Thursday, October 22, 2015

TPP: Ưu tiên số 1 của doanh nghiệp đa quốc gia Hoa Kỳ

Tiến sĩ Jack Rasmus trong bài viết "The TPP: Priority #1 of US Multinational Corporations" đã đề cập một ý quan trọng là TPP hướng tới việc tạo ra các điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư Hoa Kỳ ở nước ngoài, sau đó họ sẽ xuất khẩu hàng hóa trở lại Hoa Kỳ và được miễn thuế nhập khẩu. Chính quyền Obama hy vọng TPP sẽ là hình mẫu cho nhiều hiệp định tự do thương mại khác. Như vậy, TPP có thể trở thành một dấu mốc quan trọng, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của nước Mỹ trong một tương lai gần.
 
TPP: Ưu tiên số 1 của doanh nghiệp đa quốc gia Hoa Kỳ


Đàm phán về hiệp định thương mại Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) giữa Hoa Kỳ và 11 quốc gia bên bờ Thái Bình Dương đã kết thúc vào ngày 5 tháng 10 năm 2015.

Mặc dù toàn bộ văn kiện TPP vẫn là bí mật – đối với tất cả mọi người ngoại trừ đại diện của các doanh nghiệp đa quốc gia, họ nắm giữ 30 ủy ban và nói cho đại diện thương mại của chính quyền biết phải đàm phán những gì – một số chi tiết của hiệp định cực kỳ bí mật này đã bị tiết lộ ra ngoài.

Nếu như các tiết lộ mới chỉ cảnh báo về những gì sẽ xuất hiện thì khi toàn bộ chi tiết được công bố, người tiêu dùng, công nhân, bất cứ ai quan tâm tới sự gia tăng doanh nghiệp hóa dân chủ toàn cầu đều sẽ cảm thấy rất sốc.

Một số tiết lộ trước đây 

Một trong những điều khoản khó khăn nhất đã bị tiết lộ liên quan tới các doanh nghiệp dược phẩm lớn. Ở Hoa Kỳ, họ nhận được 12 năm độc quyền bán các dược phẩm cấp cứu nhất định. Các sản phẩm phổ thông tương đương có chi phí thấp bị cấm trong thời gian này. Việc cấm cạnh tranh đã khiến giá thuốc tăng mạnh, làm giá với những người bệnh đang tuyệt vọng về thuốc cấp cứu. Sự gia tốc của chi phí thuốc men ở Hoa Kỳ cũng làm cho phí bảo hiểm trở nên quá đắt đỏ. Sự bảo vệ kéo dài nhiều năm dành cho “các hãng dược phẩm lớn” để ngăn chặn các sản phẩm phổ thông giờ đây cũng được áp dụng trong TPP. Những người bệnh và cần thuốc cấp cứu tại 11 quốc gia – hầu hết là nghèo và thuộc giai cấp công nhân – sẽ không nhận được các thuốc cấp cứu phổ thông giá thấp hơn, cũng giống như ở Hoa Kỳ.

Số năm bảo vệ giá tối thiểu trước thuốc phổ thông theo TPP được cho là từ 5 đến 8 năm. Nhưng 5 đến 8 năm có thể gia hạn tới 11 năm. Hàng triệu người ở trên 11 quốc gia, vốn có thể mua thuốc phiên bản phổ thông và giữ mạng sống của mình, sẽ phải đợi hơn một thập kỷ để làm điều đó.

Một lĩnh vực khác là chế tạo phụ tùng ô tô. Hoa Kỳ đã đồng ý cho phép phụ tùng ô tô Nhật Bản được nhập khẩu nhiều hơn vào Hoa Kỳ. Nhưng chúng sẽ là phụ tùng ô tô Nhật Bản được chế tạo tại các nhà máy ở Trung Quốc. Đổi lại, các công ty ô tô Hoa Kỳ sẽ được phép mở nhiều nhà máy hơn ở Đông Nam Á. Cả hai điều khoản này đều dẫn đến tổn thất công ăn việc làm ở Hoa Kỳ.

Một điều khoản chết chóc khác liên quan đến doanh nghiệp thuốc lá. Trước đây doanh nghiệp thuốc lá có những tranh chấp với các chính quyền cố gắng giảm nạn hút thuốc, giờ đây doanh nghiệp thuốc có thể kiện chính quyền về việc đó. Tranh chấp sẽ được phân xử ở tòa hòa giải đặc biệt của TPP. Có nghĩa những giới hạn đối với việc bán thuốc lá sẽ chỉ mang tính hình thức. Ngược lại điều đó cũng có nghĩa là chính quyền không được phép giới hạn các sản phẩm thuốc lá bằng luật và quy định. Họ phải tới tòa hòa giải của TPP để theo đuổi các nỗ lực giới hạn việc bán thuốc lá, tại đó các doanh nghiệp có thể trì hoãn quyết định trong nhiều năm trong khi vẫn tiếp tục kinh doanh.

TPP nói chung sẽ tạo cho doanh nghiệp nhiều quyền hơn. Với TPP, họ có thể kiện chính quyền để ngăn chặn luật hay quy định mâu thuẫn với hiệp định TPP. Muốn làm gì đó với việc “làm giá” của các hãng dược phẩm lớn như ở Hoa Kỳ? Hãy quên đi. Lập pháp quy định về việc làm giá mâu thuẫn với hiệp định. Muốn điều tiết ư? Hãy quên đi, gặp lại anh ở tòa hòa giải của TPP.

Việc cấm mọi luật và quy định mâu thuẫn với TPP có nghĩa là dân chủ và chủ quyền quốc gia không tồn tại, nếu như chúng không tuân thủ hiệp định thương mại mà các doanh nghiệp tự đàm phán. Do vậy, TPP thể hiện một bước nhảy vọt quan trọng đối với hệ thống chính trị doanh nghiệp toàn cầu, ở đó lợi ích kinh tế của doanh nghiệp cao hơn chính quyền quốc gia, các đại biểu dân cử và chủ quyền của nhân dân.

Bán TPP 

Chính quyền Obama đã công khai tuyên bố TPP sẽ giảm thuế quan của Hoa Kỳ đối với 18.000 mặt hàng xuất khẩu. Điều này sẽ làm giảm chi phí của doanh nghiệp Hoa Kỳ khi họ bán hàng sang nước khác và tạo ra nhiều việc làm trong lĩnh vực xuất khẩu. Tuy vậy, không có gì ngăn chặn các quốc gia khác hạ giá đồng tiền của họ để vô hiệu hóa việc cắt giảm thuế quan. Nhật Bản và 11 quốc gia khác đã làm điều đó và sẽ tiếp tục làm chừng nào mà kinh tế toàn cầu còn trì trệ. Nhật Bản là nước thao túng tiền tệ lớn nhất, giảm giá đồng Yen hơn 20% so với đồng dollar, nhưng không người Mỹ nào phàn nàn. Trái lại họ phàn nàn về việc Trung Quốc “thao túng” đồng nội tệ, ngay cả khi đồng tiền của Trung Quốc đã bị neo vào đồng dollar trong nhiều năm.

TPP không thực sự là để thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Hoa Kỳ. TPP là để tạo ra các điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp Hoa Kỳ đầu tư vào các nước khác, sau đó tái xuất khẩu từ những nước có chi phí thấp trở lại Hoa Kỳ mà không phải đóng thuế, do vậy thu được lợi nhuận cao hơn. TPP cũng hướng tới việc bao vây Trung Quốc. 

Sáng kiến kinh tế toàn cầu mới đây của Trung Quốc đã chống lại Hoa Kỳ, thách thức sự thống trị kinh tế toàn cầu của Hoa Kỳ. Ngân Hàng Cơ Sở Hạ Tầng Châu Á mới được Trung Quốc thiết lập, sáng kiến thương mại “con đường tơ lụa” của họ, khu vực tự do thương mại Châu Á của họ, việc IMF sắp tới chấp thuận đồng tiền của họ, đồng Nhân Dân Tệ, như là đồng tiền dự trữ và thanh toán toàn cầu, quan hệ kinh tế sâu sắc của họ với Anh Quốc, Đức cũng như các quốc gia Châu Âu khác đã chống lại Hoa Kỳ. Do vậy, việc thông qua TPP đóng vai trò đòn trả đũa chiến lược của Hoa Kỳ trước những sáng kiến và xung lực kinh tế của Trung Quốc. Nếu như TPP thất bại, xung lực kinh tế chắc chắn sẽ được gia tốc. Điều này sẽ làm cho chiến lược bao vây Trung Quốc về chính trị và quân sự của Hoa Kỳ trở nên khó khăn hơn. Do vậy, TPP là điểm mấu chốt trong chính sách nói chung của Hoa Kỳ ở Châu Á – kinh tế, chính trị và quân sự.

TPP và di sản tự do thương mại của Obama 

TPP là đứa con tinh thần của doanh nghiệp đa quốc gia Hoa Kỳ, những người đã yêu cầu hiệp định tự do thương mại khu vực Thái Bình Dương ngay khi tổng thống Obama nhậm chức vào năm 2009. Một sự đáp ứng nhanh chóng trước sức ép của doanh nghiệp đa quốc gia Hoa Kỳ, vào đầu năm 2010 Obama đã chỉ định người sau này là giám đốc điều hành của General Electric Corporation, Jeff Immelt, đảm nhiệm sáng kiến của chính quyền để mở rộng tự do thương mại. Cùng với những khuyến nghị để bảo vệ bản quyền của Hoa Kỳ và mở rộng miễn thuế cho các nhà xuất khẩu, Ủy Ban Immelt đã đưa ra đề xuất cho TPP vào năm 2010. 

Mặc dù Obama đã tranh cử vào năm 2008 với lời hứa đàm phán lại các hiệp định tự do thương mại gây tổn thất hàng triệu việc làm của công nhân Mỹ, như NAFTA, cũng như hứa hẹn không ký kết các hiệp ước mới, ông ta đã nhanh chóng tham gia, thúc đẩy và ký kết các hiệp định thương mại mới với Châu Mỹ Latin (Panama, Colombia) và châu Á (Hàn Quốc).

Trên thực tế, Obama hoặc là khởi sự hoặc là tiếp tục các đàm phán tự do thương mại song phương với không dưới 18 quốc gia khác nhau kể từ khi nhậm chức. Bên cạnh đó là đàm phán tự do thương mại đã được tiến hành với 20 nước thuộc Liên Minh Châu Âu, cũng như các hiệp ước tự do thương mại đa phương được bắt đầu với nhiều nước Trung Đông.

Do đó, một trong những di sản tăm tối của Obama sẽ là việc thừa nhận rằng ông ta là người thúc đẩy tự do thương mại vĩ đại nhất trong lịch sử Hoa Kỳ - vĩ đại hơn cả những người tiền nhiệm như George W. Bush và Bill Clinton. Mặc dù vậy, di sản tăm tối đó trước hết phụ thuộc vào việc thông qua TPP. Nếu như hiệp định được thông qua vào năm 2016, có nhiều khả năng, TPP chắc chắn sẽ đóng vai trò như là “khuôn mẫu” cho các hiệp định đang được xem xét liên quan tới hơn 50 quốc gia, những nước sẽ nhanh chóng nhập cuộc khi TPP được phê chuẩn. Cuộc đấu tranh chống lại tự do thương mại mới chỉ bắt đầu. Xếp hàng sau TPP là các hiệp định tự do thương mại với nhiều nước khác.

Jack Rasmus is the author of the forthcoming book, ‘Systemic Fragility in the Global Economy’, by Clarity Press, 2015. He blogs at jackrasmus.com

His website is www.kyklosproductions.com 
and twitter handle, @drjackrasmus.

Wednesday, October 21, 2015

Các tổ chức phi chính phủ đã phục vụ chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc ra sao?

Hai tác giả Stephanie McMillan và Vincent Kelley đã mô tả cách thức mà NGO phục vụ cho chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc trong bài báo "The Useful Altruists: How NGOs Serve Capitalism and Imperialism". Các NGO không chỉ đánh lạc hướng và phá hoại phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản mà còn tham gia tạo dựng những điều kiện cần thiết để phục vụ cho việc bóc lột của chủ nghĩa tư bản cũng như sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Có một điểm quan trọng mà bài báo này đã chỉ ra là sự liên hệ của NGO với giai cấp tiểu tư sản ở các quốc gia đế quốc cũng như phụ thuộc. 

Những người vị tha hữu ích: NGO đã phục vụ chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc ra sao?

Khoảng 20 năm trước đây, trong cuộc thảo luận với một nhà tổ chức người Bangladesh, chủ đề tổ chức phi chính phủ (NGO), hay phi lợi nhuận như họ thường gọi, nảy ra. Ông ấy nói thẳng thừng: “Tôi ghét NGO.” Sự kịch liệt của ông ấy rất đáng ngạc nhiên. NGO không phải là tổ chức cách mạng, nhưng công việc của họ vẫn có vẻ như là hữu ích hơn so với không có gì cả. Bỏ qua sự khác biệt về chính trị, có vẻ như là giáo điều khi lên án các chương trình chăm sóc y tế miễn phí và chống đói nghèo. Khi thiếu các biện pháp mạnh mẽ hơn, NGO có vẻ thực hiện một chức năng nội tại quan trọng. 

Kể từ cuộc đối thoại đó, NGO đã lan rộng khắp toàn cầu. Ban đầu được triển khai ở những quốc gia phụ thuộc, hiện giờ chúng đã trở thành thành phần chính trong bối cảnh chính trị ở các nước đế quốc. Ngày nay, lý do khiến các nhà tổ chức ghét NGO là rất rõ ràng. NGO là sự phá hoại, cả trong công việc hiện tại của chúng cũng như việc chúng ngăn chặn một tương lai khác thay thế chủ nghĩa tư bản hiện tại.

Đây là bốn lý do:

1) NGO phá hoại, đánh lạc hướng và thay thế sự tự tổ chức của quần chúng.

NGO đã chiếm lấy vai trò trung tâm trong các phong trào xã hội và hoạt động chính trị, ở Hoa Kỳ cũng như bất cứ nơi nào khác – điều mà Arundhati Roy gọi là “NGO hóa sự phản kháng.” Do người dân thường tin rằng chúng sẽ có thể “nhận lương để làm điều tốt”, nhưng đó là một ảo tưởng. Nina Power viết rằng “không còn bất cứ sự tách biệt nào giữa vương quốc cá nhân và ngày làm việc,” có nghĩa là “cá nhân không còn là chính trị nữa, chỉ hoàn toàn là kinh tế.” Trong khi bà ấy không làm rõ hơn, sự nảy nở của NGO “công bằng xã hội” và chính trị là một ví dụ tốt cho thấy sự phân chia ấy bị xói mòn.

Những người chúng ta tham gia tổ chức, hầu hết theo một kịch bản tương đồng: Một vài sự cố xảy ra, đám đông phẫn nộ tràn ra đường phố và tụ tập với nhau, một số người kêu gọi tổ chức mít-tinh để theo dõi và tiếp tục đấu tranh. Trong cuộc mít-tinh này, một số nhà tổ chức có kinh nghiệm sẽ gánh vác công việc. Các nhà hoạt động này khởi sự với ngôn ngữ cực đoan và cung cấp sự huấn luyện cũng như không gian cho mít-tinh thường xuyên. Họ dường như đã có sẵn một kế hoạch hành động, trong khi những người khác hiếm khi có thời gian để nghĩ về bước tiếp theo. Các nhà hoạt động toát ra năng lực, giải thích – với sơ đồ - cách thức phác họa các đồng minh tiềm năng khi họ tạo ra danh sách những chính khách cụ thể làm mục tiêu cho đấu tranh.

Họ tạo ra những “đòi hỏi” đơn giản để “tạo dựng sự tin cậy nhanh chóng” và bất cứ ai đề xuất một cách tiếp cận khác – dĩ nhiên là người đại diện cho tiếng nói của người dân chứ không phải là những lãnh đạo mặc định bí ẩn – bị lặng lẽ bỏ qua. Theo sự hướng dẫn của họ, mọi người vận động để chiếm lấy một số thể chế hoặc văn phòng của chính khách, hoặc tổ chức tuần hành và tụ tập. Sự phản kháng là ồn ào và hấp dẫn, cũng gần giống như quân đội, mặc dù vậy, điều tiếp theo mà anh nhận ra, anh thấy mình đang gõ cửa nhà một người lạ, hồ sơ trên tay, hy vọng thuyết phục họ bỏ phiếu trong kỳ bầu cử tới.

Có nhiều dạng khác nhau trong bối cảnh này, nhưng điểm cốt yếu vẫn y nguyên: NGO tồn tại để phá hoại đấu tranh của quần chúng, đánh lạc hướng họ vào ngõ cụt cải lương và hất cẳng họ. Ví dụ, trong nhiều cuộc biểu tình “Chiến đấu vì 15 dollar” ở Miami, đại đa số người tham gia là các nhà hoạt động được trả lương, nhân viên của các NGO, tổ chức cộng đồng (CBO), và các nhân viên công đoàn đang tìm kiếm thành viên tiềm năng. Tương tự, một số cuộc biểu tình Black Lives Matter ở Miami đã được các nhà hoạt động ăn lương lãnh đạo và khuếch trương, họ cần phải thể hiện rằng họ “đang tổ chức cộng đồng” để tiếp tục được nhận tài trợ.

Tổ chức sinh viên cũng kết nối với hoạt động NGO. Ở Iowa, một NGO “sức mạnh sinh viên” tích cực tác động tới các nhà tổ chức sinh viên, thúc giục họ thống nhất và kết hợp sức mạnh với những thanh niên cực đoan trong bang và khu vực, chỉ để trực tiếp kết nối họ với Đảng Dân Chủ với những thư điện tử như: “Tranh cử Thượng Nghị Sĩ Iowa là một trong những cuộc tranh cử dữ dội và chặt chẽ nhất đất nước hiện nay. PHIẾU BẦU CỦA BẠN LÀ QUAN TRỌNG VÀ CÓ THỂ TẠO RA SỰ KHÁC BIỆT LỚN!” Sự kết nạp tổ chức sinh viên vào hoạt động cải lương đang rất lan tràn và trực tiếp được các nhà tư bản tài trợ.

Khi các cá nhân “thiếu tổ chức” bị phát hiện trong kiểu hoạt động này, họ sẽ bị vây lấy như miếng thịt tươi giữa bầy linh cẩu, ngay tức thì họ bị các nhà hoạt động ăn lương nuốt chửng, các nhà hoạt động phải đảm bảo hạn ngạch tuyển dụng để giữ công ăn việc làm. Tiếp theo anh sẽ thấy những người mới được tuyển dụng, họ mặc áo phông màu tím, đỏ, cam hoặc vàng chanh hay bất cứ màu đặc trưng nào của thương hiệu mà họ đã bị bán vào đó. 

Đây không phải là kiểu “tổ chức” mà George Jackson của Black Panther nghĩ đến khi ông thúc giục các nhà cách mạng đến với quần chúng để “đóng góp vào việc xây dựng cộng đồng, cơ sở hạ tầng, với bút và giấy tờ trên tay.”

Chủ nghĩa hành động đã bị tư bản hóa và chuyên nghiệp hóa. Thay vì tổ chức quần chúng để đấu tranh cho lợi ích của họ, NGO sử dụng họ cho lợi ích của bản thân. Thay vì xây dựng một phong trào quần chúng, NGO quản lý sự phẫn nộ của công chúng. Thay vì tạo ra sự cực đoan hay các chiến binh cách mạng, họ tạo ra các nhà hoạt động ăn lương thiếu hiệu quả cùng với sự đón nhận hỗ trợ thụ động. 

Các nhà tổ chức được trả lương không bao giờ là điều bình thường. Trước khi đấu tranh bị NGO hóa, những người cực đoan tổ chức đấu tranh theo quan điểm lợi ích của giai cấp công nhân quốc tế, theo lương tâm của chúng ta với khát vọng cháy bỏng đập tan kẻ thù và thay đổi thế giới.

Ngày nay, tổ chức không có sự bù đắp tài chính hầu như là một khái niệm xa lạ. Khi chúng ta đi phát tờ rơi – đúng vậy, chúng ta vẫn phát tờ rơi – người ta thường hỏi: “Tôi có thể kiếm được công việc này bằng cách nào?” Khi chúng ta trả lời rằng không được trả lương thì họ thường sẽ không tin.

Nội tại hóa tinh thần của NGO là phần lớn của lý do khiến sự đấu tranh cánh tả yếu. Giai cấp tư sản, thường xuyên cùng với sự trợ giúp của nhà nước, về mặt lịch sử đã rất thành công trong việc đàn áp cánh tả, đôi khi thông qua gián điệp và bạo lực như Chương trình COINTELPRO của FBI. Nhưng ngày nay sự đàn áp và trục xuất những người bất đồng chính kiến chỉ diễn ra đối với nhà hoạt động có ý đồ tốt với khẩu hiệu và hồ sơ trên tay. Nhà tư bản không cần cài gián điệp vào NGO bởi vì họ tài trợ cho chúng. 

2) NGO là công cụ của chủ nghĩa đế quốc.

Xâm lược quân sự hoặc đe dọa xâm lược vẫn đóng vai trò không thể thay thế trong việc hỗ trợ các nước đế quốc [1] trong việc thao túng và bóc lột tài nguyên cũng như lao động phụ thuộc toàn cầu. Nhưng chiến thuật “những dấu giày trên mặt đất” đang ngày càng trở thành giải pháp cuối cùng trong một chiến lược kiểm soát lớn hơn và phức tạp hơn, cũng như ít tốn kém và xáo trộn xã hội hơn.

NGO, giống như những nhà truyền giáo, thường tập trung vào một khu vực để chuẩn bị các điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu kinh doanh nông nghiêp, xưởng mồ hôi, khai thác khoáng sản và sân chơi cho du lịch. Trong khi các hoạt động quân sự hiện nay thường được coi là (ít nhất là đối với dân chúng trong nước) can thiệp nhân đạo, tính chất nhân đạo bề ngoài của NGO có vẻ như là đã biện minh cho chúng. Nhưng chúng ta cũng cần phải có một cái nhìn phê phán đối với những can thiệp của NGO, như chúng ta đã làm với các can thiệp quân sự. 

Haiti là một trong những ví dụ rõ ràng nhất về việc NGO đồng lõa với sự áp bức của đế quốc. Nhiều người Haiti đã giới thiệu đất nước họ là “nước cộng hòa của NGO”, đã từng có 10.000 NGO ở đất nước này trước động đất năm 2010, số lượng NGO theo đầu người nhiều hơn bất cứ nơi nào trên thế giới. 99% cứu trợ động đất được phân phối thông qua các NGO và các tổ chức đại diện khác, những kẻ này đã hành xử như đám kẻ cướp, bỏ túi hầu hết số tiền mà người dân trên khắp thế giới quyên góp với niềm tin ngây thơ rằng điều đó sẽ thực sự trợ giúp những cộng đồng bị thiên tai tàn phá.

Đây không phải là điều mới. Nhiều thập kỷ trước đây, USAID và Ngân Hàng Thế Giới đã áp đặt các chương trình kinh tế tăng trưởng nhờ xuất khẩu và “điều chỉnh cấu trúc” đồng thời ở Haiti và nhiều nơi khác. Thậm chí 20 năm trước đây, 80% số tiền của USAID đã quay trở lại túi của doanh nghiệp và “chuyên gia” Hoa Kỳ. Khi quá trình đã hoàn tất, NGO đã tiến hóa thành loại tổ chức thích hợp với sự tích lũy dưới dạng ăn bám, tư bản hóa và ăn bám vào sự nghèo khổ được tạo ra bằng “cứu trợ” ở giai đoạn đầu.

Ở nhiều nước lệ thuộc, các giám đốc NGO trở thành một bộ phận của tầng lớp tư sản quan liêu, sử dụng nhà nước như là nguồn tích lũy tư bản nguyên thủy. Trong 20 năm qua ở Haiti, nhiều người sáng lập và lãnh đạo NGO đã chiếm được các vị trí chính trị từ tổng thống tới bộ trưởng, hay nghị sĩ quốc hội, trong đó có Aristide, Préval và Michèle Pierre-Louis.

Chủ nghĩa đế quốc toàn cầu không chỉ tạo ra lý do cho NGO tồn tại, mà còn lôi kéo chúng một cách tích cực vào âm mưu thống trị của đế quốc [2]. Một ví dụ khác, vào năm 2002, các NGO đã sát cánh cùng Nhà Trắng, CIA và AFL-CIO để hậu thuẫn cho thứ mà James Petras gọi là “cuộc đảo chính quần chúng do quân đội, doanh nghiệp, công đoàn, giới quan liêu lãnh đạo” để lật đổ tổng thống dân cử Hugo Chavez ở Venezuela. Sau khi phong trào quốc nội đã khôi phục quyền lực của Chavez thành công, các NGO được Hoa Kỳ tài trợ đã hậu thuẫn cho một cuộc đình công do các giám đốc dầu mỏ tổ chức, cuộc đình công này chỉ bị đánh bại khi công nhân chiếm lấy ngành công nghiệp dầu mỏ. 

3) NGO thay thế những thứ mà nhà nước phải làm.

Các đại diện “cứu trợ” được các tổ chức tư bản/đế quốc tài trợ - doanh nghiệp, quỹ và G8 – đã chiếm lĩnh các chức năng chủ chốt của nhà nước tại các quốc gia lệ thuộc. Nực cười là chính những tổ chức xã hội đế quốc này lại yêu cầu những khoản cứu trợ phát sinh từ điều kiện của các khoản cho vay cắt cổ của đế quốc.

Việc “từ bỏ” chương trình xã hội do nhà nước điều hành ở cả các nước đế quốc cũng như các nước lệ thuộc không có nghĩa là nhà nước trở nên yếu đuối. Điều đó đơn giản có nghĩa là họ có thể dùng nhiều tài nguyên hơn cho sự xâm lược, đàn áp và tích lũy, cũng như ít tài nguyên hơn cho việc vỗ yên dân chúng, ngăn chặn sự bất mãn của quần chúng. 

Ở Banglades, các chương trình tài chính vi mô đã được khuếch trương là một công cụ bề ngoài để xóa bỏ nghèo đói, nhưng chúng có một tác động thảm họa. Khi mà nhà sáng lập của vi tài chính Muhammad Yunus và ngân hàng Grameen của ông ta nhận được giải Nobel cho việc tạo ra “sự phát triển kinh tế và xã hội từ bên dưới” thì thực tế là họ đã mở ra thị trường mới cho các ngân hàng ở khu vực nông thôn nghèo khổ, cùng lúc đó các nạn nhân của việc vay mượn phải bán nội tạng để trả lãi suất. Như nhà sử học Badruddin Umar đã khẳng định, “Mục tiêu chủ chốt của họ [chính quyền và đế quốc] trong chuyện này là duy trì sự nghèo khổ và đánh lạc hướng người nghèo ra khỏi đấu những tranh chính trị nhằm thay đổi các quan hệ cơ bản của sản xuất cũng như các quan hệ xã hội, những thứ tạo ra và duy trì điều kiện của sự nghèo khổ.” Jennifer Ceema Samimi đã viết rằng, ngay cả ở Hoa Kỳ, “Sự thoái hóa của chính quyền liên bang đã thể hiện ở sự phụ thuộc của chính quyền vào các tổ chức vì lợi nhuận và không vì lợi nhuận để cung cấp nhiều hàng hóa và dịch vụ, trong đó có dịch vụ chiến tranh.” Thực tế là 

Dân chúng lệ thuộc ở cả nước đế quốc và phụ thuộc ngày càng phải phụ thuộc vào các thiết chế từ nhà thương làm phúc tới ngân hàng thực phẩm cũng như hàng chục ngàn các tổ chức “xã hội dân sự” khác.

Chăm sóc y tế, thực phẩm, nước, nơi trú ngụ, giáo dục, chăm sóc trẻ em và các lao động có ý nghĩa là những yếu tố cần thiết căn bản của đời sống con người. Chúng phải là quyền, chứ không phải là quà tặng hay dự án được NGO tài trợ.

4) NGO hỗ trợ chủ nghĩa tư bản bằng cách phá hoại sự đấu tranh của giai cấp công nhân.

Một phần của lý do khiến NGO được tái tạo rất nhanh chóng, tại cả nước đế quốc và nước phụ thuộc, là chúng đã trở thành lựa chọn sống còn hàng ngày đối với những người thất nghiệp có bằng cấp với những khuynh hướng tiến bộ đang mò mẫm trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu. 

Thị trường lao động ngày nay, ngay cả đối với những thanh niên có kỹ năng và giáo dục, thực sự rất khốc liệt. Thực tế này, đi cùng với khủng hoảng gia tăng của chủ nghĩa tư bản về tính hợp pháp trong môi trường đang bùng nổ sự bất bình đẳng và sự áp bức, khiến cho NGO trở thành một triển vọng công việc hấp dẫn. Chúng đem đến một lối thoát, một cơ hội để có một công việc tốt, đặc biệt là cho giai cấp tiểu tư sản [3]. Ví dụ, ở Haiti NGO là nhà tuyển dụng lao động lớn nhất. Khu vực NGO cũng hấp dẫn giai cấp tiểu tư sản Hoa Kỳ như là một lựa chọn cá nhân để thoát khỏi sự bần cùng và đấu tranh giai cấp.

Nhiều người tốt nghiệp đại học, với bằng cấp về khoa học xã hội và nhân văn, đối mặt với các cơ hội tuyển dụng nghèo nàn và có ít sự lựa chọn về những công việc tốt. So với một công việc dịch vụ lương thấp, tuyển dụng của NGO là một viễn cảnh được chào đón. Một nhân viên trẻ của NGO thường nói, làm việc trong khu vực phi lợi nhuận được coi là công việc “đầy ý nghĩa”, làm việc không chỉ giúp tạo ra thu nhập mà còn thay đổi thế giới.

Bồi dưỡng cho thanh niên thành phố cách tư duy của Teach for America (TFA) thì hấp dẫn hơn là làm bánh sandwich ở Subway, nhưng tốt hơn cả là không nên nghĩ về cách thức mà công việc đó khiến cho những giáo viên trẻ đồng lõa với cái mà Glen Ford gọi là “nỗi ô nhục phản giáo dục kiểu doanh nghiệp” của đám phát xít TFA.

Việc đánh lạc hướng sự đấu tranh sang việc chống lại những tác động tiêu cực của chủ nghĩa tư bản thông qua NGO đã che dấu mâu thuẫn chủ chốt của chủ nghĩa tư bản, cụ thể là giữa tư bản và lao động. Tác động khủng khiếp của chủ nghĩa tư bản – áp bức, hủy diệt sinh thái, chiến tranh xâm lược, bóc lột, nghèo đói – không thể xóa sổ mà không xóa sổ nguyên nhân của chúng. Sự tái sản xuất và tích lũy tư bản bắt nguồn từ sản xuất giá trị thặng dư thông qua bóc lột công nhân trong quá trình lao động.

Trái lại, NGO nhấn mạnh nguyện vọng của giai cấp tiểu tư sản, thường bị trả giá thấp trong lưu thông của tư bản hơn là bị bóc lột trong sản xuất (như công nhân), đang bị tư bản thống trị nhưng không nằm trong quan hệ đấu tranh giai cấp căn bản (như công nhân). Do đó, khuynh hướng tự nhiên của tầng lớp tiểu tư sản, nhằm theo đuổi lợi ích giai cấp của họ, không phải là phá hủy chủ nghĩa tư bản mà là đấu tranh cho sự bình đẳng trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản. NGO là biểu hiện của điều đó. Giai cấp tư sản dựa vào họ để đàn áp đấu tranh của giai cấp công nhân và đánh lạc hướng đấu tranh của giai cấp công nhân vào chủ nghĩa cải lương, phá hoại những nỗ lực của công nhân trong việc thiết lập đảng chính trị và các công đoàn mang tính hợp tác.

Trên phương diện lịch sử, bất cứ khi nào giai cấp công nhân kêu gọi cách mạng, quyền lực mềm của giai cấp tiểu tư sản sẽ sẵn sàng bóp chết điều đó. Các nhà tư bản dựa vào giai cấp tiểu tư sản để hành động như là đại diện thừa hành bảo vệ sự thống trị của nhà tư bản đối với giai cấp công nhân. Đấu tranh cho một sự tiến bộ thực sự, những người cực đoan hay chiến sĩ cách mạng vốn là thành viên của tầng lớp tiểu tư sản đều phải thoát khỏi con đường đã bị áp đặt, từ chối một cách có ý thức vai trò đó, cũng như ngăn chặn việc bị lợi dụng – vô tình hoặc không – cho các mục tiêu phản động.

Một lưu ý về nhân viên  của NGO:

Bài báo này không thể hiện mối hoài nghi đối với sự chân thật của những người đang làm việc cho các NGO – nhiều người trong số họ thông minh, có ý định tốt đẹp, thực sự muốn tạo ra sự khác biệt. Công việc là hiếm hoi và thực sự là hấp dẫn khi tin rằng hai sứ mệnh này – phục vụ cho nhân loại đồng thời đảm bảo sự sinh tồn của bản thân – có thể kết hợp thành một, một hành trang đơn giản. 

Kém may mắn thay, đây không phải là câu trả lời. Một bài thơ Haiti nói: “Sự thống nhất của con gà và con gián chỉ diễn ra trong dạ dày của con gà” – anh không thể thay đổi hệ thống từ bên trong.

Nhưng rời bỏ cũng không phải là câu trả lời. Tất cả chúng ta đều bị cầm tù trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và đại đa số chúng ta bị buộc phải làm việc để sống. Chúng ta không thể chỉ đơn giản quyết định rời bỏ theo kiểu cá nhân. Cách duy nhất để thoát khỏi là tổ chức đoàn kết để đánh bại chủ nghĩa tư bản – hoặc là tất cả chúng ta cùng tự do hoặc là không ai cả. 

Mặc dù vậy, vào lúc này, chúng ta cần phải tránh nhầm lẫn hoạt động của NGO với sự tổ chức thật sự.

Chủ nghĩa tư bản sẽ không hỗ trợ chúng ta phá hủy nó – chúng ta thực sự phải trở nên hiệu quả trong việc xây dựng một phong trào quần chúng chống chủ nghĩa tư bản, các nhà tư bản sẽ làm bất cứ điều gì có thể để bôi nhọ, vô hiệu hóa, bỏ tù và thậm chí là giết hại chúng ta. Họ chắc chắn sẽ không trả lương cho chúng ta.

[Ghi chú: Bài báo này ban đầu được tạp chí Jacobin đặt hàng. Phiên bản đầu tiên, của Stephanie McMillan, có thể xem ở đây. Phiên bản hiện tại là của đồng tác giả - Vincent Kelley của đại học Grinnel tham gia dự án để bổ sung quan điểm và giúp chỉnh sửa bài bào theo yêu cầu của biên tập viên của Jacobin. Chúng tôi cố gắng làm điều đó mà không thay đổi nội dung. Yêu cầu của họ bao gồm việc làm cho ngôn từ bớt phi chính thống và “hàn lâm” hơn, đến mức mà cả hai chúng tôi đều nhận thấy rằng đó là nỗ lực nhằm tách giai cấp công nhân khỏi nội dung của bài báo (biên tập viên phản đối). Khi chúng tôi từ chối xóa bỏ những điều mà chúng tôi cho là điểm mấu chốt, Jacobin đã từ chối đăng bài báo này.]

Chú thích

[1] Chúng tôi sử dụng khái niệm chủ nghĩa đế quốc không phải để tạo ra một phân loại về “áp bức quốc gia dân tộc” nhằm biện minh cho chủ nghĩa quốc gia như là một phản ứng chính trị phù hợp với sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Trái lại, chúng tôi hiểu rằng chủ nghĩa đế quốc là một sản phẩm của khuynh hướng tiến tới tập trung và tích tụ tư bản. Căn bản nhất, chủ nghĩa đế quốc ngày nay đặc trưng bằng sự quốc tế hóa tư bản độc quyền, trong đó nước đế quốc – dưới dạng các nhà tư bản đa quốc gia – bóc lột giá trị thặng dư từ công nhân nước phụ thuộc, những người đó không hề kém “năng suất” hơn những công nhân ở nước đế quốc, nhưng, trái lại, sức lao động của họ bị bóc lột thậm tệ hơn so với công nhân ở nước đế quốc. Xâm lược quân sự, sự thống trị văn hóa và những khía cạnh khác của chủ nghĩa tư bản phụ thuộc vào quan hệ thống trị về mức độ bóc lột giá trị thặng dư. Trong các nước bị thống trị, đấu tranh giai cấp nội bộ giữa giai cấp công nhân và các giai cấp thống trị (tư sản quan liêu, các tầng lớp phong kiến) vẫn tiếp tục là mâu thuẫn căn bản, ngay cả khi sự phát triển nội tại của chủ nghĩa tư bản đã chịu nhiều tác động và quy phục chủ nghĩa đế quốc. Những chi tiết sâu hơn về chủ đề xin hãy xem tại http://koleksyon-inip.org/a-brief-definition-of-imperialism/

[2] Bằng thống trị, trong trường hợp này chúng tôi muốn nói rằng tác động của chủ nghĩa đế quốc đối với toàn bộ các nước phụ thuộc. Điều này bao hàm sự thấu hiểu về các tác động của chủ nghĩa đế quốc đối với tất cả các giai cấp bị thống trị ở nước phụ thuộc, bao gồm nhưng không giới hạn trong giai cấp công nhân. Việc lật đổ sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc đòi hỏi phải có hoạt động quốc tế chống lại nước đế quốc – hiện nay là Hoa Kỳ - ở cả các nước ngoại vi trên toàn cầu cũng như các nước đang nằm dưới sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Phân tích về sự thống trị của đế quốc ở Haiti xin hãy xem tại http://koleksyon-inip.org/haiti-and-imperialist-domination/

[3] Chúng tôi sử dụng khái niệm tiểu tư sản không phải chỉ là sự đề cập đơn giản về “tầng lớp trung lưu”, trái lại là một mô tả chính xác mang tính phân tích về quan hệ độc đáo của giai cấp này đối với sản xuất. Tiểu tư sản không phải là những người tạo ra giá trị thặng dư (giai cấp công nhân) hay những người bóc lột và tích lũy giá trị thặng dư (giai cấp tư sản). Đây là một tầng lớp dao động, không phải là chủ chốt đối với sự tái sản xuất quan hệ sản xuất, buộc phải đứng về phía một trong hai giai cấp độc lập, lao động hoặc tư bản. Nhân viên NGO thường là một trong nhiều ví dụ về thành viên của giai cấp này và phải thừa nhận vị trí của họ như vậy để thúc đẩy đấu tranh của giai cấp công nhân hơn là giai cấp tư sản. Chúng tôi ủng hộ sự lãnh đạo của giai cấp công nhân không phải bởi vì bất cứ đặc quyền đạo đức nào của công nhân, trái lại là bởi vì sự thất bại lịch sử và hiện tại của những người tiểu tư sản cực đoan trong việc thúc đẩy các cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản. Thảo luận chi tiết hơn về chủ đề này xin hãy xem tại http://koleksyon-inip.org/greece/#more-495.

Monday, October 19, 2015

Chuyện nhầm nhọt của Obama và Putin

Sau vụ máy bay Mỹ hủy diệt bệnh viện của tổ chức Thầy Thuốc Không Biên Giới, Putin hỏi Obama:

- Sao mày ác ôn vậy? Bệnh viện từ thiện cũng không tha là sao?

Obama trả lời:

- Ồ, do tụi tao bắn nhầm thôi. 

Nghe vậy Putin liền rút ra một cái hộp có một mớ nút, bấm tách một cái.

Obama liền hỏi:

- Mày vừa bấm cái nút gì vậy?

Putin trả lời:

- Tao mới bấm nút phóng tên lửa đầu đạn hạt nhân sang nhà mày đó.

Obama hết hồn, ngay lập tức chui tọt xuống hầm ngầm chống bom nguyên tử, khởi động hệ thống tên lửa đánh chặn, nhưng quét radar mãi mà không thấy tên lửa của Nga đâu.

Lúc ấy, Putin gọi điện cho Obama nói:

- Không sao đâu, tao ấn nhầm nút rồi.

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí)

Friday, October 16, 2015

Sự can thiệp của Nga có phá hỏng kế hoạch xâm lược Syria của Thổ Nhĩ Kỳ?

Mike Whitney trong bài "Did Russia’s Intervention Derail Turkey’s Plan to Invade Syria?" bình luận về triển vọng Nga và liên quân Syria có thể đánh bại phiến quân và khôi phục trật tự ở Syria trong khi Hoa Kỳ và Thổ Nhĩ Kỳ vẫn đang mắc kẹt với kế hoạch đưa quân đội Thổ Nhĩ Kỳ vào Iran, khi mà Nga thực tế đã lập vùng cấm bay và vô hiệu hóa khả năng yểm hộ bằng không quân của Hoa Kỳ. Nếu như Nga có thể giúp chính quyền Assad quét sạch phiến quân và lập lại hòa bình ở Syria, không cần có bất cứ đàm phán nào với Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ, thì đây sẽ là một dấu mốc mới của lịch sử thế giới hiện đại. Nó sẽ chính thức đánh dấu sự chấm hết của trật tự thế giới đơn cực sau khi Liên Xô cũ sụp đổ.

Liệu sự can thiệp của Nga có phá hỏng kế hoạch xâm lược Syria của Thổ Nhĩ Kỳ?

Hàng ngàn binh lính Iran sẽ tới Syria để tham gia trận tấn công chủ chốt vào lính Sunni ở khu vực tây bắc của đất nước. Lực lượng bộ binh Iran sẽ là một phần của chiến dịch kết hợp giữa Quân Đội Arab của Syria (SAA), Nga và các chiến binh từ quân Lebanon, Hezbollah. Trận tấn công nối tiếp sau hai tuần không quân Nga ném bom các vị trí của kẻ địch, đánh phá quân jihadi do Hoa Kỳ hậu thuẫn ở dọc theo hành lang phía tây. Sự vận động của lính Iran cho thấy cuộc xung đột kéo dài bốn năm đang đi vào giai đoạn kết thúc, liên minh do Nga cầm đầu sẽ đánh bại quân Sunni thống trị và khôi phục an ninh trên toàn quốc. 

Mới đây, trận chiến ác liệt nhất đã nổ ra ở ba khu vực trọng điểm đối với sự tồn vong của tổng thống Syria Bashar al Assad’s: vùng đất kẹt giữa lãnh thổ đối phương Rastan, mỏm đất Bắc Hama, đồng bằng Ghab. Trong khi quân của Assad được coi là vượt trội quân jihadi tại cả ba nơi, quân jihadi đã thọc sâu và phá hủy nhiều xe bọc thép cũng như xe tăng. Chính quyền phải chiếm lại các khu vực này để kiểm soát con đường cao tốc M5 chạy từ bắc sang nam và kết nối các thành phố này thành một quốc gia thống nhất. Khi những cứ điểm của kẻ thù đã bị phá vỡ thành một số điểm đề kháng nhỏ, lực lượng liên minh sẽ phải tiến tiếp về phía bắc tới gần biên giới Thổ Nhĩ Kỳ để tái chiếm thành phố chiến lược Allepo. (Xem: Sic Semper Tyrannis để thấy chi tiết của cuộc tấn công trên bộ với bản đồ.)

Theo nhà phân tích quân sự Patrick Bahzad: “Nhìn chung thì kết quả của những chiến dịch hiện tại ở ba khu vực đã đề cập phía trên là rõ ràng. Khó có thể biết được rằng các nhóm nổi loạn có tung mọi thứ họ có vào các trận chiến hay không, do vậy không thể đánh giá được mức độ tổn thất năng lực chiến đấu của họ trong thất bại sắp tới.

Cũng cần phải đề cập rằng khi các đơn vị SAA được sử dụng để đột phá phòng ngự của quân nối loạn…. điều này có thể khiến các đơn vị nổi loạn tháo chạy vô tổ chức và bị bao vây. Thời điểm của trận chiến có thể rất quan trọng, nó có thể bắt đầu với nã pháo yểm hộ quy mô lớn (MRLs) và không kích của không quân Nga, tạo ra các thương vong đáng kể trong hàng ngũ của quân nổi loạn.” (Sic Semper Tyrannis)

Hay nói cách khác, đây là một cơ hội tốt để quân jihadi nhận thấy rằng họ không có cơ hội thắng và sẽ tháo chạy, nhưng vẫn còn quá sớm để nói rằng khi nào mọi chuyện sẽ diễn ra.

Theo một bản tin của Reuters, “…một sự vận động lớn của quân đội Syria … các chiến binh Hezbollah tinh nhuệ và hàng ngàn lính Iran” đang đi theo theo hướng bắc để tái chiếm Alleppo. Tuy vậy, quân ISIS cũng tiến thẳng về thành phố từ hướng đông, điều này có nghĩa là một trận đánh lớn có thể diễn ra bất cứ lúc nào. Đáp lại, không quân Nga đã gia tăng ném bom lên hơn 100 lượt mỗi ngày. Con số này được dự báo là sẽ gia tăng gấp đôi trong những ngày sắp tới khi chiến trận khốc liệt hơn.

Theo các bản tin sớm của Syria Direct, quân đội Syria đã bao vây Alleppo trong nỗ lực đầu tiên nhằm cắt đứt đường tiếp vận chủ chốt cho miền bắc từ Thổ Nhĩ Kỳ. Trong lần bao vây thành phố đầu tiên, các đơn vị nổi loạn do Hoa Kỳ hậu thuẫn đã rút chạy về phía tây, là lối thoát duy nhất vào lúc này. Sự rút chạy hỗn loạn làm nảy sinh sự bất mãn với các lãnh đạo của phe nổi loạn, họ bị lên án vì những tổn thất và để cho “chính quyền bao vây hoàn toàn Aleppo.” Một chỉ huy quân jihadi tóm lược sự thất vọng khi nói:
“Các lữ đoàn mười nghìn quân dưới sự chỉ huy của al-Jabha a-Shamiya ở đông bắc Aleppo là những người bị thương và mệt mỏi đã trải qua nhiều mặt trận… Họ bị lọt vào giữa quân đội chính quyền ở phía bắc và IS ở phía Nam…. (Do) hoàn toàn thiếu sự phối hợp giữa các lữ đoàn, gần như không có đủ súng và tiền từ người Mỹ để chống lại IS được vũ trang tốt hơn, họ không có lựa chọn nào khác ngoài rút lui.” (“Jabha Shamiya commander blames ‘complete lack of coordination’ for Aleppo losses“, Syria Direct)
Aleppo là mắt xích chủ chốt trong chiến lược đánh bại khủng bố và khôi phục trật tự ở Syria của Moscow. Trận chiến có thể rất ác liệt, có thể là cận chiến, chiến tranh đô thị từ nhà này sang nhà khác. Đây là lý do khiến quân đội liên minh phải phong tỏa biên giới với Thổ Nhĩ Kỳ cũng như ngăn chặn luồn vũ khí và quân nhu càng nhanh càng tốt. Có tin đồn là Putin sẽ sử dụng lính dù tinh nhuệ của Nga ở phía Bắc Aleppo cho các nhiệm vụ đặc biệt, nhưng hiện giờ điều đó vẫn chỉ là tin đồn. Putin đã thường xuyên nói rằng ông ấy sẽ không cho phép bộ binh tham chiến ở Syria.

Không thể đánh giá quá cao vai trò phá hoại và gây rối của chính quyền Obama ở Syria, cùng với các đồng minh vùng Vịnh, Hoa Kỳ đã tài trợ, vũ trang và huấn luyện hàng mớ những tên lưu manh jihadi, những kẻ đã xé nát quốc gia và giết hại gần một phần tư triệu người. Giờ đây Putin đã quyết định chấm dứt chiến tranh ngoại vi man rợ của Washington, chính quyền Hoa Kỳ đang tính cách đổ thêm dầu vào lửa bằng cách thả vũ khí và đạn dược xuống cho các quân jihadi ở miền trung và miền đông Syria. Biên tập viên của tờ New York Time đã chế nhạo chương trình này là “ảo tưởng”. Đây là một trích đoạn từ bài báo: 
“…vào thứ sáu, Nhà Trắng đã tiết lộ một kế hoạch còn chắp vá và đầy rủi ro hơn nữa.
Lầu Năm Góc sẽ ngừng cung cấp các chiến binh nổi dậy thông qua huấn luyện ở các nước láng giềng, một chương trình được tạo ra để đảm báo các chiến binh này sẽ hoàn toàn thuần thục trước khi họ có thể chạm tay vào vũ khí và đạn dược Hoa Kỳ. Kế hoạch mới sẽ chỉ đơn giản là cung cấp vũ khi thông qua các thủ lĩnh nổi dậy, những người đang tham gia chiến trận và có vẻ như là tạo ra một số tiến triển….
Kinh nghiệm của Washington ở Syria và các cuộc chiến khác gần đây cho thấy các chiến binh ngoại vi thường không kiên định và vũ khí được đưa vào một cuộc chiến tranh mà không có sự giám sát thực sự thường xuyên dẫn đến các tác động thảm họa….Kế hoạch ban đầu đã mơ hồ. Kế hoạch sau lại là ảo tưởng. (“An Incoherent Syria War Strategy“, Ban biên tập New York Times)
Chính quyền cũng đã cung cấp “27 container vũ khí cho Đảng Liên Minh Dân Chủ người Kurd (Syria) và cánh quân của họ, Các Đơn Vị Bảo Vệ Nhân Dân (YPG). Vũ khí được dự tính là sử dụng để chống lại ISIS, nhưng hoạt động này đã chọc giận thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ, ông ta coi nhóm này là khủng bố. Trong khi có vẻ như là chính quyền Obama đang tìm cách để thể hiện sự tích cực của họ trong cuộc chiến chống khủng bố, họ có thể tạo ra cái cớ hoàn hảo cho việc Thổ Nhĩ Kỳ xâm lược Syria, vốn rất phức tạp trong tình hình mặt đất hiện nay. Đây là một đoạn phim từ Turkish Daily Hurriyet:
“Điều tra sau những vụ nổ sát thương ở Ankara vào ngày 10 tháng 10 nhằm vào các nhà hoạt động ủng hộ người Kurd và cánh tả cho thấy Đảng Công Nhân Người Kurd (PKK), cũng như ISIL, đều có thể can dự, thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Ahmet Davutoğlu tuyên bố vào thứ tư.
“Khi chúng tôi điều tra sâu hơn, dựa trên [thông tin thu thập được về] các tài khoản Twitter và địa chỉ IP, có nhiều khả năng là Daesh [tên Arab của ISIL] và PKK đóng vai trò tích cực trong việc đánh bom,” ông ta phát biểu trong hội nghị báo chí với thủ tướng Bulgaria Boyko Borisov ở Istanbul.” “Turkish PM says both ISIL and PKK may have role in Ankara bombing“, Hurriyet)
Trên thực tế hoàn toàn không có bằng chứng về sự can dự của PKK (quân đội Kurd), các mẫu DNA từ hai kẻ đánh bom tự sát cho thấy cả hai đều là thành viên của ISIS. Lý do duy nhất mà Erdogan muốn lôi PKK vào chỉ có thể là hạ uy tín của đối thủ chính trị [người Kurd] hoặc để tạo ra một cái cớ để xâm lược Syria. (Ghi chú: Tòa án Thổ Nhĩ Kỳ đã yêu cầu giữ bí mật về việc điều tra vụ đánh bom, cho thấy sự che giấu của chính quyền. Theo Altan Tan, phó chủ tịch của Đảng Dân Chủ Nhân Dân (HDP) ủng hộ người Kurd, “Bom nổ khắp Thổ Nhĩ Kỳ. Hai kết luận có thể đưa ra là – hoặc chính quyền đứng phía sau những vụ tấn công này hoặc họ đã không ngăn chặn những vụ tấn công này.” Theo cách nào thì chính quyền cũng phải chịu trách nhiệm.” 

Trong khi vai trò tương lai của Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc xung đột ở Syria vẫn chưa rõ ràng, việc Hoa Kỳ ủng hộ người Kurd sẽ gia tăng cơ hội cho cuộc xâm lược của Thổ Nhĩ Kỳ và rộng hơn nữa là một cuộc chiến tranh khu vực. Đây liệu có phải là mục tiêu thật sự của chính quyền này, lôi kéo quân đội Thổ Nhĩ Kỳ vượt biên giới vào Syria để Nga sa lầy trong một cuộc chiến kéo dài và tốn kém?

Nghe có vẻ âm mưu quá, nhưng đây là những điểm rất đáng để cân nhắc. Ví dụ, trên chương trình tin tức 60 Phút của CBS, Obama nói rằng: 
“Tôi hoài nghi về khả năng chúng ta sẽ thực sự tạo ra một đội quân ngoại vi ở Syria. Mục tiêu của tôi là cố gắng kiểm tra đề xuất, liệu chúng ta có thể huấn luyện và trang bị cho phe đối lập ôn hòa sẵn sàng chống lại ISIL không? Điều mà chúng ta học được là chừng nào mà Assad còn nắm quyền thì khó có thể khiến những người đó tập trung vào ISIL.” (60 Phút) 
Đương nhiên, Obama muốn mọi người tin rằng “tất cả đều là lỗi của Assad”, trên hết ông ta không tự lên án bản thân. Nhưng ông ta trung thực về một điều: Ông ta thực sự không bao giờ cho rằng vũ trang cho những kẻ cực đoan Sunni là ý tưởng hay. Hay nói cách khác, ông tả ủng hộ mục tiêu (thay đổi chế độ) không bằng phương pháp đó. (vũ trang cho quân jihadi) Dường như ông ta cảm thấy được an ủi khi mà – sau 4 năm tham chiến – cuộc xung đột đã rơi vào thế bế tắc. 

Nếu ông ta thừa nhận rằng vũ trang cho quân jihadi không có tác dụng, vậy kế hoạch dự phòng của ông ta, kế hoạch B là gì?

Chúng ta đã dự đoán ở những bài báo trước rằng Obama có thể đưa ra một thỏa thuận với Erdogan để phát động cuộc xâm lược của Thổ Nhĩ Kỳ ở Syria chừng nào mà Hoa Kỳ có thể hỗ trợ không quân cho bộ binh Thổ Nhĩ Kỳ. Chúng ta cho rằng đó là một phần của điều kiện trao đổi mà Obama đã đồng ý để được sử dụng căn cứ không quân chiến lược Incirlik. Hãy nhớ rằng Erdogan từ chối cho Hoa Kỳ tiếp cận căn cứ Incirlik trong hơn một năm cho đến khi Hoa Kỳ đáp ứng yêu cầu giúp ông ta lật đổ Assad. Đương nhiên, đây không phải là điều mà Obama có thể công khai thừa nhận, nhưng nó có thể coi là phần trọng yếu trong mọi thỏa thuận. Một cuộc phỏng vấn trên Giờ Tin Tức của PBS vào tuần trước với David Kramer, cựu trợ lý ngoại trưởng dưới thời George W. Bush, đã ủng hộ lập luận này. Đây mà một trích đoạn từ nội dung được rã băng: 
Judy Woodruff: Vâng, David Kramer, điều đó thì sao? Có mối lo ngại thực sự về việc Hoa Kỳ can dự, bị lôi kéo vào và không thể thoát ra.
David Kramer: Người Thổ từ lâu đã cho thấy rằng họ sẵn sàng đưa quân đội vào nếu được Hoa Kỳ yểm hộ và hỗ trợ. Chúng ta phải tạo ra các khu vực an toàn. Chúng ta phải tạo ra các vùng cấm bay. Chúng ta phải cưỡng chế mọi máy bay có thể đe dọa người dân tại những khu vực đó, bất kể là máy bay Syria hay Nga. Chúng ta phải cho người Nga thấy rằng mọi sự xâm phạm hoặc tấn công những khu vực này sẽ được chúng ta đáp trả.
Không ai muốn điều này. Đó là quyết định tồi, nhưng đó là điều mà chúng ta phải làm. Tôi cho rằng nếu chúng ta không làm điều đó, chúng ta sẽ tiếp tục thấy người dân bị giết hại. Chúng ta sẽ tiếp tục thấy người dân bỏ chạy khỏi Syria, không có giải pháp tốt nào cả. Chúng ta đưa ra những lựa chọn ít tồi tệ nhất.
Judy Wooddruff: Nhưng câu hỏi của tôi, đó liệu có phải là một mức độ nguy hiểm hoàn toàn mới nhưng không được chú ý, như máy bay Hoa Kỳ bị bắn hạ, binh lính Hoa Kỳ có thể bị bắt giữ, chưa nói đến xung đột, xung đột tiềm tàng với Nga? 
David Kramer: Chúng ta có người Thổ cho thấy sự sẵn sàng dấn thân. Chúng ta cũng có thể có các quốc gia khác, trong đó có các quốc gia vùng Vịnh, mặc dù họ không phải là những người đóng góp lớn trong những chiến dịch kiểu này. Hoa Kỳ có thể hỗ trợ bằng không quân, để tạo ra sự yểm hộ theo cách đó. Tôi cho rằng đây là cách thực hiện mà không cần đưa bộ binh Hoa Kỳ vào, nhưng không có lựa chọn nào tốt cả. (“Pulling the plug on rebel training, what’s next for U.S. in Syria?“, PBS News Hour)
Kramer không chỉ thể hiện rất hài lòng về việc “Người Thổ… sẵn sàng đưa quân vào nếu được Hoa Kỳ yểm hộ và hỗ trợ.” Ông ta có vẻ cũng ngầm ám chỉ rằng đại đa số thượng lưu ở Washington cũng nhận thấy thỏa thuận nhưng làm bộ không thấy.

May mắn thay, can thiệp quân sự của Putin đã phá hỏng mọi triển vọng triển khai kế hoạch B, chúng ta sẽ không bao giờ biết được Thổ Nhĩ Kỳ có xâm lược hay không.

Vấn đề hiện giờ là liên minh do Nga cầm đầu có triển khai đủ nhanh để củng cố thành quả của họ, cắt các đường tiếp vận của kẻ địch, chặn đường thoát, phong tỏa biên giới và khiến cho Thổ Nhĩ Kỳ không dám có các hành động mở rộng chiến tranh. Erdogan chắc chắn sẽ bị khuất phục trước lý lẽ của sức mạnh.

Lính đánh thuê jihadi hoặc là đầu hàng hoặc sẽ bị xóa sổ nhanh chóng để 11 triệu người Syria có thể an toàn trở về nhà và bắt đầu công việc tái thiết nhọc nhằn. 

Mike Whitney lives in Washington state. He is a contributor to Hopeless: Barack Obama and the Politics of Illusion (AK Press). Hopeless is also available in a Kindle edition. He can be reached at fergiewhitney@msn.com.

Thursday, October 15, 2015

Stephen Hawking và chủ nghĩa tư bản

Mới đây trên trang reddit của mình nhà vật lý học và thiên văn học nổi tiếng thế giới Stephen Hawking đã viết về chủ nghĩa tư bản như sau:
If machines produce everything we need, the outcome will depend on how things are distributed. Everyone can enjoy a life of luxurious leisure if the machine-produced wealth is shared, or most people can end up miserably poor if the machine-owners successfully lobby against wealth redistribution. So far, the trend seems to be toward the second option, with technology driving ever-increasing inequality.
Luận điểm của Stephen Hawking đã được truyền thông Hoa Kỳ và thế giới bàn tán ồn ào và được giới chính khách Hoa Kỳ đang chạy đua cho chiếc ghế tổng thống năm 2016 khai thác triệt để vì ông là một nhà khoa học tự nhiên rất nổi tiếng và có uy tín.

Đoạn văn của ông có thể hiểu theo tiếng Việt như sau:

Nếu như máy móc có thể sản xuất ra mọi thứ mà chúng ta cần, kết quả sẽ phụ thuộc vào việc mọi thứ được phân phối ra sao. Mọi người đều có thể được hưởng đời sống thư thái xa hoa nếu như của cải do máy móc tạo ra được chia sẻ, hoặc đại đa số người dân sẽ nghèo nàn cùng cực nếu như chủ sở hữu máy móc có thể vận động hành lang chống lại sự tái phân phối thành công. Hơn nữa, có vẻ như khuynh hướng đang ngả về phía lựa chọn thứ hai, công nghệ dẫn đến sự bất bình đẳng gia tăng. 

Theo quan điểm Marxist thì luận điểm của Stephen Hawking không có gì mới, vẫn là quan điểm duy tâm về mặt kinh tế chính trị học vay mượn từ các học giả kinh tế chính trị theo quan điểm sản xuất và phân phối có thể tách rời nhau, quan điểm này đã có từ rất lâu đời và sau này đặc biệt được các nhà kinh tế chính trị hợp pháp hay chủ nghĩa xã hội thị trường cổ vũ. F. Engels trong cuốn "Chống Duerinh" đã phê phán quan điểm này rất rõ ràng từ góc độ chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Ngay từ câu đầu tiên Stephen Hawking đã lặp lại sai lầm đó khi giả định rằng máy móc thay thế hoàn toàn người lao động để sản xuất ra hàng hóa. Mặc dù đó là khát vọng của mọi nhà tư bản cá nhân, điều đó giúp họ thu được lợi nhuận siêu ngạch, nhưng phương thức chủ nghĩa tư bản không bao giờ đạt được cái mức đó trên phương diện tổng thể. Khi thay thế hoàn toàn người lao động bằng máy móc thì người lao động không còn tiền để mua hàng hóa, còn chính nhà tư bản thì cũng không còn lợi nhuận nữa do máy móc không tạo ra giá trị và do đó là lợi nhuận. Khi mọi nhà tư bản đều dùng máy móc để sản xuất mà không dùng công nhân thì cũng không còn lợi nhuận siêu ngạch nữa. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ sụp đổ, không còn gì để phân phối nữa. Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hiện thời đã cho thấy cái quy luật tất yếu đó, nó không ngừng tích lũy, sử dụng công nghệ cao để gia tăng lợi nhuận, nhưng khi đạt đến một mức độ nhất định thì tỷ suất lợi nhuận bình quân sụt giảm đột ngột khiến nền kinh tế suy thoái, tư bản bị phá hủy đi để khôi phục những tiền đề ban đầu của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. 

Vế tiếp theo thì Stephen Hawking giả định rằng vẫn còn sự phân phối có nghĩa là sự phân phối ấy độc lập với phương thức sản xuất. Hơn nữa, Stephen Hawking còn cho rằng sự phân phối ấy phụ thuộc vào vận động hành lang, tức là dựa vào khả năng tác động tới quyền lực nhà nước, hay nói ngắn gọn hơn là quyền lực nhà nước. Nhưng quyền lực nhà nước thì trước hết là quyền lực về kinh tế, nếu như phương thức sản xuất chủ nghĩa tư bản sụp đổ thì quyền lực kinh tế của nó cũng chấm dứt. Có thể thấy là Stephen Hawking ngầm giả định rằng quyền lực nhà nước độc lập với xã hội, vẫn có thể tiếp tục tồn tại và can thiệp vào xã hội dựa trên lý tưởng về đạo đức (sự bình đẳng) bất chấp cơ sở xã hội của nó đã sụp đổ.

Cuối cùng khi mà Stephen Hawking nói rằng công nghệ đang gia tăng sự bất bình đẳng xã hội thì cũng có nghĩa là ông ấy tiết lộ phương thuốc điều trị bệnh tật ấy. Nhà nước có can thiệp để phân phối thu nhập bình đẳng hơn. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ không tạo ra sự bất bình đẳng ghê ghớm nếu như nhà nước có thể phân phối lại thu nhập để hạn chế tác động tiêu cực của công nghệ. Ở đây cũng cần phải nói thêm rằng công nghệ không phải là yếu tố khách quan, chủ nghĩa tư bản tạo ra công nghệ kiểu tư bản chủ nghĩa, hướng tới việc thay thế lao động sống bằng máy móc thay vì dùng máy móc để hỗ trợ lao động sống. Khi Stephen Hawking chỉ nhấn mạnh vào vấn đề phân phối mà không đả động đến bản chất của công nghệ thì ông ấy ngầm công nhận nền tảng của chủ nghĩa tư bản là không thể thay đổi.

Stephen Hawking là một trường hợp điển hình của việc bảo vệ chủ nghĩa tư bản bằng cách phê phán nó, thế nên không phải ai phê phán chủ nghĩa tư bản cũng là chống lại nó. Stephen Hawking sẽ được hoan nghênh nhiệt liệt cả từ phe bảo thủ cũng như phe tự do trong kinh tế học phương Tây.  

Thao túng thực tại: Facebook đang nghe lén bạn

Trong bài "Manipulating Reality: Facebook is Listening to You" giáo sư Mel Gurtov cảnh báo về việc các doanh nghiệp cung cấp mạng xã hội thu thập thông tin cá nhân người dùng để bán quảng cáo và tệ hơn nữa là cung cấp cho chương trình giám sát của chính quyền Hoa Kỳ, vi phạm quyền riêng tư căn bản của cá nhân. Nhưng xã hội tư bản là như vậy, khao khát biến con người thành cỗ máy tiêu thụ vô tận những gì doanh nghiệp sản xuất ra sẽ không bao giờ chấm dứt.

Thao túng thực tại: Facebook đang nghe lén bạn

Điều mà chúng ta đều quá quen thuộc là thực tại của chúng ta có thể bị thao túng để tạo thành vẻ ngoài của một thứ gì đó hoàn toàn khác biệt. Xâm lược quốc gia khác là tự vệ, bầu cử gian lận được coi là dân chủ trong hành động, thêm súng đạn (hoặc vũ khí hạt nhân) để đảm bảo hòa bình, thương mại và đầu tư nước ngoài tạo ra nhiều công ăn việc làm ở quê nhà. Logic kiểu Orwell đã trở nên phổ biến.

Điều mà tôi muốn bàn luận ở đây là một dạng thao túng khác: Cách thức Facebook và các loại truyền thông xã hội khác sử dụng thông tin mà chúng ta hầu như không biết rằng đang cung cấp chúng cho họ – bao gồm cả những từ ngữ chúng ta nói riêng tư ở nhà – để quảng cáo các sản phẩm mà chúng ta không yêu cầu hay hầu như không muốn, cũng như chuyển dữ liệu cho chính quyền.

Tôi không phải là người đầu tiên khám phá ra năng lực đáng kinh ngạc này. Một số người khác đã bày tỏ sự ngạc nhiên và tức giận khi họ nhận thấy những từ khóa mà họ sử dụng khi trao đổi thông tin trên Facebook và Twitter, như thông điệp, vị trí, tâm trạng, cũng như các đàm thoại riêng tư ở bất cứ đâu tại nhà của họ, đã bị thu gom và hầu như ngay lập tức chuyển hóa thành quảng cáo. Anh đề cập tới một môn thể thao nào đó và quảng cáo của đại lý bán vé xuất hiện. Anh nói thích lái xe Lexus và quảng cáo xe Lexus bật ra. Anh nói về kỳ nghỉ và quảng cáo Facebook giới thiệu với anh bãi biển Hawaii hoặc một khách sạn nhỏ ở Paris – nhìn kìa và thấy đấy – anh mới chỉ nhắc đến chuyện đó ngày hôm qua!

Đây là ảo giác? Liệu Facebook (hay Instagram, Google hoặc Yahoo) có khả năng nghe được trong đàm thoại của chúng ta không? Facebook đã thừa nhận rằng mô hình kinh doanh của họ dựa trên dữ liệu mà chúng ta nhập hoặc trao đổi trực tuyến, dữ liệu mà chúng ta tạo ra trở thành tài sản của Facebook, (như Mark Zuckerberg, CEO của Facebook đã lập luận) đằng nào thì hầu hết mọi người cũng không quan tâm nhiều đến sự riêng tư. Dĩ nhiên Facebook và truyền thông xã hội đều bảo vệ mô hình của họ bằng cách nói với bạn rằng họ đáp ứng sự mong muốn của bạn và nếu bạn muốn thì họ có thể giảm bớt (nhưng không chấm dứt hoàn toàn) quảng cáo khi mà bạn chỉ cần kiểm tra danh mục được cung cấp trong phần thiết lập chương trình. Nhưng như mới đây, Facebook cam đoan rằng chỉ có bạn kiểm soát microphone và (theo lãnh đạo an ninh của Facebook) bạn phải cho phép Facebook kích hoạt nó. Có ai được nhớ là đã được xin phép không?

Có vẻ như là bạn có thể tắt chức năng của microphone ở Windows hoặc ứng dụng di động Facebook trên điện thoại di động hoặc máy tính bảng của mình. Nhưng liệu “tắt” có thực sự là tắt hoàn toàn? Có vẻ như là không. Thí nghiệm của Jodi , vợ tôi, và tôi sau khi tắt microphone trên máy tính của cô ấy và nói về một số thứ khác, quảng cáo xuất hiện trong vòng vài giây sau khi chúng tôi nói.

*Jodi bình luận về diễn viên Robin Wright Penn. Quảng cáo về phim của Sean Penn đã xuất hiện ngay lập tức.

*Chúng tôi thảo luận áo phông cho cháu nội. Quảng cáo áo phông xuất hiện. 

*Jodi nói về trò chơi Scrabble dang dở. Ngay lập tức quảng cáo về trò chơi Yahtzee xuất hiện.

*Jodi mô tả bề ngoài phù hợp với tuổi của cô ấy, như nếp nhăn và tóc xám, quảng cáo về “Chiến thắng tuổi tác” của Maybeline hiện ra.

Giờ thì bạn nói ổn thôi, nhưng sự rình mò đó có phải là bất hợp pháp, một sự xâm phạm tính riêng tư không? Người ta đã phản đối trên quy mô lớn việc rình mò trên điện thoại di động của Facebook, nhưng dường như chính sách của Facebook không thay đổi, như tôi đã nhận thấy. Ở mức độ hợp pháp, một nghiên cứu của Bỉ đã chỉ ra – bằng cách này, người Châu Âu lo ngại và quan tâm tới trò lừa dối của Facebook hơn là người Mỹ —“tùy chọn tắt” quảng cáo không phải là thứ đã được thông tin và trực tiếp đồng thuận. Hơn nữa, Facebook không cần đến sự đồng thuận của chúng ta để thu thập dữ liệu từ các nguồn khác, để thu thập dữ liệu vị trí mà điện thoại di động cung cấp, để sử dụng các bức ảnh hay dữ liệu khác (như “like”) mà người dùng nhập vào.

Tôi cho rằng báo cáo của Bỉ phù hợp với tuyên bố chính sách mới đây của Facebook (2015), Facebook có thể thu thập mọi và toàn bộ dữ liệu phát sinh từ việc sử dụng facebook của bạn cũng như thiết bị mà bạn dùng để truy cập Facebook. “Mọi thông tin” có nghĩa là toàn bộ các dữ liệu bạn nhập vào, bất kể là về bản thân bạn hay một bên nào khác, bất kể là dưới dạng chữ viết, tiếng nói hay hình ảnh. Ngay cả khi bạn xóa bỏ tài khoản Facebook của mình, tất cả thông tin mà bạn cung cấp vẫn tồn tại.

Bên cạnh đó cũng có một vấn đề nghiêm trọng hơn: Các cơ quan chính quyền Hoa Kỳ thu thập và sử dụng dữ liệu truyền thông xã hội, đáng chú ý là Ủy Ban An Ninh Quốc Gia (NSA). Thực tiễn đã bị Edward Snowden tiết lộ này có cả sự tham gia của Facebook, Apple và một số công ty công nghệ khác trong chương trình PRISM của NSA, nhằm thu thập trực tiếp dữ liệu từ các doanh nghiệp hơn là qua mạng Internet.

Sự xâm phạm tính riêng tư đã bị Liên Minh Châu Âu phản đối. Vào năm 2000, EU chấp nhận đề xuất của Hoa Kỳ về việc thiết lập một chương trình “Bến An Toàn” để chuyển giao dữ liệu cá nhân ở Châu Âu, mà Facebook, Google và Amazon thu thập được, cho Hoa Kỳ. Thỏa thuận này đã được Tổng Chưởng Lý của Tòa Án Hình Sự Châu Âu (ECJ) xem xét lại, họ cho rằng thỏa thuận này vi phạm quyền cơ bản của người dân Châu Âu. Tổng Chưởng Lý phát hiện ra rằng dữ liệu có thể được “NSA và các cơ quan an ninh khác của Hoa Kỳ truy cập trong khuôn khổ một chương trình giám sát quy mô lớn và không phân biệt.”

Tòa Án Hình Sự Châu Âu đã đồng ý với ý kiến này, tuyên bố “Bến An Toàn” vô hiệu. Tòa án phán quyết rằng Bến An Toàn “phải phù hợp với quyền căn bản để tôn trọng đời sống riêng tư.” Đó là cú đòn nặng, mặc dù chưa phải là đòn kết kiễu, đối với Facebook và các công ty khác tham gia vào việc chuyển giao dữ liệu ở Châu Âu. Châu Âu đã thúc ép các công ty này, đặc biệt là Google và Amazon, về những vấn đề khác, như luật anti-trust. Một cách lý tưởng, phán quyết của ECJ cũng như các hành động khác của Châu Âu sẽ tạo động lực cho người Mỹ đấu tranh đòi quyền riêng tư và sự minh bạch hơn trong cách thức các doanh nghiệp khổng lồ về công nghệ thực hiện kinh doanh.

Việc truyền thông xã hội xâm phạm sự riêng tư có khiến bạn phiền lòng, hay bạn sẽ cân nhắc sự đánh đổi giữa sự riêng tư và kết giao xã hội? Bạn có thể kiểm soát sự riêng tư của mình với máy tính, điện thoại và máy tính bảng ra sao? Bạn có kinh nghiệm về các kiểu nghe lén mà tôi đã đề cập không?

Mel Gurtov is Professor Emeritus of Political Science at Portland State University, Editor-in-Chief of Asian Perspective, an international affairs quarterly and blogs at In the Human Interest.

Monday, October 12, 2015

Tuyên truyền về GMO và xã hội học về khoa học

Thao túng giới khoa học, và đánh lận con đen giữa khoa học và công nghệ để tuyên truyền và đàn áp các ý kiến phản đối là cách thức mà các công ty cung cấp sản phẩm biến đối gen lớn đang làm. Kristine Mattis đã vạch rõ những mánh lới ấy trong bài "GMO Propaganda and the Sociology of Science". Chuyện của Hoa Kỳ nhưng chắc chắn là không xa lạ với Việt Nam, một thị trường đang lên cho GMO của các công ty đa quốc gia.

Tuyên truyền về GMO và xã hội học về khoa học

Vào tháng 4 năm 2014, trang web Gawker tiết lộ các văn bản cho thấy mức độ mà người khổng lồ hóa chất toàn cầu Monsanto can thiệp để kiểm soát các tường thuật về sản phẩm của họ - đặc biệt là các sản phẩm biến đổi gen. Ở mức tối thiểu, Monsanto hợp tác với công ty xuất bản Condé Nast và kêu gọi các tổ chức phi chính phủ (NGO) cần nguồn tài trợ giúp họ tạo ra các video cổ vũ để hỗ trợ các sản phẩm biến đổi gen (GMO). Trong khi tất cả chúng ta đều tin rằng bộ não khoa học/lý trí sẽ nhìn thấu qua sự minh bạch của marketing, hùng biện quan hệ công chúng tồn tại vì nó làm dịu đi các tư tưởng phê phán. 

Mặc dù chiến dịch được Monsanto đề xuất không bao giờ thành hiện thực, nghiên cứu nhanh các bài báo về GMO trong năm quan cho thấy rõ ràng rằng mối quan hệ giữa Monsanto và Condé Nast chưa kết thúc. Bên cạnh đó, Monsanto hầu như chắc chắn đã nắm trong tay một số chiến dịch tuyên truyền khác. Kể từ năm ngoái, hùng biện ủng hộ GMO đã gia tăng đột ngột trên các bài báo tin tức về biến đổi gen. Các văn bản mới được tiết lộ cho thấy nhiều chuyên gia khoa học hợp tác trao đổi thông tin với Monsanto. Nhưng điều nguy hại nhất là toàn bộ các luận điểm hùng biện mới đã lên tuyến đầu, đe dọa bất cứ ai – nhất là các nhà khoa học – là về phát biểu chống lại công nghệ “trụ cột” của họ: Nếu anh chống lại GMO thì anh chống lại khoa học.

Luận điểm mới thể hiện một chiến lược mạnh mẽ thúc đẩy biến đổi gen. Hầu hết người dân không muốn bị coi là chống khoa học, không chỉ nhà báo, công chức hay giới giải trí, và ít nhất là tất cả mọi người không phải là những nhà khoa học giáo dục và đào tạo. Hơn nữa, tuyên truyền đứng về phía cánh tự do ủng hộ khoa học, cáo buộc cánh bảo thủ là phản khoa học do phủ nhận biến đổi khí hậu.

Không giống như biến đổi khí hậu chịu tác động của con người, hiện nay sự an toàn của GMO hoàn toàn không có sự đồng thuận khoa học nào. Trên thực tế, mỗi và mọi GMO mới đều cần được kiểm tra đầy đủ riêng biệt về mức độ an toàn, bởi vì mỗi sự biến đổi gen không chỉ đưa một gen lạ vào bộ gen, mà còn có khả năng tạo ra tác động qua lại giữa các gen trong bộ gen. Quan niệm một gen luôn chỉ kiểm soát một đặc tính đã được coi là quá đơn giản. Luôn luôn là nhiều gen tham gia vào việc tạo ra một đặc tính và các bộ phận của DNA cũng kích hoạt hoặc tắt các đặc tính. Do vậy, đưa gen lạ vào chuỗi DNA có thể vô tình tác động đến các đặc tính khác. 

Bên cạnh đó, hầu hết GMO không được kiểm tra an toàn. Không chỉ chính sách liên bang phán quyết phản khoa học rằng ngũ cốc GMO là “tương đương về mặt vật chất” với ngũ cốc thông thường, các nghiên cứu độc lập về tác động môi trường và sức khỏe (thông qua nghiên cứu về nuôi động vật) đã bị cản trở phần lớn do bản quyền ngăn chặn việc nghiên cứu và sử dụng hạt giống cũng như ngũ cốc biến đổi gen. Nghiên cứu về nuôi động vật đã diễn ra hầu hết là được nghành công nghiệp này tài trợ, đã bị dìm đi với những vấn đề như thức ăn bị nhiễm bẩn và phương pháp nghiên cứu sai lầm tạo ra các kết quả vô giá trị.

Để chắc chắn, chúng ta chỉ cần quay lại năm 2000 để thấy rằng mọi GMO là khác biệt và không phải tất cả đều an toàn để ăn. Năm đó ngô biến đổi gen “StarLink” – không được chấp nhận sử dụng cho người – được thu hồi sau khi chúng được phát hiện trong các sản phẩm từ ngô và có thể tạo ra nhiều tác động tiêu cực tới sức khỏe của con người. 

Tại sao chúng ta lại ủng hộ việc xuyên tạc mối lo ngại về GMO thành dấu hiệu cho thấy sự thiếu kiến thức khoa học của ai đó? Bởi vì một nhóm các nhà khoa học và truyền thông đại chúng được lựa chọn nói với chúng ta như vậy. Ngay cả Jon Stewart cũng ủng hộ tuyên truyền đơn giản này trong một phần của chương trình Daily Show được phát sóng vào ngày 22 tháng 4 năm 2015. Trong đó, ông ấy có một nhà khoa học nông nghiệp ủng hộ biến đổi gen phản đối các nhà hoạt động chống GMO. Ai sẽ được coi là đáng tin cậy hơn? Trái ngược với bản báo cáo dường như cân bằng, chương trình của Stewart ủng hộ quan điểm của những người cung cấp sản phẩm này hơn quan điểm của những người nghiên cứu về tác động của chúng. Điều cần được làm sáng tỏ khi nói về rủi ro công nghệ đầy tranh cãi này là loại nhà khoa học nào có tiếng nói và loại nào không.

Nghiên cứu cho thấy các nhà khoa học phía đầu nguồn – như các lĩnh vực công nghệ sinh học, kỹ thuật viên nông nghiệp, hoặc bất cứ nhà khoa học nào tạo ra công nghệ - ít quan tâm đến những rủi ro tiềm tàng hơn là những nhà khoa học phía cuối nguồn – như các lĩnh vực chăm sóc y tế công cộng, dịch tễ học và giải độc môi trường. Đâu là tiếng nói của các nhà khoa học phía cuối nguồn trong Daily Show? Tôi có mối quan hệ cá nhân với các nhà công nghệ sinh học, những người này nói với tôi rằng họ thậm chí không thừa nhận rủi ro hoặc các hậu quả không mong muốn của công nghệ GMO. Tôi cũng tham gia lớp giải độc học, tại đó các nhà khoa học phía đầu nguồn nói rằng ông ấy và đồng nghiệp không bao giờ tưởng tượng được sự phát triển nhanh chóng và dữ dội của siêu cỏ dại đáp lại ngũ cốc biến đổi gen kháng thuốc diệt cỏ của Monsanto (và sự sử dụng bừa bãi thuốc diệt cỏ). Trong khi đó, các nhà nghiên cứu môi trường đã ngay lập tức dự báo về siêu cỏ dại kháng thuốc diệt cỏ mà các chuyên gia nông nghiệp không biết đến. 

Báo cáo của Jon Stewart về GMO cũng ghi nhận khảo sát mới đây của Pew cho thấy 88% số nhà khoa học được đại diện bằng các thành viên của Hiệp Hội Tiến Bộ Khoa Học Hoa Kỳ (AAAS) – tin rằng GMO là an toàn. Điều mà cả Stewart cũng như Pew không đề cập là bao nhiêu trong số những nhà khoa học đó thành thạo về công nghệ GMO. Mặc dù chúng được đưa vào nguồn cung cấp thực phẩm của Hoa Kỳ vào đầu những năm 1990, giống như hầu hết công chúng và nhà khoa học, đặc biệt là những nhà khoa học có chuyên môn trong những lĩnh vực hoàn toàn khác, biết rất ít về GMO trước năm 2008. Đó là năm mà phim tài liệu “Food Inc.” cho người Mỹ thấy điều mà người Châu Âu và những nước khác trên thế giới đã biết về công nghệ GMO. Liên Minh Châu Âu và các quốc gia khác đã cấm GMO theo nguyên tắc phòng ngừa, hầu hết các quốc gia Châu Âu hiện nay đối mặt với sự phổ biến toàn cầu của Monsanto vẫn tiếp tục cấm công nghệ này. 

Dĩ nhiên 20% số nhà khoa học trong khảo sát của Pew làm việc trực tiếp hoặc gián tiếp về công nghệ biến đổi gen – hoặc phía đầu nguồn hoặc phía cuối nguồn. Nhưng khoa học, cũng giống như các ngành công nghiệp khác, là một cấu trúc xã hội. Vì mục tiêu thăng tiến và duy trì quan hệ với cộng đồng lớn hơn, các nhà khoa học có khuynh hướng ủng hộ các nhà khoa học khác – đặc biệt là những nhà khoa học có tiền và uy tín. Các nhà khoa học phía cuối nguồn phải tạo ra các nghiên cứu không tì vết, chặt chẽ, không thể gây tranh cãi – thậm chí khi họ thực hiện, họ bị cỗ máy quan hệ công chúng có mặt khắp nơi tra hỏi. Các nhà khoa học phía cuối nguồn không phải là một phần lớn của cộng đồng. 

Hãy xem xét khảo sát đã được đề cập của Pew cụ thể hơn: 11% số nhà khoa học không đồng ý về sự an toàn của GMO là các nhà khoa học phía cuối nguồn, đã nghiên cứu hoặc cố gắng nghiên cứu tác động của chúng. Có thể khoảng 10% số nhà khoa học cho rằng GMO an toàn đang phát triển công nghệ này. Có thể 78% cho rằng GMO an toàn có thể hoặc không có kiến thức sâu sắc về GMO, mà chỉ lặp lại lời của đồng nghiệp. Trên thực tế, như Ralph Nader mới đây đã đề cập, ba cựu chủ tịch của AAAS có quan hệ với Monsanto và/hoặc ngành công nghệ sinh học. Các nhà khoa học phía đầu nguồn tạo ra công nghệ sinh học và AAAS không phải là nguồn thông tin khách quan, bất kể chúng ta muốn hay không muốn có họ. 

Cốt lõi trong hùng biện mới của Mosanto là sự ngưỡng mộ công nghệ và vị thế của khoa học trong xã hội của chúng ta. Mặc dù vậy, khoa học và công nghệ không tương đương. Khoa học là nghiên cứu có hệ thống về kiến thức, trong khi công nghệ là ứng dụng các kiến thức đó – cho việc tốt hoặc việc xấu. Khoa học và công nghệ thường xuyên bị công chúng và các nhà khoa học trộn lẫn với nhau. Không quá khi nói rằng các nhà khoa học công nghệ phía đầu nguồn được ưu tiên và ưa thích trong khi các nhà độc học phía cuối nguồn và những người khác luôn bị theo dõi và quấy rầy bởi vì họ đe dọa ngành công nghiệp này. (Xem tiến sĩ Tyrone Hayes, Ignatio Chapela và Gilles-Éric Séralini, là một số ví dụ phổ biến về việc tấn công các nhà khoa học phía cuối nguồn.) Trong khi khoa học phía cuối nguồn, có thể chỉ ra những sự thật kinh hoàng về nguy hiểm, có thể là khó chịu, khoa học phía đầu nguồn thường đầy những điều kỳ diệu và sự náo động của công nghệ. Sự trộn lẫn khoa học và công nghệ thường được ngành công nghiệp GMO khai thác để khuyến khích sự chấp nhận sản phẩm của họ với thẩm quyền về mặt khoa học. 

Chúng ta từng chứng kiến lịch sử vĩ đại của chấp nhận khoa học và đồng thuận về những công nghệ gây tranh cãi, với các tác động rất tai hại. Sự đồng thuận khoa học đó chào hàng về sự an toàn của liệu pháp thay thế hormone, DDT, DES, sử dụng vô tội vạ chiếu xạ tia x, benzene, asbestos, BPA và hút thuốc lá. Công trình sau này của Theo Colborn, một trong những nhà khoa học phía cuối nguồn đầu tiên phát hiện ra nguy cơ của các hóa chất ngăn cản tuyến nội tiết tổng hợp (đã được nhận là vấn đề sức khỏe công cộng nghiêm trọng), cách đây một thập kỷ đã từng bị coi là rác rưởi hay giả mạo khoa học. 

Trong tuần này, thượng viện Hoa Kỳ bỏ phiếu cho dự luật ngăn cản công chúng biết về GMO trong thực phẩm của họ. Dự luật H. R. 1599 đã được thông qua ở Hạ Viện, bị (các nhóm bảo vệ thực phẩm) gọi là “Luật DARK (Phủ Nhận Quyền Được Biết của Người Mỹ)”, sẽ bãi bỏ nhãn GMO trên nguồn cung cấp thực phẩm của chúng ta. Theo thói quen của ngành và chính quyền phục vụ cho thói quen ấy, đạo luật này được gán tên nhại chính thức theo kiểu Orwell là “Luật Dán Nhãn Thực Phẩm An Toàn và Chính Xác”, mặc dù đạo luật không liên quan. 

Từ những phán quyết khoa học sai lầm trong lịch sử, chúng ta không nên chịu sự áp bức, phải chấp nhận mù quáng một công nghệ đáng ngờ. Như hiện nay, GMO không mang lại gì cho xã hội ngoài việc làm đầy túi tiền của những người khổng lồ hóa chất nông nghiệp tỷ dollar đang sản xuất ra chúng. Chúng không phải nạn đói không thể tránh khỏi, chúng không gia tăng sự bền vững của môi trường; lợi ích công cộng bị thổi phồng của chúng chưa được hiện thực hóa. Câu hỏi về giá trị khoa học và xã hội của chúng – và rủi ro – mang tính quyết định khoa học trong cốt lõi của vấn đề. Ít nhất là công chúng có quyền được biết rõ về thực phẩm mà họ ăn. Mọi thứ khác đều là sự xâm phạm quyền của người dân Mỹ và trên hết, tự bản thân chúng là phản khoa học.

Kristine Mattis received her PhD in Environmental Studies. As an interdisciplinary environmental scholar with a background in biology, earth system science, and policy, her research focuses on environmental risk information and science communication. Before returning to graduate school, Kristine worked as a medical researcher, as a science reporter for the U.S. Congressional Record, and as a science and health teacher. She can be reached at: k_mattis@outlook.com.