để tìm ra cách nhận dạng những người đồng mưu với anh ta. Liệu chúng ta có cho phép phục hồi tình trạng nô lệ trong một thời gian ngắn để phục vụ cho một vài “khẩn cấp quốc gia” hay một vài “mục đích cao cả hơn” khác? 

Nếu bạn mở cửa sổ cho tra tấn, thậm chí chỉ là một khe nhỏ, khí lạnh của Thời Đại Tăm Tối sẽ tràn đầy căn phòng. 

Wednesday, December 31, 2014

Okinawa ngăn chặn sự xoay trục sang Châu Á của Obama

Mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết của "A small island trying to block Obama's 'Asian Pivoting'" của tác giả Christine Ahn để thấy những nỗ lực của người dân Nhật Bản trong việc xóa bỏ các căn cứ quân sự Hoa Kỳ tại Nhật Bản. Tiêu đề do người dịch đặt lại.

Một hòn đảo nhỏ cố gắng ngăn chặn sự “xoay trục sang Châu Á” của Obama

Vào ngày 10 tháng 12 – Ngày Nhân Quyền Quốc Tế - Takeshi Onaga bắt đầu nhiệm kỳ của thống đốc mới ở Okinawa.

Tháng trước, các công dân của Okinawa đã mang đến chiến thắng vang dội cho Onaga, người điều hành một diễn đàn phản đối việc xây dựng căn cứ Hải Quân mới của Hoa Kỳ ở phía bắc Okinawa. Sử dụng khẩu hiệu “Tất cả Okinawa”, Onaga hứa hẹn “ngăn chặn việc xây dựng bằng mọi biện pháp có thể” và xóa bỏ sân bay trực thăng Osprey của Hải Quân, thứ mà ông gọi là “cản trở lớn nhất đối với sự phát triển của Okinawa.” 

Chiến thắng của Onaga – trong đó ông nhận được sự ủng hộ của 2/3 số cử tri – tạo thành một cuộc trưng cầu ý kiến của người dân Okinawa chống lại liên minh chặt chẽ với Washington của thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe trong việc tiếp tục quân sự hóa hòn đảo này.

Dấu vết đậm nét của Hoa Kỳ ở Okinawa

Tôi đến Okinawa vào đầu tháng 12 để tham gia một hội nghị phụ nữ và xây dựng hòa bình, và để nghe người dân Okinawa nói lên ý nghĩ về kế hoạch của Washington chuyển Sân Bay Futenma của Hải Quân đầy tai tiếng từ trung tâm thành phố Ginowan tới Vịnh Henoko có hệ sinh thái nguyên thủy.

Khi tôi chuyển tiếp ở sân bay quốc tế Narita của Tokyo sang cửa lên máy bay tới Naha, ấn tượng rõ ràng là tôi đi đến căn cứ Hoa Kỳ. Viên chức Hoa Kỳ trong đồng phục dân sự và chiến đấu, cùng với gia đình của họ, chiếm đại đa số tại khu vực sân bay.

Trong khi chờ chuyến bay, tôi ngồi chung bàn với một lính thủy người Mỹ gốc Phi cao lớn có tên là Ramone. Khi tôi hỏi anh ta tại sao lại đăng lính, anh ta nói rằng anh cần một sự thay đổi. Mẹ anh ta phản đối việc đăng lính bởi vì ông nội anh ta trở về từ Chiến Tranh Thế Giới thứ II “không ổn tí nào”, và chú anh ta không bao giờ hoàn toàn hồi phục sau chiến dịch Bão Táp Sa Mạc.

Mặc dù vậy, so với những cơ hội ít ỏi ở Nam Carolina, đời sống quân nhân là tốt đối với anh ta, và anh ta có thể nhanh chóng có được danh vọng. Bố của hai cô con gái, Ramone nói anh ta cảm thấy nuôi dưỡng gia đình ở Okinawa an toàn hơn là trở về quê nhà. Sau khi chúng tôi đã trở nên gần gũi hơn, tôi hỏi Ramone xem anh ta nghĩ sao về vị thống đốc mới trúng cử. Anh ta cười tủm tỉm và nói, “Lý tưởng của ông ta khác.”

Ramone là một trong số 26.000 lính Mỹ đóng quân ở Okinawa. Cùng với gia đình, họ tạo thành khoảng 50.000 người Mỹ sống cùng với 1,3 triệu dân Okinawa. Tuy tôi vui mừng rằng Ramone và gia đình của anh ấy ít phải đối mặt với sự phân biệt và bạo lực hơn ở quê nhà, nhưng điều thực sự khiến tôi áy náy là bạo lực và khó khăn đối với con người và vùng đất này trong thời kỳ quân đội Mỹ chiếm đóng Okinawa.

Điều đó cũng gợi cho tôi nhớ đến cuộc đối thoại mới đây với nhà vật lý trị liệu của tôi ở Honolulu, con gái của bà ấy sống cùng với chồng là lính thủy ở Okinawa. Bà ấy cũng nói rằng họ thích sống ở Okinawa, ngay cả khi họ chỉ có liên hệ giới hạn với mọi người. Khi tôi đủ can đảm để kích động bà ấy về bạo lực mà quân đội Mỹ đã dùng để chống lại phụ nữ Okinawa, bà ấy trả lời rằng có những ngăn cấm đáng tiếc đối với lính Mỹ ở Okinawa do hành động của “một vài trái táo thối.” 

Nhưng khi tôi nói chuyện nhiều hơn với người dân Okinawa và viến thăm các địa điểm tiềm năng cho căn cứ mới của Hải Quân Hoa Kỳ ở vịnh Henoko, tôi càng hiểu hơn tại sao chiến thắng của Onaga là một dấu hiệu rất đáng chú ý trong cuộc đấu tranh đòi chủ quyền đã kéo dài nhiều thập kỷ của người dân Okinawa.

Cuộc đấu tranh lâu dài của Okinawa

Quân đội Hoa Kỳ mô tả Okinawa là “Hòn đá tảng của Thái Bình Dương” do sự gần gũi của nó đối với các thành phố chính của Châu Á, bao gồm Seoul, Tokyo, Đài Bắc, Hong Kong, Thượng Hải và Manila. Ngày nay, Henoko là chìa khóa trong chiến lược bao vây Trung Quốc và Bắc Triều Tiên của Washington. Theo học giả về Nhật Bản Gavin McCormack, “Đây là cái được gọi là Cơ Sở Thay Thế Futenma (FRF), một căn cứ lục-hải-không quân với cảng nước sâu, được thiết kế để phục vụ xuyên suốt thế kỷ 21 với vai trò là điểm tập trung sức mạnh lục quân, hải quân và không quân lớn nhất ở Đông Á.”

Vào năm 1945, khi Nhật thua Thế Chiến II, Okinawa rơi vào sự kiểm soát của Hoa Kỳ. Mặc dù Nhật Bản được đảm bảo độc lập theo Hiệp Ước Hòa Bình San Francisco năm 1951, nhưng Hoa Kỳ vẫn tiếp tục kiểm soát Okinawa trong 27 năm. Vào năm 1972, Hoa Kỳ trao trả Okinawa cho Nhật Bản, nhưng một hiệp ước bí mật giữa Washington và Tokyo cho phép Hoa Kỳ tiếp tục duy trì các căn cứ quân sự.

Trong Thế Chiến II, Okinawa là chiến trường duy nhất trong phần nổi tiếng của Nhật Bản. Một phần tư dân Okinawa đã chết. Theo Suzuyo Takazato, người sáng lập tổ chức Phụ Nữ Okinawa Hành Động Chống Lại Bạo Lực Quân Sự, trong thời kỳ hậu chiến, lực lượng chiếm đóng Hoa Kỳ đã giam giữ người dân Okinawa chạy loạn trong các trại tập trung và chiếm các vùng đất màu mỡ để xây dựng các căn cứ quân sự. Okinawa chiếm ít hơn 1% lãnh thổ đất liền Nhật Bản, mặc dù vậy 74% căn cứ quân sự Hoa Kỳ đóng ở đây, họ chiếm 1/5 diện tích đất liền của Okinawa.

Vào năm 1995, sau vụ cưỡng hiếp tập thể dã man một bé gái 12 tuổi của ba viên chức Hoa Kỳ, người dân Okinawa tiến hành các cuộc biểu tình quy mô lớn đòi xóa bỏ các căn cứ quân sự Hoa Kỳ ở Okinawa. Tình thế gây sốc đã buộc Tokyo phải đám phán với Hoa Kỳ vào năm 1996, thiết lập một Ủy Ban Hành Động Đặc Biệt ở Okinawa, được gọi là SACO, để bắt đầu giảm sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ xuống 20% - trong đó có việc đóng cửa căn cứ Futenma ở thành phố Ginowan. Giống như chiếc bánh rán, căn cứ Futenma chiếm 30% diện tích trung tâm thành phố Ginowan, và được bao quanh bởi nhà trẻ, trường học, đại học và bệnh viện, hoạt động dưới tiếng ồn kinh khủng của chiến đấu cơ phản lực, máy bay trực thăng và tàu sân bay.

Mặc dù vậy Hoa Kỳ đã nhanh chóng thay đổi lời hứa của họ, thay vì đóng cửa căn cứ Futenma thì lại đề xuất chuyển nó tới Trại Schwab ở vịnh Henoko. Điều đó đã gây ra giận dữ trong công chúng. Trong 18 năm, người dân Okinawa đã biểu tình liên tục hàng ngày trước cửa Trại Schwab và đường biển để ngăn chặn việc xây dựng căn cứ mới.

An ninh của ai? Không phải của phụ nữ Okinawa 

“Okinawa đã phải chịu đựng gánh nặng từ sự có mặt của quân đội Hoa Kỳ trong suốt 69 năm qua, Suzuyo Takazato nói. Với vai trò một nhân viên xã hội, bà đã làm việc cùng với những nạn nhân của bạo lực tình dục trong suốt hơn hai thập kỷ.

Takazato trao cho tôi một tài liệu liệt kê các tội ác của quân đội Hoa Kỳ đối với phụ nữ Okinawa trong hơn hai thập kỷ hậu chiến. Do không có các tài liệu chính thống về các tội ác đó, Takazako và những người khác đã đào xới các bản báo cáo của cảnh sát và các bài báo được cắt ra của các tạp chí từ năm 1945 đến năm 2012. Họ tập hợp chúng thành một tài liệu 26 trang gây sốc cho thấy bạo lực của quân đội Hoa Kỳ đối với phụ nữ và bé gái không phải là trường hợp của vài trái táo thối, mà mang tính cấu trúc.

Trong chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam, Okinawa đóng vai trò là sân bay xuất phát của quân đội Hoa Kỳ. Đây cũng là nơi mà binh lính Hoa Kỳ, rất nhiều người trong số họ bị PTSD (hội chứng rối loạn căng thẳng sau chấn thương), trở về sau chiến trận và gây ra các tội ác đối với người dân Okinawa, đặc biệt là phụ nữ và bé gái. Theo Takazato, cưỡng hiếp và các tội ác bạo lực đứng hàng đầu trong và sau các cuộc chiến đó. “Họ trở về sau chiến trận trong các điều kiện khủng khiếp và trút bỏ vào phụ nữ,” bà giải thích. Để quản lý binh lính Hoa Kỳ, những người sẽ đột nhập vào các gia đình địa phương và cưỡng bức phụ nữ và bé gái, Takazako giải thích rằng “Giống như một chiếc đai, các nhà thổ quân sự đã được thiết lập bao quanh các căn cứ quân sự.” 

Maki Sunagawa, một sinh viên 24 tuổi tốt nghiệp đại học Christian ở Okinawa, giải thích lý do cô phản đối chiếm đóng quân sự ở Okinawa. Thứ nhất, hồi cô còn học cấp 2, anh trai của cô đang ở trong thư viện của đại học Quốc Tế Okinawa khi mà máy bay trực thăng của Hải quân Hoa Kỳ đâm vào tòa nhà. Mặc dù không có sinh viên nào bị thương, nhưng điều đó đã gợi cho cô câu hỏi tại sao một căn cứ quân sự Hoa Kỳ lại ở gần nơi họ sống. Thứ hai, lúc cô học trung học, một trong những bạn thân của cô tiết lộ với cô là bị năm binh lính mặc thường phục cưỡng hiếp tập thể. Sunagawa nói bạn của cô không bao giờ kể với bố mẹ hay cảnh sát, và trong 8 năm đã phải chịu đựng trầm cảm, không thể hoàn thành trung học.

Một đồ thị Sao và Vạch cho thấy vào năm 2011 có 333 báo cáo về việc lính thủy Hoa Kỳ tấn công tình dục đối với phụ nữ tại các căn cứ hải quân khắp thế giới. Okinawa với 67 vụ tấn công đứng thứ hai sau Trại Lejeune ở Jacksonville, Florida (Hoa Kỳ). Nhiều nỗ lực đã được đưa ra để ngăn chặn hành động của các binh lính Hoa Kỳ, nhưng các cuộc tấn công vẫn tiếp diễn. Ví dụ, vào năm 2012, trong một triển khai ngắn hạn tới Okinawa từ Forth Worth, Texas, hai nhân viên hải quân Hoa Kỳ đã tấn công và cưỡng hiếp một phụ nữ Okinawa. Không giống như hầu hết các vụ án tấn công tình dục khác vốn thất bại trong việc mang lại công lý cho phụ nữ nạn nhân, hai thủy thủ đó đã bị xét xử và buộc tội ở tòa án của Nhật Bản và đang chịu án 10 năm tù giam trong nhà tù Nhật Bản. “Chúng tôi sợ hãi trong suốt những ngày nghỉ lễ như Ngày Quốc Tế Lao Động và ngày 4 tháng 7,” Takazato nói, bởi vì sự gia tăng của bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em.

Đầu độc biển và đất đai 

Khi chúng tôi đi bằng thuyền ở vịnh Henoko và Oura – nơi có kế hoạch thu hồi 160 ha biển để xây dựng các đường băng lớn và các cầu bốc dỡ - tôi nói chuyện với một số nhà hoạt động, già và trẻ, tham gia ngăn chặn việc xây dựng.

Takeshi Miyagi, một nông dân 44 tuổi, nói ông bỏ cánh đồng của mình vào tháng 7 để tham gia phản kháng với việc theo dõi biển bằng ca-nô. Miyagi nói rằng ông và các nhà hoạt động khác đang bảo vệ hệ sinh thái giàu có của vịnh Henoko và Oura và sự sinh tồn của cá nược. Bộ Môi Trường Nhật Bản liệt kê cá nược – một loài động vật biển có vú có họ hàng với lợn biển – vào danh sách “bị đe dọa nghiêm trọng.” Chúng cũng được đưa vào danh sách các chủng loài bị đe dọa của Hoa Kỳ.

Theo McCormack, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đã chỉ ra rằng rằng trong 5.334 chủng loài tồn tại ở biển có 262 loài đang bị đe dọa tuyệt chủng. Cũng báo cáo đó của Bộ Quốc Phòng đã khẳng định rằng có một ít cá thể cá nược sống trong vịnh, nhưng các nhà nghiên cứu mới đây đã phát hiện trong một chuỗi hai tháng hơn 100 cá thể cá nược đang kiếm ăn trong khu vực thu hồi. Điều này đã thúc đẩy các nhóm bảo tồn Hoa Kỳ và Nhật Bản đệ đơn kiện chống lại Bộ Quốc Phòng để ngăn chặn việc xây dựng. Người dân Okinawa cũng chỉ ra lịch sử làm đầu độc bằng hóa chất của các căn cứ quân sự Hoa Kỳ. Vào tháng trước, Bộ Quốc Phòng Nhật Bản bắt đầu khai quật sân bóng đá ở Okinawa, nơi chôn các thùng chứa thuốc diệt cỏ độc hại được phát hiện năm ngoái. Vào tháng 7, chính quyền Nhật Bản đào được 88 thùng chứa nguyên liệu để chế tạo chất độc màu da cam ở khu đất được thu hồi gần căn cứ không quân Kadena.

Sự phản đối mạnh mẽ của người dân Okinawa đối với việc xây dựng căn cứ mới ở vịnh Henoko không chỉ thách thức chính sách xoay trục quân sự sang Châu Á của chính quyền Obama mà còn thúc đẩy nhận thức về những tác động tiêu cực đối với con người và sinh thái của hàng trăm căn cứ quân sự Hoa Kỳ trên khắp thế giới. Quan trọng nhất là chiến thắng dân chủ ở Okinawa đem lại hy vọng cho những đấu tranh tương tự ở Guam, Philippine và đảo Jeju của Hàn Quốc, với sự bền bỉ và phản kháng phi bạo lực, họ cũng sẽ ngăn chặn được cỗ máy chiến tranh quyền lực nhất thế giới.

Christine Ahn is the International Coordinator of Women De-Militarize the Zone.

Lý do chủ nghĩa tư bản sẽ là cái chết của chúng ta

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bình luận ngắn "Why Capitalism Will be the Death of Us" của tác giả William Blum về vấn đề y tế trong chủ nghĩa tư bản.

Lý do chủ nghĩa tư bản sẽ là cái chết của chúng ta

Vi khuẩn kháng kháng sinh - "những siêu rệp" - nhưng vẫn chưa được nghiên cứu, có thể dẫn đến 10 triệu cái chết mỗi năm cho đến năm 2050. Các loại thuốc mới chống lại những siêu rệp được được chờ mong vô vọng. Nhưng một nhóm cộng tác viên cố vấn cho tổng thống Obama đã cảnh báo vào tháng 9 rằng "không có kênh cung cấp hiệu quả các loại thuốc mới để thay thế các loại thuốc cũ bị kháng kháng sinh vô hiệu hóa."

Vấn đề dường như là "Kháng sinh nhìn chung mang lại lợi nhuận thấp, nên chúng không phải là lĩnh vực hấp dẫn đối với nghiên cứu và phát triển."

A ha! "Lợi nhuận thấp"! Có gì đơn giản hơn nữa? Đó có phải là khái niệm đáng để giết hại và chết chóc? Giống như hàng triệu người Mỹ đã chết trong thế kỷ 20 để các doanh nghiệp có thể tối ưu hóa lợi nhuận bằng cách không bảo vệ công chúng trước thuốc lá, chì và a-mi-ăng.

Các doanh nghiệp được lập trình để tối ưu hóa lợi nhuận bất chấp cái xã hội mà họ hoạt động trong đó, cũng giống như cách mà các tế bào ung thư được lập trình để nhân lên bất chấp sức khỏe của sinh vật chủ.

Tuesday, December 30, 2014

Sự khác nhau giữa một nhà dân chủ chết và một con chó chết

Sự khác nhau giữa một nhà dân chủ chết nằm trên đường và một con chó chết nằm trên đường là gì?

Quanh chỗ con chó chết có vệt phanh gấp.

Saturday, December 27, 2014

Các nhánh trong kinh tế học chính thống

Trước kia các nhà kinh tế học tân cổ điển chỉ có độc một chủ thuyết là thị trường có khả năng tự điều chỉnh. Đến cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 thì phái tân cổ điển hoàn toàn tan vỡ do thực tế đã chứng tỏ thị trường không có khả năng tự điều chỉnh. Keynes xây dựng lý thuyết kinh tế vĩ mô lập luận rằng kinh tế thị trường không thể tự điều chỉnh nên cần sự can thiệp của nhà nước, song Keynes vẫn thừa nhận nền tảng kinh tế vi mô của phái tân cổ điển và cho là không mâu thuẫn với lý thuyết của ông. Sau này, lý thuyết của Keynes cũng phá sản toàn tập do chính sách tài khóa kiểu vay nợ để chi tiêu công trong đó có rất nhiều cho quân sự dẫn đến một nền kinh tế nợ nần khủng khiếp, chiến tranh liên miên và khủng hoảng còn dữ dội hơn trước.

Kể từ Keynes thì kinh tế học tân cổ điển, hay còn gọi là kinh tế học chính thống chia làm hai nhánh. Nhánh thứ nhất tiếp tục bảo vệ quan điểm thị trường có khả năng tự điều chỉnh nên phải để cho thị trường tự do điều chỉnh, nhà nước chỉ can thiệp tối thiểu để sửa chữa những khuyết tật của thị trường. Học thuyết về thị trường tự điều chỉnh hồi thế kỷ 19 vốn được gọi là chủ nghĩa tự do. Phái này được gọi là phái bảo thủ, tên là bảo thủ nhưng ủng hộ quan điểm thị trường tự do. Nhánh thứ hai theo quan điểm của Keynes, cho rằng thị trường không có khả năng tự điều chỉnh nên cần sự can thiệp mạnh mẽ của nhà nước, phái này được gọi là phái tự do. Tên là tự do nhưng lại ủng hộ sự can thiệp của nhà nước, tức là thị trường không tự do. Chính sự tách rời kỳ quặc giữa tên gọi và nội dung của các phái trong kinh tế học chính thống dẫn đến nhiều sự lẫn lộn cho người đọc. Nhưng cho dù có tách rời đến đâu chăng nữa thì cả hai nhánh đó không bao giờ là tả, ngược lại chúng đều là bảo thủ, đều bảo vệ chủ nghĩa tư bản. Kinh tế học tân tự do vốn ban đầu là do một nhóm các nhà kinh tế theo quan điểm bảo thủ trong đó có F. Hayerk và von Mises họp nhau ở Thụy Sĩ, thành lập một hội để chống lại phái Manchester của Keynes lúc đó đang là chính thống. Sau khi phái Keynes tan rã thì nhánh này trở thành dòng chính thống được gọi là chủ nghĩa tân tự do với đại biểu quan trọng là Friedman. Friedman và nhóm Chicago Boys đã tạo nên cơn ác mộng tự do hóa của các nước Mỹ Latin, điển hình là Chi Lê . Đến những năm 70 của thế kỷ trước, thì Samuelson, một nhà kinh tế học đã trình bày kết hợp kinh tế vi mô của tân cổ điển và kinh tế vĩ mô của Keynes. 

Paul Krugman là nhà một trong số những nhà kinh tế học nổi tiếng nhất hiện nay ở Mỹ, ông ta theo phái Keynes mới, tức thuộc về nhánh tự do trong kinh tế học chính thống. Song có nhiều người biết chút ít về kinh tế lại hay nói Paul Krugman thuộc cánh tả. Sự thật không phải vậy, mà những người kia có lẽ cũng không phải nhầm lẫn, họ cố tình gọi vậy vì họ ghét quan điểm của Paul Krugman. Điều đó giống như thời McCarthy ở Mỹ, người ta ghét ai thì gọi người đó là cộng sản. Việc gọi Paul Krugman là cánh tả thì ngược lại cho thấy những người ghét ông ta chắc chắn thuộc về phe bảo thủ.

Hiện thực kinh tế lại càng ngược với tên gọi hơn nữa. Ở Mỹ thì doanh nghiệp lớn ủng hộ phái tự do, tức là ủng hộ sự can thiệp của nhà nước vào thị trường. Còn các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tầng lớp tiểu tư sản, trí thức và tầng lớp trung lưu thì theo phái bảo thủ, tức là ủng hộ quan điểm thị trường tự do. 

Người ta sẽ hỏi Việt Nam có khác gì không. Câu trả lời là không. Doanh nghiệp lớn luôn ủng hộ sự can thiệp của nhà nước để bảo vệ cho lợi nhuận của họ, nhất là khi đại đa số doanh nghiệp lớn ở Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước. Trên truyền thông thường xuất hiện các chuyên gia kinh tế đề cao quan điểm thị trường tự do, hạn chế sự can thiệp của nhà nước, khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và hạn chế các doanh nghiệp lớn của nhà nước, họ thuộc về phái bảo thủ. Có một điều chưa rõ lắm, nhưng có thể là ở Việt Nam người ta gọi cách khác, ví dụ như phái tự do thì được gọi là phái kỹ trị, còn phái bảo thủ thì được gọi là phái dân túy. Tuy nhiên đấy chỉ là cách gọi trong một nhóm chuyên môn hẹp, chưa được phổ biến rộng rãi trên truyền thông.