Showing posts with label Chiến tranh. Show all posts
Showing posts with label Chiến tranh. Show all posts

Monday, October 19, 2015

Chuyện nhầm nhọt của Obama và Putin

Sau vụ máy bay Mỹ hủy diệt bệnh viện của tổ chức Thầy Thuốc Không Biên Giới, Putin hỏi Obama:

- Sao mày ác ôn vậy? Bệnh viện từ thiện cũng không tha là sao?

Obama trả lời:

- Ồ, do tụi tao bắn nhầm thôi. 

Nghe vậy Putin liền rút ra một cái hộp có một mớ nút, bấm tách một cái.

Obama liền hỏi:

- Mày vừa bấm cái nút gì vậy?

Putin trả lời:

- Tao mới bấm nút phóng tên lửa đầu đạn hạt nhân sang nhà mày đó.

Obama hết hồn, ngay lập tức chui tọt xuống hầm ngầm chống bom nguyên tử, khởi động hệ thống tên lửa đánh chặn, nhưng quét radar mãi mà không thấy tên lửa của Nga đâu.

Lúc ấy, Putin gọi điện cho Obama nói:

- Không sao đâu, tao ấn nhầm nút rồi.

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí)

Friday, October 16, 2015

Sự can thiệp của Nga có phá hỏng kế hoạch xâm lược Syria của Thổ Nhĩ Kỳ?

Mike Whitney trong bài "Did Russia’s Intervention Derail Turkey’s Plan to Invade Syria?" bình luận về triển vọng Nga và liên quân Syria có thể đánh bại phiến quân và khôi phục trật tự ở Syria trong khi Hoa Kỳ và Thổ Nhĩ Kỳ vẫn đang mắc kẹt với kế hoạch đưa quân đội Thổ Nhĩ Kỳ vào Iran, khi mà Nga thực tế đã lập vùng cấm bay và vô hiệu hóa khả năng yểm hộ bằng không quân của Hoa Kỳ. Nếu như Nga có thể giúp chính quyền Assad quét sạch phiến quân và lập lại hòa bình ở Syria, không cần có bất cứ đàm phán nào với Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ, thì đây sẽ là một dấu mốc mới của lịch sử thế giới hiện đại. Nó sẽ chính thức đánh dấu sự chấm hết của trật tự thế giới đơn cực sau khi Liên Xô cũ sụp đổ.

Liệu sự can thiệp của Nga có phá hỏng kế hoạch xâm lược Syria của Thổ Nhĩ Kỳ?

Hàng ngàn binh lính Iran sẽ tới Syria để tham gia trận tấn công chủ chốt vào lính Sunni ở khu vực tây bắc của đất nước. Lực lượng bộ binh Iran sẽ là một phần của chiến dịch kết hợp giữa Quân Đội Arab của Syria (SAA), Nga và các chiến binh từ quân Lebanon, Hezbollah. Trận tấn công nối tiếp sau hai tuần không quân Nga ném bom các vị trí của kẻ địch, đánh phá quân jihadi do Hoa Kỳ hậu thuẫn ở dọc theo hành lang phía tây. Sự vận động của lính Iran cho thấy cuộc xung đột kéo dài bốn năm đang đi vào giai đoạn kết thúc, liên minh do Nga cầm đầu sẽ đánh bại quân Sunni thống trị và khôi phục an ninh trên toàn quốc. 

Mới đây, trận chiến ác liệt nhất đã nổ ra ở ba khu vực trọng điểm đối với sự tồn vong của tổng thống Syria Bashar al Assad’s: vùng đất kẹt giữa lãnh thổ đối phương Rastan, mỏm đất Bắc Hama, đồng bằng Ghab. Trong khi quân của Assad được coi là vượt trội quân jihadi tại cả ba nơi, quân jihadi đã thọc sâu và phá hủy nhiều xe bọc thép cũng như xe tăng. Chính quyền phải chiếm lại các khu vực này để kiểm soát con đường cao tốc M5 chạy từ bắc sang nam và kết nối các thành phố này thành một quốc gia thống nhất. Khi những cứ điểm của kẻ thù đã bị phá vỡ thành một số điểm đề kháng nhỏ, lực lượng liên minh sẽ phải tiến tiếp về phía bắc tới gần biên giới Thổ Nhĩ Kỳ để tái chiếm thành phố chiến lược Allepo. (Xem: Sic Semper Tyrannis để thấy chi tiết của cuộc tấn công trên bộ với bản đồ.)

Theo nhà phân tích quân sự Patrick Bahzad: “Nhìn chung thì kết quả của những chiến dịch hiện tại ở ba khu vực đã đề cập phía trên là rõ ràng. Khó có thể biết được rằng các nhóm nổi loạn có tung mọi thứ họ có vào các trận chiến hay không, do vậy không thể đánh giá được mức độ tổn thất năng lực chiến đấu của họ trong thất bại sắp tới.

Cũng cần phải đề cập rằng khi các đơn vị SAA được sử dụng để đột phá phòng ngự của quân nối loạn…. điều này có thể khiến các đơn vị nổi loạn tháo chạy vô tổ chức và bị bao vây. Thời điểm của trận chiến có thể rất quan trọng, nó có thể bắt đầu với nã pháo yểm hộ quy mô lớn (MRLs) và không kích của không quân Nga, tạo ra các thương vong đáng kể trong hàng ngũ của quân nổi loạn.” (Sic Semper Tyrannis)

Hay nói cách khác, đây là một cơ hội tốt để quân jihadi nhận thấy rằng họ không có cơ hội thắng và sẽ tháo chạy, nhưng vẫn còn quá sớm để nói rằng khi nào mọi chuyện sẽ diễn ra.

Theo một bản tin của Reuters, “…một sự vận động lớn của quân đội Syria … các chiến binh Hezbollah tinh nhuệ và hàng ngàn lính Iran” đang đi theo theo hướng bắc để tái chiếm Alleppo. Tuy vậy, quân ISIS cũng tiến thẳng về thành phố từ hướng đông, điều này có nghĩa là một trận đánh lớn có thể diễn ra bất cứ lúc nào. Đáp lại, không quân Nga đã gia tăng ném bom lên hơn 100 lượt mỗi ngày. Con số này được dự báo là sẽ gia tăng gấp đôi trong những ngày sắp tới khi chiến trận khốc liệt hơn.

Theo các bản tin sớm của Syria Direct, quân đội Syria đã bao vây Alleppo trong nỗ lực đầu tiên nhằm cắt đứt đường tiếp vận chủ chốt cho miền bắc từ Thổ Nhĩ Kỳ. Trong lần bao vây thành phố đầu tiên, các đơn vị nổi loạn do Hoa Kỳ hậu thuẫn đã rút chạy về phía tây, là lối thoát duy nhất vào lúc này. Sự rút chạy hỗn loạn làm nảy sinh sự bất mãn với các lãnh đạo của phe nổi loạn, họ bị lên án vì những tổn thất và để cho “chính quyền bao vây hoàn toàn Aleppo.” Một chỉ huy quân jihadi tóm lược sự thất vọng khi nói:
“Các lữ đoàn mười nghìn quân dưới sự chỉ huy của al-Jabha a-Shamiya ở đông bắc Aleppo là những người bị thương và mệt mỏi đã trải qua nhiều mặt trận… Họ bị lọt vào giữa quân đội chính quyền ở phía bắc và IS ở phía Nam…. (Do) hoàn toàn thiếu sự phối hợp giữa các lữ đoàn, gần như không có đủ súng và tiền từ người Mỹ để chống lại IS được vũ trang tốt hơn, họ không có lựa chọn nào khác ngoài rút lui.” (“Jabha Shamiya commander blames ‘complete lack of coordination’ for Aleppo losses“, Syria Direct)
Aleppo là mắt xích chủ chốt trong chiến lược đánh bại khủng bố và khôi phục trật tự ở Syria của Moscow. Trận chiến có thể rất ác liệt, có thể là cận chiến, chiến tranh đô thị từ nhà này sang nhà khác. Đây là lý do khiến quân đội liên minh phải phong tỏa biên giới với Thổ Nhĩ Kỳ cũng như ngăn chặn luồn vũ khí và quân nhu càng nhanh càng tốt. Có tin đồn là Putin sẽ sử dụng lính dù tinh nhuệ của Nga ở phía Bắc Aleppo cho các nhiệm vụ đặc biệt, nhưng hiện giờ điều đó vẫn chỉ là tin đồn. Putin đã thường xuyên nói rằng ông ấy sẽ không cho phép bộ binh tham chiến ở Syria.

Không thể đánh giá quá cao vai trò phá hoại và gây rối của chính quyền Obama ở Syria, cùng với các đồng minh vùng Vịnh, Hoa Kỳ đã tài trợ, vũ trang và huấn luyện hàng mớ những tên lưu manh jihadi, những kẻ đã xé nát quốc gia và giết hại gần một phần tư triệu người. Giờ đây Putin đã quyết định chấm dứt chiến tranh ngoại vi man rợ của Washington, chính quyền Hoa Kỳ đang tính cách đổ thêm dầu vào lửa bằng cách thả vũ khí và đạn dược xuống cho các quân jihadi ở miền trung và miền đông Syria. Biên tập viên của tờ New York Time đã chế nhạo chương trình này là “ảo tưởng”. Đây là một trích đoạn từ bài báo: 
“…vào thứ sáu, Nhà Trắng đã tiết lộ một kế hoạch còn chắp vá và đầy rủi ro hơn nữa.
Lầu Năm Góc sẽ ngừng cung cấp các chiến binh nổi dậy thông qua huấn luyện ở các nước láng giềng, một chương trình được tạo ra để đảm báo các chiến binh này sẽ hoàn toàn thuần thục trước khi họ có thể chạm tay vào vũ khí và đạn dược Hoa Kỳ. Kế hoạch mới sẽ chỉ đơn giản là cung cấp vũ khi thông qua các thủ lĩnh nổi dậy, những người đang tham gia chiến trận và có vẻ như là tạo ra một số tiến triển….
Kinh nghiệm của Washington ở Syria và các cuộc chiến khác gần đây cho thấy các chiến binh ngoại vi thường không kiên định và vũ khí được đưa vào một cuộc chiến tranh mà không có sự giám sát thực sự thường xuyên dẫn đến các tác động thảm họa….Kế hoạch ban đầu đã mơ hồ. Kế hoạch sau lại là ảo tưởng. (“An Incoherent Syria War Strategy“, Ban biên tập New York Times)
Chính quyền cũng đã cung cấp “27 container vũ khí cho Đảng Liên Minh Dân Chủ người Kurd (Syria) và cánh quân của họ, Các Đơn Vị Bảo Vệ Nhân Dân (YPG). Vũ khí được dự tính là sử dụng để chống lại ISIS, nhưng hoạt động này đã chọc giận thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ, ông ta coi nhóm này là khủng bố. Trong khi có vẻ như là chính quyền Obama đang tìm cách để thể hiện sự tích cực của họ trong cuộc chiến chống khủng bố, họ có thể tạo ra cái cớ hoàn hảo cho việc Thổ Nhĩ Kỳ xâm lược Syria, vốn rất phức tạp trong tình hình mặt đất hiện nay. Đây là một đoạn phim từ Turkish Daily Hurriyet:
“Điều tra sau những vụ nổ sát thương ở Ankara vào ngày 10 tháng 10 nhằm vào các nhà hoạt động ủng hộ người Kurd và cánh tả cho thấy Đảng Công Nhân Người Kurd (PKK), cũng như ISIL, đều có thể can dự, thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Ahmet Davutoğlu tuyên bố vào thứ tư.
“Khi chúng tôi điều tra sâu hơn, dựa trên [thông tin thu thập được về] các tài khoản Twitter và địa chỉ IP, có nhiều khả năng là Daesh [tên Arab của ISIL] và PKK đóng vai trò tích cực trong việc đánh bom,” ông ta phát biểu trong hội nghị báo chí với thủ tướng Bulgaria Boyko Borisov ở Istanbul.” “Turkish PM says both ISIL and PKK may have role in Ankara bombing“, Hurriyet)
Trên thực tế hoàn toàn không có bằng chứng về sự can dự của PKK (quân đội Kurd), các mẫu DNA từ hai kẻ đánh bom tự sát cho thấy cả hai đều là thành viên của ISIS. Lý do duy nhất mà Erdogan muốn lôi PKK vào chỉ có thể là hạ uy tín của đối thủ chính trị [người Kurd] hoặc để tạo ra một cái cớ để xâm lược Syria. (Ghi chú: Tòa án Thổ Nhĩ Kỳ đã yêu cầu giữ bí mật về việc điều tra vụ đánh bom, cho thấy sự che giấu của chính quyền. Theo Altan Tan, phó chủ tịch của Đảng Dân Chủ Nhân Dân (HDP) ủng hộ người Kurd, “Bom nổ khắp Thổ Nhĩ Kỳ. Hai kết luận có thể đưa ra là – hoặc chính quyền đứng phía sau những vụ tấn công này hoặc họ đã không ngăn chặn những vụ tấn công này.” Theo cách nào thì chính quyền cũng phải chịu trách nhiệm.” 

Trong khi vai trò tương lai của Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc xung đột ở Syria vẫn chưa rõ ràng, việc Hoa Kỳ ủng hộ người Kurd sẽ gia tăng cơ hội cho cuộc xâm lược của Thổ Nhĩ Kỳ và rộng hơn nữa là một cuộc chiến tranh khu vực. Đây liệu có phải là mục tiêu thật sự của chính quyền này, lôi kéo quân đội Thổ Nhĩ Kỳ vượt biên giới vào Syria để Nga sa lầy trong một cuộc chiến kéo dài và tốn kém?

Nghe có vẻ âm mưu quá, nhưng đây là những điểm rất đáng để cân nhắc. Ví dụ, trên chương trình tin tức 60 Phút của CBS, Obama nói rằng: 
“Tôi hoài nghi về khả năng chúng ta sẽ thực sự tạo ra một đội quân ngoại vi ở Syria. Mục tiêu của tôi là cố gắng kiểm tra đề xuất, liệu chúng ta có thể huấn luyện và trang bị cho phe đối lập ôn hòa sẵn sàng chống lại ISIL không? Điều mà chúng ta học được là chừng nào mà Assad còn nắm quyền thì khó có thể khiến những người đó tập trung vào ISIL.” (60 Phút) 
Đương nhiên, Obama muốn mọi người tin rằng “tất cả đều là lỗi của Assad”, trên hết ông ta không tự lên án bản thân. Nhưng ông ta trung thực về một điều: Ông ta thực sự không bao giờ cho rằng vũ trang cho những kẻ cực đoan Sunni là ý tưởng hay. Hay nói cách khác, ông tả ủng hộ mục tiêu (thay đổi chế độ) không bằng phương pháp đó. (vũ trang cho quân jihadi) Dường như ông ta cảm thấy được an ủi khi mà – sau 4 năm tham chiến – cuộc xung đột đã rơi vào thế bế tắc. 

Nếu ông ta thừa nhận rằng vũ trang cho quân jihadi không có tác dụng, vậy kế hoạch dự phòng của ông ta, kế hoạch B là gì?

Chúng ta đã dự đoán ở những bài báo trước rằng Obama có thể đưa ra một thỏa thuận với Erdogan để phát động cuộc xâm lược của Thổ Nhĩ Kỳ ở Syria chừng nào mà Hoa Kỳ có thể hỗ trợ không quân cho bộ binh Thổ Nhĩ Kỳ. Chúng ta cho rằng đó là một phần của điều kiện trao đổi mà Obama đã đồng ý để được sử dụng căn cứ không quân chiến lược Incirlik. Hãy nhớ rằng Erdogan từ chối cho Hoa Kỳ tiếp cận căn cứ Incirlik trong hơn một năm cho đến khi Hoa Kỳ đáp ứng yêu cầu giúp ông ta lật đổ Assad. Đương nhiên, đây không phải là điều mà Obama có thể công khai thừa nhận, nhưng nó có thể coi là phần trọng yếu trong mọi thỏa thuận. Một cuộc phỏng vấn trên Giờ Tin Tức của PBS vào tuần trước với David Kramer, cựu trợ lý ngoại trưởng dưới thời George W. Bush, đã ủng hộ lập luận này. Đây mà một trích đoạn từ nội dung được rã băng: 
Judy Woodruff: Vâng, David Kramer, điều đó thì sao? Có mối lo ngại thực sự về việc Hoa Kỳ can dự, bị lôi kéo vào và không thể thoát ra.
David Kramer: Người Thổ từ lâu đã cho thấy rằng họ sẵn sàng đưa quân đội vào nếu được Hoa Kỳ yểm hộ và hỗ trợ. Chúng ta phải tạo ra các khu vực an toàn. Chúng ta phải tạo ra các vùng cấm bay. Chúng ta phải cưỡng chế mọi máy bay có thể đe dọa người dân tại những khu vực đó, bất kể là máy bay Syria hay Nga. Chúng ta phải cho người Nga thấy rằng mọi sự xâm phạm hoặc tấn công những khu vực này sẽ được chúng ta đáp trả.
Không ai muốn điều này. Đó là quyết định tồi, nhưng đó là điều mà chúng ta phải làm. Tôi cho rằng nếu chúng ta không làm điều đó, chúng ta sẽ tiếp tục thấy người dân bị giết hại. Chúng ta sẽ tiếp tục thấy người dân bỏ chạy khỏi Syria, không có giải pháp tốt nào cả. Chúng ta đưa ra những lựa chọn ít tồi tệ nhất.
Judy Wooddruff: Nhưng câu hỏi của tôi, đó liệu có phải là một mức độ nguy hiểm hoàn toàn mới nhưng không được chú ý, như máy bay Hoa Kỳ bị bắn hạ, binh lính Hoa Kỳ có thể bị bắt giữ, chưa nói đến xung đột, xung đột tiềm tàng với Nga? 
David Kramer: Chúng ta có người Thổ cho thấy sự sẵn sàng dấn thân. Chúng ta cũng có thể có các quốc gia khác, trong đó có các quốc gia vùng Vịnh, mặc dù họ không phải là những người đóng góp lớn trong những chiến dịch kiểu này. Hoa Kỳ có thể hỗ trợ bằng không quân, để tạo ra sự yểm hộ theo cách đó. Tôi cho rằng đây là cách thực hiện mà không cần đưa bộ binh Hoa Kỳ vào, nhưng không có lựa chọn nào tốt cả. (“Pulling the plug on rebel training, what’s next for U.S. in Syria?“, PBS News Hour)
Kramer không chỉ thể hiện rất hài lòng về việc “Người Thổ… sẵn sàng đưa quân vào nếu được Hoa Kỳ yểm hộ và hỗ trợ.” Ông ta có vẻ cũng ngầm ám chỉ rằng đại đa số thượng lưu ở Washington cũng nhận thấy thỏa thuận nhưng làm bộ không thấy.

May mắn thay, can thiệp quân sự của Putin đã phá hỏng mọi triển vọng triển khai kế hoạch B, chúng ta sẽ không bao giờ biết được Thổ Nhĩ Kỳ có xâm lược hay không.

Vấn đề hiện giờ là liên minh do Nga cầm đầu có triển khai đủ nhanh để củng cố thành quả của họ, cắt các đường tiếp vận của kẻ địch, chặn đường thoát, phong tỏa biên giới và khiến cho Thổ Nhĩ Kỳ không dám có các hành động mở rộng chiến tranh. Erdogan chắc chắn sẽ bị khuất phục trước lý lẽ của sức mạnh.

Lính đánh thuê jihadi hoặc là đầu hàng hoặc sẽ bị xóa sổ nhanh chóng để 11 triệu người Syria có thể an toàn trở về nhà và bắt đầu công việc tái thiết nhọc nhằn. 

Mike Whitney lives in Washington state. He is a contributor to Hopeless: Barack Obama and the Politics of Illusion (AK Press). Hopeless is also available in a Kindle edition. He can be reached at fergiewhitney@msn.com.

Monday, October 12, 2015

Thế cờ tàn của Putin ở Syria

Mikey Whitney, một nhà báo Mỹ quen thuộc, trong bài "Putin’s “Endgame” in Syria" cho rằng sự cố máy bay Nga đi vào không phận Thổ Nhĩ Kỳ và khóa radar chiến đấu cơ của Thổ Nhĩ Kỳ không phải là vô tình mà là hành động có chủ ý để ngăn chặn Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục leo thang tại khu vực. Tác giả cho rằng Hoa Kỳ và Thổ Nhĩ Kỳ không có cách nào khác ngoài việc ngồi vào bàn đám phán với Nga và Syria ở Geneva. Tuy vậy, đây có lẽ là sự lạc quan hơi sớm. Cho dù Nga đã chứng tỏ được sức mạnh và sự tinh quái trước Hoa Kỳ ở Syria thì Hoa Kỳ sẽ không bao giờ thực sự ngồi vào bàn đàm phán cho đến khi quân đội của họ hoặc tay sai bị đánh bại hoàn toàn trên chiến trường. Tất cả những cuộc chiến mà Hoa Kỳ can dự đã cho thấy điều đó. Nếu như Hoa Kỳ bị cầm chân ở Syria thì đó là một dấu hiệu tốt, họ sẽ không thể dồn sức để xoay trục sang Châu Á, do vậy Châu Á có thể yên ổn trong một thời gian ngắn, trước khi Nhật Bản được tái vũ trang hoàn toàn.

Thế cờ tàn của Putin ở Syria



Nga không muốn có chiến tranh với Thổ Nhĩ Kỳ, thế nên tướng lĩnh của Nga lập ra một kế hoạch đơn giản nhưng hiệu quả để ngăn chặn các hành động có thể dẫn tới đụng độ giữa hai quốc gia của Thổ Nhĩ Kỳ. 

Tuần trước, chiến đấu cơ Nga đã bay vào không phận của Thổ Nhĩ Kỳ hai lần. Cả hai sự cố đều gây ra sự khiếp đảm ở Ankara và khiến cho lãnh đạo của Thổ Nhĩ Kỳ phát sốt. Trong cả hai sự kiện, quan chức Moscow đều lịch sự xin lỗi về các xâm nhập, khẳng định rằng họ không chủ ý (“đi lạc đường”) và họ sẽ tránh các xâm phạm tương tự trong tương lai.

Sau đó là sự cố thứ ba, một sự cố nghiêm trọng hơn, đó không phải là sự nhầm lẫn. Đó là chủ ý rõ ràng để gửi tới tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan một thông điệp. Đây là tóm tắt ngắn về những gì xảy ra, từ một bài báo trên trang web World Socialist:
“Các quan chức Thổ Nhĩ Kỳ lên án sự cố thứ ba vào ngày thứ hai, khi một chiến đấu cơ phản lực MiG-29 vô danh đã khóa radar [chốt mục tiêu để bắn] trong bốn phút rưỡi vào 8 chiến đấu cơ phản lực F-16 của Thổ Nhĩ Kỳ, khi những máy bay này đang đi tuần tra trên không phận biên giới, dường như là sẵn sàng khai hỏa.” (“Hoa Kỳ, NATO gia tăng đe dọa Nga về Syria“, World Socialist Web Site)
Đó không phải là sự nhầm lẫn. Phi công chiến đấu chỉ áp dụng thao tác này khi anh ta định bắn hạ máy bay kẻ thù. Đó là một thông điệp và trong khi nó còn được chính khách và truyền thông tranh cãi thì tôi có thể đảm bảo với anh rằng tất cả tướng lĩnh của bộ tư lệnh tối cao Thổ Nhĩ Kỳ đều hiều điều đó có nghĩa là gì. Đây là một cuộc gọi đánh thức. Moscow cho thấy rằng thành phố đã có cảnh sát trưởng mới và tốt hơn cả là Thổ Nhĩ Kỳ nên tự kiềm chế nếu không muốn gặp rắc rối. Khu vực cấm bay của Hoa Kỳ-Thổ Nhĩ Kỳ ở miền Bắc Syria không còn tồn tại nữa, mọi cuộc không kích Syria từ phía bên kia biên giới của Thổ Nhĩ Kỳ đều phải chấm dứt và chắc chắn là việc bộ binh Thổ Nhĩ Kỳ xâm lược Syria không được chấp nhận. Lực lượng không quân Nga hiện nay đã kiểm soát bầu trời Syria và họ quyết định bảo vệ biên giới chủ quyền của Syria. Đấy là thông điệp. Hết.

Đây là ví dụ tốt cho thấy việc “chiếm thượng phong” có thể ngăn chặn xung đột hơn là bắt đầu xung đột. Bằng cách đi trước Thổ Nhĩ Kỳ một bước, Moscow đã phá hủy kế hoạch sát nhập phần phía Bắc Syria và tuyên bố đó là “khu vực an toàn” của Erdogan. Thổ Nhĩ Kỳ sẽ phải hủy bỏ kế hoạch đó khi nhận ra rằng mọi nỗ lực chiếm đóng lãnh thổ Syria sẽ châm ngòi cho sự trả thù nhanh chóng và khủng khiếp của Nga. Nhìn theo cách này, vụ xâm phạm của Nga có vẻ giống như cách thức rất có hiệu quả để ngăn chặn một cuộc chiến tranh lan rộng hơn, chỉ đơn giản bằng cách gửi điện tín cho những đối thủ tiềm tàng thông báo việc họ có thể làm và không thể làm. Đơn giản là: Putin đã viết lại các quy tắc của trò chơi ở Syria và Erdogan tốt hơn cả là chấp thuận hoặc không. Đây là bổ sung về Thổ Nhĩ Kỳ của Patrick Cockburn trên tờ The Independent:
“Một cuộc xâm lược của bộ binh Thổ Nhĩ Kỳ ở Syria, mặc dù đây vẫn là một khả năng, hiện giờ sẽ mạo hiểm hơn với các chiến đấu cơ Nga đang quần thảo tại những khu vực mà Thổ Nhĩ Kỳ rất muốn đưa quân vào.
Nguy cơ của người Thổ là hiện giờ họ sẽ có hai nhà nước của người Kurd, một ở Syria và một ở Iraq, ngay ở phía nam. Tồi tệ hơn, nhà nước của người Kurd ở Syria… là do đảng Liên Minh Dân Chủ (PYD) lãnh đạo, đây là nhánh Syria của đảng Công Nhân Người Kurd (PKK) vốn chống lại nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ từ năm 1984. Mọi cuộc nổi dậy của PKK ở các vực của người Kurd tại đông nam Thổ Nhĩ Kỳ trong tương lai sẽ được khích lệ bởi sự thật là PKK có một nhà nước.
Dường như nỗ lực kéo dài bốn năm nhằm lật đổ tổng thống Bashar al-Assad đã thất bại. Vẫn chưa rõ tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan có thể làm được gì khi mà sự ủng hộ của NATO cho tới lúc này vẫn chỉ là lời nói suông. Nhắc tới quan hệ của Thổ Nhĩ Kỳ với Nga, ông Erdogan nói rằng mọi tấn công vào Thổ Nhĩ Kỳ là tấn công NATO và “nếu như Nga đánh mất người bạn có thể hợp tác trên nhiều lĩnh vực như Thổ Nhĩ Kỳ thì họ sẽ mất rất nhiều.” Nhưng ở Syria, ít nhất thì có vẻ như Thổ Nhĩ Kỳ là kẻ thua cuộc.” (“Nga ở Syria: Radar Nga khóa mục tiêu các chiến đấu cơ Thổ Nhĩ Kỳ”, The Unz Review)
Erdogan khốn khổ. Ông ta gieo xúc xắc và nhận được hai điểm. Ông ấy tưởng rằng có thể mở rộng đế quốc Ottoman sang miền Bắc Syria và giờ đây giấc mơ của ông ấy đang bị vùi dập. Ông ấy có nên triển khai chiến đấu cơ tới Bắc Syria và công khai tấn công không lực Nga không? Không, ông ấy không phải là kẻ ngu ngốc. Ông ấy sẽ đứng ở phía bên này biên giới, dậm chân và chửi rủa “Putin độc ác”, nhưng cuối cùng sẽ chẳng làm gì hết. 

Washington cũng sẽ không làm gì hết. Đúng vậy, Hillary và McCain đang kêu gọi lập vùng cấm bay ở Syria, nhưng điều đó không xảy ra. Putin sẽ không cho phép điều đó và Hội Đồng Bảo An cũng không. Theo lý do nào? Liệu Obama có thực sự yêu cầu một khu vực cấm bay dựa trên lý do Putin đang giết những kẻ khủng bố “ôn hòa” cùng với những kẻ khủng bố “cực đoan”? Đó không phải là một lập luận thuyết phục, trên thực tế, ngay cả người Mỹ cũng khó có thể nuốt trôi được lập luận này. Nếu Obama muốn điều gì từ Putin, ông ta sẽ phải ngồi xuống bàn đàm phán và đưa ra một thỏa thuận. Mặc dù vậy, ông ta không chịu làm điều đó bởi vì ông ta vẫn tin rằng thay đổi chế độ ở Syria nằm trong tầm tay mình. Dấu hiệu về chuyện này xuất hiện khắp nơi, giống như bài báo có tiêu đề “Căn cứ Incirlik tăng sức chứa thêm 2.250 để tiếp nhận người mới” trên tờ Today’s Zaman của Thổ Nhĩ Kỳ:
“Một thành phố lều bạt trong lòng Incirlik đang thay thế bằng các căn nhà đúc sẵn, sẽ chứa được 2.250 lính Mỹ, hãng thông tấn Doğan đưa tin vào thứ sáu. Trong chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, một thành phố lều bạt đã được thiết lập để phục vụ các binh lính với Chiến Dịch Cung Cấp Tiện Nghi (OPC) và đã đóng cửa khi OPC kết thúc.
Vào ngày 20 tháng 8, vị trí của thành phố lều bạt bắt đầu được chuyển sang khu vực mới có tên là “Patriot Town”. Sau khi việc xây dựng hoàn tất, căn cứ Incirlik sẽ có sức chứa lớn nhất trong số các căn cứ của Hoa Kỳ ở Châu Âu… 
Sự mở rộng sức chứa của căn cứ Incirlik diễn ra vào lúc Nga tiến hành sự cạn thiệp lớn nhất suốt nhiều thập kỷ ở Trung Đông…. Sự can thiệp của Moscow có nghĩa là xung đột ở Syria đã được chuyển từ một cuộc chiến ngoại vi… thành một cuộc xung đột quốc tế có sự tham chiến trực tiếp của các sức mạnh quân sự chủ chốt.” (“Căn cứ Incirlik tăng sức chứa thêm 2.250 để tiếp nhận người mới”, Today’s Zaman)
Bài báo này bốc mùi tham vọng của Hoa Kỳ ở Trung Đông. Như độc giả có thể thấy rõ, Washington đang chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh khác giống như họ đã làm vào năm 1991. Không kích của Hoa Kỳ sẽ được xuất phát từ “Patriot Town” tại Incirlik theo như chúng ta đã dự đoán từ tháng 7 khi mà thỏa thuận được chốt. Đây là những thông tin căn bản từ bài báo của Hurriyet: 
“Tư lệnh trung tâm không lực Hoa Kỳ đã bắt đầu triển khai các trực thăng tìm kiếm và cứu nạn cũng như phi công tại căn cứ không quân Diyarbakır ở đông nam Thổ Nhĩ Kỳ nhằm hỗ trợ với các chiến dịch cứu trợ ở nước láng giềng Iraq và Syria, họ đã thông báo…. 
Tư lệnh đồng minh tối cao của NATO ở châu Âu và chỉ huy tại tư lệnh Châu ÂU của Hoa Kỳ, tướng Phillip Breedlove, đã nói nhiệm vụ này là tạm thời.
“Chúng tôi sẽ là khách của chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ tại căn cứ không quân Diyarbakir. Không có kế hoạch đóng quân Hoa Kỳ thường trực tại địa điểm này … mặc dù vậy, điều này cho thấy một nỗ lực hợp tác thành công khác giữa quân đội Thổ Nhĩ Kỳ và quân đội Hoa Kỳ,” Breedlove nói.” (“US triển khai cứu trợ hàng không ở đông nam Thổ Nhĩ Kỳ”, Hurriyet)
“Các trực thăng tìm kiếm và cứu nạn của Hoa Kỳ” chỉ cách đường biên giới biên giới phía đông nam của Thổ Nhĩ Kỳ vài dặm?

Đúng vậy. Hay nói cách khác, nếu một máy bay F-16 bị bắn hạ ở đâu đó tại Syria trong khi cố gắng áp đặt vùng cấm bay bất hợp pháp thì – Hấp – các trực thăng cứu nạn chỉ cách đó có 20 phút thôi.

Thật tiện lợi làm sao.

Bạn có thể thấy rằng – ngay cả khi Putin đã tung ra một cú đấm móc – đội của Obama vẫn tiếp tục lao thẳng vào kế hoạch “Lật đổ Assad”. Không gì thay đổi, sự can thiệp của Nga chỉ khiến tương lai bất ổn hơn, khiến cho các nhà địa chiến lược đã nản lòng, như Zbigniew Brzezinski, bắt đầu tung ra các bài phản xã luận trên các tạp chí hàng đầu để nguyền rủa Putin về việc phá hoại kế hoạch thống trị khu vực của họ. Cần phải ghi nhận rằng Brzezinski là bố già tinh thần của chủ nghĩa cực đoan Hồi Giáo, người đàn ông này đã tạo ra cách sử dụng vỏ bọc tôn giáo để xúi giục sự cuồng loạn và giành lấy các mục tiêu địa chiến lược của Hoa Kỳ khắp thế giới. Do vậy, việc Brzezinski muốn cung cấp các chỉ dẫn trong nỗ lực tuyệt vọng để tránh khỏi một di sản thất bại và mất mặt là điều hoàn toàn tự nhiên. Hãy xem đoạn phim này từ Politico:
“Hoa Kỳ cần phải đe dọa trả đũa nếu Nga không ngừng tấn công các tài sản của Hoa Kỳ ở Syria, cựu cố vấn an ninh quốc gia Zbigniew Brzezinski viết trong bài phản xã luận trên tờ Financial Times phát hành vào chủ nhật, hối thúc “sự nhấn mạnh chiến lược” với sự tin cậy của Hoa Kỳ ở Trung Đông và khu vực đang bị lâm nguy…. Nếu Nga tiếp tục theo đuổi các mục tiêu ngoài ISIL, Hoa Kỳ phải trả đũa, ông ta viết thêm.
“Trong hoàn cảnh biến đổi nhanh chóng, Hoa Kỳ chỉ có một lựa chọn thực tế duy nhất nếu như họ bảo vệ sự dễ tổn thương của họ tại khu vực: gửi cho Moscow yêu cầu phải ngừng và chấm dứt các hành động quân sự đang trực tiếp ảnh hưởng tới tài sản của Hoa Kỳ,” ông ta nói” (“Brzezinski: Obama nên trả đũa nếu như Nga không ngừng tấn công tài sản của Hoa Kỳ”, Politico)
Những người mà Brzezinski hăm hở gọi là “tài sản của Hoa Kỳ” ở Syria là đám khủng bố. Đơn giản vậy thôi. Putin không phân biệt giữa khủng bố “ôn hòa” và khủng bố “cực đoan”, khủng bố tốt và khủng bố xấu. Đó là chuyện đùa. Chúng cùng một loại và chúng phải chịu chung một số phận. Tất cả chúng đều sẽ bị truy đuổi, bắt giữ hoặc giết chết. Hết chuyện. 

Bằng cách bóp méo câu chuyện về khủng bố theo cách ủng hộ một số này nhưng lên án một số khác, chính quyền Obama đã tự đưa mình vào ngõ cụt tư tưởng, ở đó không có lối thoát nào hết. Điều mà họ đang làm là sai và họ biết là sai. Đó là lý do khiến điều đó khó có thể trở thành lý do cho chiến tranh. Trong một cuộc phỏng vấn “cần phải xem” mới đây, Putin đã kêu gọi Obama chính điểm này. Đây là những gì ông ấy nói: 
“Tổng thống Obama thường xuyên đề cập tới sự đe dọa của ISIS. Tốt thôi, ai trên trái đất này đã vũ trang cho chúng? Ai đã tạo ra môi trường chính trị thuận lợi cho tình hình hiện tại? Ai đã chuyển vũ khí tới khu vực? Bạn có thật sự không biết ai đang tham chiến ở Syria? Chúng hầu hết là lính đánh thuê. Chúng được trả tiền. Lính đánh thuê làm việc cho bất cứ phe nào trả tiền. Chúng tôi thậm chí còn biết chúng được trả bao nhiêu tiền. Chúng tôi biết rằng chúng tham chiến trong chốc lát và sau đó chờ xem ai khác trả nhiều tiền hơn, rồi chúng tới đó….
Hoa Kỳ nói “Chúng ta phải ủng hộ phe đối lập văn minh, dân chủ ở Syria”. Thế nên họ ủng hộ chúng, vũ trang cho chúng, rồi chúng gia nhập ISIS. Hoa Kỳ không thể nào nghĩ sâu xa thêm một chút nữa ư? Chúng tôi không bao giờ ủng hộ chính sách kiểu này. Chúng tôi cho rằng nó sai.” (Putin giải thích ai đã phát động ISIS, you tube, 1:38 to 4:03)
Nhìn xem? Mọi người đều biết điều gì đang diễn ra. Barack Obama sẽ không khơi mào sự đối đầu với Nga để bảo vệ chương trình cực kỳ phi đạo đức của CIA đã lan xuống phía nam. Mặc dù vậy, ông ấy sẽ làm những gì mà Hoa Kỳ vẫn luôn làm với một đối thủ có thể tự bảo vệ bản thân. Ông ta sẽ bắt nạt, quấy rối, đe dọa, hạ nhục, bôi nhọ, chế nhạo và áp bức. Ông ta có thể tiến hành một cuộc tấn công khác vào đồng ruble, hoặc dìm giá dầu hay áp đặt thêm trừng phạt kinh tế. Nhưng ông ta sẽ không khởi sự một cuộc chiến với Nga, điều đó sẽ không xảy ra.

Nhưng đừng vội ngừng hy vọng, trên hết, có một ánh sáng lóe lên từ thất bại này, tất cả các tay chơi chính đều biết chính xác đó là gì.

Đó là Geneva. Geneva là tàn cuộc.

Geneva là lộ trình được Liên Hiệp Quốc hỗ trợ để chấm dứt chiến tranh ở Syria. Các điều khoản của nó cho phép “thiết lập một chính quyền chuyển tiếp”, “sự tham gia của tất cả các bên… vào một cuộc đối thoại quốc gia đầy ý nghĩa,” và “bầu cử tự do và công bằng đa đảng.”

Hiệp ước này là rõ ràng và không tranh cãi. Điểu mấu chốt là Assad có được phép tham gia vào chính quyền chuyển tiếp hay không.

Putin nói “Có”. Obama nói “Không”.

Putin sẽ thắng cuộc chiến này. Chính quyền sẽ tham gia và rút lại yêu cầu đòi Assad từ chức. Kế hoạch thay đổi chính quyền thông qua các tay sai jihadi sẽ thất bại và Putin sẽ đưa Trung Đông tiến thêm một bước đến hòa bình lâu dài và an ninh thực sự. 

Đấy là ánh sáng lóe lên và là cách chấm dứt chiến tranh ở Syria.

Hoan hô Putin.

MIKE WHITNEY lives in Washington state. He is a contributor to Hopeless: Barack Obama and the Politics of Illusion (AK Press). Hopeless is also available in a Kindle edition. He can be reached at fergiewhitney@msn.com.

Sunday, October 11, 2015

Trung Quốc cho Việt Nam thuốc chữa sốt rét còn Mỹ cho Việt Nam chất độc màu da cam

Trong bài viết "For Vietnam: Artemisinin From China, Agent Orange From America", giáo sư John Walsh so sánh về nỗ lực của Hoa Kỳ và Trung Quốc trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, chỉ ra rằng Hoa Kỳ đã thất bại trong việc phát triển thuốc chữa bệnh sốt rét trong khi Trung Quốc nghèo nàn hơn lại thành công. Thuốc chữa bệnh sốt rét đóng vai trò rất quan trọng trong việc cứu sống nhiều triệu mạng người, nỗ lực của Trung Quốc đã được công nhận rất muộn bằng giải Nobel sinh học/y học. Ngay cả khi phải thừa nhận thành công của Trung Quốc, truyền thông phương Tây cũng không quên xuyên tạc, bóp méo sự thật để hạ thấp Trung Quốc. 


Chiến dịch Ranch Hand, rải chất độc màu da cam ở Việt Nam
Một nửa giải Nobel về y học hoặc sinh lý học sẽ được trao cho Tu Youyou vì khám phá ra thuốc artemisinin chống lại bệnh sốt rét. Nhiều người nghiên cứu khoa học công nghệ sinh học cảm thấy điều này đã bị trì hoàn quá lâu.

Phát hiện ra artemisinin đã cứu sống hàng triệu người. Giải Nobel là một thừa nhận xứng đáng đối với tiến sĩ Tu, đối với Trung Quốc và vai trò tiến bộ của phụ nữ trong khoa học ở Trung Quốc cũng như khắp thế giới.

Đây là câu chuyện kể thú vị về phát kiến của bác sĩ Tu. Tờ The Hindu của Ấn Độ đã công bố câu chuyện ở đây:
(Vào những năm 1960, Bắc Việt và Việt Cộng đang có chiến tranh chống lại sự xâm lược quy mô lớn của Hoa Kỳ, bệnh sốt rét lan tràn trong khu vực. jw) Đấu tranh với căn bệnh sốt rét đang tàn phá quân đội, thủ tướng Hồ Chí Minh [1] của Việt Nam yêu cầu chủ tịch Mao thiết lập một chương trình nghiên cứu quân sự bí mật để điều trị bệnh sốt rét với thuốc truyền thống của Trung Quốc. Dự án 523 (có thể được khởi sự vào ngày 23 tháng 5) bắt đầu nghiên cứu cách điều trị vào năm 1967. Chương trình được chính thức kết thúc vào năm 1981.
Sự thúc giục của Mao dẫn đến khám phá của Tu 

Trong gần hai thiên niên kỷ, các thầy thuốc Trung Quốc đã sử dụng lá cây thanh hao hoa vàng để chữa sốt. Nhóm của Tu đã thu thập 2.000 công thức với 640 loại thảo mộc, từ đó Tu thu gọn lại thành một số ứng cử viên tiềm năng. Dự án dẫn đến việc khám phá ra thuốc chữa sốt rét artemisinin, là một trong những sự chuyển hóa thành công nhất liệu pháp truyền thống thành phương thuốc hiện đại.

“Trong vài năm, hàng trăm nhà khoa học đã thử nghiệm hàng ngàn chất tổng hợp nhân tạo mà không thành công, cũng cần phải biết rằng chương trình tương tự ở Hoa Kỳ cũng không đem lại kết quả gì,” một bài báo trên tờ New Scientist được xuất bản vào thứ hai sau thông báo về giải thưởng ghi nhận. “Thuốc tổng hợp không được tiếp tục, sự chú ý quay trở lại với các phương thuốc truyền thống của Trung Quốc. Chính quyền yêu cầu Học Viện Y Học Cổ Truyền Trung Quốc ở Bắc Kinh bổ nhiệm một nhà nghiên cứu để tìm kiếm các thảo mộc trong vườn của Trung Quốc cho việc chữa trị. Học viện chọn Tu, một nhà khoa học ở giữa sự nghiệp đã nghiên cứu cả thuốc Trung Quốc và phương tây, đủ hiểu biết về cả hai để thực hiện điều đó không phải là công việc đơn giản.” Tu làm theo các hướng dẫn trong văn bản cổ 1.600 tuổi đời có tên là “Đơn thuốc cấp cứu giữ mạng người”. Văn bản viết rằng cây thanh hao hoa vàng phải sắc bằng nước và uống lỏng. 

“Các nhà nghiên cứu thủ nghiệm liều thuốc trên khỉ và chuột và thấy hiệu quả 100%,” tờ New Scientist trích dẫn lời của Tu. “Chúng tôi đã tạo ra thuốc chữa sốt rét,” Tu nói. “Chúng tôi rất phấn khởi.”

Giờ là điều mà Hoa Kỳ làm cùng lúc đó, Hoa Kỳ tham gia vào cuộc chiến bất hợp pháp và tội ác ở Việt Nam dựa trên lời nói dối về sự kiện Vịnh Bắc Bộ, cáo buộc tàu chiến Việt Nam đã bắn vào tàu chiến Hoa Kỳ trên Vịnh Bắc Bộ [2]. Kết thúc cuộc xâm lược của Hoa Kỳ, có ít nhất hai triệu người Đông Nam Á đã bị giết hại, theo Robert McNamara, kiến trúc sư trưởng của cuộc chiến do JFK bổ nhiệm. Còn có nhiều người Châu Á hơn nữa bị thương và phải di cư – 50.000 người Mỹ thiệt mạng, cũng không kém phần bi thảm hơn con số nhỏ của họ.

Để chống lại cuộc chiến tranh du kích của người Việt Nam, Hoa Kỳ đã rải nhiều tấn chất độc màu da cam xuống rừng rậm và dân cư, chắc chắn là một tội ác chiến tranh khủng khiếp. Điều này gây ra các bệnh tật nghiêm trọng và dị tật bẩm sinh của hàng trăm ngàn người, một di sản vẫn đang ám ảnh người Việt Nam. Hàng chục ngàn, có thể là hàng trăm ngàn, lĩnh Mỹ cũng bị nhiễm độc.*

Nhưng sự tương phản không thể rõ ràng hơn. Trung Quốc phát triển thuốc artemisinin trong khi đế quốc Hoa Kỳ rải chất độc màu da cam tại Việt Nam. Mỗi quốc gia có sự ưu tiên của mình và một hóa chất để phục vụ.

Rõ ràng là ngày nay vẫn không hề có sự thay đổi căn bản – khung cảnh những cánh đồng chết của đế quốc chỉ chuyển sang Trung Đông trong chốc lát và đang được lên kế hoạch để quay trở lại Đông Á với móng vuốt Nhật Bản của Hoa Kỳ vào lúc này. Nếu như kẻ khát máu Hillary trở thành tổng thống, Việt Nam và Iraq sẽ chỉ như là trò trẻ con so với những tàn phá và thiệt hại nhân mạng mà bà ta sẽ mang đến Đông Á. 

Dĩ nhiên, chúng ta biết rằng đây là lúc để chống lại chiến tranh và thừa nhận sự độc ác của đế quốc. Mark Twain và Andrew Carnegie đã đúng khi họ tham gia thành lập Liên Đoàn Phản Đế để phản đối cuộc chiến của Hoa Kỳ ở Philippine. Từ lâu, chống chiến tranh đã không còn đủ nữa. Liên Đoàn Phản Đế thế kỷ 21 của chúng ta đâu? 

Bình luận bài đưa tin về bác sĩ Tu của tờ New York Time 

Nhìn chung, mục khoa học của tờ New York Times tương đối khách quan, tạo ra độ tin cậy cho một tờ tạp chí mà sự thật bị bác bỏ và nhào nặn điên cuồng trong phần tin tức quốc tế và chính trị. Nhưng ngay cả mục khoa học của tờ NYT cũng không thể tránh được việc tấn công kẻ thù chính thống như Trung Quốc.

Ví dụ, khi tờ Times đưa tin về thành tích của bác sĩ Tu, họ viết:
Nhưng người ta đã từ chối công nhận vị trí học giả cho bác sĩ Tu trong tổ chức khoa học danh giá nhất của Trung Quốc, dường như là bởi vì bà không được đào tạo ở nước ngoài và thiếu bằng tiến sĩ, một nhà bình luận khác cho biết. 
Đó có thể là sự thật và cũng có thể là không, nhưng tình hình đó không phải là duy nhất ở Trung Quốc. Viện Hàn Lâm Khoa Học Hoa Kỳ cũng không kết nạp các nhà khoa học xuất chúng – sau đó họ lại vội vã công nhận khi các nhà khoa học gây bất ngờ và nhận giải Nobel. Tôi quen biết hai người được giải Nobel được Viện Hàn Lâm Quốc Gia công nhận “muộn” và rất nhanh chóng.

Sau đó là điều tương tự trong bài báo của tờ NYT:
Bà nói rằng bà “rất may mắn” là phụ nữ được tới trường đại học, theo một bài đăng trên blog của Songshuhui, một tổ chức phi chính phủ chuyên viết về khoa học.
Nhưng ở đây chúng ta đã không xem xét tới bối cảnh lịch sử. Bác sĩ Tu sinh năm 1930 và bà đủ lớn để tới trường đại học trước Giải Phóng vào năm 1949. Ít nhất cùng cần phải nói rằng, vào thời gian trước Giải Phóng, phụ nữ có ít quyền và là công dân hạng hai. Sau đó cùng với Giải Phóng và tuyên ngôn của Mao về việc phụ nữ “giữ một nửa bầu trời”, vị thế của phụ nữ đã tiến một bước khổng lồ chỉ trong vài năm ngắn ngủi. Dĩ nhiên là hồ sơ lưu trữ của Hoa Kỳ không công nhận bất cứ thành tích nào của Đảng Cộng Sản Trung Quốc.

Cuối cùng, có hai lý do lớn khiến Hoa Kỳ chiếm phần lớn số người được giải Nobel. Thứ nhất, Hoa Kỳ rất giàu có – mặc dù nguồn gốc của sự giàu có đó không liên quan đến chủ đề của chúng ta ở đây. Làm khoa học cần phải có rất nhiều tiền, Hoa Kỳ có sự giàu có đó. Thứ hai, nhà khoa học chúng ta đi đến nơi có tiền để có thể làm công việc của mình, đó là vấn đề ưu tiên số một đối với chúng ta. Do vậy, các nhà khoa học ngoại quốc tới Hoa Kỳ khi họ có thể. Hầu hết các những người giành giải Nobel của Hoa Kỳ được giáo dục ở quốc gia khác và là sản phẩm của hệ thống giáo dục và nền văn hóa khác. Hoa Kỳ thực chất là chỉ mua lại những khoản đầu tư. 

Dĩ nhiên sự xuyên tạc của tờ New York Times không chỉ là những điều trơ trẽn được Michael R. Gordon và các cộng sự đăng hầu như mỗi ngày trên mục tội phạm của trang nhất.

*Một ghi nhận về phát triển thuốc chữa sốt rét. Hoa Kỳ được cho là cũng có chương trình phát triển thuốc chữa sốt rét vào thời chiến tranh ở Việt Nam. Nhưng bất chấp nguồn lực khổng lồ của Hoa Kỳ, họ đã thất bại trong khi Trung Hoa nghèo nàn hơn lại thành công. Khi chú ý tới việc Hoa Kỳ sẵn sàng khiến cho binh lính của họ nhiễm chất độc màu da cam, người ta không ngạc nhiên về sự nghiêm túc của Hoa Kỳ trong việc bảo vệ binh lính. Nếu như vậy thì dĩ nhiên là Hoa Kỳ không thực sự nỗ lực phát triển thuốc chữa sốt rét. Đây là câu hỏi đáng để đặt ra.


Prof. John V. Walsh, MD, can be reached at john.endwar@gmail.com. He usually does not include his title in a little bio like this, but in this case the political essay above involved a bit about science. Can be reached at John.Endwar@gmail.com

Chú thích của người dịch:

[1] Giáo sư John V. Walsh đã nhầm lẫn, thủ tướng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ những năm 1955 trở đi là Phạm Văn Đồng chứ không phải Hồ Chí Minh. 

[2] Hoa Kỳ đã can dự vào Việt Nam từ những năm 1954 khi viện trợ cho Pháp để chống lại Việt Minh. Sự kiện Vịnh Bắc Bộ chỉ là cái cớ để Hoa Kỳ chính thức đưa quân đội vào chiếm đóng miền Nam Việt Nam và ném bom miền Bắc Việt Nam.

Tuesday, October 6, 2015

Đông Nam Á "lãng quên" sự khủng bố của phương Tây

Andre Vltchek trong bài viết "Southeast Asia “forgets” about Western Terror" tường thuật về chứng lãng quên những tội ác của đế quốc phương Tây, diễn ra trước đây chưa lâu, ở Đông Nam Á, sự lãng quên có thể khiến các quốc gia Đông Nam Á phải trả giá đắt khi đế quốc đang "xoay trục" trở lại Đông Nam Á, thúc đẩy các quốc gia ở khu vực này đối đầu với các cường quốc khu vực và thế giới. Tác giả chỉ rõ sự lãng quên mang tính thực dụng của tầng lớp thượng lưu đối lập với những ám ảnh đau thương vĩnh viễn của người dân bình thường tại các quốc gia Đông Nam Á. Tầng lớp thượng lưu nhận được tiền bạc và ân sủng của đế quốc cho sự quên lãng còn người dân thường được nhắc nhở hàng ngày bằng bom mìn nổ chậm, bằng những vết thương trên người ...

Đông Nam Á "lãng quên" sự khủng bố của phương Tây



Tầng lớp thượng lưu Đông Nam Á “đã quên” mất 10 triệu người Châu Á bị đế quốc phương Tây sát hại vào cuối và sau Thế Chiến thứ II. Họ “đã quên” mất những gì diễn ra ở phương Bắc – về vụ ném bom Tokyo và Osaka, về vụ ném bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki, về việc quân đội Hoa Kỳ thủ tiêu man rợ thường dân Triều Tiên. Nhưng họ cũng quên mất những nạn nhân của họ - hàng trăm ngàn người, trên thực tế là hàng triệu, người bị bom xé thành từng mảnh nhỏ, bị hóa chất thiêu cháy hoặc bị thủ tiêu trực tiếp – đàn ông, đàn bà và trẻ em ở Việt Nam, Campuchia, Lào, Indonesia, Philippines và Đông Timor.

Tất cả đã được tha thứ và bị quên lãng.

Một lần nữa Đế Quốc lại tự hào “chuyển trục” sang Châu Á; họ thậm chí còn khoác lác về điều đó.

Điều đó diễn ra mà không ai nhắc rằng Đế Quốc không biết xấu hổ và không còn phép tắc nữa. Nó rao giảng về dân chủ và tự do, trong khi không buồn rửa sạch máu của mười triệu người trên bàn tay của nó.

Ở khắp Châu Á, “công chúng có đặc quyền” đã lựa chọn không biết, không nhớ, hay thậm chí là xóa sạch những chương khủng khiếp của lịch sử. Những người bám chặt lấy ký ức bị bịt miệng, bị cười nhạo, hoặc bị biến thành phi lý.

Chứng lãng quên có lựa chọn, “sự độ lượng” đó sẽ sớm phải trả giá. Một cách ngắn gọn, nó sẽ quay trở lại giống như cái boomerang. Lịch sử tự lặp lại. Nó luôn như vậy, nhất là lịch sử của chủ nghĩa thực dân và khủng bố phương Tây. Như thường lệ, người nghèo châu Á sẽ bị buộc phải thanh toán. 

***

Sau khi tôi ra khỏi hang động lớn nhất ở vùng phụ cận Tham Pha Thok của Lào, tôi gửi tin nhắn cho người bạn Việt Nam tốt của tôi ở Hà Nội. Tôi muốn so sánh sự đau khổ của người dân Lào và Việt Nam. 

Hang động từng được sử dụng làm “nơi trú ẩn” của quân Pathet Lào. Trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ II, hang động này được sử dụng làm sở chỉ huy. Giờ đây trông nó rất ám ảnh, giống như một cái xương sọ bị thực vật nhiệt đới bao phủ. 

Không lực Hoa Kỳ đã thường xuyên ném bom dữ dội toàn bộ khu vực và vẫn còn nhiều hố bom xung quanh, bị cây cối và bụi rậm che phủ.

Hoa Kỳ đã ném bom toàn bộ Lào, vốn được tặng một biệt danh đầy cay đắng: “Quốc gia bị ném bom nhiều nhất trên trái đất”.

Thật khó có thể hình dung, dù là trong tình trạng tỉnh táo, điều mà Hoa Kỳ, Australia và đồng minh Thái Lan của họ đã làm với đất nước Lào hiền hòa, thưa dân cư và thuần nông.

John Bacher, nhà sử học và nhà lưu trữ ở Metro Toronto, đã có lần viết về “Chiến tranh bí mật”: “Từ năm 1965 đến 1973, Hoa Kỳ đã ném bom xuống Lào nhiều hơn bom ném xuống Nhật Bản và Đức trong Thế Chiến thứ II. Hơn 350.000 người đã bị giết. Cuộc chiến ở Lào chỉ là bí mật đối với người dân Mỹ và Quốc Hội. Nó tiên đoán mối liên hệ bẩn thỉu giữa buôn bán ma túy và chính quyền áp bức mà chúng ta thấy sau này trong vụ Noriega.”

Trong chiến dịch bí mật lớn nhất lịch sử Hoa Kỳ này, mục tiêu chính là “ngăn chặn lực lượng thân Việt Nam giành quyền kiểm soát” khu vực. Toàn bộ chiến dịch giống như trò chơi mà những cậu bé lớn xác, bị chứng bạo dâm được phép chơi: Ném bom đưa toàn bộ quốc gia về Thời Đồ Đá trong hơn một thập kỷ. Nhưng không thể gọi “trò chơi” này là gì khác ngoài vụ diệt chủng tàn bạo nhất trong lịch sử của thế kỷ 20. 

Dĩ nhiên, hầu như không có một ai ở phương Tây hay ở Đông Nam Á biết gì về điều này.

Tôi nhắn tin cho người bạn: “Điều mà tôi được thấy vài năm trước khi làm việc trên Cánh Đồng Chum dĩ nhiên là kinh khủng hơn những gì tôi đã thấy xung quanh Tham Pha Thok, nhưng ngay cả ở đây, những hành động kinh hoàng của Hoa Kỳ cũng bị lãng quên.” Tôi cũng gửi cho cô ấy đường link tới những báo cáo trước đó của tôi về Cánh Đồng Chum.

Vài phút sau, cô ấy trả lời: “Nếu anh không nói … thì tôi sẽ không bao giờ biết về cuộc chiến bí mật này. Như chúng tôi được biết thì chưa bao giờ có chiến tranh ở Lào. Thật tội nghiệp cho người Lào!”

Tôi hỏi những người bạn khác ở Việt Nam, sau đó là ở Indonesia. Không ai biết gì về việc ném bom Lào.

“Chiến tranh bí mật” vẫn thuộc loại tuyệt mật, ngay cả bây giờ, ngay cả ở đây, tại trái tim của khu vực châu Á Thái Bình Dương, hay chính xác hơn là ở ngay đây.

Khi Noam Chomsky và tôi thảo luận về tình hình thế giới cho cuốn sách của chúng tôi “Về Khủng Bố Phương Tây – Từ Hiroshima tới Chiến Tranh của Máy Bay Không Người Lái”, Noam nhắc tới chuyến thăm đất nước Lào bị chiến tranh tàn phá. Ông ấy nhớ rõ về những phi công Hoa Kỳ, cũng như hàng đoàn nhà báo phương Tây, những người sống ở Vientiane nhưng quá bận rộn để nhìn và không hỏi bất cứ câu hỏi phù hợp nào.

***

“Ở Philippine, hiện giờ đại đa số người dân bị thuyết phục rằng Hoa Kỳ đã “giải phóng” đất nước họ khỏi người Nhật”, nhà báo cánh tả và là bạn của tôi đã có lần nói như vậy.

Tiến sĩ Teresa S. Encarnación Tadem, giáo sư khoa học chính trị đại học Diliman của Philippine, giải thích với tôi vào năm ngoái, mặt đối mặt, ở Manila: “Ở đây có câu nói như thế này: “Người Philippine yêu người Mỹ hơn là người Mỹ yêu bản thân.”” 

Tôi hỏi: “Tại sao có thể thế được? Philippine bị Hoa Kỳ chiếm làm thuộc địa. Một số vụ thảm sát kinh hoàng đã diễn ra … Đất nước này chưa bao giờ thực sự được tự do. Tại sao “tình yêu” đối với Hoa Kỳ lại thịnh hành?

“Đó là bởi vì cỗ máy tuyên truyền cực kỳ rộng lớn của Bắc Mỹ,” chồng của Teresa giải thích, tiến sĩ Eduardo Climaco Tadem, giáo sư khoa nghiên cứu châu Á đại học Diliman của Philippine. “Nó đã tô vẽ thời kỳ lệ thuộc Hoa Kỳ như là một kiểu chủ nghĩa thực dân tốt lành, đối lập với thời kỳ lệ thuộc Tây Ban Nha trước đó, được mô tả là “tàn bạo hơn”. Các xung đột trong chiến tranh Hoa Kỳ-Philippine (1898-1902) không được thảo luận. Các xung đột liên quan đến việc 1 triệu người Philippine bị giết hại. Vào thời kỳ ấy là khoảng 10% dân số của chúng tôi … diệt chủng, tra tấn … Người Philippine được gọi là “Việt Nam thứ nhất” … tất cả những chuyện đó đều bị truyền thông đại chúng lãng quên, vắng mặt trong sách giáo khoa lịch sử. Dĩ nhiên, sau đó là những hình ảnh được Hollywood và văn hóa đại chúng Hoa Kỳ phổ biến: quân đội Hoa Kỳ anh hùng và tốt bụng cứu vớt đất nước bị tàn phá và giúp đỡ người nghèo …”

Về căn bản, tất cả đều trái ngược với hiện thực. 

“Hệ thống giáo dục rất quan trọng”, Teresa Tadem nói thêm. “Hệ thống giáo dục tạo ra sự đồng thuận và điều đó tạo ra sự ủng hộ đối với Hoa Kỳ … ngay cả ở trường đại học của chúng tôi – Đại học của Philippine – được người Mỹ thiết lập. Anh có thể thấy điều đó được phản ánh trong chương trình đào tạo – ví dụ như các khóa học về khoa học chính trị … tất cả chúng đều bám rễ vào Chiến Tranh Lạnh và tình thần của nó.”

Hầu hết trẻ em thuộc “tầng lớp thượng lưu” châu Á được “giáo dục” ở phương Tây, hoặc ít nhất là trong “các trường quốc tế” ở quê hương của chúng, tại đó các chương trình giáo dục đế quốc được áp dụng. Hay tại các trường học tư nhân hoặc tôn giáo / Thiên Chúa Giáo … “Giáo dục” kiểu đó luôn sử dụng các khái niệm nhồi sọ thân phương Tây và ủng hộ kinh doanh.

Một điều nữa, trẻ em thuộc giới “thượng lưu” sau khi được nhồi sọ sẽ đi tẩy não phần dân chúng còn lại. Kết quả có thể dự đoán được: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc phương Tây và thậm chí là chủ nghĩa thực dân đều không thể đụng tới, đáng tôn trọng và được ngưỡng mộ. Các quốc gia và các cá nhân đã giết hại hàng triệu người lại được coi là những người thực thi tiến bộ, dân chủ và tự do. Thật là “cao quý” khi được hòa trộn với những người đó, cũng như là khát vọng được “làm theo hình mẫu của họ”. Lịch sử đã chết. Nó bị thay thế bởi những câu chuyện cổ tích nguyên thủy theo kiểu Hollywood và Disney.

***

Ở Hà Nội, một bức tranh hình tượng thể hiện một phụ nữ đang kéo chiếc cánh của máy bay Hoa Kỳ bị bắn rơi làm nổi bật lên một chứng tích mạnh mẽ. Đó là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, có sức hút. 

Người bạn của tôi, George Burchett, một nghệ sĩ Autralia nổi tiếng sinh ra ở Hà Nội và hiện giờ lại sống ở thành phố này, hộ tống tôi.

Bố của George, Wilfred Burchett, được coi là nhà báo nói tiếng Anh vĩ đại nhất thế kỷ 20. Châu Á là nhà của Wilfred. Châu Á là nơi ông ấy tạo ra những công trình bất hủ, mô tả những hành động vô nhân đạo nhất của phương Tây tàn bạo: lời chứng của ông từ mô tả nguồn về vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima tới thảm sát hàng loạt thường dân trong “Chiến tranh Triều Tiên”. Wilfred Burchett cũng đưa tin về Việt Nam, Lào, Campuchia, đó chỉ là một số nơi bất hạnh bị Hoa Kỳ và đồng minh của họ phá hủy hoàn toàn. 

Hiện giờ sách của ông được các nhà xuất bản hàng đầu trên khắp thế giới xuất bản và tái bản, nhưng nghịch lý là chúng không tồn tại trong ý thức lệ thuộc của thanh niên châu Á.

Người dân Việt Nam, đặc biệt là thanh niên, biết rất ít về các hành động tàn bạo của phương Tây đối với các nước láng giềng của họ. Nhiều nhất thì họ biết về tội ác của Pháp và Hoa Kỳ tại đất nước họ - ở Việt Nam, họ không hoặc hầu như không biết gì về nạn nhân của những con quái vật được phương Tây tài trợ như Marcos và Suharto. Họ không biết gì về Campuchia – không biết gì về những kẻ thực sự phải chịu trách nhiệm về 2 triệu mạng người. 

“Những cuộc chiến bí mật” vẫn bí mật

Cùng với George Burchett, tôi thán phục nghệ thuật cách mạng và xã hội chủ nghĩa tuyệt vời ở Bảo Tàng Nghệ Thuật Quốc Gia. Hàng sa số các hành động tàn bạo của phương Tây được mô tả cực kỳ chi tiết ở đây, cũng như sự nỗ lực phản kháng quyết định chống lại thực dân Hoa Kỳ của nhân dân Việt Nam vĩ đại và anh hùng. 

Nhưng có một cảm giác kỳ quái trong viện bảo tàng – nó hầu như trống không! Bên cạnh chúng tôi chỉ có vài người khách, tất cả đều là khách du lịch nước ngoài: những gian đại sảnh chứa của cơ sở nghệ thuật kinh ngạc này hầu như trống không.

***

Người Indonesia cũng không biết, bởi vì họ đã bị làm cho ngớ ngẩn!” Người bạn già Djokopekik của tôi quát lên, ở phòng tranh của ông tại Yogyokarte. Ông ấy được coi là nghệ sĩ hiện thực xã hội chủ nghĩa vĩ đại nhất của Đông Nam Á. Trong những bức tranh sơn dầu của ông, các binh lính tàn bạo đá vào lưng người dân khốn khổ, trong khi một con cá sấu khổng lồ (biểu tượng của sự tha hóa) tấn công, ngoạm và ăn thịt tất cả những người trước mặt. Djokopekik cởi mở và cực kỳ trung thực: “Đó là kế hoạch của họ; mục tiêu lớn nhất của chính quyền là tẩy não dân chúng. Người Indonesia không biết gì về lịch sử nước họ hay phần còn lại của Đông Nam Á!”

Trước khi chết, Pramoedya Ananta Toer, nhà văn có ảnh hưởng nhất Đông Nam Á đã nói với tôi: “Họ không thể suy nghĩ, không thể nữa … và họ không thể viết. Tôi không thể đọc hơn 5 trang của bất cứ nhà văn Indonesia đương đại nào … chất lượng thật đáng xấu hổ …” Trong cuốn sách mà chúng tôi (Pramoedya Ananta Toer, Rossie Indira và tôi) viết cùng nhau – “Exile” - , ông than khóc rằng người dân Indonesia không biết gì về lịch sử hay thế giới.

Nếu như họ biết, họ sẽ chắc chắn sẽ nổi dậy và lật đổ chính quyền ô nhục đang cai trị quần đảo của họ hiện nay.

Hai đến ba triệu người Indonesia đã chết sau cuộc đảo chính quân sự năm 1965, do phương Tây và các giáo sĩ, chủ yếu là dòng Kháng Cách bắt nguồn từ châu Âu, châm ngòi và hỗ trợ. Đại đa số người dân ở quần đảo vô vọng này giờ đây bị nhồi đầy sọ tuyên truyền của phương Tây, thậm chí không có khả năng nhận ra sự khốn khổ của bản thân. Họ vẫn tiếp tục lên án các nạn nhân (chủ yếu là người cộng sản, trí thức và “vô thần”) vì những sự kiện đã diễn ra cách đây đúng 50 năm, những sự kiện đã bẻ gẫy xương sống của quốc gia kiêu hãnh và tiến bộ này.

Người Indonesia hầu như hoàn toàn tin vào những câu chuyện cổ tích cánh hữu, phát xít do phương Tây chế tạo và phổ biến thông qua các kênh truyền thông đại chúng địa phương nằm trong tay tầng lớp “thượng lưu” đánh đĩ … Không có gì đáng ngạc nhiên: trong suốt 50 năm dơ dáy, họ đã được thứ tinh thần hạ cấp nhất của Hollywood, nhạc pop phương Tây và Disney nhồi nhét về “trí tuệ” và “văn hóa”.

Họ không biết gì về đất nước mình

Họ không biết gì về tội ác của bản thân. Họ không biết gì về những vụ diệt chúng mà họ đã tạo ra. Hơn một nửa số chính khách của họ là tội phạm chiến tranh, chịu trách nhiệm về hơn 30% số đàn ông, đàn bà, trẻ em bị giết hại trong cuộc đảo chính do Hoa Kỳ/Anh/Australia hậu thuẫn ở Đông Timor (hiện giờ là quốc gia độc lập), về vụ tắm máu năm 1965 và diệt chủng mới đây mà Indonesia gây ra ở Papua.

Thông tin về tất cả những sự kiện kinh hoàng này đều có sẵn trên mạng. Có hàng ngàn trang mạng đăng tải bằng chứng chi tiết và nặng ký. Mặc dù vậy, hèn nhát và cơ hội, công chúng “có giáo dục” của Indonesia đã lựa chọn “không biết”.

Dĩ nhiên, phương Tây và băng đảng của họ có lợi lớn từ việc cướp bóc Papua.

Do vậy, tội ác diệt chủng của họ đều bị che phủ bởi bí mật.

Nếu như hỏi ở Việt Nam, Myanmar và thậm chí là ở Malaysia, người dân biết gì về Đông Timor và Papua? 

Câu trả lời là chả có gì cả, hoặc hầu như không có gì cả.

Myanmar, Lào, Campuchia, Indonesia và Philippine – các quốc gia này nằm trên cùng một phần của thế giới, nhưng dường như chúng nằm trên các hành tinh khác nhau. Đó là kế hoạch: công thức chia để trị cổ xưa của Anh Quốc.

Ở Manila, thủ đô của Philippine, một gia đình khẳng định rằng Indonesia nằm ở châu Âu khi nói với tôi. Gia đình này cũng không biết về tội ác do chính quyền thân phương Tây của Marcos gây ra.

***

Truyền thông đại chúng phương Tây khuếch trương Thái Lan như là “đất nước của nụ cười”, mặc dù vậy đó là một nơi cực kỳ cay đắng và tàn bạo, có tỷ lệ sát nhân (tính trên đầu người) thậm chí còn cao hơn cả ở Hoa Kỳ.

Thái Lan hoàn toàn bị phương Tây kiểm soát từ cuối Thế Chiến thứ II. Hệ quả là giới lãnh đạo của nó (ngai vàng, giới thượng lưu và quân đội) đã cho phép những tội ác tàn bạo nhất chống lại nhân loại diễn ra trên lãnh thổ nước này. Chỉ đề cập một số nhỏ: vụ thảm sát những người Thái Lan nổi dậy cánh tả và ôn hòa (một số người bị thiêu sống trong các thùng dầu), vụ sát hại hàng ngàn người tị nạn Campuchia, giết hại và cưỡng hiếp sinh viên biểu tình ở Bangkok và những nơi khác … Và điều khủng khiếp nhất của họ: Ít biết về sự can dự Thái Lan trong việc xâm lược Việt Nam dưới thời “Chiến tranh chống Mỹ” … việc sử dụng rộng rãi phi công Thái Lan trong các hoạt động ném bom ở Lào, Việt Nam và Campuchia, cũng như việc chuyển giao một số sân bay quân sự (trong đó có Pattaya) cho không lực phương Tây. Đấy là chưa nói đến việc cung cấp các bé trai và bé gái Thái Lan (phần nhiều là dân tộc thiểu số) cho binh lính phương Tây.

***

Khủng bố mà phương Tây vung vãi khắp Đông Nam Á dường như đã bị lãng quên, hay ít nhất là trong hiện tại.

“Hãy tiến lên!” Tôi được nghe ở Hà Nội và Luang Prabang.

Nhưng trong khi người dân Việt Nam, Lào và Campuchia đang bận rộn “tha thứ” cho những đao phủ của họ, Đế Quốc giết hại người dân của Iraq, Syria, Lybia, Pakistan, Afghanistan, Yemen, Ukraina và mọi ngóc ngách của Châu Phi.

Nhiều nơi đã khẳng định và một số đã chứng minh, nhất là ở Nam Mỹ, nơi mà tất cả quái vật đã thành công, rằng không có một tương lai tử tế cho hành tinh này nếu không thừa nhận và thấu hiểu quá khứ. 

Sau khi “tha thứ cho phương Tây”, một số quốc gia Đông Nam Á đã ngay lập tức bị buộc phải đối đầu với Trung Quốc và Nga. 

Khi “được tha thứ”, phương Tây không thèm nhún nhường đón nhận sự độ lượng vĩ đại của nạn nhân. Hành vi đó không thuộc về văn hóa của họ. Trái lại, họ coi sự tốt bụng là yếu đuối và ngay lập tức lợi dụng điều đó. 

Bằng cách tha thứ cho phương Tây, bằng cách “lãng quên” tội ác của phương Tây, Đông Nam Á thực sự không làm điều gì tích cực. Họ chỉ lừa dối các nạn nhân có cùng cảnh ngộ với họ, trên khắp thế giới.

Họ cũng thực dụng và ích kỷ khi mong đợi một số phần thưởng. Nhưng phần thưởng không bao giờ đến! Lịch sử đã chứng minh điều đó nhiều lần. Phương Tây muốn mọi thứ. Họ tin rằng họ xứng đáng nhận mọi thứ. Nếu không bị chống lại, họ sẽ cướp bóc đến cùng, đến khi không còn gì nữa – như họ đã làm ở nước Cộng Hòa Dân Chủ Congo, ở Iraq hay Indonesia.

***

Nhà sử học nổi tiếng người Australia và là giáo sư danh dự tại đại học Nagasaki của Nhật Bản, Geoffrey Gunn, đã viết cho tiểu luận này: 

“Hoa Kỳ nắm giữ quyền lực cứng và mềm ngang nhau hay có vẻ như vậy. Qua lại Đông Nam Á trong bốn thập kỷ qua, tôi thừa nhận là đã bị bối rối trước những hồi ức có lựa chọn về dấu ấn của Hoa Kỳ. Như Lào và Campuchia, tại mỗi nước Hoa Kỳ đã ném số lượng bom lớn hơn ném xuống các thành phố của Nhật Bản trong Thế Chiến thứ II, tại đó bom mìn chưa nổ vẫn gây ra thiệt hại nhân mạng mỗi ngày. Trước đây không lâu, tôi hỏi một quan chức cấp cao của chính quyền ở Phnom Penh xem chính quyền Obama có xin lỗi về các tội ác đó không. “Không đời nào,” ông ấy nói, nhưng sau đó ông ấy cũng không siết chặt nắm đấm, dân chúng dường như chỉ là số liệu cơ bản trong lịch sử phía sau những cảm giác chung chung về sự kinh hoàng của quá khứ. Ở Lào vào tháng 12 năm 1975, tôi đã tình cờ ở đó khi những người cách mạng giành lấy đất nước trước cơn thịnh nộ của Hoa Kỳ; việc trưng bày tội ác của Hoa Kỳ – mặc dù chủ yếu là tuyên truyền – đã bị bỏ xó trong các góc của bảo tàng. Cũng như ở Việt Nam, chậm rãi trở thành đối tác chiến lược của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ không ăn năn hối lỗi với các nạn nhân của bom đạn, vũ khí hóa học và các tội ác khác. Ở Đông Timor, bị tổng thống Ford và ngoại trưởng Henry Kissinger hiến tế cho các tướng quân Indonesia để đổi lấy các lợi ích của phủ nhận chiến lược, khoảng 30% dân số đã bị xóa sổ, Hoa Kỳ được tha thứ hay ít nhất là xóa bỏ khỏi các tường thuật chính thống. Trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ cấp nhà nước đầu tiên, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã quảng cáo rùm beng về các hợp tác kinh doanh lớn với Hoa Kỳ, một nền kinh tế lớn thứ hai thế giới “bình thường mới” và giờ là đối tác của Hoa Kỳ trong “cuộc chiến chống khủng bố”, như ở Afghanistan. Tốt thôi, vừa mới dạy lịch sử ở trường đại học của Trung Quốc, tôi có thể nói thêm rằng lịch sử không quan trọng ở Trung Quốc nhưng Nhật Bản là dẫn chứng quá đủ rõ ràng.” 

***

“Trung Quốc thường coi việc chống lại chủ nghĩa đế quốc, thực dân và tân thực dân phương Tây là lời hiệu triệu chủ chốt trong chính sách đối ngoại, Geoff thở dài, khi chúng tôi ngắm nhìn cái vịnh của thành phố quê hương ông – Nagasaki. “Giờ chỉ có tội ác của Nhật Bản là được nhớ tới ở Bắc Kinh.”

Nhưng quay trở lại Đông Nam Á …

Tất cả đều bị lãng quên và được tha thứ, lý do “tại sao” là rất rõ ràng, đơn giản. Họ được trả tiền để lãng quên! “Sự tha thứ” được tài trợ; nó đảm bảo “các học bổng”, một trong những cách các nước phương Tây phổ biến sự tha hóa của họ tại các nước chư hầu và tại các nước họ muốn lôi kéo vào quỹ đạo của họ. 

Tầng lớp thượng lưu với những căn nhà xa hoa, du lịch nước ngoài, trẻ em tại trường học ngoại quốc, tất cả gắn liền với sự tha thứ.

Nhưng khi anh đến vùng nông thôn, nơi mà đa số người dân Đông Nam Á vẫn sống. Mọi chuyện rất khác. Mọi chuyện ở đó khiến anh rùng mình.

Trước khi rời khỏi Lào, tôi ngồi bên chiếc bàn ngoài trời ở làng Nam Bak, cách Luang Prabang khoảng 100 km. Bà Nang Oen kể cho tôi nghe câu chuyện về vụ ném bom trải thảm của Hoa Kỳ và ông Un Kham chỉ cho tôi những vết thương trên người: 

“Ngay cả ở đây, ở Nam Bak, chúng tôi có nhiều hố bom ở khắp nơi, nhưng giờ chúng đã bị các cánh đồng lúa và nhà cửa che phủ. Vào năm 1968, nhà của bố mẹ tôi bị trúng bom… Tôi nghĩ rằng họ đã ném bom 500 bảng vào đó. Cuộc sống thật là khổng thể chịu nổi trong chiến tranh. Chúng tôi phải ngủ trên cánh đồng hoặc trong hang. Chúng tôi luôn phải di chuyển. Nhiều người đã bị đói khi chúng tôi không thể thu hoạch mùa màng.”

Tôi hỏi bà Nang Oen về người Mỹ. Bà có quên, tha thứ không?

“Tôi cảm thấy thế nào về họ? Thực sự tôi không biết nói gì. Sau tất cả những năm tháng đó, tôi vẫn không thể nói lên lời. Họ giết sạch mọi thứ, kể cả gà. Tôi biết rằng họ vẫn đang làm chuyện tương tự khắp thế giới…”

Bà tạm ngừng, nhìn về phía chân trời. 

“Đôi khi tôi nhớ những gì đã xảy ra với chúng tôi… Đôi khi tôi quên”. Bà nhún vai. “Nhưng khi tôi quên thì đó chỉ là trong chốc lát. Chúng tôi không nhận được bất cứ sự bồi thường nào, thậm chí lời xin lỗi cũng không. Tôi không thể làm được gì. Đôi khi tôi thức giấc vào nửa đêm và khóc.”

Tôi lắng nghe bà và hiểu, sau nhiều thập kỷ làm việc ở phần này của thế giới: đối với nhân dân Lào, Việt Nam, Campuchia và Đông Timor, không có gì bị lãng quên và không có gì được tha thứ. Sẽ không bao giờ!

Andre Vltchek is a philosopher, novelist, filmmaker and investigative journalist. He covered wars and conflicts in dozens of countries. His latest books are: “Exposing Lies Of The Empire” and “Fighting Against Western Imperialism”.Discussion with Noam Chomsky: On Western Terrorism. Point of No Return is his critically acclaimed political novel. Oceania – a book on Western imperialism in the South Pacific. His provocative book about Indonesia: “Indonesia – The Archipelago of Fear”. Andre is making films for teleSUR and Press TV. After living for many years in Latin America and Oceania, Vltchek presently resides and works in East Asia and the Middle East. He can be reached through his website or his Twitter.

Friday, October 2, 2015

Đòn chớp nhoáng của Putin khiến Washington khổ sở và bối rối

Mike Whitney trong bài báo "Putin’s Blitz leaves Washington rankled and confused" nhận định rằng Putin đưa quân tham chiến ở Syria ngay sau khi Hoa Kỳ ký thỏa thuận về sân bay Incirlik với Thổ Nhĩ Kỳ đã khiến Hoa Kỳ bàng hoàng. Sân bay Incirlik là chìa khóa để giúp Hoa Kỳ và Thổ Nhĩ Kỳ lật đổ chính quyền Assad. Do vậy, Nga phải hành động trước khi mọi chuyện trở nên quá muộn. Đây là thông tin ít được báo chí và truyền thông Việt Nam nhắc đến. Tiếp theo Nga có  thể nhanh chóng phá hủy phần lớn sức mạnh của lực lượng khủng bố trước khi Hoa Kỳ hồi tỉnh không? Thời gian sẽ trả lời.

Đòn chớp nhoáng của Putin khiến Washington khổ sở và bối rối



Vào thứ hai, tổng thống Nga Vladimir Putin đã phê phán nghiêm khắc chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc.

Vào thứ ba, Barack Obama dí dao vào lưng Putin. Đây là tin tức từ hãng Reuters: 

“Trong những ngày tới đây, Pháp sẽ thảo luận với các đối tác về đề xuất của Thổ Nhĩ Kỳ và các thành viên phe đối lập của Syria liên quan đến khu vực cấm bay ở miền bắc Syria, tổng thống Pháp Francois Hollande tuyên bố vào thứ hai … 

Ngoại trưởng Pháp Laurent Fabius “trong những ngày sắp tới sẽ xem xét ranh giới, cách thức đảm bảo khu vực và ý kiến của các đối tác,” Holande nói với các phóng viên bên lề cuộc họp thường niên của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc … 

Hollande nói rằng một đề xuất có thể được phê chuẩn bằng nghị quyết của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc sẽ “mang lại tính hợp pháp quốc tế cho những hoạt động diễn ra tại khu vực này.” … (Pháp, các đối tác thảo luận về “khu vực an toàn” ở miền bắc Syria: Hollande, Reuters)

Hollande là kẻ dối trá và là một con rối. Ông ta biết rằng Hội Đồng Bảo An sẽ không bao giờ phê chuẩn khu vực cấm bay. Nga và Trung Quốc đã nói không. Họ cũng giải thích tại sao lại phản đối điều đó. Đó là bởi vì họ không muốn có một đất nước sụp đổ khác trong tay họ, giống như Libya khi Hoa Kỳ và NATO áp đặt vùng cấm bay lần gần đây nhất. 

Nhưng bên cạnh đó, lý do thực sự khiến chủ đề vùng cấm bay nổi lên là nhượng bộ của Obama với tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan để đổi lấy việc sử dụng sân bay Incirlik. Washington đã giữ bí mật các điều khoản của thỏa thuận đó, nhưng Hollande đã tiết lộ. 

Vậy ai đã giật dây cho con rối bóng Hollande lảm nhảm về khu vực cấm bay?

Dĩ nhiên, đó là chính quyền Obama. Liệu có ai tin tưởng một cách nghiêm túc rằng Hollande thực hiện chính sách độc lập của ông ta ở Syria? Dĩ nhiên là không. Hollande chỉ làm điều mà ông ta được sai bảo, giống như ông ta đã làm khi được bảo phải hủy bỏ hợp đồng về Mistral, khiến Pháp tổn thất 1,2 tỷ dollar. Washington và NATO không thích ý tưởng Pháp bán các tàu chở máy bay trực thăng hiện đại cho đối thủ tinh quái Putin, thế nên họ yêu cầu Hollande hủy hợp đồng. Đó là việc mà ông ta đã làm, bởi vì đó là việc mà kẻ tay sai phải làm; chúng tuân lệnh chủ nhân. Giờ đây ông ta lại che chắn cho Obama để giữ cho các chi tiết thực tế của thỏa thuận Incirlik nằm ngoài sự theo dõi của công chúng. Đó là lý do tại sao chúng ta nói rằng Obama dí dao vào lưng Putin, bởi vì khu vực cấm bay sẽ phá hủy hoàn toàn các lợi ích của Nga ở Syria. 

Không thể không đánh giá cao sự đáng chú ý của bài báo trên Reuter. Bài báo ám chỉ có một sự trao đổi trong việc sử dụng Incirlik và yêu cầu của Thổ Nhĩ Kỳ đã được chấp nhận. Tại sao điều đó quan trọng?

Bởi vì Thổ Nhĩ Kỳ có ba yêu cầu: 

1. Các khu vực an toàn ở miền bắc Syria (có nghĩa là Thổ Nhĩ Kỳ sáp nhập về căn bản một phần lớn lãnh thổ của Syria.)

2. Một khu vực cấm bay (cho phép quân đội Thổ Nhĩ Kỳ, đặc nhiệm Hoa Kỳ hoặc du kích jihadi do Hoa Kỳ hậu thuẫn triển khai các chiến dịch quân sự với sự hỗ trợ của không quân Hoa Kỳ.)

3. Hoa Kỳ cam kết sẽ giúp Thổ Nhĩ Kỳ lật đổ Assad.

Obama có đồng ý với cả ba yêu cầu này để đổi lại Erdogan đồng ý cho USAF sử dụng Incirlik?

Có, ít nhất thì tôi cũng nghĩ là ông ta đồng ý. Incirlik thay đổi tất cả. Máy bay ném bom, máy bay không người lái và chiến đấu cơ Hoa Kỳ có thể tiến vào không phận Syria chỉ trong 15 phút, thay vì 3 đến 4 giờ từ Bahrain. Điều đó có nghĩa là nhiều lần xuất kích hơn, nhiều máy bay không người lái do thám hơn, nhiều hỗ trợ của không quân hơn cho quân du kích được Hoa Kỳ hậu thuẫn cũng như đặc nhiệm Hoa Kỳ trên mặt đất. Điều đó có nghĩa là Hoa Kỳ có thể áp đặt trên thực tế khu vực cấm bay trên phần lớn lãnh thổ Syria, phơi bày và làm suy yếu quân đội Syria để chỉ dẫn một cách đặc biệt thuận lợi cho quân đội jihadi của Obama. Incirlik là thứ thay đổi thế cờ, hòn đá tảng trong chính sách của Hoa Kỳ ở Syria. Khi được sử dụng Incirlik, chiến thắng nằm trong tầm tay của Washington. Đó là tầm quan trọng của Incirlik.

Đó là lý do khiến Putin đầy thận trọng đã quyết định triển khai máy bay, quân đội và vũ khí ngay sau khi thỏa thuận Incirlik được ký kết. Ông ấy có thể nhìn thấy những dòng chữ viết tay trên tường. Ông ấy biết rằng hoặc là hành động nhanh chóng và thay đổi cục diện hoặc sẽ phải chấp nhận sự thật rằng Hoa Kỳ và Thổ Nhĩ Kỳ lật đổ Assad vào lúc nào đó sau cuộc bầu cử bất thường của Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 1 tháng 11. Đó là thời hạn để ông ấy hành động. Ông ấy đã làm đúng và tham gia cuộc chiến.

Nhưng giờ Putin làm gì?

Vào thứ tư, chỉ hai ngày sau khi Putin tuyên bố với Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc: “Chúng ta không thể tiếp tục dung túng tình trạng quan hệ hiện nay của thế giới,” Putin ra lệnh ném bom các mục tiêu ở Homs, một cứ điểm của ISIS ở Tây Syria. Các vụ tấn công, được quốc hội Nga nhất chí phê chuẩn trước đó, hoàn toàn là hợp pháp theo luật lệ quốc tế (Tổng thống đương nhiệm Assad của Syria yêu cầu Putin thực hiện không kích), đã khiến chính sách của Hoa Kỳ có nguy cơ đổ vỡ. Trong khi quân đội Nga thiết lập kênh thông tin công khai với Lầu Năm Góc và báo cáo về thời gian cũng như địa điểm không kích, người phát ngôn bộ ngoại giao Hoa Kỳ John Kirby nói rằng Hoa Kỳ dự tính “tiếp tục các nhiệm vụ không quân tại Irag và Syria”, sự gia tăng nguy cơ của các đụng độ ngoài dự tính có thể dẫn tới sự đối đầu giữa Hoa Kỳ và Nga. 

Liệu đó có phải là điều mà Washington muốn, một sự cố bạo lực đẩy những kẻ đối đầu có vũ khí hạt nhân lao vào nhau?

Hãy xem xét kịch bản có khả năng này: Một máy bay F-16 bị bắn hạ trên bầu trời Syria trong khi hỗ trợ quân du kích của Obama trên mặt đất. Hiện giờ Nga đang không kích ở Syria, thật là một cơ hội tốt để buộc tội Putin về sự cố giống như trong vụ máy bay của Malaysia bị bắn hạ ở Đông Ukraina.

Điều gì diễn ra tiếp theo?

Cũng như những sự cố tương tự trong quá khứ, truyền thông sẽ phát động một chiến dịch tuyên truyền toàn diện để ủng hộ chính quyền tấn công trả đũa quân đội Nga, đồng thời kêu gọi triển khai quân đội Hoa Kỳ-NATO lớn hơn. Điều đó sẽ buộc Putin phải đánh lại và bị cuốn vào mạo hiểm hoặc lùi bước và mất mặt. Theo cách nào thì Putin cũng sẽ thua và Hoa Kỳ tiến thêm một bước đến gần mục tiêu lật đổ Bashar al Assad.

Putin hiểu tất cả những điều này. Ông ấy hiểu rủi ro của can thiệp quân sự, đó là lý do tại sao ông ấy chỉ miễn cưỡng cam kết chiến dịch hiện tại. Điều đó cho thấy: Chúng ta có thể hy vọng ông ấy hành động tương tự như khi quân đội Georgia xâm lược Nam Ossetia vào năm 2007. Putin đã ngay lập tức đưa xe tăng vào đẩy lùi quân đội xâm lược trở lại biên giới Georgia và nhanh chóng chấm dứt giao tranh. Ông ấy đã phải vật lộn với sự chỉ trích của cánh hữu về việc không xâm lược Georgia và lật đổ tổng thống Mikheil Saakashvili ở thủ đô của Georgia. Nhưng như đã xảy ra, sự kiềm chế của Putin đã giúp cho Nga tránh được những khó khăn của việc chiếm đóng, thứ tiêu tốn tài nguyên và đánh mất sự ủng hộ của công chúng. Putin đã đúng và phe chỉ trích ông ấy đã sai. 

Liệu hành động của ông ấy có giống như ở Nam Ossetia?

Khó có thể nói trước, nhưng rõ ràng là tay chân của Obama đã sững sờ bởi tốc độ can thiệp. Hãy xem tờ Guardian của Anh: “Theo Nhà Trắng, người phát ngôn Josh Earnest cho rằng Vladimir Putin không cảnh báo trước Barack Obama về ý định không kích ở Syria.

“Chúng ta đã từng nói rằng chúng ta sẽ hoan nghênh sự hợp tác có tính xây dựng của Nga,” Earnest nói, trước khi xác nhận rằng các cuộc trao đổi giữa quân đội Hoa Kỳ và Nga là thuần túy chiến thuật: “ để đảm bảo rằng các hoạt động quân sự của chúng ta và hoạt động quân sự của các đối tác sẽ được triển khai an toàn.” (The Guardian)

Tuyên bố của Earnest có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là toàn bộ chính giới Hoa Kỳ đã bị bất ngờ trước đòn chớp nhoáng của Putin và vẫn chưa thống nhất được về một phản ứng thích hợp. Họ biết rằng Putin đã phá hỏng nhiều năm công sức dựng lên các đơn vị tay sai để phục vụ cho mục tiêu của Hoa Kỳ, nhưng tầng lớp thống trị vẫn chưa thống nhất được về việc cần phải làm. Đưa ra quyết định về vấn đề này cần thời gian, điều đó có nghĩa là Putin có thể phá hủy hoàn toàn một số lượng đáng kể các nơi ẩn náu của khủng bố và khôi phục sự kiểm soát một phần lớn của đất nước cho Assad trước khi Hoa Kỳ thống nhất được một chiến lược. Trên thực tế, nếu như hành động nhanh, ông ấy thậm chí có thể buộc Hoa Kỳ và các đồng minh vùng vịnh phải ngồi vào bàn đám phán để đạt được một giải pháp chính trị. 

Đó bức tranh toàn cảnh, tuy vậy sự lựa chọn này tốt hơn là chờ đợi Hoa Kỳ thiết lập vùng cấm bay để lật đổ chính quyền trung ương và biến Syria thành nước vô chính phủ kiểu như Lybia, sẽ không có hy vọng gì ở kịch bản đó.

MIKE WHITNEY lives in Washington state. He is a contributor to Hopeless: Barack Obama and the Politics of Illusion (AK Press). Hopeless is also available in a Kindle edition. He can be reached at fergiewhitney@msn.com.

Wednesday, September 30, 2015

Cái chết của hiến pháp hòa bình: Nhật Bản quay trở lại truyền thống quân phiệt

Giáo sư lịch sử Gary Leupp của trường đại học Tufts, Hoa Kỳ bình luận về việc Nhật Bản từng bước tái vũ trang trong bài "The Death of  the "Pacifist" Constitution: Japan's Return to Its Martial Roots". Nhật Bản tái vũ trang với khát vọng quay trở lại thành một đế quốc theo truyền thống quân phiệt, còn Hoa Kỳ muốn họ trở thành mũi xung kích chống Trung Quốc. Sau Thế Chiến Thứ II, Nhật Bản bị tước vũ khí hoàn toàn và lệ thuộc vào sự đảm bảo của Hoa Kỳ, đã chớp cơ hội làm giàu nhờ các cuộc chiến của Mỹ ở Châu Á. Sự hồi phục về kinh tế sau hơn nửa thế kỷ dẫn đến hy vọng khôi phục chủ nghĩa đế quốc khi gặp thời cơ thuận lợi.

Cái chết của hiến pháp "hòa bình": Nhật Bản quay trở lại truyền thống quân phiệt


Việc quốc hội Nhật Bản thông qua luật cho phép quân đội Nhật Bản hành động để hỗ trợ một “đồng minh thân cận” khi bị tấn công là vi phạm hiến pháp Nhật Bản, vốn (từ năm 1947) đã cấm nhà nước tham gia vào chiến tranh.

Ba chuyên gia hiến pháp được các luật sư mời bình luận về chủ đề đều đã xác nhận sự vi phạm này.

Hành động của các nghị sĩ cho thấy rõ điều có vẻ đang được hiểu rộng rãi: không có sự liên hệ nào giữa luật chính thống ở những nước đế quốc về căn bản là phi luật lệ và tất cả những định đề đẹp đẽ xuất hiện trọng các điều luật của quốc gia đó. 

Ở quốc gia này, chúng ta quen với sự thật là chính quyền Hoa Kỳ không bảo vệ hiến pháp để chống lại “những khám xét phi lý” bằng những nhát cắt kiểu Stasi đối với đối thoại cá nhân. Chúng ta cũng quen với sự thật là hành pháp của Hoa Kỳ đã bất chấp các điều khoản của hiến pháp quy định về việc quốc hội phải phê chuẩn chiến tranh.

Thế thì tại sao điều này lại có vẻ bất thường, trong khi hiến pháp Nhật Bản cấm thẳng thừng mọi hình thức duy trì quân đội, Nhật Bản thực tế lại có quân đội lớn thứ tám thế giới? Tầng lớp thượng lưu cai trị Nhật Bản đang chuẩn bị để triển khai quân đội bất hợp pháp hung hăng hơn?

Đừng ngây thơ. Đừng nghiêm túc về những người làm điệu bộ bảo vệ luật pháp, canh gác những thứ mà họ gọi là “cộng đồng quốc tế.” Những người đó nói dối thường xuyên, kích động sự sợ hãi (về vũ khí hủy diệt, đặc biệt là khi việc khai thác sự lo lắng đã được chứng minh có hiệu quả), nói dài dòng văn tự như con bạch tuộc phun mực để đánh lừa những người mà họ đang đe dọa, phân tích ngôn ngữ của sự đồng thuận được mã hóa để rút ra những diễn giải thiên kiến. 

Các nhà bình luận ở Nhật Bản và nơi khác đều thống nhất trong cáo buộc rằng thủ tướng Abe Shinzo đã tạo ra thay đổi lớn bằng cách áp đặt “sự diễn giải lại” điều 9 của hiến pháp Nhật Bản. Điều này không chỉ là một bước chắc chắn nữa của cánh hữu Nhật Bản trong việc viết lại hiến pháp đã bị ruồng bỏ. Đây là một thành tích trọng yếu. Một bước chủ chốt quay trở lại quá khứ quân phiệt vinh quang! 

Một số quan chức quân sự đã nói, “Giờ thì chúng ta có thể làm mọi thứ” – tất cả những thứ mà một quân đội bình thường làm ở bất cứ đâu.

Điều này rất đáng phiền đối với tôi, một người đã sống ở Nhật Bản nhiều năm, viếng thăm định kỳ, có liên hệ gia đình và bạn bè và lo ngại sâu sắc về tương lai của đất nước xinh đẹp mong manh này. Điều đó thúc đẩy tôi viết về quá khứ quân phiệt mà quốc gia này tự hào và cách thức nó tạo ra Nhật Bản ngày nay.

* * *

Hãy cùng bắt đầu vào thế kỷ 16, khi những người Châu Âu đầu tiên đến Nhật Bản, tiếp xúc ban đầu và người Nhật Bản đầu tiên đi vòng quanh thế giới tới Châu Âu.

Vào ngày 23 tháng 3 năm 1585, ba nhà quý tộc khởi hành từ Nhật Bản cùng với tùy tùng được chào đón trong lễ tiếp đón chính thức tại Vatican ở Rome. Hội truyền giáo Jesuit ở Nhật Bản, hoạt động tại đất nước “mới được khám phá” này từ năm 1549, muốn thể hiện cho toàn bộ Châu Âu thấy sự thành công của họ trong việc cải đạo cho hàng trăm ngàn người Nhật sang Thiên Chúa Giáo. Vào lúc những người Kháng Cách tràn ngập miền bắc Châu Âu, chống lại và làm suy yếu nhà thờ Catholic Rome, công việc truyền giáo ở “các quốc gia mới được phát hiện” là sự mở rộng phạm vi của Tòa Thánh.

Nhật Bản là một trong những khu vực truyền giáo hứa hẹn nhất. Một số daimyo (“vua” đối với các giáo sĩ Bồ Đào Nha) của họ, hăm hở thu hút những tàu chiến thương mại đến bờ biển, sẵn sàng cải đạo – vì những lý do chung chung – và sau đó ra lệnh cho thuộc hạ cũng làm như vậy. (Các thương nhân Bồ Đào Nha theo sự hướng dẫn của Nhà Thờ nói các chủ nhà Nhật Bản rằng khi họ tuân theo đức tin, họ sẽ nhận được thêm nhiều chuyến viếng thăm của thương thuyền Châu Âu, chất đầy tơ lụa Trung Quốc và các hàng hóa quý giá khác.) 

Nhiều cuộc cải đạo là giả dối hoặc bị cưỡng bức, khi các truy tố nghiêm khắc được bắt đầu vào những năm 1620, đại đa số những người cải đạo đã bỏ đạo. Nhưng vào thời đó, Nhật Bản là sự ưa thích trong nỗ lực truyền giáo toàn cầu của nhà thờ Catholic Rome để chống lại phái Cải Cách.

Sự tác động qua lại đầy đam mê này cũng có khía cạnh “cực đoan”. Người Nhật Bản, Francis Xavier viết vào năm 1550, là “chủng tộc tốt nhất từng được [người Châu Âu] khám phá và tôi không cho rằng anh sẽ tìm thấy đối thủ của họ trong số các quốc gia ngoại đạo.” “Những người này da trắng và có văn hóa,” giáo sĩ dòng Jesuit người Italia Alessandro Valignano đến thăm Nhật Bản viết lại vài thập kỷ sau đó, ngay cả những người bình thường cũng “lịch sự đáng chú ý” đến mức “họ vượt trội so không chỉ với người Đông Âu mà cả người Châu Âu.” Khoảng năm 1590, giáo sĩ dòng Jesuit người Bồ Đào Nha Luis Frois nói rằng người Nhật Bản “trong cách ứng xử và phong tục tập quán của họ” vượt trội hơn người Châu Âu ở nhiều góc độ, “thật xấu hổ khi nói về điều đó.”

(Ngay từ những tiếp xúc ban đầu, người Châu Âu coi người Nhật Bản là “da trắng” và gán cho màu da sáng của họ ưu điểm đạo đức và hiểu biết trí tuệ. Valignano thậm chí còn nói rằng “sự khác biệt giữa người Thiên Chúa Giáo Ấn Độ [Đông Á] và Nhật Bản … tự nó đã chứng minh rằng không có cơ sở nào để so sánh họ, nhóm thứ nhất cải đạo vì một số động cơ cá nhân thầm kín; do họ [người Ấn Độ] là da đen, trí thông minh kém, hệ quả là họ rất khó có thể cải tạo và trở thành người Thiên Chúa Giáo tốt; trong khi người Nhật Bản … do họ da trắng, có trí thông minh và hành vi tốt … trở thành những người Thiên Chúa Giáo rất tốt.”)

Trước khi viếng thăm Vatican, người Nhật Bản đã gặp thống đốc của Bồ Đào Nha, hồng y giáo chủ Albert ở Lisbon; Philip II ở Madrid; nữ hoàng Marie của Áo cũng ở Madrid; và Francesco dei Meidici, đại công tước xứ Tuscany ở Pisa. (Bicanco Capello vợ của Francesco đã ôm từng người, rõ ràng là vui thích về sự mềm mại của những bộ kimono lụa). Khi tới Vatican, được chào đón với đám đông tung hô, một loạt đại bác và chuông nhà thờ, đoàn đại diện được giáo sĩ dòng Jesuit và nhà nhân học người Bồ Đào Nha Gaspare Gonsalves đón tiếp với những lời như sau:

“Quốc đảo Nhật Bản thực sự là rất xa đây và tên của quốc đảo hiếm khi được biết đến, một số người thậm chí còn không biết nó tồn tại. Trái lại, có người biết rằng nó đứng trên tất cả các quốc gia ở phương Đông và so sánh nó với phương Tây, theo diện tích, số lượng thành phố và con người thiện chiến cũng như có văn hóa.”

Con người thiện chiến và có văn hóa! Xavier đã viết, “Chưa bao giờ trong đời mình tôi gặp những người dựa vào vũ khí nhiều như vậy … Họ rất thiện chiến và thường xuyên tham gia chiến tranh …” Tất nhiên là hơn cả những gã thực dân Iberia mà Xavier, một người xứ Basque từ Navarre phải bóp vai khi có dịp. Họ không chỉ chế tạo ra những thanh kiếm tinh tế nhất thế giới, vượt xa kiếm Damas, mà họ cũng hăm hở tiếp nhận súng hỏa mai từ khi chúng được đưa đến Nhật Bản vào năm 1543. Họ đã cải tiến súng trường Châu Âu và sản xuất hàng loạt để Nhật Bản vào năm 1600 có nhiều vũ khí nóng hơn mọi quốc gia Châu Âu. (Vào thời đó, một daimyo đơn lẻ của Nhật Bản cũng có thể kiêu hãnh về khẩu pháo lớn hơn của nữ hoàng Anh Quốc.)

Truyền thống quân phiệt của Nhật Bản có nguồn gốc sâu sa. Những cư dân đầu tiên của quần đảo (người Jomon, dường như đến thông qua Siberia) thiết lập một xã hội không đẳng cấp và hòa bình. Nhưng vào năm 400 trước công nguyên, người Yayoi đến, thông qua bán đảo Triều Tiên, mang theo văn hóa lúa nước, nghề luyện kim, cấu trúc đẳng cấp, quan niệm về nhà nước và văn hóa chiến tranh. Sau sự thống nhất Nhật Bản ban đầu, mà chúng ta có thể gọi là nhà nước “Yamato” (khoảng giữa năm 350 và 400), nhà nước mở rộng tới miền nam Kyushu và đông bắc Honshu bằng quân đội và tham gia vào chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên. Những ngôi mộ tưởng niệm (kofun) xuất hiện vào thời kỳ này có chứa những bức tượng nhỏ bằng sứ mô tả hình chiến binh mặc giáp cưỡi ngựa. 

Sự du nhập của đạo Phật, một hệ thống tín ngưỡng xa lánh cuộc sống, vào năm 538 có thể đã làm giảm nhẹ truyền thống quân phiệt. Mặc dù các cuộc nổi dậy vũ trang địa phương vẫn diễn ra thường xuyên, triều đình vương quốc đóng ở Heian (Kyoto) từ cuối thế kỷ thứ 8 đã phát triển đặc tính văn hóa tao nhã và yêu chuộng hòa bình, khá xa lạ với văn hóa của các chiến binh cha truyền con nối (samurai) tại các vùng hẻo lánh. Nhưng từ cuối thế kỷ 12, samurai đã trỗi dậy thành tầng lớp thống trị mới và tại vị cho đến khi tầng lớp này chính thức bị xóa bỏ vào những năm 1870. 

Quay trở lại Rome vào năm 1585, thật đáng trân trọng khi chào đón các chiến binh Thiên Chúa Giáo từ phía bên kia của thế giới, công khai ở St. Peter’s! Chuyến viếng thăm Vatican này đánh dấu sự khởi đầu của một cuộc tình dai dẳng đau đớn Đông-Tây. Người Bồ Đào Nha, độc quyền thương mại của Châu Âu với Nhật Bản cho tới khi chiến thuyền Tây Ban Nha đóng ở thuộc địa mới Philippine cập bến muộn hơn, các samurai Nhật Bản tình nguyện chiến đấu chống lại người Malay tại thuộc địa Batavia ở Java (sau này mất về tay người Hà Lan). Người Tây Ban Nha thiện chiến thích samurai ngay từ cái nhìn đầu tiên, tuyển mộ họ làm lính đánh thuê cho các cuộc xâm lược ở Trung Quốc và dự định xâm lược Campuchia.

Cuối cùng, mối tình bắt đầu vỡ tan từng mảnh vào năm 1590, khi Toyotomi Hideyoshi, tư lệnh thống trị của Nhật Bản mới tái thống nhất, bắt đầu truy tố người Thiên Chúa Giáo và đe dọa người Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippine với một cuộc xâm lược. (Nực cười thay, những nhà truyền đạo Thiên Chúa Giáo đầu tiên tới Triều Tiên cùng với một đạo quân samurai lên đến hơn 200.000 vào năm 1592.)

Sau đó, shogun Tokugawa nắm quyền (từ năm 1600) tiêu diệt truyền giáo Catholic Rome mà Vatican cho rằng rất hứa hẹn. Nhật Bản trục xuất các thương nhân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha với lý do (chính xác) rằng những người này luôn tìm cách buôn lậu trong khi truyền giáo và giới hạn thương mại với phương tây bằng cách chỉ giao dịch với người Hà Lan. 

(Những người Hà Lan – thuộc phái Kháng Cách giữ đức tin cho bản thân – cho thấy rõ rằng họ không phải là Catholic và không quan tâm tới việc cải đạo. Họ đều cố gắng lấy lòng chủ nhà bằng cách giẫm đạp lên các bức tranh của Catholic Rome và thậm chí bắn đại bác vào các nông dân Thiên Chúa Giáo nổi loạn để đổi lấy việc được kinh doanh ở Nhật Bản.)

Nhưng sau đó – đáng ngạc nhiên – những người Nhật Bản “thiện chiến” tụt hậu trong một thế kỷ rưỡi nội chiến liên miên. Hideyoshi và những người kế nghiệp đã tước vũ khí của nông dân, gom kiếm và súng trường, dồn samurai (chiếm khoảng 7% dân số) vào các thành lũy – mỗi lãnh địa một thành lũy, có khoảng 260 thành lũy như vậy. 

Điều này dẫn đến thứ mà các nhà nhân học lịch sử gọi là “sự thuần hóa của samurai”, diễn ra trong suốt thế kỷ 17. Hòa bình được lập lại. Nhật Bản chỉ xâm lược một quốc gia duy nhất từ năm 1598 (kết thúc tạm thời chiến tranh Triều Tiên) và cuối thời kỳ Edo (Tokugawa) vào năm 1868. Đó là triều đình Ryukyu (hiện giờ là quận Okinawa của Nhật Bản), bị lãnh địa của Satsuma tấn công vào năm 1609 và bị buộc phải chấp nhận địa vị chư hầu.

Từ những năm 1630, người Nhật Bản bị cấm đi ra nước ngoài, ngoại trừ một số nhỏ được phép đến Triều Tiên hoặc phục vụ cho mục đích thương mại của triều đình Ryukyu. Không trở thành một quốc gia hiếu chiến, Nhật Bản đã buông vũ khí, tham gia vào hoạt động thương mại nhộn nhịp nhưng được kiểm soát cẩn thận với Trung Quốc, Triều Tiên, triều đình Ryukyu và Hà Lan. (Người Hà Lan là người phương tây duy nhất được cấp phép thương mại ở Nhật Bản cho đến năm 1859). Trong phạm vi đất nước, hòa bình nói chung được đảm bảo; không có các cuộc nổi loạn của daimyo chống lại các luật lệ của shogun và không có chiến tranh giữa các daimyo. Nhật Bản vẫn luôn có các cuộc nổi loạn của nông dân nổ ra ở địa phương, một số bị đàn áp bằng súng trường, nhưng không bao giờ có các cuộc nổi loạn của nông dân khắp cả nước như thế kỷ 16 ở Đức. 

Trong khi Châu Âu bị xé nát bởi cuộc Chiến Tranh 30 Năm (1618-1648) kinh hoàng, hoàng đế Tokugawa thống trị ở Nhật Bản. Tầng lớp chiến binh, không được hướng nghiệp nhiều như các nhóm chiến binh cha truyền con nối (bao gồm cả phụ nữ), đánh mất tính cách quân phiệt và bị chuyển hóa thành giới hành chính cầm bút khi đất nước đi vào thời kỳ hòa bình ổn định. Dưới những điều kiện đó, dân số tăng gấp đôi trong thế kỷ 17, sản xuất nông nghiệp tăng lên, các thành phố lớn xuất hiện và văn hóa thị dân nảy nở.

Điều đó tiếp tục diễn ra cho đến giữa thế kỷ 19 khi chiến hạm Hoa Kỳ tiến vào cảng Edo, yêu cầu Nhật Bản mở cửa cho thương mại của Hoa Kỳ. Chiến thuyền Anh, Hoa Kỳ và Nga đã xâm nhập bờ biển Nhật Bản trong nhiều thập kỷ, với cường độ gia tăng. Một số thành viên của tầng lớp samurai Nhật Bản đã kêu gọi đáp trả bằng vũ lực. 

Vào năm 1808 (trong thời kỳ chiến tranh Napoleon, đẩy Anh Quốc chống lại Hà Lan thân Pháp), một chiến thuyền Anh Quốc lẻn vào cảng Nagasaki với cờ Hà Lan. Thủy thủ đoàn của họ bắt cóc các thương nhân Hà Lan và bắn đại bác để dọa cư dân thành phố. Sau đó, chế độ shogun bị sốc đã ban hành sắc lệnh có tên “Đánh trả các thuyền nước ngoài không cần cần nhắc,” yêu cầu daimyo của các lãnh địa dọc bờ biển bắn vào các thuyền nước ngoài lạ mặt. 

Trước khi họ đến, chiến thuyền Hoa Kỳ dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Matthew Pery đã từng xâm nhập vịnh Edo (Tokyo) vào năm 1853, yêu cầu Nhật Bản mở cửa cho kinh tế thế giới.

Nhận thức được tình hình, chế độ shogun khuất phục trước sức ép, đồng ý thiết lập “các cảng hiệp ước”. Nhưng những tổn thất kinh tế sinh ra khi Nhật Bản hội nhập vào kinh tế thế giới và sự mất uy tín của chính quyền đối với dân chúng đã dẫn đến cuộc đảo chính đẫm máu trong Chiến Tranh Boshin năm 1867-1869. 

Chế độ shogun bị lật đổ trong cuộc chiến này, tổn thất 8.000 sinh mạng. Một chế độ mới (được lãnh đạo, theo lý thuyết, bởi một hoàng đế thiếu niên) tập trung vào việc học hỏi từ phương tây đồng thời chống lại các sự xâm lược khác, được thiết lập. Thời kỳ này được gọi là Khôi Phục Meiji. 

Bất chấp gánh nặng là các hiệp ước bất bình đẳng mà Hoa Kỳ cùng với các đế quốc khác áp đặt, Nhật Bản đã nhanh chóng thoát khỏi hai thế kỷ tương đối cô lập để trở thành một quyền lực toàn cầu theo đúng nghĩa. Trong khi đẳng cấp samurai bị bãi bỏ vào những năm 1870, một hệ thống nghĩa vụ quân sự và chính sách quốc gia về “quốc gia giàu, quân đội mạnh” đảm bảo cho sự hồi sinh của truyền thống quân phiệt lâu đời. 

Vào khoảng năm 1873, chỉ 5 năm sau thời kỳ mới Meiji, các lãnh đạo (đều có nền tảng samurai) đã lên kế hoạch xâm lược nước láng giềng gần nhất, Triều Tiên, để buộc nước này chấp nhận các quan hệ ngoại giao và thương mại. Kế hoạch bị hủy bỏ (chủ yếu là do sự phản đối của phương tây). Nhưng ngoại giao chiến hạm của Nhật Bản mô phỏng theo các đế quốc phương tây đã buộc Triều Tiên phải khuất phục vào năm 1876.

Cũng trong thời kỳ đó, chính quyền mới của Nhật Bản đã gửi chiến thuyền đi Đài Loan, để trừng phạt các bộ lạc trên đảo về việc giết hại 54 ngư dân Nhật Bản và Ryukyu bị đắm tàu. Thanh triều của Trung Hoa tuyên bố chủ quyền đối với hòn đảo (cũng như Bắc Kinh hiện nay vẫn tiếp tục khẳng định rằng Đài Loan luôn luôn là một phần của Trung Hoa). Sau khi tàn sát nhiều người, Nhật Bản buộc Trung Hoa phải bồi thường và thừa nhận chủ quyền của Nhật Bản đối với vương quốc Ryukyu (Okinawa). 

Sao hàng loạt các can thiệp vũ trang ở Triều Tiên, quân đội Nhật Bản đụng độ với quân đội Trung Hoa ở Triều Tiên vào năm 1894. Sau khi quân đội Trung Hoa can thiệp vào quốc gia này (theo yêu cầu của hoàng đế Triều Tiên) để đàn áp một cuộc nổi loạn của nông dân, Nhật Bản cũng viện dẫn hiệp ước để gửi đưa quân đội đến. Sau một số đụng độ khiêu khích lẻ tẻ với người Trung Quốc, chiến tranh toàn diện nổ ra. Cuộc chiến bao trùm bán đảo Triều Tiên, miền nam Manchuria và Đài Loan. Nhật Bản chiến thắng đòi hỏi và nhận được Đài Loan cũng như bán đảo Liaodong ở Manchuria để bồi thường chiến phí. 

Nhưng can thiệp ngoại giao của Nga, Đức và Pháp đã ngăn cản Tokyo nuốt gọn Liaodong và tạo ra sự oán giận của Nhật Bản đối với Sa hoàng. Sự oán giận này tăng lên nhanh chóng sau khi Nga tự giành nhượng địa ở Liaodong ngay sau khi ngăn cản nỗ lực của Nhật Bản.

Vào năm 1900, khi cuộc nổi loạn nông dân Boxer chiếm các đại sứ quán nước ngoài ở Bắc Kinh, Nhật Bản tham gia cùng với các đế quốc phương tây đàn áp cuộc nổi dậy. Quân đội Nhật Bản là đồng minh Châu Á duy nhất trong lực lượng đa quốc gia, được các nước phương tây ca ngợi, đặc biệt là Anh Quốc, vì sự chuyên nghiệp. Đột ngột trở thành tình nhân của đế quốc Anh, Nhật Bản ký Hiệp Ước Hàng Hải Anh-Nhật vào năm 1902 – khi người Anh bãi bỏ các điều khoản nặng nề trong hiệp ước bất bình đẳng mà Anh đã ký với Nhật Bản vào những năm 1850.

Đột nhiên các trí thức Anh nói về sự tương đồng rõ ràng giữa hai quốc đảo – xã hội vương quyền, đẳng cấp, sự tao nhã của họ; những di sản hàng hải và phong kiến của họ; niềm tự hào về truyền thống quân phiệt của họ. Điều đó tạo ra ý nghĩa cho cả hai để liên minh, đặc biệt là trong mối lo ngại chung về sự mở rộng vai trò của Nga ở Châu Á.

Nga đã giành được các nhượng địa của Trung Quốc ở Liaodong sau khi ngăn cản Nhật Bản chiếm bán đảo này vào năm 1895. Nhật Bản tấn công vào năm 1904 và khi quân đội của họ tràn ngập Manchuria thì hải quân của họ phá hủy chiến hạm Baltic của Nga ở eo biển Tsushima trong năm tiếp theo. Nga buộc phải cầu hòa. Đó là thất bại cay đắng của Sa hoàng, chiến thắng đầu tiên của đế quốc Châu Á trước đế quốc Châu Âu trong thời hiện đại, dẫn đến niềm tự hào dân tộc ở Nhật Bản. Họ sáp nhập Triều Tiên (chính thức vào năm 1910) vào đế quốc Nhật Bản, cùng với phần đất của Nga ở Manchuria và nửa phía nam của đảo lớn Sakhalin.

Thế Chiến thứ I có vẻ ít liên quan đến Nhật Bản. Nhưng viện dẫn một điều khoản trong Hiệp Ước Hàng Hải Anh-Nhật, yêu cầu Nhật Bản tham chiến cùng với Anh khi nước Anh có chiến tranh với nước khác, Tokyo đã tấn công nhượng địa Shandong của Đức ở Trung Quốc, chiếm phần đất này cho bản thân đồng thời chiếm đóng luôn các tài sản của Đức ở Nam Thái Bình Dương, bao gồm cả quần đảo Samoa. Vào năm 1918, đế quốc Nhật Bản đã dùng quân đội chiếm đóng lãnh thổ từ cận Bắc Cực đến Polynesia. Tất cả đều diễn ra trong vòng nửa thế kỷ của thời kỳ Phục Hồi Meiji.

Một quốc gia rất hiếu chiến! Rất hung hãn. Nhưng cả người Anh và người Yankee đều trở nên bồn chồn. Cả hai đều muốn tự do tiếp cận thị trường Trung Hoa khổng lồ và Nhật Bản đã thể hiện sự thích thú được hành xử đúng như các đế quốc phương tây trong Thế Chiến thứ I. Nhật Bản áp đặt “21 Yêu Cầu” không thể chịu đựng nổi cho Trung Quốc, mà cả London và Washington đều can thiệp để giảm nhẹ. Anh Quốc cho phép mở rộng hiệp ước Anh-Nhật, tuyên bố rằng các hiệp ước đa phương hậu chiến như Hiệp Ước Hàng Hải Washington 1922 trái với nó là vô hiệu. 

Trong khi đó, chính quyền Nhật Bản, đáp lại các chính sách phân biệt chủng tộc chống người nhập cư Nhật Bản ở Hoa Kỳ và những nơi khác, cũng như để tạo ra Lebensraum [tiếng Đức: Không gian sống] ở bên ngoài biên giới cho dân số đang gia tăng của họ, theo đuổi phương thức mở rộng vương quốc ở đông bắc Châu Á.

Nhật Bản chiếm đóng toàn bộ Manchuria vào năm 1931 – dựa vào hoạt động quả cảm của các đơn vị quân đội phiêu lưu hơn là các chính sách có tính toán – sáp nhập nhà nước “Manchukuo” vào đế quốc. Sự cố Manchuria dẫn đến sự sụp đổ của Liên Đoàn Quốc Gia do đại diện Nhật Bản rút khỏi sau khi Liên Đoàn lên án hành động của Nhật Bản. Cuộc chiến toàn diện ở Trung Hoa diễn ra vào năm 1937, một cuộc chiến bí mật với Soviet về biên giới Manchuria-Mongolia dấy lên vào năm 1939. (Trong cuộc chiến biên giới, quân đội Nhật Bản có vẻ như bị đánh bại; Tokyo đồng ý ký hiệp ước không xâm lược với USSR hai năm sau đó.)

Tổng thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt, bị kiềm chế bằng quan điểm chủ nghĩa biệt lập thông dụng, lên án sự xâm lược của Nhật Bản ở Trung Quốc, công bố “cấm vận đạo đức” đối với Nhật Bản, từng bước áp dụng thêm các trừng phạt thương mại. Sau khi Nhật Bản xâm nhập thuộc địa Việt Nam của Pháp vào năm 1940 (theo lý thuyết, thực hiện hiệp ước với chính quyền Pháp thời phát xít chiếm đóng), các trừng phạt của Hoa Kỳ được siết chặt. Hoa Kỳ phong tỏa tài sản của Nhật Bản tại ngân hàng Hoa Kỳ và cắt nguồn cung cấp dầu. 

Washington yêu cầu Tokyo rút quân khỏi Trung Quốc về vị trí trước chiến tranh ở miền bắc và rút khỏi Hiệp Định Ba Bên với Đức và Italia, như là điều kiện để khôi phục các quan hệ thương mại bình thường. Các lãnh đạo Nhật Bản, do Tojo Hideki dẫn đầu, kết luận rằng điều đó bất khả thi về mặt chính trị. (Công chúng đã bị tiêm nhiễm một dạng kích động hậu chiến thường lan truyền ở các nước tư bản đế quốc hiện đại. Bất cứ thông báo đầu hàng nào trước Hoa Kỳ cũng sẽ dẫn đến sự giận dữ lan rộng cùng với những hậu quả không thể lường trước.)

Giới lãnh đạo, chỉ với kho dự trữ dầu lửa cho một năm để phát động chiến tranh, đã lựa chọn một con đường khác: Chiếm các bãi khoan dầu của Hà Lan ở Đông Indonesia. Nhưng điều này đó có nghĩa là hạ đo ván các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ và Anh ở Philippine, Hong Kong, Singapore, Malaya và Hawai’i. Điều đó được hoàn thành, thần tốc và hiệu quả. Vào tháng 12 năm 1941, thần chết đã được gọi lên.

Bốn năm sau, Tokyo và Osaka bị ném bom san phẳng, Hiroshima và Nagasaki bị bom nguyên tử biến thành thứ giống như bề mặt của mặt trăng. 

Giới lãnh đạo Nhật Bản không đầu hàng quân đồng minh vì bị ném bom nguyên tử. (Trên thực tế không kinh khủng hơn loại bom thông thường đã thiêu cháy 100.000 người ở Tokyo vào ngày 9 tháng 3 năm 1945.) Sự tham chiến của Liên Bang Soviet (trước đó là trung lập) vào ngày 8 tháng 8 năm 1941, viễn cảnh quân Soviet đóng ở phía bắc, phân chia đất nước và khả năng một cuộc cách mạng cộng sản nổ ra đã cho lãnh đạo Nhật Bản thấy rằng đầu hàng Hoa Kỳ là lựa chọn tốt nhất. Khi bị quân đội Hoa Kỳ chiếm đóng, người dân Nhật Bản bị buộc phải chấp nhận hiến pháp mới (vào năm 1947) do nước ngoài soạn thảo, rời bỏ văn hóa quân phiệt lịch sử lâu đời đã được mô tả ở phía trên.

Và như vậy một thời đại mới bắt đầu.

* * *

Điều 9 của hiến pháp Nhật Bản rất rõ ràng: “Khát khao chính đáng đối với hòa bình quốc tế dựa trên công lý và trật tự, người dân Nhật Bản vĩnh viễn rút khỏi chiến tranh như là chủ quyền của quốc gia cũng như đe dọa hay sử dụng bạo lực để làm phương tiện giải quyết các tranh chấp quốc tế.

“Để thực hiện mục tiêu của đoạn nêu trên, bộ binh, hải quân và không quân cũng như các tiềm năng chiến tranh khác, sẽ không bao giờ được duy trì. Quyền tham chiến của nhà nước sẽ không được thừa nhận.” 

Nghịch lý thay, hiến pháp được nước ngoài soạn thảo này đã – đặc biệt là điều khoản này – trở thành tài sản quốc gia mà hàng triệu người Nhật bảo vệ kiên quyết. Không có ai chống lại việc bổ sung vào hiến pháp kiên quyết hơn những người cộng sản Nhật Bản. 

Nhưng bản thân các lãnh đạo Hoa Kỳ đã áp đặt hiến pháp “hòa bình” cho Nhật Bản lại bắt đầu thay đổi suy nghĩ ngay sau khi nó được quốc hội phê chuẩn. Mục tiêu của người chiếm đóng vào năm 1947 là tước vũ khí Nhật Bản vĩnh viễn, nếu không nói là biến nước công nghiệp này thành một nước nông nghiệp lạc hậu. Trung Hoa có triển vọng trở thành đồng minh lớn nhất của Hoa Kỳ ở Đông Á, căn cứ quân sự của Hoa Kỳ và thị trường không giới hạn cho hàng hóa của Hoa Kỳ.

Tuy vậy, cuộc cách mạng cộng sản đã đảo lộn kế hoạch đó. Sau năm 1949, khi chính khách Washington băn khoăn “ai mất Trung Hoa?”, họ định nghĩa lại vai trò của Nhật Bản như là đồng minh tái thiết mới. 

Cùng với sự bùng nổ của chiến tranh Triều Tiên vào năm 1959, Hoa Kỳ thúc ép thủ tướng Nhật Bản Yoshida Shigeru gửi quân tới tham chiến để thể hiện nỗ lực chống lại cộng sản phương Bắc của Liên Hiệp Quốc. Yoshida trả lời thẳng thừng rằng điều đó không khả thi theo hiến pháp Nhật Bản (do Hoa Kỳ soạn thảo). (Yoshida là một người chống cộng sản cứng rắn, đó là lý do khiến chính quyền chiếm đóng thích ông ta, nhưng ông ta không muốn dùng các nguồn lực hiếm hoi cho việc tái quân sự hóa vào lúc đó.)

Như đã diễn ra, công nghiệp Nhật Bản đóng góp lớn vào các nỗ lực chiến tranh, nước Nhật thời hậu chiến phục hồi là nhờ vào “sự thu mua đặc biệt” của Hoa Kỳ (các chi tiêu liên quan đến chiến tranh ở Nhật Bản). Yoshida gọi điều đó là “món quà tặng của chúa”. Vào năm 1948, GDP của Nhật Bản chỉ bằng 55% của năm 1936; vào năm 1953 là 155%. Không phải “viện trợ chung” của Hoa Kỳ mà là chi tiêu chiến tranh của Hoa Kỳ đã tạo ra sự hồi phục hậu chiến của Nhật Bản.

Dưới sức ép của Hoa Kỳ, Tokyo tạo ra một mầm mống của cỗ máy chiến tranh vào năm 1950: “Dự bị cảnh sát quốc gia” với 75.000 người. Con số này tăng lên 110.000 người vào năm 1952, sau khi kết thúc thời kỳ chiếm đóng. Vào cùng ngày Nhật Bản nhận lại chủ quyền (ngày 28 tháng 4 năm 1952), Tokyo ký một “hiệp ước an ninh” với Hoa Kỳ để hợp pháp hóa sự tiếp tục hiện diện của mười ngàn lính Hoa Kỳ (được phép là đàn áp mọi nổi loạn nội địa). Vào tháng 7 năm 1954, “cảnh sát” được tái lập thành “Lực Lượng Phòng Vệ” đất, biển và không. Hiện nay, quân số của họ vào khoảng 250.000 người.

Cục Phòng Vệ Nhật Bản được thiết lập vào năm 1954 – nhưng không phải như là quân đội, hãy nhớ! Chỉ là “lực lượng phòng vệ”. Ít nhất đó là luồng chính thống. Nhưng liệu “lực lượng đất, biển, không, cũng như các tiềm năng chiếng tran khác” có vi phạm hiến pháp? Để đáp lại các nỗ lực không ngừng của nhiều nhóm dân chúng lên án điều đó, Tòa Án Tối Cao Nhật Bản (dưới sức ép bằng văn bản của Hoa Kỳ) đã tuyên bố rằng quyết định về tính hợp pháp phụ thuộc vào quyết định của quốc hội và nằm ngoài phạm vi quyền lực của họ. 

Từng bước một, các bộ phận trong Đảng Dân Chủ Tự Do (LPD, được thiết lập với sự đỡ đầu của CIA vào năm 1955, và nắm quyền lực từ đó cho đến nay, chỉ có một số ngắt quãng nhỏ vào năm 1993-4 và 2009-12) đã vận động để xóa bỏ điều 9 cũng như tái lập Nhật Bản như là “quốc gia bình thường” với quân đội thông thường, hợp pháp, giống như các nước đế quốc khác vẫn triển khai.

Nhưng người dân Nhật Bản không đồng tình với chương trình đó. Các cuộc biểu tình địa phương và toàn quốc phản đối căn cứ Hoa Kỳ ở Uchinada, quận Ishikawa, vào những năm 1950 (quân đội Hoa Kỳ được huấn luyện ở đây trước khi đến Triều Tiên tham chiến) đã buộc căn cứ phải đóng cửa vào năm 1957. Các cuộc biểu tình tại căn cứ quân sự của Hoa Kỳ ở Tokyo vào năm 1957 dẫn đến vụ bắt giữ 7 người vì tội vượt qua ranh giới. Họ được toà chung thẩm Tokyo tuyên án vô tội dựa trên lý do sự tồn tại của căn cứ là vi hiến. (Tòa Án Tối Cao bác bỏ quyết định của tòa cấp thấp hơn sau khi chánh án trao đổi với đại sứ Hoa Kỳ.)

Vụ nhiễm xạ của 23 ngư dân Nhật Bản, một người bị chết, do Hoa Kỳ thử vũ khí hạt nhân ở quần đảo Marshall vào năm 1954, đã thúc đẩy phong trào chống vũ khí hạt nhân và chống quân phiệt của Nhật Bản. Khi thủ tướng Kishi Nobuosuke tìm cách thúc đẩy một đạo luật ở quốc hội để tiếp tục Hiệp Ước An Ninh Hoa Kỳ-Nhật Bản vào năm 1960, hơn bảy triệu người đã tuần hành phản đối. Ý kiến công chúng hầu hết là phản đối hiệp ước an ninh.

Nhưng Kishi đã thông qua đạo luật vào giờ sớm buổi sáng, sau khi đuổi các nghị sĩ đối lập. Sự giận dữ của công chúng lớn đến mức Tokyo phải thông báo với tổng thống Dwight Eisenhower, định đến thăm Nhật Bản để ký hiệp ước, rằng lực lượng an ninh Nhật Bản không thể đảm bản an toàn cho ông.

Vị thủ tướng này từng bị quân đồng minh bắt giữ và giam ở nhà tù Sugamo với cáo buộc tội ác chiến tranh loại A. Ông ta trở thành bộ trưởng bộ quân khí dưới thời thủ tướng Tojo Hideki và là đồng minh thân cận nhất của Tojo. Ông ta đã phát biểu ủng hộ cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng. Ông ta tham gia tích cực vào việc bắt hàng trăm ngàn người Trung Quốc và Triều Tiên làm nô lệ trong các hầm mỏ và nhà máy trong thời kỳ chiến tranh. Ông ta thoát khỏi truy tố nhờ sự can thiệp của “Hội Đồng Hoa Kỳ về Nhật Bản” chống cộng sản, họ cảm thấy rằng ông ta sẽ có ảnh hưởng tới chính trị Nhật Bản theo hướng “thân Mỹ”. 

Kishi Nobusuke cũng là ông của thủ tướng Nhật Bản đương nhiệm, Abe Shinzo. Abe, cũng hiếu chiến như ông của mình, mới đây tuyên bố (trong lễ kỷ niệm kết thúc Thế Chiến thứ II) rằng người Nhật không nên tiếp tục hối lỗi về quá khứ.

Trong thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam, quan điểm công chúng Nhật Bản hầu như là chống chiến tranh và phê phán chủ nghĩa phát xít đứng đằng sau cuộc chiến. Nhưng một lần nữa, công nghiệp Nhật Bản hưởng lợi khổng lồ từ các hợp đồng liên quan đến chiến tranh. Kinh tế Nhật Bản đã nhảy vọt và bùng nổ vào những năm 1960, vượt qua Tây Đức để trở thành nền kinh tế lớn thứ ba thế giới vào năm 1970. Mặc dù Nhật Bản tạo ra Cánh Tả Mới đầy sinh lực so với Hoa Kỳ và Châu Âu, nhưng người dân không thể tách đất nước khỏi liên minh với chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ.

Trong suốt lịch sử, lực lượng cánh hữu vận động để xóa bỏ điều 9 và đưa Nhật Bản quay trở lại con đường lịch sử của chủ nghĩa quân phiệt vinh quang. Bộ giáo dục, đặc trưng với sự điều hành của các chính khách LPD phản động và ngu dân nhất (như Fujio Masayukio, vào năm 1986 đã gọi cuộc thảm sát Nam Kinh là một ngụy tạo và tuyên bố Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên là theo yêu cầu của Triều Tiên), đã từng bước khôi phục nội dung quốc gia chủ nghĩa trong phần “giáo dục đạo đức” bắt buộc của chương trình trung học; buộc các trường học phải treo cờ mặt trời và buộc các khoa và sinh viên phải hát quốc ca đế quốc; chấp nhận cho các trường công sử dụng sách giáo khoa lịch sử tô vẽ hoặc thanh minh cho các tội ác chiến tranh của Nhật Bản. 

Trong khi đó, văn phòng thủ tướng thường xuyên thử nghiệm giới hạn của việc diễn giải lại điều 9. Vào năm 1981, thủ tướng Suzuki Zenko đã khơi lên một cơn bão chỉ trích khi ông ta đề xuất rằng Lực Lượng Phòng Vệ Biển được phép bảo vệ vận chuyển của Nhật Bản trong phạm vi 1.000 hải lý quanh Nhật Bản. Hai năm sau, thủ tướng Nakasone Yasuhiro (bạn tinh thần của những người cùng thời như Ronald Reagan, Margaret Thatcher và Helmut Kohl) khơi dậy một làn sóng chỉ trích khác khi ông ta cho phép ngân sách quân đội (“phòng vệ”) vượt qua giới hạn 1% GDP truyền thống – chỉ để thử giới hạn và xem công chúng phản ứng ra sao. Ông ta cũng gây ra sự giận dữ khi khẳng định quốc hội Hoa Kỳ mô tả Nhật Bản là “tàu sân bay không thể bị đánh chìm trên Thái Bình Dương” đang phục vụ cho nhu cầu của Hoa Kỳ.

Trong chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, Tokyo (cần thiết) phải từ chối gửi quân đến mặt trận. Điều này đã khiến các nghị sĩ Hoa Kỳ thiếu trải đời tức giận về vấn đề hiến pháp, phàn nàn rằng người Nhật Bản nhận được dầu mỏ giá rẻ ở Trung Đông là do hoạt dộng quân sự của Hoa Kỳ đảm bảo. Một số thậm chí còn đe dọa rút quân đội Hoa Kỳ khỏi Nhật Bản (chi phí duy trì của họ cho tới nay vẫn do người đóng thuế Nhật Bản thanh toán) nếu Nhật Bản không tham gia vào tấn công Saddam Hussein. (Một thành viên cao cấp của Lực Lượng Phòng Vệ trong một dịp thẳng thắn công khai hiếm hoi đã tuyên bố rằng nếu Hoa Kỳ muốn rút quân, người Nhật Bản sẽ nói tạm biệt; trên hết, người Nhật Bản chưa bao giờ nhất mực yêu cầu sự có mặt của họ.) 

Cuối cùng Tokyo trả cho Hoa Kỳ 13 tỷ dollar để đóng góp vào nỗ lực chiến tranh, nhằm buộc quân đội Iraq rời khỏi Iraq. (Arab tuyên bố đóng gớp cho Washington 36 tỷ dollar, trong khi Đức chi 5 tỷ dollar). Các lãnh đạo LDP coi điều này là đáng xấu hổ; “ngoại giao sổ séc,” họ tuyên bố, phải được thay thế bằng những dấu giày thực sự trên mặt đất. 

Vào năm 1992, quốc hội thông qua một đạo luật cho phép Lực Lượng Phòng Vệ triển khai trong “các chiến dịch gìn giữ hòa bình” (PKO) của Liên Hiệp Quốc cùng với các lực lượng quốc tế khác. Đó là bước khởi đầu quan trọng, một liệu pháp tâm lý. Kể từ đó SDF thực hiện các nghĩa vụ ở Campuchia, Mozambique, Đông Timor, Cao Nguyên Golan, Haiti và Nam Sudan.

Bước tự nhiên tiếp theo trong chiến dịch tái vũ trang là gửi tàu chở dầu và tàu khu trục tới bờ biển Pakistan vào cuối năm 2001 để hỗ trợ Hoa Kỳ trong chiến tranh Afghanistan. (Vùng biển này dĩ nhiên là nằm ngoài phạm vi 1.000 hải lý giới hạn cho hoạt động của SDF mà Suzuki Zenko đề xuất). Đây là một nhiệm vụ đầy tai tiếng, kết thúc theo lời hứa tranh cử của thủ tướng mới đắc cử Hatoyama Yukio vào năm 2009.

Nhật Bản trong vai trò là quốc gia chư hầu của Hoa Kỳ không bao giờ thể hiện quan điểm khác biệt cứng rắn với Washington về bất cứ vấn đề quốc tế nào. (Ít nhất thì họ cũng khác với Washington như Warsaw khác với Moscow). Họ tuân thủ hoàn toàn. Vào năm 2003, khi tổng thống George W. Bush bắt đầu dối trá để chống lại Iraq, thủ tướng Koizumi Junichiro (không giống với các lãnh đạo Đức và Pháp) đã tuyên bố hoàn toàn ủng hộ và đóng góp 600 quân cho nỗ lực của Bush.

Đây là sự đột phá chủ yếu của phe quân phiệt Nhật Bản. Dĩ nhiên, quân lực Nhật Bản không được tham chiến, do bị ràng buộc bởi điều 9. Nhưng họ có thể xây dựng một pháo đài ở Samawa, miền nam Iraq, được cung cấp các tiện nghi gia đình như karaoke bar, cửa hiệu massage, từ đó họ có thể mạo hiểm ra ngoài mỗi sáng sớm – với sự hộ tống của quân đội Hà Lan được phép giết người - để làm các công việc “nhân đạo” như lọc nước và làm đường. (Như thể là người Iraq không tự làm được.) Hai phần ba số người Nhật Bản được hỏi đã phản đối nhiệm vụ đó, nhiều người hiểu rõ ràng điều đó có nghĩa là gì: chỉ là một bước tiếp theo để vi phạm điều 9 và bình thường hóa việc triển khai quân đội trên phương diện quốc tế.

Người kế nhiệm Koizumi là Abe Shinzo – một lần nữa, đứa cháu đáng tự hào của Kishi Nobusuke đã được nhắc đến phía trên – tái định hình thiết chế quân sự để thiết lập Bộ Quốc Phòng có trụ sở ở Shinjuku của Tokyo. Người đứng đầu Bộ Quốc Phòng hiện giờ đang tham gia nội các. Vào năm 2009, trong khi một người hiếu chiến khác, Aso Taro, tái lập nhiệm vụ tiếp liệu trên Ấn Độ Dương để cho phép SDF biển gửi các tàu khu trục tới bờ biển Somali để bảo vệ không chỉ người Nhật Bản mà cả những người khác khỏi cướp biển. Kể từ đó, các thủy thủ Nhật Bản đã đóng quân tại Djibouti ở vùng Sừng của Châu Phi – cách quê nhà rất xa.

Gần tổ quốc hơn là một số đảo đá không người ở trên Biển Đông Trung Hoa, mà người Trung Hoa đã đến đó trong hơn sáu trăm năm gọi là Daioyutai. Tên Nhật Bản, được tạo ra vào những năm 1870, là Sensaku. Bất kì ai sở hữu chúng cũng sẽ sở hữu ngư trường và nguồn dầu lửa có diện tích 21.000 dặm vuông, nên chúng không phải là không quan trọng. Trung Hoa (cũng như Đài Loan) khẳng định chủ quyền dựa trên các cơ sở lịch sử chắc chắn. Tokyo khẳng định chủ quyền dựa trên cơ sở những gì họ khẳng định – rất phi lý – là được thừa nhận bằng cơ sở pháp lý quốc tế.

* * *

Nhưng (một lần nữa) sự khinh thường của chính quyền Nhật Bản đối với hiến pháp Nhật Bản khiến chúng ta phải đặt ra câu hỏi “luật pháp” có liên quan gì ở đây? 

Tokyo nói rằng khi họ tuyên bố quyền sở hữu đối với bốn đảo đá trên Biển Đông Trung Hoa (không có người Nhật Bản nào biết cho đến trong khi vào thế kỷ 15 người Trung Hoa vẽ bản đồ, đến thăm và đặt tên cho chúng) vào năm 1895 thì chúng không có dân cư, do đó bất cứ ai cũng có thể chiếm lấy. Chúng thuộc về khái niệm pháp lý phương tây “terra nullius” hay đảo không người ở. Bất kể là nhà địa lý vĩ đại nhất của Nhật Bản, Hayashi Shihei, đã vẽ một bản đồ toàn diện vào năm 1785 cho thấy những đảo đó thuộc Trung Hoa. Bất kể là ngoại trưởng Nhật Bản, Inoue Kaoru, đã từ chối lời yêu cầu sáp nhập của chính quyền Okinawa vào năm 1885 dựa trên cơ sở là những đảo này thuộc về Trung Hoa.

Tất cả vấn đề là khi Nhật Bản đang lên đánh bại Trung Hoa vào năm 1895 và gây ấn tượng với các đế quốc phương tây, tuyên bố quyền sở hữu với những hòn đảo đó trong thời kỳ chiến tranh (trước khi chiếm Đài Loan sát đó làm thuộc địa), các đế quốc thực dân đã chấp nhận đòi hỏi của Nhật Bản. Thật hợp pháp làm sao! Kể từ khi Nhật Bản có “luật pháp” ở phe mình. Thế thì lịch sử nào liên quan đến điều đó? (Nghiêm túc mà nói, tôi được nghe một nhà ngoại giao Nhật Bản đặt nó đúng vào khái niệm này)

Nhưng tranh chấp về những hòn đảo này thực tế phức tạp hơn, ngay cả từ quan điểm pháp lý. Trong Tuyên Bố Cairo năm 1943, phe thắng trận gồm Roosevelt, Churchill và Chiang Kai-shek đã tuyên bố rằng, sau khi đầu hàng vô điều kiện, “Nhật Bản phải trả lại tất cả các lãnh thổ đã cướp đoạt của người Trung Quốc, như Manchuria, Formosa và Pescadores, tất cả phải được trao trả cho nước cộng hòa Trung Hoa.” Yêu cầu này được Truman, Churchill và Stalin nhắc lại ở Potsdam. Khi bại trận, Tokyo bị buộc phải từ bỏ những tài sản đó. 

Nhưng tình trạng của Diaoyutai/Senkaku vẫn không rõ ràng. Chúng liên quan đến khu vực chiếm đóng ở Ryukyu của Hoa Kỳ, tách biệt với khu vực tạo thành đất liền của Nhật Bản. (Kể từ khi Nhật Bản sáp nhập Ryukyu vào những năm 1870, chính quyền khu vực chiếm đóng không chắc chắn hoặc không biết phải đối xử với chúng như là một phần của Nhật Bản hay là quốc gia độc lập tiềm tàng.) Vào năm 1945, Hoa Kỳ có thể giao lại các đảo có tranh chấp cho Trung Hoa một cách đơn giản, khi mặt trận thống nhất giữa Guomindang của Chiang Kai-shek và những người cộng sản còn lãnh đạo Trung Hoa. Trái lại, họ giữ lại chúng trong phạm vi quận Okinawa.

Vào năm 1972, Hoa Kỳ “trao trả” quần đảo Ryukyu cho Nhật Bản (trong khi vẫn giữ lại, thực tế là đòi hỏi, quyền đóng 25.000 quân tại các căn cứ quân sự trên đảo Okinawa). Các đảo Diaoyutai cũng được trả lại cùng với Ryukyu và hiện giờ Tokyo tính toán rằng nếu nổ ra tranh chấp đảo với Bắc Kinh, Hoa Kỳ sẽ đứng về phía họ. Sau một số rào đón, Hoa Kỳ đã tuyên bố rõ ràng rằng hiệp ước an ninh giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản bao gồm cả những đảo có tranh chấp.

Đây là thắng lợi chủ chốt cho cháu của Kishi Nobushuke. Khi ông ta dẫn dắt Nhật Bản đến vị trí của đế quốc toàn cầu “bình thường” có thể bắt nạt các quốc gia khác giống như Hoa Kỳ vẫn làm – có thể mở rộng ảnh hưởng của Nhật Bản khắp Đại Đông Á (không hối lỗi) – ông ta có thể dựa vào những người Yankee. Ông ta khôi phục vị thế quốc gia da trắng, văn minh của Nhật Bản. Ông ta khuyến khích nguồn gốc thiện chiến. Mọi thứ đều đang theo lộ trình, giống như trước khi có những thập kỷ hòa bình phiền nhiễu. 

Nhưng vào lúc này, “những người có văn hóa và thiện chiến” đang đứng chông chênh trên nỗ lực “xoay trục” hướng sang Đông Á và Biển Đông Trung Hoa, để đối đầu với Trung Hoa đang lên như vũ bão, của đế quốc Hoa Kỳ. Trung Hoa tiến hành một cách hợp lý trong việc đòi hỏi chủ quyền, lãnh thổ và các vấn đề khác. Trái lại, cháu của Kishi là kẻ nóng đầu, có quan điểm phục hồi quân phiệt – móc nối với cánh hữu băng đảng-tân phát xít, luôn luôn là những kẻ quá khích của chính trị Nhật – có thể tạo ra những điều rất xấu xa, sẽ sớm thôi.

Việc chính quyền Nhật Bản mua lại các đảo Daioyu/Sensaku từ các chủ sở hữu tư nhân vào tháng 12 năm 2012 (bị Washington phản đối là sự khiêu khích không cần thiết đối với Trung Quốc) có thể được coi là khởi đầu cho một giai đoạn đối đầu mới. 

Kịch bản khôi phục là rất rõ ràng. Từng bước một, phe quân phiệt giành lấy ảnh hưởng ở Nhật Bản. Họ đã giành được thắng lợi lớn trong tuần qua. Hiến pháp Nhật Bản năm 1947 không còn ý nghĩa gì hết. Hachiman (thần chiến tranh) đang mỉm cười. Trở lại bình thường, sự bình thường của hai thiên niên kỷ. Samurai quay trở lại trên yên ngựa, thẳng tiến tới chiến trường, với sao và vạch dưới lá cờ mặt trời của đế quốc đang tung bay.

* * *

Trong tuần qua, hơn một trăm ngàn người Nhật đã biểu tình bên ngoài quốc hội khi LPD và các đối tác của họ thông qua luật ủng hộ chiến tranh. Họ cần sự đoàn kết quốc tế. Bài báo này là một sự đóng góp nhỏ cho điều đó.

Gary Leupp is Professor of History at Tufts University, and holds a secondary appointment in the Department of Religion. He is the author of Servants, Shophands and Laborers in in the Cities of Tokugawa Japan; Male Colors: The Construction of Homosexuality in Tokugawa Japan; and Interracial Intimacy in Japan: Western Men and Japanese Women, 1543-1900. He is a contributor to Hopeless: Barack Obama and the Politics of Illusion, (AK Press). He can be reached at: gleupp@tufts.edu