Showing posts with label Thời Sự. Show all posts
Showing posts with label Thời Sự. Show all posts

Sunday, April 16, 2017

Sự trỗi dậy của miền Trung và hệ quả

Bài viết ngắn này được rút ra từ những chuyến đi qua nhiều tỉnh của tôi và nhằm mục đích trình bày mâu thuẫn giai cấp ở Việt Nam liên quan đến vùng miền dưới dạng phổ thông nhất cho đại đa số người đọc. 

Sự bất ngờ từ khu vực miền Trung

Thời gian vừa qua tôi đi đến các tỉnh của Việt Nam khá nhiều để khảo chất lượng dịch vụ tại các chi nhánh của một doanh nghiệp lớn. Doanh nghiệp này cung cấp loại sản phẩm rất đắt tiền, khách hàng của họ là hầu hết là những người giàu và có thu nhập cao ở Việt Nam. Điều này có nghĩa là yêu cầu về chất lượng dịch vụ cũng rất cao

Nhiều người khi đối mặt với câu hỏi “Chất lượng dịch vụ ở đâu tốt nhất?” hầu như đều cho rằng chất lượng dịch vụ ở miền Nam là tốt nhất, sau đó đến miền Bắc và không ai cho rằng chất lượng dịch vụ ở miền Trung là tốt nhất cả, đặc biệt là chất lượng của những dịch vụ cao cấp. Đa số người miền trung mà tôi gặp cũng nghĩ như vậy.

Nhưng kết quả khảo sát đã làm tôi thực sự bất ngờ, chất lượng dịch vụ của khu vực miền Trung là tốt nhất, vượt trội hẳn so với miền Nam và miền Bắc. Người lao động và các chi nhánh miền Trung tuân thủ rất tốt các quy định về chất lượng dịch vụ.

Sự kiện này có ý nghĩa rất lớn đối với môi trường kinh doanh ở miền Trung, điều đó có nghĩa là khách hàng sẽ hài lòng hơn, mua nhiều hàng hóa hơn và doanh nghiệp ở miền Trung sẽ nhận được các khoản đầu tư lớn hơn. Điều này cũng cho thấy sự trỗi dậy mạnh mẽ của người lao động và doanh nghiệp miền Trung, họ đang trên đà cất cánh.

Mâu thuẫn trong kinh tế thị trường

Chủ nghĩa tư bản hay kinh tế thị trường tồn tại dựa trên sự cạnh tranh không ngừng, giữa các doanh nghiệp, giữa các địa phương, cũng như giữa nông thôn và thành thị. Khi khu vực miền Trung vươn lên, trở nên mạnh mẽ và độc lập hơn về kinh tế thì tất yếu vị thế thống trị từ trước tới nay của các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội và Hồ Chí Minh sẽ bị ảnh hưởng. Thứ nhất, các nguồn đầu tư lớn hơn sẽ đổ vào miền Trung thay vì các trung tâm kinh tế lớn. Thứ hai, các doanh nghiệp miền Trung sẽ giành được thị phần lớn hơn từ các doanh nghiệp ở hai đầu đất nước.

Liệu các doanh nghiệp và các địa phương ở hai đầu đất nước sẽ đứng yên nhìn điều đó? Không, họ sẽ tìm mọi các chống lại điều đó. Ngoài việc gia tăng đầu tư thì họ cũng sẽ tìm cách chống lại sự tăng trưởng của miền Trung bằng những hàng rào kỹ thuật. Ví dụ, vận động chính quyền trung ương áp đặt các quy tắc nghiêm ngặt hơn về bảo vệ môi trường cho khu vực miền Trung, điều này sẽ khiến các việc đầu tư vào công nghiệp ở miền Trung có chi phí cao hơn ở các khu vực khác, tức là giảm bớt sự hấp dẫn của khu vực miền Trung.

Từ kinh tế đến chính trị

Đó là mâu thuẫn tất yếu của kinh tế thị trường và rất nhiều thế lực khác nhau sẽ sống ký sinh vào mâu thuẫn đó. Ví dụ, báo chí quảng cáo cho các doanh nghiệp ở miền Bắc và miền Nam sẽ rất sốt sắng khi đưa tin tức về những rối loạn của môi trường kinh doanh hay sự tham nhũng của quan chức chính quyền các tỉnh miền Trung. Hãy lưu ý, sự định hướng là rõ ràng ngay cả khi báo chí đưa tin trung thực và chính xác, chưa cần đến việc họ xuyên tạc hay bóp méo sự việc. Trên chính trường, người ta thường xuyên bắt gặp hơn những vận động chính trị liên quan đến của miền Trung, sẽ không ai thấy làm lạ khi các đại biểu Quốc Hội ở khu vực phía Bắc hay phía Nam bắt đầu chú ý và đòi làm rõ sai lầm tại các tỉnh miền Trung. Ngay cả khi việc này là minh bạch và đúng đắn thì nó cũng làm phân tán nguồn lực và khiến cho lãnh đạo các tỉnh miền Trung phải bảo thủ hơn trong các quyết định của mình, nhất là các quyết định liên quan đến môi trường kinh doanh.

Việt Nam đang trong tiến trình của một nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chấp nhận kinh tế thị trường tức là chấp nhận những mâu thuẫn của kinh tế thị trường và cần phải kiểm soát được những mâu thuẫn ấy. Sự vận động và phát triển của quốc gia cũng sẽ gắn liền với việc kiểm soát những mâu thuẫn đó.

Các thế lực phản động tại Việt Nam hiện nay cũng tồn tại bám vào những mâu thuẫn của cơ thế thị trường cũng như khoảng trống do sự vận động mà các mâu thuẫn đó tạo ra. Ví dụ, khi vấn đề môi trường ở miền Trung đang nóng bỏng thì không có lãnh đạo nào dại dột đi xử lý mạnh tay một nhúm biểu tình về môi trường, mặc dù biết rằng đó là những kẻ phá hoại mượn danh bảo vệ môi trường. Lý do rất đơn giản: anh tự đưa mình vào thế bất lợi khi làm việc đó, anh sẽ khiến công chúng tin rằng anh bảo kê cho sự phá hoại môi trường. Chính việc sống ký sinh này khiến cho một số người ngộ nhận và cố tình ngộ nhận rằng các nhóm phản động là do chính quyền nuôi dưỡng. Sự ngộ nhận này khiến cho họ trở thành một phần của thế lực phản động, họ luôn cho rằng muốn chống lại những kẻ phản động thì trước hết phải chống lại chính quyền nói chung. Đó là một lập luận vô cùng kỳ quặc và chống lại giai cấp vô sản vì chính quyền là công cụ duy nhất để giai cấp vô sản thực hiện cuộc cách mạnh của mình. Hãy lưu ý rằng mục đích của các thế lực phản động luôn là lợi dụng các mâu thuẫn sẵn có để lật đổ chế độ hiện tại, vậy thì những người kia khác gì với chúng?


Kết luận

Miền Trung đang vươn lên mạnh mẽ và các lãnh đạo ở đây cũng sẽ phải học cách chung sống với những cạnh tranh gay gắt hơn cả về kinh tế lẫn chính trị. Miền đất sắt đá nhất trong cách mạng giải phóng dân tộc giờ đây sẽ phải học cách đương đầu với những mâu thuẫn đòi hỏi phải xử lý bằng nghệ thuật ứng xử chính trị tinh tế hơn là cách làm dân vận truyền thống. Điều này có lẽ là một cơ hội hơn là thách thức.

Monday, December 26, 2016

Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam

Các phe phái chống cộng đều có một lập luận chung rằng: Chủ nghĩa xã hội là một ảo tưởng chỉ có chủ nghĩa tư bản là hiện thực vì vậy Việt Nam cần phải từ bỏ ảo tưởng và đi theo hiện thực. Hoặc tinh vi hơn thì sẽ sử dụng hình mẫu các nước Bắc Âu để nói rằng có một con đường thứ ba, kết hợp giữa chủ nghĩa tư bản và dân chủ hay nhân quyền, tạo ra hạnh phúc ấm no. Tóm lại, tất cả những gì cần thiết là đi theo chủ nghĩa tư bản dưới hình thức này hay hình thức khác.

Đối với các vị tư sản thì trước kia có lịch sử nhưng khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện thì lịch sử chấm hết. Loài người mãi mãi dừng lại chủ nghĩa tư bản. Hãy thử tưởng tượng, bạn quay về đế quốc La Mã và nói với họ rằng xã hội chiếm hữu nô lệ trên đỉnh cao văn minh nhân loại của họ sẽ bị các bộ tộc German dã man đánh bại và thay thế nó bằng một chế độ khác. Những người La Mã văn minh ấy sẽ trả lời bạn hệt như các vị tư sản ngày nay. Hoặc gần hơn nữa, hãy nhớ lại lập luận của các vị tư sản khi họ treo cổ đám vua chúa phong kiến lên, mặc dù đám vua chúa và quý tộc phong kiến ấy giàu sang và có học hơn họ nhiều. Lúc đó nếu ai dám nói với họ rằng chế độ tư bản chỉ là ảo tưởng, chỉ có các triều đình phong kiến là hiện thực thì chỗ của người đó sẽ là trên giá treo cổ, bên cạnh vua chúa và quý tộc các loại.

Trước hết, chủ nghĩa xã hội không phải là ý tưởng kỳ quái từ đâu đó sinh ra, đó là quy luật của xã hội loài người, đó là quy luật của lịch sử, nó sinh ra khi chủ nghĩa tư bản đạt đến mức độ phát triển nhất định, ngay chính trong lòng xã hội tư bản với tư cách là sự thay thế chế độ tư bản. Quy luật ấy sẽ phải được thể hiện bằng sự lựa chọn của một số quốc gia nhất định bởi vì chủ nghĩa tư bản đã củng cố và tạo ra các biên giới quốc gia thống nhất thay cho các lãnh địa phong kiến tản mạn xưa kia.

Tại sao người Việt Nam lựa chọn chủ nghĩa xã hội mà không chọn chủ nghĩa tư bản?

Chủ nghĩa tư bản phát triển đến mức độ nhất định tại một số quốc gia thì nó sẽ phá hoại những điều kiện phát triển bình thường tại một số quốc gia khác khiến cho những quốc gia bị phá hoại không thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản được nữa. Nếu các ngài tư sản có nói với bạn rằng hãy chọn con đường tư bản để được giàu có và hạnh phúc thì bạn hãy chỉ cho các ngài ấy thấy ngoài Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản, chủ nghĩa tư bản chưa từng thành công ở bất cứ đâu, đa phần các nước khác hoặc là chìm trong đói nghèo lạc hậu của một xã hội đứng ở ngưỡng cửa của chủ nghĩa tư bản hoặc phải sử dụng một phiên bản không hoàn thiện của chủ nghĩa tư bản. Việt Nam là một nạn nhân của chủ nghĩa tư bản thời đại đế quốc, bom đạn, văn minh, dân chủ, nhân quyền phương Tây đã gần như đưa xứ sở của chúng ta về thời đồ đá, rất tiếc là họ không được như ý vì chúng ta đã tiến vào thời đại đồ nhôm. Con đường chủ nghĩa tư bản đã khép lại từ lâu và không hứa hẹn đem lại bất cứ thứ gì tốt đẹp cho Việt Nam. Lịch sử đã không cho chúng ta chọn chủ nghĩa tư bản.

Kể từ khai sinh cho đến nay, chủ nghĩa tư bản đã đạt đến độ chín của nó. Hãy nhớ rằng khi La Mã bị người German dã man đánh bại thì La Mã phát triển hơn German rất nhiều, sở dĩ có điều đó là bởi vì chế độ chiếm hữu nô lệ của La Mã đã mất hết động lực phát triển và trở thành gánh nặng. Chủ nghĩa tư bản ngày nay cũng vậy, các nước tư bản vẫn giàu có hùng mạnh và có thể hùng hổ bắt nạt cả thế giới, nhưng trong căn nguyên của chủ nghĩa tư bản thì cái quan hệ sản xuất của nó đã lạc hậu và mất hết động lực phát triển. Xưa kia khi quan lại phong kiến cố gắng bám lấy chế độ phong kiến trước sự đe dọa của chủ nghĩa tư bản bằng những lý lẽ nào thì giờ các vị tư sản lại bám lấy chế độ tư bản bằng những lý lẽ y hệt. Lý trí sáng suốt nào lại cho phép chúng ta bám lấy những gì đang suy tàn mà từ bỏ cái mới tốt đẹp hơn đang hình thành. Không, chính lý trí đã giúp người Việt có được sự lựa chọn sáng suốt. Cũng cần phải nói thêm rằng nếu không có cái lý trí sáng suốt ấy thì người Việt Nam cũng như nước Việt Nam thậm chí còn không tồn tại. Nỗi nhục nước bị xóa tên trên bản đồ, người Việt phải nói tiếng Pháp thay cho tiếng mẹ đẻ chẳng phải là mới ngày hôm qua thôi sao?

Chủ nghĩa tư bản phát triển dựa trên quan hệ giữa các cá nhân độc lập với tư cách chủ sở hữu hàng hóa, quan hệ giữa họ là mua bán. Những phương thức sản xuất khác thì không dựa trên việc mua bán hàng hóa nên buộc phải dựa vào các mối quan hệ gia tộc, huyết thống và sự mở rộng nhất định của các thiết chế mang tính tập thể. Khi các chủ nghĩa tư bản phát triển thì Việt Nam mới ở vào giai đoạn tan rã của chế độ phong kiến vì vậy các quan hệ xã hội và thiết chế mang tính tập thể của người Việt Nam vẫn còn rất mạnh. Chính yếu tố đó khi được trui rèn trong lò lửa của cách mạng vô sản và các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc suốt nửa sau thế kỷ 20 đã nuôi dưỡng trong lòng xã hội Việt Nam cái hạt nhân mạnh mẽ của chủ nghĩa xã hội. Lý trí của người Việt bắt nguồn từ hiện thực của người Việt chứ không phải là một ảo tưởng sùng bái vĩ nhân hay học thuyết ngoại lai nào đó. 

Nói tóm lại, lịch sử đã chọn con đường xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam vì trong lòng xã hội Việt Nam đã mang sẵn những mầm mống của nó, cho dù nước Việt Nam vẫn còn chưa được giàu mạnh. Hãy nhìn lại lịch sử! Chẳng phải các bộ tộc người German dã man đã đánh bại La Mã thần thánh đó sao? Chẳng phải thương nhân Hà Lan đã đánh bại cả triều đình Habsburg lẫn đế quốc Tây Ban Nha hùng mạnh để giành độc lập sau 80 năm kháng chiến gian khổ ngay giữa lúc chế độ phong kiến châu Âu đạt tới đỉnh cao đó sao? Cần phải nói thêm rằng cũng chính người Hà Lan đã đưa William Orange lên ngai vàng nước Anh (để làm đồng minh chống lại Tây Ban Nha), mở đường cho nước Anh rệu rã sau này trở thành đế quốc của thời đại tư bản.

Để hình thành xã hội tư sản thì giai cấp tư sản của nó phải đủ mạnh, nhưng chính bản thân giai cấp tư sản ở Việt Nam lại chưa bao giờ đủ mạnh và độc lập. Giai cấp tư sản Việt Nam hình thành nhờ vào vai trò trung gian giữa đế quốc và người bản địa, thế nên dưới chế độ thuộc địa thì giai cấp tư sản hoàn toàn lệ thuộc vào đế quốc. Khi chế độ thuộc địa bị đập tan thì giai cấp tư sản cũng nhanh chóng tan rã, những mảnh còn lại của nó buộc phải bám lấy giới tiểu thương thành thị, nông dân giàu và trí thức. Sau này, khi kinh tế thị trường được phát triển trở lại ở Việt Nam, giai cấp tư sản bắt đầu hồi phục, nhưng vì không có truyền thống thống trị độc lập nên hệ tư tưởng của giai cấp này cũng không độc lập, nó phân tán và chịu đủ sự chi phối từ các tầng lớp khác, khi phải đối mặt với sự tổ chức và tính kỷ luật đã được rèn rũa bằng cách mạng của giai cấp vô sản thì nó hoàn toàn bất lực. Chính hoàn cảnh lịch sử này đã phản ánh vào tâm thức của một bộ phận tầng lớp trí thức ở Việt Nam. Trên thực tế họ là cái loa của giai cấp tư sản do đã bị tư sản hóa, do những mảnh của giai cấp tư sản ẩn náu trong họ. Sự yếu đuối bế tắc, không có tư tưởng độc lập của giai cấp tư sản được thể hiện thành những luận điệu lải nhải về sự ngu dốt thấp kém của người Việt nói chung, mặc dù đó thực ra là của giai cấp tư sản Việt Nam.

Chính người lao động Việt Nam đã chứng minh được trí tuệ và bản lĩnh của họ trong suốt nửa thế kỷ qua, những người nông dân chân lấm tay bùn, những người thợ nhem nhuốc dầu mỡ, những anh giáo làng nhút nhát đã bằng chính đôi tay của mình quật ngã những đế quốc sừng sỏ nhất của thế kỷ 20, ngay giữa thời đại phát triển thịnh vượng nhất của họ. Đó chẳng phải bản lĩnh và trí tuệ đó sao? Để làm được điều đó thì chẳng phải cần đến sự tổ chức cũng như kỷ luật sắt đá đó sao? Hãy nhớ rằng đó là kỷ luật của máu, còn cao hơn kỷ luật của ngọn roi cá đuối thời đại chiếm hữu nô lệ và kỷ luật của cái đói trong chế độ tư bản! Thật nực cười khi nói rằng người Việt Nam không biết tổ chức cũng như không có kỷ luật. Hãy nhớ rằng khi những kẻ giàu có đu càng máy bay trực thăng chạy trốn thì chính những người lao động lầm than đã xây dựng lại đất nước Việt Nam từ đống tro tàn trong cảnh bị đe dọa, bao vây, cấm vận và vẫn phải cầm khẩu súng chiến đấu. Giai cấp vô sản Việt Nam hình thành chậm hơn và thiếu sự phát triển hơn so với giai cấp vô sản ở các nước tư bản phát triển nhưng họ mang trong mình hạt nhân cách mạng mà ít có giai cấp vô sản ở các quốc gia khác có được, đó là lý do khiến nước Việt Nam vẫn còn đứng vững đến nay, ngay cả khi hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ.

Hoàn cảnh lịch sử ấy cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin đã đẩy xã hội Việt Nam vào một giai đoạn đặc biệt đáng chú ý trong lịch sử, có thể gọi nôm là "đánh võ mồm" hay "bàn phím chiến".

Sợ hãi trước trí tuệ và bản lĩnh của người lao động Việt Nam, giai cấp tư sản cũng như những kẻ tay sai của họ không ngừng tìm cách bôi nhọ người Việt Nam (nực cười thay, khi đó họ không xem bản thân là người Việt, hệt như Chí Phèo chửi cả làng Vũ Đại). Họ không ngừng lôi ra những cái gọi là thói hư tật xấu của người Việt Nam và so sánh với những gì gọi là văn minh, tốt đẹp của phương Tây (theo chủ nghĩa tư bản). Chuyện này đã khiến rất nhiều người bị nhầm lẫn. Nhưng hãy hình dung bằng một ví dụ đơn giản, một đứa bé đang tuổi ăn tuổi lớn, bố mẹ nó không khá giả lắm thì sẽ mua cho nó bộ quần áo rộng một chút để nó có thể mặc được lâu. Đứa bé mặc bộ quần áo rộng thùng thình thì trông sẽ rất xấu xí, không thể so sánh với những đứa bé con nhà giàu mặc bộ quần áo vừa vặn được. Nhưng những người hiểu biết liệu có chê bai chế nhạo đứa bé kia về bộ quần áo rộng và bộ dạng chả mấy đẹp đẽ của nó không? Chắc chắn không có người hiểu biết nào lại làm cái điều ngớ ngẩn đó. Xã hội Việt Nam đang phát triển rất nhanh, nó tạo ra hàng sa số những xung đột giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội, hàng sa số những vấn đề mà hiện tại không có cách nào giải quyết được, nhất là khi các điều kiện cần thiết để giải quyết chúng chưa xuất hiện. Những hiện tượng đó cho thấy xã hội Việt Nam đang chuyển mình nhanh chóng. Tranh luận và cãi cọ về những thứ đó chỉ tốn thời gian và chẳng đem lại lợi ích gì. Thậm chí chính tư duy của cái bộ phận dân cư không ngừng nguyền rủa và hạ nhục người Việt nói chung kia cũng là sản phẩm của hoàn cảnh ấy, nó thể hiện sự bất lực và thiếu hiểu biết của họ trước những xung đột xã hội và nó cũng sẽ tan biến khi những xung đột ấy chấm dứt. Ở đây lý trí của người vô sản bình thường sẽ mách bảo cho bạn biết rằng những gì bạn cần làm lúc này là chọn xem vấn đề nào giải quyết được và giải quyết vấn đề đó chứ không phải đứng đó gào thét và chửi bới cái mớ hỗn độn quanh bạn. 

Cần phải trả lời cái luận điệu "Phương Tây là văn minh và tốt đẹp, hãy học họ để văn minh và tốt đẹp chứ đừng biện minh cho bản thân bằng những vấn đề của họ" ra sao? Rất đơn giản, luận điểm đó dựa trên hai giả định, thứ nhất là phương Tây văn minh tốt đẹp hơn Việt Nam, thứ hai là những cái văn minh và tốt đẹp ấy không gắn liền với các vấn đề của họ. Điều thứ nhất bạn có thể chứng minh rằng đó là tâm thức của những kẻ nô lệ, không có bất cứ bằng chứng nào cho thấy phương Tây văn minh tốt đẹp hơn và phải "Thoát Á" hay "Thoát Trung", đó là điều nhảm nhí. Cái tâm thức ấy rất điển hình của giai cấp tư sản và một bộ phận trí thức Việt Nam, họ làm trung gian giữa các đế quốc phương Tây và người Việt thế nên sự siêu việt của văn minh phương Tây đảm bảo cho địa vị đặc quyền của họ và do đó họ sẽ phủ nhận mọi sự tốt đẹp của người Việt (vì điều đó đe dọa địa vị của họ). Phần thứ hai cũng có thể chứng minh đơn giản, các vấn đề của phương Tây gắn liền với những cái gọi là văn minh và tốt đẹp của phương Tây, đi theo con đường của phương Tây (hay chủ nghĩa tư bản) là chấp nhận những thứ đó. Hãy vạch mặt giai cấp tư sản và tay sai của giai cấp tư sản bằng cách ấy. Hãy hiểu rằng cái mà giai cấp tư sản Việt Nam muốn là chủ nghĩa tư bản phương Tây, còn tất cả những gì tệ hại như thất nghiệp, bần cùng, tội phạm, tàn phá môi trường, khủng hoảng kinh tế, sự tha hóa của nhân cách thì giai cấp vô sản sẽ phải gánh chịu, thế nên chúng sẽ luôn phớt lờ những mặt trái của xã hội phương Tây để ca ngợi những thứ phù hợp với lợi ích của chúng. Hãy luôn nhớ rằng giai cấp công nhân và nông dân sẽ phải gánh chịu toàn bộ những thảm họa đó, nếu giai cấp tư sản thành công trong việc thay đổi hướng đi của đất nước này.

Wednesday, August 24, 2016

Bàn về bản chất của tham nhũng

Từ khi nhà nước hình thành thì một bộ phận dân cư đã tách ra, chuyên làm công việc hành chính. Những người này ban đầu đều là nô lệ hoặc gia nhân của vua chúa, từ “civil servant” (công chức) bắt nguồn từ hiện thực đó. Trước kia, vua chúa đều dùng nô lệ hoặc gia nhân của họ để thực thi các chức năng hành chính thay cho họ mà không dùng quý tộc hay người tự do vì những người đó độc lập và là đối tượng thường có xung đột quyền lợi với vua chúa.

Do vậy, công chức mang trong mình một mâu thuẫn sâu sắc. Một mặt, họ là nô lệ hay gia nhân, tức là mang địa vị thấp kém hơn thường dân hay quý tộc, nói theo ngôn ngữ hiện đại thì họ là đầy tớ của nhân dân. Mặt khác, họ đảm nhiệm chức năng hành chính, được vua chúa trao quyền lực, do vậy họ có quyền lực rất lớn đối với cả thường dân lẫn quý tộc. Địa vị thấp kém khiến họ không được coi trọng song quyền lực của họ lại bao trùm lợi ích của dân thường, điều này tạo ra thái độ thù ghét công chức của thường dân.

Tuy công chức đảm nhiệm chức năng hành chính nhưng những chức năng này hình thành từ việc được vua chúa trao quyền, do vậy vua chúa cũng đặt ra các cơ chế để kiểm soát quyền lực được trao cho công chức. Công chức chịu trách nhiệm về quyền lực trước vua chúa, người đứng đầu nhà nước, cũng như các nguyên tắc nhà nước đã được xác định chứ không chịu trách nhiệm về quyền lực đó trước dân thường. Dân thường không trực tiếp trao quyền lực cho công chức. Điều đó cũng đúng với nhà nước hiện đại, cho dù là nhiều vị trí công chức cấp cao cũng được bầu cử như chức vụ chính trị thì việc đó cũng không thay đổi nhiều. Điều này tạo ra cho công chức một sự độc lập tương đối trong việc thực thi pháp luật đối với dân thường. Sự độc lập đó là cơ sở cho sự quan liêu cũng như sự thân thiện đối với dân thường của công chức tồn tại. Ví dụ, công chức cần phải tuân thủ một thủ tục hành chính xác định thì họ sẽ phải thực thi đúng như vậy, bất kể là điều đó có khả thi đối với dân thường hay không. Ngược lại, nếu thủ tục hành chính đó chưa bao quát hết các lợi ích của thường dân thì họ cũng có thể lựa chọn những điều có lợi cho thường dân mà không bị coi là vi phạm luật.

Sự độc lập của giới công chức đối với dân thường là cơ sở để duy trì quyền lực nhà nước và do đó cũng tạo ra những khoảng trống để giới công chức làm giàu và có mức sống khá hơn người lao động nói chung. Đây cũng chính là cơ sở để nạn tham nhũng của công chức tồn tại. Phạm vi và nội dung của tham nhũng nói chung rộng hơn khái niệm ăn cắp của công hạn hẹp theo cách nhìn thông thường, nó bao gồm các hành vi như tham ô, hối lộ, hối lộ chính trị, mua bán chức quyền hay bổ nhiệm người thân… và nhìn chung không phải khi nào cũng là ăn cắp của công hoặc làm thiệt hại đến tài sản công nhằm mục đích tư lợi. Trong chế độ tư hữu thì ăn cắp bị coi là hành vi tội ác xấu xa nhưng tội ác xấu xa đó không mâu thuẫn với chế độ tư hữu, ngược lại nó lại đòi hỏi rằng chế độ tư hữu phải tồn tại, hành vi ăn cắp chỉ là thay đổi chủ sở hữu nhưng không phủ nhận hay tạo ra chế độ tư hữu. Quan điểm coi tham nhũng chỉ là hành vi ăn cắp của công đơn thuần chính là thể hiện lập trường tư sản hạn hẹp, thay vì thực sự đặt hành vi tham nhũng vào bối cảnh lịch sử cụ thể và giải quyết nó thì quan điểm tư sản hẹp hòi lại quy kết nó thành một tội lỗi của chế độ tư hữu, thực chất là ngầm thỏa hiệp với hành vi đó. Sự thỏa hiệp đó thể hiện thành quan điểm phổ thông đầy nực cười: Quan chức nào cũng ăn nhưng ở Tây thì quan chức ăn ít hơn ở ta hoặc ở Tây quan chức cũng ăn nhưng làm được việc còn quan chức ở ta ăn nhưng chỉ phá. 

Theo quan điểm nêu trên thì tham nhũng là hành vi ăn cắp của công, hay trấn lột bằng quyền lực và do đó làm nghèo đất nước. Hành vi ăn cắp không làm của cải biến mất hay tăng thêm, nó chỉ làm số của cải đó đổi chủ, số lượng của cải vẫn như vậy. Công chức ăn cắp của công sẽ làm nhà nước nghèo đi nhưng tổng số tài sản quốc gia thì vẫn không thay đổi vì của cải chỉ chuyển từ túi nhà nước sang túi tư nhân. Một phiên bản khác của lập luận này là việc ăn hối lộ (giống như phân phối thu nhập) sẽ cản trở doanh nghiệp phát triển vì làm tăng chi phí hoặc làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Song trong nền kinh tế thị trường thì lợi nhuận là thứ được tạo ra trước và sẽ quyết định mức độ phân phối lợi nhuận, người ta không thể phân phối một thứ chưa được tạo ra. Trên thực tế, tham nhũng giống như một rào cản lợi nhuận khiến cho những doanh nghiệp có lợi nhuận thấp không thể gia nhập thị trường, như vậy là đảm bảo sự độc quyền cho những doanh nghiệp có mức lợi nhuận cao. Tham nhũng do đó giả định là hoạt động đầu tư tư nhân mang lại lợi nhuận cao và lợi nhuận cao đó nuôi dưỡng tham nhũng. Quan điểm coi tham nhũng là ăn chặn hay trấn lột bằng quyền lực lại vô hình chung khẳng định rằng tham nhũng sẽ nuôi dưỡng những nguồn tạo ra lợi nhuận cao. Từ đó, quan điểm này phải bố sung thêm lập luận về sự không công bằng hoặc thiếu hiệu quả, cho rằng việc tham nhũng trong cấu kết với doanh nghiệp sẽ dẫn đến các dịch vụ công hay cơ sở hạ tầng kém chất lượng hoặc sự bất bình đẳng về thu nhập. Câu chuyện được kể đơn giản là quan chức ăn hối lộ của doanh nghiệp và doanh nghiệp ăn bớt tiền xây dựng công trình công cộng khiến công trình này chóng hư hỏng. Việc này có thể diễn ra một cách đơn lẻ nhưng nếu nó diễn ra phổ biến thì chính công chức nhà nước và doanh nghiệp gặp rắc rối lớn, họ sẽ phải tốn tiền sửa chữa các công trình đó vì chính công trình công cộng là một phần trong quyền lực của giới công chức. 

Nạn tham nhũng trong bộ máy nhà nước không phải là đặc trưng của chế độ đa đảng hay độc đảng, cũng như bất kỳ hình thái chính trị nào, chừng nào mà vẫn còn một bộ phận dân cư chỉ chuyên làm công việc nhà nước. Lập luận tư sản phổ biến cho rằng nếu có nhiều đảng phái giám sát lẫn nhau thì công chức nhà nước sẽ phải cẩn trọng, không dám tham nhũng. Luận điểm này ngầm giả định rằng các đảng phải sẽ cạnh tranh nhau để giành quyền lực do đó sẽ kiểm soát công chức chặt chẽ hơn và sẽ giảm được tham nhũng. Song điều đó không có nghĩa là sự kiểm soát ấy sẽ phù hợp với lợi ích của toàn bộ dân chúng, trên thực tế nó không bao giờ phù hợp vì trong một xã hội có các giai cấp mâu thuẫn nhau thì những điều kiện để hình thành nguyên tắc quản lý nhà nước bao giờ cũng là lợi ích của giai cấp thống trị và do vậy nó luôn trái ngược với lợi ích của giai cấp bị thống trị. Cuối thời kỳ trung cổ, bất chấp những nỗ lực kiểm soát chặt chẽ của giới quý tộc nắm chính quyền, giới công chức đã bị giai cấp tư sản đang lên mua chuộc. Điều này một phần ảnh hưởng trở lại giới quý tộc, khi thất bại trong việc kiểm soát bằng luật pháp hay vũ lực thì họ cũng cố gắng dùng tiền để gây ảnh hưởng với giới công chức. Do vậy vào thời kỳ bình minh của chế độ tư bản, người ta được chứng kiến một thời kỳ mà giới công chức tham nhũng kinh khủng, trong khi các đảng phái mải mê đấu đá tranh giành quyền lực ở nghị viện. Họ thường xuyên lên án nhau về tham nhũng nhưng cũng không hề đỏ mặt khi phải dùng tiền để mua chuộc các công chức cũng như các nghị sĩ đảng phái khác. Chế độ đa nguyên đa đảng đã bắt đầu bằng sự tham nhũng kinh hoàng như vậy, nó chỉ giảm bớt đi khi mà giai cấp quý tộc hoàn toàn thất bại và biến mất khỏi lịch sử. 

Lập luận phổ biến thứ hai về tham nhũng là tiền lương thấp nên công chức buộc phải tham nhũng để sống. Lập luận này giả định rằng nếu có tiền lương đủ cao thì công chức sẽ không có động cơ tham nhũng hoặc nói theo kiểu hiện đại hơn thì tiền lương cao sẽ khiến cho chi phí mất việc của công chức cao hơn lợi ích thu được từ tham nhũng. Lập luận này là một câu chuyện khôi hài khó tin. Bạn ra đường gặp một kẻ trấn lột và trả tiền cho hắn để khỏi bị trấn lột? Tức là đằng nào bạn cũng sẽ bị trấn lột, hoặc là bí mật hoặc là công khai. Lập luận này bắt nguồn từ thực tế là tại một số quốc gia như Pháp và Singapore thì một bộ phận của giai cấp tư sản trực tiếp nắm lấy các vị trí hành chính và chính trị, thu nhập của họ được phân chia thông qua hệ thống lương bổng thay vì dựa vào lợi nhuận từ kinh doanh của bản thân, do vậy các hành vi tham nhũng để tư lợi cá nhân được hạn chế. Song tại chính những quốc gia đó thì nạn mua quan bán chức và bổ nhiệm người thân quen vào các chức vụ béo bở lại không có cách nào giải quyết được. Quan điểm này lảng tránh nguồn gốc của sự tham nhũng là quyền lực độc lập tương đối của công chức, do vậy thực chất quan điểm này bảo vệ cho tầng lớp công chức, gia tăng các đặc quyền đặc lợi của họ. 

Một phiên bản phụ của lập luận tiền lương là lập luận về nạn mua quan bán chức quyền. Quan điểm này cho rằng do nạn mua quan bán chức hoành hành nên những người mua chức quyền phải tham ô hay ăn hối lộ để kiếm tiền bù đắp lại chi phí mua chức quyền. Dưới chế độ phong kiến ở phương Đông, các gia đình thường dân giàu có thường hay mua những chức quan nhỏ để tránh phải làm các công việc phu phen tạp dịch của thường dân. Một ví dụ khác trong thời cận đại là vua Pháp bán các chức quan cho giới tư sản để lấy tiền chi tiêu cho chiến tranh với giới quý tộc. Song điều đó không có nghĩa là những người đó sẽ kiếm được tiền từ chức vụ của mình, ngược lại chức vụ đó chỉ như là sự bảo đảm cho nguồn thu nhập sẵn có của họ. Việc mua bán chức quyền thể hiện rằng những đặc quyền của giới công chức không còn có ích gì để giúp cho cuộc sống của họ khá hơn nhưng những đặc quyền đó lại cần thiết đối với những người giàu có mới nổi và có địa vị xã hội thấp kém. Lập luận này cũng đảo ngược quan hệ nhân quả giữa việc mua bán chức quyền và tham nhũng. Sở dĩ có mua bán chức quyền là vì tham nhũng đã tồn tại và hứa hẹn sẽ đem lại lợi nhuận, tức tham nhũng quyết định việc mua bán chức quyền chứ không phải ngược lại. 

Lập luận phổ biến thứ ba là vô đạo đức dẫn đến tham nhũng. Người ta cho rằng tham nhũng là do công chức vô đạo đức. Đạo đức là một lĩnh vực đầy mâu thuẫn. Một người cha tốt, nuôi dạy con cái chu đáo, chăm lo cha mẹ tử tế, có tình nghĩa với anh em bạn bè không có nghĩa là ông ta không tham nhũng. Một công chức thanh liêm có thể không nhận hối lộ nhưng sẽ lại luôn sẵn sàng đưa hối lộ để làm được việc. Như đã nói ở trên về việc ăn cắp của công, việc ăn cắp là một hành vi vô đạo đức đối với chế độ tư hữu song nó giả định là chế độ tư hữu phải tồn tại, do vậy đạo đức luôn là đạo đức của một chế độ kinh tế nhất định chứ không phải là phổ quát, khi một chế độ kinh tế khác nảy sinh thì tất yếu sẽ nảy sinh những đạo đức phù hợp với nó. Dưới chế độ phong kiến, khi mà quyền lợi của giai cấp quý tộc là duy trì các đảm phụ phong kiến đối nông dân thì đạo đức là phải duy trì những đảm phụ đó một cách ôn hòa, nhưng khi chế độ tư bản xuất hiện, đồng tiền là thước đo của mọi giá trị thì đạo đức của giai cấp quý tộc buộc họ phải tìm mọi cách bóp nặn nông dân đến đồng xu cuối cùng. Sự vô đạo đức không phá hoại chế độ kinh tế sinh ra nó mà ngược lại là một phần của chế độ đó. Sự độc lập tương đối của tầng lớp công chức khiến họ có thể ngả theo những giai cấp mạnh hơn trong xã hội và do đó có thể áp dụng các tiêu chuẩn về đạo đức khác nhau cho cùng một hành vi. Một phiên bản của lập luận về đạo đức là công tác cán bộ. Lập luận này cho rằng tham nhũng là do công tác tuyển chọn công chức yếu kém, tức là để cho những người vô đạo đức lọt vào bộ máy công chức. 

Vấn đề tham nhũng bao giờ cũng được giới công chức quan tâm hàng đầu vì nó gắn liền với sự độc lập của họ. Thông thường dân chúng theo dõi vấn đề này vì mang sẵn thái độ không mấy thiện cảm với giới công chức hơn là về những hệ quả của nó. Nhà nước Việt Nam vốn là nhà nước của giai cấp lao động, giai cấp tư sản không được tham gia nắm quyền chính trị, song giai cấp tư sản đang dần dần mạnh lên về kinh tế. Trước tình hình đó tầng lớp công chức bắt đầu lung lay, một phần đã ngả theo giai cấp tư sản. Sự chia rẽ của tầng lớp công chức đến từ nhiều nguồn khác nhau. Việc bắt tay với giai cấp tư sản để kinh doanh đã giúp một bộ phận công chức, thường là cấp cao, trở nên giàu có và trở thành tư sản. Chế độ thi tuyển công chức cũng mở đường cho con cái của các gia đình giàu có (với đặc quyền tiếp cận giáo dục nhờ vào tiền bạc) trở thành công chức nhà nước. Mâu thuẫn giữa tầng lớp công chức cũ xuất thân từ các tầng lớp lao động và tầng lớp công chức mới dần dần trở nên gay gắt. Một trong những biểu hiện của mâu thuẫn đó chính là vấn đề tham nhũng.

Thành phần cực đoan nhất trong vấn đề tham nhũng thường là tầng lớp công chức bậc trung và thấp có xuất thân tiểu tư sản hoặc trí thức không mấy giàu có. Địa vị xã hội của những người này vốn chủ yếu vào các đặc quyền của giới công chức, song các đặc quyền này dần dần mất giá trị trước sự biến đổi của chế độ kinh tế, họ cũng không thể cạnh tranh được trong việc thăng tiến với tầng lớp công chức mới có xuất thân từ các gia đình giàu có (có mối quan hệ chặt chẽ với doanh nghiệp và được hưởng giáo dục tốt hơn). Sự giàu có và quyền lực của bộ phận công chức mới cũng như sự suy yếu của bản thân được gán cho tham nhũng và cuộc chiến chống lại tham nhũng trở thành biện pháp cốt yếu để củng cố địa vị công chức của họ. Việc chống tham nhũng của họ không thể không dựa trên đạo đức và các giá trị truyền thống. Ngược lại, đối với bộ phận công chức mới thì các tiêu chuẩn đạo đức của họ hoàn toàn khác, họ chống lại những thứ đặc quyền đặc lợi nhỏ nhặt, những thứ thủ tục phân tán chồng chất cản trở việc kinh doanh và tìm cách mở cửa những vị trí công chức cấp cao cho bản thân.

Wednesday, June 1, 2016

Hoa Kỳ lặng lẽ như đang chuẩn bị cho chiến tranh

Với kinh nghiệm của một nhà báo kỳ cựu về tin tức chiến tranh, John Pilger cảm thấy nước Mỹ đang chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh mới. Bên cạnh đó, tính đạo đức giả và những huyền thoại dối trá cũng được đề cập trong bài báo "Silencing America as It Prepares for War" của  John Pilger.

Hoa Kỳ lặng lẽ như đang chuẩn bị cho chiến tranh

Quay trở lại Hoa Kỳ trong năm bầu cử, tôi bất ngờ vì sự im lặng. Tôi đã đưa tin về bốn chiến dịch tranh cử tổng thống, bắt đầu từ năm 1968; tôi ở chỗ Robert Kennedy khi ông ta bị bắn và tôi nhìn thấy kẻ ám sát lúc đang chuẩn bị giết ông ta. Đó là lễ rửa tội theo cách Mỹ, cùng với việc bưng bít sự bạo lực của cảnh sát Chicago tại đại hội hỗn loạn của đảng Dân Chủ. Sự phản cách mạng khủng khiếp đã bắt đầu. 

Người đầu tiên bị ám sát trong năm đó, Martin Luther King, đã không ngần ngại kết nối sự đau khổ của người Mỹ gốc Phi với nhân dân Việt Nam. Khi Janis Joplin hát, “Tự do chỉ là cách nói khác của không còn gì để mất”, cô đã phát biểu một cách vô thức cho hàng triệu nạn nhân của nước Mỹ ở những nơi xa xôi. 

“Chúng ta đã mất 58.000 người lính trẻ ở Việt Nam và họ chết để bảo vệ tự do của các bạn. Đừng quên điều đó.” Một hướng dẫn viên của Dịch Vụ Công Viên Quốc Gia đã nói như vậy khi tôi quay phim tại đài tưởng niệm Lincoln ở Washington vào tuần trước. Anh ta hướng dẫn một buổi tiệc trường học của các thiếu niên mặc áo phông màu cam sáng. Bằng cách lặp đi lặp lại, anh ta đã biến sự thật về Việt Nam thành một lời nói dối không thể bác bỏ.

Hàng triệu người Việt Nam đã chết, bị thương, bị nhiễm độc và bị tàn tật trong cuộc xâm lược của Hoa Kỳ không có vị trí lịch sử trong tâm hồn trẻ thơ, chưa kể đến gần 60.000 cựu chiến binh đã tự sát. Một người bạn của tôi, một lính thủy bị mất cả hai chân ở Việt Nam, thường được hỏi rằng “Anh chiến đấu cho phe nào?”

Vài năm trước đây, tôi đến một cuộc triển lãm nổi tiếng có tên là “Cái Giá Của Tự Do” tại Viện Smithsonian ở Washington. Hàng dài thường dân, hầu hết là trẻ em chen chúc nhau đi qua một cái hang Santa theo kiểu tân thời, được nghe toàn những lời dối trá: việc ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki đã cứu sống “một triệu người”; Iraq được “giải phóng [bằng] không kích với sự chính xác phi thường”. Bối cảnh thực sự anh hùng: Chỉ có người Mỹ phải trả giá cho tự do. 

Chiến dịch tranh cử năm 2016 đáng chú ý không chỉ bởi vì sự xuất hiện của Donald Trump và Bernie Sanders mà còn bởi vì sự tái xuất hiện của một sự im lặng kéo dài về tính thần thánh tự phong đầy chết chóc. Một phần ba số thành viên của Liên Hiệp Quốc đang cảm thấy sự áp bức của Washington, lật đổ các chính quyền, tàn phá dân chủ, áp đặt phong tỏa và tẩy chay. Hầu hết các tổng thống phải chịu trách nhiệm đều là cánh tự do – Truman, Kennedy, Carter, Clinton, Obama.

Kỷ lục nghẹt thở của sự mất niềm tin cũng đang diễn ra trong nhận thức của công chúng, sau này Harold Pinter viết, điều đó “chưa bao giờ xảy ra… Không có gì xảy ra. Ngay cả khi điều đó đang diễn ra thì nó cũng không diễn ra. Điều đó không quan trọng. Không đáng quan tâm. Nó không quan trọng …”. Pinter nhại lại sự thừa nhận đối với cái mà ông gọi là “một sự thao túng lạnh lùng quyền lực thế giới trong khi giả bộ là lực lượng đứng về phía cái tốt phổ quát. Đó là một hành động vô thức cực kỳ thành công, nổi bật, thậm chí là hài hước.”

Ví dụ như Obama. Khi ông ta chuẩn bị mãn nhiệm, sự rác rưởi lại được bắt đầu lại từ đầu. Ông ta “tuyệt vời”. Một trong những tổng thống đầy bạo lực, Obama đã trao toàn quyền cho cỗ máy chiến tranh Lầu Năm Góc của tổng thống tiền nhiệm đã thất sủng. Ông ta truy tố nhiều người tiết lộ - những người nói sự thật – hơn bất cứ tổng thống nào khác. Ông ta tuyên bố Chelsea Manning có tội trước khi cô ta bị xét xử. Hiện nay, Obama thực hiện một chiến dịch khủng bố và giết chóc toàn cầu chưa từng có tiền lệ với máy bay không người lái.

Vào năm 2009, Obama hứa hẹn sẽ giúp “giải trừ vũ khí hạt nhân trên thế giới” và được trao giải Nobel Hòa Bình. Không có tổng thống Mỹ nào chế tạo nhiều đầu đạn hạt nhân hơn Obama. Ông ta “hiện đại hóa” các đầu đạn ngày tận thế của Hoa Kỳ, trong đó có các vũ khí hạt nhân “mini”, với kích thước và công nghệ “thông minh”, nói theo cách chung nhất, đảm bảo rằng việc sử dụng chúng là “không còn là bất khả thi”. 

James Bradley, tác giả của cuốn sách bán chạy “Những Lá Cờ Của Cha Anh” và là con trai của một trong số những người lính thủy Mỹ đã vẫy cờ trên đảo Iwo Jima, đã nói, “[Một] huyền thoại vĩ đại mà chúng ta được chứng kiến là Obama được coi là một gã yêu hòa bình cố gắng giải trừ vũ khí hạt nhân. Ông ta là chiến binh hạt nhân lớn nhất hiện nay. Ông ta mang đến cho chúng ta cuộc chạy đua đổ hàng nghìn tỷ dollar vào vũ khí hạt nhân. Đôi khi người ta chìm đắm trong ảo giác này bởi vì ông ta đưa ra những lời mập mờ trong các cuộc họp báo và bài diễn văn và các bức ảnh đẹp đôi khi được gắn kèm vào với chính sách hiện thực. Nhưng điều đó không đúng.” 

Dưới sự điều hành của Obama, một cuộc chiến tranh lạnh thứ hai đang được chuẩn bị. Tổng thống Nga đóng vai kẻ ác; người Trung Quốc vẫn chưa quay trở lại với hình tượng châm biếm mang tóc đuôi sam của họ - khi tất cả người Trung Quốc bị đuổi khỏi Hoa Kỳ - những các chiến binh truyền thông đang chuẩn bị cho điều đó. 

Cả Hillary Clinton cũng như Bernie Sanders đều chẳng thèm đề cập tới bất cứ điều gì. Không có rủi ro hay nguy hiểm nào đối với Hoa Kỳ và tất cả chúng ta. Đối với họ, sự gia tăng quân sự lớn nhất trên biên giới với Nga kể từ Thế Chiến II không hề diễn ra. Vào ngày 11/5, Romania đã “sống” cùng với một căn cứ “phòng thủ tên lửa” của NATO, đòn không kích đầu tiên của các tên lửa Hoa Kỳ sẽ nhằm vào trái tim của nước Nga, cường quốc hạt nhân thứ hai thế giới.

Ở Châu Á, Lầu Năm Góc gửi tàu chiến, máy bay và các lực lượng đặc nhiệm tới Philippines để đe dọa Trung Quốc. Hoa Kỳ đã bao vây Trung Quốc với hàng trăm căn cứ quân sự tạo thành một vòng cung từ Australia tới Châu Á và xuyên qua Afghanistan. Obama gọi điều đó là “xoay trục”.

Hệ quả trực tiếp là Trung Quốc đã thay đổi chính sách về vũ khí hạt nhân từ không sử dụng trước sang báo động cao và trang bị vũ khí hạt nhân cho các tầu ngầm. Sự leo thang đang được gia tốc.

Đó chính là Hillary Clinton, khi còn là ngoại trưởng vào năm 2010, đã đẩy vấn đề tranh chấp lãnh thổ ở các đảo đá và đá ở Biển Đông thành vấn đề quốc tế; CNN và BBC đã điên cuồng theo đuổi; Trung Quốc xây dựng sân bay trên các đảo có tranh chấp. Trong cuộc tập trận năm 2015, Chiến Dịch Thanh Kiếm Talisman, Hoa Kỳ thực hành việc “phong tỏa” eo biển Malacca mà hầu hết dầu và thương mại của Trung Quốc phải đi qua. Đó không phải là tin tức.

Clinton tuyên bố rằng Hoa Kỳ có “lợi ích quốc gia” ở vùng biển Châu Á này. Philippine và Việt Nam được khuyến khích và hối lộ để theo đuổi các đòi hỏi và sự thù địch xưa cũ đối với Trung Quốc. Ở Hoa Kỳ, người dân được chuẩn bị để coi mọi vị trí phòng vệ của Trung Quốc là tấn công và thế là hiện trường cần phải có sự leo thang cấp tốc. Một chiến lược khiêu khích và tuyên truyền tương tự cũng được áp dụng với Nga.

Clinton, “ứng cử viên của phụ nữ”, để lại một danh sách dài các cuộc đảo chính đẫm máu: ở Honduras, ở Libya (cùng với việc sát hại tổng thống Lybia) và Ukraine. Ukraine giờ là sàn diễn của CIA với diễn viên là đám phát xít và mặt trận trở thành cuộc chiến tranh chống lại Nga. Chính là thông qua Ukraine – theo nghĩa đen, vùng biên giới – mà quân phát xít của Hitler đã xâm lược Liên Bang Soviet, khiến 27 triệu người thiệt mạng. Thảm kịch ấy vẫn còn dấu vết ở Nga. Chiến dịch tranh cử của Clinton đã nhận tiền tài trợ từ chín trong số mười công ty vũ khí lớn nhất thế giới. Chưa từng có ứng cử viên nào làm được điều đó. 

Sanders, niềm hy vọng của nhiều thanh niên Mỹ, cũng không khác mấy so với Clinton trong thế giới quan về bên ngoài nước Mỹ. Ông ta ủng hộ việc ném bom phi pháp Serbia của Bill Clinton. Ông ta ủng hộ sự khủng bố bằng máy bay không người lái của Obama, sự khiêu khích đối với Nga và sự quay trở lại của các lực lượng đặc nhiệm (các đội tử thần) ở Iraq. Ông ta không nói gì về sự đe dọa đối với Trung Quốc và sự gia tăng nguy cơ chiến tranh hạt nhân. Ông ta đồng ý rằng Edward Snowden phải ra tòa và ông ta gọi Hugo Chavez – giống như ông ta, một người dân chủ xã hội – là “nhà độc tài cộng sản đã chết”. Ông ta hứa hẹn sẽ ủng hộ Clinton nếu như bà ta được đề cử.

Việc bầu chọn Trump hay Clinton chỉ là ảo tưởng lựa chọn xưa cũ, không có sự lựa chọn nào hết: hai mặt của cùng một đồng xu. Để đổ tội cho các nhóm thiểu số và hứa hẹn “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”, Trump là kẻ dân túy đối nội cánh hữu; tuy vậy Clinton có thể là sự nguy hiểm chết người hơn đối với thế giới. 

“Chỉ có mình Donald Trum nói những thứ ý nghĩa và mang tính phê phán đối với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ,” Stephen Cohen, giáo sư môn Lịch Sử Nga tại đại học Priceton và New York, đã viết, ông ta là một trong số ít các chuyên gia về Nga ở Hoa Kỳ đã phát biểu về nguy cơ chiến tranh.

Trong một chương trình phát thanh, Cohen nhắc đến những câu hỏi mang tính phê phán mà chỉ có Trump nói. Một số trong số chúng là: Tại sao Hoa Kỳ “có mặt ở khắp mọi nơi trên trái đất”? Nhiệm vụ thật sự của NATO là gì? Tại sao Hoa Kỳ luôn theo đuổi việc thay đổi chế độ ở Iraq, Syria, Lybia, Ukraine? Tại sao Washington coi Nga và Vladimir Putin là kẻ thù?

Sự cuồng loạn trong truyền thông tự do về Trump thể hiện ảo tưởng về “tranh luận tự do và cởi mở” cũng như “dân chủ được thực thi”. Quan điểm của ông ta về người nhập cư và Hồi giáo thực sự vớ vẩn, tuy vậy kẻ đứng đầu trong việc trục xuất những người yếu thế khỏi nước Mỹ lại là Obama chứ không phải Trump, di sản của Obama là sự phản bội đối với những người da màu: đa số tù nhân đang bị giam giữ là người da màu, giờ đây còn nhiều hơn trại khổ sai của Stalin. 

Chiến dịch tranh cử năm nay có thể không phải là về chủ nghĩa dân túy mà là về chủ nghĩa tự do Hoa Kỳ, một hệ tư tưởng coi bản thân là hiện đại và do vậy là siêu việt cũng như là con đường chân chính. Những người cánh hữu có sự tương đồng với đám đế quốc thế kỷ 19, với sứ mệnh Chúa đã giao phó về cải đạo, hợp tác hoặc chinh phục. 

Ở nước Anh, đó là chủ nghĩa Blair. Tội phạm chiến tranh Thiên Chúa Giáo Tony Blair đã rút lui với sự chuẩn bị bí mật cho sự xâm lược Iraq chủ yếu là bởi vì tầng lớp chính trị và truyền thông tự do thất vọng với “Anh Quốc tuyệt vời” của ông ta. Trên tờ Guardia, sự hoan nghênh đã câm lặng; ông ta được gọi là “thần bí”. Một sự đánh lạc hướng được coi là đặc trưng chính trị, được nhập khẩu từ Hoa Kỳ, dễ dàng bám lấy sự quan tâm đối với ông ta. 

Lịch sử được tuyên bố là đã kết thúc, giai cấp đã bị xóa bỏ và giới tính được khuyến khích theo chủ nghĩa nữ quyền; rất nhiều phụ nữ trở thành nghị sĩ của Đảng Lao Động Mới. Ngày đầu tiên tại Quốc Hội, họ bỏ phiếu cắt giảm phúc lợi của cha mẹ đơn thân, hầu hết là phụ nữ, như đã được chỉ dẫn. Đa số đã bỏ phiếu cho cuộc xâm lược Iraq khiến cho 700.000 phụ nữ Iraq bị góa chồng.

Sự tương tự ở nước Mỹ là những kẻ gây chiến đúng đắn về chính trị trên tờ New York Times, Washington Post và mạng lưới truyền hình, đang thống trị cuộc tranh luận chính trị. Tôi đã xem cuộc tranh luận dữ dội trên CNN về những sự phản bội của Trump. Điều đó là rõ ràng, họ nói, một người như vậy không đáng tin ở Nhà Trắng. Không có vấn đề nào được đặt ra. Không có gì về 80% người Mỹ có thu nhập tụt xuống dưới mức của những năm 1970. Không có gì về nguy cơ chiến tranh. Sự thông thái đã biết dường như chỉ là “bịt mũi trước những thứ bốc mùi” và bỏ phiếu cho Clinton: bất cứ ai ngoại trừ Trump. Theo cách đó, anh sẽ ngăn chặn con quái vật và đảm bảo hệ thống sẽ im lặng trước một cuộc chiến tranh khác. 

John Pilger can be reached through his website: www.johnpilger.com

Monday, April 11, 2016

Tại sao Singapore giàu còn Việt Nam thì chưa?

Singapore có dự án xây dựng đường sắt cần phải chặt hạ 1.000 cây xanh. Tụi cây quyền ở Singapore gom được ba mống đi biểu tình phản đối. Cảnh sát đến giải tán, đánh cả lũ một trận nhừ tử rồi đưa ra tòa với một lô một lốc trọng tội như gây rối trật tự công cộng, biểu tình bất hợp pháp, chống người thừa hành công vụ, cố ý gây thương tích, tuyên truyền tôn giáo trái phép, xúc phạm chính quyền, dụ dỗ trẻ vị thành niên, trốn thuế…tòa tống cả đám vào tù với dăm cái án chung thân và khoản tiền phạt khổng lồ. Cây bị đốn sạch và đường sắt được làm xong.

Việt Nam cũng có dự án xây dựng đường sắt phải chặt hạ 1.000 cây xanh. Việc chặt cây xanh được thông báo trước hai năm để lấy ý kiến dân chúng, không có đứa nào ý kiến ý cò gì hết. Đúng ngày khởi công chặt cây, tụi cây quyền thuê một mớ dân oan đi biểu tình với sự hộ tống của một bầy đông đảo báo chí kền kền quốc tế. Cảnh sát không dám đến giải tán vì ngán tụi nó kêu đàn áp nhân quyền. Báo chí nhào vô khóc mướn cho cây xanh um xùm. Một ông nghị ngẫn tuyên bố việc gì cũng phải tôn trọng ý kiến dân chúng. Việc chặt cây bị tạm đình lại. Ban quản lý dự án phải họp báo giải thích. Báo chí lại loan tin có doanh nghiệp Trung Quốc tham gia móc ngoặc dự án. Ban quản quản lý dự án lại phải họp báo thanh minh. Báo chí lại đăng tin có tham nhũng trong dự án. Ban quản lý dự án lại phải họp báo thanh minh. Nhà thầu thấy dự án bị đình trệ lâu mà báo chí lại hay săm soi bới móc đủ lỗi lớn nhỏ, họ bỏ chạy không làm nữa. Các nhà thầu khác cũng không dám nhận. Dự án đường sắt một đống tiền nằm chết dí đó không biết bao giờ mới xong.

Tụi cây quyền Việt Nam lên mạng ca ngợi nước Singapore là dân chủ và tôn trọng nhân quyền nên giàu có, còn Việt Nam là độc tài, tham nhũng và không tôn trọng nhân quyền nên nghèo đói.

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí nhưng không nhất thiết khác với sự thật)

Tuesday, March 29, 2016

Ủy viên Bộ Chính Trị và huyền thoại về Hòn Ngọc Viễn Đông

Việt Nam đã tự mình tạo ra một huyền thoại có thật của thời đại. Chỉ trong một thời gian chưa đầy nửa thế kỷ, người Việt Nam đã đánh bại những đế quốc sừng sỏ nhất thời đại để giành độc lập dân tộc, người Nhật phải từ bỏ giấc mơ Đại Đông Á, người Pháp bị đánh bại ở Điện Biên Phủ, người Mỹ bỏ chạy khỏi miền Nam Việt Nam và Trung Quốc không còn dám nhòm ngó biên giới phía Bắc, bên cạnh đó là cuộc chiến 10 năm đánh bại quân Khmer đỏ được cả Trung Quốc, Hoa Kỳ và Anh hậu thuẫn. Việt Nam là một huyền thoại có thật mà tất cả các nước thuộc địa kiểu cũ và mới đều mơ tới.

Những huyền thoại không có thật

Sau nhiều năm thoát khỏi những gian khổ hậu chiến và xây dựng lại đất nước, dường như huyền thoại của chính bản thân đã bị một số người Việt Nam quên lãng và họ dựa vào những huyền thoại mới, không có thật, thậm chí là bôi nhọ và bác bỏ điều thần kỳ thật sự mà người Việt Nam đã làm được.

Một ông bộ trưởng sắp về hưu đã mượn chuyện bịa đặt về một cậu bé Nhật Bản để noi gương cho Việt Nam, mặc dù đó là một câu chuyện ngớ ngẩn. 

Trước đây tại sao TPHCM được gọi là Hòn ngọc Viễn Đông. Nói Singapore là số 1 của khu vực. Hơn 50 năm trước, ông Lý Quang Diệu đã nhìn về Sài Gòn và mơ ước liệu sau này Singapore có được như Sài Gòn không? Thực chất là khi tách ra khỏi Malaysia thì Singapore mới chỉ là một cái làng chài. Do đó, tôi cho rằng khi đã là số 1 thì phải là toàn diện, tổng thể.
Ông bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh kiêm ủy viên Bộ Chính Trị đã nhắc lại một huyền thoại chống cộng nổi tiếng. Không hiểu từ bao giờ đám chống cộng cặn bã đã bịa ra chuyện Lý Quang Diệu nói rằng Singapore từng ao ước được như Sài Gòn, mục đích là để xuyên tạc rằng Sài Gòn dưới thời thuộc địa xưa giàu có trù phú và cộng sản Việt Nam đã phá hủy nó. 
Lee thinks there's some point to buying time with a shield because he believes in the great-man theory of history. And the great man is none other than Lee Kuan Yew, who thinks that because of his own competence and shrewdness Singapore has succeeded where South Vietnam has failed. "If you can find the group of men who could do it," Lee said in Dunster, "Saigon can do what Singapore did." In fact, the prime minister boasted, "If one looked at Saigon and Singapore in 1954, one would have said Singapore was the goner, not Saigon." (in nghiêng thêm vào)

Trong quá khứ, Singapore đã phát triển hơn Sài Gòn rất nhiều, chính trong bài báo vào năm 1967 đã dẫn ở trên, tờ The Crimson đã cho biết thu nhập bình quân đầu người của Singapore vào lúc đó là 500 dollar/năm và Singapore có mức sống cao nhất Đông Nam Á, nên việc Singapore ước ao như Sài Gòn rõ là chuyện hoang đường. Trong bài phát biểu tại Havard vào năm 1967, Lý Quang Diệu chê ngụy quyền Sài Gòn không làm được điều mà Singapore đã làm khi nói rằng: “Nếu ai đó nhìn lại Sài Gòn và Singapore vào năm 1954, họ sẽ phải thừa nhận rằng Singapore dễ sụp đổ hơn nhiều.” Ở đây Lý nói về tình hình chính trị hồi đó. Ông ta cho rằng ngụy quyền Sài Gòn đã có điều kiện chính trị thuận lợi hơn Singapore nhiều vào năm 1954 để duy trì sự độc lập và chống lại cộng sản, nhưng ngụy quyền Sài Gòn không làm được điều ấy. Một câu nói chỉ trích sự thất bại của chính quyền Sài Gòn của Lý Quang Diệu đã bị đám chống cộng xuyên tạc thành câu ca tụng Sài Gòn thời thuộc địa.

Tất nhiên cho dù ông bí thư thành ủy có ngây thơ, không biết rằng đó là một câu chuyện bịa đặt thì cũng chưa phải là vấn đề lớn. Chuyện quan trọng hơn nhiều là lập trường chính trị của một bí thư thành ủy và ủy viên bộ chính trị. 

Về Lý Quang Diệu

Báo chí Việt Nam hiện nay thường hay trích dẫn những điều Lý Quang Diệu nói về Việt Nam mà họ thấy vừa tai, thậm chí một số tờ báo còn gọi Lý là bạn của nhân dân Việt Nam (mặc dù người bạn tốt này thường xuyên ủng hộ đế quốc chia cắt đất nước và ném bom xuống đầu người dân Việt Nam), nhưng họ không bao giờ đưa tin về hoạt động chống phá Việt Nam điên cuồng của ông ta. Thời chiến tranh chống Mỹ, Lý Quang Diệu là kẻ ủng hộ Mỹ triệt để nhất. Singapore không chỉ tham gia cung cấp hậu cần và đạn dược cho quân đội Mỹ, khi Mỹ định ngừng ném bom miền Bắc và rút quân khỏi miền Nam, Lý Quang Diệu đã kêu gọi Mỹ tiếp tục tham chiến ở Việt Nam. Ông ta so sánh Việt Nam với Nam Tư ở Châu Âu và nói rằng nếu Mỹ không can thiệp thì cộng sản Việt Nam sẽ xâm lược hết toàn bộ bán đảo Đông Dương. 

Theo con gái của Lý kể lại thì sau khi chế độ ngụy quyền Sài Gòn sụp đổ, Lý Quang Diệu đã gọi cả gia đình vào phòng ngủ và nói rằng: “Mẹ các con và ta sẽ ở lại đây cho đến sự kết thúc cay đắng. Hiển Long đã tham gia quân đội và phải thực hiện nghĩa vụ. Nhưng cả ba người không bị bắt buộc phải ở lại.” Điều này lý giải thái độ chống phá Việt Nam đến cùng của Lý, ông ta sợ rằng Việt Nam sẽ là hình mẫu để người cộng sản ở Malaysia và Singapore noi theo. 

Sau đó, khi Việt Nam chống lại quân du kích Khmer đỏ ở Campuchia thì Lý cũng công khai ủng hộ Khmer đỏ, ông ta không chỉ tiếp tay cung cấp vũ khí cho chúng mà còn bảo vệ chúng trên truyền thông, phủ nhận mọi tội ác mà Khmer đỏ đã gây ra với người Campuchia cũng như người Việt Nam (chi tiết này được nhà báo nổi tiếng John Pilger nhắc đến trong bài báo xuất sắc Year Zero nói về nạn diệt chủng ở Campuchia). Lý chưa bao giờ là người muốn thấy một nước Việt Nam cộng sản giàu mạnh, ông ta sợ điều đó ảnh hưởng tới chế độ gia đình trị thân phương Tây mà ông ta đã tạo ra ở Singapore. Do vậy, những điều mà Lý nói về Việt Nam đều thiên kiến và rất không đáng tin cậy.

Huyền thoại “Hòn Ngọc Viễn Đông”

Có lẽ các nước thực dân có thói quen gọi thuộc địa của họ ở Châu Á là “Hòn Ngọc Viễn Đông” nên Châu Á có rất nhiều “Hòn Ngọc Viễn Đông”. 

Hong Kong là “Hòn Ngọc Viễn Đông” từ lâu.


Manila của Philippines cũng là “Hòn Ngọc Viễn Đông” từ rất lâu.

Sri Lanka cũng vậy. Thậm chí Sri Lanka còn thường xuyên được so sánh với Singapore vì cùng từng là thuộc địa của Anh, cùng là quốc đảo có vị trí thuận lợi trên con đường biển quan trọng, giành độc lập sớm hơn nhưng lại không phát triển như Singapore.

Đảo Penang của Malaysia cũng được gọi là “Hòn Ngọc Viễn Đông”.

Cả Manila của Philippines và đảo Penang của Malaysia đều bị so sánh với Singapore. Lý Quang Diệu đã từng nói rằng ông ta không hiểu lý do Manila từng rất phát triển vào những năm 1960 rồi sau đó lại suy tàn dưới thời Marcos. Đảo Penang thì gần giống với Singapore và người Malaysia đã hỏi tại sao Singapore phát triển còn đảo Penang thì không. 

Thành phố Hồ Chí Minh không phải là "Hòn Ngọc Viễn Đông" duy nhất ở Đông Nam Á. 

Điều duy nhất mà người ta có thể hy vọng là sau khi nghe ông bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh kiêm ủy viên Bộ Chính Trị phát biểu về "Hòn Ngọc Viễn Đông" các cựu chiến binh không trở về nhà và họp gia đình. 

Thursday, March 10, 2016

Bóc mẽ các huyền thoại chống phúc lợi xã hội

Bài A Citizen’s Guide to Combating Election Propaganda: Debunking Anti-Welfare Myths của Anthony DiMaggio có hai khía cạnh đáng chú ý, thứ nhất là ngay cả khi nhận trợ cấp xã hội thì người nghèo vẫn cứ nghèo, thứ hai là người nghèo thực sự không lười biếng và nghiện ngập như truyền thông vẫn rêu rao. Điểm sau có thể liên hệ với Việt Nam, khi mà phong trào bôi nhọ người nghèo là lười biếng, ngu dốt, nghiện ngập đang ngày càng trở nên phổ biến, thậm chí còn trở thành mốt để câu view trên mạng xã hội của một số người. 

Một hướng dẫn chống lại tuyên truyền bầu cử cho công dân: Bóc mẽ các huyền thoại chống phúc lợi xã hội 

Sự thành công của giới thượng lưu kinh tế và chính trị trong việc tạo ra sự ngu dốt phổ biến trở thành thứ cản trở lớn nhất đối với sự trao quyền dân chủ hiện nay. Xúi giục sự sợ hãi và khinh bỉ đối với “người khác” – bao gồm cả người thiểu số và người nghèo, là chiến thuật phổ biến được áp dụng trong bầu cử để thu được sự ủng hộ của cử tri. Đó là mục đích của việc xúi giục sự ngạo mạn – như được thấy trong việc bôi nhọ người nghèo và trong sự tán dương những người ‘làm việc’ trái ngược với những người (được cho là) “không làm việc”. Không may thay, hàng sa số người Mỹ trở thành nạn nhân của kỹ thuật chia rẽ và chinh phục mà giới thượng lưu sử dụng. Mục đích trước mắt phải là tạo ra các công dân có tư duy phê phán, để quần chúng không dễ dàng “chấp nhận những gì họ nghe thấy” mỗi bốn năm từ những bộ mặt xinh đẹp đang tranh cử. Những điều viết dưới đây là một chỉ dẫn cho độc giả để giúp họ đối thoại với bạn bè, hàng xóm, người quen và gia đình, để chống sự tuyên truyền phát xít, phân biệt thường xuyên được áp dụng chống lại các nhóm bất lợi ở Hoa Kỳ.

Ở đây, tôi tập trung vào các mẫu rập khuôn chống phúc lợi được các ứng cử viên chủ chốt của năm nay sử dụng. Donald Trump và Tech Cruz, bên cạnh đó là Hillary Clinton, dựa vào các mẫu rập khuôn cũ kỹ, bôi nhọ người nghèo nhằm cắt giảm chi tiêu phúc lợi xã hội. Hình mẫu của Clinton bắt nguồn từ những năm 1990, khi bà ta và chồng thành công với Luật Điều Hòa Trách Nhiệm Cá Nhân và Cơ Hội Nghề Nghiệp (PRWORA), xóa bỏ chương trình trợ cấp của chính quyền quốc gia cho các gia đình có trẻ em phụ thuộc (một sáng kiến chống nghèo khổ thành công bắt nguồn từ Đại Khủng Hoảng). Sự ủng hộ của Clinton đối với PRWORA được biện minh bằng giả định là người nghèo tìm cách hưởng lợi miễn phí từ hệ thống phúc lợi và từ chối làm việc, so với hầu hết người Mỹ đang kiếm sống bằng cách làm việc chăm chỉ và hy sinh.

Cruz và Trump tiếp tục sự đả kích của Clinton đối với người nghèo. Cruz đả kích chương trình phiếu thực phẩm (Chương Trình Hỗ Trợ Dinh Dưỡng Bổ Sung,hay SNAP) cho “hàng triệu người mắc kẹt trong sự phụ thuộc dài hạn”, đồng thời Trump lên án các chương trình phúc lợi tạo ra “phần thưởng” cho bộ phận người nghèo “không làm việc”. Trump nhắc lại phát biểu cũ của Romney trong cuộc tranh cử tổng thống năm 2012, cho rằng “chúng ta có một xã hội ăn không ngồi rồi. 50% không thể cáng đáng, và thật bất công đối với họ, nhưng không thể cáng đáng cả 50% còn lại.”

Từ lâu tôi đã thất vọng về “kiến thức phổ thông” liên quan tới các chương trình phúc lợi của Hoa Kỳ. Nhiều người bảo thủ mà tôi biết chấp nhận “kiến thức” này chỉ bởi vì họ nghe được từ bố mẹ, bạn bè và giới thượng lưu chính trị, mà không hề xem xét các bằng chứng thực tế. Sự rối loạn nhận thức là vấn đề chủ chốt, công dân ngày càng bám chặt lấy niềm tin của họ khi đối mặt với các bằng chứng hiển nhiên phủ nhận những định kiến có sẵn của họ. 

Về mặt lịch sử thì Hoa Kỳ là nước ít giảm thuế và chi tiêu cho tất cả các loại chương trình xã hội nhất trong số các quốc gia giàu có, mặc dù người ta sẽ khó có thể biết được điều này khi xem truyền thông đại chúng và bình luận chính trị. Thế còn bao nhiêu khẳng định chống phúc lợi được đưa ra trong các bài diễn văn ở Hoa Kỳ thì sao? Tôi sẽ liệt kê chúng ở dưới, giúp các bạn thấy rằng hầu hết những gì mà giới thượng lưu chính trị nói với bạn về người hưởng phúc lợi đều sai.

Huyền thoại “người hưởng phúc lợi lái xe Cadillac và ăn tôm hùm” 

Những khẳng định này phổ biến từ thời Reagan. Chúng ta được nghe rằng, những người hưởng phúc lợi đã khéo léo thao túng hệ thống và có nhiều tiền tới mức họ có thể đi xe Cadillac Escalades cũng như mua bít tết và tôm hùm, trong khi người lao động Mỹ bình thường phải nỗ lực và tránh những chi tiêu xa hoa. 

Trên thực tế, hầu hết người nghèo Mỹ đều nỗ lực để được ăn tốt hơn và có được phương tiện đi lại cơ bản. Liên quan đến tiêu thụ thực phẩm, mối liên hệ mạnh giữa nghèo khổ và béo phì ở Hoa Kỳ đã được biết rõ, người nghèo Mỹ không đủ khả năng mua các thức phẩm lành mạnh như trái cây và rau cỏ. Để so sánh, thực phẩm chế biến sẵn, thường xuyên là các sản phẩm làm từ ngô được trợ cấp của chính quyền, rất rẻ và được người nghèo tiêu thụ nhiều. Theo dữ liệu gần đây của American Journal of Clinical Nutrition, 1 dollar có thể mua 1.200 calorie của khoai tây chiên hoặc 875 calorie của soda, nhưng chỉ mua được 250 calorie của rau cỏ hoặc 170 calorie của hoa quả tươi. Cũng cần phải thấy là những bang nghèo nhất của Hoa Kỳ là những bang có nhiều người béo phì nhất. Theo bản tin của CNN, “5 bang nghèo nhất cũng nằm trong số 10 bang có nhiều người béo nhất, 8 trong số 10 bang nghèo nhất cũng nằm trong số 10 bang có tuổi thọ thấp nhất.” Ở Hoa Kỳ, số người trung bình trong một gia đình thuộc nhóm 20% nghèo nhất theo phân phối thu nhập chỉ nhận được 3,33 dollar một ngày từ chương trình SNAP để chi trả cho thực phẩm. Sự trợ cấp nghèo nàn này có nghĩa là người nghèo Mỹ bị buộc phải “co kéo chi tiêu”, thường xuyên sử dụng thực phẩm giá rẻ, nhiều muối và chất béo.

Về phương tiện đi lại, người hưởng phúc lợi hiếm khi phù hợp với định nghĩa giàu có của giới thượng lưu đi xe Cadillac. Người ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy người hưởng phúc lợi xã hội vẫn tiếp tục lái chiếc xe trông có vẻ đắt đỏ còn lại từ trước khi họ mất việc. Nhiều người Mỹ đã rớt nhanh từ sự giàu có xuống thất nghiệp sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008. Nhìn chung, người hưởng phúc lợi ít sở hữu xe hơi hơn những người không hưởng phúc lợi. Trong khi chỉ có 3% số hộ gia đình không hưởng phúc lợi không có xe hơi thì số lượng những người hưởng phúc lợi không có xe hơi chiếm gần một phần tư. Hộ gia đình trung bình hưởng phúc lợi xã hội có một xe hơi trong khi hộ gia đình trung bình không hưởng phúc lợi xã hội sở hữu hai chiếc. 

Các nghiên cứu trước đây cho biết đi lại là vấn đề của người hưởng phúc lợi xã hội. Ví dụ, một nghiên cứu của Minnesota cho biết 85% số người hưởng phúc lợi xã hội của bang coi đi lại là “vấn đề lớn” hoặc “một dạng vấn đề” khi muốn giữ việc làm. Các nghiên cứu ở Illinois và New Jersey cho biết khoảng ¼ số cư dân của bang nói vấn đề đi lại cản trở khả năng làm việc của họ. Số lượng còn cao hơn trong các nghiên cứu của Missouri và Utah, 57% và 55% số người nói rằng đi là “rào cản đối với việc làm”. Thực trạng của việc làm ở Hoa Kỳ là chúng ta có nền văn hóa lấy xe hơi làm trung tâm. Để nắm lấy một cơ hội việc làm, người ta cần có tiền cho việc đi lại. Nhiều người nghèo Mỹ đã cảm thấy sự khó khăn trong nền văn hóa xe hơi này, hoặc là không thể mua một chiếc xe hơi, hoặc là khó giữ được một chiếc xe hơi cũ kỹ. 

Huyền thoại “họ không muốn làm việc và chưa bao giờ có việc làm” 

Nhiều bạn bè, gia đình và sinh viên nói chuyện với tôi đã mặc định trong nhiều năm là phúc lợi xã hội hào phóng tới mức những người hưởng chúng không cần phải làm việc. Sự mặc định đó có thể phủ nhận bằng nhiều lý do. Thứ nhất, nếu người ta xem xét những người hưởng phúc lợi từ chương trình phúc lợi chính của nhà nước ở Hoa Kỳ - Hỗ Trợ Tạm Thời Cho Các Gia Đình Khẩn Cấp (TANF) – điều kiện về việc làm là ít nhất 30 giờ mỗi tuần cho mỗi người, hoặc 50 giờ làm việc mỗi tuần cho cả đôi, để được nhận phúc lợi. Hơn nữa, những phúc lợi này chỉ giới hạn trong 5 năm (ít hơn ở một số bang). Nói tóm lại, những người hưởng TANF không có cách nào tránh làm việc bởi tính chất cực kỳ ngắn hạn của chương trình này, cùng với các điều kiện về việc làm gắn liền trong đó. Người hưởng TANF trung bình của gia đình 3 người trong số 20% nghèo nhất Hoa Kỳ nhận được phúc lợi trung bình 42 dollar/tháng, khó có thể đủ để không phải làm việc. Sự cáo buộc rằng người nghèo được hưởng phúc lợi dồi dào tới mức họ không cần làm việc là luận điệu tuyên truyền ngớ ngẩn, ngây thơ và không có bằng chứng. Hai phần ba số người hưởng TANF tham gia chương trình ít hơn 1 năm và thời gian trung bình tham gia chương trình của người nhận phiếu thực phẩm và Mediaid là từ 1 đến 3 năm.

Huyền thoại “phúc lợi khiến người nghèo trở nên lười biếng” 

Các thống kê mới đây về người hưởng phúc lợi xã hội cho thấy đại đa số người được chia theo các nhóm nhân khẩu học cần sự trợ giúp của liên bang hay bang vì nhiều lý do rõ ràng. Đại đa số người hưởng phúc lợi không phải là những người có thể từ chối làm việc. Hơn 90% số người hưởng phúc lợi xã hội nằm trong ba nhóm sau đây. Họ là A. đang làm việc và thu nhập thấp đến mức được xếp vào nhóm “người nghèo có việc làm” và đủ điều kiện nhận trợ cấp xã hội; B. tàn phế và không có khả năng thực hiện các hoạt động nghề nghiệp như những người khỏe mạnh; hoặc C. người già và có thu nhập cố định từ lương hưu dựa trên phúc lợi 401K, An Sinh Xã Hội và các phúc lợi khác. Đại đa số những người thuộc nhóm thứ ba đã làm việc suốt thời trẻ, thế nên khẳng định về sự lười biếng là không đúng. 

Huyền thoại “họ muốn có nhiều con cái để hưởng thêm phúc lợi” 

Một trong những huyền thoại thô tục nhất chống lại những người hưởng phúc lợi xã hội là họ có nhiều con cái, để gia tăng phúc lợi và không phải làm việc. Tôi biết rất nhiều người hưởng phúc lợi (và bản thân cũng từng hưởng phúc lợi), tôi chưa từng gặp bất kỳ ai trong suốt cuộc đời mình giống như định nghĩa đó. Tuy vậy, những người phản đối phúc lợi xã hội mà tôi biết gần như là thường xuyên lặp đi lặp lại khẳng định này. Khi xem xét kỹ lưỡng về quy mô gia đình theo thu nhập, người ta có thể thấy là có ít bằng chứng về việc người nghèo Mỹ có gia đình lớn hơn. Quy mô hộ gia đình trung vị ở Hoa Kỳ là 2,54 người. 

Dữ liệu cho thấy quy mô hộ gia đình lớn hơn phổ biến nhất trong nhóm gia đình có thu nhập cao hơn, ba nhóm với tỷ lệ lớn nhất của gia đình có nhiều hơn ba người thuộc về phần có thu nhập cao nhất. Những người kiếm được ít hơn 10.000 dollar/năm là nhóm lớn thứ tư có gia đình nhiều hơn ba người, nhưng ba nhóm có số gia đình nhiều hơn ba người nhỏ nhất nằm dưới gia đình có thu nhập trung vị quốc gia 50.000 dollar. Nói tóm lại, bằng chứng ở đây cho thấy hầu hết các cá nhân với thu nhập thấp thực sự có gia đình nhỏ hơn những người có thu nhập cao và các gia đình hưởng phúc lợi xã hội không lớn hơn gia đình không hưởng phúc lợi xã hội trung bình.

Huyền thoại “phúc lợi xã hội hào phóng nên người nghèo đã trở nên giàu có” 

Huyền thoại này quá ngớ ngẩn để thảo luận, hãy xem xét khoảng cách giữa hình tượng nữ hoàng hưởng phúc lợi lái xe Cadillac và hiện thực của người hưởng phúc lợi xã hội đang sống trong nghèo khổ. Tuy vậy, những người ủng hộ các giá trị chính trị phản động rất hay lặp lại điều này. Để điều chỉnh lại sự lệch lạc này, cần phải xem xét các thống kê sau đây. 1. Đại đa số gia đình hưởng phúc lợi – 75% - là người thuê nhà, không phải là chủ nhà. Trái lại, hơn 75% số gia đình không hưởng phúc lợi sở hữu nhà. 2. Thu nhập trung bình của những người thuộc nhóm 20% dưới cùng theo thu nhập – những người hầu như phải nhận phúc lợi – là khá thấp. Thu nhập của họ một phần thuộc về người nghèo có việc làm chỉ là 11.490 dollar/năm vào năm 2012, theo Cục Thống Kê Hoa Kỳ. Thu nhập ít ỏi của họ được bổ sung bằng phúc lợi xã hội, mặc dù những phúc lợi này cũng ít ỏi. Theo Cục Thống Kê, gia đình ba người trong nhóm 20% nghèo nhất theo thu nhập, hưởng phúc lợi từ 10 chương trình phúc lợi lớn nhất, bao gồm Medicaid, Phụ Nữ và Trẻ Em Sơ Sinh, trợ cấp nhà ở công cộng, phiếu thực phẩm, TANF, bảo hiểm y tế trẻ em nhà nước, tín dụng Thuế Thu Nhập Nhận Được, tín dụng thuế trẻ em, trợ cấp bảo hiểm y tế “Obamacare” và khấu trừ thuế phụ thuộc, trung bình chỉ là 9.000 dollar/năm, hay 3.000 dollar mỗi người. Đối với hộ gia đình ba người trong nhóm 20% thu nhập thấp nhất, tổng cộng thu nhập và phúc lợi tạo ra thu nhập bình quân chỉ là 20.490 dollar/năm. Đây là một thắng lợi vang dội của tuyền truyền về việc hộ gia đình ba người với thu nhập thấp nhờ vào phúc lợi xã hội có thể trở thành một phần của giới thượng lưu Hoa Kỳ.

Huyền thoại “người hưởng phúc lợi nghiện ngập hơn là làm việc” 

Huyền thoại này cần phải bác bỏ vĩnh viễn dựa trên dữ liệu hiện thời về việc sử dụng chất gây nghiện của người hưởng phúc lợi. Khi Tennessee bắt buộc người hưởng phúc lợi xã hội phải kiểm tra chất gây nghiện, nhiều người cho rằng điều đó là một bước tiến lớn trong trách nhiệm của chính quyền. Trái lại, việc kiểm tra cho thấy sự sử dụng chất gây nghiện của người hưởng phúc lợi xã hội là không tồn tại, theo số liệu thống kê. Chỉ có 800 người hưởng phúc lợi xã hội có kết quả dương tính đối với chất gây nghiện, hoặc 1% tổng số người hưởng phúc lợi. Các bang khác, trong đó có Arizona, Kansas, Missouri, Mississippi, Oklahoma, và Utah cũng áp dụng việc kiểm tra chất gây nghiện. Việc kiểm tra ở các bang này cho biết tỷ lệ dương tính đối với chất gây nghiện trung bình là từ 2 đến 8,4% số người hưởng phúc lợi xã hội, trái ngược với các khảo sát cho thấy tỷ lệ sử dụng chất gây nghiện của quốc gia là 9,4%. Các quan chức bảo thủ khẳng định rằng kiểm tra chất gây nghiện sẽ tiết kiệm cho quốc gia hàng đống tiền nhờ tống cổ hàng sa số những kẻ nghiện ngập ra khỏi chương trình phúc lợi. Nhưng việc bôi nhọ người hưởng phúc lợi xã hội như là những kẻ nghiện ngập là hoàn toàn dối trá.

Nhiều người Mỹ sẽ từ chối xem xét lại sự thù ghét người nghèo bắt nguồn từ sự tiếp nhận thông tin sai lệch của họ. Điều đó đã ăn quá sâu vào tâm lý và cá tính của họ để có thể loại bỏ. Nhưng với tư cách những người tiến bộ, chúng ta có trách nhiệm lật tẩy những điều đó trong kỳ bầu cử này bất cứ khi nào chúng ta có thể, bất kể là từ nguồn nào. Đối với những người dựa vào trợ cấp của chính quyền bị giới thượng lưu chính trị bôi nhọ để theo đuổi nghị trình giai cấp thượng lưu hẹp hòi, sự rủi ro là rất lớn.

Đối với các độc giả quan tâm, dữ liệu trong bài báo này được trích dẫn từ các nguồn sau

Arloc Sherman, Robert Greenstein, and Kathy Ruffing, “Contrary to ‘Entitlement Society’ Rhetoric, Over Nine-Tenths of Entitlement Benefits Go to Elderly, Disabled, or Working Households,” Center on Budget and Policy Priorities, February 11, 2012, 

Bryce Covert, “Your Assumptions About Welfare Recipients are Wrong,” Think Progress, December 18, 2013, http://thinkprogress.org/economy/2013/12/18/3081791/welfare-recipient-spending/

Tax Policy Center, “Household Income Quintiles, 2000-2012,” June 25, 2014,

LZ Granderson, “Poor and Fat: The Real Class War,” com, June 8, 2012,

Glenn Kessler, “A Misleading Chart on Welfare Spending,”Washington Post, February 21, 2013,

Pew Research Center, “January 2014 Political Survey,” January 15, 2014, 

Bryce Covert and Josh Israel, “What 7 States Discovered After Spending More Than $1 Million Drug Testing Welfare Recipients,”Think Progress, February 26, 2015,

Heidi Goldberg, “State and County Supported Car Ownership Programs Can Help Low-Income Families Secure and Keep Jobs,”Center on Budget and Policy Priorities, November 28, 2001, http://www.cbpp.org/archives/11-8-01wel.htm

Darlena Cunha, “Why Drug Testing Welfare Recipients is a Waste of Taxpayer Money,” Time Magazine, August 15, 2014,

Arthur Delaney, “How Long Do People Stay on Public Benefits?” Huffington Post, May 29, 2015,

Anthony DiMaggio là tiến sĩ khoa học chính trị của trường đại học Illinois, Chicago. Ông giảng dạy ở nhiều trường cao đẳng và đại học, cũng như viết nhiều sách, trong đó có các cuốn Mass Media, Mass Propaganda (2009), When Media Goes to War (2010), Crashing the Tea Party (2011), và The Rise of the Tea Party (2011). Có thể liên hệ với ông qua thư điện tử: anthonydimaggio612@gmail.com

Wednesday, March 9, 2016

Chuyện tầm phào của một ông bộ trưởng


Mới rồi có ông bộ trưởng liên hệ tới câu chuyện động đất sóng thần xảy ra tại Nhật Bản năm 2011 nói rằng:
Truyền thông quốc tế đưa tin một cháu bé 9 tuổi phải xếp hàng chờ phát bánh mì cứu trợ. Dù được ưu tiên đưa bánh mì trước, thế nhưng cháu bé đã bước lên trả lại và quay trở lại để xếp hàng. Một đất nước như vậy mới mong phát triển được.
Câu chuyện này diễn ra chưa lâu, nhưng sau này hầu hết những người chú ý theo dõi tin tức trên mạng đều biết rằng câu chuyện về cậu bé Nhật Bản đó là sản phẩm hư cấu của một nhà văn Việt Nam thuộc dạng cực hữu, chuyên đả kích chính quyền. Đây là một câu chuyện bịa, chưa từng có ai xác thực được nó và cũng không có truyền thông quốc tế nào đưa tin ngoài mấy trang blog lề trái và đám báo mạng Việt Nam luôn sao chép chụp giật không cần kiểm chứng. Ông bộ trưởng thậm chí còn kể sai cả câu chuyện (bịa) đó, đứa bé đang xếp hàng ấy không được ưu tiên phát đồ cứu trợ (không phải bánh mỳ, một người bình thường cũng biết là người Nhật không ăn bánh mỳ) mà được một người khác cho túi lương khô nhưng lại đem bỏ vào thùng chứa đồ cứu trợ để phát cho mọi người, còn nó thì tiếp tục xếp hàng.

Câu chuyện này được ông bộ trưởng dùng để so sánh với việc cầu lộc cầu tài của quan chức và doanh nghiệp và lý giải lý do Việt Nam thua kém các nước. Đại ý của ông là do dân Việt Nam chỉ thích ăn sẵn, không chịu hy sinh và không cố gắng phấn đấu. Truyền thông Việt Nam ưa thích những câu chuyện kiểu này, đám cực hữu lề trái cũng vậy, thế nên không có gì lạ khi phát biểu cũng như bản thân ông bộ trưởng được coi là hình mẫu của sự 'nói thẳng nói thật', 'thực sự có tâm vì đất nước'. Tất nhiên, sự 'nói thẳng nói thật' có bắt đầu bằng những điều dối trá thì cũng không vấn đề gì, vì ý nghĩa của nó quan trọng hơn nhiều. 

Nhiều năm trở lại đây, người ta được chứng kiến sự xét lại điên cuồng của những kẻ cực hữu và chống chế độ ở Việt Nam đối với câu chuyện được đưa vào sách giáo khoa về một cậu bé anh hùng. Đó là câu chuyện về thiếu niên Lê Văn Tám tự châm lửa lên mình để đốt kho xăng của địch. Cả truyền thông cũng như đám lề trái đều ra sức chứng minh rằng đó là một câu chuyện bịa đặt, được dựng lên để tuyên truyền và đó là bằng chứng cho sự nói láo của chế độ cộng sản. Tất nhiên, một người 'nói thẳng nói thật' như ông bộ trưởng thì có lẽ sẽ không bao giờ lấy hình ảnh tuyên truyền như Lê Văn Tám, cho dù hình ảnh ấy có được đưa vào sách giáo khoa và là của Việt Nam, để ca ngợi tinh thần hy sinh vì đất nước hay minh họa cho phát biểu của ông, bởi vì thật nguy hiểm khi dựa vào một điều mà nhiều người cho là sự bịa đặt.

Hình ảnh Lê Văn Tám về bản chất không khác gì hình ảnh cậu bé Nhật Bản (được bịa ra) kia, họ đều hy sinh vì đất nước, đều vì cái chung mà hy sinh cái riêng. Nếu như đám quan chức và dân đen trong bài phát biểu của ông bộ trưởng cầu xin một thánh thần xa lạ nào đó ban bổng lộc cho họ mà không tự mình chịu gian khổ kiếm lấy, làm cho hình ảnh dân tộc Việt Nam trở nên xấu xí trong mắt quốc tế và cho thấy một não trạng trì trệ khó có thể phát triển, thì việc vay mượn hình ảnh nước ngoài (bịa đặt) để minh họa cho lý tưởng của mình bất chấp hình ảnh tương tự có thật và đã tồn tại lâu dài của xứ sở mình, trên thực tế, cũng tương tự như hành động khấn vái thần thánh của đám quan chức và dân đen mê muội kia. Cả hai đều không tin vào những gì mình đã có, do vậy không tin ở bản thân mình và buộc phải cầu khẩn đến những thứ xa lạ. 

Đám dân đen và quan chức mê muội thì cầu xin của thánh thần, còn những người 'nói thẳng nói thật' 'hết lòng vì dân vì nước' thì cầu khẩn những bóng ma ngoại quốc. Những câu chuyện thật là tầm phào, tất nhiên dưới những hình thức khác nhau.

Lưu ý: Một số báo sau khi đăng bài phát biểu của ông bộ trưởng có lẽ đã nhận ra vấn đề với câu chuyện em bé Nhật Bản nên đã cắt bỏ phần đó, tuy nhiên một số báo khác vẫn đăng đầy đủ.

Tuesday, March 8, 2016

Cách người giàu lấy tiền của người nghèo ở Hoa Kỳ

Qua bài 'Reverse Robin Hood: Six Billion Dollar Businesses Preying on Poor People' của Bill Quigley, chúng ta có thể thấy cách mà chế độ tư bản bóp nặn từng đồng xu nhỏ của người nghèo mà không cần đến bạo lực, chỉ cần quan hệ mua bán bình thường. 

Robin Hood đảo ngược: Sáu hoạt động kinh doanh trị giá hàng tỷ dollar kiếm tiền trên lưng người nghèo.

Nhiều người thấy những gia đình nghèo khổ và tìm cách giúp đỡ. Những người thấy những gia đình nghèo khổ và thấy cơ hội kiếm lợi.

Đây là sáu ví dụ về cách ngành công nghiệp tỷ dollar được xây dựng trên lưng những người nghèo đơn độc, nhất là người da màu, từ tiền của họ, một dạng Robin Hood đảo ngược.

Dịch vụ đổi séc ra tiền mặt 

Dịch vụ đổi séc ra tiền mặt. Đổi tờ séc 100 dollar? Ở Walmart sẽ có giá là 3 dollar. Tại ngân hàng TD, một người không phải là khách hàng sẽ phải trả 5 dollar để đổi séc ra tiền mặt. 

Gần 10 triệu hộ gia đình với 25 triệu người dân không có bất kỳ tài khoản ngân hàng nào theo thống kê của FDIC. Hầu hết là bởi vì họ không có đủ tiền để duy trì số dư tối thiểu trong tài khoản. Dịch vụ đổi séc ra tiền mặt là một phần của ngành công nghiệp trị giá 100 tỷ dollar với hơn 6.500 cơ sở đổi séc ra tiền mặt ở Hoa Kỳ, nhiều trong số đó cũng cung cấp dịch vụ chuyển tiền, thanh toán hóa đơn dịch vụ công cộng và tương tự, theo lời khai trước Quốc Hội của ngành này. 

Các cửa hàng cầm đồ 

Hơn 30 triệu người sử dụng dịch vụ cho vay của các cửa hàng cầm đồ cho khoản vay trung bình 150 dollar. Một doanh nghiệp, Cash America, có 84 trung tâm đổi séc ra tiền mặt và 859 điểm cho vay ở Hoa Kỳ, hơn 260 chỉ riêng ở Texas, kiểm soát hơn 1 tỷ dollar nợ cầm đồ. Trong báo cáo thường niên năm 2014, họ cho biết có 30% số người không bao giờ quay lại để chuộc đồ đã cầm cố và việc bán những đồ vật đó mang lại hơn một nửa doanh thu của công ty. Công ty trả hàng triệu dollar tiền phạt trong năm 2013 vì tính phí quá cao đối với nhân viên quân sự và kiện vô lý hàng ngàn vụ án. Giám đốc điều hành của công ty nhận được 6 triệu dollar vào năm 2014.

Phí vượt hạn mức 

Phí vượt hạn mức, khi không có đủ tiền trong tài khoản giao dịch hoặc thẻ tín dụng để thanh toán, là ngành công nghiệp trị giá 11 tỷ dollar đối với ngân hàng, theo thống kê của Cục Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Tài Chính. Một bài báo của tờ New York Times giải thích cách ngân hàng tính phí vượt hạn mức ngay cả khi khách hàng có đủ tiền để thanh toán và bị buộc phải trả hơn một tỷ dollar cho việc thao túng cách lệnh mua hàng để tối đa hóa cơ hội tính phí phụ trội cho khách hàng. 

Vay nóng 

Vay nóng được người dân sử dụng hơn 15 triệu lần mỗi năm và có thể dẫn đến sự nợ nần chồng chất cũng như lãi suất khủng khiếp lên đến 391% theo Cục Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Tài Chính. Pew Charitable Trusts cho biết vay nóng là ngành công nghiệp đem lại 7 tỷ dollar mỗi năm. Ủy Ban Thương Mại Liên Bang đã thắng một vụ kiện trị giá 300 triệu dollar chống lại hai công ty cho vay nóng đã lừa dối người vay tiền, ví dụ vay 300 dollar và nghĩ rằng sẽ trả lại 390 dollar nhưng thực tế là phải trả 975 dollar cho khoản vay 300 dollar. Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ cáo buộc cựu vận động viên đua xe Scott Tucker về tội hình sự trong việc điều hành một đường dây cho vay nóng quốc gia trị giá 2 tỷ dollar thường xuyên tính lãi suất từ 400 đến 700% mỗi năm đối với hơn 4,5 triệu người. Công ty cho vay nóng lớn nhất quốc gia, Advanced America, đã tính lãi suất hơn 450% đối với gần 140.000 người ở Bắc Carolina cho đến khi nhà nước ngăn họ lại.

Vay cầm cố xe hơi 

Hơn hai triệu người sử dụng vay cầm cố xe mỗi năm, trả khoảng 3 tỷ dollar tiền phí mỗi năm, với lãi suất hàng năm lên đến 300%, theo Pew Charitable Trusts. Trung Tâm Vay Nợ Có Trách Nhiệm ước lượng có hơn 7000 doanh nghiệp cho vay thế chấp bằng xe hơi, thường tính lãi suất thường niên lên đến 300%, mặc dù họ quảng cáo chỉ 25% mỗi tháng. Người vay trung bình vay 951 dollar và thanh toán 3.093 dollar.

Thu nợ 

Thu nợ là ngành công nghiệp đem lại 13 tỷ dollar mỗi năm, thu dụng hơn 140.000 nhân công với 6.000 công ty, theo Cục Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Tài Chính.

Những người thu nợ tạo ra hơn 1 tỷ (phải một tỷ) liên lạc với khách hàng mỗi năm, theo tờ tin tức của ngành. 12 triệu người (5,3% số người tiêu dùng) ít nhất đã quá hạn thanh toán 30 ngày, theo to Viện Đô Thị. 35% số người trưởng thành với hồ sơ tín dụng, 77 triệu người, có nợ phải thu được ghi trong hồ sơ của họ. Tờ Pro Publica đánh giá 5 năm các bản án của tòa án và cho biết tỷ lệ kết án cao gấp hai lần ở các khu hầu hết là người da màu so với khu hầu hết là người da trắng. 

Cục Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Tài Chính có hơn 74.000 khiếu nại về việc thu nợ không hợp lý, loại khiếu nại hàng đầu của họ, theo báo cáo mới đây của Liên Minh Vì Xã Hội Công Bằng

Không chỉ có các doanh nghiệp nhỏ mà những tên tuổi lớn như Citigroup, Capital One, JPMorgan Chase, Bank of America và Wells Fargo cũng dính líu, trên thực tế Liên Minh Vì Xã Hội Công Bằng đưa tin các doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực thu nợ đã đóng góp gần 100 triệu dollar cho các ứng cử viên liên bang và đảng phái kể từ năm 2001 và chi 208 triệu dollar cho các nhà vận động chính sách liên bang.

Citibank bị CFPB kiện lần thứ hai vì làm sai lệch hồ sơ và cung cấp thông tin không chính xác trong việc thu nợ và đồng ý dàn xếp vụ án. 

Người thu nợ với the số lượng khiếu nại lớn nhất, Encore Capital Group chuyên mua nợ từ các chủ nợ khác sau đó tiến hành hàng trăm ngàn vụ kiện đã bị buộc phải hủy bỏ hơn 4.500 bản án chống lại người vay ở New York sau khi công ty bị cáo buộc đưa ra các vụ kiện giả mạo. 

JPMorgan Chase phải trả hơn 130 triệu dollar để dàn xếp một vụ án mà công ty bị tổng chưởng lý của 47 bang đưa ra tòa vì thu nợ bất hợp lý với cái được gọi là ký tắt, các văn bản pháp lý được chấp nhận và đệ trình mà không xem xét cẩn trọng. JPMorgan đã sớm trả 389 tiền phạt và hoàn tiền cho các chủ thẻ tín dụng vì vấn đề thu nợ.

Kết luận


Đây là một số tin tức mới. phe Dân Chủ đã soạn thảo và thông qua luật Cục Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Tài Chính, đang bắt đầu thu hút được một số sự chú ý trong việc theo dõi và điều tiết các hoạt động săn đuổi lợi nhuận này. Tin tức xấu là phe Cộng Hòa như Ted Cruz đang cố gắng hủy bỏ cục và một số người thuộc phe Dân Chủ cũng cố gắng làm cục vô dụng. Cũng có một số nhóm tốt như Trung Tâm Vay Nợ Có Trách nhiệm, họ cung cấp thông tin tuyệt vời về sự lạm dụng. Nhưng vào lúc này, việc kiếm tiền từ người nghèo vẫn là ngành kinh doanh thịnh vượng.

Bill Quigley dạy luật tại đại học Loyola, New Orleans và có thể liên lạc với ông qua quigley77@gmail.com.