Friday, May 22, 2015

Tại sao người Mỹ da màu chống lại TPP?

Trong khi tổng thống da màu đầu tiên của Hoa Kỳ đang tìm mọi cách để thúc đẩy TPP thì các đồng bào cùng màu da của ông lại kịch liệt phản đối hiệp định đó. Mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Black America and the Political Economy of Neoliberal Trade Deals" của tác giả Ajamu Baraka để biết chi tiết.

Người Mỹ da màu và kinh tế chính trị của hiệp định thương mại tân tự do

Tổng thống Obama và phe dân chủ doanh nghiệp vẫn tiếp tục thúc ép quốc hội giao cho Obama quyền thúc đẩy thương mại (TPA), hay còn được gọi là ủy quyền theo dõi nhanh, để hoàn tất hiệp định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), vốn đứng đầu bảng của thứ độc hại được gọi là hiệp định thương mại tự do. 

Trang web Xả nước TPP (1), một nguồn chủ chốt của phong trào chống TPP mô tả TPP là: “Một hiệp định thương mại bí mật … đe dọa phá hủy nền dân chủ bằng cách đưa cánh tay quyền lực của doanh nghiệp vào mọi lĩnh vực của đời sống, từ an toàn thực phẩm và môi trường, tới quyền của người lao động và tiếp cận bảo hiểm y tế, TPP còn hơn cả thương mại. Đó là một vụ đảo chính toàn cầu của doanh nghiệp.”

Trong quá trình tổ chức phản công để ngăn cản ủy quyền theo dõi nhanh cho tổng thống Obama nhằm hoàn tất TPP và tuồn nó vào quốc hội ở phía sau lưng người dân, tôi viết về sự thật cho thấy trong một số nhóm da màu có sự lưỡng lự khi phải đưa ra sự ưu tiên cho TPP, đó là một vấn đề quan trọng của người Mỹ gốc Phi.

Mặc dù vậy, suốt tuần qua các tổ chức của người Mỹ gốc Phi đã tập hợp vào phía phản đối TPP và quyết định rằng đánh bại nó là sư ưu tiên trước mắt của người da màu, ngay cả khi một số thành viên của Khối Nghị Sĩ Da Màu đang dao động trong sự đối lập ban đầu của họ dưới sức ép của chính quyền Obama. 

Saladin Muhammad, nhà tổ chức công đoàn lâu năm, cựu thành viên của Phong Trào Giải Phóng Người Da Màu và người phát ngôn của tổ chức Công Nhân Da Màu vì Công Lý, tóm tắt quan điểm của một số nhà hoạt động da màu, những người coi chủ nghĩa tư bản tân tự do là kẻ thù: “các chính sách cơ bản của chủ nghĩa tư bản toàn cầu như TPP, phải bị giai cấp lao động da màu phản đối và đấu tranh như là một phần của nỗ lực giải phóng người da màu và thay đổi xã hội.”

Logic trong bình luận của Saladin dựa trên phân tích phê phán về quan hệ giữa người Mỹ gốc Phi và kinh tế chính trị tư bản chủ nghĩa, cho rằng việc hạ thấp các điều kiện tồn tại của giai cấp lao động da màu ở Hoa Kỳ được sản xuất và tái sản xuất ra như là kết quả của logic nội tại của hệ thống này.

Do sự hạ thấp và phi nhân hóa các điều kiện đặc trưng cho sự tồn tại của giai cấp lao động da màu đã được hệ thống này thừa hưởng và không thể thay đổi bằng các cải cách của chủ nghĩa tư bản tự do, vị trí chống tư bản là vị trí chính trị hợp lý duy nhất mà người Mỹ gốc Phi có thể đặt mình vào.

Chủ nghĩa tư bản chứ không phải văn hóa 

“Sự hình thành hiện nay của cái được gọi là hiệp định “thương mại tự do” là phiên bản tân tự do đẹp đẽ và lịch thiệp nhất của những thứ tương tự. Đối với đại đa số người lao động da màu, những người đang héo mòn mà không có trợ cấp ở dưới đáy của nền kinh tế, những thỏa thuận như vậy chỉ thúc đẩy sự bóc lột kéo dài, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc thú vật, phá hủy các công việc tốt và các cơ hội bình đẳng.”

— Jaribu Hill, Giám đốc điều hành Trung Tâm Nhân Quyền của Công Nhân

Trái với thứ văn hóa của sự nghèo khổ vô nghĩa mà Obama và đám tân bảo thủ của ông ta đưa ra để giải thích tại sao người Mỹ gốc Phi tham gia vào sự phản kháng “không được chấp nhận” ở những nơi như Baltimore, nguồn gốc thật sự của các điều kiện sản sinh ra sự phản kháng nằm trong phạm vi bối cảnh của các chính sách tân tự do tương tự mà Obama và TPP đã áp đặt. 

Một số các học giả đã khẳng định rằng toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa có tác động rất tiêu cực đến người Mỹ gốc Phi trong bốn thập kỷ qua.

Tái cơ cấu tân tự do kinh tế quốc gia bắt đầu vào những năm 1970 và được tăng tốc dưới thời Reagan vào những năm 1980 đưa đến một thời kỳ kinh tế đình trệ và suy thoái ở Hoa Kỳ, mà từ đó chúng ta chưa bao giờ hồi phục. Không phải là cuộc đời trải đầy hoa hồng cho những người Mỹ gốc Phi di cư bỏ trốn các điều kiện tồi tệ của phương Nam trong Thế Chiến thứ II và những năm sau đó. Mặc dù vậy, cũng có một số tiến bộ tương đối về kinh tế tuy không đồng đều, vào thời kỳ ngay sau chiến tranh thì người Mỹ gốc Phi còn có thể kiếm được công việc ở vùng trung tâm công nghiệp của đất nước.

Tuy vậy, hoàn cảnh luôn bấp bênh của công nhân da màu và sự tương đối yếu của tầng lớp trung lưu da màu đã biến thành sự khủng hoảng nghiêm trọng sau khi chủ nghĩa tư bản sụp đổ vào năm 2008.

Nhiều gia đình và cá nhân trong mọi lĩnh vực của xã hội phải trải qua các tác động tàn phá của khủng hoảng kinh tế - ngoại trừ giới siêu giàu – cuộc khủng hoảng đối với Mỹ gốc Phi thực sự là một thảm họa. 

Tổn thất về của cải, thu nhập và sự tham gia lực lượng lao động đã tước đi một phần lớn quân số của tầng lớp trung lưu da màu nhỏ bé và dễ tổn thương, đẩy công nhân da màu vào sự nghèo khổ vô vọng. Tuy vậy, cuộc khủng hoảng mới nhất của chủ nghĩa tư bản đã tiết lộ một số điều đáng sợ hơn về công nhân da màu.

Khủng hoảng kinh tế không chỉ tước đi sự giàu có ảo tưởng được tạo ra bằng tín dụng dễ dãi cho đa số công nhân, những người chưa từng thấy lương thực tế tăng lên trong nhiều thập kỷ và phải nhặt nhạnh từng đồng, mà nó cũng vô tình tiết lộ sự thật câm lặng đối với đại đa số người lao động thất nghiệp da màu: họ bị loại khỏi danh sách “đạo quân thất nghiệp dự trữ” – lao động sẵn sàng được thuê khi nền kinh tế hồi phục – và đưa sang danh sách lao động dư thừa. Điều cay đắng đó có nghĩa là người da màu trở thành lực lượng lao động và dân cư không còn được cần đến trong nền kinh tế của Hoa Kỳ.

Hiện nay tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam giới da màu đang ở mức thấp kỷ lục. Tình cảnh của phụ nữ da màu còn bấp bênh hơn, mặc dù tỷ lệ lao động của họ có chút cao hơn. Tuy vậy, tỷ lệ tham gia vào nền kinh tế tăng lên của phụ nữ da màu cũng cho thấy sự thật là họ đang phải gánh vác trách nhiệm lớn hơn khi không chỉ chăm sóc cho bản thân mà còn phải chăm sóc cho con cái. Linda Burnham đã chỉ ra một hiện tượng kinh tế bổ sung mà phụ nữ da màu phải đối mặt và điều đó là bởi vì phụ nữ da màu tập trung quá đông trong các khu vực lương thấp, họ phải chịu đựng cả sự phân biệt về giới tính lẫn chủng tộc trong tiền lương.

Bị hạn chế trong khu vực dịch vụ lương quá thấp và bất ổn nên không có gì ngạc nhiên khi sự nhóm vô gia cư tăng trưởng nhanh nhất ở Hoa Kỳ là phụ nữ và trẻ em da màu.

Toàn cầu hóa tân tự do cũng có tác động tàn phá đối với người lao động ở những thành phố như Baltimore. Các cộng đồng bị chia rẽ và nghèo đói tồn tại ở thanh phố này không chỉ dẫn đến việc các ông bố không ở nhà hay người da màu không nắm bắt được cơ hội mà còn trực tiếp tạo ra sự tổn thất 100.000 việc làm chế tạo và liên quan đến cảng biển không thuộc công đoàn ở Baltimore, khi những công việc này được doanh nghiệp và tư bản tài chính chuyển ra khỏi Hoa Kỳ. Việc đóng của xưởng Sparrows của hãng thép Bethlehem với 35.000 lao động và sự cắt giảm quy mô lớn các công việc ở cảng là những đòn khiến cộng đồng người lao động ở Baltimore không bao giờ hồi phục. 

Hiện thực kinh khủng mà ngày càng có nhiều người Mỹ gốc Phi phải đối mặt là Hoa Kỳ tiếp tục chuyển sang nền kinh tế lao động ít kỹ năng, lương thấp, lực lượng lao động cũng bị thu hẹp, kết quả là phần lớn công nhân da màu và người nghèo không thể kiếm được một công việc toàn thời gian trong suốt cuộc đời của họ!

Những ai đủ may mắn để kiếm được một công việc, những công việc mới được dự tính ở Hoa Kỳ sẽ là những việc lương thấp như đồ ăn nhanh, sơ chế thực phẩm, bán lẻ và trợ giúp chăm sóc sức khỏe.

Sự đoàn kết Bắc-Nam trong nỗ lực chấm dứt áp bức toàn cầu

Khủng hoảng hệ thống của chủ nghĩa tư bản dẫn đến các ông trùm tài chính và chủ nghĩa tư bản tự do xếp hàng để được nhà nước giải cứu trong năm 2008 đã cho thấy sự thất bại rõ ràng của chủ nghĩa tư bản tân tự do trong vai trò là chiến lược dài hạn, thiết yếu cho sự tiến bộ của chủ nghĩa tư bản.

Điều này đúng ở trung tâm chủ nghĩa tư bản cũng như các thành phần của hệ thống toàn cầu. Đó là lý do người da màu phản đối các hiệp định thương mại tân tự do không chỉ dựa vào vào các tác động tiêu cực của chúng đối với người da màu ở Hoa Kỳ mà còn dựa vào sự thừa nhận về một chương trình chung với những người dân bị bóc lột và bị đô hộ trên thế giới trong việc chấm dứt sự áp bức toàn cầu của chủ nghĩa tư bản.

Việc chống lại TPP và thương mại tự do phải được nhìn từ quan điểm đấu tranh thống nhất đối với sự củng cố tiếp theo của đế quốc Hoa Kỳ. Jaribu Hill nhắc nhở chúng ta rằng “tự do là tên gọi nhầm của kiểm soát và duy trì status quo, luôn đòi hỏi những người bị áp bức phải chịu đựng hơn nữa đồng thời tối đa hóa lợi nhuận được tạo ra trên lưng của họ và tổn thất an sinh của họ, đúng vậy đấy, cuộc sống của họ.” 

Người da màu phản đối TPP bởi vì chúng ta hiểu rằng công nhân ở Việt Nam, trước hết là phụ nữ, đã được sắp đặt cho siêu bóc lột trong các điều khoản của hiệp định đó. Chúng ta hiểu rằng với hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ (NAFTA) thì hàng triệu nông dân đã bị đẩy khỏi đất đai của họ ở những nơi như Oaxaca, Mexico và trở thành những người nghèo đô thị không đất đai ở Mexico hoặc làm việc bất hợp pháp ở Hoa Kỳ với đồng lương nô lệ. 

Chúng ta chống lại TPP bởi vì thương mại tự do tân tự do giữa Hoa Kỳ và Colombia đã dẫn đến sự gia tăng mất đất của người Colombia gốc Phi cũng như đất đai của họ bị đánh cắp cho các hầm mỏ bất hợp pháp và sự mở rộng chế biến dầu cọ và mía đường cho nhiên liệu sinh học để cung cấp cho thị trường Châu Âu và Hoa Kỳ.

Ngay cả khi tầng lớp thống trị của những đất nước tham gia hiệp định quy phục Chú Sam thì chúng ta vẫn chống lại TPP với danh nghĩa của nhân dân ở Nam bán cầu.

Đối với những người hỏi tại sao người da màu hoài nghi và chống lại các hiệp định thương mại tự do, chúng ta chỉ vào lịch sử và nói rằng nếu có bất cứ ai trên hành tinh cần hoài nghi cái được gọi là thương mại tự do thì đó phải là hậu duệ của những người đã bị chế độ thương mại dã man nhất trong lịch sử trái đất làm tổn hại. (2) 

Ajamu Baraka is interviewed in Episode 3 of CounterPunch Radio, available for free here.

Ajamu Baraka is a human rights activist, organizer and geo-political analyst. Baraka is an Associate Fellow at the Institute for Policy Studies (IPS) in Washington, D.C. and editor and contributing columnist for the Black Agenda Report. He is a contributor to “Killing Trayvons: An Anthology of American Violence” (Counterpunch Books, 2014). He can be reached at www.AjamuBaraka.com

Chú thích của người dịch:

(1): Tên của tổ chức này có nghĩa là xả nước bồn cầu, ý muốn nói TPP là một thứ rác rưởi cần được được xả nước cho trôi đi.
(2): Tác giả muốn ám chỉ chế độ buôn bán nô lệ da màu trước kia.

Wednesday, May 20, 2015

Việt Nam: Chiến tranh vẫn chưa qua đi

Chiến tranh Việt Nam vẫn chưa kết thúc ở nước Mỹ, ít nhất là với chính quyền và truyền thông của họ, cuộc chiến dai dẳng của những người Mỹ tiến bộ chống lại âm mưu xét lại cuộc chiến về mặt lịch sử để biện minh cho sự sai trái của chính quyền vẫn tiếp tục. Đó là nội dung bài viết "Vietnam: The war that won’t go away" của tác giả Don North đăng trên tạp chí Coldtype số 98 tháng 5 năm 2015.

Việt Nam: Chiến tranh vẫn chưa qua đi

Chiến tranh diễn ra hai lần, lần thứ nhất trên chiến trường và lần thứ hai trong hồi tưởng. Theo cách đó, chiến tranh Việt Nam – mặc dù nó đã kết thúc trên chiến trường 40 năm trước đây – vẫn tiếp tục là cuộc chiến của hồi ức, lịch sử và sự thật. Phần đặt cược vẫn cao. Những tường thuật trung thực nhất về các sự kiện quan trọng của quá khứ có thể phác thảo định mệnh của chúng ta, giúp ích cho việc quyết định xem có nên có thêm chiến tranh hay hòa bình. Vài năm trước đây, tôi vui mừng khi được biết Lầu Năm Góc tài trợ cho một ủy ban kỷ niệm chiến tranh Việt Nam. Tôi cho rằng cuối cùng chúng ta cũng có thể ghi nhận một cách thẳng thắn. Nhưng tôi không cần phải đọc thêm gì ngoài các trích dẫn chủ chốt trên đầu website mới để biết điều đó không xảy ra.

Trích dẫn tổng thống Richard Nixon, đó là: “Không có sự kiện nào trong lịch sử bị hiểu nhầm nhiều hơn chiến tranh Việt Nam. Nó đã bị tường thuật sai lệch vào lúc đó và giờ thì bị hiểu nhầm.”

Tôi thuộc về nhóm nhỏ các nhà báo đưa tin về cuộc chiến. Chúng tôi tự gọi bản thân là “Những gã bồi bút già của Việt Nam” và chúng tôi đã thực hành kha khá công việc mà đoạn trích dẫn đề cập kể từ khi nó bất tử hóa điều hoang đường rằng cuộc chiến tranh sẽ không thất bại nếu không có những từ ngữ làm nản lòng của một số phóng viên. Tôi viết một lá thư cho chủ tịch ủy ban kỷ niệm, trung tướng nghỉ hưu Claude Kicklighter, phản đối sự vu khống đối với hàng ngàn nhà báo, những người đã cố gắng đưa tin trung thực về cuộc chiến, một lời vu khống của tổng thống Hoa Kỳ, người đầu tiên phải chịu trách nhiệm cho việc đánh lừa công chúng về chiến tranh.

Tôi đã quấy nhiễu ủy ban nhiều tháng nhưng họ chỉ miễn cưỡng rút lại đoạn trích dẫn. Tôi tranh thủ tình cảm của những người bạn ở Trung Tâm Lịch Sử của Quân Đội Hoa Kỳ, những người đề xuất với ủy ban là đoạn trích dẫn không thể chấp nhận được. Sau sáu tháng với những lý lẽ sắc bén, cuối cùng họ cũng rút lại đoạn trích dẫn. Nhưng nhiều điều hoang đường và lừa dối về chiến tranh Việt Nam vẫn còn ở trên website. 
————————
Bốn thập kỷ trước đây Hoa Kỳ gánh chịu thất bại trong một cuộc chiến không thể thắng, chống lại một quốc gia mà họ thực sự chẳng biết gì và ở đó họ không có các lợi ích sống còn. Sau những vô vọng ở Việt Nam thì việc lặp lại một cách kiêu ngạo những năm tháng điên rồ sau đó ở Afghanistan và Iraq là không thể tha thứ. Một bài học mà quân đội Hoa Kỳ đã học được ở Việt Nam là hình ảnh và bài viết có thể mang tới tác động tàn phá và dẫn đến yêu cầu trách nhiệm giải trình. Dường như các phóng viên chiến tranh sẽ không bao giờ còn được tiếp cận chiến tranh tự do như chúng tôi từng có ở Việt Nam.

Điều gì sai? Một trong những điều hoang đường phổ biến và dai dẳng là Hoa Kỳ đã bị các phóng viên không trung thành lừa dối. Ngay cả tư lệnh quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam, tướng William Westmoreland, cũng bám lấy câu chuyện cũ rích đó.

Có vẻ như cho dù các nhà sử học – thậm chí là sử học quân sự - phản đối điều hoang đường đó bao nhiêu lần đi nữa, họ ghi nhận rằng báo chí Hoa Kỳ đã thực hiện tương đối tốt việc đưa tin về một cuộc chiến tranh phức tạp và nguy hiểm, thì cũng chả hề hấn gì. Điều hoang đường về các nhà báo không trung thành, họ phải bị trừng phạt, là thứ cần thay đổi để chiến thắng của Hoa Kỳ quay trở lại.

Cuộc sống của tôi ở Việt Nam

Tôi đến Việt Nam vào tháng 5 năm 1965, là một phóng viên trẻ và háo hức từ Canada. Tôi cũng giống như hàng trăm người sẽ trở thành nhà báo khác, đi tới chiến trường để đưa tin về chiến tranh như những người hành nghề tự do, chuyển đến khi cuộc chiến tranh đàn áp nổi dậy biến thành một cuộc chiến tranh toàn diện ở Châu Á. Giống như nhiều người trong số chúng tôi, đầu tiên tôi cũng tin vào lý lẽ của Washington – bảo vệ nền dân chủ nhỏ bé khỏi sự chiếm đoạt của những người Cộng Sản và khởi đầu chuỗi domino đổ ở Châu Á.

Mặc dù vậy, sự thật không cần lâu để học. Vào lúc đó, Hoa Kỳ đã hưởng lợi từ một số nhà báo nổi bật, những người thực hiện công việc của họ nghiêm túc – và nhiều người ở mặt trận, đưa tin về khoảng cách giữa màn PR sặc sỡ và thực tế khắc nghiệt.

Ví dụ người bạn của tôi, David Halberstam của tờ New York Times, nói với tôi về trận chiến lịch sử ở châu thổ sông Mekong vào cuối năm 1962 khi thực tế trận chiến đã trở thành bằng chứng. Hàng trăm máy bay trực thăng Hoa Kỳ đã đến Việt Nam, hứa hẹn một sự vượt trội về công nghệ mới để đánh bại Việt Cộng. Vào ngày đầu tiên của trận chiến, một số Việt Cộng bị giết. Vào ngày thứ hai, một cuộc tấn công khổng lồ bằng máy bay trực thăng được tiến hành nhưng không có gì xảy ra. Vào ngày thứ ba, điều tương tự diễn ra, không kẻ thù, không chiến trận. Trên đường trở về Sài Gòn, Neil Sheehan, sau đó với UPI, càu nhàu về sự lãng phí thời gian. Homer Bigart, một phóng viên của tờ New York Times có kinh nghiệm từ Thế Chiến thứ II nói, “Có vấn đề gì vậy, ngài Sheehan?” Sheehan cằn nhằn về việc mất ba ngày bay trên các cánh đồng lúa và không có câu chuyện nào để viết. “Không có chuyện gì”, Bigart bình luận hơi có chút ngạc nhiên. “Nhưng có chuyện đấy. Chiến dịch không thành công. Đó là câu chuyện, thưa ngài Sheehan.”

Chiến lược của Hoa Kỳ ở Việt Nam không thành công, chưa từng thành công bất cứ khi nào. Nhưng cái giá của sự điên rồ rất cao. Người Việt Nam phải gánh chịu 2 triệu cái chết của thường dân, nhiều người chết trong các trận bom lớn nhất trong lịch sử. Theo nhiều cách, những lính trẻ Hoa Kỳ, những người bị ném vào Việt Nam, cũng là nạn nhân khi họ thấy bản thân chỉ được chuẩn bị một cách tồi tàn cho trận chiến đàn áp khắc nghiệt và tàn bạo, thường diễn ra trong các ngôi làng với phụ nữ và trẻ em. 58.000 binh lính Hoa Kỳ đã chết trong cuộc chiến và nhiều người bị tổn thương thể chất hoặc tâm lý.

Việt Nam không phải hoàn toàn là câu chuyện cũ. Bom mìn chưa nổ, ung thư do hóa chất gây ra và di chứng của chất độc màu da cam tiếp tục giết hại, làm bị thương và gây dị dạng. Nick Turse, người viết cuốn sách “Giết hết mọi thứ động đậy,” đã khẳng định: “Việc Hoa Kỳ sử dụng một cách nhẫn tâm sức mạnh gây ra tổn thất dân sự ở Việt Nam là yếu tố cốt lõi của cuộc chiến tranh. Tôi hỏi xem Henry Kissinger của ngày hôm nay, nhóm quản lý chiến tranh mới nhất của Washington, có sẵn sàng thừa nhận điều đó hơn Kissinger của ngày hôm qua không.”
————————
Tôi vừa trở về sau chuyến đi Việt Nam và Campuchia kéo dài 3 tuần và thấy rằng có nhiều người ở Việt Nam cũng như ở Hoa Kỳ vẫn chưa sẵn sàng nghe những tiếng nói trung thực về cuộc chiến tranh.

Trong một cuộc chiến đầy những điều bất ngờ, không có bất ngờ nào lớn hơn cuộc tấn công đại sứ quán Hoa Kỳ trong dịp Tết vào ngày 31 tháng 1 năm 1968. Các chuyên gia phân tích quân sự nói rằng cách duy nhất để tạo ra một bất ngờ quyết định trong chiến tranh là làm điều gì đó thật sự ngớ ngẩn, 15 đặc công Việt Cộng thực hiện cuộc tấn công vào đại sứ quán được huấn luyện tồi và thiếu chuẩn bị, nhưng tác động của nó đã tạo ra một bước ngoặt của chiến tranh và trở thành một đoạn đáng chú ý trong lịch sử quân sự.

Ngày nay tòa đại sứ Hoa Kỳ từng đứng vững trong cuộc tấn công đã bị phá bỏ và thay thế bằng một lãnh sự Hoa Kỳ hiện đại. Một phiến đá nhỏ trong vườn, xa cách công chúng, ghi tên của bảy lính thủy và một cảnh sát quân sự đã chết ở đây. Trên vỉa hè bên ngoài cửa lãnh sự là một đài tưởng niệm bằng gạch khắc tên những đặc công việt cộng và các điệp viên đã chết. 

Tôi không thể hình dung được khung cảnh mà PFC quân đội Hoa Kỳ Bill Sebast và đặc công Việt Cộng Nguyễn Văn Sáu, hai người lính đã chết ở hai phía tường của đại sứ quán, có thể quay trở lại để ngạc nhiên về sự tiến bộ kinh tế của Sài Gòn, với việc Việt Nam và Hoa Kỳ đã bỏ qua sự thù hằn cũ để trở thành các đối tác thương mại đáng giá.

Lần đầu tiên, Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao Việt Nam đối xử với những gã bồi bút già chúng tôi như những người đáng để biết, quan tâm tới kiến thức của chúng tôi về cuộc chiến đẫm máu mà chúng tôi từng đưa tin. Sự thật là Việt Nam hiện nay quan ngại hơn về người hàng xóm khổng lồ Trung Quốc ở phía bắc, thậm chí tìm kiếm ở Hoa Kỳ một sự đối trọng với khuynh hướng gia tăng sự ảnh hưởng của Trung Quốc. 

Phán xét nhà báo 

Thế còn đề xuất mới đây của Lầu Năm Góc về việc cánh nhà báo chúng ta “đưa tin sai về chiến tranh”? Tôi có hài lòng với việc đưa tin của mình về chiến tranh Việt Nam không? Không. Tôi cho rằng đầu tiên là sự ngu dốt về lịch sử và văn hóa Việt Nam và sau đó là sự giới hạn của tin tức truyền hình đôi khi che dấu sự thật. Một phút rưỡi là tối đa cho một tin tức buổi tối. Gần như không đủ thời gian để mô tả các sự kiện phức tạp của chiến tranh Việt Nam. 

Tôi cũng biết các biên tập viên của ABC News ở New York miễn cưỡng đưa tin tiêu cực về chiến tranh. Các tường thuật phê phán đã bị loại bỏ thẳng thừng hoặc biến mất một cách bí ẩn trước giờ lên sóng. Chỉ có một sự kiểm duyệt duy nhất mà tôi từng thấy ở hãng thông tấn của mình. Tại đại sứ quán Hoa Kỳ, khi đặc công Việt Cộng cuối cùng bị giết hay bị bắt, tôi nhanh chóng quay phim một “đoạn độc thoại”. Để kết thúc bản tin, tôi nói, “Kể từ Tết âm lịch, Việt Cộng và người Bắc Việt đã chứng tỏ rằng họ có thể đạt được những hoạt động quân sự mạnh mẽ và ấn tượng mà người Mỹ không bao giờ có thể tưởng tượng được. Họ cũng cho thấy có thể theo đuổi cuộc chiến tranh này một cách lâu dài.

“Điều thay đổi cuộc chiến đã diễn ra, việc chiếm giữ tòa đại sứ Hoa Kỳ trong bảy giờ đồng hồ là một thắng lợi tinh thần sẽ thu hút và khích lệ Việt Cộng. Don North của ABC News Sài Gòn.”

Phân tích tức thời của tôi không bao giờ được lên sóng ở ABC News. Tôi bị cáo buộc là “biên tập” và đoạn độc thoại bị một số nhà sản xuất loại bỏ khỏi chương trình tin tức buổi tối. Mặc dù vậy, nực cười là đoạn độc thoại cùng với những trích đoạn khác nằm trong “Thư viện Simon Grinberg của ABC” sau đó đã được nhà sản xuất Peter David tìm thấy và sử dụng cho bộ phim được giải của Viện Hàn Lâm “Những trái tim và tâm hồn”

Rõ ràng là sự thật về chiến tranh Việt Nam thường xuyên bị che giấu nhưng không phải theo kiểu trong trích dẫn của Nixon. Hầu hết tin tức của truyền thông Hoa Kỳ về cuộc chiến tranh đều quá lạc quan – không phải là quá khắc nghiệt. Báo chí chính xác hơn đã thường xuyên phản đối điều mà Neil Sheehan sau đó gọi là “Lời nói dối tỏa sáng,” một khúc PR lạc quan cho cuộc chiến tranh sai lầm.

Không có gì được học 

Những bài học về Việt Nam - được thảo luận vô vọng suốt nửa thế kỷ - đã dạy Washington rất ít nên những kẻ diều hâu hiếu chiến ngày nay lặp lại những sai lầm tương tự như Việt Nam ở Afghanistan và Iraq – sự ngạo mạn tương tự, sự lệ thuộc tương tự vào công nghệ và tuyên truyền, sự ngu dốt tương tự về văn hóa nước ngoài phức tạp.

Đâu là bài học thật sự đã được học về báo chí trong chiến tranh Việt Nam? Bất chấp sự khó khăn, kiểm duyệt và sự hoang mang của chiến tranh, tôi tin rằng nhiều bản tin của chúng tôi về Việt Nam là chính xác và đã đứng vững với sự thử thách của thời gian. Mặc dù vậy, các bản tin chiến tranh của Hoa Kỳ ngày nay có cải thiện chính sách đối ngoại Hoa Kỳ chút nào không?

Mark Twain đã có lần viết về thứ mà tôi cho là nghịch lý chủ chốt của thời đại chúng ta. Ông nói, “Nếu bạn không đọc báo thì bạn thiếu thông tin. Nếu bạn đọc báo thì bạn bị thông tin sai.”

Phóng viên vĩ đại A. J. Liebling của tờ Baltimore Sun đã có lần nói, “Báo chí là cái giát giường yếu của chiếc giường dân chủ.” Bill Moyes, khi còn ở PBS, đã mượn ý tưởng của Liebling, khi ông viết: “Sau cuộc xâm lược Iraq, chiếc giát gường đã gẫy và một số người mới nằm trên giường ngã ra sàn … các nhà báo chính quyền, những kẻ luận chiến tân bảo thủ, các học giả bâu xâu, những kẻ khiêu chiến cánh hữu phất lá cờ đầu lâu xương chéo của “sư đoàn cân bằng và công bằng.” Những khẩu súng phòng không của chính quyền có những lỗ hổng bị che dấu chế tạo ra những lời dối trá … tất cả nô đùa trên tấm nệm trong màn dạo đầu của dịch bệnh. 

Hàng ngàn người thiệt mạng và hàng tỷ dollar sau đó, đa số những người đồng mưu truyền thông dính líu vào “hành động tàn bạo” vẫn tỏa sáng, vẫn được chào đón, vẫn được giữ lại mà lời xin lỗi không khác gì một người dự báo thời tiết sai lầm về nhiệt độ trong ngày tiếp theo. 

Dạng tương tự của “tư tưởng nhóm” và thù địch với người có ý kiến đối lập đã cho thấy sự tai hại ở Việt Nam nửa thế kỷ trước đây và ở Iraq một thập kỷ trước đây lại một lần nữa là lá số tử vi của Washington ngày nay. Tờ New York Times và Washington Post nằm trên bậc cửa nhà tôi mỗi ngày và tôi bị thôi thúc đọc xem hệ tư tưởng tân bảo thủ đã nắm quyền kiểm soát trang xã luận ra sao, một sự phát triển khiến mọi người Mỹ lo ngại. Sức mạnh quân sự không thể tránh khỏi được khuyến nghị trước hết, thay vì là giải pháp cuối cùng. Đề xuất về việc xem xét cuộc xung đột từ các quan điểm khác bị coi như là đầu đất và không phải người Mỹ. Trái lại, rất đơn giản để nói hung hăng và phất cờ, trong khi phung phí tiền thuế quốc gia vào các trang thiết bị quân sự và phiêu lưu quân sự, ngay cả khi hàng triệu gia đình Hoa Kỳ tuột xuống bờ vực nghèo đói. 

Ở West Point và tháng 5 vừa qua, tổng thống Obama thừa nhận, “Một trong những sai lầm đắt giá nhất của chúng ta là từ sự sẵn sàng lao vào các cuộc phiêu lưu quân sự mà không hề nghĩ tới hậu quả, chứ không phải từ sự kiềm chế. Cho dù chúng ta là cái búa tốt nhất thì điều đó không có nghĩa là mọi vấn đề đều là chiếc đinh.”

Don North is a veteran war correspondent who covered the Vietnam War and many other conflicts around the world. He is the author of a new book, “Inappropriate Conduct,” the story of a Canadian World War II correspondent whose career was crushed by the intrigue he uncovered.

Chính quyền Hoa Kỳ đã diễn bài "mượn gió bẻ măng" ra sao?

Những vụ đột nhập được coi là của Nga đang trở thành cái cớ để chính quyền biện minh cho việc kiểm soát gắt gao hơn nữa người dân Mỹ. Đó là nội dung bài viết "Who hacked White House" của Justin Raimondo đăng trên tạp chí ColdType số 98 tháng 5 năm 2015. Tiêu đề do người dịch đặt

Khi vụ đột nhập hệ thống máy tính của hãng Sony tạo ra một mớ hỗn độn nực cười, một số “chuyên gia” con cưng của chính quyền đã nhanh chóng lên án Bắc Triều Tiên. Lý do: Do Sony phát hành một bộ phim tuyên truyền chống Triều Tiên, rõ ràng là Vua Jong-un phải chịu trách nhiệm cá nhân. Bên cạnh đó, vụ tấn công có vẻ như xuất phát từ khu vực không gian ảo mà siêu cấu trúc Internet đáng khinh của Triều Tiên tọa lạc. 

Chỉ có một vấn đề với kịch bản thật là dễ chịu này: nó chả có gì ngoài giả định. Một số chuyên gia máy tính – không có liên hệ với chính quyền – đã kịch liệt phản đối giải thích này, ngược lại đã chỉ ra sự thoải mái mà kẻ đột nhập xâm nhập vào hệ thống cho thấy đó chắc chắn là một công việc ở bên trong, công việc của một nhân viên với kiến thức chuyên sâu về hệ thống và là một sự trả thù đối với Sony. Thực tế là cá nhân đó đã nhanh chóng được xác định: một cựu nhân viên mới bị sa thải và thề sẽ trả thù. Mặc dù vậy, Washington với lý do riêng đã phớt lờ bằng chứng hiếm hoi đó và bám lấy câu chuyện của họ: các “chuyên gia” con cưng, những người có lợi ích kinh tế riêng trong việc thổi phồng “mối đe dọa” giả định do những kẻ đột nhật phục vụ cho kẻ thù nước ngoài gây ra – tất cả đều để đảm bảo rằng từng đồng tiền thuế nhỏ sẽ tiếp tục đổ đầy túi của họ.

Giờ chúng ta có một vụ đột nhập khác, được cho là đến từ Nga. Tờ New York Time đưa tin:

“Việc một số thư điện tử của tổng thống Obama đã bị các hacker Nga thu gom thông qua một lỗ hổng của hệ thống máy tính bí mật của Nhà Trắng không chỉ là đột nhập và phiền nhiễu như đã được thừa nhận công khai, theo một kết luận ngắn của quan chức cấp cao Hoa Kỳ trong cuộc điều tra.” 

Không hề có một mẩu bằng chứng nào như danh tính hay quốc tịch của hacker được đưa ra ngoại trừ sự khẳng định của các quan chức chính quyền nặc danh. Chúng ta phải chờ cho đến 7 đoạn sau để đọc được rằng họ “phỏng đoán là có liên hệ với chính quyền Nga, nếu không phải là làm việc cho chính quyền Nga.”

Một vài đoạn sau đó, ở gần cuối cùng, chúng ta thấy:

“Đây là một trong những kẻ đột nhập tinh vi nhất mà chúng ta từng gặp,” một quan chức Hoa Kỳ cấp cao kết luận ngắn về cuộc điều tra.

“Những người khác xác nhận rằng vụ đột nhập Nhà Trắng được coi là nghiêm trọng khiến các quan chức họp hầu như hàng ngày vài tuần sau khi nó bị phát hiện. “Đó là âm mưu của Nga trong vụ quấy rối đặc biệt này”, một quan chức cấp cao khác nói.

“Trong khi các nhóm đột nhập Trung Quốc được biết thường thu gom một khối lượng lớn thông tin thương mại và thiết kế, các hacker giỏi nhất của Nga có khuynh hướng che dấu giấu vết tốt hơn và tập trung vào các các mục tiêu đặc biệt, thường là mục tiêu chính trị. Vụ đột nhập diễn ra vào thời điểm tái diễn sự căng thẳng với Nga – về sự sáp nhập Crimea, sự có mặt của quân đội Nga ở Ukraina và sự tái diễn tuần tra quân sự của Nga ở Châu Âu, gợi nhớ lại chiến tranh lạnh.”

Được thôi, hãy tóm tắt các bằng chứng được đưa ra trong đoạn này để chỉ vào Nga:

1) Thủ phạm là “những kẻ đột nhập tinh vi.”

2) Đó không thể là người Trung Quốc bởi vì họ chỉ quan tâm tới tiền – thế nên phải là người Nga, bởi vì mục tiêu là chính trị. Bên cạnh đó người Nga “giỏi che dấu dấu vết hơn.” 

3) Thời điểm: “Nó diễn ra vào thời điểm tái diễn căng thẳng với Nga.”

Có thật sự cần phải phơi bày bóng ma ốm yếu của lập luận này? Để bắt đầu, có hàng sa số các “kẻ đột nhập tinh vi” trong thế giới hacker, không phải tất cả trong số họ đều hành động theo lệnh của nhà nước. Thứ hai, nếu thủ phạm trong vụ này đã che dấu tốt các dấu vết của họ thì chúng ta lần theo dấu vết của họ ra sao – và chúng ta chắc chắn đó là người Nga đến mức độ nào? Cũng về câu hỏi thời điểm: chúng ta có thời điểm “căng thẳng” một số lượng lớn kẻ thù quốc tế trong năm qua, bất cứ ai cũng có thể phải chịu trách nhiệm.

Một bài bào khác về sự kiện trên tờ Motherboard còn nực cười hơn nữa.

“Các nhà nghiên cứu an ninh nói rằng học đã tìm được bằng chứng xác thực kết nối vụ tấn công với chính quyền Nga, hay ít nhất là với hacker Nga.

“Chiến dịch nhằm vào Nhà Trắng, có biệt danh CozyDuke, có code, cơ sở hạ tầng và lợi ích chính trị tương tự như các cuộc tấn công trong quá khứ có liên hệ với hacker Nga, có thể làm việc cho chính quyền, các nhà nghiên cứu nói.”

“Các cuộc tấn công trong quá khứ có liên hệ với hacker Nga” – với bằng chứng nào? Nếu có ví dụ về sự thiên kiến thì đây chính là nó. “Code tương tự” và “cơ sở hạ tầng”? Đừng làm tôi buồn cười: code của virus được phán tán miễn phí và phổ biến rộng rãi. Bất cứ ai cũng có thể phát triển loại virus đánh cắp thông tin đã được đưa vào hệ thống máy tính của Nhà Trắng và Bộ Ngoại Giao. Còn về “lợi ích chính trị” thì hoàn toàn là vô nghĩa: Kremlin là chính quyền duy nhất trên trái đất có động cơ để đột nhập vào hệ thống máy tính của chính quyền Hoa Kỳ? Và điều này trở nên tệ hơn: 

“CozyDuke được thực hiện bởi cùng một nhóm đứng đằng sau các chiến dịch do thám mạng tinh vi như MiniDuke và Cosmic Duke, theo hãng an ninh Kaspersky Lab, có liên hệ với chính quyền Nga trong quá khứ. “MiniDuke và CosmicDuke được “một cơ quan của chính quyền Nga” thực hiện, nhân viên nghiên cứu của F-Secure, một hãng an ninh khác xác nhận vào tháng giêng. Đó là kết luận hầu như dựa trên các mục tiêu của chiến dịch: Những gã buôn ma túy Nga và chính quyền có lợi ích trái ngược với những người ở Nga.”

Hay nói cách khác, đó hoàn toàn là những phân tích phi kỹ thuật, không có bất cứ bằng chứng thực tế nào ngoại trừ các giả định chính trị và “phân tích” nghiệp dư của các “chuyên gia” máy tính hăm hở nói với chính quyền Hoa Kỳ điều mà họ muốn nghe. Đây là cách mà các thiên tài ở F-Secure đi đến kết luận sáng lạng của họ:

“Theo tình huống tham chiếu về các nạn nhân của hành pháp có vẻ như từ Nga và không có nạn nhân đáng giá nào thực sự thân Nga, chúng tôi tin rằng một cơ quan chính quyền Nga đứng đằng sau những chiến dịch này.”

Trái với sự dự đoán chắc chắn ngay từ đầu của đoạn này, đi đến kết thúc thì Mikko Hypponen, lãnh đạo nghiên cứu của F-Secure nói rằng “có thể” là Nga. Ồ, nhưng cũng có thể không…

Mặc dù vậy, Washington không có bất cứ sự nhập nhằng nào. Theo các bản tin, trong bài phát biểu mới đây ở đại học Stanford, bộ trưởng quốc phòng Ashton Carter khẳng định rằng “các cảm biến trong hệ thống bảo vệ bí mật của Lầu Năm Góc đã phát hiện ra vụ đột nhập của hacker Nga, những người đã khám phá ra một lỗ hổng cũ để tiếp cận. Sau khi nghiên cứu thông tin quý giá về chiến thuật của họ, chúng ta đã phân tích hoạt động mạng lưới của họ, sự liên kết của họ với Nga và sau đó nhanh chóng hất họ ra khỏi hệ thống, theo cách giảm thiểu cơ hội quay trở lại của họ.”

Phải vậy, chắc chắn rồi. Chỉ là sự trùng hợp khi Lầu Năm Góc phát hành một báo cáo “chiến lược mạng” mới, trong đó xác định Nga cùng với Trung Quốc là các thủ phạm lớn cần phải giám sát – dấy lên những mối đe dọa đối với cơ sở hạ tầng mạng, đòi hỏi một số lượng tiền lớn và “chuyên gia” để ngăn chặn. 

Một “sự trùng hợp” khác: Không có ít hơn ba đạo luật “an ninh mạng” quan trọng trong ngăn bàn quốc hội được thiết kế để chuyển giao nhiều hơn các thông tin cá nhân vào bàn tay chờ sẵn của cơ quan an ninh quốc gia và các cơ quan hành pháp, tất cả đều dưới danh nghĩa “bảo vệ” chúng ta khỏi các hacker-ông ba bị-Nga và Trung Quốc. Một lá thư ngỏ mới đây từ hơn 65 chuyên gia và học giả an ninh mạng đáng kính lên án những đạo luật đó là sự xâm nhập không cần thiết vào quyền riêng tư cũng như tạo ra một cảm giác sai lệch về an ninh – và họ kết luận rằng những đạo luật đó cũng khiến chúng ta dễ bị đột nhập hơn. 

Như Trevor Timm khẳng định:

“Các nghị sĩ quốc hội – hầu hết họ không thể đảm bảo an ninh cho website của bản thân và một số trong họ thậm chí không sử dụng thư điện tử - đang cố gắng nhồi nhét đạo luật “an ninh mạng” nguy hiểm vào cổ họng công chúng. Sự riêng tư của mọi người nằm trong tay của những người, với tất cả các chỉ báo, không hiểu gì về những điều mà họ nói. Cuộc chiến tranh lạnh mới với Nga đang lơ lửng trên đầu chúng ta, và luật lệ là: khi có rắc rối thì hãy đổ tội cho Putin. Sự ngờ nghệch về công nghệ của chúng ta – và truyền thông theo đuôi chính quyền sẵn sàng ngả về điều vô nghĩa này. Trong khi tôi không loại trừ bất cứ ai – trong đó có cả những “đồng minh” được tán tụng của chúng ta – khỏi trách nhiệm thì trong trường hợp này tôi nhìn những cáo buộc mang tính phản xạ nhằm vào Kremlin với ánh mắt tức giận.

Justin Raimondo is the editorial director of Antiwar.com, and a senior fellow at the Randolph Bourne Institute. He is a contributing editor at The American Conservative, and writes a monthly column for Chronicles. He is the author of “Reclaiming the American Right: The Lost Legacy of the Conservative Movement” [Center for Libertarian Studies, 1993; Intercollegiate Studies Institute, 2000], and “An Enemy of the State: The Life of Murray N. Rothbard” [Prometheus Books, 2000].

Mười sự thật đáng phiền lòng về Baltimore

Sự nghèo khổ sinh ra từ sự giàu có, đó là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Nước Mỹ giàu có thì cũng luôn có những nơi như Baltimore. Những ngày này người ta được biết đến bạo loạn ở Baltimore được đưa tin trên truyền thông nhưng theo dõi bản dịch "Ten disturbing facts about Baltimore" của tác giả Bill Quigley thì có lẽ bạn sẽ hình dung được những đau khổ thường nhật mà người dân ở Baltimore phải đối mặt. Bài viết được đăng trên tạp chí ColdType số 98 tháng 5 năm 2015.

Mười sự thật đáng phiền lòng về Baltimore

Bạn bị sốc về rối loạn ở Baltimore? Điều gì gây sốc hơn trong đời sống thường ngày ở Baltimore, một thành phố 622.000 dân có 63% là người Mỹ gốc Phi? Đây là 10 con số cho thấy một vài câu chuyện. 

5: Người da màu ở Baltimore có nguy cơ bị bắt vì tàng trữ ma túy cao gấp 5,6 lần người da trắng ngay cả khi việc sử dụng ma túy ở cả hai chủng tộc là tương đương nhau. Hạt Baltimore có tỷ lệ bắt giữ vì tàng trữ ma túy cao thứ năm ở Hoa Kỳ.

5.7: Hơn 5,7 triệu dollar đã được Baltimore thanh toán kể từ năm 2011 trong hơn 100 vụ kiện cảnh sát bạo lực. Nạn nhân của các vụ bạo lực của cảnh sát hầu hết là người da màu và có cả phụ nữ mang thai, một người trợ tế nhà thờ 65 tuổi và một bà lão 87 tuổi.

6: Trẻ sơ sinh da trắng ở Baltimore có triển vọng sống lâu hơn trẻ sơ sinh Mỹ gốc phi ở thành phố 6 năm.

8: Người Mỹ gốc phi ở Baltimore chết vì biến chứng của bệnh HIV/AIDS cao hơn 8 lần so với người da trắng và chết vì các nguyên nhân liên quan đến bệnh tiểu đường cao gấp hai lần so với người da trắng.

8.4: Tỷ lệ thất nghiệp của thành phố là 8,4%. Đa số các ước lượng đều cho thấy tỷ lệ thất nghiệp ở người Mỹ gốc phi cao gấp hai lần người da trắng. Tỷ lệ thất nghiệp quốc gia đối với người da trắng là 4,7%, còn đối với người da màu là 10,1%.

9: Trẻ sơ sinh Mỹ gốc Phi ở Baltimore chết trước khi tròn một tuổi cao gấp 9 lần trẻ sơ sinh da trắng.

20: Là 20 năm chênh lệch trong tuổi thọ trung bình giữa những người sống trong các khu dân cư giàu có nhất ở Baltimore so với những người sống cách đó 6 dặm trong khu nghèo khổ nhất.

23.8: 148.000 người, hay 23,8% số người ở Baltimore, sống dưới mức nghèo khổ chính thống.

56: 56,4% số học sinh tốt nghiệp trung học ở Baltimore. Tỷ lệ quốc gia là khoảng 80%.

92: 92% các vụ bắt giữ vì tàng trữ ma túy ở Baltimore là người Mỹ gốc Phi, một trong những tỷ lệ chênh lệch về chủng tộc cao nhất ở Hoa Kỳ.

Bill Quigley is a human rights lawyer and professor at Loyola University New Orleans College of Law. He is also a member of the legal collective of School of Americas Watch, and can be reached at quigley77@gmail.com

Monday, May 11, 2015

Chiến tranh thương mại: Monsanto quay trở lại Việt Nam

Người Việt Nam nói: "Chúng ta lật sang trang mới nhưng không xé bỏ nó". Song có lẽ người Mỹ vẫn chưa thực sự hiểu điều này, bản thân người Mỹ vẫn luôn bị chia rẽ bởi cuộc chiến mà cho đến giờ họ vẫn không hiểu được tại sao họ đã thua nhục nhã ngay cả khi vượt trội về mọi mặt từ quân sự, công nghệ đến kinh tế. Nhưng giờ người Việt Nam đang chuẩn bị một cuộc chiến mới, thầm lặng nhưng cũng rất cam go, để xây dựng đất nước và bảo vệ độc lập dân tộc. Cũng như trước kia, người Việt Nam không đơn độc khi nhận được sự ủng hộ của một số người Mỹ tiến bộ. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Trade Wars: Monsanto’s Return to Vietnam" của nữ giáo sư Desiree Hellegers.

Chiến tranh thương mại: Monsanto quay trở lại Việt Nam

Thành phố Hồ Chí Minh.

Trong tuần qua, khi các nhà hoạt động tập trung ở Washington, D.C để tham gia hội thảo về “Việt Nam: Sức mạnh phản kháng,” ở thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam, một đoàn đại biểu do nhóm Hiến Chương 160 Cựu Chiến Binh vì Hòa Bình (VFP) đã lặng lẽ kết thúc chuyến đi kéo dài hai tuần. Chuyến đi được sắp xếp thời gian trùng với “Chiến Dịch Vạch Trần Hoàn Toàn” trên quy mô quốc gia của VFP. Sáng kiến của VFP, cũng giống như hội thảo ở D.C. vào cuối tuần, được tổ chức để chống lại chiến dịch của Bộ Quốc Phòng (DoD), được Luật Ủy Quyền Phòng Thủ Quốc Gia năm 2008 tài trợ, đưa ra các sự kiện tưởng niệm và mô tả lịch sử, trong đó có tài liệu trường học, để ghi nhớ kỷ niệm lần thứ 50 cuộc chiến tranh Việt Nam.

Nhằm chống lại âm mưu thúc ép ủy quyền theo dõi nhanh của chính quyền Obama để hoàn thành Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), chuyến đi của VPF 160 năm nay không chỉ đưa ra câu hỏi về các tác động tiếp diễn của chiến tranh đối với Việt Nam mà còn cả câu hỏi về việc triển khai hạt giống biến đổi gen (GMO) của Monsanto trên thị trường Việt Nam. Nội dung của TPP, sẽ là hiệp định thương mại lớn nhất trong lịch sử, tác động đến 40% kinh tế thế giới, vẫn nằm trong bí mật. Nhưng các đoạn bị tiết lộ cho thấy TPP sẽ gia tăng bất bình đẳng thu nhập ở cả Việt Nam lẫn Hoa Kỳ và lấn át luật pháp và chính sách bảo vệ môi trường và sức khỏe công cộng của địa phương cũng như quốc gia. Monsanto, một trong những nhà sản xuất lớn nhất của khoảng 20 triệu tấn chất độc màu da cam được rải xuống Việt Nam từ năm 1961 đến năm 1971, là một trong số những doanh nghiệp chờ sẵn để thu hoạch những lợi nhuận dễ kiếm khi TPP được thông qua.

Sự nhiễm độc phổ biến do chất dioxin trong chất độc khai quang màu da cam, đất đai đầy rẫy bom mìn chưa nổ (UXO) – trong đó có mìn bộ binh và bom chùm – là những di sản của cái mà ở Việt Nam được coi là “Chiến tranh chống Mỹ.” Một trong những rắc rối bề ngoài của chiến dịch kỷ niệm 50 năm của Lầu Năm Góc là sự đeo bám kiểu Orwell vào cuộc chiến tranh công nghệ cao đã dìm rừng rậm và sông ngòi của Việt Nam vào chất độc khai quang trong thí nghiệm khoa học lạnh lùng lớn nhất lịch sử nhân loại. Trong số năm mục tiêu của NDAA có yêu cầu DoD tôn vinh lịch sử “sự tiến bộ về công nghệ, khoa học và y tế liên quan tới các nghiên cứu quân sự được thực hiện trong chiến tranh Việt Nam”.

Các lãnh đạo chuyến đi của VPF, trong đó có chủ tịch Suel Jones, phó chủ tịch Chuck Searcy, Don Blackburn, Chuck Palazzo và David Clark của Hiến Chương 160, đều đã từng tham gia chiến tranh Hoa Kỳ ở Việt Nam và mỗi lần quay lại, bị thôi thúc bởi hồi ức của họ về chiến tranh và khát vọng giúp đỡ các NGO Việt Nam mô tả những đau khổ mà chiến tranh gây ra. Với sự lãnh đạo của Hiến Chương 160 VFP từ cuối những năm 1960 đến đầu những năm 1970, các cựu chiến binh dự tính trước rằng trong điều kiện tốt nhất họ sẽ có 5 năm nữa để tổ chức các chuyến đi, cỗ máy gây quỹ ban đầu của họ đáp ứng được các chi phí quản lý giới hạn và hỗ trợ cho các tổ chức thành viên. 

Sau ngày chúng tôi tới Việt Nam, ngày 17 tháng 4, một vụ kiện tập thể đã được khởi sự ở Pháp theo yêu cầu của hàng triệu người Việt Nam chịu ảnh hưởng của chất độc màu da cam. Vụ kiện được đưa ra để chống lại Monsanto và 25 nhà chế tạo chất độc màu da cam chứa dioxin của Hoa Kỳ. Sau nhiều năm tranh cãi về luật pháp, kết luận 1984 đưa ra một khoản cứu trợ giới hạn cho các binh lính Hoa Kỳ bị ảnh hưởng sức khỏe do tác động liên quan tới chất độc màu da cam, từ ung thư tuyến tiền liệt, ung thư phổi, tới rối loạn sinh tủy, tiểu đường, Parkinson và đau tim. Nhưng những nỗ lực đòi bồi thường pháp lý và hỗ trợ tài chính cho khoảng 3 triệu người Việt Nam đang gánh chịu tác động của chất độc màu da cam đã thường xuyên thất bại. Hoa Kỳ không bao giờ thực hiện lời hứa của Nixon tại hội nghị Hòa Bình Paris 1973 về việc cung cấp cho Việt Nam 3 tỷ dollar để khôi phục, tương đương với hơn 16 tỷ dollar hiện nay. Viện trợ tương đối nhỏ nhoi của Hoa Kỳ cho đất nước vẫn chịu hậu quả chiến tranh này đến cùng với một ràng buộc: sức ép liên tục để kích hoạt nhiều dạng “điều chỉnh cơ cấu” mà TPP có vẻ như được thiết kế để gia tốc chúng.

Vào cùng ngày mà vụ kiện được khởi sự ở Pháp, chúng tôi gặp đại sứ Hoa Kỳ Ted Osius, đại sứ đầu tiên kể từ khi “bình thường hóa” quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam vào năm 1995 thừa nhận công khai các tác động kéo dài của chất độc màu da cam đối với người Việt Nam. Theo một số mô tả, hai thập kỷ cấm vận mà Hoa Kỳ áp đặt đối với Việt Nam sau chiến tranh cũng gây ra đau khổ tương đương với chiến tranh.

Osius nói với các đại biểu và các nhà báo rằng quan hệ chính trị đầy ý nghĩa giữa Hoa Kỳ và Việt Nam cần phải “đối mặt với quá khứ”. “Nếu chúng ta không đặt vấn đề chất độc màu da cam thì tôi không cho là chúng ta có tin cậy để đặt ra” các mối quan tâm chung khác, các vấn đề chủ chốt được ông kể tới là biến đổi khí hậu, sức khỏe toàn cầu, giáo dục và thương mại. Osius tán dương tinh thần của TPP và “lợi ích khổng lồ” mà nó sẽ mang lại cho công nhân Việt Nam, đồng thời gia tăng bảo vệ môi trường và đảm bảo an toàn thực phẩm. Mặc dù vậy, ông thừa nhận rằng bên cạnh những lợi ích mà Việt Nam gặt hái được từ tự do hóa thương mại trong những năm gần đây thì quốc gia này cũng phải chứng kiến sự nổi lên của tầng lớp tài phiệt mới. Ông cũng thừa nhận vai trò của TPP trong việc tư nhân hóa các cơ sở của nhà nước, trong các quy định của NAFTA và WTO thường được coi là các rào cản thương mại bất bình đẳng. Ông nói với chúng tôi, với TPP thì dĩ nhiên là “các cơ sở nhà nước không có hiệu quả” sẽ là đối tượng bị phá hủy. Khi tôi phản đối khẳng định của đại sứ Osius về lợi ích của TPP, được che dấu trong các văn bản bí mật, yêu cầu ông in ra và chia sẻ các bản sao của hiệp định thương mại với các đại biểu để chứng minh khẳng định của ông, thì ông từ chối một cách ngoại giao. Trên đường tới thăm Làng Hữu Nghị, một chương trình nằm ở ngoại ô Hà Nội, nuôi dưỡng các trẻ em và cựu chiến binh chịu ảnh hưởng của chất độc màu da cam, chúng tôi thấy một hình ảnh tương tự như ở Hoa Kỳ, các thành phố có khuynh hướng thu hút đầu tư toàn cầu bằng mọi giá. “Sự phát triển” ở Việt Nam, cũng như ở Hoa Kỳ, là quy mô phá hủy nhà cửa và di cư ngày càng lớn. Khắp các ngóc ngách của Hà Nội, giờ là nhà của một đại lý Rolls Royce và bốn đại lý Mercedes Benz, hàng hóa xa xỉ tràn ngập, cùng với các cuộc biểu tình lẻ tẻ. Sự căng thẳng giữa “phát triển” với quan điểm cách mạng và những hứa hẹn của Đảng Cộng Sản của Hồ Chí Minh, được thể hiện mạnh mẽ trong bộ phim của Doan Hong Le Ai sở hữu đất đai vào năm 2010. Bộ phim được giải thưởng đã mô tả cuộc đấu tranh giữa các nông dân nghèo phải di cư để nhường chỗ cho một sân golf xa xỉ, cùng với sự hợp lý hóa của lãnh đạo Đảng Cộng Sản địa phương (1). 

Ở mỗi thành phố dọc theo đường hành trình – từ Hà Nội tới Huế, tới A Lưới, Đà Nẵng, Nha Trang và thành phố Hồ Chí Minh – chúng tôi thấy bằng chứng của đau khổ tiếp diễn do chiến tranh gây ra. Ở mỗi thành phố, chúng tôi gặp gỡ các thành viên của Hội Cựu Chiến Binh Việt Nam (VANN) cùng với các đại diện địa phương của Hội Nạn Nhân Chất Độc Màu Da Cam Việt Nam (VAVA), từ lâu đã đứng đầu các cuộc đấu tranh đòi bồi thường pháp lý và tài chính cho những người Việt Nam tàn tật do chất độc màu da cam gây ra. Một cuộc mít tinh với VAVN ở Hà Nội, chủ nhà của chúng tôi là tướng Phùng Khắc Đăng, đề cập vai trò của các doanh nghiệp Hoa Kỳ trong việc sản xuất chất độc màu da cam, thừa nhận một cách thận trọng rằng chất độc màu da cam có “những tác hại khủng khiếp không chỉ đối với người Việt Nam mà còn cả đối với binh lính và công dân Hoa Kỳ.” Trong buổi gặp mặt ở Đà Nẵng, đứng trước tượng bán thân của Hồ Chí Minh, một đại biểu của VAVA hồi tưởng “thấy máy bay tới và cây cỏ chết.”. Một đại biểu khác bổ sung thêm: “Nó phá hủy mọi thứ cùng với lá cây. Nó giết chúng tôi. Nó giết mọi người. Nó giết tất cả cây cối và động vật.” Nhưng sự tập trung, ông nhắc nhở chúng tôi – và bản thân – phải được đặt vào việc “làm sao tái thiết đất nước, làm sao phát triển đất nước.” Đề cập tới chiến tranh và việc Hoa Kỳ sử dụng chất độc màu da cam, ông nói, “Chúng ta lật sang trang, [nhưng] chúng ta không xé bỏ nó.”

“Chúng tôi cảm kích sự độ lượng của nhân dân Việt Nam,” phó chủ tịch Chuck Seary của VFP 160 đáp lại, “Nhưng chúng tôi cũng nghĩ rằng chúng tôi phải học những bài học của quá khứ.” Searcy muốn biết tại sao, sau những hậu quả bi thảm của chất độc màu da cam, chính quyền Việt Nam lại cho phép Monsanto quay trở lại, mở văn phòng và buôn bán ở Việt Nam, nơi mà công ty đang cung cấp hạt giống GMO, trong đó có ngũ cốc. Đáp lại, đại biểu của VAVA đề cập tới việc Việt Nam gia nhập WTO. “Khi chúng tôi đã ký kết WTO thì chúng tôi phải chấp nhận họ - họ phải có mặt ở đây,” ông nói.

Nếu WTO coi luật pháp địa phương và quốc gia về môi trường và sức khỏe là các rào cản thương mại không bình đẳng,” kinh nghiệm của Mexico sau khi thông qua Hiệp Định Tự Do Thương Mại Bắc Mỹ (NAFTA) có thể đóng vai trò như là một dấu hiệu cảnh báo về các tác động tương tự đối với Việt Nam. Sau khi thông qua NAFTA, ngũ cốc Hoa Kỳ giá rẻ tràn ngập Mexico, trong đó có các giống GMO của Monsanto. Sự thay đổi không chỉ rút ruột thị trường ngũ cốc của Mexico mà còn phát tán sự lây nhiễm của GMO vào các giống ngũ cốc bản địa. Ở Canada, như Naomi Klein đã ghi nhận, WTO và NAFTA đã được sử dụng để chống lại sự phát triển năng lượng tái tạo địa phương ở Ontario, trì hoãn fracking ở Quebec. Các phần được tiết lộ của TPP cho thấy hiệp định tự do thương mại chỉ gia tăng lợi nhuận và sự miễn trừng phạt của doanh nghiệp mà Monsanto cũng như các doanh nghiệp khác đã tận hưởng từ lâu.

Tác động tới sức khỏe của con người do việc sử dụng chất độc màu da cam có chứa dioxin gây ra trong chiến tranh Hoa Kỳ được thấy rất rõ ở tỉnh Quảng Trị, tại khu vực mà Hoa Kỳ coi là khu vực phi quân sự hay DMZ. Một trong số 28 “điểm nóng” trải khắp Việt Nam, nhiều trong số chúng là căn cứ của Hoa Kỳ, nơi mà chất độc màu da cam được vận chuyển và lưu giữ, Quảng Trị là tỉnh bị rải chất độc nghiêm trọng nhất. Khoảng 15.000 người ở Quảng Trị chịu tác động của chất độc màu da cam. Lần đầu tiên chúng tôi chứng kiến sự tàn phá gần như không tưởng mà chất độc màu da cam gây ra ở Việt Nam trong chuyến thăm một gia đình nhận hỗ trợ của VFP 160 và các tổ chức thành viên của dự án RENEW. Bốn trong số năm người con trưởng thành trong gia đình bị tàn tật nhiều loại. Chỉ có người thứ hai trong cặp trẻ được sinh giữa năm 1972 và năm 1985 có vẻ như thoát khỏi tác động của chất độc màu da cam cùng với con cái của họ. Mặc dù vậy, như người Việt Nam đang khám phá ra, tác động của chất độc màu da cam có thể tạm ngưng trong một thế hệ và chỉ xuất hiện ở thế hệ kế tiếp. Bốn người trưởng thành tàn tật không có khả năng đứng thẳng do hậu quả của một vấn đề sức khỏe bẩm sinh. Họ lo âu về cả bốn người, với những lời kể ngắt quãng là các dấu hiệu của dị tật gia tăng thường do chất độc màu da cam gây ra. Ở tỉnh Quảng Trị, chúng tôi thấy 1.300 gia đình có từ 3 đến 5 trẻ em gánh chịu các tác động gây suy yếu do nhiễm chất độc màu da cam. 

Nhưng chất độc màu da cam không phải là nguồn đau khổ duy nhất ở tỉnh Quảng Trị. Nếu Hoa Kỳ ném bom xuống Việt Nam nhiều hơn số đã ném trong Thế Chiến thứ II ở cả mặt trận Châu Âu và Thái Bình Dương cộng lại thì Quảng Trị là khu vực bị ném bom dữ dội nhất ở Việt Nam. Thống kê quy mô lắp chân tay giả trên tường Trung Tâm Nạn Nhân Bom Mìn tại Quảng Trị trong cho thấy mức độ công việc của dự án RENEW, đáp ứng nhu cầu của hơn 900 cá nhân được lắp chân tay giả sau khi bị thương bởi UXO, thứ trải rộng khoảng 80% diện tích của tỉnh. Hơn 1.100 nạn nhân khác đang chờ được lắp chân tay giả. Cũng ở trên tường của Trung Tâm là các bức tranh của trẻ em Quảng Trị học trong các chương trình ở trường học về nhận dạng bom mìn chưa nổ và báo với chính quyền địa phương. Hơn hai triệu chiến binh Việt Nam và thường dân bị giết hại trong chiến tranh Hoa Kỳ, nhưng hơn 60.000 người Việt Nam bị mìn bộ binh, bom chùm giết hại kể từ khi kết thúc chiến tranh đã vượt qua con số 58.000 lính Mỹ bị giết trong cuộc chiến. Hoa Kỳ vẫn là một trong số ít những quốc gia trên thế giới từ chối ký vào hiệp ước cấm mìn bộ binh và bom chùm của Liên Hiệp Quốc.

Ở Nha Trang, chúng tôi tới thăm một phụ nữ và em gái đang chăm sóc hai đứa con trưởng thành, không đứa nào có dấu hiệu nhiễm chất độc màu da cam cho đến khi tuổi thiếu niên. Người lớn nhất, giờ đã 40 tuổi, nằm rên rỉ trên một chiếc giường ngủ ở đằng sau nhà. Em gái 36 tuổi vãn đủ tính táo để nhận thức được tương lai của cô khi cô nhìn thấy những chi bị teo nhỏ và vặn vẹo của cô.

Ở thành phố Hồ Chí Minh, điểm dừng chân cuối cùng trong hành trình, chúng tôi viếng thăm Bệnh Viện Từ Dũ/Làng Hòa Bình, là nơi trú ngụ của khoảng 60 trẻ em bị ảnh hưởng của chất độc màu da cam, cùng với một số ít người trưởng thành đã lớn lên tại cơ sở. Trên đường đi, một số trẻ hăng hái yêu cầu được ôm, trong khi những đứa khác, một số được ăn bằng ống thông qua mũi, nhìn chúng tôi như với những cái nhìn hoàn toàn vô hồn. Một đứa trẻ ở cuối phòng bắt đầu mò mẫm trước mặt. Giống như nhiều trẻ bị ảnh hưởng của chất độc màu da cam khác, cậu bị thiếu hẳn một mắt, một khoảng trống nằm ở chỗ con mắt. Ở một phòng khác, một đứa trẻ bị tràn dịch màng não không xác định về giới tính với đầu to như quả dưa hấu đang nằm bất động trong một cái cũi. Một bé gái khoảng 6-7 tuổi ngồi trên một cái ghế bên cạnh chiếc cũi, đang nâng niu bàn tay đứa trẻ. Cô bé liếc qua, dĩ nhiên là có một chút khó chịu bởi đám đông người quan sát Hoa Kỳ bao quanh, sau đó quay trở lại công việc vỗ về bạn của cô. 

Ngày tiếp theo, ngày 30 tháng 4, kỷ niệm ở Hoa Kỳ về “sự sụp đổ của Sài Gon,” chúng tôi sớm có mặt ở lễ hội “Ngày Giải Phóng” ở thành phố Hồ Chí Minh. Một dàn múa đông đảo của đoàn cựu chiến binh nam và nữ với đồng phục; các học sinh nữ xoay hoa hướng dương; một bức ảnh Hồ Chí Minh lớn cỡ chiếc bảng trên một chiếc xe diễu hành mầu hồng rực tỏa sáng như một vị thánh văn hóa đại chúng hiện đại thay vì nền màu xanh da trời. Hoàn toàn vắng mặt trong khung cảnh là gợi ý hay sự quan tâm hoặc sự tham gia từ các người dân bình thường của thành phố được đặt theo tên hình tượng cách mạng.

Buổi tiếp tân sau đó ở “Dinh Thống Nhất” được phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì, có sự tham dự của khoảng 100 người đại diện cho các tổ chức từ 40 nước và lãnh thổ trên thế giới. Người đầu tiên trong số các diễn giả là Hélène Luc. Như ông Phúc cho biết, Luc “đã giúp đỡ và hỗ trợ đoàn đại biểu Việt Nam” tại Hội Nghị Hòa Bình, khi là ủy viên của Hội Đồng Thành Phố Paris. Trong bình luận của bà, Luc đề cập tới Tuyên Ngôn Độc Lập mang tính lịch sử năm 1945 của Hồ Chí Minh, mô phỏng theo văn bản lập quốc của Hoa Kỳ. Bà ca ngợi sự can đảm và dũng cảm của đấu tranh cách mạng và của các nhà hoạt động đã chiếm giữ các đường phố khắp thế giới để kết thúc cuộc chiến. 

Phát biểu cuối cùng khi sân đã vãn người là Virginia Foote, chủ tịch của Hội Đồng Thương Mại Hoa Kỳ-Việt Nam và chủ tịch ban điều hành Trung Tâm Quốc Tế ở Washington D.C. “Là một người Mỹ - và tôi nghĩ tôi có thể nói với mọi người Mỹ trong phòng,” Foote nhấn mạnh, “chúng ta hứa tiếp tục công việc phát triển kinh tế của đất nước này” cũng như “về các vấn đề hậu quả của chiến tranh.”

Bà kể về việc tham gia khai lễ động thổ tại Trung Tâm Hành Động Mìn Bộ Binh ở Hà Nội chỉ vài ngày trước và về “khoản tiền mới đang đổ vào,” để “giúp đỡ và hỗ trợ Việt Nam.” “Đồng thời,” bà nói, “chúng ta vẫn tiếp tục với việc đàm phán khó khăn và hy vọng rằng chúng ta có thể hoàn thành trong năm nay … Chúng ta sẽ tiếp tục nỗ lực về TPP,” bà nói, trước khi phó thủ tương đưa ra một số bình luận mang tính nghi lễ để kết thúc buổi gặp mặt.

Vào ngày 30 tháng 4 ở Hoa Kỳ, với một là gió nhẹ, đại biểu Barbara Lee của California đưa ra Luật Cứu Trợ Các Nạn Nhân Chất Độc Màu Da Cam 2015. Đạo luật, được sự ủng hộ của Chiến dịch Trách Nhiệm và Cứu Trợ Nạn Nhân Chất Độc Màu Da Cam Việt Nam của Hoa Kỳ (http://www.vn-agentorange.org/), sẽ tài trợ cho việc làm giảm sự ô nhiễm của chất độc màu da cam trên khắp Việt Nam, tài trợ cho chăm sóc y tế và phục vụ trực tiếp cho các nạn nhân chất độc màu da cam của Việt Nam. Nó cũng mở rộng cứu trợ cho các cựu chiến binh Hoa Kỳ và cung cấp các hỗ trợ mới cho con cái của họ, vốn phải chịu đựng các vấn đề suy yếu sức khỏe liên quan đến chất độc màu da cam.

Giữa các sáng kiến mới để tìm kiếm công lý cho các nạn nhân của chất độc màu da cam và tiếp tục đàm phán về một hiệp định thương mại có tác động đáng kể tới tương lai của cả hai quốc gia, truyền thông do doanh nghiệp kiểm soát ở Hoa Kỳ chỉ sẵn lòng cung cấp các bữa ăn điện ảnh nghèo nàn với những thước phim mô tả dòng người miền Nam Việt Nam bất tận đổ xô về phía máy bay trực thăng và bám vào chúng từ mái nhà. Các đoạn được tiết lộ cho thấy, nếu được thông qua, TPP sẽ mở rộng sự miễn tố và lợi nhuận của các doanh nghiệp như Monsanto mà dường như từng mẩu nhỏ của ngày nay cũng giống như họ đã từng kiếm lợi từ sự khốn khổ của nông dân và người lao động nghèo ở cả hai nước trước kia. Trong khi đó, ở Việt Nam, công việc của VFP 160 và đối tác của họ đang tiếp tục, ở Làng Hòa Bình của thành phố Hồ Chí Minh có một bé gái phủ nhận là bị mất trí, mất khả năng hiểu biết hoặc quay lưng lại với những đau khổ bao quanh cô.

Desiree Hellegers is a board member of Portland Peace and Justice Works/Copwatch, an associate professor of English at Washington State University Vancouver, and the author of No Room of Her Own: Women’s Stories of Homelessness, Life Death and Resistance (Palgrave MacMillan).

Chú thích của người dịch:

(1) Có lẽ chỗ này tác giả nhầm lẫn do không hiểu rõ về hệ thống chính trị ở Việt Nam. Việc thu hồi đất đai và xây dựng thuộc trách nhiệm của chính quyền địa phương chứ không thuộc trách nhiệm của Đảng Cộng Sản.

Sunday, May 10, 2015

Sự phát triển của kinh tế học Marxist ở Nhật Bản

Hiện nay, người ta thường nghe thấy những luận điệu tuyên truyền đủ loại ở Việt Nam là chủ nghĩa Marx đã vô dụng, đã bị nhân loại vứt bỏ, song rõ ràng đó là điều dối trá, chủ nghĩa Marx vẫn được giảng dạy và nghiên cứu rộng rãi ở các trường đại học phương Tây. Trong hơn một thế kỷ qua, các học giả phương Tây đã phát triển một nhánh chủ nghĩa Marx, được gọi là Marxist phương Tây để phân biệt với chủ nghĩa Marx ở các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng còn một vấn đề nữa là ngoài các nước xã hội chủ nghĩa thì các nước phương tư bản phương Tây có sử dụng học thuyết của Marx để xây dựng chính sách không? Khó có được câu trả lời chính xác. Nhưng có một ngoại lệ, đó là Nhật Bản, mặc dù là nước tư bản theo kiểu phương Tây nhưng kinh tế chính trị Marxist lại có ảnh hưởng lớn và được thừa nhận công khai không chỉ trong nghiên cứu mà còn cả trong các chính sách kinh tế quan trọng để phát triển nước Nhật. 

Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Marxian economics" của tác giả Michio Akama, giáo sư khoa Luật và Văn chương của đại học Ehime, Nhật Bản. Bài viết này là Chương 4 của cuốn "Japanese Economics and Economists since 1945" do nữ giáo sư Aiko Ikeo, trường thương mại, đại học Waseda, Nhật Bản, biên tập. Sách được nhà xuất bản Routledge, London phát hành năm 2000.

Kinh tế học Marxist

Giới thiệu

Nhật Bản có thể nói là một trường hợp độc nhất trong số các nước tư bản, nơi mà kinh tế học Marxist được thừa nhận là một trụ cột quan trọng của tư tưởng kinh tế trong học thuật và là cơ sở cho các nghiên cứu thực nghiệm cũng như phân tích chính trị. Các học giả Marxist đã tham gia vào nghiên cứu nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa học xã hội và thường nhận được nhiều sự chú ý hơn so với hiện tại. Kinh tế học Marxist tạo ra sự thúc đẩy cho các chính sách kinh tế trong chu kỳ ngay sau cuộc chiến (Thế Chiến thứ II), khi mà các cải cách dân chủ đối với hệ thống kinh tế của Nhật Bản là hết sức cấp thiết. Họ cũng sử dụng một số ảnh hưởng để hiện thực hóa các chính sách này. Vào nửa cuối những năm 1950, họ đã chỉ ra vấn đề tồn tại của cái được gọi là cấu trúc kép trong kinh tế Nhật Bản. Đây là những lý do khiến toàn bộ một chương được dành cho kinh tế học Marxist trong một cuốn sách về kinh tế học Nhật Bản kể từ năm 1945.

Mượn lời của nhà nghiên cứu di truyền học Hitoshi Kihara,1 có thể nói rằng “lịch sử của kinh tế học Marxist ở Nhật Bản tồn tại trong cách diễn giải nó”. Mặc dù vậy, nhiều nhà kinh tế học Nhật Bản đã luôn sắc sảo về các vấn đề kinh tế và chính trị vào thời của họ, chú ý tới sự xung đột nội tại giữa các hệ thống kinh tế xã hội đang tồn tại. Họ cố gắng phân tích các vấn đề đương đại trên phương diện cơ bản và lý thuyết, để diễn giải những vấn đề này theo nhiều cách khác nhau bằng cách liên hệ chúng với hệ thống kinh tế xã hội nhằm hiểu sâu sắc các vấn đề và nguyên nhân của chúng.

Do một số lượng khổng lồ các kết quả nghiên cứu đã được các nhà kinh tế học Marxist Nhật Bản tạo ra nên việc phân tích toàn bộ chúng không phải là điều đơn giản với một học giả. Hơn nữa, mười học giả kinh tế Marxist Nhật Bản có thể viết ra mười câu chuyện khác nhau về kinh tế học Marxist của Nhật Bản. Việc tóm tắt những phân tích về lịch sử của các lập luận Marxist bằng cách nghiên cứu các cuộc tranh luận sôi nổi hết lần này đến lần khác có thể rất đáng được quan tâm. Mặc dù vậy, chương này tập trung chủ yếu vào “các loạt công bố”, cụ thể là thành quả khoa học, mục đích là phác thảo quá khứ, hiện tại và tương lai của kinh tế học Marxist (ở một nước tư bản chủ nghĩa).

4.1 Tự do học thuật và kinh tế học Marxist: “Thời kỳ chính trị” và “kinh tế học đối đầu”

4.1.1 Truyền thống, phục hưng và sáng tạo

Việc xem xét sự phát triển của kinh tế học Marxist sau chiến tranh, giới thiệu và công bố các thành quả trong quá khứ có một ý nghĩa quan trọng. Shihonron Nyumon (Giới thiệu Tư Bản, 1951-51) của Kawakami là một khảo cứu tổng quát về nghiên cứu của Tư Bản. Kushida Tamizo Zenshu (Tuyển tập tác phẩm của Tamizo Kushida, 1947) và Marx Kyokoron Kenkyu (Nghiên cứu Khủng hoảng kinh tế Marxist, 1949) của Kushida và Shihonron no Kenkyu (Nghiên cứu Tư Bản, 1949) của Uno là những bản chỉnh sửa của các chuyên khảo đã được xuất bản trước chiến tranh. Saiseisan Katei Hyoshiki Bunseki Joron (Giới thiệu Phân tích về Quá trình Tái sản xuất, 1948) của Yamada và Keizai Seisakuron (Lý thuyết về Chính sách Kinh tế, 1951) đã cố gắng phát triển các phương thức tiếp cận mới đối với kinh tế học. Thành quả của họ đã được thừa nhận là các công trình bất hủ. Nghiên cứu kinh tế học Marxist hưng thịnh sau năm 1945 không phải hiện tượng nhất thời. Nền tảng của những nghiên cứu này đã được gặt hái trước và trong thời kỳ chiến tranh, khi các nhà Marxist, chủ nghĩa xã hội và thậm chí là phái tự do đã có một thời kỳ khó khăn để bảo vệ lý tưởng của họ.

Chúng ta cũng không thể quên các nghiên cứu khác, những nghiên cứu cố gắng soi rọi thực tại của Nhật Bản bằng cách đào sâu các tác phẩm kinh tế cổ điển, hay tách một số thứ ra khỏi nghiên cứu kinh tế học Marxist. Adam Smith no Shimin Shakai Taikei (Xã hội dân sự của Adam, 1946) của Takashima đã áp dụng khái niệm xã hội dân sự của Smith vào một xã hội ở Viễn Đông, cách xa Châu Âu. Ông đặt ra câu hỏi về việc sự hình thành của xã hội dân sự có được phân tích một cách khoa học hay không. Đây là kiểu nghiên cứu hàn lâm trước thời kỳ chiến tranh. Kindai Keizaigaku no Kihon Seikaku (Đặc điểm cơ bản của Kinh tế học Hiện đại, 1949) của Sugimoto xây dựng hệ thống kinh tế của ông, bao gồm cả phương pháp luận và phân tích mang tính lịch sử về tư duy kinh tế, bằng cách tuân theo phương pháp nghiên cứu phê phán Marxist, và khẳng định sự quan trọng của “làm việc chăm chỉ” đối với cái được gọi là kinh tế học hiện đại (phi Marxist, cổ điển, hay kinh tế học Keynes). Khi chúng ta  thấy sự thật là không chỉ có kinh tế học Marxist tạo ra chỗ đứng của nó trong học thuật mà cả kinh tế học hiện đại cũng tạo ra một số ảnh hưởng, nỗ lực của Sugimoto đã đưa ra một gợi ý quan trọng đối với các nhà kinh tế học Marxist của Nhật Bản.

Hầu hết người Nhật Bản đều nhớ ngày 15 tháng 8 năm 1945, khi Nhật Hoàng tuyên bố thua trận trên đài phát thanh, vào ngày đó chính quyền cũ đã bắt đầu lung lay. Trước chiến tranh, xã hội Nhật Bản là một trật tự đẳng cấp với hoàng đế ở đỉnh. Quân đồng minh, quyền lực của họ chính thức có hiệu lực vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, sau đó đã thay đổi hoàn toàn nền kinh tế và hệ thống chính trị cũ của Nhật Bản, Ở Nhật Bản, sự phát triển của kinh tế học Marxist đã bắt đầu từ những năm 1920, nhưng kinh tế học Marxist chính thức bị cấm và bị coi là bất hợp pháp từ khoảng năm 1930 đến 1945. Thực sự là ngày 15 tháng 8 năm 1945 có thể đánh dấu sự giải phóng áp bức đối với những người Marxist. Mặc dù vậy, đó không phải là một sự phá vỡ hoàn toàn. Kinh tế học Marxist không khởi đầu mới hoàn toàn từ đống đổ nát của quốc gia bại trận, nhưng “có thể tạo ra sự tiến bộ dựa trên truyền thống và di sản được tạo ra trước và trong chiến tranh” (Miyazaki 1984:214,215).

Dĩ nhiên là có những yếu tố mới xuất hiện sau chiến tranh. Sau ngày 15 tháng 8 năm 1945, các cuộc tranh luận cực đoan vốn bị ngắt quãng trong những năm 1930 đã được mở lại và các hệ thống lý thuyết như Keizaigaku Kyokasho (Sách giáo khoa Kinh tế học), được hình thành dưới thời Stalin ở Liên Bang Soviet trước đây, bắt đầu tràn vào. Học thuyết “khủng hoảng tổng thể của chủ nghĩa tư bản” được hồi sinh bởi Quốc Tế Cộng Sản, “học thuyết hai con đường” của Lenin tràn qua giới học thuật, lý thuyết “chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước” của ông cũng bắt đầu nhận được chú ý. Sau khi Trung Quốc tái sinh dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông và Đảng Cộng Sản Trung Quốc vào năm 1949, Đảng có ý định bắt đầu cuộc cách mạng chống chủ nghĩa tư bản Hoa Kỳ. Các nhà kinh tế học Marxist của thời kỳ hậu chiến, những người đã trưởng thành dưới sự thay đổi chính trị nhanh chóng, bắt đầu việc nghiên cứu của họ không chỉ phải đối mặt với các thành quả tích lũy của thế hệ già từ thời tiền chiến mà cả các học thuyết mới của thế hệ mới.

4.1.2 Hoa bắt đầu nở

Trên cơ sở của những thành quả từ trước chiến tranh, các nhà kinh tế học Marxist Nhật Bản bắt đầu công bố các nghiên cứu và tổ chức các cộng đồng học thuật. Nhiều nhà kinh tế học Marxist đã tập hợp ở Hiệp Hội Nhà Khoa Học Dân Chủ của Lĩnh Vực Kinh Tế (ESDSA) ngay sau chiến tranh. ESDSA được coi là hiệp hội thành viên hàng đầu của Liên Hiệp Hội Kinh Tế Quốc Gia ở Nhật Bản. Sau khi Hội Đồng Khoa Học được thành lập ở Nhật Bản vào năm 1941, khoa học kinh tế và thương mại được phân chia lần thứ ba.

Khi tự do học thuật được đảm bảo cả về danh nghĩa và thực tế, các công trình hoàn chỉnh của Karl Marx được xuất bản. Choryu Koza Keizaigaku Zenshu (Tập tiểu luận về Kinh tế, 1949) là một công trình đặc biệt được nhiều nhà kinh tế học Marxist tham gia hoàn thiện. ESDSA xuất bản Koza Shihonron no Kaimei (Tập tiểu luận về giải thích Tư Bản, 1951-53), nhà xuất bản Iwanami Shoten phát hành Nihon Shihonshugi Koza (Tập tiểu luận về học sách giáo khoa kinh tế, 1953–54). Một sự áp dụng các mệnh đề không chính xác của Stalin trong “Một số vấn đề kinh tế ở Liên Bang Soviet” (1952, được dịch sang tiếng Nhật cùng năm) và sự tuân thủ theo “Luận cương 1951”, là nền tảng của Đảng Cộng Sản Nhật Bản. ESDSA cũng xuất bản Keizaigaku Kyokasho Gakushu Koza (Tập tiểu luận về học sách giáo khoa Kinh tế, 1955–56). Điều này tạo ra sự diễn giải mang tính giáo điều về Marx ở Liên Bang Soviet và có khuynh hướng phổ biến nó ở Nhật Bản.

Nhiều cộng đồng học thuật được thành lập để tổ chức các nhà kinh tế học Marxist cùng với những nỗ lực đó. Ví dụ Hiệp Hội Lịch Sử Tư Tưởng Kinh Tế (Nhật Bản) (JSHET) được các nhà kinh tế học Marxist thành lập như một hiệp hội học thuật vào năm 1950. Hiệp Hội Lịch Sử Nông Nghiệp, giờ là Hiệp Hội Kinh Tế Chính Trị và Lịch Sử Kinh Tế, được thành lập vào năm 1950 với mục tiêu làm rõ các tiêu chuẩn cải cách của thời kỳ hậu chiến. Hiệp Hội Lý Thuyết Tín Dụng được thành lập năm 1954 với mục tiêu nghiên cứu lý thuyết về tín dụng của Marx. Sauk hi ESDSA tan rã, Hiệp Hội Kinh Tế Chính Trị Nhật Bản (JSPE) được thành lập vào năm 1959 với vai trò hiệp hội học thuật thuần túy với mục tiêu “nghiên cứu các lý thuyết kinh tế cơ bản, chủ yếu là Marxist”. JSPE khởi đầu với 247 thành viên nhưng số lượng tăng gấp đôi chỉ ít năm sau đó. Bản dịch Tư Bản của Marx được vài nhà xuất bản phát hành (Nihon Hyoronsha, Iwanami Shoten, Aoki Shoten, Kawade Shobo, vân vân).

Các nhà Marxist Nhật Bản đã trải qua rất nhiều cuộc tranh luận. “Tranh luận Chủ nghĩa tư bản Nhật Bản” (‘Nihon Shihonshugi Ronso’ hay ‘Hoken Ronso’) được tiếp tục từ thời kỳ tiền chiến giữa “phái Koza” (Koza-ha) và “phái Rono” (Rono-ha). Chủ đề chính của cuộc tranh luận là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản Nhật Bản và vấn đề nông nghiệp như địa tô mà các tá điền phải trả. Cuộc tranh luận không chỉ là chủ đề của giới học thuật mà còn là của báo chí. Chúng giúp phổ biến chủ nghĩa Marx và nâng cao trình độ nghiên cứu học thuật. Sau chiến tranh, cuộc tranh luận được gắn với những vấn đề mới, như sự phụ thuộc của Nhật Bản vào Hoa Kỳ, sự hồi sinh của chủ nghĩa tư bản Nhật Bản, cải tổ cơ cấu và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Các nhà Marxist Nhật Bản không chỉ làm việc trong lĩnh vực diễn giải mà cũng phân tích chủ nghĩa tư bản hiện đại.

Từ quan điểm quốc tế thì chúng ta không thể bỏ qua các nghiên cứu Marxist ở những quốc gia khác, ngoài những ảnh hưởng của Liên Bang Soviet trước đây và Stalin. Đề cập tới chủ nghĩa tư bản sau chiến tranh, có một cuộc tranh luận về Sự thay đổi của Chủ nghĩa tư bản do Thế Chiến thứ II của Valga (1947; xuất bản lần đầu 1945). Ông biên tập Kinh tế Thế giới và Chính trị Thế giới từ thời tiền chiến, tiên đoán khủng hoảng tài chính vào năm 1929, được biết đến như là một người bất đồng ở Liên Bang Soviet cũ và là tác giả của Lịch sử Khủng hoảng Kinh tế Thế giới ( do Nagasumi dịch, Keio Shobo; xuất bản lần đầu 1937). Ông lập luận rằng chủ nghĩa tư bản sẽ dẫn đến sự hồi sinh về kinh tế của thế giới sau Thế Chiến thứ II và bị cáo buộc là “kẻ cơ hội cánh hữu” trong lý thuyết về quốc gia và khủng hoảng. Cuộc tranh luận do Valga châm ngòi đã bị K. Zieschang, một nhà lý thuyết người Đức, biến thành một cuộc tranh luận về chủ nghĩa tư bản độc quyền quốc gia vào cuối những năm 1950. Việc triển khai những cuộc tranh luận này đã giúp rất nhiều cho các nhà kinh tế học Marxist trong việc thấu hiểu chủ nghĩa tư bản hiện đại.

Lý thuyết về sự phát triển tư bản chủ nghĩa của P. Sweezy2, M. Dobb3, và các nhà kinh tế học Marxist Châu Âu đã cho thấy những cách thức khác phân tích chủ nghĩa tư bản (tư bản tài chính và lợi ích nhóm, vân vân.). Nghiên cứu của L. Meek về lịch sử tư tưởng kinh tế là học thuyết giá trị được dịch sang tiếng Nhật4. Dobb đóng vai trò người hướng dẫn phê phán của lý thuyết phá triển, kinh tế học phá triển và kinh tế học phuc lợi cho các nhà kinh tế học Marxist Nhật Bản. Chủ nghĩa tư bản độc quyền (1966) của P. Sweezy  và P. Baran đã được đọc rộng rãi ở Nhật Bản nhưng phân tích của họ về ý tưởng “thặng dư tài chính” không phù hợp với kinh tế học Marxist Nhật Bản, vốn bắt đầu với học thuyết giá trị lao động. Phê phán của M. Kalecki và J. Robinson về kinh tế học tân cổ điển cũng như Marx cũng được đọc rộng rãi ở Nhật Bản. Mặc dù vậy họ không có nhiều ảnh hưởng đối với các nhà kinh tế học Marxist Nhật Bản, những người được truyền dạy một hệ thống khác về các nguyên lý kinh tế học. Mặc dù vậy, nhờ vào sự phê phán của họ, một số các nhà kinh tế học hậu Keynes đã xuất hiện ở Nhật Bản. Họ coi xung đột lợi ích giữa các giai cấp là quan trọng và chia sẻ quan điểm phê phán chủ nghĩa tư bản với các nhà kinh tế học Marxist. O. Lange, người có vị trí quan trọng trong chính quyền Ba Lan và nghiên cứu lý thuyết kinh tế kế hoạch với ứng dụng điều khiển học, có ảnh hưởng lớn ở Nhật Bản. Bản tiếng Nhật của cuốn Sản xuất Hàng hóa bằng Tư liệu Hàng hóa của P. Sraffa (Cambridge, 1960) mang đến cơ hội khôi phục “vấn đề chuyển hóa” cho các nhà kinh tế học Marxist. Mặc dù vậy, khi đã rõ rằng “giá trị lao động” được Sraffa, phái Sraffa, phái hậu Keynes coi như “sự lạc lối không cần thiết”, các nhà kinh tế học Marxist cảm thấy họ thuộc về một nhóm khác. Tác phẩm của các nhà kinh tế học nước ngoài đóng vai trò như là cơ sở đối thoại giữa các nhà kinh tế học Marxist và các nhà kinh tế học hiện đại.

4.1.3 Sự độc lập học thuật của kinh tế học Marxist

Từ thời kỳ tiền chiến, các nhà kinh tế học Marxist đã có đóng góp rất lớn vào nghiên cứu lịch sử tư tưởng kinh tế. Sự hình thành Hiệp Hội Kinh Tế Chính Trị Nhật Bản (JSPE) đã mở rộng các lĩnh vực nghiên cứu Marxist bao gồm lý thuyết cơ bản và phân tích thực tế. Các nhà kinh tế Marxist đã có vị trí ở các trường đại học chủ chốt và tạo thành một hệ thống đào tạo cho các học giả trẻ. Kinh tế học Marxist được dạy trong những khóa học như “kinh tế chính trị”, “kinh tế học Marxist” và “nguyên lý kinh tế học” (có nhiều khóa học khác chứa đựng phương pháp của kinh tế học Marxist).

Khoa học về quản trị kinh doanh được du nhập từ Hoa Kỳ đối lập với khoa học phê phán về quản trị kinh doanh mà các nhà Marxist phát triển. Tại hầu hết các trường đại học, các nhà kinh tế học hiện đại cạnh tranh với các nhà kinh tế học Marxist. Hơn nữa, sinh viên nghiên cứu kinh tế học Marxist ở trường khó có thể duy trì ý kiến phê phán và lý thuyết sau khi kiếm được việc làm trong các công ty thương mại. Một dạng “cải đạo để kiếm việc làm” đã được thấy vào những năm 1950. Các nhà kinh tế học Marxist Nhật Bản học các phương pháp kinh tế lượng, phân tích kinh tế tân cổ điển về chính sách kinh tế, phân tích về quan hệ công nghiệp, khái niệm độc quyền và phân tích thu nhập quốc gia. Mặc dù vậy, ngay cả một phần của kinh tế học hiện đại cũng mâu thuẫn với hệ thống lý thuyết được tạo thành từ các nguyên lý kinh tế của Tư Bản. Sinh viên, những người học Marx ở trường đại học, có thể kiếm được công việc tại công sở chính quyền và công ty thương mại. Mặc dù vậy, họ được kêu gọi học kiến thức cơ bản về kinh tế học hiện đại trong các khóa đào tạo cấp tốc. Sau đó, số lượng các học giả kinh tế học Marxist đã bắt đầu giảm xuống (xem Chương 2). Sự ảnh hưởng của kinh tế học Marxist về chính trị, tư tưởng và báo chí suy thoái sau đỉnh cao của họ vào những năm 1950.

4.2 Trưởng thành và phát triển: kỷ niệm 100 năm quyển I của Tư Bản (1967) và ngày mất của Marx (1983): “loạt xuất bản” và sự hình thành các trường phái

4.2.1 Khảo sát toàn diện về kinh tế học Marxist hậu chiến

Năm 1967 và năm 1983 là biểu tượng đối với các nhà kinh tế học Marxist. Được kỷ niệm vào năm 1967 là nhân dịp 100 năm xuất bản lần đầu tiên Tư Bản, vào năm 1983 là nhân dịp 100 năm ngày mất của Marx. Sau khoảng giữa những năm 1960, các nhà kinh tế học Marxist Nhật Bản đã bị chia rẽ thành các trường phái và tham gia vào các dự án học thuật hỗn hợp với các đồng nghiệp. Khoảng thời gian giữa năm 1967 và 1983 là thời kỳ vàng son của kinh tế học Marxist ở trong giới học thuật Nhật Bản. Mỗi nhóm đã xuất bản một số lượng lớn sách.

Vào đầu những năm 1950, Hiệp Hội Lý Thuyết Tín Dụng biên tập Koza Shinyoriron Taikei (Tập tiểu luận về Lý thuyết Tín dụng, 1956), là nỗ lực đầu tiên để phát triển lý thuyết tín dụng dựa trên phân tích của Marx kể tư khi hiệp hội được thành lập vào năm 1954. Asobe biên tập Shihonron Kenkyushi (Lịch sử Nghiên cứu Tư Bản, 1958) và phân loại các vấn đề tranh luận về Tư Bản kể từ thời tiền chiến. Các nhà kinh tế học Marxist không chỉ tham gia vào các nghiên cứu chi tiết về kinh tế học Marxist mà cũng cố gắng học hỏi kinh tế học hiện đại, cụ thể là các thành quả của đối thủ. Kishimoto và Tsuru biên tập Koza Kindai Kezaigaku Hihan (Tập tiểu luận về Đánh giá phê phán Kinh tế học hiện đại, 1956–57), làm rõ các nền tảng, tư tưởng và trụ cột của kinh tế học hiện đại, đề xuất một cuộc tranh luận về các vấn đề kinh tế hiện tại với các nhà kinh tế học hiện đại. Bao gồm cả các thành quả của kinh tế học hiện đại như lý thuyết về giá cả độc quyền, quan hệ công nghiệp, chu kỳ kinh doanh, phân phối tối ưu. Ikumi biên tập Koza Kyokoron (Tập tiểu luận về Lý thuyết Khủng hoảng, 1958–59), được lấy cảm hứng mạnh mẽ từ nghiên cứu về chu kỳ công nghiệp hay khủng hoảng cả từ quan điểm lịch sử kinh tế cũng như từ phân tích hiện thực.

Shihonron Chukai (Chú giải cho Tư Bản, 1962–64) của D. Rosenberg phản ánh quan điểm chính thống của Liên Bang Soviet trước đây, trở thành diễn giải tiêu chuẩn của Tư Bản ở Nhật Bản những năm 1960. Một loạt các tập tiểu luận tiếp theo đó. Watanabe biên tập Ronso Gendai no Keizairiron (Tranh luận: Lý thuyết Kinh tế học Hiện đại, 1962), một nỗ lực để tóm lược các câu hỏi lý thuyết liên quan đến các vấn đề đương đại. Uno biên tập Gendai Teikokushugi Koza (Chủ nghĩa đế quốc hiện đại, 1963) với một kế hoạch lớn về phân tích các đặc điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại như một tổng thể bằng cách mô tả các đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc. Uno biên tập Keizaigaku Taikei (Kinh tế học, 1962– 63) và giới thiệu các lý thuyết về phương pháp luận, các nguyên lý, chủ nghĩa đế quốc, kinh tế thế giới và Nhật Bản. Asobe biên tập Shihonron Koza (Tập tiểu luận về Tư Bản, 1963–64), Usami biên tập Marx Keizaigaku Taikei (Kinh tế học Marxist, 1966) và Uno biên tập Shihonron Kenkyu (Một nghiên cứu về Tư Bản, 1967–68) với ý định xem xét kinh tế học Marxist Nhật Bản thông qua Tư Bản. Sách của Asobe bao quát kinh tế học Marxist Nhật Bản, kinh tế học Marxist “chính thống” của Usami và trường phái Uno của Uno. Thế hệ các nhà kinh tế học Marxist đầu tiên sống từ thời tiền chiến đã thiết lập một hệ thống những người thừa kế tái tạo.

Hidaka biên tập Nihon no Marx Keizaigaku (Kinh tế học Marxist ở Nhật Bản, 1967) và mô tả từng nhà kinh tế học Marxist, trong đó có cả bản thân. Nó có cả cây phả hệ về các nhà kinh tế học Marxist Nhật Bản từ Toshihiko Sakai tới Kozo Uno. Đó là một công trình độc đáo về các học giả Marxist mà phương pháp của nó mô tả cách thức Uno thành công trong việc tạo dựng chủ quyền cho kinh tế học Marxist. JSHET biên tập Shihonron no Seiritsu (Sự hình thành Tư Bản, 1967) để tưởng nhớ 100 năm tập đầu tiên Tư Bản ra đời. Nó mô tả sự ra đời của Tư Bản trong sự so sánh với các nhà kinh tế đương đại thông qua quá trình viết Tư Bản và sự ảnh hưởng của nó đối với các quốc gia khác. Kuruma biên tập Marx-Lexikon zur politischen Okonomie [Marx-Từ điển về kinh tế chính trị học - HSCL] (1968–95) như là công trình để đời của mình. Đó là tác phẩm về Marx, viết theo ngôn ngữ của Marx và thảo luận theo quan điểm của Kuruma về cạnh tranh, phương pháp, quan điểm duy vật về lịch sử, khủng hoảng và tiền tệ.

Nghiên cứu về kinh tế học Marxist ở Nhật Bản đã tạo ra các công trình quan trọng trong việc nghiên cứu sự hình thành của kinh tế học Marxist. Grundrisse der Kritik der politischen Okonomie (Rohentwurf) [Đề cương Phê phán kinh tế chính trị học (Sơ thảo)] 1857–1858, được Viện Marx-Engels-Lenin Moscow cung cấp và nhà xuất bản Dietz, Berlin phát hành năm 1953, là một trong những bản thảo được viết trong nửa sau những năm 1850 khi Marx bắt đầu nghiên cứu về kinh tế. Nó cung cấp thông tin về giai đoạn giữa cuộc đời Marx và tạo ra một sự xúc động vào thời gian phát hành. Zur Entstehungsgeschichte des Marxschen ‘Kapital,’ Der Rohentwurf des ‘Kapital’ [Về lịch sử hình thành Tư Bản của Marx, Sơ thảo của Tư Bản - HSCL] 1857–1858, 2 tập, 1969 của R. Rosdolsky (bản tiếng Nhật; 1973-74) thảo luận về sự hình thành lý thuyết kinh tế của Marx trên cơ sở của Grundrisse, được xuất bản ở Nga trước chiến tranh. Nó chỉ ra rằng có một liên hệ chặt chẽ giữa Logic của Hegel và Grundrisse của Marx. Commentary Grundrisse [Bình luận về Đề cương - HSCL], một phần của Koza Marx Keizaigaku (Tập tiểu luận về kinh tế học Marxist, 1974–76), tạo ra một bước tiến lớn đối với việc nghiên cứu Grundrisse ở Nhật Bản. Động cơ rõ ràng thúc đẩy sự phổ biến kinh tế học Marxist có thể thấy vào những năm 1970. Usami và các tác giả biên tập Marx Shugi Keizaigaku Koza (Tập tiểu luận về kinh tế học Marxist, 1971), Shima và các tác giả biên tập Shin Marx Keizaigaku Koza (Tập tiểu luận mới về kinh tế học Marxist, 1972–76), Sugihara và Furusawa biên tập Marx Keizaigaku Zensho (Toàn tập về kinh tế học Marxist, 1973– chưa hoàn thành), Ouchi và các tác giả biên tập Shihonron Kenkyu Nyumon (Dẫn nhập về nghiên cứu Tư Bản, 1976), Sato và các tác giả biên tập Shihonron wo Manabu (Học hỏi Tư Bản, 1977). Uno biên tập Teikokushugi no Kenkyu (Một nghiên cứu về chủ nghĩa đế quốc) (1973–76), là một công trình đầy đủ của trường phái Uno về chủ nghĩa đế quốc. Takasuka biên tập Dokusen Shihonshugi no Tenbo (Quan điểm về chủ nghĩa tư bản độc quyền, 1978) và tóm lược các khảo sát về chủ nghĩa tư bản đương đại thông qua lý thuyết độc quyền. 

Vào năm 1983, một trăm năm sau ngày mất của Marx, có nhiều bài báo và sự kiện nổi bật đã xuất hiện. Mita biên tập Marx Shihonron no Kenkyu (Một nghiên cứu về Tư Bản của Marx, 1980) và Kobayashi biên tập Koza Shihonron no Kenkyu (Tập tiểu luận về nghiên cứu Tư Bản, 1980–82). Tbmizuka và các tác giả biên tập Shihonron Taikei (Loạt nghiên cứu về Tư Bản) (1983–chưa hoàn thành). Bình luận về Tư Bản (1980–83) của Hirata là tác phẩm bất hủ của những năm 1980 và một phản đề cho khuynh hướng của thời đại. Nhưng kinh tế học Marxist vẫn tìm con đường đi trong việc phân tích chủ nghĩa tư bản trên cơ sở phân tích nền kinh tế thực. Okishio và các tác giả biên tập Gendai Shihonshugi Bunseki (Phân tích về chủ nghĩa tư bản đương đại, 1980–chưa hoàn thành), và Koza Konnichi no Nihon Shihonshugi (Tập tiểu luận về chủ nghĩa tư bản Nhật Bản ngày nay, 1981–82) đã vượt qua sự diễn giải Tư Bản và cố gắng áp dụng phương pháp Marxist vào phân tích chủ nghĩa tư bản đương đại.

Dòng chảy liên tục trong truyền thống của kinh tế học Marxist có thể thấy được ở những nỗ lực giải thích ý tưởng của Marx và cố gắng biến chúng thành tài sản trí tuệ của toàn nhân loại. Kuruma và các tác giả biên tập Shihonron Jiten (Một từ điển về Tư Bản, 1961), Đại học thành phố Osaka biên tập Keizaigaku Jiten (Một từ điển về kinh tế học, 1965) và Keizaigaku Jiten (Một từ điển về kinh tế học, 1979) hầu hết dựa trên khái niệm Marxist về kinh tế. Xuất bản lần thứ hai và ba của từ điển thứ hai đã giảm đi màu sắc của kinh tế học Marxist và tăng thêm màu sắc của kinh tế học hiện đại.) Gendai Marxism-Leninism Jiten (Từ điển đương đại về chủ nghĩa Marx-Lenin, 1981–1982) nhận được sự đóng góp của hơn 170 học giả và cố gắng giải thích lịch sử, ý tưởng và khái niệm của Marx. Đại từ điển về các nhóm trong Marx (1998) là một từ điển mới và một sự kết hợp các khái niệm Marxist căn bản (tuyển tập các công trình của các nhóm), hình ảnh mới về Marx, đánh giá lại Marx và sự độc đáo trong ý tưởng và lý thuyết của ông.

4.2.2 Sự hình thành “bốn trường phái lớn” và không có “Sự Phục hưng Marx”

Thế giới học thuật của kinh tế học ở Nhật Bản có đặc trưng là sự tồn tại của hai quyền lực độc lập: kinh tế học hiện đại và kinh tế học Marxist. Kinh tế học Marxist có một số nhóm khác nhau.

Không có sự tồn tại giống như một trường phái như trong vật lý hay hóa học. Đặc trưng của khoa học vật lý hay hóa học là chúng có một hệ thống khách quan và để tạo ra một hệ thống thì nhiều nhà khoa học đóng góp vào đó, nếu công trình có giá trị thì tên của sự đóng góp khoa học sẽ được ghi nhận như là kiến thức phổ thông của mọi người. Trái lại, trong lĩnh vực kinh tế học, thời đại phong kiến với các xung đột giữa các hệ phái tiếp tục kéo dài. (Tsuru 1993:194-5)

Đoạn trích dẫn phía trên là từ một ngữ cảnh lập luận rằng “trường phái Schumpeter” không tồn tại. Kinh tế học Marxist ở Nhật Bản bị tác động bởi “xung đột giữa các trường phái” về lý thuyết và vấn đề của chúng. Có bốn nhóm chính; “trường phái chính thống”, “trường phái Uno”, “trường phái xã hội dân sự” và “trường phái Marxist toán học”. “Trường phái chính thống” cho rằng các cặp sau đây bình đẳng; kinh tế học kiểu Marxist và kinh tế học “Marxist”, lý thuyết và thực tiễn, khoa học và lý tưởng, logic và lịch sử. Nó bao gồm hầu hết các nhà kinh tế học Marxist Nhật Bản. Các học giả khác như “Uno” và “xã hội dân sự” đôi khi cũng nằm trong trường phái này. Chúng ta có thể gọi đây là “trường phái trung thành với Marx”. Các nhóm nghiên cứu sự hình thành của lý thuyết Marxist cũng nằm trong trường phái này.

Trường phái Uno khác biệt căn bản về nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu lịch sử và nghiên cứu chủ nghĩa tư bản hiện thực với các trường phái khác mặc dù hai trường phái cuối thường được pha trộn trong các nghiên cứu của trường phái Uno. Các ý tưởng dị giáo của Uno kích thích các cuộc tranh luận giữa các nhà kinh tế học Marxist Nhật Bản, mặc dù ông cố gắng thanh lọc Tư Bản của Marx và vượt qua Marx. Đáng chú ý là ông cố gắng tách biệt khoa học khỏi lý tưởng, không giống như “trường phái chính thống”. Ý tưởng của ông được lấy cảm hứng từ cuộc tranh luận về sự thay đổi của chủ nghĩa tư bản sau Thế Chiến thứ I ở Châu Âu (Bernstein, Kautsky, Hilferding và Lenin) và tranh luận về chủ nghĩa tư bản Nhật Bản giữa trường phái Koza với trường phái Rono vào những năm 1930. Dường như ông chống lại khuynh hướng của chủ nghĩa Stalin sau Thế Chiến thứ II (Miyazaki 1984:232).

Trường phái Uno tiếp tục có ảnh hưởng lớn đối với các thế hệ tiếp theo và tương đối nổi tiếng đối với các nhà kinh tế học Marxist nước ngoài (Uno 1980). “Trường phái xã hội dân sự” tiếp tục nghiên cứu về kinh tế học cổ điển và khôi phục lý thuyết đã bế tắc lâu về xã hội dân sự. Trường phái này, cũng giống như “trường phái Uno”, tẩy chay các diễn giải giáo điều về Marx do chủ nghĩa Stalin thâm nhập.

Nobuo Okishio (Krueer và Flaschel 1984) nổi tiếng về định lý Marx-Okishio (hay định lý nền tảng của Marx) và định lý Okishio. Okishio, cùng với Tsuneyoshi Seki, thể hiện sự phát triển về mặt toán học của kinh tế học Marxist ở Nhật Bản. Định lý Marx-Okishio công thức hóa lý thuyết của Marx về tái phân phối thu nhập. Định lý Okishio khẳng định rằng khi mức lương thực tế được cố định, công nghệ mới có chi phí thấp hơn thì tỷ suất lợi nhuân sẽ cao hơn. Ban đầu có sự phản đối mạnh mẽ đối với việc áp dụng các phương pháp toán học vào kinh tế học Marxist nhưng điều đó đã được chứng minh là một thành quả quan trọng để thúc đẩy việc nghiên cứu chi tiến kinh tế học Marxist (Okishio 1965; 1977; 1987) và các nghiên cứu hợp tác với kinh tế học hiện đại5. Sự thật không thể lãng quên là lý thuyết của Okishio đóng vai trò cầu nối giữa kinh tế học Marxist và kinh tế học hiện đại. Một cuộc đối thoại giữa các trường phái là khả thi nhờ có sự hiện diện của Okishio. Ví dụ, Okishio công bố Keizairiron to Gendai Shihonshugi (Lý thuyết kinh tế và chủ nghĩa tư bản đương đại) với Makoto Itoh vào năm 1987, Keizaigaku (Kinh tế học) với Mitsuhiko Tsuruta và Yasuhiko Yoneda, vào năm 1988, Marx, Keynes and Schumpeter với Yoshitsugu Kotani và Jun Ikegami vào năm 1991, Nihon Keizai no Suryobunseki (Phân tích kinh tế lượng về kinh tế Nhật Bản) với Masanori Nozawa vào năm 1983.

“Sự phục hưng Marx” không xảy ra ở Nhật Bản, khác với Châu Âu hay Bắc Mỹ. Một trong những lý do là sự khác biệt trong thái độ đối với chủ nghĩa giáo điều. Các nhà kinh tế học Châu Âu và Bắc Mỹ tuyệt đối chống lại chủ nghĩa Stalin và thậm chí là chống lại chủ nghĩa Lenin. Lý do khác là sự tồn tại của mối quan hệ căng thẳng với kinh tế học tân cổ điển ở đó. Kinh tế học được dạy ở trường học là kinh tế học tân cổ điển và có nhiều học giả Marxist có kiến thức về lý thuyết tân cổ điển. Các nhà kinh tế học Marxist được cho là chống lại trường phái tân cổ điển. Kinh tế học Marxist đã được thừa nhận là một “hệ thống kiến thức kinh tế” trong giới học thuật Nhật Bản và do vậy không cần phải chống lại kinh tế học hiện đại để được chấp nhận. Lý do thứ ba là sự diễn giải Marxist đa dạng. Các nhà kinh tế học Marxist Nhật Bản được khuyến khích đọc Marx theo truyền thống. “Sự Phục hưng Marx” tạo ra cơ hội cho các tác phẩm độc đáo và đặc biệt như diễn giải cấu trúc về Tư Bản (L. Althusser), phủ nhận các khái niệm nguyên gốc của Marx, cải biến khái niệm giá trị dựa trên phương pháp toán học (C. F. Clause), đánh giá lại mâu thuẫn giữa tỷ suất lợi nhuận suy giảm và sự vận động sóng dài hạn (J. Grin, B.Satcriff và E. Mandel), lý thuyết phụ thuộc về tích lũy (S. Amin và A. G. Frank), lý thuyết bóc lột và quyết định định lượng (J. E. Roemer). Tại những nước kinh tế phát triển hơn Nhật Bản, kinh tế học Marxist đã hoàn toàn bị loại bỏ khỏi giới học thuật cho đến khi có “Sự Phục hưng Marx”. Sự hình thành của Đại Hội Kinh Tế Học Xã Hội Chủ Nghĩa (CSE) ở Anh và Liên Đoàn Kinh Tế Chính Trị Học Cực Đoan (URPE) ở Hoa Kỳ đánh dấu đỉnh cao của “Sự Phục hưng Marx”. Marx được coi là “một người thuộc phái Ricardo không đáng chú ý” theo lời của Samuelson nhưng giờ là “một scandal” để tẩy chay Marx. Ông được thừa nhận là “một nhà kinh tế học toán”, giống như Walras trong kinh tế học tân cổ điển.

Các lý thuyết của Otsuka, Okochi và Sugimoto cũng không thể không nhắc tới. Các lý thuyết lịch sử của Otsuka có ảnh hưởng lớn không chỉ đối với kinh tế học mà cả đối với khoa học xã hội nói chung. Sự quan tâm của ông chủ yếu trong lịch sử kinh tế của Châu Âu hiện đại nhưng ông cũng bóc tách ra sự nhất quán của lịch sử từ hiện đại hóa tới xã hội dân sự, can dự sâu rộng vào chỉ dẫn về Nhật Bản “chậm phát triển” và triển vọng của xã hội tương lai. Lý thuyết và phương pháp của Otsuka có tác động vô cùng lớn đối với kinh tế học Marxist Nhật Bản. Ví dụ, lý thuyết về tư bản tiền tư bản chủ nghĩa, sự hình thành xã hội tư bản, sự hình thành “vùng thị trường khu vực”, xã hội hợp tác, kiểu con người hiện đại với khái niệm kinh tế và đạo đức và đặc trưng chủng tộc, phương pháp khoa học xã hội được biết đến như “vấn đề Weber-Marx”. Lý thuyết của Okochi cũng phi thường, ông cố gắng giải thích sự cần thiết của chính sách xã hội từ góc độ sự tất yếu nội tại trong chủ nghĩa tư bản, khẳng định đặc trưng thứ bậc của chính sách xã hội. Ông cho rằng mục tiêu của chính sách xã hội không phải là người lao động mà là bản thân lao động. Ông tin rằng sự quan trọng của Luật Bảo Vệ Lao động nằm ở sự duy trì lao động. Lý thuyết của Okichi bắt nguồn từ Weber cũng như nhiều lý thuyết khoa học xã hội khác của Nhật Bản. Lập luận của Sugimoto rằng kinh tế học Marxist và kinh tế học hiện đại nên thống nhất một cách nổi bật ở Nhật Bản. Phần quan trọng trong lý thuyết của Sugimoto bình luận phân tích về sự phi cân bằng của thị trường và giá cả, cuối cùng kết thúc bằng khủng hoảng thị trường thế giới, vấn đề không giải quyết được trong phê phán có tính hệ thống của kinh tế học Marxist, để thúc đẩy phân tích kinh tế.  Ông tìm thấy hi vọng trong phân tích toán học về Tư Bản. Lập luận của ông vẫn là một khuôn khổ nghiêm túc để các nhà kinh tế học Marxist Nhật Bản theo đuổi.

4.2.3 Sự phát triển của kinh tế học Marxist

Kinh tế học Marxist ảnh hưởng tới việc lập chính sách thực tế khi Nhật Bản tái khởi đầu sau chiến tranh. Các nhà kinh tế học Marxist tham gia vào quá trình lập pháp và thi hành chính sách dân chủ hóa hậu chiến cùng với các quan chức chính quyền. Nhiều nhà kinh tế học Marxist đã làm việc trong nhiều ủy ban khác nhau ở cả cấp trung ương và địa phương. Shitego Tsuru cùng với kinh tế chính trị độc đáo của ông (ông là tác giả của Sách Trắng Kinh Tế đầu tiên ở Nhật Bản sau chiến tranh) đặt cơ sở cho các công trình của ông về phê phán kinh tế thị trường bắt nguồn từ sự đồng cảm của ông với trường phái thể chế, nền dân chủ Hoa Kỳ và sự yêu thích kinh tế học Marxist.

Kinh tế học Marxist đã chứng tỏ được giá trị trong lĩnh vực lý thuyết chu kỳ kinh doanh, cơ cấu công nghiệp, sáng chế kỹ thuật, tài chính công, lý thuyết tài chính-tín dụng-chứng khoán, lý thuyết nông nghiệp, kinh tế lao động, vân vân. Các nhà kinh tế học Marxist là những người đầu tiên nêu ra vấn đề đô thị và môi trường ở Nhật Bản sau năm 1960. Họ đã đào sâu vấn đề vì vấn đề cần có phân tích kinh tế. Sự hợp tác với các học giả và các nhà kinh tế học hiện đại trong các lĩnh vực học thuật khác cũng cần phải được đề cập. Phân tích kinh tế đầu tiên về vấn đề đô thị được nói tới là Sumiyoi Nihon (Nhật Bản có thể cư trú, Ito và các tác giả, 1964). Cơ sở của phân tích này là phạm trù kinh tế về nhu cầu xã hội và chi phí xã hội, chỉ dẫn về giải pháp được tìm kiếm trong nguyên lý “tư liệu công cộng, lập kế hoạch hiệu quả, đối tượng dân chủ, kết quả bình đẳng”. Shakai Shihonron (Lý thuyết về tư bản xã hội, 1967) của Miyamoto phát triển lập luận này.

Sự tập trung tư bản và sự tích lũy dân cư lao động theo không gian diễn ra tại các thành phố của xã hội tư bản. Người lao động cần tư liệu tiêu dùng công cộng như là điều kiện chung của tái sản xuất lao động. Tư liệu tiêu dùng công công phải được tư bản xã hội hay quyền lực công đề xuất và cung cấp. Nhưng xã hội tư bản có khuynh hướng cắt giảm tư liệu tiêu dùng công cộng và xã hội để gia tăng tỷ suất lợi nhuận của tư bản. Công nhân càng tập trung nhiều và giá trị của lao động càng tăng, do vậy sự cần thiết của các tư liệu tiêu dùng xã hội và công cộng tăng lên. Mặc dù vậy tích lũy tư bản đòi hỏi phải cắt giảm chúng. Ông định nghĩa “vấn đề đô thị” là “sự khó khăn bắt nguồn từ sự cần thiết không được đáp ứng của tiêu dùng xã hội và công cộng của giai cấp công nhân” trong tác phẩm Nihon no Toshi Mondai (Vấn đề đô thị ở Nhật Bản, 1969)

Phương pháp của Marx có hiệu quả đối với vấn đề ô nhiễm trong một nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Osoroshii Kogai (Ô nhiễm khủng khiếp, 1964) của Shoji và Miyamoto là phân tích về ô nhiễm môi trường bằng cả hai phương pháp kinh tế và khoa học tự nhiên. Gendai Shihonshugi to Kogai (Chủ nghĩa tư bản đương đại và ô nhiễm, 1968) của Tsuru là một nghiên cứu toàn diện về ô nhiễm, trong đó có định nghĩa về ô nhiễm, các dạng ô nhiễm (công nghiệp, đô thị, chính trị) và tổn thất xã hội do ô nhiễm gây ra.

Lý thuyết của Ikegami về phát triển con người là một nỗ lực xem xét chính sách công thông qua thông tin, giáo dục và văn hóa. Ikagami xuất bản nhiều sách, trong đó có Zaiseigaku (Tài chính công, 1990) của ông từ năm 1965 tới nay (xem phần tham khảo). Theo Ikegami thì đó là một đề xuất về phả hệ từ Hajime Kawakami, Ruskin tới Marx.

4.3 Chủ nghĩa hoài nghi và cuộc đấu tranh mới: Cách mạng Đông Âu 1989; Sự tan rã của Liên Bang Soviet; tính tương đối của Marx và Marx là một chủ đề của lịch sử kinh tế học; Tư Bản (từ sách thánh thành cổ điển)

4.3.1 Tính tương đối của kinh tế học Marxist

Đầu tiên, với sự chấm dứt đối đầu chính trị qua các cuộc cách mạng ở Đông Âu và sự tan rã của Liên Bang Soviet, việc nghiên cứu Marx không còn là tuyệt đối. Hình mẫu kinh tế học Marxist như là duy nhất và sự thật duy nhất đã bị thực tế lật đổ, việc nghiên cứu Marx trở thành một lĩnh vực của lịch sử kinh tế học. Điều này bị coi là sự rút lui đối với một số học giả Marxist nhưng thực sự không phải vậy. Marx đã được giải phóng khỏi bùa mê của lý tưởng. Marx không còn thuộc về một chế độ chính trị đặc biệt hay một lý tưởng, mà trở thành tài sản chung của nhân loại.

Thứ hai, cần phải thừa nhận rằng sự siêu việt của kinh tế học Marxist không thể chứng minh bằng cách nào ngoài sự chính xác của các phân tích hiện thực. Chìa khóa không nằm ở việc diễn giải Tư Bản mà là ở phân tích hiện thực. Bob Rowthorn chỉ ra chính xác yếu điểm của các nhà kinh tế học Marxist Nhật Bản trong lời bạt bản tiếng Nhật cuốn Logic của chủ nghĩa tư bản đương đại. “Các nhà kinh tế học Marxist Nhật Bản dường như không nhận được nhiều đào tạo chính thống trong kinh tế.”

Thứ ba là nhận thức về khủng hoảng khiến nhiều trường phái của kinh tế học Marxist, được hình thành tất yếu trong thời vàng son của chủ nghĩa Marx, phải ngừng đối đầu với nhau. Gendai Shihonshugi wo Domiruka (Chúng ta nhìn nhận chủ nghĩa tư bản đương đại ra sao, 1997) của Kitahara, Itoh và Yamada cho thấy tầm quan trọng của việc hợp tác để vượt qua khủng hoảng và sự khác biệt giữa các trường phái. Sau “Sự Phục hưng Marx” thì sự cộng sinh của kinh tế học Marxist và kinh tế học hiện đại trở thành một hiện tượng phổ biến không chỉ ở Nhật Bản mà còn ở tất cả các nước tư bản phát triển. Sự cộng sinh của kinh tế học Marxist và kinh tế học hiện đại, vốn bị phân tách bởi Tư Bản của Marx và cuộc cách mạng chủ nghĩa cận biên, đã trở thành một hiện tượng phổ biến khắp thế giới. Hai môn kinh tế học đã bắt nguồn từ hai phương thức tư duy khác nhau. Kinh tế học Marxist đang ở bước ngoặt của nó.

Có một số nghiên cứu mới về Marx ở Châu Âu và Châu Mĩ xuất hiện như một dòng nghiên cứu mới sau “Sự Phục hưng Marx”, kinh tế học vĩ mô mang tính cấu trúc và trường phái điều tiết. Sự phức tạp của kinh tế là cố gắng tạo ra một lý thuyết mới sử dụng khoa học máy tính và lý thuyết trò chơi. Sự ảnh hưởng của nó đối với kinh tế học Marxist là không thể tránh khỏi. Kinh tế học tiến hóa, với nhiều nhà kinh tế học Marxist làm việc trong đó, là một phương thức khác để hồi sinh Marx.

4.3.2 Nghiên cứu bản thảo của Marx và Engels: xuất bản MEGA và các khả năng mới

Các nhà kinh tế học Marxist đang phải thay đổi do chúng ta bước vào một thời đại mới. Trước khi kết luận chương này, phương hướng nghiên cứu lịch sử của các nhà kinh tế học Marxist cần được xem xét. Điều đó bắt đầu với việc thừa nhận sự thật là các tác phẩm của Marx và Engels chưa hoàn toàn được công khai vì một số lý do chính trị. Ít nhất, vào cuối thế kỷ 20, việc xuất bản MEGA (từ năm 1975) đã tạo ra khả năng thấy được toàn bộ tư tưởng của Marx và Engels. Vào tháng 11 năm 1997, việc thành lập MEGA-Arbeitsstelle Nhật Bản được ủy ban của Viện Quốc Tế Marx-Engels (IMES, Amsterdam) chấp thuận. Quyết định được đưa ra là Otani sẽ biên tập MEGA, quyển II, tập 11, phần 2 (Từ bản thảo số III đến số VIII của Marx về Tư Bản, quyển II) và nhóm của Omura biên tập tập 12 và tập 13 (bản thảo biên tập của Engel về Tư Bản, quyển II và lần xuất bản thứ nhất và thứ hai). Phần được xuất bản của MEGA đã chứng minh hàng trăm điểm khác nhau giữa bản thảo gốc của Marx và ấn bản của Engels dựa trên kết quả nghiên cứu của Internationaal Instituuto voor Sociale Geschiedenis (IISG, Amsterdam). Shibuya biên tập Sự khôi phục hoàn hảo ấn phẩm hệ tư tưởng Đức (1998) dựa trên bản thảo gốc của IISG và đóng vai trò giải mã một số ấn bản khác của bản thảo và bổ sung vào những đoạn hư hại của văn bản. Bản thảo Tư Bản lần đầu tiên được dịch sang tiếng Nhật là Karl Marx: Bản thảo kinh tế (1978-94) trong loạt xuất bản MEGA, hỗ trợ việc nghiên cứu Marx ở Nhật Bản. Để hỗ trợ việc nghiên cứu các tác phẩm của Marx và Engel, việc giải mã các bản thảo gốc vốn chỉ được thực hiện ở Đông Đức và Liên Bang Soviet giờ đã được các học giả Nhật Bản đảm nhiệm. Việc xuất bản và nghiên cứu các văn bản cơ bản khiến điều này khả thi.

Trước khi MEGA Marx-Engels-Werke (MEW) được dịch và xuất bản, bản dịch tiếng Nhật đã xuất hiện là Marx-Engels Zenshu (1959–91). Có một số tuyển tập được xuất bản trước đó và chúng góp phần vào việc nghiên cứu cũng như phổ biến kinh tế học Marxist (Tuyển tập Marx-Engels, 23 tập, 1946–52, Tuyển tập Marx-Engels, 8 tập, Tuyển tập Marx-Engels, 16 tập, 1956–57, vân vân.). Các tác phẩmtuyển tập không do viện thuộc về một số đảng chính trị xuất bản, như ở Đông Đức hay Liên Bang Soviet, mà là các nhà xuất bản thương mại như Otsuki Shoten và Shincho-sha, với sự biên tập của các nhà kinh tế học Marxist. Chúng ta phải thừa nhận sự thật là các văn bản của Marx và Engels đã trở thành tài sản chung của tất cả các học giả Marxist ở Nhật Bản. Đáng chú ý là công trình toàn diện, không thể in do thiếu vốn, đã được hồi sinh dưới dạng Ấn bản CD-ROM Tác phẩm Marx-Engels (1996) bằng cách sử dụng công nghệ vẽ và xử lý hình ảnh. Bản sao gốc của Marx và Engels ở Moscow và Amsterdam cũng được xuất bản (Bản sao Đề cương kinh tế chính trị học (Sơ thảo), 1997). Ít nhất việc các tư liệu bán nguyên bản này xuất hiện cũng có nghĩa là việc nghiên cứu Marx trên danh nghĩa và thực tế là một chủ để công khai được theo đuổi trong giới học thuật. Giờ đây với tác phẩm của Marx và Engels được công khai trên mạng Internet thì phạm vi nghiên cứu Marx được mở rộng nhiều.

4.3.3 Nghiên cứu lịch sử của kinh tế học Marxist và việc ứng dụng các phân tích

Tác phẩm của Marx và Engels đang chuyển từ “sách thánh” sang “cổ điển”. Để khôi phục việc nghiên cứu Marx thì nghiên cứu hoàn chỉnh về lịch sử kinh tế học Marxist rất quan trọng. Ngay cả khi nghiên cứu kinh tế học Marxist nói chung không hoạt động, nếu chỉ còn một lĩnh vực nghiên cứu có thể thu hút các học giả, việc nghiên cứu Marx vẫn sẽ tiếp tục tồn tại như là một phần của nghiên cứu lịch sử kinh tế học.

Để kinh tế học Marxist tiếp tục được tin tưởng như kinh tế học của thế kỷ 21, cần phải chấm dứt “xung đột giữa các trường phái” và tiến hành các nghiên cứu thực tế về chủ nghĩa tư bản đương đại. Sự cộng sinh của kinh tế học Marxist và kinh tế học hiện đại mang lại một số dấu hiệu đáng chú ý chỉ có thể bằng sự nỗ lực của cả hai phía và sự phê phán mang tính xây dựng. Kinh tế học Marxits sẽ tỏa sáng như một công cụ đầy sức mạnh để phân tích và giải thích các hiện thực của thế giới mà chúng ta đang sống.

Notes

1 Hitoshi Kihara (1893–1986) said, The history of the earth is recorded in the layers of its crust; the history of all organizations is inscribed in the chromosomes.’

2The Theory of Capitalist Development; Principles of Marxian Political Economy, NewYork, 1942. Karl Marx and the Close of His System by E.von Böhm-Bawerk and Böhm-Bawerk’s Criticism of Marx by R.Hilferding, New York, 1949. Socialism, NewYork, 1949. The Present as History; Essays and Reviews on Capitalism and Socialism, NewYork, 1953. Cuba; Anatomy of a Revolution, New York, 1960. (With Baran) Monopoly Capital; An Essay on the American Economic and Social Order, NewYork, 1966. (With H. Magdoff) The Dynamics of U.S. Capitalism; Corporate Structure, Inflation, Credit, Gold, and the Dollar, New York, 1972. Modern Capitalism and Other Essays, New York, 1972. (With H.Magdoff) The End of Prosperity, New York, 1978. Post-Revolutionary Society, New York, 1980.

3There are many Japanese translations after World War II; Political Economy and Capitalism; Some Essays in Economic Tradition, London, 1937. Studies in the Development of Capitalism, London, 1946. Soviet Economic Development since 1917, London, 1948. Some Aspects of Economic Development; Three Lectures, Delhi, 1951. On Economic Theory and Socialism; Collected Papers, London, 1955. Capitalism, Yesterday and Today, London, 1958. An Essay on Economic Growth and Planning, London, 1960. Papers on Capitalism; Development and Planning, London, 1967. Theories of Value and Distribution since Adam Smith, Cambridge, 1973.
4Studies in the Labor Theory of Value, London, 1956. 2nd edition, 1973. Some of his works were translated into Japanese; Economics and Ideology, and Other Essays, London, 1967; Smith and After, London, 1977.

5Okishio was the president of the Japan Association of Economics and Econometrics (now, thejapanese Economic Association) in 1979–80.

References and further reading

Asobe, K. (ed.) (1958) Shihonron Kenkyushi (A History of Studying Das Kapital), Kyoto: Minerva Shobo.

Asobe, K. et al. (ed.) (1963–64) Shihonron Koza (Symposium on Das Kapital), Tokyo: Aoki Shoten.

Choryu Koza Keizaigaku Zenshu (Choryu Symposium on Economics) (1949), Tokyo: Choryusha.

Credit Theory Society (ed.) (1956) Koza Shinyo Riron Taikei (Symposium on Credit Theory), Tokyo: Nihon Hyoron Shin-sha.

Economic Section of Democratic Scientists Associations (ESDSA) (ed.) (1951–53) Koza Shihonron no Kaimei (Symposium on the Elucidation of Das Kapital),Tokyo: Rironsha.

Economic Section of Democratic Scientists Associations (ed.) (1955–56) Keizaigaku Kyokasho Gakushu Koza (Symposium on Learning the Textbook of Economics).

Hidaka, S. et al. (ed.) (1967) Nihon no Marx Keizaigaku (Marxian Economics injapan), Tokyo: Aoki Shoten.

Hirata, K. (1980–83) Commentary Das Kapital, Nihon Hyoronsha.

Ikegami, J. (1965) Kokka Dokusen Shihonshugiron (Theory of State-monopolistic Capitalism), Tokyo: Yuhikaku.

Ikegami, J. (1977) Kokka Dokusen Shihonshugi Ronso (Controversy of State-monopolistic Capitalism), Tokyo: Aoki Shoten.

Ikegami, J. (1978) Amerika Shihonshugi no Keizai to Zaisei (The Economy and Public Finance in the US), Tokyo: Otsuki Shoten.

Ikegami, J. (1979) Chiho Zaiseiron (Theory of Regional Finance), Tokyo: Dobunkan.

Ikegami, J. (1980) Gendai Kokkaron (Theory of Contemporary State), Tokyo: Aoki Shoten.

Ikegami, J. (1981) Nihon Keizairon (Theory of the Japanese Economy), Tokyo: Dobunkan.

Ikegami, J. (1984) Kanri Keizairon (Theory of Administrative Economics), Tokyo: Yuhikaku.

Ikegami, J. (1984) Johoka Shakai no Seijikeizaigaku (Political Economy of Information Society), Kyoto: Showado.
Ikegami, J. (1990) Zaiseigaku (Public Finance), Tokyo: Iwanami Shoten.

Ikegami, J. (1991) Keizaigaku (Economics),Tokyo: Aoki Shoten.

Ikegami, J. (1994) Gendai Keizaigaku to Kokyo Seisaku (Contemporary Economics and Public Policy), Tokyo: Aoki Shoten.

Ikegami, J. (1996) Multi Media Shakai no Seiji to Keizai (Politics and Economy in Multimedia Society), Kyoto: Nakanishiya Shuppan, 1996.

Ikeo, A. (1996) ‘Marxist economics in Japan’, Kokugakuin Keizaigaku 44 (3/4): 425–51.

Ikumi, T. et al. (ed.) (1958–59) KozaKyokoron (Symposium on theTheory of Economic Crisis), Tokyo: Toyo Keizai Shinpo-sha.

Ikumi, T. et al. (ed.) (1963) Gendai Teikokushugi Koza (Symposium on Contemporary Imperialism), Tokyo: Nihon Hyoron Shinsha.

Ishii, N. et al. (eds) (1998) The Cyclopedia of Categories in Marx, Tokyo: Aoki Shoten.

Ito, M. et al. (ed.) (1964) Sumiyoi Nihon (Inhabitablejapan),Tokyo: Yuhikaku.

JSHET (ed.) (1967) Shihonron no Seiritsu (The Formation of Das Kapital),Tokyo: Iwanami Shoten.

JSHET (ed.) (1984) Nihon no Keizaigaku (Economics in Japan), Toyo Keizai Shinposha. Kawakami, H. (1951–52) Shihonron Nyumon (Introduction to Das Kapital), Tokyo: Aoki Shoten (1st edn., 1932).

Kishimoto. S. and S.Tsuru (eds) (1956–57) Koza Kindai Keizaigaku Hihan (Study Series: Criticism to Modern Economics), Toyo Keizai Shinposha.

Kitahara, I., M.Itoh and T.Yamada (1997) Gendai Shihonshugi wo Domiruka (How We See Contemporary Capitalism) Tokyo: Aoki Shoten.

Kobayashi, N. et al. (eds) (1980–82) Koza Shihonron no Kenkyu (Symposium on the Study of Das Kapital), Tokyo: Aoki Shoten.

Krüeer, M. and P.Flaschel (eds) (1984) Nobuo Okishio: Essays on Political Economy, Frankfurt am Main: Verlag Peter Lang Gmb H.

Koza Gendai Keizaigaku Hihan (Study Series: Criticism to Contemporary Economics) (1974– 75), Tokyo: Nihon Hyoron-sha.

Koza Kon-nichi no Nihon Shihonshugi (Symposium on Japanese Capitalism Today) (1981–82), Tokyo: Otsuki Shoten.

Koza Marx Keizaigaku (Symposium on Marxian Economics) (1974–76), Tokyo: Nihon Hyoron-sha.

Kozo, U. (1980) Principles of Political Economy. Theory of Purely Capitalist Society, Brighton: Harvester Press.

Kuruma, S. (1949) Marx Kyokoron Kenkyu (A Study of Marxian Economic Crisis), Hokuryukan, Revised edition, Tokyo: Otsuki Shoten.

Kuruma, S. (ed.) (1968–95) Marx-Lexikon zur politischen Ökonomie,Tokyo: Otsuki Shoten.

Kuruma, S. et al. (eds) (1961) Shihonron jiten (A Dictionary of Das Kapital), Tokyo: Aoki Shoten.

Kushida, T. (1947) Kushida Tamizo Zenshu (Complete Works of Tamizo Kushida), Tokyo: Kaizosha.

Mita, S. et al. (eds) (1980) Marx Shihonron no Kenkyu (A Study of Marx’s Das Kapital), Tokyo: Shinnihon Shuppansha.

Miyamoto, K. (1967) Shakai Shihonron (A Theory of Social Capital), Tokyo: Yuhikaku.

Miyamoto, K. (1969), Nihon no Toshi Mondai (Urban Problems in Japan), Tokyo: Chikuma Shobo.

Miyazaki, S. (1984) ‘Sengo no Marx keizaigaku’ (Marxian Economics after WWII), In JSHET (ed.) (1984).

Nihon Shihonshugi Koza (Symposium on Japan Capitalism) (1953–54), Tokyo: Iwanami Shoten.

Okazaki, N. (ed.) (1981–82) Gendai Marx-Lenin Shugi Jiten (Contemporary Dictionary of Marxism-Leninism), Tokyo: Shakai Shisosha.

Okishio, N. (1965) Shihonsei Keizai no Kisoriron (Basic Theory of Capitalistic Economy), Tokyo: Sobunsha. Revised edition, 1975.

Okishio, N. (1977) Marx Keizaigaku (Marxian Economics),Tokyo: Chikuma Shobo.

Okishio, N. (1987) Marx Keizaigaku II (Marxian Economics II),Tokyo: Chikuma Shobo.

Okishio, N. and M.Itoh (1987) Keizairiron to Gendai Shihonshugi (Economic Theory and Contemporary Capitalism) Tokyo, Iwanami Shoten.

Okishio, N.,Y.Kotani and J.Ikegami (1991) Marx, Keynes and Schumpeter, Tokyo: Otsuki Shoten.

Okishio, N. and M.Nozawa (1983) Nihon Keizai no Suryobunseki (Econometric Analysis of Japan Economy), Tokyo: Otsuki Shoten.

Okishio, N., M.Tsuruta,Y.Yoneda (1988) Keizaigaku (Economics),Tokyo: Otsuki Shoten.

Okishio, N. et al. (eds) (1980–incomplete) Gendai Shihonshugi Bunseki (An Analysis of Contemporary Capitalism), Tokyo: Iwanami Shoten.

Ouchi, H. et al. (eds) (1976) Shihonron Kenkyu Nyumon (Introduction to the Study of Das Kapital), Tokyo: Tokyo Daigaku Shuppankai.

Osaka City University (ed.) (1965) Keizaigaku Jiten (A Dictionary of Economics), Tokyo: Iwanami Shoten.

Osaka City University (ed.) (1979) Keizaigaku Jiten (A Dictionary of Economics), Tokyo: Iwanami Shoten.

Rosenberg, D. (1962–64) Shihonron Chukai (Annotations to Das Kapital), Tokyo: Aoki Shoten.

Rosdolsky, R. (1969) Zur EntstehungsgeschichtedesMarxschen ‘Kapital’, der Rohentwurf des ‘Kapital’ 1857–1858, 2 vols (Japanese translation; 1973–74).

Sato, K. etal. (eds) (1977) Shihonron wo Manabu (Learning Das Kapital), Tokyo: Yuhikaku.

Shibuya, T. (1998) Perfect Restoration Edition Deutsche Ideologic, Tokyo: Shin Nihon Shuppansha.

Shima, Y. et al. (eds) (1972–76) Shin Marx Keizaigaku Koza (New Symposium on Marxian Economics), Tokyo: Yuhikaku.

Shoji, H. and K.Miyamoto (1964) Osoroshii Kogai (Terrible Pollution), Tokyo: Iwanami Shoten.

Sraffa, P. (1960) Production of Commodities by Means of Commodities, Cambridge: Cambridge University Press.

Sugihara, S. and T.Furusawa (ed.) (1973—incomplete) Marx Keizaigaku Zensho (Complete Works on Marxian Economics), Tokyo: Dobunkan.

Sugimoto, E. (1949) Kindai Keizaigaku no Kihon Seikaku (Fundamental Characters of Modern Economics), Tokyo: Nihon Hyoron-sha.

Sweezy, P. and P.Baran (1996) Monopoly Capitalism: An Essay on the American Economic and Social Order, NewYork: Monthly Review Press.

Takashima. Z. (1946) Adam Smith no Shimin Shakai Taikei (Adam Smith’s Civil Society), Tokyo: Kawade Shobo.

Takasuka, Y. (ed.) (1978) Dokusen Shihonshugiron no Tenbo (Perspective on Monopoly Capitalism), Tokyo: Toyo Keizai Shinpo-sha.

Tomizuka, R. et al. (eds.) (1983–incomplete) Shihonron Taikei (Study Series on Das Kapital), Tokyo: Yuhikaku.

Tsuru, S. (ed.) (1968) Gendai Shihonshugi to Kogai (Contemporary Capitalism and Pollution) Tokyo: Iwanami Shoten.

Tsuru, S. (1993) [1964] Kindai Keizaigaku no Gunzo (Group of Modern Economics), Nihon Keizai Shimbun-sha, 1964; Shakai Shisosha, 1993.

The Union of National Economics Associations in Japan (ed.) (1974–75) Keizaigaku no Doko (Economics Trends),Tokyo: Toyo Keizai Shinpo-sha (2nd series, 1982).

Uno, K. (1949) Shihonron no Kenkyu (A Study of Das Kapital), Tokyo: Iwanami Shoten.

Uno, K. (1951) Keizai Seisakuron (Theory of Economic Policy), Tokyo: Kobundo.

Uno, K. (ed.) (1962–63) Keizaigaku Taikei (Economics), Tokyo: Tokyo Daigaku Shuppankai.

Uno, K. (ed.) (1967–68) Shihonron Kenkyu (A Study of Das Kapital), Tokyo: Chikuma Shobo.

Un, K. (ed.) (1973) Teikokushugi no Kenkyu (A Study of Imperialism), Tokyo: Aoki Shoten.

Usami. S. et al. (eds) (1966) MarxKeizaigakuTaikei (Marxian Economics),Yuhikaku.

Usami. S. et al. (eds) (1971) MarxKeizaigakuTaikei (Marxian Economics), Tokyo: Shinnihon Shuppan-sha.

Valga, E.S. (1945) Changes of Capitalism as a result of World War II, 945, Moscow: Progress Publishers (translated in Japanese 1947).

Watanabe, S. (ed.) (1962) Ronso Gendai no Keizai Riron (Controversy: Contemporary Economic Theory), Tokyo: Nihon Keizai Hyoron-sha.

Yamada, M. (1948) Saiseisan Katei Hyoshiki Bunseki Joron (Introductory Analysis of Process of Reproduction), Tokyo: Kaizo-sha.


Yamada, T. (1998) ‘Economic development and economic thought after World War II: economic development and Marxian political economy’, in Sugihara, S. and Tanaka, T. (eds.) (1998) Economic Thought and Modernization in Japan, Cheltenham: Edward Elgar.