Monday, November 10, 2014

Một cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam phản đối chủ nghĩa quân phiệt Hoa Kỳ

Vào ngày 11 tháng 11 hàng năm, Hoa Kỳ sẽ vinh danh những anh hùng chiến tranh của họ. Nhưng nhiều cựu chiến binh Hoa Kỳ lại nghĩ khác, xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch "Reclaim Armistice Day and Honor the Real Heroes" của tác giả Arnold Olivier để biết tâm sự của họ. Tiêu đề bài viết do người dịch đặt.

Khôi phục Ngày Đình Chiến và vinh danh những người hùng chân chính

Không ít những cựu binh, tổ chức Cựu Chiến Binh Vì Hòa Bình cũng trong số họ, đang bối rối vì cái cách mà người Mỹ kỷ niệm lễ Cựu Chiến Binh vào ngày 11 tháng 11. Nguyên gốc của ngày lễ đó là Ngày Đình Chiến*, được Quốc Hội thông qua vào năm 1926 để “duy trì hòa bình bằng ý nguyện tốt lành và sự thấu hiểu đầy thiện cảm giữa các quốc gia, (và sau đó) là một ngày đặc biệt dẫn đến hòa bình thế giới”. Trong nhiều năm, rất nhiều nhà thờ đã rung chuông vào giờ thứ 11 của ngày 11 tháng 11 – giờ khắc mà súng ngừng bắn tại Mặt Trận Phía Tây, cho tới lúc đó 16 triệu người đã chết.

Cần phải nói thẳng ra là vào năm 1954, Ngày Đình Chiến đã bị một quốc hội quân phiệt chiếm đoạt, và ngày nay rất ít người Mỹ còn hiểu mục đích ban đầu của sự kiện đó, hay là nhớ tới nó. Thông điệp tìm kiếm hòa bình đã biến mất. Hiện giờ ngày đó được coi là Ngày Cựu Chiến Binh, nó đã tiến triển thành một dạng lễ tưởng niệm tôn kính theo kiểu chủ nghĩa quốc gia quá khích đối với chiến tranh và các chiến binh được cho là dũng cảm tham chiến. 

Đây là tin tức mới. Hầu hết những gì xảy ra trong thời chiến thật ra là phi anh hùng, và những người hùng trong chiến tranh rất ít cũng như rất thưa thớt.

Tôi sẽ kể cho các bạn nghe về thời gian tôi ở Việt Nam, tôi không phải là người hùng, và tôi không chứng kiến bất cứ chủ nghĩa anh hùng nào trong những năm tôi ở đó, đầu tiên là binh nhì và sau đó là trung sĩ quân đội Hoa Kỳ.

Đúng như vậy, có chủ nghĩa anh hùng trong chiến tranh Việt Nam. Ở cả hai phía tham gia xung đột đều có những hành động cao quý như hy sinh bản thân và dũng cảm. Quân lính trong đơn vị của tôi ngạc nhiên về việc quân lính Bắc Việt có thể kiên trì đối mặt suốt nhiều năm với hỏa lực dữ dội của Hoa Kỳ. Các y tá của quân đội Hoa Kỳ đã có những hành động dũng cảm khó tin để giải cứu thương binh dưới làn đạn.

Nhưng tôi cũng chứng kiến một số lượng đáng kể những hành vi xấu, một số là của bản thân tôi. Việc thiếu tôn trọng và lạm dụng thường dân Việt Nam, trong đó có rất nhiều tội ác chiến tranh, là phổ biến. Hơn nữa, mọi đơn vị đều có, và vẫn có các thành phần tội phạm, lừa đảo và côn đồ. Thiếu anh hùng nhất là các lãnh đạo quân sự và dân sự của Hoa Kỳ, những người này lập kế hoạch, dàn dựng và kiếm lợi lớn từ cuộc chiến hoàn toàn có thể tránh khỏi đó.

Sự thật rùng mình là cuộc xâm lược và chiếm đóng Việt Nam của Hoa Kỳ không liên quan gì đến việc bảo vệ hòa bình và tự do của Hoa Kỳ. Trái lại, chiến tranh Việt Nam đã chia rẽ Hoa Kỳ một cách cay đắng, và chiến tranh là để ngăn chặn chứ không phải bảo vệ sự độc lập của Việt Nam.

Không may mắn, Việt Nam không phải là ví dụ duy nhất. Nhiều cuộc chiến của Hoa Kỳ - trong đó có cuộc chiến tranh Mexico-Hoa Kỳ năm 1846, cuộc chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ năm 1898, và cuộc chiến tranh Iraq (danh sách không phải là đầy đủ) – được tiến hành với cái cớ ngụy tạo để chống lại các quốc gia không hề đe dọa Hoa Kỳ. Khó có thể hiểu được anh hùng ra sao khi lao vào những cuộc chiến tranh phi nghĩa. 

Nhưng nếu đại đa số các cuộc chiến không diễn ra bởi các lý do cao quý, và chỉ có một ít binh lính là anh hùng, thì có anh hùng thực sự nào đã bảo vệ cho hòa bình và tự do không? Nếu có thì họ là ai?

Tốt thôi, có rất nhiều, từ thời Chúa Jesus cho đến hiện giờ. Tôi liệt kê Gandhi, Tolstoy, tiến sĩ Martin Luther King, Jr. trong cùng một danh sách với nhiều người dòng Quaker và Mennonite. Cũng không nên quên tướng Smedley Buttler, người đã viết rằng “Chiến tranh là một thủ đoạn làm tiền”, và thậm chí là những loại như Robert McNamara, người đã đến vào phút chót.

Ở Việt Nam, chuẩn úy Hugh Thompson đã ngăn chặn không cho vụ thảm sát Mỹ Lai trở nên tồi tệ hơn.

Một ứng cử viên khác là cựu chuyên gia quân đội Hoa Kỳ Josh Stieber, người đã gửi thông điệp này tới người dân Iraq: “Trái tim nặng nề của chúng tôi vẫn nuôi hy vọng rằng chúng tôi có thể khôi phục sự thừa nhận trong nội bộ quốc gia của chúng tôi đối với bản chất con người của các bạn, thứ mà các bạn đã được dạy phải phủ nhận”. Hãy cân nhắc về một triệu người Iraq đã chết. Chelsea Manning ngồi sau chấn song sắt để trưng bày điều đó và những sự thật khác.

Những người hùng thật sự là những người chống lại chiến tranh và chủ nghĩa quân phiệt, thường là với thiệt hại cá nhân rất lớn.

Bởi vì chủ nghĩa quân phiệt đã tồn tại từ rất lâu, ít nhất từ khi Gilgamesh cùng với chiếc khiên lưới đi tới Sumeria vào khoảng 5000 năm trước đây, người ta cho rằng điều đó luôn luôn ở bên chúng ta. Nhưng nhiều người cũng nghĩ rằng bắt phụ nữ làm nô lệ và nô dịch sẽ tồn tại mãi mãi, và họ đã được chứng minh là sai. Chúng ta hiểu rằng chủ nghĩa quân phiệt sẽ không biến mất sau một đêm, loại bỏ nó là điều bắt buộc nếu chúng ta muốn tránh phá sản về mặt kinh tế cũng như đạo đức.

Như vị tướng nội chiến W. T. Sherman đã nói ở West Point, “Tôi thú nhận không hề xấu hổ rằng tôi mệt mỏi và phát ốm vì chiến tranh”. Chúng tôi sát cánh với bạn, người anh em.

Ngày 11 tháng 11 năm nay, Cựu Chiến Binh Vì Hòa Bình sẽ khôi phục lại truyền thống ban đầu của Ngày Đình Chiến. Hãy tham gia với chúng tôi và để cho những cái chuông được rung lên.

Arnold “Skip” Oliver writes for Peace Voice and is Professor Emeritus of Political Science at Heidelberg University in Tiffin, Ohio. A Vietnam veteran, he belongs to Veterans For Peace, and can be reached at soliver@heidelberg.edu.

*Chú thích của người dịch: Ngày Đình Chiến là ngày lễ kỷ niệm kết thúc chiến tranh thế giới thứ I

Sunday, November 9, 2014

Cách mạng ở Hoa Kỳ

Tại sao cần có một cuộc cách mạng ở Hoa Kỳ? Đế quốc Hoa Kỳ phi dân chủ ra sao? Họ tấn công thế giới Hồi Giáo để làm gì? Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Revolution in the United States" của tác giả Garry Leech để có câu trả lời.

Cách mạng ở Hoa Kỳ

Tại sao một số ít người lại có thể áp đặt cuộc sống của rất nhiều người? Tôi không đề cập tới vấn đề 1% và 99%. Tôi đang nói về số cử tri ở Hoa Kỳ và những tay chân Canada và Anh của họ. Trong khi đó, hàng tỷ người trên thế giới có cuộc sống chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những quyết định của các quan chức dân cử ở những quốc gia thịnh vượng dường như không có tiếng nói. Đế quốc Hoa Kỳ hoàn toàn không dân chủ. Nó là toàn trị! Nó là đế quốc! Nó bất công! Cần có một cuộc cách mạng.

Vào cuộc bầu cử tổng thống năm 2012, 121 triệu người Mỹ bỏ phiếu, chiếm 57% số người trong độ tuổi bầu cử. Tuy tổng số phiếu bầu không đạt đa số tuyệt đối nhưng cũng đủ đảm bảo sự hợp hiến cho hệ thống chính trị Hoa Kỳ, nhất là trong con mắt của nhiều người Mỹ.

Nhưng quyết định chính trị do các quan chức dân cử Hoa Kỳ đưa ra vượt ra ngoài biên giới quốc gia rất xa. Thông qua chính sách đối ngoại và vai trò thống trị trong các thiết chế quốc tế như Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, NATO, Quỹ Tiền Tệ Thế Giới (IMF) và Ngân Hàng Thế Giới, Hoa Kỳ tác động đến cuộc sống của hầu hết mọi người trên trái đất. Hay nói cách khác, sự lựa chọn của 121 triệu người Mỹ tác động trực tiếp đến cuộc sống của hàng tỷ người trên trái đất. Dân chủ ở đâu?

Các biên giới quốc gia liên tục bị bào mòn dưới danh nghĩa của chủ nghĩa tư bản “thị trường tự do”, để doanh nghiệp có thể di chuyển tư bản và lợi nhuận quanh trái đất, nhằm khai thác lợi thế về lao động và tài nguyên thiên nhiên giá rẻ, đặc biệt là ở bán cầu phía Nam. Nhưng khi kinh tế ngày càng bị toàn cầu hóa thì dân chủ lại vẫn cắm rễ vào quốc gia-nhà nước. 

Song mọi quốc gia không bình đẳng. Hoa Kỳ được thừa hưởng vai trò mà những kẻ thực dân Châu Âu đã nắm giữ từ hàng trăm năm nay. Giống như tầng lớp cai trị ở các hệ thống thuộc địa cũ, Hoa Kỳ nắm giữ một khối lượng bất cân xứng về quyền lực chính trị, kinh tế và quân sự trong chủ nghĩa đế quốc hiện thời. Kết quả của sự thống trị đó là 121 triệu cử tri người Mỹ quyết định số phận của hàng tỷ người trên trái đất bốn năm một lần. 

Nhưng số phận của dân cư trên thế giới là một điều cực kỳ xa lạ với suy nghĩ của đại đa số cử tri trong thời gian bầu cử. Họ chủ yếu tập trung vào các lợi ích nhất thời như việc làm, thuế khóa, an ninh và các vấn đề khác, những vấn đề mà họ thấy là quan trọng đối với đời sống hàng ngày của họ. Họ không quan tâm – hay không nhìn thấy – các chính sách chính trị, kinh tế và quân sự được chính quyền mà họ lựa chọn triển khai trên toàn cầu có tác động tiêu cực đến đời sống của rất nhiều người trên thế giới ra sao. Hệ quả là có rất ít người Mỹ bỏ phiếu chống lại những gì họ cho là lợi ích của bản thân để ủng hộ lợi ích của đa số nhân dân trên thế giới. 

Điều gì sẽ xảy ra khi những người chịu tác động tiêu cực từ chính sách của Hoa Kỳ tìm cách tự mình đối đầu với mô hình đế quốc Hoa Kỳ phi dân chủ? Washington không thể tránh khỏi phải trả lời bằng bạo lực để bảo vệ hiện trạng. Đó là lý do tại sao có rất nhiều người trên thế giới không tin rằng Hoa Kỳ là lực lượng của điều tốt. Trên thực tế, theo kết quả một khảo sát tại 68 quốc gia vào năm 2013 của WIN/Gallup, Hoa Kỳ được coi là mối nguy hiểm lớn nhất đối với hòa bình thế giới – như mỗi năm khảo sát được thực hiện. 

Đế quốc Hoa Kỳ

Sự thống trị chính trị toàn cầu của Hoa Kỳ tự khẳng định bản thân thông qua hỗ trợ quân sự và kinh tế cho các chính quyền đồng minh, bất kể là các chính quyền đó có tham nhũng, phi dân chủ và bạo lực đến đâu khi bảo vệ các lợi ích của Hoa Kỳ. Những lợi ích đó chủ yếu dựa trên việc cho phép các hoạt động tìm kiếm lợi nhuận của các công ty đa quốc gia và đảm bảo sự tiếp diễn của phong cách sống tiêu dùng mà nhiều người Mỹ đang tận hưởng. 

Hậu quả của việc ưu tiên lợi nhuận doanh nghiệp và phong cách sống tiêu dùng ở các quốc gia giàu có là sự tàn phá đối với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Theo như Tổ Chức Y Tế Thế Giới, hơn 10 triệu người chết hàng năm ở Châu Mỹ Latin, Châu Phi và Châu Á do thiếu chăm sóc y tế và thuốc men thích hợp.

Ví dụ, các công ty dược phẩm sản xuất các thuốc men kiểu “phong cách sống” để xử lý các vấn đề khó chịu hay các nguy cơ không tổn hại tính mạng cho người dân ở các nước giàu, những người có thể mua chúng, thì có lợi nhuận hơn là chế tạo các dược phẩm thiết yếu cho người nghèo, những người không tạo ra thị trường khả thi. Hệ quả không thể tránh khỏi là diệt chủng cơ cấu; một thảm kịch đang mà bệnh dịch Ebola ở Tây Phi đang cho thấy rõ.

Khi các chính quyền trở nên can đảm và thách thức các lợi ích của Hoa Kỳ thì Washington sẽ không thể không trả lời bằng trừng phạt kinh tế, ủng hộ các cuộc đảo chính quân sự và nếu cần thiết là can thiệp quân sự trực tiếp. Mục tiêu là đảm bảo rằng mô hình tư bản chủ nghĩa sẽ thống trị khắp thế giới. Để đảm bảo mô hình đó được chấp nhận là hợp pháp thì điều cốt yếu là nhân dân khắp thế giới phải thấm nhuần các giá trị tự do phương Tây. Đó chính là lý do tại sao Hoa Kỳ can thiệp quân sự vào thế giới Hồi Giáo, trái ngược với những hùng biện phát ra từ Nhà Trắng, là một cuộc chiến tranh chống lại Hồi Giáo. Sự chấp nhận các giá trị tự do phương Tây là cần thiết để duy trì chủ nghĩa tư bản và rất nhiều các giá trị của chủ nghĩa cá nhân mâu thuẫn với một số giá trị tập thể của Hồi Giáo.

Các cuộc can thiệp quân sự tiếp diễn ở Trung Đông và Trung Á là một sự tiếp tục xây dựng đế quốc được bắt đầu từ năm 1492, sau khi Christopher Columbus “khám phá” ra Châu Mỹ. Các giá trị và hoạt động văn hóa của người bản địa Châu Mỹ không phù hợp với các giá trị tự do và Thiên Chúa Giáo nổi bật ở Châu Âu, nhất là là tư tưởng Khai Sáng, thứ đã cung cấp nền tảng triết học cho chủ nghĩa tư bản. Hệ quả là những thổ dân phản kháng – và cả những người không phản kháng – sự áp đặt của những giá trị Châu Âu đối với văn hóa của họ đã bị tàn sát.

Đa số những người sống sót đã bị nhốt trong các khu bảo tồn và từ thế hệ này sang thế hệ khác là đối tượng của sự đồng hóa thông qua hệ thống giáo dục lấy Châu Âu làm trung tâm. Tương tự ở Châu Phi và Châu Á, chủ nghĩa thực dân Châu Âu đã áp đặt các ý tưởng tự do và Thiên Chúa Giáo cho người dân, buộc họ ghi nhớ các giá trị Châu Âu thiết yếu để chấp nhận hệ thống chủ nghĩa tư bản đang điều khiển các dự án thuộc địa.

Nhiều nỗ lực gần đây thách thức quá trình đó của chủ nghĩa đế quốc đều bị đáp lại bằng bạo lực. Hoa Kỳ đã lật đổ hầu như mọi chính quyền đối đầu với sự thống trị của họ. Đây là chỉ là danh sách một phần các quốc gia có chính quyền bị lật đổ trong các cuộc đảo chính do Hoa Kỳ hậu thuẫn hay can thiệp quân sự trong những thập kỷ gần đây: Iran (1953), Guatemala (1954), Nam Việt Nam (1963)*, Brazil (1964), Indonesia (1965), Chile (1973), Argentina (1976), Haiti (1991 and 2004), Afghanistan (2001), Iraq (2003), Honduras (2009) và Libya (2011). Một số chính quyền đó được lựa chọn dân chủ trong tự do và bầu cử công bằng. 

Những chính quyền khác đủ can đảm đối đầu với sự thống trị của Hoa Kỳ phải rất nỗ lực trong đơn độc để tồn tại trước những âm mưu lật đổ. Cuba đẩy lùi cuộc xâm lược Vịnh Con Lợn năm 1961 và phải cam chịu lệnh cấm vận kinh tế của Hoa Kỳ hơn nửa thế kỷ. Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc mới đây bỏ phiếu với đa số tuyệt đối lên án lệnh cấm vận lần thứ 23, 188 quốc gia đã kêu gọi chấm dứt lệnh cấm vận và chỉ có hai nước – Hoa Kỳ và Israel – bỏ phiếu chống lại nghị quyết đó. Tương tự, Venezuela đã trụ được qua cuộc đảo chính do Hoa Kỳ hậu thuẫn vào năm 2002 nhằm lật đổ tổng thống Chavez và tiếp đó thường xuyên bị các chính khách Hoa Kỳ bôi nhọ.

Cực đoan hóa Hồi Giáo 

Chủ nghĩa quân phiệt Hoa Kỳ trong thế giới Hồi Giáo cũng tìm cách đối đầu với những ai phản đối việc phổ biến các giá trị tự do phương Tây thiết yếu đối với toàn cầu hóa chủ nghĩa tư bản. Năm mươi năm trước đây không hề có các nhóm Hồi Giáo cực đoan nổi bật nào. Sự tiến hóa hiện thời của chủ nghĩa cực đoan có thể bắt đầu từ khi Hoa Kỳ hậu thuẫn cho việc lật đổ thủ tướng thế tục và được tín nhiệm Mohamad Mossadegh của Iran vào năm 1953 sau khi ông ta quốc hữu hóa công nghiệp dầu mỏ. Shah đã được tái lập làm người cai trị Iran và ông ta lập tức lại mở cửa quốc gia cho các công ty dầu mỏ phương Tây, đồng thời cảnh sát mật được Hoa Kỳ huấn luyện của ông ta đàn áp tàn bạo những người bất đồng chính kiến.

Dưới sự cai trị độc đoán của chính quyền Shah do Hoa Kỳ hậu thuẫn thì hoạt động văn hóa phương Tây trở thành phổ biến ở Iran cùng với sự hiện diện của rất nhiều công nhân dầu mỏ Hoa Kỳ và Anh. Đồng thời, một số lượng ngày càng lớn người Iran phải gánh chịu sự nghèo khổ khi Shah và công nhân dầu mỏ phương Tây đánh cắp tài nguyên giàu có của quốc gia ngay trước mắt họ. Sự oán giận lớn dần bắt nguồn từ tình trạng ấy đã tạo ra môi trường lý tưởng để chủ nghĩa Hồi Giáo chính thống xây dựng lực lượng trong lòng nhân dân Iran. Vào năm 1979, đa số người Iran đã ủng hộ cuộc cách mạng của những người chính thống, lật đổ chế độ tha hóa và tàn bạo của Shah. 

Trong những thập kỷ tiếp theo, sự ủng hộ của Washington đối với các chính phủ tha hóa nhưng phục vụ cho lợi ích của phương Tây trong khu vực, đặc biệt là liên quan đến việc đảm bảo cho dầu chảy liên tục, đã cực đoan hóa nhiều thành phần của thế giới Hồi giáo. Hoa Kỳ đã viện trợ quân sự và kinh tế hơn 4 tỷ dollar cho những kẻ nổi loạn Mujahideen, để họ chống lại Liên Bang Soviet ở Afghanistan trong những năm 1980. Một trong những kẻ nổi loạn Mujahideen được Hoa Kỳ hậu thuẫn là Osama bin Laden, sau khi loại bỏ những kẻ xâm lược Soviet của phương Tây khỏi thế giới Hồi giáo, ông ta đã thành lập Al-Qaeda và chuyển hướng sang kẻ xâm lược phương Tây cuối cùng, khi quân đội Hoa Kỳ lập căn cứ ở Arab Saudi vào năm 1991. Rất nhiều cuộc can thiệp quân sự của Hoa Kỳ tại khu vực kể từ năm 1991 và sự hỗ trợ vô điều kiện của Washington cho Israel đã chỉ đổ thêm dầu vào ngọn lửa của chủ nghĩa cực đoan.

Rõ ràng là can thiệp quân sự của Hoa Kỳ ở Trung Đông không xuất phát từ động cơ khuyến khích dân chủ và nhân quyền. Trên hết, nếu chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ bắt nguồn từ những động cơ cao quý đó thì Washington đã lật đổ từ lâu chế độ độc tài tàn nhẫn tại nước đồng minh thân cận Arab Saudi của họ cũng như giải thoát khu vực khỏi những người bạn toàn trị của họ. Cần biết là chính quyền Arab Saudi thường xuyên chặt đầu công khai người dân của họ - 19 người vào tháng 7 và 8 – quyết định của Obama cho phép quân đội Hoa Kỳ với những kẻ chặt đầu Saudi chiến đấu chống lại những kẻ chặt đầu của Quốc Gia Hồi Giáo đã chứng minh hùng hồn về nhân quyền. Hiển nhiên là việc chặt đầu tự bản thân nó không làm ai đó trở thành “độc ác”, giống như việc chặt đầu người phương Tây để chống lại các lợi ích kinh tế của Hoa Kỳ.

Sự thất bại của những nhóm quốc gia thế tục và ôn hòa hơn trong việc đáp ứng nhu cầu của chủ nghĩa Hồi giáo đã dẫn đến sự trỗi dậy của các tổ chức chính thống cực đoan hơn như Hezbollah, Hamas, Taliaban, al-Qaeda và giờ là Nhà Nước Hồi Giáo. Nói ngắn gọn, chúng ta chứng kiến sự cực đoan hóa trên quy mô khu vực tương tự như những gì đã diễn ra trên quy mô quốc gia ở Iran sau khi Hoa Kỳ can thiệp và ủng hộ chế độ Shah tàn bạo.

Chính sách đế quốc của Washington ưu tiên cho các lợi ích của công ty dầu mỏ và kinh tế phương Tây hơn nhân dân Hồi Giáo. Không có gì đáng ngạc nhiên khi điều đó dẫn đến sự cực đoan hóa của phe đối đầu với can thiệp quân sự, chính trị và kinh tế của Hoa Kỳ vào thế giới Hồi Giáo. Hoa Kỳ phản ứng trước sự trỗi dậy của chủ nghĩa cực đoan không phải bằng cách xem xét lại phương thức tiếp cận kiểu đế quốc của họ, mà theo cách ngược lại là gia tăng chúng. Các cuộc xâm lược và chiếm đóng quân sự do Hoa Kỳ cầm đầu ở Afghamistan và Iraq còn có thể giải thích theo cách nào khác? Ở cả hai quốc gia đó, mục tiêu là áp đặt bằng quân sự nền dân chủ tự do kiểu phương Tây đối với người dân Hồi Giáo và sáp nhập tài nguyên cũng như kinh tế của những quốc gia đó vào hệ thống tư bản toàn cầu.

Bất chấp những hùng biện được lặp đi lặp lại của các lãnh đạo phương Tây rằng can thiệp quân sự vào khu vực không tạo thành cuộc chiến tranh chống Hồi Giáo, đó chính là chiến tranh chống Hồi Giáo. Đó là cuộc chiến tranh chống lại các giá trị Hồi Giáo vốn xung đột với hoạt động tìm kiếm lợi nhuận thô bạo và bất nhân của các công ty đa quốc gia cũng như các ngân hàng đầu tư. Đó là cuộc chiến tranh chống lại các giá trị tập thể và niềm tin, những thứ vốn xung đột với chủ nghĩa cá nhân và văn hóa tiêu dùng buông thả trong cốt lõi của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Đó là cuộc chiến tranh chống lại những người Hồi Giáo đã hết ảo tưởng với mô hình dân chủ và hệ thống kinh tế chỉ mang lại cho họ sự bất lực và bần cùng.

Toàn cầu hóa theo kiểu tân tự do không chỉ khiến cho thế giới Hồi Giáo nghèo khổ, mà nó cũng thất bại trong việc đem lại tiếng nói chính trị của họ thông qua hòm phiếu. Khi người Hồi Giáo lựa chọn một đảng Hồi Giáo trong các cuộc bầu cử kiểu phương Tây, chính phủ mới sẽ lập tức trở thành mục tiêu của Hoa Kỳ và đồng minh của họ. Người Ai Cập nổi dậy trên đường phố vào năm 2011 trong Mùa Xuân Arab đòi lật đổ nhà độc tài Hosni Mubarak được Hoa Kỳ hậu thuẫn và bầu cử được tổ chức. Năm tiếp theo, đa số người dân Ai Cập lựa chọn ứng cử viên tổng thống đại diện cho tổ chức Hồi Giáo của quốc gia, Huynh Đệ Hồi Giáo. Một năm sau, Washington và đồng minh của họ quay mặt làm ngơ khi quân đội Ai Cập do Hoa Kỳ hậu thuẫn đã đảo chính lật đổ chính quyền được bầu chọn dân chủ. 

Đây không phải là lần đầu tiên các quyền lực phương Tây phá hoại dân chủ trong thế giới Hồi Giáo. Vào năm 1991, khi kết quả bầu cử nghị viện ở Algeria cho thấy có vẻ Mặt Trận Cứu Nguy Hồi Giáo sẽ thắng với đa số 2/3, quân đội đã can thiệp và hủy bỏ cuộc bầu cử, không cho phép đảng Hồi Giáo thắng cử. Hoa Kỳ và Pháp hỗ trợ cuộc đảo chính đó bởi vì họ phản đối việc thiết lập một chính quyền Hồi Giáo ở Algeria, ngay cả khi chính quyền được bầu cử dân chủ đó đại diện cho nguyện vọng của đa số người dân Algeria. Cái giá của việc phá hoại tiến trình dân chủ đó là một cuộc nội chiến cướp đi sinh mạng của hơn 150.000 người trong thập kỷ tiếp theo. 

Tương tự vào năm 2006, người dân Palestin bỏ phiếu cho đảng Hồi Giáo Hamas nhiều hơn là đảng Fatah, kết quả là Hamas được 76 ghế còn Fatah được 45 ghế, do đó Hamas có quyền thành lập chính phủ. Hoa Kỳ, Canada và Liên Minh Châu Âu đáp lại kết quả bầu cử bằng cách ngay lập tức cắt viện trợ cho chính phủ Hamas và cho phép Israel phong tỏa một cách vô nhân đạo căn cứ của Hamas ở dải Gaza. Những trường hợp đó đã gửi một thông điệp rõ ràng đến cho người Hồi Giáo: Chấp nhận dân chủ theo kiểu phương Tây nhưng không được bầu cho đảng Hồi Giáo. Có gì ngạc nhiên khi ngày càng nhiều người Hồi Giáo vỡ mộng với dân chủ kiểu phương Tây và hệ thống kinh tế toàn cầu chủ yếu phục vụ cho lợi ích phương Tây?

Sự vỡ mộng đó đã thể hiện bản thân trong một “nguy cơ” bắt nguồn tự cuộc xâm lược và chiếm đóng Iraq của Hoa Kỳ. Nhà Nước Hồi Giáo còn cực đoan hơn cả al-Qaeda trong những nỗ lực chống đế quốc phương Tây. Bất chấp thực tế, phương Tây đáp lại Nhà Nước Hồi Giáo bằng bản sao của cuộc can thiệp quân sự trước đó ở Trung Đông, thứ đã khai sinh ra al-Qaeda và Nhà Nước Hồi Giáo. 

Washington đang gia tăng can thiệp quân sự vào thế giới Hồi Giáo, họ đã giết hại hàng ngàn thường dân vô tội. Trong thực tế, số lượng người Hồi Giáo vô tội bị bom Mỹ giết hại đã vượt xa số người phương Tây bị các nhóm Hồi Giáo cực đoan giết hại. Lịch sử cho thấy rằng ngay cả khi quân đội Hoa Kỳ và đồng minh đánh bại Nhà Nước Hồi Giáo, số lượng thường dân bị quân đội phương Tây giết hại sẽ lại dẫn đến việc một nhóm cực đoan hơn nữa xuất hiện để thay thế Nhà Nước Hồi Giáo.

Nguyên nhân thực sự khiến Hoa Kỳ và đồng minh phương Tây nhắm vào Nhà Nước Hồi Giáo dường như sẽ rõ ràng hơn khi so sánh nhóm cực đoan đó với các cartel ma túy Mexico. Cartel ma túy Mexico là mối đe dọa bạo lực lớn hơn đối với thường dân, bao gồm cả người Mỹ, hơn là Nhà Nước Hồi Giáo. Họ đã giết hại hơn 13.000 người trong năm 2013, gần gấp đôi số người chết ở Iraq. Quan trọng hơn theo quan điểm của Hoa Kỳ, hơn 300 công dân Hoa Kỳ đã bị cartel ma túy Mexico sát hại trong 6 năm qua, vượt xa số người Mỹ bị Nhà Nước Hồi Giáo giết hại.

Hơn nữa, các cartel không chỉ chặt đầu các nạn nhân, họ còn chặt xác ra nhiều mảnh. Họ thường xuyên tuyển mộ các thiếu niên tầm 11 tuổi và thường xuyên tấn công phụ nữ và trẻ em. Các cartel kiểm soát các khu vực lãnh thổ rộng lớn ở miền Bắc Mexico và chính quyền không thể đánh bại họ. Mặc dù vậy, chúng ta không ném bom miền Bắc Mexico để tiêu diệt nhóm bạo lực đó. Tại sao không? Bởi vì đó không phải là loại khuyến khích nhân quyền hay dân chủ mà chính quyền Hoa Kỳ muốn làm; Washington chỉ phản ứng trước các nguy cơ rõ ràng đối với hệ thống tư bản.

Ở Mexico, các hoạt động bạo lực của cartel ma túy không xâm hại đến năng lực tạo lợi nhuận dựa trên bóc lột lao động và tài nguyên tự nhiên giá rẻ của các công ty đa quốc gia. Các cartel ma túy không gây phiền toái cho mô hình kinh tế tự do thương mại, vốn hiện diện công khai ở Mexico với Hiệp Định Tự Do Thương Mại Bắc Mỹ (NAFTA). Mặt trái là những kẻ buôn ma túy dựa trên dòng thương mại thường xuyên và liên tục qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico để vận chuyển ma túy. Nói ngắn gọn, không giống như Nhà Nước Hồi Giáo, các cartel ma túy Mexico không thách thức các giá trị tự do phương Tây cũng như mô hình kinh tế tư bản mà Hoa Kỳ khuếch trương.

Kết luận

Chủ nghĩa đế quốc phương Tây đã tiêu tốn hơn 500 năm để áp đặt các giá trị phương Tây cho người dân khắp thế giới. Những người dân đó không bao giờ có tiếng nói trong các chính sách chính trị, xã hội và kinh tế được áp đặt cho họ. Chủ nghĩa đế quốc, theo định nghĩa, là phi dân chủ. Trong khi chính sách của Hoa Kỳ ảnh hưởng đến hàng tỷ người trên thế giới, chỉ có một ít phần trăm dân số toàn cầu có tiếng nói trong việc lựa chọn chính quyền đó. Đại đa số trong 121 triệu cử tri người Mỹ không mấy quan tâm đến vệc lá phiếu của họ sẽ có ảnh hưởng ra sao tới người Hồi Giáo ở Trung Đông, thổ dân ở Châu Mỹ Latin, và hàng triệu người khác khắp Châu Phi, Châu Á. Quyết định bầu cử của họ chủ yếu được xác định dựa vào nhận thức về các nhu cầu tức thời, thứ đó là cái vỏ hợp hiến không chỉ cho dân chủ Hoa Kỳ mà còn cho cả chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ.

Hệ quả là dường như trong một tương lai có thể thấy trước, một cuộc cách mạng sẽ nổ ra ở trái tim của đế quốc. Có vẻ là sẽ nổ ra ở các khu vực hẻo lánh của Đế quốc Hoa Kỳ. Trong thực tế, đã có nhiều dạng cách mạng diễn ra, từ phong trào thổ dân đòi chủ quyền ở Châu Mỹ Latin tới các nhóm Hồi Giáo chính thống cực đoan như al-Qaeda và Nhà Nước Hồi Giáo ở Trung Đông. Vào lúc này, đại đa số dân chúng thế giới đang đối đầu với chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ một cách ôn hòa, họ tìm kiếm chủ quyền và tiếng nói trong các quyết định chủ chốt có ảnh hưởng đến đời sống của họ theo cách bất bạo động. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục tiêu diệt mọi sự đối đầu ôn hòa với chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ, chúng ta sẽ phổ cập những dạng chủ nghĩa cực đoan như đang trỗi dậy ở Trung Đông.

Vì lợi ích của thế giới, điều quan trọng là một cuộc cách mạng diễn ra để lật đổ hệ thống đế quốc Hoa Kỳ trước khi các thế lực bạo lực cực đoan châm ngòi cho hỗn loạn toàn cầu. Nếu đế quốc Hoa Kỳ không bị lật đổ bởi những người đang sống tại trung tâm của nó thì cũng sẽ bị lật đổ bởi những “đối tượng” của nó ở những khu vực hẻo lánh, những người đang phải gánh chịu thuế khóa – thông qua việc bóc lột lao động và tài nguyên giá rẻ của họ - mà không có ai đại diện. Trên hết, chúng ta không có gì để mất ngoài xiềng xích của mình.


Garry Leech is an independent journalist and author of numerous books including Capitalism: A Structural Genocide (Zed Books, 2012); Beyond Bogota: Diary of a Drug War Journalist in Colombia (Beacon Press, 2009); and Crude Interventions: The United States Oil and the New World Disorder (Zed Books, 2006). ). He is also a lecturer in the Department of Political Science at Cape Breton University in Canada.

*Chú thích của người dịch: Tác giả đã nhầm lẫn về vụ đảo chính lật đổ nhà độc tài Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam năm 1963. Ngô Đình Diệm chưa bao giờ chống lại Mỹ để bảo vệ lợi ích quốc gia. Ông ta rất trung thành với Mỹ nhưng thất bại trong việc thực thi các chính sách của Mỹ và ngoan cố không chịu rời bỏ quyền lực khi đã hết giá trị lợi dụng. Do đó, Mỹ buộc phải cho tay chân lật đổ Ngô Đình Diệm.

Friday, November 7, 2014

Biểu tình "ủng hộ dân chủ" ở Hong Kong

Cuộc cách mạng ô ở Hong Kong vẫn đang tiếp tục thu hút sự chú ý của truyền thông phương Tây, một dạo cũng từng nóng trên truyền thông Việt Nam nhưng sau đó phải nhường chỗ cho cuộc nội chiến ở Ukraina. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "‘Pro-Democracy Protests’ in Hong Kong" của tác giả Andre Vltchek để biết thêm trải nghiệm trực tiếp của một người phương Tây về cuộc cách mạng ô ở Hong Kong.

Biểu tình "ủng hộ dân chủ" ở Hong Kong

Hong Kong thất vọng, người dân chia rẽ. Biểu tình và phản biểu tình đang chia rẽ thành phố nổi tiếng với chủ nghĩa khoái lạc, tiêu dùng và chủ nghĩa cá nhân cực đoan.

Ở North Point của Hong Kong, gần bến phà Kowlon, một người đàn ông trung niên đang giương khẩu hiệu “Ủng Hộ Cảnh Sát Của Chúng Ta”. Trên bức ảnh, lều rạp và những chiếc ô của phong trào “ủng hộ dân chủ”, “Chiếm Đóng Trung Tâm” (còn được biết đến dưới tên “Phong Trào Chiếc Ô”) được vẽ bằng màu nâu đỏ, màu của sự phiền muộn.

“Ông phản đối những người biểu tình?” Tôi hỏi người đàn ông.

“Tôi không ủng hộ hay phản đối họ”, ông ta trả lời. “Nhưng được biết rằng họ có khoảng 1 triệu người ủng hộ ở đây, trong khi Hong Kong có tất cả là 7 triệu dân. Chúng tôi nghĩ rằng đã đến lúc dọn sạch đường phố và để cho thành phố này tận hưởng cuộc sống bình thường”.

Tôi tiếp tục nói: “Vào ngày 28 tháng 9, cảnh sát đã bắn 87 quả đạn hơi cay về phía người biểu tình, và con số đó đã được phương Tây cũng như ở đây coi là bằng chứng cho sự tàn bạo của cảnh sát và sự cai trị phi dân chủ của Bắc Kinh. Người biểu tình mới kỷ niệm sự kiện đó vài ngày trước đây, như thể là điều đó đã biến họ thành thánh tử vì đạo …”

Một người đàn ông cười: “Chúng đã bị hư hỏng. Chúng hầu hết xuất thân từ các gia đình rất giàu có của thành phố giàu có nhất thế giới. Chúng không biết gì nhiều về thế giới. Tôi phải nói với anh là các sinh viên ở Bắc Kinh thực tế còn biết nhiều hơn về thế giới … 87 quả đạn hơi cay chả là gì hết khi so sánh với những gì xảy ra ở Cairo hay Bangkok. Ở New York, cảnh sát kéo lê và đánh đập người biểu tình, bất kể là nam hay nữ, trong màn kết của bi kịch Chiếm Đóng Phố Wall”.

Những người phương Tây trộn lẫn với người biểu tình. Nhiều câu hỏi và nhiều sự khó hiểu, tiếp nối nhau.

Suốt nhiều thập kỷ Hong Kong là chủ nghĩa tư bản tốc độ, tiêu dùng cực đoan và là xã hội năng nổ. Người dân đang đối mặt với một số giá cả khó tưởng tượng nhất thế giới, đặc biệt là giá nhà ở …

Cái đó là gì? Không phải màu cam hay màu xanh lá cây, và lại càng không phải là màu đỏ! Biểu tượng của chúng là chiếc ô. Như nhiều người Hong Kong thường nói “chiếc ô xoàng xĩnh”.

Nhưng cái đó có thực sự tốt lành?

Tất nhiên, chúng ta đang nói về “biểu tình dân chủ” ở Hong Kong, và còn được biết đến như là “Phong Trào Chiếc Ô”; phiên bản mới nhất của “dân chúng nổi dậy” được phương Tây khuyến mại!

Ở North Point của Hong Kong, gần bến phà Kowlon, một người đàn ông trung niên đang giương khẩu hiệu “Ủng Hộ Cảnh Sát Của Chúng Ta”. Trên bức ảnh, lều rạp và những chiếc ô của phong trào “ủng hộ dân chủ”, “Chiếm Đóng Trung Tâm” (còn được biết đến dưới tên “Phong Trào Chiếc Ô”) được tô bằng màu nâu đỏ, màu của sự phiền muộn.

“Ông phản đối những người biểu tình?” Tôi hỏi người đàn ông.

“Tôi không ủng hộ hay phản đối họ”, ông ta trả lời. “Nhưng được biết rằng họ có khoảng 1 triệu người ủng hộ ở đây, trong khi Hong Kong có tất cả là 7 triệu dân. Chúng tôi nghĩ rằng đã đến lúc dọn sạch đường phố và để cho thành phố này tận hưởng cuộc sống bình thường”.

Tôi tiếp tục nói: “Vào ngày 28 tháng 9, cảnh sát đã bắn 87 quả đạn hơi cay về phía người biểu tình, và con số đó đã được phương Tây và ở đây coi là bằng chứng cho sự tàn bạo của cảnh sát và sự cai trị phi dân chủ của Bắc Kinh. Người biểu tình mới kỷ niệm sự kiện đó vài ngày trước đây, như thể là điều đó đã biến họ thành thánh tử vì đạo …”

Một người đàn ông cười: “Chúng đã bị hư hỏng. Chúng hầu hết xuất thân từ các gia đình rất giàu có của thành phố giàu có nhất thế giới. Chúng không biết gì nhiều về thế giới. Tôi phải nói với anh là các sinh viên ở Bắc Kinh thực tế còn biết nhiều hơn về thế giới … 87 quả đạn hơi cay chả là gì hết khi so sánh với những gì xảy ra ở Cairo hay Bangkok. Ở New York, cảnh sát kéo lê và đánh đập người biểu tình, bất kể là nam hay nữ, trong màn kết của bi kịch Chiếm Đóng Phố Wall”.

Trước đó tôi nói chuyện với một người bạn, một học giả phương Tây hàng đầu đang giảng dạy ở Hong Kong. Thông thường, ông ta sẵn sàng giúp đỡ tôi với những phân tích của ông, song lần này, ông ta yêu cầu tôi không nêu tên của ông. Không phải vì sợ những điều Bắc Kinh có thể làm, chỉ đơn giản là vì tình thế của ông ta ở Hong Kong đang phức tạp. Tôi hỏi ông ta là “phong trào đối lập” thực ra tự phát triển hay nhờ sự hỗ trợ từ bên ngoài, và ông ta trả lời:

“Để trả lời câu hỏi có sự can thiệp của nước trong Chiếm Đóng Trung Tâm không, chúng ta có thể trả lời là có. Là một phố toàn cầu thượng hạng, Hong Kong trưng bày những quan điểm quốc tế cũng như lý tưởng và lịch sử, điều đó cũng có trong trường hợp này. Chắc chắn là một một số nhất định của phái pan-Democrat đã bắt tay với “những nhà cải cách hăng hái” quốc tế, một sự ám chỉ tới hàng sa số các tổ chức hay quỹ “yểm trợ dân chủ” trên toàn cầu đang hoạt động với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ hoặc phương Tây. Đài Loan có thể can dự. Ủy Ban Đối Ngoại Nghị Viện Anh Quốc đang tìm cách can thiệp. Nhưng “can thiệp nước ngoài” được thấy ở đây khi C.Y. Leung hưởng ứng lời kêu gọi của Bắc Kinh với lá thư bị chặn lại từ những thủ phạm được kể tên”.


Người biểu tình có một cái nhìn lệch lạc đáng báo động về “dân chủ”. Tuyên truyền của phương Tây đã thấm sâu vào họ. Một cách đầy hằn học, họ coi Venezuela, Bolivia và Ecuador là “chế độ độc tài”.


Những người biểu tình có thể có một số bất bình hợp hiến. Họ muốn bầu cử trực tiếp trưởng đặc khu hành chính và đó là lý thuyết, không có gì đúng hay sai trong một yêu cầu. Họ muốn giải quyết tham nhũng, và kiềm chế các nhà tài phiệt địa phương. Điều đó cũng ổn thôi.

Vấn đề là phong trào đang thoái hóa thành một kiểu nhiệm vụ đánh Bắc Kinh, may mắn được cả truyền thông phương Tây lẫn địa phương (thân doanh nghiệp và thân phương Tây) ủng hộ.

Một số sinh viên đã nói chuyện với tôi, ở Admiralty và Mong Kok, không buồn che dấu sự căm thù của họ đối với hệ thống Cộng Sản, và đối với chính quyền Bắc Kinh. Tất cả đều phủ nhận những tội ác của các quốc gia phương Tây trên khắp thế giới, hoặc họ đơn giản là không biết gì về chúng. “Dân chủ” đối với họ rõ ràng chỉ là một và một duy nhất – hệ thống hay còn gọi là chính phủ, được phương Tây định nghĩa, khuyến khích và xuất khẩu.

“Trung Quốc đang ở phía đúng đắn của lịch sử”, tôi cố gắng nói với một người biểu tình vào ngày 31 tháng 10 ở Admiralty. “Cùng với Nga và Châu Mỹ Latin đương đầu với sự can thiệp tàn bạo của phương Tây khắp thế giới và chống lại tuyên truyền của phương Tây”.

Người ta nhìn tôi bối rối, giận dữ và phẫn nộ. 

Tôi hỏi các sinh viên xem họ nghĩ gì về Venzuela, Bolivia hay Ecuador?

“Chế độ độc tài”, họ trả lời nhanh chóng và giận dữ.

Tôi hỏi họ về Bangkok và những “cuộc biểu tình và phong trào ủng hộ dân chủ” đã diễn ra để chống lại chính quyền được bầu cử dân chủ; những cuộc biểu tình đã dẫn đến cuộc đảo chính của tầng lớp thượng lưu và quân đội theo mệnh lệnh từ phương Tây.

Tôi hỏi họ về những cuộc biểu tình “ủng hộ dân chủ” chống lại chính quyền được bầu cử dân chủ của tổng thống Morsi ở Ai Cập, một cuộc đảo chính quân sự và thân phương Tây khác đã đưa quân đội lên nắm quyền. Ở Ai Cập, hàng ngàn người chết trong quá trình đó. Phương Tây và Israel đã hoan hỉ một cách kín đáo.

Nhưng sinh viên Hong Kong “đấu tranh” cho dân chủ hoàn toàn không biết gì về Thái Lan hay vụ lạc đường của Mùa Xuân Arab.

Họ cũng không có được các câu trả lời mạch lạc về Syria hay Iraq.

Tôi hỏi họ về Nga và Ukraina. Họ rất quen thuộc với chủ đề này, một cách hoàn hảo. Tôi nhận được các trích dẫn ngay lập tức như thể họ vừa mới trực tiếp lôi chúng ra từ truyền thông phương Tây: “Nga đang gây xung đột thế giới … Họ chiếm đóng Crimea và đưa quân đội tới Ukraina, sau khi bắn hạ máy bay của hãng hàng không Malaysia …”

Trở lại Hong Kong và Trung Quốc, hai cô gái ở Admiralty thể hiện rõ quan điểm của họ: 

“Chúng tôi muốn dân chủ thật sự; chúng tôi muốn quyền đề cử và lựa chọn lãnh đạo của chúng tôi. Lãnh đạo địa phương hiện giờ là tay sai. Chúng tôi ghét chủ nghĩa cộng sản. Chúng tôi không muốn chế độ độc tài như Trung Quốc”.

Tôi hỏi là họ thực sự muốn gì? Họ lặp lại “dân chủ”.

“Thế còn hàng trăm triệu người mà Trung Quốc đã cứu thoát khỏi nghèo khổ? Còn vị trí quyết định chống lại đế quốc phương Tây của Trung Quốc? Còn nỗ lực chống tham nhũng của họ? Còn BRICS? Còn những nỗ lực hồi xuân chủ nghĩa xã hội thông qua chăm sóc y tế, giáo dục miễn phí, văn hóa, giao thông được trợ cấp, nền kinh tế hỗn hợp/có kế hoạch?”

“Có điều gì tốt, bất cứ điều gì, mà Trung Quốc, quốc gia chủ nghĩa xã hội lớn nhất và thành công nhất trái đất đang làm không?”

Brian, một sinh viên ở Mong Kok, giải thích:

“Chúng tôi muốn bày tỏ quan điểm và bầu chọn người lãnh đạo. Hiện giờ đang là chế độ độc tài ở Trung Quốc. Họ lựa chọn ủy ban để bầu các lãnh đạo của chúng tôi. Chúng tôi muốn dân chủ thật sự. Hình mẫu của chúng tôi là dân chủ phương Tây”. 

Tôi hỏi cả hai phe biểu tình về sự tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Anh. Tôi không nhận được câu trả lời. Sau đó tôi nhận thấy câu trích dẫn Winston Churchill, một gã phát xít tự phong và một người không bao giờ buồn che dấu sự thù ghét của ông ta đối với người không phải da trắng, không phải phương Tây. Nhưng ở đây, Churchill được công nhận là một trong những nhà vô địch của dân chủ; các câu trích dẫn ông ta được dán trên hàng sa số các bức tường.

Sau đó tôi nhìn thấy “Tường John Lenon với một câu trích dẫn sáo ngữ kiểu như”: “Bạn có thể nói tôi là kẻ ngủ mơ, nhưng tôi không phải là kẻ duy nhất”.


Phong trào biểu tình Hong Kong bốc mùi tư tưởng thuộc về nhóm trên của tầng lớp thị dân trung lưu, bao gồm cả sự tôn thờ đa cảm rẻ tiền chán ngấy và thiếu kiểm chứng với “những người hùng” của phương Tây, như Churchill. 


Họ thực sự mơ về điều gì, tôi không hỏi. Tất cả những gì tôi thấy chỉ là những sự tầm thường sáo rỗng về “dân chủ” và “tự do”

Cờ Anh quốc cũng ở khắp mọi nơi, và tôi còn nhìn thấy hai con chó ngao Anh; hai con vật cực kỳ dễ thương, tôi phải thừa nhận, nhưng chả giải thích được gì cho nguyện vọng của người biểu tình.

Hiếm có người nói tiếng Anh ở đây, mặc dù mọi biểu tượng văn hóa, tư tưởng và tuyên truyền tại nơi biểu tình lẫn nơi “chiếm đóng” đều có liên quan tới phương Tây. 

Sau đó, vào buổi tối ngày 29 tháng 9, ở gần Admiralty, tôi phát hiện một nhóm người phương Tây, la hét và sẵn sàng cho “thứ gì đó lớn” 

Tôi lại gần một trong số họ; tên của anh ta là John và anh ta đến từ Australia:

“Tôi đã sống ở Hong Kong một thời gian. Tối nay chúng tôi tổ chức chạy từ đây đến Aberdeen, Pok Fu Lam và quay trở lại, để ủng hộ Phong Trào Chiếc Ô. Một số người nước ngoài tham gia cũng đã sống ở Hong Kong một thời gian.”

Tôi không hiểu điều này có minh họa cho thiếu tự do và sự độc đoán của Bắc Kinh không?

Tôi cố gắng hình dung điều sẽ xảy ra trong cùng một tình huống, ở các quốc gia tay sai của Washington, London và Paris, ở các quốc gia mà phương Tây ca ngợi là “nền dân chủ rực rỡ”

Điều gì sẽ xảy ra với tôi, khi tôi định tổ chức hoặc tham gia giải chạy marathon ở Nairobi, Kenya, phản đối việc Kenya xâm lược Somalia hay phản đối việc gây hấn trên bờ biển Swahili/Hồi Giáo? Họ sẽ làm gì với tôi, khi tôi là một người ngoại quốc, tôi sẽ khởi đầu một cuộc chạy đua ở trung tâm Jakarta, yêu cầu thêm tự do cho Papua!

Suy nghĩ làm tôi mất hết can đảm và với điều đó, một cách khách quan, tôi nhắn tin cho một nhà ngoại giao ở Nairobi. “Họ sẽ trục xuất tôi?” Tôi hỏi. “Họ có coi việc đó là can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia không?”

“Họ sẽ trục xuất anh” câu trả lời đến ngay lập tức. “Nhưng trước đó, anh sẽ thối rữa một thời gian trong [phòng] nhà giam cực kỳ bẩn thỉu.”

Tôi nghĩ vậy …

***

Vào lúc này, biểu tình trở nên hỗn loạn; làm gia tăng thời gian đi lại và hủy hoại kinh doanh.

Thậm chí một phần lớn giới chuyên môn Hong Kong giờ đây không muốn người biểu tình chặn đường phố.

Tờ South China Morning Post, đưa tin vào ngày 29 tháng 10 năm 2014: 
“Người biểu tình bị Hội luật sư phê phán vì đã chế giễu lệnh của tòa án, khi các luật sư ký đơn đề nghị chấm dứt chiếm đóng”.
Nhưng một số người thực sự thấy yêu cầu đó là chân thật và hợp hiến. Bạn của tôi, ông Basil Fernando, giám đốc của Ủy Ban Nhân Quyền Châu Á, đã viết cho tôi: 
“Như người biểu tình ở Hong Kong, họ là những người biểu tình địa phương chân thật với những quan ngại nghiêm túc. Người dân Hong Kong trong lịch sử mới đây đòi hỏi nhiều quyền mà người dân ở các quốc gia Châu Á khác chỉ có trên danh nghĩa, mà không có trong đời thực. Lý do là sự độc lập và hoạt động của các thiết chế công cộng. Sự khởi đầu của họ được đánh dấu bằng Ủy Ban Chống Tham Nhũng Độc Lập (ICAC), được khai sinh vào năm 1974. Đó là thành công và kết quả là Hong Kong gần như là một xã hội không có hối lộ và tham nhũng. Với 25 năm sống [ở đây], tôi có thể xác nhận điều này.
Người dân thực sự lo ngại khi đánh mất điều đó và đó là lý do tại sao họ muốn có tiếng nói hơn, để bầu chọn trưởng đặc khu hành chính. Đây là chính quyền địa phương thực sự các mục tiêu chính trị có giới hạn.”

Nhưng một tuần sau, khi tôi và Basil gặp nhau, mặt đối mặt, ở Hong Kong, ông ta thừa nhận:

“Nhiều sinh viên ở Hong Kong thiếu thông tin, và một số đã hư hỏng. Chúng không chưa bao giờ phải trải qua khó khăn trong đời. Đây là một trong những nơi giàu có nhất trái đất. Một số đứa trẻ sợ Trung Quốc. Ok, chúng ta có thể nói một số chúng là phản động … Nhưng điều này có thể hiểu được; đó là những người có gia đình chạy trốn khỏi Đất Liền Trung Quốc, trong quá khứ … Bố mẹ và ông bà nuôi nhồi nhét cho con cháu họ những điều tiêu cực về Trung Quốc”.

Vài phút sau, tôi ăn trưa tại Cafe de Coral, một chuỗi cửa hàng địa phương. Một thanh niên đi vào, mặc áo phông, trên đó có dòng chữ: “Hải Quân Thực Sự. Doanh Trại Quân Đội Hoa Kỳ.”

Ở Hong Kong, điều đó chẳng có nghĩa gì. Đó thậm chí không phải là thông điệp chính trị, chỉ là áo phông.

Chừng nào thành phố còn giàu có, mọi thứ vẫn ổn. Thành phố đã giàu có nhiều năm và nhiều thập kỷ; dưới sự cai trị của Anh, và là một phần của Trung Quốc.

Câu hỏi là nếu họ không quan tâm tới chính trị thì tại sao người biểu tình phong tỏa các đường giao thông huyết mạch của thành phố suốt hơn một tháng để đòi bầu cử trực tiếp và “dân chủ”, bất kể dân chủ có nghĩa là gì? 

Hay có điều gì đó ẩn giấu sau tất cả những chuyện này, và cũng có thể là “giữa những dòng chữ”.

“Chúng tôi cũng có những người nghèo của mình”. Brian, một người biểu tình ở Mong Kok, nói với tôi.

Sự thật là Hong Kong không phải là một pháo đài xã hội như Macau láng giềng, cựu thuộc địa của Bồ Đào Nha. Đáng nói là khi đến thăm Macau vài ngày trước, một số người giải thích với tôi là chuyện xảy ra ở Hong Kong không bao giờ diễn ra ở Macau, bởi vì mọi người ở đây cảm thấy “rất gần gũi Bắc Kinh”, có mối liên hệ chặt chẽ với Trung Quốc, và cảm thấy hài lòng hơn với cuộc sống của họ”.

Hong Kong trong nhiều thập kỷ là một xã hội tư bản tốc độ, tiêu dùng và năng động. Người dân đối mặt với một số giá cả khó tưởng tượng nhất trái đất, đặc biệt là giá nhà ở. Không phải là miền đất của sữa và mật ong; nó chưa từng là – dưới thời là thuộc địa của Anh, hay bây giờ. 

Có một sự thất vọng lớn về việc đánh mất “sự độc đáo”, và thế mạnh. Một số đô thị trung tâm Đất Liền Trung Quốc đang trở nên hấp dẫn hơn, với đời sống văn hóa mạnh mẽ hơn, các công viên lớn hơn, kiến trúc đẹp hơn, và giao thông công cộng phát triển hơn. Tuyến đường tốc hành từ Shenzen đến Guangzhou, Bắc Kinh hay Thượng Hải, và điều đó cho thấy tương lai, sự rực rỡ và lạc quan sẽ thực sự xuất hiện ở đâu.

Dường như các cuộc biểu tình hiện nay đang cho thấy sự thất vọng phổ biến của cư dân Hong Kong, không chỉ với Bắc Kinh mà còn chủ yếu là với tự bản thân Hong Kong.

Thiếu lý tưởng và nhận thức chính trị, và nhiều thập kỷ bị tuyên truyền chống Cộng Sản và chống chủ nghĩa xã hội của phương Tây oanh tạc, người biểu tình chỉ đơn giản phàn nàn Bắc Kinh về mọi thứ, ngay cả những thứ đáng ra họ phải phàn phàn về hệ thống tư bản cực đoan của họ.

Có một số ngoại lệ. Ở nơi biểu tình, có một vài nhóm nhỏ yêu cầu công bằng xã hội. Không phải tất cả bọn họ, nhưng có một số người Marxist và Trotskyist, thậm chí là vô chính phủ thành thị.

Một đồng sự đại học của tôi bình luận: 

“Nghị trình của họ tập trung vào dân chủ và bầu cử trực tiếp trưởng đặc khu hành chính, nhưng nhu cầu xã hội được Chiếm Đóng Trung Tâm nhấn mạnh cũng không thể bỏ qua, cụ thể là khoảng cách thu nhập quá lớn, giá bất động sản ngoài tầm với của thanh niên, và nhìn chung là một tương lai không xác định …”

Nhưng trên hết, sự thất vọng ở đây đi cùng với sự lãnh đạm. Họ không tạo ra bất cứ điều gì cách mạng về thành phố này hay phong trào.

Tôi thường uống rượu, thân mật, với ông Leung Kwok-hung (có biệt hiệu là “Tóc Dài”), người có vị thế là chính khách cánh tả nổi bật duy nhất ở đây. Tóc Dài là thành viên của Hội Đồng Lập Pháp Hong Kong. Nhưng là “cánh tả” không ngăn được việc ông được khen ngợi cũng như thường xuyên được báo chí cánh hữu ở các quốc gia Đông Âu phỏng vấn, khi “Tóc Dài” không chỉ phê phán phương Tây, ông ta cũng thường xuyên đánh Trung Quốc. Tôi chưa bao giờ hiểu thực sự ông ta đứng về phía nào và đôi khi tôi với ông ấy mất liên lạc.

Một giáo sư “tiến bộ” của trường đại học danh tiếng ở Hong Kong có lần đã thú nhận với tôi, trong tiếng ồn ào của một buổi nhậu, và đã quá nửa đêm, rằng thành tích lớn nhất trong đời của bà ấy là có vài trải nghiệm đồng tính, và thừa nhận với bản thân rằng bà ấy lưỡng tính. Điều đó diễn ra vài giờ sau khi tôi trình chiếu bộ phim tài liệu về vụ thảm sát năm 1965 ở Indonesian của tôi tại trường của bà ấy, trong phim có khoảng từ 1 đến 3 triệu người đã mất mạng.

“Chúng ta hãy ăn tối vào tối mai”, một nữ học giả khác nói với tôi. “Nhưng với một điều kiện – không bàn chuyện chính trị.” Tôi đã từ chối.

***

Dĩ nhiên là miễn cưỡng, hoặc một số trong họ tự nguyện, người biểu tình đang bị phương Tây điều khiển, phương Tây đang gây xung đột, bôi nhọ và dồn ép khắp nơi các quốc gia, các chính quyền và phong trào dám phản kháng lại đòi hỏi thống trị toàn cầu của họ.

Suốt nhiều năm, tuyên truyền phương Tây đã cố thuyết phục thế giới là Trung Quốc thực ra “không phải cộng sản”, hay là chủ nghĩa xã hội. Một quốc gia cộng sản thành công có thể là ác mộng tồi tệ với Đế quốc; nó sẽ làm tê liệt tín điều của phương Tây về chiến thắng hệ tư tưởng đối với các dạng chính quyền phi tư bản và phi đế quốc.

Hơn nữa, tuyên truyền đã rất thành công. Nếu người dân được hỏi ở Berlin, London hay Paris, nhiều người sẽ cười nhạo quan điểm cho rằng “Trung Quốc còn tư bản hơn nhiều quốc gia tư bản công khai.”

Bằng cách khiêu kích Trung Quốc, trực tiếp và thông qua các quốc gia vệ tinh như Nhật Bản, Philippine và Hàn Quốc, phương Tây hy vọng rằng con rồng lớn sẽ mất kiên nhẫn, sẽ táp lại, và sau đó bị coi như là quái vật hung hãn. Điều đó có thể “biện minh” cho một cuộc chạy đua vũ trang khác, thậm chí có thể là xung đột trực tiếp với Trung Quốc.

Trung Quốc càng xã hội chủ nghĩa hơn thì phương Tây càng hốt hoảng hơn. Trung Quốc đang trở thành chủ nghĩa xã hội: bằng cách duy trì hệ thống kế hoạch trung ương, nhà nước nắm giữ các công nghiệp chủ chốt, chỉ đạo sản xuất của khu vực tư nhân, hay tuyên bố rằng nếu người dân không được cung cấp chăm sóc y tế và giáo dục miễn phí thì quốc gia không có quyền tự gọi mình là cộng sản. Càng nhiều công viên công cộng được xây dựng, càng nhiều tuyến đường sắt cao tốc và đường tàu điện ngầm đô thị, cũng như nhà hát và trung tâm văn hóa thì phương Tây lại càng khiếp đảm. 

Giờ thì những sinh viên theo chủ nghĩa báo thù ở Hong Kong thừa nhận rằng Trung Quốc thực sự là một quốc gia cộng sản, song những điều phát ra từ môi của họ rất tiêu cực. Họ tuyên bố công khai về việc họ ghét chủ nghĩa cộng sản ra sao. 

Mọi thứ đều tốt với phương Tây, vì Trung Quốc cùng với Nga, Venezuela và Iran đều đứng đầu trong “danh sách ám sát” của họ.

Biểu tình ở Hong Kong chắc chắn là thời cơ cực kỳ thuận tiện cho Đế quốc.

Mặc dù Trung Quốc hành động với sự kiềm chế ghê ghớm (hơn nhiều so với Hoa Kỳ, Pháp hay Anh quốc đã thể hiện với những người biểu tình ở chỗ họ), nhưng họ đang trở thành mục tiêu trong chiến dịch bôi nhọ của truyền thông phương Tây.

Thậm chí nếu người biểu tình Hong Kong chỉ có một mục tiêu duy nhất, là bầu cử trực tiếp lãnh đạo cấp cao nhất, thì đây không phải là cách thực hiện.

Khuấy đảo khi Trung Quốc cùng với các quốc gia BRICS khác đang phải đối mặt với khiêu khích và kích động trực tiếp không phải là cách để khơi dậy sự đồng cảm của Bắc Kinh, hay thúc đẩy sự thỏa hiệp. Đây là lúc gay go và nguy hiểm, mọi người đang cáu kỉnh.

Sai lầm của những người biểu tình là một số trong họ đang trực tiếp tấn công toàn bộ hệ thống của Trung Quốc, thay vì tập trung vào các yêu cầu địa phương và thực tế. Hoặc có thể nếu mục tiêu thực sự là gây bất ổn Trung Quốc thì đó là là một hành động được tính toán kỹ càng, không phải là sai lầm. Nhưng điều đó sẽ và phải bị ngăn chặn.

Theo một nghĩa nào đó, “Phong Trào Chiếc Ô” của Hong Kong đang làm với Trung Quốc chính cái điều mà “Euro Maidan” làm với Nga hay những người biểu tình cánh hữu ở Caracas làm với “El Processo”.

Tự nguyện hay miễn cưỡng, phong trào biểu tình Hong Kong gia nhập vào mạng lưới màu sắc và “các cuộc cách mạng” khác được tạo ra để gây bất ổn cho các đối thủ của đế quốc phương Tây: một số ở Syria và Ukraina, ở Cuba và Venezuela, ở Thái Lan, Ai Cập và khắp Châu Phi.

Khi được hỏi, nhiều người biểu tình Hong Kong nói rằng “họ không biết chuyện đó”. Một điều có thể thấy là sẽ không có tổn hại gì nếu họ có thể được giáo dục tối thiểu về chính trị, trước khi dựng rào cản và “miễn cưỡng” tham gia vào cuộc chiến toàn cầu - ở phía sai lầm của lịch sử.

***

Vào đêm cuối cùng trước khi rời khỏi Hong Kong, tôi đi thăm khu vực biểu tình Mong Kok.

Ở đó căng thẳng, không phải bởi vì cảnh sát định can thiệp và dọn dẹp đường phố, mà bởi vì nhiều người biểu tình nhậu nhẹt. Mùi rượu nồng nặc bốc lên ở “chiến tuyến”, gần hàng rào ngăn cách giữa người biểu tình và cảnh sát.

“Có tiến triển gì không?” Tôi hỏi một cảnh sát.

“Không có gì hết. Chúng tôi được lệnh không làm gì cả”. Anh ta trả lời.

“Anh cảm thấy chuyện này thế nào?” Tôi hỏi anh ta, một cách thẳng thắn.

“Tôi được lệnh không nói gì, hay làm gì hết.” Anh ta trả lời. 

Nhưng sau đó có một cuộc cãi vã ầm ĩ ở chỗ những người biểu tình; không phải là một nơi đáng yêu, một chút gì đó giống như Maidan ở Kiev.

Một ông già la hét với các thủ lĩnh biểu tình, những người đó cảm thấy bất ngờ, cố gắng đẩy ông già đi, sau đó cười nhạo ông ta, một cách công khai.

“Ông ta nói gì vậy?” Tôi hỏi

“Không gì hết!” một thủ lĩnh biểu tình hét lên, người này trông không giống như một người dân chủ. Anh ta xưng tên là Benny. “Đừng lo ngại! Ông chỉ cần đi khỏi đây. Chúng tôi tự lo cho bản thân được.”

“Lo về cái gì?” Tôi ngạc nhiên

“Ông già nói rằng ông ấy sẽ gọi Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân đến dẹp tụi tôi. Sau đó ông ấy định đánh những người tổ chức, theo kiểu võ công phu”. Một ai đó thì thầm vào tai tôi.

Đó là “chiếm đóng” được nói tới, với vài cái lều. Điều đó khá là khôi hài, hóm hỉnh, hay gì đó … Cách đó vài mét là cửa hàng có quảng cáo đồng hồ Rolex, bên cạnh đó là cửa hiệu massage

“Một cuộc cách mạng Rolex”, tôi nghĩ.

Tâm trạng ở khu biểu tình thực sự bần tiện; không gì cao thượng, không gì lạc quan, không gì thực sự “cách mạng”.

Trong nhiều thập kỷ, Hong Kong đã tất bật trở nên giàu có một cách kinh tởm bằng cách phục vụ thành kính các lợi ích thực dân và thực dân mới của Anh và các nước phương Tây khác. Chúng đã lừa dối, hết lần này đến lần khác, nhân dạng Trung Quốc và Châu Á của họ, về phe với chính trị, quân sự và kinh tế của chủ nghĩa đế quốc châu Âu cũng như Hoa Kỳ. 

Không có sự khoan dung cho những quốc gia bị phá hủy ở khắp Châu Á Thái Bình Dương. Chừng nào tiền còn chảy, Hong Kong còn kinh doanh. Tiền, tiền, tiền! Sự giàu có của họ được xây dựng trên sự đau khổ của người khác. Thành phố phục vụ bất cứ kẻ nào cai trị, và trả tiền, bất chấp sự đau khổ mà hắn gây ra cho phần còn lại của Châu Á.

Dĩ nhiên là nhiều công dân của thành phố ghét chủ nghĩa xã hội và đặc biệt là Trung Quốc, khi họ cùng với Nga, Châu Mỹ Latin, Nam Phi và các quốc gia khác đang có chuyển đổi xã hội thực sự, chiến đấu chống lại đế quốc phương Tây,

Chứng kiến các thành phố vĩ đại của Trung Quốc mọc lên, trên khắp đất liền, các công dân của Hong Kong, hay ít nhất một số trong số họ, nhận thấy rằng điều không thể cướp được hay cùng phe với những kẻ cướp, là trở nên giàu có. 

Thậm chí những người hoàn toàn bị tẩy não cũng vô tình nhận ra rằng có điều gì đó thực sự sai lầm trong “đặc khu” của họ.

Khi con đường thủy giữa Hong Kong và Kowloon bị co hẹp lại do sự phát triển thiếu kiểm soát, khi tầng tầng lớp lớp những cửa hàng mới mọc lên ở chỗ hầu như không ai có đủ khả năng mua sắm; khi bất động sản nằm ngoài tầm với của đại đa số dân cư. Hong Kong giờ chỉ có hai sự lựa chọn; suy nghĩ lại về hệ thống kinh tế và chính trị, hoặc tiếp tục bán mình cho sự giàu có và chửi đổng hoặc chửi Bắc Kinh!

Andre Vltchek is a novelist, filmmaker and investigative journalist. He covered wars and conflicts in dozens of countries. The result is his latest book: “Fighting Against Western Imperialism”. ‘Pluto’ published his discussion with Noam Chomsky: On Western Terrorism. His critically acclaimed political novel Point of No Return is re-edited and available. Oceania is his book on Western imperialism in the South Pacific. His provocative book about post-Suharto Indonesia and the market-fundamentalist model is called “Indonesia – The Archipelago of Fear”. His feature documentary, “Rwanda Gambit” is about Rwandan history and the plunder of DR Congo. After living for many years in Latin America and Oceania, Vltchek presently resides and works in East Asia and Africa. He can be reached through his website or his Twitter.

Những trận chiến bất bình đẳng

Sự bất bình đẳng thu nhập đang tăng lên trên thế giới, và nó dẫn đến hàng loạt những vấn đề khác. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Inequality Battles" của tác giả John White để biết thêm chi tiết.

Những trận chiến bất bình đẳng

Kết quả đây! – bất bình đẳng trở nên tồi tệ hơn. Hay ít nhất một số người có quyền lực đang xì xầm bàn tán về nó, từ chủ tịch Fed Janet Yellen tới thống đốc Ngân Hàng Anh Quốc Mark Carney. Không chỉ là Thomas Piketty, phong trào Chiếm Đóng khắp thế giới hay Oxfarm, đã tóm lược sự bất bình đẳng trong thế giới mới cũ kĩ của chúng ta bằng dải âm thanh quyến rũ nhất: 85 = 3.5 tỷ. Vâng, đó là 85 như trong 85 người.

Bất bình đẳng không khó để thấy trong quá khứ, nhưng có thể là thêm vài người có quyền lực đang nhận thấy sự nguy hiểm của một thế giới thường xuyên mắc nợ. Nhưng tại sao hiện nay là sự chú ý hàng đầu? Dường như bất bình đẳng lớn hơn có thể báo hiệu suy thoái, và đẩy kinh tế vào tình trạng đình đốn. Không bao giờ lòng vị tha hay phép tắc nhân đạo cơ bản khiến chính quyền lo lắng, đó là kinh tế và theo đuổi không ngừng tăng trưởng với bất kỳ giá nào.

Nhưng chúng ta phải quan ngại bởi vì sự thống khổ và kinh hãi thực sự trong cuộc sống của nhiều người. 

Dĩ nhiên thống kê kinh khủng nhất là Bảng Báo Cáo 12 của UNICEF, ghi nhận rằng “2,6 triệu trẻ em đã tụt xuống dưới mức nghèo khổ tại các quốc gia có thịnh vượng nhất thế giới kể từ năm 2008, dẫn đến tổng số trẻ em sống trong nghèo khổ ở thế giới phát triển vào khoảng 76,5 triệu”. Đó mới chỉ là thế giới phát triển. Ai đó không cần phải nhìn lại sân sau để thấy sự tàn phá của hệ thống kinh tế rất ít quan tâm tới những người nghèo yếu thế nhất trong chúng ta.

Một cái nhìn sâu hơn đối với báo cáo của UNICEF cho thấy sự nghèo khổ ở trẻ em đang gia tăng ở đa số các quốc gia OECD được khảo sát. Tại Ireland và Hy Lạp, các quốc gia có chương trình thắt lưng buộc bụng, sự nghèo khổ ở trẻ em đã tăng hơn 50% kể từ năm 2008. Ở Hoa Kỳ, từ khi cuộc khủng hoảng bắt đầu, sự nghèo khổ ở trẻ em đã gia tăng ở 34 bang, hơn 24 triệu trẻ em sống dưới mức nghèo khổ. Dĩ nhiên không phải là cuộc “khủng hoảng” với tất cả mọi người, khi sự giàu có của nhóm Forbes 500 đo bằng đơn vị nghìn tỷ hay nhóm Dow Jones đã tăng gấp đôi so với khi “khủng hoảng” bắt đầu. Về sự gia tăng nghèo khổ ở Hoa Kỳ, Chery và Mercier đã ghi nhận ngắn gọn rằng “Tầng lớp trung lưu trở thành nghèo khổ, và người nghèo khổ thì hiện giờ cùng cực” (Sống với 2 dollar/ngày, ngày 9 tháng 9).

Nếu ai đó ngại nhìn, chúng ta cũng có thể thấy Ebola không phải là vấn đề thể chất mà là vấn đề của nghèo đói. Các cơ sở chăm sóc y tế cơ bản vốn thiếu thốn ở một trong những khu vực bần cùng nhất thế giới, lại tiếp tục bị cướp đoạt bởi nhiều năm nội chiến. Nếu virus kiểu như Ebola xuất hiện ở Hoa Kỳ vào năm 1865, nó sẽ cướp đi số sinh mạng nhiều hơn bốn năm chiến tranh và làm cho sự thịnh vượng ngày nay bất khả thi. Quả thực, thể chất tốt là một chức năng của mã bưu chính.

Khối lượng lớn dữ liệu đã định lượng được tương quan giữa thiếu sức khỏe và năng suất. Liệu có ngạc nhiên khi số sinh viên từ các khu vực nghèo đói đến trường đại học ít hơn (Schofield, 2006); kỹ năng đọc của trẻ em có bố mẹ thất nghiệp kém hơn trung bình (Hill, 2005); tỷ lệ tử vong của người nghèo cao hơn ba lần (Burke, Kenaghan, O’Donovan, & Quirke, 2004)? Hay nghèo đói gia tăng trực tiếp liên quan đến gia tăng ung thư và đột quỵ, một tương quan không thay đổi từ cuối thế kỷ 19 (Dorling, Mitchel, Shaw, Orford, &Smith, 2000)? Dữ liệu đã có nhiều năm, nếu không nói là quá lâu.

Một lần nữa, chúng ta thấy sự phát triển là đáp ứng những nhu cầu cơ bản, và hạnh phúc, một kết quả bình đẳng và tiếp cận tài nguyên. Paul Krugman đã thống kê sự nghèo khổ trong nhiều thập kỷ, và đưa ra sự phàn nàn trung thực về 1%. Trong một bài bình duyệt cuốn sách đột phá của Thomas Piketty về bất bình đẳng, ông ta viết rằng Thời Đại Thịnh Vượng mới đã phát triển từ những năm 1980 và người ta chỉ cần nhìn vào báo cáo thuế để thấy lý do. Đó là toán học căn bản khi người giàu kiếm được nhiều hơn (hay trả ít hơn) và người nghèo kiếm được ít hơn (hay trả nhiều hơn). Bạn có xoay theo bất cứ hướng nào thì người giàu vẫn giàu hơn, hơn bất cứ sự cần thiết hợp lý nào.

Rất dễ dàng để trích dẫn con số nhưng cũng dễ dàng như thấy lý do: lợi ích bản thân và quy tắc chủ nghĩa cá nhân thái quá, khi cuộc sống trở thành một trò chơi phân chia ra thành người thắng và kẻ thua. Có một số nguyên nhân rõ ràng, như lương thấp, luật thuế không công bằng, hệ thống người sử dung thanh toán hai tầng. Cho vay nặng lãi kiểu cũ được áp dụng quá mức trong ngân hàng hiện đại, điều tồi tệ nhất là các công ty cho vay qua mạng Internet ngày càng nảy nở trên các địa chỉ IP, sử dụng công nghệ smart-phone để cung cấp các khoản vay trong vài phút với lãi suất lên đến 5.000%/năm. Cho vay cắt cổ, theo kiểu peer-to-peer. Hiện nay, họ có một cái tên đẹp cho việc cho vay cắt cổ. 

Giải pháp tín dụng tốt hơn là có, nhưng người nghèo khó có thể tiếp cận. Theo chủ nghĩa tư bản cổ điển, chênh lệch lợi nhuận được kỳ vọng giảm xuống khi cạnh tranh gia tăng. Quá tệ khi gã bình thường không thể thu lợi từ lãi suất gần bằng không của Fed! Chênh lệch lãi suất nhỏ nhân với hàng triệu khách hàng được một số ít người khai thác. Chủ ngân hàng thân thiện đáng yêu của mọi nhà, George Bailey, đang xoay tròn trong mộ.

Hơn nữa, khi người nghèo bị nghèo hơn, khoản nợ cũng tệ hơn. Được ngành công nghiệp ô tô Hoa Kỳ khai sinh vào những năm 1920, tín dụng dường như là một giải pháp rõ ràng để xóa bỏ gánh nặng thanh toán giá cả nằm ngoài tầm với của hầu hết người mua – khoảng 20% thu nhập của hộ gia đình theo ghi nhận của Daniel Boorstin trong phân tích về văn hóa tiêu dùng mới, “Người Mỹ: Kinh Nghiệm Dân Chủ”. Được GM, Ford, và các thẻ cho vay thích hợp khác tạo điều kiện, tín dụng nhanh chóng bén rễ trở thành phương tiện thanh toán trong thời đại chúng ta, và hiện giờ tăng lên hơn 3 nghìn tỷ dollar, hơn một phần tư của chúng là “quay vòng”, có nghĩa là kiểu thẻ tín dụng đang hoạt động. Theo Cục Thống Kê Dân Số Hoa Kỳ, gần 1,5 tỷ thẻ tín dụng được lưu hành vào năm 2008. Đáng chú ý hơn, một số hộ gia đình của những người trẻ tuổi chi tới 25% thu nhập của họ cho trả nợ. Và sau đó các thẻ khách hàng “trung thành” với lãi suất cắt cổ tới 30% và được gọi là trò lừa đảo “thuê để sở hữu” (thứ sẽ dẫn đến phí tổn gấp 3 lần giá mua). Rất khó để chơi khi bạn luôn tụt lại phía sau.

Nhưng sao xã hội được gọi là khai sáng của chúng ta lại rơi vào trò chơi bóc lột tiền bạc? Đó là vấn đề của tất cả mọi người khi chúng ta nợ quá nhiều, câu cách ngôn đó đập vào lưng những người tiêu dùng đang chen vai thích cánh. Theo như phép tu từ của ngân hàng truyền thống do John Maynard Keynes đặt ra, “Nếu bạn nợ ngân hàng một trăm bảng thì bạn có vấn đề. Nhưng nếu bạn nợ một triệu thì họ có vấn đề”. Khi nào bất bình đẳng là vấn đề của tất cả mọi người?

Không may là bạn sẽ không thấy bất bình đẳng trong các vấn đề tranh cử gần đây. Như Krugman đã ghi nhận tiếp theo trong “Lương tâm của người tự do: Không phục Hoa Kỳ từ cánh hữu”, “người bỏ phiếu đặc trưng có một thu nhập tương đối cao hơn cá nhân đặc trưng, đó là lý do các chính khách có khuynh hướng thiết kế các chính sách của họ với sự giàu có tương đối trong suy nghĩ”. John Kenneth Galbraith nói nhiều điều tương tự trong “Xã hội thịnh vượng”, ghi nhận sự phân tách lớn dần giữa sự giàu có và xã hội trong những năm 1950. “Pháp luật hiện nay phục vụ các cá nhân giàu có cũng như đối đầu với các cá thể chỉ có thu nhập ít ỏi”. Khó có thể đối mặt với vấn đề tiền bạc của người nghèo trong khi bầu cử tiêu tốn hàng tỷ dollar.

Nực cười thay, kết quả bầu cử và đặc biệt những người thân cận có thể chiến thắng là nhờ người giàu, khi thời tiết xấu cũng phục vụ cho giai cấp lắm tiền, những người có tiếp cận tốt hơn với giao thông vận tải.

Đây là lúc để mặt trời tỏa sáng và tạo ra sự khác biệt. Một sự khác biệt thật sự trong cuộc sống của những người khác. Bất bình đẳng là VẤN ĐỀ của thời đại chúng ta.

JOHN K. WHITE, là trợ giảng ở trường Vật Lý, Đại Học Dublin College, và tác giả của Do The Math!: On Growth, Greed, and Strategic Thinking (Sage, 2013). Do The Math! Cũng có phiên bản cho Kindle. Có thể liên hệ với tác giả qua hòm thư điện tử: john.white@ucd.ie.

Thursday, November 6, 2014

Phía sau nghị quyết của Liên Hiệp Quốc về Uranium nghèo

Mới đây, Liên Hiệp Quốc đã thông qua một nghị quyết về vũ khí chứa Uranium nghèo mà Hoa Kỳ và đồng minh đã sử dụng ở nhiều nơi trên thế giới, xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Inside the UN Resolution on Depleted Uranium" của tác giả John Laforge để biết thêm chi tiết.

Phía sau nghị quyết của Liên Hiệp Quốc về Uranium nghèo

Vào ngày 31 tháng 10, một nghị quyết mới của Ủy Ban Thứ Nhất Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc về vũ khí chứa uranium nghèo được thông qua với đa số tuyệt đối. Có 143 quốc gia ủng hộ, 4 chống và 26 bỏ phiếu trắng. Biện pháp này kêu gọi các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc hỗ trợ các quốc gia bị nhiễm bẩn do các loại vũ khí đó. Nghị quyết cũng ghi nhận sự cần thiết phải nghiên cứu trên góc độ môi trường và sức khỏe về vũ khí chứa uranium nghèo trong các tình huống xung đột. 

Đây là nghị thứ năm của Liên Hiệp Quốc về vấn đề bị bốn quốc gia sử dụng vũ khí chứa uranium nghèo phản đối dữ dội – đó là Anh, Hoa Kỳ, Pháp và Israel – những nước duy nhất bỏ phiếu chống. Hai mươi sáu quốc gia bỏ phiếu trắng được cho là muốn tránh gây tổn thương quan hệ thương mại với bốn quốc gia kia.

Uranium-238 – hay còn được gọi là Uranium nghèo (DU) – là phế thải tồn lại với khối lượng khổng lồ của các tổ hợp vũ khí hạt nhân. Chúng được sử dụng trong các đầu đạn xuyên giáp cỡ lớn và trong các tấm giáp của xe tăng. Chất độc, bụi phóng xạ và mảnh vụn được phát tán khi hạt DU bốc cháy trong mục tiêu, hơi kim loại và bụi của nó đầu độc nguồn nước, đất canh tác và chuỗi thức ăn. DU có liên quan tới các hiệu ứng tổn hại sức khỏe như Hội Chứng Vùng Vịnh của binh lính Hoa Kỳ và đồng minh, và tỷ lệ dị dạng sơ sinh trong dân cư ở các khu vực bị ném bom. Phế thải DU gây ra nhiễm xạ nhiều phần lãnh thổ lớn ở Iraq, Bosnia, Kosovo và dĩ nhiên là Afghanistan. 

Biện pháp này giải thích rằng vũ khí chứa DU được chế tạo bằng một “kim loại nặng độc hại về hóa học và phóng xạ” [uranium-238], “các mảnh vỡ, và vỏ bao hay vỏ bọc sau khi sử dụng có để trên mặt đất hay chôn thật sâu, phần Uranium nghèo còn lại dẫn đến nhiễm độc tiềm tàng không khí, đất canh tác, nước và thực vật”. 

Sự công kích chủ yếu trong nghị quyết mới nhất của Liên Hiệp Quốc, “Khuyến khích các quốc gia thành viên sẵn sàng cung cấp hỗ trợ cho các quốc gia bị ảnh hưởng bởi việc sử dụng vũ khí và đầu đạn chứa Uranium nghèo, đặc biệt là xác định và quản lý các khu vực cũng như vật liệu nhiễm độc”. Yêu cầu này là một sự ám chỉ ngầm cho thấy sự thật là các điều tra viên đã bị ngăn cản trong việc nghiên cứu nhiễm độc Uranium ở Iraq, do Lầu Năm Góc từ chối cung cấp bản đồ của tất cả các vị trí bị tấn công bằng DU.

Trong giới hạn ngoại giao của nghị quyết Liên Hiệp Quốc, các quốc gia không bị nêu tên cụ thể. Mặc dù vậy, thế giới biết rằng gần 700 tấn đầu đạn DU được quân đội Hoa Kỳ trút xuống Iraq và Kuwait vào năm 1991, và các chiến đấu cơ Hoa Kỳ đã nã 3 tấn đạn DU khác vào Bosnia trong năm 1994 và 1995; 10 tấn vào Kosovo trong năm 1999, và khoảng 170 tấn vào Iraq trong năm 2003. 

Liên Minh Quốc Tế Cấm Vũ Khí Uranium (ICBW.org) ở Manchester, Anh và đại diện cho 160 tổ chức xã hội dân sự trên thế giới, đóng vai trò chủ chốt trong việc theo dõi cả 5 nghị quyết của Liên Hiệp Quốc được triển khai và vận động một hiệp ước coi loại đầu đạn này là bất hợp pháp. Vào tháng 10, ICBUW đưa tin rằng quân đội Hoa Kỳ sẽ tiếp tục sử dụng vũ khí DU ở Iraq và trong các cuộc tấn công quân ISIS “nếu điều đó là cần thiết”. Sự thừa nhận xuất hiện bất chấp lời kêu gọi mới đây vào mùa hè 2014 ở Iraq về việc cấm vũ khí loại này và hỗ trợ làm sạch các nhiễm độc còn tồn dư từ các cuộc ném bom năm 1991 và 2003.

Nghị quyết mới của Liên Hiệp Quốc dựa trên Chương Trình Môi Trường Liên Hiệp Quốc (UNEP), do họ đã thực hiện các khảo sát về phóng xạ tại các mục tiêu ném bom của NATO ở Balkan và Kosovo. Nghiên cứu của UNEP năm 2001 đã buộc Lầu Năm Góc thừa nhận rằng DU có trộn lẫn Plutonium. (Associated Press, Capital Times, Feb. 3, 2001: “ Nhưng hiện giờ Lầu Năm Góc tuyên bố rằng các đầu đạn được sử dụng trong cuộc xung đột ở Kosovo năm 1999 bị nhiễm một lượng nhỏ Plutonium, Netunium và Amercium – phụ phẩm của các lò phản ứng hạt nhân phát xạ lớn hơn Uranium nghèo.”)

Đoạn thứ tư đáng chú ý của nghị quyết ghi nhận một phần “… sự thiếu chắc chắn chủ yếu về mặt khoa học phản đối các tác động môi trường dài hạn của Uranium nghèo, đặc biệt là liên quan đến nhiễm độc nước mặt dài hạn. Do những sự thiếu chắc chắn về khoa học này mà Liên Hiệp Quốc kêu gọi một phương thức tiếp cận mang tính phòng ngừa đối với việc sử dụng Uranium nghèo, và khuyến nghị các hoạt động dọn sạch cũng như giải độc cho các khu vực ô nhiễm. Nghị quyết cũng kêu gọi gia tăng nhận thức của cư dân địa phương và sự theo dõi trong tương lai.”

“Nguyên tắc phòng ngừa” có nghĩa là các hoạt động hay chất liệu rủi ro phải được tránh xa và được ngăn cản trừ khi chúng được chứng minh là an toàn. Dĩ nhiên, thay vì áp dụng nguyên tắc phòng ngừa, Lầu Năm Góc phủ nhận việc DU có liên quan tới các vấn đề sức khỏe.

John LaForge làm việc cho tổ chức Nukewatch và sống tại Plowshares Land Trust ở gần Luck, Wisc.

Ba nguyên tắc chi tiêu ngân sách của bộ trưởng Vinh

Trước đây cũng khá lâu, bác Giao có yêu cầu bình luận về phát biểu của bộ trưởng bộ kế hoạch đầu tư Nguyễn Quang Vinh trong bài "Bộ trưởng Kế hoạch-Đầu tư: Việt Nam vi phạm ba nguyên tắc trụ cột", bình luận qua comment thì sẽ quá dài nên phải viết một bài riêng cho bác Giao.

Hoàn cảnh của cuộc tranh luận về ngân sách

Trước hết nếu chỉ nhìn vào bài báo đó thì không thể bình luận nhiều, cần phải nhìn vào bối cảnh lịch sử của Việt Nam để hiểu tại sao có bài báo đó.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam mấy năm gần đây đang chậm lại, nguồn thu ngân sách bị giảm sút trong khi đó các khoản phải chi lại phình ra rất nhanh. Kế hoạch tăng lương đã phải hoãn hai năm, chính phủ thậm chí đã phải phát hành trái phiếu để đảo nợ. Thu chi ngân sách trở thành vấn đề nóng bỏng tại diễn đàn Quốc Hội. 

Ngân sách thì có rất nhiều cơ quan tiêu nhưng giải trình về ngân sách trước Quốc Hội thì chỉ có hai bộ là Bộ Tài Chính (BTC) và Bộ Kế Hoạch-Đầu Tư (BKHĐT). Song hai bộ này cũng chỉ nắm chung về chi tiêu và đầu tư, họ không nắm được chi tiêu của các bộ khác và các địa phương. Ngân sách cũng là vấn đề phức tạp, dưới Luật Ngân Sách Nhà Nước thì còn có 300 văn bản khác. Đa phần các đại biểu cũng không bao quát hết được vấn đề ngân sách.

Tuy cùng phải giải trình về vấn đề ngân sách trước Quốc Hội song quan điểm của BTC và BKHĐT lại đối chọi nhau. Điều này dẫn đến bài phát biểu của bộ trưởng Vinh.

Gần đây nhất hai bộ này đã trực tiếp đối thoại với nhau về ngân sách là trong cuộc hội thảo về Kế Hoạch và Đầu Tư ở Đà Nẵng vào ngày 7.8.2014. Trong cuộc hội thảo đó đại diện của BKHĐT đã nói về việc xây dựng kế hoạch đầu tư trung hạn, còn đại diện của BTC nhấn mạnh việc ưu tiên chi cho cải cách tiền lương và an sinh xã hội.

Mới đây, chủ tịch Quốc Hội đã phát biểu về vấn đề chi ngân sách, nhấn mạnh việc phải thực hiện cải cách tiền lương, trong khi bộ trưởng BTC muốn ưu tiên trả nợ và chi cho quốc phòng. 

Chưa đầy hai tuần sau, bộ trưởng Vinh đã phát biểu về ba trụ cột kinh tế của quản lý ngân sách, quan điểm của BKHĐT là giảm chi thường xuyên, giảm chi an sinh xã hội và gia tăng chi đầu tư phát triển. BTC cũng đã nhanh chóng đưa ra quan điểm của mình. BTC một lần nữa nhấn mạnh việc chi cho an sinh xã hội là dựa trên các nghị quyết của Quốc Hội và chính phủ. Một điểm đáng chú ý là BTC đã đề cập đến vấn đề phải xiết lại việc lập dự toán đầu tư, tức là công việc của BKHĐT.

Nguyên tắc kinh tế nào?

Về nguyên tắc kinh tế, dựa trên kinh tế học thì chỉ có hai loại quan điểm. Quan điểm của trường phái Keynes là nhà nước có thể can thiệp vào thị trường để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngược lại theo quan điểm của phái tân cổ điển thì nhà nước nên hạn chế can thiệp vào thị trường, chỉ nên can thiệp để sửa chữa các khuyết tật của thị trường.

Thu chi ngân sách về bản chất là liên quan chặt chẽ đến nhau, không thể tách rời việc thu riêng và chi riêng. Ví dụ như tăng chi lương chẳng hạn, thì cũng có nghĩa là khoản thu từ thuế thu nhập và thuế giá trị gia tăng cũng tăng lên, do vậy phải tính toán cân đối cả thu và chi. Khoa kinh tế học gộp hai vấn đề đó lại thành chính sách tài khóa.

Phái Keynes khuyến khích nhà nước chi tiêu để điều tiết nền kinh tế do vậy chính sách tài khóa là vấn đề trọng tâm của họ. Một người theo phái Keynes, giáo sư kinh tế học Warron Smith đã đúc kết nguyên tắc về chính sách tài khóa là: "Quy tắc tốt nhất là ngân sách không bao giờ nên cân bằng, trừ một khoảnh khắc khi thay đổi từ dư thừa để chống lạm phát sang thâm hụt để chống suy thoái". Còn các đại biểu của phái tân cổ điển thì thường dẫn quan điểm ngắn gọn của người sáng lập ra khoa kinh tế chính trị cổ điển, Adam Smith: "Ngân sách tốt duy nhất là ngân sách cân bằng"

Khoản 1 điều 8 Luật Ngân Sách Nhà Nước năm 2002 ghi rõ: Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách.

Bàn về ba nguyên tắc của bộ trưởng Vinh

Nguyên tắc trong trường hợp này chỉ có hai loại, một là dựa trên lý thuyết kinh tế, hai là dựa trên luật.

Về vi phạm nguyên tắc thứ nhất, "tăng chi cho lương cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Đây là vi phạm nguy hiểm, bởi ở các nước chỉ tăng lương khi năng suất lao động tăng, hiệu quả lao động tăng lên thì được bù đắp.". Khoa kinh tế học chưa bao giờ chứng minh được lương tương ứng với năng suất lao động. Khoa kinh tế học cho rằng lương là do cung và cầu về lao động quyết định. Doanh nghiệp thuê lao động dựa trên nguyên tắc lương bằng giá trị sản phẩm biên của lao động, tức là không chỉ liên quan đến năng suất lao động của lao động, mà còn phụ thuộc vào giá cả của sản phẩm đầu ra và công nghệ sản xuất. Khoa kinh tế chính trị học Marx-Lenin thì coi lương là giá cả của sức lao động, nên cũng không liên quan đến năng suất lao động. Khoa kinh tế chính trị học cổ điển thì còn có quy luật sắt về tiền lương, như của Malthus, tức là theo quy luật thị trường thì lương thực tế luôn chỉ bằng mức tối thiểu đủ sống. Còn về mặt thực tiễn thì doanh nghiệp không bao giờ áp dụng tăng lương bằng tăng năng suất lao động, nguyên tắc được áp dụng phổ biến là tỷ lệ tăng lương nhỏ hơn tỷ lệ lạm phát.

Vi phạm nguyên tắc thứ hai, tốc độ tăng cho chi an sinh xã hội cao hơn tốc độ tăng thu ngân sách, mất cân đối ngayChi an sinh xã hội là nhu cầu bức xúc quan trọng của mọi quốc gia nhưng dù muốn thế nào thì muốn, nhu cầu an sinh xã hội rất lớn phải cân đối, phải thấp hơn tốc độ thu về ngân sách.

Vi phạm nguyên tắc thứ ba là trong quy luật kinh tế quy định tốc độ tăng chi cho phát triển phải cao hơn tốc độ tăng chi thường xuyên, để tiến lên nếu ngược lại thì khó khăn.

Tôi đã tra cứu các loại sách giáo khoa về kinh tế học và không tìm thấy nguyên tắc thứ hai và thứ ba của bộ trưởng ở bất cứ chỗ nào, có lẽ đó là loại nguyên tắc cao cấp chỉ dành riêng cho các chuyên gia cao cấp chăng?

Nếu đối chiếu với quy định của khoản 1 điều 8 của luật NSNN thì nguyên tắc số 2 và 3 của Bộ trưởng Vinh chỉ là những trường hợp cụ thể của quy định ấy. Lý do là cả chi lương, chi an sinh xã hội đều thuộc về khoản chi thường xuyên. Hãy lấy quy tắc thứ 3 để xem xét, tốc độ tăng chi thường xuyên phải thấp hơn tốc độ tăng chi phát triển, điều đó có nghĩa là tốc độ tăng chi thường xuyên phải thấp hơn tốc độ tăng thu ngân sách, vì chi thường xuyên cộng với chi đầu tư phát triển chính bằng tổng chi. Nhưng ngay cả khi tốc độ tăng chi thường xuyên lớn tốc độ tăng thu ngân sách thì tốc độ tăng chi đầu tư phát triển vẫn có thể lớn hơn nhờ bội chi theo luật NSNN. Xét quy tắc thứ hai, khi tốc độ tăng chi thường xuyên được duy trì thấp hơn tốc độ tăng thu ngân sách, đương nhiên theo logic đơn giản thì các cấu thành của chi thường xuyên, như  tốc độ chi an sinh xã hội phải thấp hơn tốc độ tăng thu ngân sách, nhưng ngay cả trong trường hợp đó thì chi an sinh xã hội vẫn có thể có tốc độ cao hơn tốc độ thu ngân sách nếu tốc độ gia tăng của các khoản khác thuộc về chi thường xuyên giảm đi. 

Trong bài báo bộ trưởng nêu rõ là Việt Nam đang gặp rắc rối vì không tuân thủ ba nguyên tắc này, nhưng suy nghĩ kĩ hơn một chút sẽ thấy áp dụng cả ba nguyên tắc này thì Việt Nam cũng không tránh khỏi rắc rối. Các khoản chi cho lương, an sinh xã hội đều nằm trong khoản chi thường xuyên. Trong thực tế sẽ xảy ra tình huống các nguyên tắc đó tạo sức ép lên nhau, ví dụ tuân thủ nguyên tắc thứ ba, giữ tốc độ tăng chi phát triển lớn hơn tốc độ tăng chi thường xuyên mà năng suất lao động tăng nhanh buộc phải tăng lương đẩy tốc độ tăng chi thường xuyên vượt quá tốc độ chi phát triển thì lúc đó không biết sẽ phải hy sinh nguyên tắc nào. Nếu có thể hy sinh nguyên tắc này để chọn nguyên tắc khác thì ba nguyên tắc đó không thể là nguyên tắc mà chỉ có thể là tùy chọn.

Tại sao quan điểm của Bộ trưởng Vinh được ủng hộ?

Quan điểm của bộ trưởng Vinh là gia tăng chi đầu tư phát triển để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chi đầu tư phát triển là những khoản chi như sau: chi xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, chi hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước và góp vốn vào doanh nghiệp, chi dự trữ nhà nước. Bộ trưởng Vinh vốn chỉ nắm được khoản chi xây dựng cơ sở hạ tầng còn hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước và góp vốn lại thuộc BTC, dự trữ nhà nước thì do Tổng Cục Dự Trữ quản lý trong đó khoản dự trữ lớn nhất là ngoại tệ lại do Ngân Hàng Nhà Nước nắm. Với các dự án cơ sở hạ tầng thì đương nhiên là doanh nghiệp có lợi, xét trên phương diện kinh tế vĩ mô thì cơ sở hạ tầng tốt sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí sản xuất, xét trên phương diện trực tiếp thì các doanh nghiệp sẽ được nhận thầu thêm các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng mới. Trong bối cảnh kinh tế trì trệ thì quan điểm của bộ trưởng Vinh sẽ được nhóm doanh nghiệp công nghiệp và xây dựng ủng hộ mạnh mẽ. 

Song vấn đề nằm ở chỗ, Việt Nam đã từng sử dụng chính sách tài khóa theo kiểu Keynes trước đây không lâu. Vào năm 2008 khi thế giới bị chìm trong cuộc khủng hoảng tài chính do nợ dưới chuẩn của Mỹ gây ra, chính phủ Việt Nam đã tung ra gói kích thích tài khóa trị giá 8 tỷ USD. Cho đến nay chưa có bất cứ nghiên cứu nào đánh giá tác động của gói kích thích kinh tế đó. Những năm tiếp theo Việt Nam đã phải chứng kiến mức lạm phát kinh hoàng và tình trạng các doanh nghiệp đua nhau đầu cơ làm rối loạn thị trường. Hiện nay trong chính phủ không còn nhiều người nhắc đến kích thích tăng trưởng kinh tế bằng chính sách tài khóa nữa. Từ sau cuộc chạy đua lãi suất của hệ thống ngân hàng năm 2012, chính sách tiền tệ đã bắt đầu có tiếng nói nhất định đối với việc ổn định kinh tế vĩ mô.

Điều đáng chú ý hơn trong bài phát biểu của bộ trưởng Vinh.

Đó là đoạn cuối bài:

Bộ trưởng Bùi Quang Vinh kể rằng, Quốc hội từng yêu cầu ông phải trả lời câu hỏi những dự án nào không hiệu quả, kém hiệu quả. Để làm việc này, Bộ Kế hoạch đã gửi công văn đến tất cả các địa phương thì nhận được phản hồi là "dự án nào cũng hiệu quả". “Tôi hỏi tiêu chí nào là hiệu quả thì các ông ấy bảo không hiệu quả chỗ này thì hiệu quả chỗ khác”, Bộ trưởng chia sẻ.

Những người làm quản lý doanh nghiệp đều thuộc lòng câu cách ngôn của nhà kinh tế học Peter Drucker "Không thể quản lý khi thiếu đo lường". Câu chuyện của bộ trưởng Vinh cho thấy BKHĐT hoàn toàn không có chuẩn mực để đo lường hiệu quả dự án. Việc bộ hỏi các địa phương là vô ích vì thứ nhất họ sẽ không biết dựa trên tiêu chí nào để trả lời BKHĐT. Thứ hai là cho dù có được đầy đủ báo cáo của các địa phương thì BKHĐT cũng chẳng thể làm gì vì mỗi báo cáo ấy sẽ theo một chuẩn mực khác nhau và không thể nào tổng hợp vào một báo cáo để phân tích hay đánh giá. Chỗ này làm tôi nhớ đến câu khen của một người bạn khi phải chứng kiến tình trạng tương tự ở nhiều bộ ngành: "Thế mà Việt Nam vẫn quản lý được mới tài!". 

Những người thầy tốt nhất mà tôi từng có

Người ta thường được nghe các hùng biện đề cao giáo dục, coi giáo dục là con đường thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, con đường để trở nên giàu sang và hạnh phúc. Ảo tưởng tư sản thường được tiếp sức bằng câu chuyện kiểu Fukuzawa vẽ nên một tương lai nhờ học hành mà trở thành tầng lớp thượng lưu trong xã hội. Nhưng đối với giai cấp vô sản, không có điều kiện để học hành thì cuộc sống là trường học đồng thời là nơi thực hành của họ, những người xung quanh là thầy dạy của họ. Thứ mà họ học được không phải là cách trở nên giàu có hay giành được địa vị cao trong xã hội mà là đấu tranh để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch "The Best Teachers I Ever Had" của tác giả Bill Quigley để biết những người nghèo ở Hoa Kỳ đã tự giáo dục mình ra sao.

Những người thầy tốt nhất mà tôi từng có

Tôi thường sống và làm việc tại Nhánh Người Ireland ở Nhà Hy Vọng của New Orleans. Tôi làm việc với những người sống trong Cơ Sở Phát Triển Nhà Ở St. Thomas. Hơn 1500 hộ gia đình sống trong các tòa nhà bằng gạch xếp chiếm ba trong số bốn khối nhà của khu vực mà hiện nay là khu chung cư River Garden.

Một số sơ dòng Catholic sống ở St. Thomas muốn tôi tham gia cùng với họ trong việc chăm sóc người nghèo và tôi đã đồng ý. Một trong các sơ nhận được một khoản lương nhỏ cho việc dạy tôn giáo ở Học Viện Mercy. Bà nói với tôi rằng bà sẽ đưa cho tôi khoản lương 250 dollar đó nếu tôi tham gia cùng với họ. 

Tôi biết giảng dạy xã hội của đạo Catholic ưu tiên cho việc giúp đỡ người nghèo, nên tôi đã tham gia cùng với họ để giúp đỡ mọi người.

Tôi đã làm việc với những sơ đó và các gia đình trong cộng đồng vài năm trước khi tôi đi học ở trường luật. Tôi giúp đỡ khi có ai đó bị ốm và cần giúp đỡ để đến bệnh viện, với trách nhiệm thu thập các hóa đơn và điền chúng vào các bản kê khai của chính quyền.

Tôi cũng hợp tác chặt chẽ với các bà mẹ và các bà nội/ngoại, những người đã lập ra hội đồng dân cư. Những phụ nữ này thường là chủ gia đình, phần lớn chỉ kiếm được rất ít tiền hoặc không kiếm được đồng nào từ các công việc có mức lương tối thiểu, trợ giúp công cộng hay an sinh xã hội. Họ nuôi dạy con cháu và thường là các cháu nội/ngoại với rất ít tiền trong một môi trường tương đối cam go.

Sau nhiều tháng, tôi bắt đầu hiểu rằng những người phụ nữ mà tôi trợ giúp đang sống một cuộc sống anh hùng. Họ có rất ít tiền, không xe hơi, không tài khoản tiết kiệm và đầy gánh nặng trách nhiệm. Mặc dù vậy họ rất sùng tín, rất tích cực trong cộng đồng, bỏ nhiều thời gian để nuôi dạy trẻ em và rất sẵn sàng dấn thân cũng như giúp đỡ người khác.

Phần lớn mọi người không biết đến những cư dân này do những người kém may mắn đó là người Mỹ gốc Phi và họ không sống trong “dự án”.

Thậm chí sau một ngày mệt mỏi chăm sóc những trẻ nhỏ, đưa những trẻ lớn hơn tới trường và đón về, tìm cách mặc cả để ngân sách nhỏ bé của họ vừa đủ, giặt giũ, làm các công việc nhà thờ và cầu nguyện, dọn dẹp và nhiều việc khác, họ sẵn sàng tới cuộc họp ở Nhà Hy Vọng hay St. Alphonsus để học chương trình giáo dục phổ cập (GED), cùng với những người khác dọn dẹp trong cộng đồng hay tuần hành đòi cải thiện nhà ở hoặc quyền bầu cử. 

Tôi hỗ trợ họ bởi vì tôi có thể đọc và viết tốt hơn họ. Nhưng tôi cũng học được rất nhiều điều về sự quan trọng của gia đình, sự rộng lượng, tính quyết đoán, sự can đảm, chia sẻ và lòng thành kính.

Tôi hiểu rằng những bà mẹ và bà nội/ngoại đó đang dạy và truyền cảm hứng cho tôi. Tôi giúp đỡ họ nhưng họ cũng giúp đỡ tôi.

Đây là câu thành ngữ của người dân bản địa Australia, “Nếu bạn phải tới giúp tôi thì bạn đang lãng phí thời gian. Nhưng nếu bạn phải tới bởi vì tự do của bạn được ràng buộc với tôi, thế thì chúng ta hãy cùng đấu tranh”. 

Tôi tới St. Thomas để giúp đỡ những người nghèo. Nhưng tôi ở lại đó bởi vì tôi thấy rằng mình cần tự do cũng như họ cần. Bằng cuộc sống của bản thân, họ đã dạy tôi về tự do, hy vọng và tình yêu. Những bà mẹ và bà nội/ngoại là những người thầy tốt nhất mà tôi từng có. Chúng tôi đã cùng nhau hoàn thành việc đấu tranh cho công lý.

Bill Quigley là giảng viên tại trường Luật của đại học Loyola New Orleans.