Tuesday, March 11, 2014

Mỹ đã hỗ trợ phát xít, khủng bố và các trùm ma túy tại 35 quốc gia trên thế giới

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "35 Countries Where The U.S. Has Supported Facists, Drug Lords and Terrorists"  của nhà báo nổi tiếng Nicolas J. S. Davies chuyên viết về chiến tranh, quân sự và luật quốc tế. Bài viết cung cấp cái nhìn ngắn gọn và khái quát về sự hỗ trợ của Mỹ cho các chế độ phát xít, khủng bố và các trùm buôn lậu ma túy trên khắp thế giới. Tuy vậy, cũng còn rất nhiều quốc gia khác chưa được đưa vào danh sách này, như: Angola, Australia, Bolivia, Brunei, Canada, Congo, Diego Garcia, Dominican Republic, Fiji, Grenada, Hawaii, Jamaica, Venezuela, Việt Nam. Việc Mỹ tuyển dụng các thành phần phát xít tại các quốc gia bại trận như Italia, Đức, Nhật Bản sau thế chiến thứ II để đàn áp phong trào cộng sản cũng không được tác giả trình bày. 

Đảng cực hữu Svoboda và đám phát xít mới đầy bạo lực có vũ trang được Mỹ hậu thuẫn đã mở đường cho cuộc đảo chính do phương Tây giật dây. Các sự kiện ở Ukraina đang cho chúng ta thấy sự thật ẩn phía sau những luận điệu tuyên truyền của Mỹ về cuộc chiến chống khủng bố, phát xít và ma túy. Sự thật xấu xí phía sau tấm gương là chính phủ Mỹ đã có truyền thống kéo dài và liên tục hợp tác với phát xít, các chế độ độc tài, các trùm ma túy và tài trợ cho khủng bố ở khắp các khu vực trên thế giới mặc dù họ luôn lảng tránh trả lời câu hỏi tàn nhẫn ấy. Các chư hầu và tay sai của Mỹ đã can dự vào những tội ác khủng khiếp nhất mà loài người từng biết đến, từ giết chóc và tra tấn cho đến đảo chính và diệt chủng. Dòng sông máu từ các vụ tàn sát và phá hoại chảy theo dấu chân của Lầu Năm Góc và Nhà Trắng. Nhà sử học Gabriel Kolko vào năm 1988 đã chỉ ra, "Quan niệm về tay sai lương thiện là mâu thuẫn. Washington đã thất bại trong việc tạo ra điều đó ở bất cứ nơi nào trên thế giới kể từ năm 1945". Dưới đây là trình bày ngắn theo thứ tự từ A tới Z về lịch sử của sai lầm đó.

1. Afghanistan

Trong những năm 1980, Mỹ đã hợp tác với Pakistan và Arab để lật đổ nhà nước xã hội chủ nghĩa Afghanistan. Họ đã cung cấp tài chính, huấn luyện và vũ trang cho lực lượng quân sự của các thủ lĩnh bộ tộc bảo thủ. Những tiến bộ của quốc gia này trong giáo dục, bảo vệ quyền của phụ nữ và cải cách đất đai đe dọa quyền lực của các thủ lĩnh bộ tộc. Sau khi Mikhail Gorbachev rút quân đội Liên Xô vào năm 1989, những thủ lĩnh quân sự được Mỹ chống lưng đã chia quốc gia thành nhiều mảnh và gia tăng sản lượng thuốc phiện từ 2000 tấn lên 3400 tấn mỗi năm. Chính quyền Taliban giảm được sản lượng thuốc phiện xuống 95% trong khoảng thời gian 1999-2001, nhưng vào năm 2001 Mỹ đã xâm lược quốc gia này để khôi phục quyền lực của các thủ lĩnh quân sự và trùm ma túy. Afghanistan đang đứng thứ 175/177 trên thế giới về nạn tham nhũng, 175/186 về phát triển con người, và từ năm 2004 sản xuất 5300 tấn thuốc phiện mỗi năm. Người anh em của tổng thống Karzai, Ahmed Wali Karzai, là trùm ma túy được CIA hậu thuẫn. Sau suộc tấn công lớn của Mỹ vào tỉnh Kandahar năm 2011, đại tá Abdul Razziq được phong chức cảnh sát trưởng tỉnh này, việc gia tăng các hoạt động buôn lậu heroin đã đem lại cho ông ta 60 triệu USD mỗi năm tại cái nơi nghèo nhất thế giới.


2. Albania


Giữa năm 1949 và 1953, Mỹ và Anh âm mưu lật đổ chính quyền Albania, quốc gia cộng sản nhỏ nhất và dễ bị tổn thương nhất ở Đông Âu. Những kẻ lưu vong được tuyển dụng và huấn luyện để gửi về Albania đóng vai phe đối lập và chuẩn bị cho nổi dậy vũ trang. Rất nhiều trong số những kẻ lưu vong tham gia vào kế hoạch đó là tay sai của phát xít Đức và Italy trong thế chiến thứ II. Trong đó có cựu bộ trưởng nội vụ Xhafer Deva, kẻ đã giám sát quá trình đưa "Người Do thái, Cộng sản, yêu nước và các cá nhân đáng lưu ý khác" đến trại tập trung Auschwitz. Các tài liệu được giải mật của Mỹ cho biết Deva chỉ là một trong số 743 tội phạm chiến được Mỹ tuyển dụng sau chiến tranh.

3. Argentina

Tài liệu được Mỹ giải mật năm 2003 về cuộc trao đổi chi tiết giữa bộ trưởng ngoại giao Mỹ Henry Kissinger và ngoại trưởng Argentina đô đốc hải quân Guzzetti vào tháng 10 năm 1976, ngay sau khi chính quyền quân sự nắm quyền ở Argentina, cho biết Kissinger chấp nhận "cuộc chiến bẩn thỉu" của chính quyền quân sự, cuộc chiến đã giết hại 30'000 người mà phần lớn là trẻ tuổi, đánh cắp 400 trẻ em khỏi các gia đình mà bố mẹ của chúng đã bị giết hại. Kissinger nói với Guzzetti, "Hãy nhìn xem, về cơ bản là chúng tôi muốn anh thành công...càng nhanh thì càng tốt". Đại sứ Mỹ tại Buenos Aires báo cáo rằng Guzzetti "quay về với trạng thái hân hoan, hài lòng rằng không có vấn đề nào với chính phủ Mỹ về chuyện đó" ("Daniel Gandolfo", "Presente!" 

4. Brazil

Năm 1964, tướng Castelo Branco đảo chính lập lên chính quyền độc tài quân sự tàn bạo kéo dài suốt 20 năm. Tùy viên quân sự Mỹ Walter Vernon, sau này là phó giám đốc CIA và đại sứ tại Liên Hiệp Quốc, vốn đã quen biết Castelo Branco ở Italia từ thế chiến thứ II. Do là nhân viên bí mật của CIA nên các tin tức Walter thu thập được từ Brazil không bao giờ được giải mật, nhưng CIA đã cung cấp mọi sự hỗ trợ cần thiết để đảm bảo vụ đảo chính thành công, bao gồm tài trợ cho các nhóm sinh viên và lao động đối lập trong biểu tình đường phố, giống như ở Ukraina và Venezuela hiện nay. Lực lượng lính thủy đánh bộ đã chờ sẵn để đổ bộ vào Sao Paolo trong trường hợp cần thiết. Giống như các nạn nhân khác trong những cuộc đảo chính được Mỹ hậu thuẫn ở châu Mỹ Latin, tổng thống dân cử Joao Goulart là một chủ đất giàu có, không phải là cộng sản, nhưng nỗ lực của ông ta nhằm duy trì vị thế trung lập trong chiến tranh lạnh là không thể chấp nhận được đối với Washington, cũng giống như trường hợp tổng tống thống Yanukovich từ chối chuyển giao Ukraina cho phương Tây 50 năm sau đó.
  
5. Cambodia

Khi tổng thống Nixon ra lệnh ném bom bí mật và bất hợp pháp Cambodia vào năm 1969, các phi công Mỹ đã được yêu cầu làm sai lệch các báo cáo để che dấu tội ác. Họ đã giết hại ít nhất là nửa triệu người Cambodia, ném một khối lượng bom lớn hơn cả khối lượng bom ném xuống Nhật Bản và Đức cộng lại trong thế chiến thứ II. Khi Khmer đỏ giành được chính quyền năm 1973, CIA báo cáo rằng "tuyên truyền có hiệu quả nhất đối với người tị nạn là các vụ ném bom của máy bay B-52". Sau khi Khmer đỏ giết hại ít nhất 2 triệu người và bị quân đội Việt Nam đánh bại năm 1979, tổ chức Cứu Trợ Khẩn Cấp Cambodia của Mỹ, dựa vào đại sứ quán Mỹ tại Bangkok, đã nuôi dưỡng và hỗ trợ Khmer đỏ để tiếp tục chống lại chính phủ mới của Cambodia do Việt Nam hậu thuẫn. Dưới sức ép của Mỹ, Chương Trình Lương Thực Thế Giới đã cung cấp lương thực cho 20.000 đến 40.000 lính Khmer đỏ. Suốt một thập kỷ sau đó, cơ quan tình báo quân đội Mỹ đã giúp Khmer đỏ do thám qua vệ tinh, đồng thời các lực lượng đặc nhiệm của Mỹ và Anh hướng dẫn Khmer đỏ đặt hàng triệu quả mìn bộ binh khắp miền Tây Cambodia, thứ đó đã giết hại và làm bị thương hàng trăm người mỗi năm.

6. Chile

Khi Salvador Allende trở thành tổng thống vào năm 1970, tổng thống Nixon thề sẽ "bắt nền kinh tế Chile phải than khóc". Mỹ, vốn là đối tác thương mại lớn nhất của Chile, đã cắt giảm buôn bán tạo ra tình trạng khan hiếm và hỗn loạn kinh tế. CIA và bộ ngoại giao đã thực hiện chiến dịch tuyên truyền phá hoại ở Chile trong suốt một thập kỷ, tài trợ cho các chính khách bảo thủ, các đảng phái, các công đoàn, các nhóm sinh viên và tất cả các dạng truyền thông, trong khi mở rộng mối quan hệ với quân đội. Sau khi tướng Pinoche lên nắm quyền, CIA tiếp tục trả lương cho các sĩ quan người Chile và hợp tác chặt chẽ với cơ quan tình báo Chile DINA trong việc chính phủ quân sự giết hại giết hại hàng ngàn người và bỏ tù cũng như tra tấn hàng chục ngàn người khác. Chưa hết, nhóm "Các chàng trai Chicago", bao gồm hơn 100 sinh viên Chile được gửi tới đại học Chicago theo một chương trình của bộ ngoại giao để nghiên cứu kinh tế dưới sự hướng dẫn của học giả nổi tiếng Milton Friedman, tiến hành một chương trình tư nhân hóa cực đoan với các chính sách tự do mới và phi kiểm soát, khiến cho nền kinh tế của Chile phải tiếp tục than khóc trong suốt 16 năm của chế độ độc tài quân sự Pinochet.

7. China

Cuối năm 1945, 100.000 lính Mỹ sát cánh cùng với quân đội Quốc Dân đảng của Trung Quốc (và Nhật Bản) trong khu vực do những người cộng sản kiểm soát ở miền Bắc Trung Quốc. Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng là thành phần tha hóa nhất trong số những đồng minh của Mỹ. Các cố vấn Mỹ đã thường xuyên cảnh báo rằng hàng cứu trợ của Mỹ bị Tưởng và các sĩ quan thân tín lấy trộm, một số hàng ăn cắp thậm chí còn bị bán cho Nhật Bản, nhưng Mỹ vẫn tiếp tục hỗ trợ Tưởng suốt cuộc chiến cho tới khi Tưởng bị người cộng sản đánh bại và khi ông ta cai trị Đài Loan. Chính sách bên miệng hố chiến tranh của bộ trưởng ngoại giao Dulles để bảo vệ Tưởng lần thứ hai đã khiến cho Mỹ bị đẩy đến miệng hố chiến tranh hạt nhân với Trung Quốc để giữ hai hòn đảo nhỏ Matsu và Qemoy ngoài khơi Trung Quốc vào năm 1955 và 1958.

8. Colombia

Khi đặc nhiệm Mỹ và Cơ quan Bài trừ Ma túy giúp Colombia theo dõi và hạ sát trùm ma túy Pablo Escobar, họ đã hợp tác với một nhóm trật tự được gọi là Los Pepes. Vào năm 1997, Diego Murillo-Bejarano và các lãnh đạo khác của Los Pepes đã lập ra tổ chức lực lượng phòng vệ thống nhất Colombia (AUC), tổ chức này chịu trách nhiệm về 75% số thường dân chết tại Colombia trong 10 năm tiếp đó.

9. Cuba

Mỹ đã hỗ trợ cho chế độ độc tài Batista, chế độ tạo ra tình trạng khủng khiếp khiến Cách mạng Cuba nổ ra, giết hại khoảng 20'000 người. Cựu đại sứ Mỹ Erl Smith khai tại Quốc hội rằng, "nước Mỹ có ảnh hưởng rất lớn tại Cuba, đại sứ Mỹ là người quan trọng thứ hai ở Cuba, đôi khi quan trọng hơn cả tổng thống Cuba". Sau cách mạng, CIA tiến hành chiến dịch khủng bố quy mô chống lại Cuba, đào tạo các phẩn tử lưu vong người Cuba tại Florida, Trung Mỹ và nước Cộng hòa Dominica để ám sát và phá hoại ở Cuba. Các chiến dịch chống Cuba được CIA hậu thuẫn bao gồm cả âm mưu chiếm đóng Vịnh Con Lợn, khiến 100 người Cuba lưu vong và 4 người Mỹ bị giết; nhiều âm mưu ám sát Fidel Castro và ám sát thành công các quan chức khác; vụ đặt bom năm 1960 (3 người Mỹ bị giết và 2 bị bắt) và các vụ đánh bom khủng bố nhằm vào khách du lịch năm 1997; vụ đánh bom tàu của Pháp tại cảng Havana (ít nhất 75 người chết); vụ tấn công sinh học bằng virus bệnh cúm khiến nửa triệu con lợn chết; và vụ đánh bom máy bay Cuba (78 người chết) của Luis Posada Carriles và Orlando Bosch, hai kẻ này vẫn tự do tại Mỹ bất chấp việc Mỹ tiến hành cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố. Bosch đã được tổng thống Bush ân xá.

10. El Salvador

Cuộc nội chiến nổ ra ở El Salvador năm 1980 là cuộc nổi dậy chống lại chính phủ cai trị bằng bạo lực. Ít nhất 70'000 người đã bị giết và hàng ngàn người bị mất tích. Ủy ban Sự thật của Liên Hiệp Quốc điều tra sau cuộc chiến cho biết 95% người chết là do bị quân đội của chính quyền và các biệt đội tử thần giết hại, chỉ có 5% là do du kích FLMN. Quân đội của chính quyền chịu trách nhiệm về các vụ thảm sát được CIA, đặc nhiệm Mỹ cũng như các trường quân sự Mỹ thiết lập, đào tạo, trang bị và giám sát. Ủy ban Sự thật của Liên Hiệp Quốc đã phát hiện ra các đơn vị có những tội ác tồi tệ nhất, như Atlacatl Battalion, thủ phạm của vụ thảm sát tai tiếng El Mozote, được giám sát chặt chẽ chẽ bởi cố vấn Mỹ. Vai trò của Mỹ trong chiến dịch khủng bố quy mô quốc gia được các quan chức quân sự cấp cao Mỹ tổng kết thành mô hình "chống phản loạn" cho Colombia và những nơi khác khi mà cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ đem đến bạo lực và hỗn loạn khắp thế giới.

11. France

Tại Pháp, Italia, Hy Lạp, Đông Dương, Indonesia, Triều Tiên và Philippine vào cuối thế chiến thứ II, quân đồng minh nhận thấy lực lượng kháng chiến cộng sản đã giành được quyền kiểm soát các khu vực lớn, thậm chí là toàn bộ quốc gia khi quân đội Đức và Nhật Bản đầu hàng. Tại Marseille, công đoàn cộng sản CGT kiểm soát các bến tàu gây ra trở ngại đối với thương mại với Mỹ và kế hoạch Marshall. OSS đã hợp tác với mafia Mỹ-Sicilly và gangster đảo Cors trong thời kỳ chiến tranh. Sau khi OSS sáp nhập vào CIA, họ giúp băng đảng gangster đảo Cors nắm lấy quyền lực ở Marseille, nhằm bẻ gẫy các cuộc đình công tại bến cảng cũng như sự kiểm soát của CGT. CIA đã bảo vệ gangster đảo Cors khi chúng thiết lập các phòng điều chế heroin và chuyển heroin đến New York, nơi mà mafia Mỹ-Sicily cũng hoạt động dưới sự che chở của CIA. Nguồn cung bị gián đoạn do chiến tranh và Cách mạng Trung Quốc đã giảm số lượng người nghiện heroin ở Mỹ xuống 20.000 năm 1945 và nghiện ma túy gần như đã biến mất, nhưng mối quan hệ tai tiếng của CIA với Pháp đã tạo ra một làn sóng nghiện ngập mới, tội phạm có tổ chức và bạo lực liên quan đến buôn bán ma túy ở New York và các thành phố khác ở Mỹ.

12. Ghana

Hiện nay dường như không có lãnh đạo quốc gia giàu cảm hứng nào ở Châu Phi, đó có thể là sai lầm của Mỹ. Vào năm 1950 và 1960, đã từng có một ngôi sao sáng ở Ghana: Kwame Nkrumah. Ông là thủ tướng dưới thời người Anh cai trị từ năm 1952 đến 1960, khi Ghana độc lập thì ông trở thành tổng thống. Đó là một người xã hội chủ nghĩa, quốc gia liên Phi, chống đế quốc, vào năm 1965 ông viết một cuốn sách lấy tên là "Chủ nghĩa thực dân mới: Giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa đế quốc". Nkrumah bị CIA lật đổ trong cuộc đảo chính năm 1966. CIA đã phủ nhận mọi liên quan nhưng báo chí Anh đưa tin có 40 sĩ quan CIA hoạt động tại đại sứ quán Mỹ "cung cấp hào phóng cho các kẻ thù bí mật của tổng thống Nkrumah" và công việc của họ "đã được thưởng công đầy đủ". Cựu sĩ quan CIA John Stockwell tiết lộ thêm về vai trò quyết định của CIA trong vụ đảo chính với cuốn sách "In Search of Enemies".

13. Greece

Khi quân đội Anh đặt chân lên Hy Lạp vào tháng 10 năm 1944 thì ELAS-EAM, tổ chức yêu nước cánh tả được Đảng Cộng sản lập trong thời kỳ chiếm đóng của Italia và Đức, đã kiểm soát quốc gia. ELAS-EAM chào đón quân đội Anh, nhưng người Anh từ chối hợp tác với họ và thiết lập chính phủ bao gồm những phần tử bảo hoàng và tay sai của phát xít. Khi ELAS-EAM tổ chức một cuộc biểu tình lớn ở Athen, cảnh sát đã bắn vào đoàn biểu tình và giết chết 28 người. Người Anh tuyển dụng các thành viên của các đơn vị an ninh được phát xít huấn luyện để hạ sát và bắt giữ các thành viên của ELAS, những người một lần nữa phải cầm vũ khí để kháng chiến. Năm 1947, cuộc nội chiến leo thang, người Anh phá sản đã yêu cầu người Mỹ thay thế họ ở Hy Lạp. Vai trò của Mỹ trong việc hỗ trợ chính quyền phát xít ở Hy Lạp được mô tả trong "Học thuyết Truman", được nhiều sử gia coi là khởi đầu của chiến tranh lạnh. Các chiến binh ELAS-EAM buông vũ khí năm 1949 sau khi Nam Tư ngừng hỗ trợ, 100'000 người đã bị xử tử, lưu đày hay bỏ tù. Thủ tướng độc lập Georgios Panpadreou bị lật đổ trong cuộc đảo chính được CIA hậu thuẫn năm 1967, dẫn đến chế độ cai trị quân sự kéo dài hơn 7 năm. Con trai ông ta Andreas là người "xã hội chủ nghĩa" đầu tiên được bầu làm tổng thống năm 1981, nhưng rất nhiều thành viên của ELAS-EAM bị bỏ tù những năm 1940 không bao giờ được trả tự do và đã chết trong tù.

14. Guatemala

Sau chiến dịch lật đổ một chính quyền nước ngoài đầu tiên ở Iran 1953, CIA tiến hành chiến dịch khác để lật đổ chính quyền dân cử độc lập của Jacobo Arbenz ở Guatemala năm 1954. CIA đã tuyển dụng và đào tạo một đơn vị lính đánh thuê nhỏ dưới sự chỉ huy của một người Guatemala lưu vong tên là Castillo Armas để chiếm đóng Guatemala, với 30 máy bay Mỹ không mang phù hiệu để hỗ trợ đường không. Đại sứ Mỹ Peurifoy chuẩn bị danh sách những người Guatemala cần xử tử, Armas được chỉ định làm tổng thống. Triều đại khủng bố sau đó đã dẫn đến cuộc nội chiến kéo dài 40 năm, có ít nhất 200'000 người đã bị giết, phần lớn là thường dân. Đỉnh điểm của cuộc chiến là chiến dịch diệt chủng ở Ixil của tổng thống Rios Montt, ông ta bị tuyên án tù chung thân vào năm 2013 vì vụ diệt chủng đó nhưng sau đó Tòa án Tối Cao Guatemala đã vô hiệu hóa bản án về mặt kỹ thuật. Phiên tòa mới sẽ được mở lại vào năm 2015. Tài liệu giải mật của CIA cho thấy chính quyền Reagan đã được cảnh báo về các hoạt động diệt chủng của lực lượng quân sự Guatemala khi chấp thuận viện trợ quân sự năm 1981, bao gồm các xe quân sự, linh kiện máy bay trực thăng và cố vấn quân sự. Các tài liệu chi tiết của CIA về vụ thảm sát cũng như phá hủy các làng mạc, đã kết luận: "Báo cáo cho thấy quân đội tin rằng toàn thể người dân da đỏ ở Ixil ủng hộ quân du kích của người nghèo (EGP) đã tạo ra tình huống khiến quân đội không thể phân biệt được chiến binh và dân thường".

15. Haiti

Trong suốt hai trăm năm sau cuộc nổi loạn của nô lệ khai sinh ra quốc gia Haiti và đánh bại quân đội của Napoleon, những người dân phải chịu đựng cay đắng của Haiti cuối cùng cũng được lựa chọn chính quyền thật sự dân chủ được lãnh đạo bởi cha cố Jean Bertrand Aristide vào năm 1991. Nhưng chỉ sau tám tháng tại nhiệm, tổng thống Aristide đã bị lật đổ trong cuộc đảo chính quân sự được Mỹ hậu thuẫn, và tình báo bộ quốc phòng Mỹ (DIA) tuyển dụng lực lượng bán quân sự mang tên FRAPH để phá hoại phong trào Lavalas của Aristide ở Haiti. CIA trả lương cho thủ lĩnh FRAPH Emmanuel "Toto" Constant và vận chuyển vũ khí cho họ từ Florida. Khi tổng thống Clinton gửi lực lượng chiếm đóng tới để khôi phục lại quyền lực cho Aristide năm 1994, các thành viên FRAPH được quân đội Mỹ trả lương đã từ chối thi hành mệnh lệnh của Washington, CIA đã tiếp tục duy trì FRAPH như là lực lượng tội phạm để phá hoại Aristide và Lavalas. Sau khi Aristide được bầu làm tổng thống lần thứ hai năm 2000, một lực lượng gồm 200 đặc nhiệm Mỹ, 600 cựu thành viên FRAPH và những thành phần khác đã có mặt ở nước Cộng Hòa Dominica để chuẩn bị cho cuộc đảo chính lần thứ hai. Năm 2004, họ tiến hành chiến dịch tấn công gây bất ổn tại Haiti, tạo ra cớ để quân đội Mỹ tiến vào Haiti và hạ bệ Aristide.

16. Honduras

Vào năm 2009, đảo chính ở Honduras dẫn đến hàng loạt các vụ đàn áp và các biệt đội tử thần sát hại các chính khách đối lập, các nhà tổ chức công đoàn và nhà báo. Trong thời kì đảo chính, quan chức Mỹ phủ nhận mọi liên quan và sử dụng các xảo thuật từ ngữ để tránh cắt giảm viện trợ quân sự theo như yêu cầu của luật. Nhưng hai đường dây Wikileaks cho thấy đại sứ quán Mỹ là kẻ môi giới quyền lực chính trong việc dàn xếp kết quả vụ đảo chính và thiết lập chính quyền mới, cái chính quyền mà hiện giờ đang đàn áp và giết hại dân chúng.

17. Indonesia

Năm 1965 tướng Suharto giành lấy quyền lực từ tổng thống Sukarno dựa vào một cuộc đảo chính thất bại và một vụ thảm sát bừa bãi khiến ít nhất nửa triệu người đã bị giết. Các nhà ngoại giao Mỹ sau đó cung cấp một danh sách 5'000 đảng viên Đảng Cộng sản cần thủ tiêu. Quan chức chính trị Robert Marten đã nói: "Đó thực sự là sự hỗ trợ quan trọng đối với quân đội. Họ có thể đã giết rất nhiều người, tay tôi có thể đã dính nhiều máu, nhưng không phải mọi thứ đều tệ. Đây là lúc người ta phải nỗ lực trong thời điểm quyết định".

18. Iran

Iran có thể là trường hợp đáng lưu ý nhất trong các vụ đảo chính của CIA vì đã tạo ra các vấn để bất tận trong dài hạn đối với Mỹ. Năm 1953, CIA và cơ quan tình báo Anh MI6 lật đổ chính quyền dân cử của Mohammed Mossadegh. Iran quốc hữu hóa công nghiệp dầu mỏ bằng bỏ phiếu công khai tại Quốc hội, chấm dứt sự độc quyền khai thác dầu của Anh tại Iran. Người Anh chỉ trả cho Iran 16% lượng dầu như là tiền thuê mỏ. Suốt hai năm Iran phải chống lại việc người Anh phong tỏa đường biển và cấm vận kinh tế quốc tế. Sau khi tổng thống Eisenhower lên nắm quyền năm 1953, CIA đồng ý với yêu cầu can thiệp của Anh. Một số hoạt động đảo chính ban đầu thất bại khiến Shah và gia đình phải trốn sang Italy, CIA chi hàng triệu USD để mua chuộc các quan chức và trả cho gangster để gây bạo loạn trên đường phố Tehran. Mossadegh cuối cùng cũng bị lật đổ và Shah trở về nắm quyền, đó là chính quyền tay sai khát máu nhất cho phương Tây cho tới cuộc cách mạng Iran năm 1979.

19. Israel

Trước đây Mỹ sử dụng sức mạnh quân sự và quân sự, hệ thống tuyên truyền và vị trí thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc để vi phạm các luật lệ quốc tế mà không bị trừng phạt, thì nay họ sử dụng những công cụ đó để bảo vệ Israel khỏi bị truy tố vì các tội ác quốc tế. Từ năm 1966, Mỹ đã sử dụng quyền phủ quyết 83 lần, nhiều hơn bốn thành viên thường trực khác cộng lại, 42 trong số đó là cho các nghị quyết liên quan đến Israel và/hay Palestine. Ngay tuần trước, tổ chức Ân xá Quốc tế công bố một báo cáo cho thấy: "Quân đội Israel đã tỏ ra tàn nhẫn đối với đời sống con người qua việc giết hại nhiều thường dân Palestine, bao gồm cả trẻ em, trong khu vực Bờ Tây bị chiếm đóng suốt ba năm qua mà hoàn toàn không bị trừng phạt". Richard Falk, báo cáo viên chuyên trách của Liên Hiệp Quốc về Quyền Con Người trong các lãnh thổ bị chiếm đóng đã chỉ trích năm 2008 cuộc tấn công vào Gaza là "vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế", thêm vào đó các quốc gia như Mỹ đã "cung cấp vũ khí và hỗ trợ tình trạng thiết quân luật đồng lõa với tội ác". Luật Leahy buộc Mỹ phải cắt giảm viện trợ quân sự cho các lực lượng vi phạm nhân quyền, nhưng luật không bao giờ được thi hành để chống lại Israel. Chính quyền Israel tiếp tục xây dựng các khu tái định cư trên lãnh thổ bị chiếm đóng, điều đó vi phạm Hiệp Định Geneva thứ 4, trái với nghị quyết của Hội Đồng Bảo An vốn yêu cầu từ bỏ các lãnh thổ bị chiếm đóng. Nhưng Israel vẫn nằm ngoài vòng luật pháp, được bảo vệ bởi đồng minh Mỹ đầy quyền lực.

20. Iraq

Vào năm 1958, sau khi vương triều phong kiến do Anh hậu thuẫn bị tướng Abdul Qasim lật đổ, CIA đã thuê người thanh niên Iraq 22 tuổi có tên Saddam Hussein để ám sát vị tổng thống mới. Hussein và băng nhóm thất bại và phải trốn sang Lebanon, bị thương ở chân do một người cùng nhóm. CIA thuê cho ông ta một căn hộ ở Beirut và sau đó chuyển ông ta tới Cairo làm việc cho cơ quan tình báo Ai Cập. Ông ta thường xuyên đến đại sứ quán Mỹ. Qasim bị giết trong cuộc đảo chính của những người theo đảng Baath do CIA hậu thuẫn, giống như ở Guatemala và Indonesia, CIA đưa cho chính phủ mới danh sách gồm ít nhất 4'000 đảng viên Cộng sản cần thủ tiêu. Nhưng khi đã nắm được quyền lực thì chính phủ cách mạng của đảng Baath không làm tay sai cho phương Tây, họ quốc hữu hóa ngành công nghiệp dầu mỏ của Iraq, áp dụng chính sách ngoại giao Arab, xây dựng hệ thống giáo dục và y tế tốt nhất trong thế giới Arab. Năm 1979, Hussein trở thành tổng thống, đàn áp các đối thủ chính trị và tiến hành chiến tranh chống Iran. Tình báo quốc phòng Mỹ DIA cung cấp do thám vệ tinh để dẫn đường cho vũ khí hóa học mà phương Tây giúp Hussein chế tạo, Donald Rumsfeld và các quan chức Mỹ khác đã chào đón Hussein như là đồng minh chống lại Iran. Chỉ sau khi Iraq xâm lược Kuwait và Hussein trở thành kẻ thù thì hệ thống tuyên truyền của Mỹ mới gọi ông ta là "Hittler mới". Sau màn kịch Mỹ xâm lược Iraq vào năm 2003, CIA đã tuyển mộ 27 lữ đoàn "Cảnh sát đặc nhiệm", kết hợp lực lượng an ninh tàn bạo nhất của Hussein với nhóm vũ trang Badr do người Iran huấn luyện thành các biệt đội tử thần, giết hại hàng chục ngàn người mà phần lớn là đàn ông và con trai người Arab Hồi giáo dòng Sunni tại Baghdad và những nơi khác trong triều đại khủng bố vẫn còn tồn tại tới ngày nay.

21. Korea

Khi quân đội Mỹ tiến vào Triều Tiên năm 1945, họ được các quan chức của nước Cộng Hòa Nhân Dân Triều Tiên (KPR) chào đón, chính quyền được xây dựng bởi lực lượng kháng chiến đã tước vũ khí của quân Nhật đầu hàng, họ đã thiết lập luật lệ cũng như trật tự trên toàn lãnh thổ Triều Tiên. Tướng Hodge đã lật đổ họ và đặt nửa phần phía Nam của Triều Tiên dưới sự chiếm đóng của quân đội Mỹ. Ngược lại với Mỹ, quân đội Nga công nhận KPR, dẫn đến sự chia cắt lâu dài của Triều Tiên. Mỹ đưa phần tử lưu vong Triều Tiên Syngman Rhee lên làm tổng thống của Nam Triều Tiên vào năm 1948. Rhee trở thành nhà độc tài trong cuộc thánh chiến chống cộng sản, bắt giữ và tra tấn những người bị tình nghi là cộng sản, đàn áp đẫm máu các vụ nổi loạn, giết hại 100'000 người và định chiếm Bắc Triều Tiên. Ông ta là người phải chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh Triều Tiên và quyết định xâm lược Bắc Triều Tiên khi đã chiếm giữ Nam Triều Tiên. Cuối cùng ông ta đã bị buộc phải từ chức sau những cuộc biểu tình lớn của sinh viên năm 1960.

22. Laos

CIA bắt đầu cung cấp không vận cho quân đội Pháp ở Lào năm 1950, và tiếp tục can dự suốt 25 năm. CIA tổ chức ít nhất 3 cuộc đảo chính trong khoảng thời gian 1958-1960 để loại những người cánh tả Pathet ra khỏi chính quyền Lào. CIA đã hợp tác với các trùm ma túy cánh hữu người Lào như tướng Phoumi Nosavan, vận chuyển ma túy giữa Myamar, Lào và Việt Nam, và bảo vệ thế độc quyền buôn bán ma túy của ông ta tại Lào. Vào năm 1962, CIA tuyển dụng đội quân lính đánh thuê bí mật gồm 30'000 cựu binh của chiến tranh du kích từ Thái Lan, Triều Tiên, Việt Nam và Philippine để chống lại quân Pathet Lào. Rất nhiều lính Mỹ tại Việt Nam dính vào heroin, CIA dùng các chuyến bay của hãng hàng không Air America để vận chuyển ma túy từ lãnh thổ Hmong tại Cánh đồng Chum tới các phòng chế xuất heroin của tướng Vàng Pao tại Long Tieng và Vientian, rồi từ đó chuyển tiếp tới Việt Nam. Khi CIA thua quân Pathet Lào, Mỹ đã ném 2 triệu tấn bom xuống Lào, tương đương với mức độ ném bom Cambodia.

23. Libya

Cuộc chiến của NATO với Lybia được tổng thống Obama tóm tắt là phương pháp tiến hành chiến tranh "che dấu, yên lặng, không truyền thông". Chiến dịch ném bom của NATO được Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đánh giá một cách sai lệch là hữu hiệu để bảo vệ thường dân, và vai trò giấu mặt của đặc nhiệm phương Tây cũng như nước ngoài khác trên chiến trường đã hoàn toàn được che đậy, ngay cả khi đặc nhiệm Qatar (bao gồm các cựu binh đánh thuê ISI của Pakistan) tổ chức cuộc tấn công quyết định vào trụ sở Bab Al-Aziziya ở Tripoli. NATO đã thực hiện 7'700 cuộc không kích, 30'000 đến 100'000 người đã bị giết hại, các thành phố trung thành bị ném bom san phẳng và các bộ tộc bị thanh trừng, đất nước chìm trong hỗn loạn khi các đội quân Hồi giáo được phương Tây huấn luyện và trang bị vũ khí chiếm lấy lãnh thổ và các cơ sở dầu mỏ. Lực lượng vũ trang Misrata, do đặc nhiệm phương Tây huấn luyện và trang bị, là đội quân mạnh nhất và tàn bạo nhất. Khi tôi viết những dòng này, người biểu tình đã chiếm đóng tòa nhà Quốc hội ở Tripoli 4 hay 5 lần trong tháng, hai đại biểu dân cử đã bị bắn và bị thương khi chạy trốn.

24. Mexico

Con số người chết trong cuộc chiến ma túy ở Mexico đã vượt qua 100'000. Băng đảng ma túy tàn bạo nhất là Los Zetas. Quan chức Mỹ gọi tổ chức Zetas là "băng đảng nguy hiểm nhất, có ưu thế công nghệ nhất tại Mexico". Băng đảng Zetas được hình thành từ lực lượng an ninh do đặc nhiệm Mỹ huấn luyện tại các trường quân sự Mỹ ở Fort Benning, Georgia, và Fort Bragg, Bắc Carolina. 

25. Myanmar

Sau cuộc cách mạng Trung Quốc, các tướng Quốc Dân đảng chạy sang Myanmar và trở thành các trùm ma túy, dưới sự bảo trợ của quân đội Thái Lan, được Đài Loan cung cấp tài chính và được CIA hỗ trợ vận chuyển đường không. Sản lượng ma túy của Myanmar đã tăng từ 18 tấn năm 1958 lên 600 tấn năm 1970. CIA duy trì các lực lượng này để chống lại cộng sản Trung Quốc nhưng họ cũng đã biến vùng "tam giác vàng" thành nơi sản xuất ma túy lớn nhất thế giới. Phần lớn ma túy được vận chuyển bằng thú thồ hàng tới Thái Lan, từ đó CIA chuyển ma túy đến các xưởng chế xuất heroin ở Hong Kong và Malaysia. Việc buôn bán thay đổi vào khoảng năm 1970 khi đối tác của CIA là tướng Vàng Pao thiết lập các xưởng chế xuất mới ở Lào để cung cấp heroin cho lính Mỹ tại Việt Nam.

26. Nicaragua

Anastasio Somosa cai trị Nicargua như là tài sản riêng của ông ta trong suốt 43 năm với sự hỗ trợ vô điều kiện của Mỹ, ngay cả khi lực lượng Vệ Binh Quốc gia thực hiện các tội ác ngoài sức tưởng tượng từ thảm sát và tra tấn tới cướp bóc và cưỡng hiếp mà hoàn toàn không bị trừng phạt. Sau khi nhà độc tài bị cuộc cách mạng Sandinista lật đổ năm 1979, CIA đã tuyển dụng, huấn luyện và hỗ trợ cho lính đánh thuê "Contra" xâm lược Nicaragua đồng thời thực hiện các vụ khủng bố gây bất ổn. Năm 1986 Tòa án Quốc tế đã tuyên bố Mỹ có tội trong việc tấn công Nicaragua vì đã triển khai lực lượng Contra và phá hoại các cảng biển của Nicaragua. Tòa án yêu cầu Mỹ chấm dứt tấn công và bồi thường chiến tranh cho Nicaragua, nhưng người Mỹ không bao giờ thực hiện. Mỹ tuyên bố rằng không bị ràng buộc bởi các phán quyết của Tòa án Quốc tế, họ ngồi xổm lên luật pháp quốc tế.

27.Pakistan; 28.Saudi Arabia; 29. Turkey

Sau khi đọc những bài trước đây của tôi tại AlterNet về thất bại của cuộc chiến chống khủng bổ, cựu chuyên gia CIA và chống khủng bố của bộ ngoại giao Larry Johnson đã nói với tôi: "Vấn đề chính trong đánh giá nguy cơ khủng bố là xác định được nguồn tài trợ chính phủ". Khác với cách đây 20 năm, các trùm khủng bố lớn nhất hiện nay là Pakistan, Arab Saudi và Thổ Nhĩ Kỳ. Mặc dù là lực lượng cánh hữu/tân bảo thủ nhưng Iran không hoạt động, can dự hay tạo điều kiện cho khủng bố. Trong 12 năm qua, tổng cộng viện trợ quân sự của Mỹ cho Pakistan là 18,6 tỷ USD.  Mỹ đã đàm phán hợp đồng cung cấp vũ khí lớn nhất trong lịch sử với Arab Saudi. Còn Thổ Nhĩ Kỳ là thành viên dài hạn của NATO. Ba quốc gia đồng minh của Mỹ này là nhà tài trợ chính cho khủng bố trên khắp thế giới. 

30. Panama

Các quan chức cơ quan bài trừ ma túy Mỹ muốn bắt giữ Manuel Noriega năm 1971, khi ông ta đang là giám đốc cơ quan tình báo quân đội Panama. Họ đã đưa ra đủ bằng chứng về tội buôn bán ma túy của ông ta, nhưng đó là đặc vụ dài hạn và người cấp tin của CIA, cũng giống như các đặc vụ buôn ma túy khác của CIA từ Marseille tới Macao, không ai có thể động tới ông ta. Mặc dù bị sa thải tạm thời trong nhiệm kỳ của tổng thống Carter song ông ta vẫn nhận được ít nhất 100'000 USD mỗi năm từ ngân khố của Mỹ. Khi Noriega trở thành người cai trị Panama, giá trị của ông ta đối với CIA được nâng lên, qua báo cáo các cuộc họp với Fidel Castro và Daniel Ortega của Nicaragua, giúp Mỹ che giấu các cuộc chiến ở Trung Mỹ. Noriega dường như đã chấm dứt buôn bán ma túy vào khoảng năm 1985, trước khi Mỹ buộc tội ông ta năm 1988. Cáo buộc ấy là cái cớ để Mỹ xâm lược Panama năm 1989, mà mục đích chính của Mỹ là kiểm soát hoàn toàn Panama, cái giá phải trả là ít nhất 2000 người chết.

31. The Philippines

Kể từ khi Mỹ tiến hành cái được gọi là cuộc chiến chống khủng bố năm 2001, một lực lượng bao gồm 500 đơn vị đặc nhiệm hỗn hợp đã triển khai hoạt động ở miền Nam Philippine. Hiện nay với sự "dịch chuyển sang châu Á" dưới thời Obama, Mỹ đã tăng viện trợ quân sự cho Philippine, từ 12 triệu USD năm 2011 lên 50 triệu USD mỗi năm. Nhưng các nhà hoạt động nhân quyền Philippine cáo buộc rằng sự gia tăng viện trợ ấy đi cùng với sự gia tăng hoạt động của các biệt đội tử thần chống lại thường dân. Trong 3 năm qua đã có ít nhất 158 người bị các biệt đội tử thần sát hại.

32. Syria

Khi tổng thống Obama chấp thuận gửi vũ khí và thiết bị quân sự từ Libya cho "Quân đội Syria tự do" đóng ở Thổ Nhĩ Kỳ bằng các máy bay NATO không mang phù hiệu cuối năm 2011, ông ta đã tính toán rằng Mỹ và đồng minh có thể lặp lại thành công như việc lật đổ chính phủ Lybia. Tất cả các bên liên quan đều hiểu rằng Syria sẽ chìm trong một cuộc chiến đẫm máu kéo dài, cho dù họ có chơi kiểu gì thì kết quả vẫn sẽ như vậy, ngay cả khi 55% người Syria khi được hỏi đã trả lời là sẽ tiếp tục ủng hộ tổng thống Assad. Vài tháng sau, các nhà lãnh đạo phương Tây thay thế kế hoạch hòa bình của Kofi Annan bằng kế hoạch mà họ gọi là B "Những người bạn của Syria". Đó không phải là kế hoạch hòa bình mà là một sự mở rộng quy mô, cam kết hỗ trợ, tiền và vũ khí cho lực lượng jihad ở Syria để chắc chắn là họ từ bỏ kế hoạch hòa bình của Annan và tiếp tục chiến đấu. Sự thay đổi ấy đã đè nặng lên số phận của hàng triệu người Syria. Suốt hai năm qua, Qatar đã chi 3 tỷ USD vào mua sắm vũ khí, Arabia Saudi nhập vũ khí từ Croatia và phương Tây, đặc nhiệm hoàng gia Arab đã huấn luyện hàng ngàn phần tử cực đoan jihad, hiện giờ liên minh với al-Qaeda. Năm 2012 Hiệp định Geneva II đã cố gắng khôi phục kế hoạch hòa bình của Annan, song phương Tây yêu cầu sự thay đổi chính trị, có nghĩa là tổng thống Assad phải ngay lập tức từ chức, điều đó cho thấy các lãnh đạo phương Tây vẫn đánh giá chính phủ cao hơn hòa bình. Nói theo cách của Phyllis Bennis là Mỹ và đồng minh sẽ tiếp tục chiến đấu tới người Syria cuối cùng.

33. Uruguay

Các quan chức ngoại giao của Mỹ cộng tác với những người sẵn sàng kiếm tiền từ việc đồng lõa với tội ác của Mỹ trên khắp thế giới. Ở Uruguay năm 1970, khi lãnh đạo ngành cảnh sát Alejandro Otero từ chối cho Mỹ huấn luyện các sĩ quan cảnh sát cách tra tấn thì đã bị mất chức. Quan chức Mỹ bị cáo buộc trong vụ đó là Dan Mitrione, người này hợp tác với Văn Phòng An Toàn Công Cộng, một ban của Tổ chức Phát triển Quốc tế của Mỹ. Các bài huấn luyện của Mitrione được báo cáo là bao gồm tra tấn những người vô gia cư đến chết bằng dùi cui điện để dạy cho học viên biết cách làm việc.

34. Yugoslavia

NATO ném bom Nam Tư năm 1999 là tội ác chiến tranh tồi tệ vi phạm điều 2.4 Hiến Chương Liệp Hiệp Quốc. Khi ngoại trưởng Anh Robin Cook nói với ngoại trưởng Mỹ Albright rằng Anh gặp "vấn đề với luật sư" về vụ tấn công, bà ấy đã trả lời là Anh nên "kiếm luật sư mới", James Rubin phó ngoại trưởng của Albright đã tường thuật lại câu chuyện. Lực lượng địa phương tham gia vào cuộc chiến của NATO chống lại Nam Tư là Quân đội Giải phóng Kosovo (KLA), do Hashim Thaci lãnh đạo. Báo cáo năm 201 của Hội đồng Châu Âu và cuốn sách của Carla Del Ponte, cựu công tố của Tòa án Quốc tế tối cao về vụ Nam Tư, đã đưa ra cáo buộc cho thấy Thaci điều hành tổ chức tội phạm có tên là Drenica trong thời kỳ NATO chiếm đóng, tổ chức Drenica đã đưa 400 người Serb bị bắt giữ tới Albania để giết và lấy nội tạng đem bán. Hashim Thaci hiện giờ là thủ tướng trong Hội đồng Bảo trợ Kosovo của NATO.

35. Zaire

Patrice Lumumba, chủ tịch đương nhiệm của phong trào Liên Phi Quốc gia Congo, đã tham gia vào quá trình giành độc lập của Congo và trở thành thủ tướng dân cử đầu tiên của Congo năm 1960. Ông ấy bị lật đổ trong cuộc đảo chính được CIA hậu thuẫn của Joseph-Desire Mobutu, vốn là chỉ huy quân đội. Mobutu giao Lumumba cho phe ly khai và lính đánh thuê được Bỉ hậu thuẫn. Lumumba đã chiến đấu ở tỉnh Katanga và bị bắn trong một vụ đọ súng với lính đánh thuê Bỉ. Mobutu xóa bỏ bầu cử và tự phong mình làm tổng thống năm 1965, cai trị với chế độ độc tài trong suốt 30 năm. Mobutu giết hại các đối thủ chính trị bằng cách treo cổ công khai, tra tấn tới chết và biển thủ khoảng 5 tỷ USD mặc dù Zaire, cái tên được Mobutu thay cho Congo, là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới. Nhưng Mỹ tiếp tục ủng hộ Mobutu, ngay cả khi tổng thống Carter công khai giữ khoảng cách, Zaire vẫn nhận được 50% tổng số viện trợ quân sự của Mỹ cho khu vực châu Phi cận Sahara. Khi Quốc hội bỏ phiếu cắt giảm viện trợ quân sự thì Carter và giới doanh nghiệp lại tìm cách khôi phục lại. Chỉ cho tới những năm 1990 thì viện trợ của Mỹ mới bắt đầu giảm đi, cho tới khi Mobutu bị Laurent Kabila lật đổ năm 1997 và chết sau đó.

***
Đại tá Blair là giám đốc khu vực của trường quân sự Mỹ (SOA) từ năm 1986 đến năm 1989. Ông mô tả các chương trình huấn luyện đã được thấy ở SOA như sau: "Lý thuyết được giảng dạy là nếu học viên muốn có thông tin thì phải lạm dụng vũ lực, bắt giữ trái phép, đe dọa các thành viên trong gia đình và giết hại. Nếu học học viên không thể thu được thông tin cần thiết, hay không thể buộc ai đó ngậm miệng hoặc chấm dứt việc họ đang làm, thì phải ám sát họ-học viên phải ám sát họ với một trong số các biệt đội tử thần".


Câu trả lời tiêu chuẩn của các quan chức Mỹ đối với những tội ác có hệ thống mà tôi đã mô tả là những điều đó có thể xảy ra tại những thời điểm cụ thể trong quá khứ song không phản ánh trong dài hạn hay tiếp diễn trong chính sách của Mỹ. Trường quân sự Mỹ bị chuyển ra khỏi khu vực kênh đào Panama tới Fort Benning, Georgia, và được thay thế bằng Viện Hợp tác An ninh Western Hemisphere (WHINSEC) năm 2001. Nhưng Joe Blair có thể nói thêm điều gì đó về tổ chức ấy. Ông khai tại phiên điều trần của những người phản đối SOA năm 2002: "Hầu như không có sự thay đổi đáng kể ngoài tên gọi. Họ vẫn dạy các khóa học như tôi đã từng dạy và chỉ thay đổi tên khóa học, còn giáo trình vẫn như cũ".


Một khối lượng lớn đau khổ của loài người có thể tránh được cũng như nhiều vấn đề toàn cầu có thể giải quyết được nếu như Mỹ có thể đóng góp thiết thực vào nhân quyền và thi hành luật lệ, thay vì áp đặt một cách ích kỷ và đầy toan tính cho đối thủ nhưng không bao giờ đặt ra cho bản thân và đồng minh.


Saturday, March 8, 2014

Khủng hoảng kinh tế ở Ukraina: Quá khứ, hiện tại và tương lai

Đây là bản dịch bài viết "The Ukraine Economic Crisis: Past, Present and Future" của tiến sĩ kinh tế chính trị học Jack Ramus, hiện đang giảng dạy kinh tế và chính trị tại St. Mary's College California. Bản dịch này nhằm giới thiệu với bạn đọc blog một cái nhìn toàn cảnh và có chiều sâu hơn nữa về cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị hiện nay của Ukraina.

Nền kinh tế Ukraina đã suy sụp từ lâu-đó là một trong những nền kinh tế yếu kém nhất thế giới. Sự thật đó đã diễn ra trước khi có sự kiện ngày 20 tháng hai năm 2014 cũng như sự sụp đổ của chính quyền Yanukovich. Sự thật này càng trở nên rõ nét khi nền kinh tế tiếp tục xấu đi nhanh hơn trong những tuần tiếp theo. 

Những khuynh hướng của cuộc khủng hoảng kinh tế hiện tại ở Ukraina là gì? Đâu là nguồn gốc của nó trong những thập kỷ trước đây?

Từ năm 2000 cho đến "Cách mạng Cam" năm 2004, GDP bình quân đầu người của Ukraina thực sự đã tăng so với các nước láng giềng thuộc khối cộng đồng các quốc gia độc lập thuộc Liên Xô cũ (CIS), từ 61% lên 68%. Tuy vậy, từ năm 2004 trở lại đây GDP trên đầu người lại giảm chóng mặt từ 68% xuống 57% vào năm 2013. Nền kinh tế Ukraina rơi vào suy thoái năm 2013. Suy thoái kinh tế đã tăng tốc trong năm 2014, một số báo cáo đã dự đoán suy thoái sẽ làm GDP của Ukraina giảm 5-10% trong năm tiếp theo. Đó không còn là suy thoái mà là một cuộc khủng hoảng kiểu Hy Lạp. 

Cuộc khủng hoảng hiện thời không chỉ liên quan đến suy giảm của GDP thực và thu nhập bình quân. Thể hiện rõ nhất của cuộc khủng hoảng là sự phá giá nhanh chóng của đồng nội tệ và hơn nữa là sự thâm hụt dự trữ ngoại tệ đã gia tăng đáng kể, dự trữ ngoại tệ rất quan trọng đối với thương mại, để trả các khoản nợ quốc tế, và giúp ngân hàng trung ương can thiệp ngăn chặn sự phá giá của đồng nội tệ. Nếu đồng nội tệ phá giá và dự trữ ngoại tệ hạn chế thì cuộc khủng hoảng sẽ nhanh chóng lan rộng. Ukraina đã đến rất gần điểm đó.

Từ đầu năm đến nay, giá trị đồng nội tệ của Ukraina đã giảm tới 20% so với đồng USD. Điều đó có nghĩa là lạm phát đối với mọi mặt hàng nhập khẩu. Người Ukraina chi tiêu ít hơn, doanh nghiệp đầu tư ít hơn, và hệ quả là tăng trưởng kinh tế chậm. 

Sự phá giá của đồng nội tệ sẽ khiến ngân hàng trung ương phải tăng lãi suất trong nước, điều đó sẽ cản trở các động lực kinh tế khác, như tiêu dùng và đầu tư trong nước sẽ tiếp tục giảm sâu. Lãi suất tăng cũng làm chậm dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào Ukraina. 

Sự phá giá của đồng nội tệ càng trở nên trầm trọng dưới tác động của thâm hụt dự trữ ngoại tệ nhanh chóng. Ngoại hối là cần thiết để thanh toán các trái phiếu đến hạn cho nhà đầu tư nước ngoài. Không thanh toán có nghĩa là phá sản. Phá sản có nghĩa là không có các khoản vay tiếp theo, sản xuất bị cắt giảm, thất nghiệp gia tăng. Tổn thất dự trữ ngoại hối có nghĩa là không có tiền cho nhập khẩu các nguyên vật liệu sản xuất quan trọng và các hàng hóa tiêu dùng thiết yếu. Ngoại hối đang biến mất nhanh chóng ở Ukraina. Đầu tiên là vốn bị rút ra khỏi Ukraina khi người tiêu dùng, nhà đầu tư, doanh nghiệp chuyển đồng nội tệ thành ngoại tệ và gửi chúng ra nước ngoài để đảm bảo an toàn. Thứ hai là do ngân hàng trung ương Ukraina sử dụng để chống đỡ cho đồng nội tệ khỏi tiếp tục mất giá. 

Dự trữ ngoại hối của Ukraina được ước tính khoảng 20 tỷ USD dự trữ vào đầu năm 2014. Đến ngày 1 tháng 3 phương tây ước tính con số khoảng 12 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tiếp tục suy giảm có nghĩa là đồng nội tệ tiếp tục lao dốc, vốn tiếp tục chảy mạnh ra khỏi Ukraina và phần lớn nền kinh tế có thể rơi vào trạng thái ngưng trệ. 

Ước tính gần đây nhất cho thấy dự trữ ngoại tệ đã sụt mất 4 tỷ USD trong một tuần. Kịch bản xấu nhất xảy ra là các khoản nợ của những người nắm trái phiếu và cho vay phương Tây (chủ yếu là các ngân hàng của Áo và Italia) không được thanh toán sau đó lan sang các ngân hàng ở Ukraina và rủi ro lan sang châu Âu thông qua các ngân hàng Áo và Italia ngày càng rõ nét. 

Hiện đã có nhiều thảo luận về quy mô của gói "giải cứu" mà Ukraina cần từ phương Tây, tức là châu Âu, IMF và Mỹ. Bộ trưởng tài chính mới và ngân hàng trung ương Ukraina đề xuất một khoản 35 tỷ USD cho hai năm tới. Tuy vậy, đó là sự đánh giá thấp thực tế. Đồng nội tệ tiếp tục phá giá, các sự kiện chính trị hiện nay đang cho thấy điều đó, đồng nội tệ phá giá khiến cho giá trị khoản nợ phải thanh toán tăng lên. Phương Tây cần phải đưa ra gói cứu trợ 20 tỷ USD trước ngày 1 tháng 5 thay vì vào cuối năm. 

Tổng số nợ hiện nay của Ukraina được ước tính vào khoảng 80 tỷ USD. Nó sẽ nhanh chóng biến thành 100 tỷ USD vào mùa hè, và hơn nữa vào năm sau. 

Liệu các nhà tư bản châu Âu có quan tâm, và các nhà tư bản Mỹ bảo vệ châu Âu về mặt tài chính, cung cấp ngay lập tức cứu trợ ngắn hạn (20 tỷ USD) cũng như sẵn sàng mở tiếp hầu bao để cứu trợ cho khoản nợ 100 tỷ USD? Rất khó xảy ra.

Bước đầu IMF cho thấy sẽ cung cấp 27 tỷ USD, nhưng giải ngân trong 7 năm. Theo đúng kiểu các thỏa thuận với IMF thì phần lớn khoản tiền 27 tỷ USD sẽ được dùng để trả nợ các ngân hàng phương Tây trước tiên, để chắc chắn rằng họ được bảo vệ và bảo hiểm. Một phần nhỏ còn lại sẽ được dùng để kích thích kinh tế Ucraina, hoặc làm yên lòng các hộ gia đình bình thường. Mặt khác, các điều kiện của IMF (như các thỏa thuận của IMF đã thể hiện) sẽ rất tai hại đối với nền kinh tế. IMF đã tuyên bố chính thức là gói giải cứu chỉ sẵn sàng khi chính phủ Ukraina chấp nhận cắt giảm chi tiêu của chính phủ cũng như việc làm, trợ cấp hưu trí, đặc biệt là các khoản trợ cấp lớn đang cung cấp cho các hộ gia đình để bù đắp cho chi phí dầu và gas cao.

Ngoài IMF, Liên minh châu Âu (EU) không nói gì về hỗ trợ tài chính. Dường như Ba Lan và Hoa Kỳ đang tính toán điều gì đó. Nhưng Hoa Kỳ cũng bày tỏ sẵn sàng cho vay khẩn cấp 1 tỷ USD, mặc dù Bộ trưởng Bộ Ngoại giao John Kerry và thượng nghị sĩ phe diều hâu John McCain (người đích thân đến Maidan để làm náo động đường phố) đang co lại trong hậu trường để bàn các kế sách khác. Khó có thể tưởng tượng Obama và nước Mỹ sẽ cung cấp một điều gì đáng kể trong khi nước Mỹ đang sửa soạn cho cuộc bầu cử vào tháng 11 năm nay.

Một chuyên gia nghiên cứu hàn lâm có liên hệ với các ngân hàng và think tanks phương Tây, và là cựu cố vấn của chính phủ Ukraina, Anders Aslund, tiết lộ trong một bài xã luận gần đây trên tờ British Financial Times, khoản tiền cần thiết để hỗ trợ Ukraina đã bị hạ thấp, nhưng lại bắt người Ukraina gánh chi phí cứu trợ trắng trợn hơn-có thể nói rằng, cứu trợ sẽ yêu cầu một chương trình "thắt lưng buộc bụng" kiểu phương Tây đối với thường dân Ukraina. Theo đó người Ukraina phải chấp nhận ít việc làm hơn, lạm phát, mất các khoản trợ cấp khí đốt hào phóng cho hộ gia đình. Ukraina với khoản cứu trợ của IMF chắc chắn sẽ lặp lại cuộc khủng hoảng thắt lưng buộc bụng vẫn đang tiếp diễn ở Hy Lạp.

Một chủ đề thường được lặp đi lặp lại trên truyền thông và báo chí phương Tây là nền kinh tế Ukraina sụp đổ hoàn toàn do tham nhũng và sự vô dụng của chính quyền Yanukovich. Quan điểm đó bỏ qua một bức tranh rộng lớn hơn, chỉ mang tính chính trị, thậm chí mang tính chất hệ tư tưởng, phân tích nền kinh tế Ukraina cần phải rộng hơn là phân tích kinh tế thuần túy.

Khuynh hướng kinh tế không diễn ra trong một đêm, một tuần hay một tháng. Trên thực tế, GDP đầu người của Ucraina đã tăng đều đặn cho đến cuộc "Cách mạng Cam" năm 2004, sau đó đã giảm khi so sánh với các nước láng giềng. Lý do là cho đến năm 2004 thì nền kinh tế Ukraina gắn bó chặt chẽ với Liên bang Nga. Những nỗ lực phá vỡ quan hệ ấy dẫn đến một giai đoạn điều chỉnh với tăng trưởng chậm hơn, mặc dù Ukraina đã cố gắng hướng tới châu Âu trong giao dịch xuất khẩu và tài chính. Nền kinh tế suy yếu là một phần của quá trình chuyển đổi cấp tốc kể từ sau năm 2004. 

Nguyên nhân thứ hai tác động tiêu cực tới Ukraina là giá năng lượng, cũng là một hệ quả của việc phá vỡ mối quan hệ với Liên bang Nga sau năm 2004. Với dự trữ gas và dầu mỏ ít ỏi, khi thị trường dầu mỏ thế giới và lạm phát tăng vào giai đoạn 2006-2008, chủ yếu do các cartel dầu mỏ phương Tây và nhà đầu cơ toàn cầu, GDP của Ukraina đã bị giáng một đòn kinh tế nặng. Tiếp theo đó là tác động thứ ba, vào cuối năm 2008-2010, cuộc suy thoái kinh tế và đình trệ thương mại toàn cầu đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới Ukraina, do tăng trưởng kinh tế của Ukraina dựa trên xuất khẩu. 

Trong năm 2010, Ukraina đã nỗ lực hướng xuất khẩu và thương mại vào Tây Âu, song châu Âu lại rơi vào "suy thoái kép" lần thứ hai từ cuối năm 2010 cho đến 2013. Ngân hàng, doanh nghiệp và các nền kinh tế Tây Âu không thể tăng nhu cầu đối với hàng nhập khẩu từ Ukraina cũng như đầu tư ở quy mô lớn vào Ukraina. Chính bản thân châu Âu đã sa lầy trong cuộc khủng hoảng thứ hai và bận rộn với việc giải cứu các chính phủ và ngân hàng trong hệ thống (Hy Lạp, Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ireland, các nước vùng Baltic, Hungary...). Đầu tư ròng trong nội bộ châu Âu đã yếu và các khoản cho vay của ngân hàng trong phạm vi châu Âu cũng giảm xuống. Cung cấp các khoản vay và đầu tư trực tiếp cho Ukraina không phải là vấn đề ưu tiên trong chương trình nghị sự của châu Âu. Đối với lợi ích của châu Âu điều đó bất khả thi cả về mặt kinh tế lẫn chính trị. 

Trái ngược với tuyên bố công khai của các chính phủ cũng như ngân hàng Tây Âu về việc hỗ trợ tài chính cho Ukraina, từ sau ngày 20 tháng hai, thực tế cho thấy châu Âu không có khả năng cung cấp hỗ trợ tài chính dù là trên lời hứa. Thậm chí ngay cả Mỹ cũng vậy, họ chỉ lặng lẽ thuyết phục các chính phủ Tây Âu phía sau hậu trường rằng sẽ khôi phục các khoản trợ giúp tài chính để châu Âu có thể đóng góp vào Ukraina. Obama sẽ không mạo hiểm với một gói cứu trợ cho Ukraina ở bất cứ quy mô nào trong năm bầu cử của Mỹ.

Cũng giống như những nỗ lực tái cấu trúc nền kinh tế Ukraina sau năm 2004, cũng như bong bóng đầu cơ dầu mỏ năm 2006-2008, cũng như cuộc khủng hoảng kinh tế kép của châu Âu năm 2008-2009 và 2011-2013, sự sụp đổ của các thị trường mới nổi và đồng nội tệ của họ bắt đầu từ cuối mùa hè năm 2013 đã tạo ra tác động tiêu cực thứ tư đối với nền kinh tế Ukraina.

Khủng hoảng đồng nội tệ của các thị trường mới nổi làm giảm tăng trưởng kinh tế của họ và tạo ra dòng vốn chảy ngược về phương Tây, nền kinh tế Ukraina cũng chịu ảnh hưởng tương tự. Nếu những nền kinh tế như Brazil, Nam Phi và các nước khác-đã từng bùng nổ nhưng giờ đang suy thoái hoặc trì trệ-đã bị tàn phá nặng nề trong năm ngoái bởi sự thay đổi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương Mỹ, châu Âu và Nhật Bản, điều đó giải thích tại sao nền kinh tế Ukraina phải chịu không ít những ảnh hưởng tiêu cực trong năm qua. Nếu sự đảo ngược chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương Mỹ, Cục Dự Trữ Liên Bang, và các ngân hàng trung ương khác có hiệu lực, tạo ra hàng loạt gián đoạn lớn trong nền kinh tế của các thị trường mới nổi thì không có gì phải nghi ngờ khi nền kinh tế Ukraina phải chịu đựng những điều giống như vậy, ví dụ như: đồng nội tệ mất giá, rút vốn, giảm tỷ giá hối đoái, tăng trưởng kinh tế chậm. Ukraina thậm chí còn tệ hơn các thị trường mới nổi, như các sự kiện chính trị gần đây đã làm trầm trọng thêm các tác động đó.

Thêm vào đó có thể ghi nhận rằng khác với Brazil và các nước khác, Ukraina không được hưởng lợi từ dòng thác thanh khoản mà các ngân hàng trung ương phương Tây bơm ra để cứu các ngân hàng và tổ chức tài chính của họ sau năm 2008. Dòng tiền giá rẻ đã thúc đẩy các thị trường mới nổi một thời gian, cho đến năm ngoái. Hiện giờ, tiền bị thu về phương Tây theo sự thay đổi của chính sách tiền tệ. Do đó, năm ngoái nền kinh tế Ukraina đã cảm nhận được tác động tiêu cực trong sự thay đổi chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương trên toàn cầu giống như các thị trường mới nổi, trong khi chưa bao giờ thu được bất cứ lợi ích nào từ dòng tiền giá rẻ tràn ngập các thị trường mới nổi suốt thời kỳ 2008-2013. Ukraina là nạn nhân bất hạnh của một số khuynh hướng kinh tế dài hạn được đặt ra trong các quyết định chính trị vào năm 2004, rất lâu trước khi Yanukovich nhậm chức tổng thống. Ukraina cũng giống như các nền kinh tế khác là nạn nhân của bong bóng giá dầu mỏ giai đoạn 2006-2008. Họ cũng chưa bao giờ nhận được hỗ trợ xuất khẩu và đầu tư trực tiếp của Tây Âu do sụp đổ kinh tế và thương mại toàn cầu và do đợt suy thoái kinh tế kép của châu Âu giai đoạn 2011-2013. Sau cùng, Ukraina đang chịu một đòn nặng nề từ khủng hoảng của các thị trường mới nổi do sự thay đổi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương Mỹ.

Điều đó có nghĩa là cuộc khủng hoảng kinh tế Ukraina không thể đặt hoàn toàn vào lỗi của Yanukovich. Tham nhũng và các chính sách vô dụng của chính quyền Yanukovich có thể là một trong vô số các nguyên nhân khác nhau của các vấn đề kinh tế Ukraina hiện nay, nhưng dù sao các nguyên nhân lịch sử kinh tế lớn hơn cũng tham dự vào đó. Việc nền kinh tế Ukraina bị đột ngột cắt đứt khỏi Nga và sự quản lý yếu kém của tư bản phương Tây trong những thập kỷ qua (cú sốc giá dầu, khủng hoảng tài chính 2008, sự bất lực của các nước phương Tây trong việc phục hồi nền kinh tế bền vững sau năm 2008, khủng hoảng của các thị trường mới nổi hiện nay) là những điểm quan trọng để thấu hiểu tình trạng kinh tế của người dân Ukraina bình thường.

Các phân tích đã đưa ra không phải là lời biện hộ cho chính quyền Yanukovich về mặt kinh tế. Thay vào đó là một nỗ lực nhìn vào phía sau động cơ ý thức hệ và chính trị của những người đang lập luận ở phía Tây rằng người ta biểu tình tại quảng trường Maidan là do tham nhũng của chính quyền; hay họ biểu tình là do Yanukovich vô dụng hoặc ăn cắp của công. Đó là phân tích chính trị được chống đỡ bằng hệ tư tưởng của một phân tích kinh tế tồi.

Rõ ràng là các vấn đề kinh tế của Ukraina nằm sâu và sâu xa hơn nhiều. Nếu vấn đề kinh tế hiện nay là hậu quả của khủng hoảng kinh tế dài hạn của phương Tây từ sau năm 2008 và những thay đổi chính sách tiếp đó, thì có lẽ cần cân nhắc hai lần đối với bất kỳ giải pháp dài hạn nào (ngắn hạn chỉ có một) cho cuộc khủng hoảng kinh tế của Ukraina bắt nguồn từ các nền kinh tế phương Tây.

Cuộc khủng hoảng kinh tế ở các nước phương Tây vẫn chưa chấm dứt. Kinh tế châu Âu vẫn trì trệ, kinh tế Đức tăng trưởng chậm nhưng thu nhập từ xuất khẩu sang các nước trong liên minh châu Âu và Trung Quốc đang tăng chậm lại. Nước Anh đang mời chào một cách tuyệt vọng các nhà đầu tư siêu giàu trên thế giới mua bất động sản tại London để tạo bong bóng, đồng thời tán tỉnh Trung Quốc mang vốn tới xây dựng các cơ sở hạ tầng đã đổ nát của mình. Cùng lúc ấy, Nhật Bản bắt tay vào thực hiện chính sách tiền tệ kiểu "Cục Dự Trữ Liên Bang" chỉ để kích thích giá cả của các tài sản tài chính mặc cho nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng chậm. Chưa phải là hết, kể từ giữa năm 2013 phương Tây cố gắng giữ các động cơ tăng trưởng kinh tế tiếp tục hoạt động bằng cách hy sinh các nền kinh tế mới nổi. Châu Âu và Mỹ không có bất cứ khả năng nào để cứu trợ Ukraina một khoản từ 30-50 tỷ USD cho đến năm tới cho dù điều đó là cần thiết. 

Nếu phỏng đoán thì lý do Yanukovich chọn 15 tỷ USD từ Nga mặc dù thấp hơn con số hứa hẹn của châu Âu là con số mà châu Âu đưa ra quá thấp và đi kèm nhiều điều kiện thắt lưng buộc bụng của IMF. Hơn nữa, khả năng nhận cứu trợ năng lượng từ Nga cũng tốt hơn là trở thành đối tác bị tước đoạt với giá năng lượng cao của châu Âu. Đây không phải là sự biện hộ cho Yanukovich, mặc dù ông ta là cái gai về mặt kinh tế trong mắt Nga cũng như châu Âu, ông ta luôn tìm cách dùng bên này chống lại bên kia. Ông ta là một chính trị gia tuyệt vọng, quá phụ thuộc vào tiền bạc và sự hỗ trợ của đám tài phiệt ở Ukraina. Từ năm 2010, ông ta cố gắng chơi trò đu dây nhưng giờ đã bị ngã. 

Đối với Mỹ, cũng giống như Nga, trong ngắn hạn có thể tính toán giải ngân một khoản hỗ trợ thực nhỏ ngoài những hứa hẹn, như châu Âu và IMF đã hứa hẹn, để tác động tới cuộc bầu cử tại Ukraina vào tháng 5 tới đây.

Cả Mỹ và châu Âu đều muốn có các chính trị gia đáng tin cậy (và dễ bảo) trong Quốc hội và chính phủ Ukraina. Điều đó có nghĩa là các chính trị gia tuân theo chính sách kinh tế phương Tây và hội nhập Ukraina vào quỹ đạo kinh tế phương Tây. Hay nói cách khác, các chính khách phản ứng đúng đắn khi tài khoản cá nhân của họ ở Thụy Sĩ và Luxembourg bị đe dọa phong tỏa, như trong trường hợp những ngày ngay trước 20 tháng hai.

Canh bạc của phương Tây là họ hy vọng có thể loại bỏ được các lực lượng cực đoan, quốc gia quá khích, phát xít, sau khi đã sử dụng các lực lượng ấy để lật đổ chính quyền Yanukovich; hoặc ít nhất cũng có thể làm giảm ảnh hưởng của những thế lực đó đối với chính quyền mới. Nhưng công việc đó không hề đơn giản, họ sẽ thấy điều đó. Những gì mà phương Tây muốn là "các nhà tư bản thân hữu" của Yanukovich trong Quốc hội và chính phủ trưởng thành lên, chấm dứt dựa vào chủ nghĩa thân hữu và học cách trở thành nhà tư bản đáng kính trọng đối với phương Tây trong vai trò đối tác mới. 

Lưu ý sau cùng về hoàn cảnh chính trị: Chính sách đối ngoại của chính quyền Obama về cơ bản giống với chính sách đối ngoại của chính quyền George. W. Bush. Đó là chính sách của phe tân bảo thủ ở Mỹ, phe này đã cố thủ trong chính quyền Mỹ suốt thời kỳ tại chức của Obama. Không phải là ngẫu nhiên mà đầu mối liên lạc của Mỹ tại Ukraina trong suốt các sự kiện gần đây là Virginia Nuland. Nuland luôn là người thuộc phe tân bảo thủ và đã có nhiều năm trực tiếp làm cố vấn cá nhân cho "Vua của tân bảo thủ" ở Mỹ, cựu phó tổng thống Dick Cheney, trong suốt nhiệm kỳ của Bush. 

Chính sách của Mỹ không cung cấp lượng tiền mặt lớn mà Ukraina cần để hồi phục kinh tế. Các tập đoàn đa quốc gia cũng không gia tăng vốn đầu tư trực tiếp của họ vào Ukraina trong tương lai gần. Những gì mà các nhà kinh doanh đa quốc gia muốn không phải là các sản phẩm nông nghiệp hay cơ sở công nghiệp nhỏ ở miền Tây Ukraina; họ muốn các cơ sở công nghiệp ở phía Đông Ukraina. Họ muốn mua lại, điều chỉnh quy mô, và đưa các cơ sở công nghiệp ở phía đông Ukraina vào kế hoạch của công ty toàn cầu, đáp ứng cơn khát tái đầu tư. Nhưng chừng nào mà cuộc khủng hoảng chính trị còn tiếp diễn, sẽ có rất it các công ty đa quốc gia đầu tư trực tiếp vào Ukraina. 

Về dài hạn, nếu Mỹ và châu Âu bằng cách nào đó áp đặt chính trị cho cuộc bầu cử sắp tới của Ukraina thì nền kinh tế Ukraina sẽ hỗn loạn khủng khiếp hơn hiện nay. Đồng nội tệ của Ukraina sẽ gần như vô giá trị. Lạm phát sẽ tràn lan. Các hộ gia đình sẽ bị cắt trợ cấp của chính phủ. Tình trạng kinh tế tồi tệ, thắt lưng buộc bụng kiểu Hy Lạp, sẽ được thiết lập. Nhưng các ngân hàng phương Tây và doanh nghiệp đa quốc gia sẽ có vụ thu hoạch, theo cách nói của họ, mua lại các doanh nghiệp và cơ sở công nghiệp ở phía đông với giá rẻ, tái cấu trúc chúng lại cho phù hợp với kế hoạch kinh tế toàn cầu của họ.

Dường như nhiều người Ukraina vẫn chưa hiểu được nền tảng kinh tế và động cơ chính trị trong cuộc chơi ở Ukraina. Một mặt, họ không muốn chính  quyền "chủ nghĩa tư bản thân hữu" của Yanukovich, vốn chỉ phục vụ cho bản thân và đem lại rất ít ích lợi cho họ. Nhưng các nhà tư bản thân hữu vẫn trụ lại ở Kiev, trong Quốc hội và chính phủ, mặc dù Yanukovich đã chuồn mất; các nhà tư bản ấy chỉ đổi phe để bảo vệ lợi ích cá nhân (tất nhiên là cả các tài khoản tại các ngân hàng phương Tây cũng như các khoản đầu tư của họ khi chúng bị đe dọa phong tỏa). Do vậy, người Ukraina chỉ đánh đổi một nhóm kền kền kinh tế này lấy một nhóm kền kền kinh tế khác ở Kiev. Gã tài phiệt cây nhà lá vườn giờ đang tự làm mới mình trong mối quan hệ gần gũi hơn với phương Tây.

Mặt khác, nhiều người dân thường Ukraina đã hiểu thực tế. Theo như trích dẫn lời một người dân trả lời phỏng vấn trên đường phố Kiev, "Chúng tôi muốn những người mới có thể nói không với đám tài phiệt, không phải là những gương mặt cũ kỹ, tức là những tỷ phú kiểm soát các khối phiếu bầu trong Quốc hội" (New York Times, February 25, 2014). Thật không may, người Ukraina bình thường không kiểm soát được tình hình hiện nay. Các đảng phái phát xít đường phố đang áp đảo và dẫn dắt chiến lược bên ngoài, trong khi đám tư bản thân hữu bên trong nghị viện giống như cây vĩ cầm đang được chơi bởi lợi ích của phương Tây. Châu Âu và Mỹ có thể đang trong quá trình thống nhất chiến lược nội bộ về cuộc bầu cử sắp tới, nhưng họ có thể thấy việc kiểm soát các thành phần cực đoan, cực tả, và xóa bỏ vai trò thực tế của những thành phần đó trong chính phủ, khó khăn hơn nhiều so với họ nghĩ. Lịch sử tương tự với suy nghĩ của nhà tư bản Weimar Đức đầu những năm 1930, đám phát xít đường phố có thể kiểm soát, dường như có vẻ không phù hợp lắm với tình hình hiện nay. Cũng không phải là thừa khi lo ngại rằng các thành phần trên đường phố có thể đẩy tới tình thế đối đầu bằng quân sự.

Thật vậy, có lẽ điều lo ngại lớn nhất lúc này là các thành phần cực đoan đường phố có thể tạo đủ ảnh hưởng để đẩy chính phủ mới của Ukraina vào đối đầu quân sự trực tiếp với Nga trước cuộc bầu cử vào tháng năm-và trước khi ảnh hưởng của họ bị Mỹ và châu Âu vô hiệu hóa.
  

Wednesday, March 5, 2014

Lời thú tội của một con chiên

Một con chiên xưng tội với cha xứ:

- Thưa cha con đã phạm phải một tội lỗi vô cùng ghê ghớm.

Cha xứ từ tốn:

- Con hãy kể về tội lỗi đó đi.

Con chiên nói tiếp:

- Thưa cha, hôm đó chúng con theo cha đi biểu tình. Kế hoạch là một người bắt nhịp "Một, hai, ba!", sau đó tất cả sẽ cùng hô "Tự do tôn giáo!". Tình cờ thế nào con lại đứng cạnh một cô gái trẻ mặc một cái áo khoét cổ sâu khoe nguyên bộ ngực căng tròn và trắng muốt với cây thánh giá có hình chúa chịu nạn nằm ngay giữa khe ngực. Mỗi khi cô ấy thở, gò ngực phập phồng thì dường như chúa chịu nạn cũng phải rung lên...

Con chiên ngừng lại, cha xứ liền hỏi:

- Ngắm nhìn cái đẹp đâu phải là tội lỗi? Ta chưa thấy tội lỗi của con đâu cả.

Con chiên trả lời:

- Vâng thưa cha, đó là đoạn sau. Con bị bộ ngực ấy hút mất hồn, nên khi người ta bắt nhịp "Một, hai, ba!" thì con đã buột miệng hô: "Vú to!". Con xin sám hối tội lỗi của mình.

Cha cố nhỏ nhẹ:

- Nhân danh đức chúa trời, ta tha tội cho con vì con đã biết ăn năn sám hối.

Con chiên làm dấu rồi đứng dậy định ra về thì cha cố gọi lại:

- Này, con có số điện thoại của cô gái ấy không?

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí)

Chuyện về hội anh em dân chủ

Một lần hội anh em dân chủ họp tại nhà riêng. Một đại ca trong nhóm sai đàn em đi tìm gái để vui vẻ qua đêm. Khi sai đi có dặn lúc về phải dùng ám hiệu, nếu tìm được thì nói "dân chủ" còn không tìm được thì nói "nhân quyền".

Một lúc sau, đại ca đang nâng cốc chúc mừng sự nghiệp thắng lợi với đồng bọn nhìn thấy đàn em trở về liền quay ra hỏi: "Dân chủ hay nhân quyền?". Gã đàn em quên béng mất ám hiệu, liền nói: "Dân chủ với nhân quyền cái gì. Ca ve đang nằm trong phòng ấy!".

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí)

Wednesday, February 26, 2014

Sự phi lý của kinh tế học hiện đại

Khoa kinh tế học hiện đại tuyên bố đưa ra một sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố sản xuất và mỗi bên tham gia nhận được phần tương xứng với đóng góp của mình để thay thế khoa kinh tế chính trị cổ điển vốn đi sâu vào phân tích quá trình sản xuất nên đã gây ra những xung đột về lợi ích giữa lao động và tư bản.

Mô hình sản xuất của khoa kinh tế học hiện đại bao gồm hai yếu tố là lao động và vốn. Lý thuyết về năng suất biên của vốn đã bị chỉ ra là chứa đựng đầy những điều phi lý và bế tắc ở bài này. Phần lý thuyết về năng suất biên của lao động cũng phi lý không kém, nhưng khoa kinh tế học hiện đại đã lén lút thủ tiêu chủ đề này đi. Trong hầu hết các sách giáo khoa về kinh tế học ngày nay phần phân tích về năng suất biên của lao động đã bị cắt bỏ, chỉ còn có thể tìm thấy chúng trong sách giáo khoa về kinh tế học của Paul Samuelson. Lý do chủ yếu bởi vì Paul Samuelson là đại biểu chính của phái Keynes, để trình bày lý thuyết về thất nghiệp bắt buộc, vốn là hòn đá tảng trong lý thuyết tổng quát của Keynes, thì không thể nào không trình bày khái niệm năng suất biên của lao động.

Khoa kinh tế học mô tả khái niệm năng suất biên của lao động là số lượng sản phẩm tăng thêm khi tăng thêm một đơn vị lao động trong khi các yếu tố đầu vào khác không đổi. Ví dụ minh họa bằng bảng sau:

Tổng số lao động        Tổng sản phẩm   Sản phẩm biên  Giá trị sản phẩm biên 
          1                                  5                         0                              0
          2                                  9                         4                              16
          3                                 12                        3                              12       
          4                                 14                        2                              8

Giả định là giá của sản phẩm đầu ra là 4, để tối đa hóa lợi nhuận thì nhà tư bản sẽ thuê 4 nhân công với mức lương là 8, tức là tiền lương của người công nhân sẽ bằng với giá trị sản phẩm biên của người lao động cuối cùng được thuê. Có ba điểm phi lý xảy ra trong phân tích này.

Thứ nhất, khoa kinh tế học hiện đại không giải thích được tại sao năng suất biên của lao động lại giảm. Tổng số lượng sản phẩm do 2 người kết hợp làm ra lại ít hơn tổng số lượng sản phẩm do 2 người làm việc riêng lẻ, điều này chống lại mọi kinh nghiệm thực tế cũng như khoa học về lao động. 

Thứ hai, mỗi người công nhân được thuê đều chỉ nhận được tiền lương là 8, bất kể năng suất lao động, đóng góp của họ ra sao. Tức là tiền lương không bằng với giá trị sản phẩm mà họ tạo ra. Điều này phản lại nguyên tắc công bằng mà khoa kinh tế học theo đuổi.

Thứ ba, phần chênh lệch giữa tổng giá trị sản phẩm biên và tổng tiền lương của công nhân (16+12+8)-(8x4) = 4 thuộc về nhà tư bản. Tức là nhà tư bản đã bóc lột những công nhân không ở vị trí marginal. Khoa kinh tế học hiện đại đã chứng minh sự hài hòa lợi ích giữa lao động và tư bản bằng sự bóc lột lao động.

John B. Clark, người tạo ra phân tích về năng suất biên của các yếu tố đầu vào đã cố gắng giải quyết vấn đề thứ ba bằng cách đưa ra giả định là năng suất biên của mọi người lao động là như nhau. Song điều đó lại mâu thuẫn với giả định năng suất biên giảm dần khiến cho động cơ tối ưu hóa lợi nhuận của nhà tư bản trở thành vô nghĩa.

Nhận rõ sự mâu thuẫn trong lý thuyết của John B. Clark nên sau khi trình bày phân tích về năng suất biên của lao động thì Paul Samuelson đã  tránh phải đi sâu hơn nữa vào vấn đề bằng cách lập luận rằng lý thuyết năng suất biên của lao động chỉ nhằm giải thích nhà tư bản sẽ quyết định thuê lao động ra sao khi mức lương đã được biết trước chứ không nhằm giải thích lương, tô hay lợi nhuận.

Giáo sư kinh tế học người Anh Roy H. Grieve sau khi thừa nhận những phi lý của khoa kinh tế học hiện đại đã tuyên bố rằng: "Ideological comfort was bought at the price of intellectual integrity", đó chính là lời thú tội của khoa kinh tế học hiện đại, nó đã vứt bỏ cái áo khoác của nhà khoa học và choàng lên mình chiếc áo chùng của thầy tu.

Tài liệu tham khảo:

1. E. K. Kunt and Mark Lautzenheiser: "Hisory of Economic Thought: A Critical Perspective"; Third Edition; M. E. Shape Publisher; New York 2011

2. Roy H. Grieve: "The marginal productivity theory of the price of capital: An historical perspective on the origins of the codswallop"; Link 2012

3. Marc Linder: "The Anti-Samuelson", Volume II: Microeconomic; Urizen Book; New York 1977

4. Michael Perelman: "The End of Economics"; Routledge Publisher; New York 1996

Friday, February 21, 2014

Bàn về chuyện bia ở Việt Nam

Mới đây có thông tin thống kê là mỗi người Việt Nam mỗi năm uống hết 31,5 lít bia, ước tính xứ này phải chi khoảng 3 tỷ USD/năm mua bia.  Cánh báo chí được dịp đâm thuê khóc mướn với đủ các giọng điệu kiểu như: người Việt chi cho bia rượu nhiều hơn sách, hay tiền ấy để làm từ thiện tốt hơn, hay bia rượu tàn phá giống nòi gây tai nạn giao thông...Những lời lẽ ấy mới nghe thì tưởng hay ho, nhưng kỳ thực làm ngu người ta đi nhiều lắm, vì nó nhân danh sự tốt đẹp tưởng tượng mà xóa bỏ hiện thực, nhồi nhét vào đầu người đọc những định kiến chết cứng.

Một sự thật không thể không thể chối cãi là trong khi người Việt Nam uống 31,5 lít bia/năm thì người Trung Quốc uống 36 lít, còn người Đức uống tới 107 lít, nếu lấy số lượng bia tiêu thụ để đánh giá mức độ nhậu nhẹt thì chắc người Đức với người Trung Quốc đã lên thiên đường trước người Việt Nam từ lâu.

Bia rượu là đồ uống không thể thiếu được trong các dịp lễ tết hội hè, chẳng ai có thể ăn mừng đám cưới mà uống nước ngọt cả trừ phụ nữ trẻ em và người bệnh. Đời sống kinh tế càng phát triển lên thì các dịp lễ tết hội hè càng nhiều, thế nên bia cũng được tiêu thụ nhiều hơn. Một lý do nữa để lượng bia tiêu thụ tăng lên là bia đang dần thay thế cho rượu trắng. Trước đây ở các vùng nông thôn, mỗi khi có đám thì bà con chủ yếu uống rượu trắng nấu thủ công, giờ rượu ấy đang được dần thay thế bằng bia, có độ cồn thấp hơn và an toàn hơn. Xét trên góc độ đó lượng bia tiêu thụ tăng lên để thay thế cho rượu trắng là một dấu hiệu tích cực đối với sức khỏe của người dân.

Bia là thứ đồ uống có lợi cho sức khỏe nếu người ta uống chừng mực. Các nghiên cứu y khoa đã chỉ ra rằng bia có tác dụng tích cực trong việc phòng chống loãng xương, phòng chống cao huyết áp, cung cấp vitamin B6 và hơn hết là nó tạo ra tâm trạng phấn khích cho con người. Trung bình mỗi người đàn ông nên uống 2 ly bia mỗi ngày còn phụ nữ cũng nên thưởng thức 1 ly. Tất nhiên là uống quá nhiều thì sẽ là tệ hại, nhưng khi người ta đã lạm dụng nó thì cấm cũng chả có tác dụng gì vì người ta vẫn tìm mọi cách để uống. Việc đánh thuế bia cao sẽ làm hồi sinh việc nấu rượu thủ công, các loại rượu thủ công kém an toàn thì nguy hại đối với sức khỏe hơn bia gấp nhiều lần.

Hiện nay ngành nấu bia ở các quốc gia phát triển như Đức đang phải đương đầu với sản lượng bán ra bị sụt giảm mạnh. Do đó, bia Đức đang hướng tới các thị trường mới nổi như Trung Quốc, Đông Nam Á, Việt Nam. Các hãng bia nội nếu không tích cực đầu tư đổi mới công nghệ và thay đổi sản phẩm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng chắc chắn sẽ khó cạnh tranh được với bia Đức vốn có truyền thống lâu đời và thế mạnh về công nghệ. Để đối phó với sự cạnh tranh đến từ châu Âu, thì cách đơn giản nhất là vận động chính phủ tăng thuế nhập khẩu bia rượu để bảo hộ cho các doanh nghiệp nội địa. Thế nên những lời phàn nàn về việc nhậu nhẹt của người Việt hoàn toàn có thể làm đầy túi tiền các doanh nghiệp sản xuất bia. 

Tuesday, February 18, 2014

Tinh giảm biên chế

Một buổi sáng tại cơ quan X, phó phòng gặp trưởng phòng.
- Thưa anh, có việc này rất quan trọng cần xin ý kiến chỉ đạo của anh.
Trưởng phòng nói:
- Mới sáng mà chú đã rào trước đón sau thế, anh em trong nhà cả, chú cứ nói đi xem nào.
Phó phòng liền nói tiếp:
- Phòng ta mới nhận được công văn của cấp trên yêu cầu đăng ký kế hoạch tinh giảm biên chế. Ở trên yêu cầu mỗi đơn vị phải tinh giảm 20% biên chế, hiện giờ phòng ta thì chỉ có 4 người, ngoài anh, em ra còn cháu Y con chủ tịch Z, với cậu A thôi. Bây giờ có giảm biên chế thì không biết làm sao giảm, cháu Y nhà chủ tịch Z thì không giảm được rồi, còn giảm cậu A thì lấy ai làm việc, quả thực là bao nhiêu việc ở cái phòng này toàn một tay cậu ấy làm hết.
Trưởng phòng liền cười lớn:
- Ha ha ha, chú còn non lắm, cán bộ nguồn kế cận thế này thì yếu thật, để tôi xem có khóa bồi dưỡng cán bộ nào gửi chú đi một chuyến vậy.
Phó phòng mặt ngẩn tò te:
- Thưa anh, thực tình là em không hiểu.
Trưởng phòng nói tiếp:
- Phòng ta có 4 người mà chú định giảm 1 người, tức là giảm 25% biên chế, vượt yêu cầu của cấp trên rồi, cấp trên yêu cầu có 20% thôi. 
Phó phòng ngẩn ngơ:
- Vâng, đúng thật, vậy ta phải làm sao cho đủ số 20% thưa anh? Không lẽ ta giảm 0,8 người?
Trưởng phòng lại cười lớn:
- Chết thật, chú máy móc quá. Lấy đâu ra 0,8 người mà giảm. Thế này nhé nếu giờ phòng ta có 5 người mà giảm 1 người thì vừa đủ 20% đúng không nào, thế mà giờ chúng ta mới chỉ có 4 người.
Phó phòng tươi tỉnh:
- Anh nói em mới vỡ ra thật, lãnh đạo có thật có tầm nhìn hơn người. Đúng vậy, giờ ta sẽ tuyển thêm 1 người nữa rồi giảm cho đúng chỉ tiêu cấp trên đã giao.
Trưởng phòng nói chốt lại:
- Đấy, thế người ta mới gọi là tinh giảm biên chế chứ.

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí)