Wednesday, October 29, 2014

Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương: Có muốn vội cũng không được

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "US-Japan conflicts stall Obama’s Trans-Pacific economic pact" của tác giả Mike Head, bình luận những tin tức mới nhất về Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương. Tiêu đề do người dịch đặt

Xung đột Hoa Kỳ-Nhật Bản trì hoãn hiệp định kinh tế xuyên Thái Bình Dương của Obama

Những cuộc đàm phán kéo dài cả tuần ở Canberra, tiếp sau ba ngày hội nghị cấp bộ trưởng ở Sydney cuối tuần trước, đã thất bại trong việc khơi thông bế tắc giữa chính phủ Hoa Kỳ và Nhật Bản về dự thảo Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP).

TPP là hiệp định được chính quyền Obama thúc đẩy mạnh mẽ để thiết lập sự thống trị kinh tế không thể thách thức ở Châu Á-Thái Bình Dương. Sự thất bại của hội nghị trong việc tạo ra một bước tiến để hoàn tất hiệp định, bất chấp sức ép gia tăng của Hoa Kỳ, là một biện pháp gây ra căng thẳng kinh tế và địa chiến lược toàn cầu, không chỉ giữa Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nga, mà còn là giữa Hoa Kỳ và các đế quốc kình địch chủ chốt, đáng chú ý là Nhật Bản.

Bốn năm sau khi cựu chính phủ của Đảng Dân Chủ Nhật Bản lần đầu tiên cho thấy sự sẵn sàng tham gia vào TPP, và 18 tháng sau khi chính phủ của Đảng Dân Chủ Tự Do đương nhiệm tuyên bố họ sẽ ký kết hiệp định, vẫn chưa có thỏa thuận nào xuất hiện. Xung đột gay gắt tiếp tục nổ ra giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản về cách tiếp cận đối với thị trường nông nghiệp và ô tô của mỗi nước, đó là một phần trong nghị trình rộng hơn để xóa bỏ các rào cản đối với thương mại và đầu tư của Hoa Kỳ.

“Không có triển vọng nào cho một thỏa thuận về tiếp cận thị trường vào thời điểm này”, bộ trưởng kinh tế Nhật Bản Akira Amari phát biểu trong cuộc họp báo ở Sydney. Sau cuộc gặp với đại diện thương mại Hoa Kỳ Michael Froman vào thứ sáng thứ hai bên lề cuộc họp toàn thể, Amari tuyên bố: “Những vấn đề còn lại cực kỳ phức tạp và chúng tôi không thể giải quyết chúng một cách đơn giản.”

Tổng thống Obama đã tuyên bố rằng ông ta muốn kết thúc đàm phán trong năm nay, ngay trong chuyến công du Châu Á tháng tới. Nhưng khi được hỏi về khả năng hội nghị thượng đỉnh TPP sẽ diễn ra ở Bắc Kinh, bên lề diễn đàn Hợp Tác Châu Á-Thái Bình Dương vào tháng 11, Amari đã trả lời rằng không có bất cứ điều gì như vậy được thảo luận.

Tuyên bố của Amari đã trở thành sự nhạo báng đối với những tuyên bố của chủ nhà vòng đàm phán vừa qua, bộ trưởng bộ thương mại Australia Andrew Robb đã tuyên bố rằng thỏa thuận TPP có thể hoàn tất vào cuối năm 2014. “Có một cảm nhận rằng chúng ta đang ở trong tầm của vạch đích”, Robb tuyên bố. Cùng với Froman, bộ trưởng của Australia thúc đẩy mạnh mẽ các cuộc hội đàm để tránh bị lỡ kỳ hạn mà Obama đã đặt ra, trong ba năm liên tiếp.

Thông báo chính thức được đại diện của 12 quốc gia TPP nhấn mạnh rằng “chúng tôi đã tạo ra sự chuyển biến rõ nét” và một hiệp định đã được “cố kết”. Mặc dù vậy, những tuyên bố đó được đưa ra trong thông cáo lần trước của TPP.

Ngay cả Robb cũng thừa nhận là “những quyết định phức tạp” vẫn chưa đạt được. Ông ta đề cập tới quyền sở hữu trí tuệ, doanh nghiệp nhà nước và “các lĩnh vực khác”, là những vấn đề hàng đầu trong xung đột về tiếp cận thị trường giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản. 

Không có thỏa thuận giữa Washington và Tokyo thì TPP sẽ là một thất bại thảm hại. Cùng với hai quốc gia tạo thành 90% tổng sản phẩm quốc gia của các nước tham gia đàm phán, hội đàm TPP cũng thu hút Australia, Canada, Brunei, Singapore, Malaysia, Vietnam, New Zealand, Mexico, Chile và Peru.

TPP được Singapore, New Zealand và Chile phác thảo lần đầu tiên vào năm 2003, đã được chuyển giao cho chính quyền Obama vào năm 2009. TPP trở thành cốt lõi quan trọng của “chuyển trục” chiến lược và quân sự sang Châu Á để đối đầu với Trung Quốc, nước đã hoàn toàn bị loại khỏi TPP.

Sâu xa hơn nữa, TPP đang tìm cách vẽ lại toàn bộ “kiến trúc kinh tế” của khu vực Châu Á-Thái Bình Dương theo lợi ích của tư bản tài chính phố Wall và các tập đoàn lớn nhất của Hoa Kỳ. Theo lời của cựu cố vấn an ninh quốc gia chính quyền Obama Tom Donilon, TPP cùng với các hiệp định tương tự ở Châu Âu là để “viết ra các quy tắc sẽ quản trị kinh tế toàn cầu trong thế kỷ tới”. 

Trong khi được giới thiệu như một hiệp định “tự do thương mại”, 29 chương của TPP đi xa hơn những vấn đề thương mại truyền thống. Tách biệt với thuế quan và rào cản thương mại, TPP được hướng tới dỡ bỏ các luật lệ, quy tắc và trở ngại của chính quyền đối với đầu tư của Hoa Kỳ tại khu vực, qua đó mọi phương diện của kinh tế và xã hội được cấu trúc lại cho phù hợp với đòi hỏi về lợi nhuận của thị trường tài chính Hoa Kỳ cũng như đa quốc gia. 

Trong trường hợp của Nhật Bản, điều đó có nghĩa không chỉ là xóa bỏ thuế quan quốc gia đối với các nông sản quan trọng – gạo, lúa mỳ, thịt bò và thịt lợn, sữa và đường – mà còn là mở cửa các lĩnh vực sinh lợi khác của nền kinh tế Nhật Bản.

Một tài liệu của đại diện thương mại Hoa Kỳ trong năm nay đã kiệt kê “các rào cản” mà Hoa Kỳ muốn dỡ bỏ trong một danh sách dài các lĩnh vực trọng yếu, trong đó có Bưu Chính Nhật Bản, dịch vụ tài chính, bảo hiểm, viễn thông, dịch vụ pháp lý, giáo dục, hợp đồng quân sự, hàng không, cảng biển, hợp đồng xây dựng công trình công cộng, thiết bị y tế, thuốc men và mỹ phẩm.

Trong bốn tháng, Obama và đoàn đàm phán của ông ta đã công khai ve vãn thủ tướng Nhật Shinzo Abe và chính phủ để họ chấp thuận. Tháng trước, đại diện thương mại Hoa Kỳ Froman viết một bài báo cho tờ Financial Time ở London, trong đó cáo buộc Nhật Bản hủy hoại TPP. Điều đó diễn ra sau khi cuộc hội đàm ở Washington kết thúc trong sự gay gắt, với việc Amari, người đồng cấp Nhật Bản rời đi.

Froman tuyên bố rằng phần cược là “cao” đối với Nhật Bản, nói rằng họ không giữ lời hứa theo đuổi một “tầm nhìn táo bạo” coi TPP là yếu tố cốt lõi trong “mũi tên thứ ba” của Abe về cải cách cấu trúc kinh tế. Froman thúc giục Abe đứng lên chống lại “những lợi ích bất di bất dịch” vô danh ở Nhật Bản.

Obam sau đó đã tự mình gọi điện cho Abe, thúc giục ông này phải “táo bạo” trong các đàm phán TPP, lưu ý rằng quan hệ đối tác của họ là hòn đá tảng trong sự can dự của Hoa Kỳ tại khu vực. Sau đó là chuyến viếng thăm của bộ trưởng bộ thương mại Penny Pritzker, gặp Abe để lặp lại thông điệp ấy. 

Những cảnh báo được che phủ sơ sài về sự tổn hại đối với quan hệ Hoa Kỳ-Nhật Bản đã thất bại trong việc tạo ra bất cứ thỏa thuận nào. Điều này cho thấy sự quyết đoán đang lớn dần lên của chính phủ Abe, không chỉ là sự kháng cự nội bộ của “những lợi ích bất di bất dịch” trong nghị trình “mũi tên thứ ba” của ông ta.

Cương lĩnh thứ ba của “kinh tế kiểu Abe”, được công bố vào tháng bảy, dựa trên một chương trình dài hạn có hơn 200 biện pháp tái cấu trúc thân thiện với thị trường, sẽ cắt giảm một số lĩnh vực kinh doanh được bảo hộ và cũng sẽ khoét sâu tình trạng xã hội của giai cấp lao động Nhật Bản

Abe đưa ra quyết định vào tháng 3 năm 2013, sẽ gia nhập TPP, bất chấp thỏa thuận sẽ không dỡ bỏ thuế quan về nông nghiệp để tránh làm tan vỡ cơ sở nông thôn của đảng cầm quyền Dân Chủ Tự Do, nhằm theo đuổi cuộc tấn công mạnh mẽ ủng hộ thị trường để chấm dứt hai thập kỷ kinh tế đình trệ. 

Kể từ khi nhậm chức gần hai năm trước, Abe đã tự ràng buộc chặt chẽ bản thân với “chuyển trục” của Obama, nhưng ông ta cũng khai thác sự căng thẳng đang gia tăng với Trung Quốc để thúc đẩy Nhật Bản tái vũ trang, bao gồm cả việc “diễn dịch lại” cái được gọi là hiến pháp hòa bình mà Hoa Kỳ áp đặt cho Nhật Bản sau thế chiến thứ II. 

Trong khi Abe tiếp tục công khai cam kết với TPP, điểm bế tắc cho thấy xung đột cơ bản khó khắc phục giữa lợi ích của chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ và các đồng minh hiện tại như Nhật Bản, bị sụp đổ kinh tế toàn cầu làm trầm trọng thêm.

Tuesday, October 28, 2014

Đế quốc tán thưởng màn kịch bầu cử của chính phủ cực hữu ở Ukraina

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "US, EU hail election staged by ultra-right regime in Ukraine" của tác giả Niles Williamson, cập nhật các thông tin mới về tình hình cuộc khủng hoảng ở Ukraina. Tiêu đề do người dịch đặt.

Hoa Kỳ và Châu Âu tán thưởng màn kịch bầu cử của chính quyền cực hữu ở Ukraina

Vào thứ hai, Hoa Kỳ và Liên Minh Châu Âu hoan nghênh các cuộc bầu cử nghị viện của Ukraina, được tổ chức vào chủ nhật, như là “thắng lợi” của dân chủ. Người phát ngôn cho chính quyền Washington và Châu Âu đã lảng tránh cuộc tấn công đẫm máu của chính quyền Kiev vào các thành phố và thị trấn thân Nga ở miền đông Ukraina cũng như không khí khiêu khích và sự đàn áp chống lại các phê phán chính quyền và đồng minh phát xí của họ ở phần còn lại của đất nước.

Số cử tri đi bỏ phiếu khoảng 52%, thấp hơn so với 58% vào năm 2012 và dưới 60% của cuộc bầu cử tổng thống vừa qua.

Với 125 ghế, khối Petro Poroshenko, được dẫn dắt bởi Vitali Klitschko, lãnh đạo của đảng cánh hữu quốc gia UDAR và đương kim thị trưởng Kiev, sẽ tạo thành khối nghị sĩ lớn nhất trong Quốc Hội (Rada). Mặt Trận Nhân Dân của Đương kim thủ tướng Arseniy Yatsenyuk sẽ là khối lớn thứ hai với 82 ghế.

Ủy Ban Bầu Cử Trung Ương Ukraina không nỗ lực tổ chức bỏ phiếu tại các khu vực đang nằm dưới sự kiểm soát của người ly khai thân Nga hay Crimea, nơi được sáp nhập vào Nga hồi tháng ba. Do đó, 27 trong số 450 ghế tại Rada vẫn bỏ trống.

Khối Poroschenko, được đặt tên theo nhà tài phiệt tỷ phú và đang là tổng thống Ukraina, đã có cuộc thảo luận khởi đầu với Mặt Trận Nhân Dân về thành lập chính phủ liên hiệp. Nếu hai khối này đạt được thỏa thuận, họ vẫn phải duy trì hợp tác ít nhất với một đảng khác ở Rada để giành được đa số ở nghị viện.

Các cuộc bầu cử diễn ra 8 tháng sau cuộc đảo chính cánh hữu, được dẫn dắt bởi lực lượng phát xít của Right Sector và đảng Svoboda, dựa trên sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ và Đức, lật đổ tổng thống được bầu cử dân chủ Victor Yanukovych. Washington và Berlin dàn xếp cuộc đảo chính sau khi Yanukovych quyết định từ chối ký vào Thỏa Thuận Gia Nhập với Liên Minh Châu Âu, ràng buộc với kế hoạch kinh tế của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế mà đặc trưng là các biện pháp thắt lưng buộc bụng khắc khổ và “cải cách” thân thiện với thị trường, thay vào đó lựa chọn hướng sang Nga.

Cuộc bầu cử nghị viện vào chủ nhật diễn ra giữa các cuộc tấn công tiếp diễn của quân đội chính phủ và đồng minh tân phát xít vào người ly khai thân nga ở miền đông, họ là những người phản đối cuộc đảo chính. Cuộc tấn công kéo dài nhiều tháng của chính phủ đã khiến hơn một triệu người phải rời bỏ nhà cửa và khoảng 3.700 người chết.

Trong một tuyên bố chung công bố vào thứ hai, chủ tịch Hội Đồng Châu Âu Herman Van Rompuy và chủ tịch Ủy Ban Châu Âu Jose Manuel Barroso đã hoan nghênh kết quả của cuộc bầu cử như là “một thắng lợi của nhân dân Ukraina và của dân chủ”. Rompuy và Barroso kêu gọi chính phủ sắp tới tăng tốc “cách cải cách chính trị và kinh tế cấp thiết”.

Đại sứ Hoa Kỳ tại Ukraina Geoffrey Pyatt ca ngợi cuộc bầu cử là “một bước tiến khác trong hành trình dân chủ của Ukraina”. Đó là những từ ngữ thật đáng tởm của Pyatt. Đại sứ Hoa Kỳ đã đóng vài trò chủ chốt, cùng với trợ lý ngoại trưởng Victoria Nuland, trong việc giám sát cuộc đảo chính lật đổ Yanukovych và thiết lập chế độ tay sai hiện nay.

Hai tuần trước cuộc đảo chính ngày 22 tháng 3 lật đổ Yanukovych, một cuộc đối thoại bị lộ giữa hai người đó bàn về việc đưa các nhà lãnh đạo đối lập được Hoa Kỳ hậu thuẫn lên nắm quyền đã được tung lên mạng Internet. Sựa lựa chọn của họ, Arseniy Yatsenyuk, xuất hiện hai tuần sau đó trong vai trò người đứng đầu mới của chính phủ.

Tổng thống Obama công khai một tuyên bố rằng Hoa Kỳ “sẵn sàng ủng hộ sự lựa chọn của người dân Ukraina và chính phủ Ukraina mới trong việc ban hành và triển khai các cải tiến cần thiết để thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của dân chủ, củng cố luật lệ, và tăng cường ổn định kinh tế và tăng trưởng ở Ukraina”.

Những tuyên bố của quan chức Hoa Kỳ và EU hoàn toàn đạo đức giả và thiếu trung thực. Một báo cáo được công bố vào tuần trước của tổ chức Theo Dõi Nhân Quyền ở New York đã cho thấy chính quyền Ukraina đã sử dụng các đầu đạn chùm bị cấm để tấn công thường dân ở miền đông. Cũng chính cái chính quyền bị tổ chức Theo Dõi Nhân Quyền tuyên bố là tội phạm chiến tranh chống lại nhân dân của họ, đã được Washington và EU chào đón như là một hình mẫu của dân chủ.

Ukraina tiếp tục bị thống trị bởi các tài phiệt triệu và tỷ phú tha hóa, trong đó có Poroshenko. Chính phủ mới là sản phẩm của việc lật đổ chế độ do Washington và Berlin tạo ra với hai mục đích: thứ nhất, kích động một cuộc xung đột với Nga cũng như tạo cớ để gửi quân đội NATO và Hoa Kỳ tới Ukraina và Đông Âu, biến khu vực này thành bàn đạp cho các cuộc tấn công kinh tế, ngoại giao, và quân sự nhằm đưa Nga trở về tình trạng bán thuộc địa; và thứ hai, thiết lập một chính phủ sẽ đàn áp dã man giai cấp lao động Ukraina đồng thời xóa bỏ mọi hạn chế đối với sự bóc lột tài nguyên quốc gia của đế quốc.

Cuộc bầu cử vào chủ nhật là công cụ để cung cấp một lá bài dân chủ giả hiệu cho sự tăng tốc các chính sách phản động. Trong khi đó các lữ đoàn phát xít được chính quyền Kiev hậu thuẫn, như tiểu đoàn Azov, tiếp tục hoạt động ở khu vực Donbass, khủng bố và giết hại những người nói tiếng Nga đối đầu với chính quyền.

Phát biểu của Obama về việc ủng hộ “sự lựa chọn của nhân dân Ukraina” là cực kỳ ghê tởm. Poroshenko và băng đảng hoàn toàn dựa trên sự tài trợ của chính quyền Hoa Kỳ cũng như tuân theo những chỉ đạo của họ. Các điệp viên CIA cùng với Lực Lượng Đặc Nhiệm Hoa Kỳ đang ở Kiev chỉ đạo cuộc tấn công miền đông Ukraina. Lính đánh thuê của các hãng Academi Hoa Kỳ, trước đây được biết đến dưới tên Blackwater, đang có mặt trên chiến trường miền đông, can dự vào các tội ác chiến tranh ở đó.

Các đảng phái thân Nga đã bị loại khỏi Rada. Đảng Các Khu Vực của Tổng thống bị lật đổ Yanukovych đã hoàn toàn bị giải tán. Vitaly Zhuravsky, một cựu thành viên của Đảng Các Khu Vực, đã bị tấn công ngay bên ngoài Quốc Hội Ukraina và tháng 9 bởi một đám đông, họ ném ông ta vào thùng rác và đánh ông ta với lốp xe.

Các thành viên của Đảng Cộng Sản Ukraina (KPU) được đưa tin là bị tấn công và khiêu khích bởi các côn đồ bóng đá và những người mang mặt nạ mặc quân phục khi họ định cắm trại ở miền đông Ukraina. Poroshenko đã ban hành một đạo luật vào ngày 9 tháng 10 để trục xuất các thành viên của Đảng Các Khu Vực và KPU khỏi các vị trí trong bộ máy hành chính và dịch vụ công ích. Chính quyền Ukraina đang chuẩn bị chính thức đặt KPU ra ngoài vòng pháp luật.

Phản ứng có thể tiên lượng của Washington và EU đối với trò hề dân chủ một lần nữa nhấn mạnh bản chất lừa dối của các nước đế quốc trong việc theo đuổi dân chủ và nhân quyền ở Ukraina và các nước khác. Các chính quyền chuyên chế và áp bức là đồng minh của Hoa Kỳ, như Arabia và Ai Cập, nằm trong cái được gọi là “trại dân chủ”, trong khi các chính phủ có vẻ như gây trở ngại cho khát vọng đế quốc toàn cầu của Hoa Kỳ, như Iran và Nga, bị lên án vi phạm dân chủ và nhân quyền.

Hoa Kỳ và Trung Quốc đụng độ về ngân hàng cơ sở hạ tầng

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "US and China clash over infrastructure bank" của tác giả Nick Beams về xung đột giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc hiện nay xoay quanh vấn đề thành lập ngân hàng tài trợ cho xây dựng cơ sở hạ tầng ở Châu Á.

Hoa Kỳ và Trung Quốc đụng độ về ngân hàng cơ sở hạ tầng

Trong sự căng thẳng đang gia tăng giữa nền kinh tế lớn nhất và lớn thứ hai thế giới, Hoa Kỳ đã thể hiện rõ sự đối đầu với ngân hàng cơ sở hạ tầng Châu Á có giá trị 50 tỷ USD do Trung Quốc thiết lập.

Theo bản tin của tờ Australian Financial Review vào thứ sau, bộ trưởng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ John Kerry đã đích thân yêu cầu thủ tướng Australian Tony Abbott không tham gia vào ngân hàng này trong cuộc họp ở Jakarta vào thứ hai tuần trước tiếp sau lễ nhậm chức của tổng thống Indonesia Joko Widodo. Tổng thống Hoa Kỳ Obama có thể đã đề cập vấn đề đó trong cuộc trao đổi điện thoại với Abbott vào thứ tư. Tờ AFR nói vẫn chưa “rõ” điều đó có xảy ra hay không.

Vào thứ sáu tuần trước, Trung Quốc và 20 quốc gia khác ký kết một bản ghi nhớ ở Bắc Kinh để thành lập Ngân Hàng Cơ Sở Hạ Tầng Châu Á (AIIB). Bên cạnh Australia, những sự vắng mặt đáng chú ý khác trong lễ ký kết là Nhật Bản, Hàn Quốc và Indonesia. Trong số những nước tham gia có Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan và Philippine.

Lập trường chính thức của Hoa Kỳ là không đối đầu trên nguyên tắc với ý tưởng thành lập ngân hàng tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng ở Châu Á nhưng “quan ngại về bản chất các đề xuất của AIIB theo như trạng thái hiện tại của nó”.

Sự bảo lưu chính thức đó được đưa ra nửa tin nửa ngờ. Cần phải thừa nhận rộng rãi rằng lý do thực sự của Hoa Kỳ là ngân hàng mới có thể cắt ngang các hoạt động của Ngân Hàng Thế Giới và Ngân Hàng Phát Triển Châu Á, những ngân hàng mà Hoa Kỳ và Nhật Bản đang kiểm soát hoàn toàn.

Hoa Kỳ và Nhật Bản sợ rằng AIIB có thể nâng cao sức ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc tại khu vực. Ở Trung Quốc, sáng kiến ngân hàng của chủ tịch Tập Cận Bình được coi là đối trọng với các thiết chế tài chính mà Trung Quốc không thành công trong việc tạo ra ảnh hưởng lớn hơn.

Truyền thông nhà nước của Trung Quốc đưa tin trên các trang bìa nổi bật về lễ ký kết nhưng cũng ghi nhận sự vắng mặt của Australia và các quyền lực khu vực khác. Lập trường chính thức là khi họ còn chưa ký kết thành lập thì họ vẫn có thể tự do tham gia vào các giai đoạn tiếp theo.

Bản tin hàng đầu trên tờ China Daily tuyên bố rằng “sự vắng mặt của một số nền kinh tế chủ chốt nhấn mạnh sự khó khăn mà Trung Quốc phải đối mặt trong vai trò một thế lực đang trỗi dậy với các sáng kiến quản trị toàn cầu”.

Tờ New York Times đưa tin Trung Quốc coi ngân hàng mới là “phương thức gia tăng ảnh hưởng của họ tại khu vực sau nhiều năm vận động hành lang không hiệu quả tại các tổ chức quốc tế đa phương khác”

Nhà cầm quyền Trung Quốc đang hy vọng rằng các quốc gia thiết tha với việc giành lợi thế trong các cơ hội kinh tế được nhờ vào dự án của AIIB sẽ phản ứng trái với mong muốn của Hoa Kỳ.

Dường như có ý kiến khác nhau trong nội bộ chính quyền Australia với trưởng ngân khố Joe Hockey và bộ trưởng thương mại Andrew Robb ủng hộ việc tham gia. Vào tuần trước, khi ở Bắc Kinh, Hockey tuyên bố rằng Australia “vẫn chưa quyết định” về vấn đề này.

Bộ trưởng bộ ngoại giao Julie Bishop lại gần quan điểm của Hoa Kỳ hơn khi nói rằng có “một số các nguyên tắc nền tảng” cần phải được đáp ứng và tuyên bố chính thức sẽ do thủ tướng đưa ra.

Chính quyền Hàn Quốc, cùng với Australia, là một trong những đồng minh quân sự thân thiết của Hoa Kỳ trong khu vực, dường như xung đột về vấn đề đã nêu. Ban đầu họ đã định ký bản ghi nhớ nhưng sau đó lại không ký.

Theo một nguồn ngoại giao Hàn Quốc được trích dẫn trên tờ báo Joong Ang Daily ở Seoul: “Trong khi Hàn Quốc rời khỏi danh sách các thành viên của AIIB vào lúc này, vẫn có một tình thế lưỡng nan trong lựa chọn chiến lược giúp Trung Quốc thách thức trật tự quốc tế do Hoa Kỳ lãnh đạo”.

Những bình luận này cho thấy rõ rằng còn quá sớm để coi các hiệp định liên quan đến các khoản cho vay đầu tư đang lâm nguy và Hoa Kỳ coi sáng kiến của Trung Quốc là một sự thách thức đối với sự thống trị tài chính của họ. Đây không phải là lập trường mới. Vào năm 1998, sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á, Hoa Kỳ đã ngăn cản đề xuất của Nhật Bản về việc thành lập một quỹ trị giá 100 tỷ USD , bên ngoài khuôn khổ của Quỹ Tiền Tệ Thế Giới, để giúp các quốc gia này đối mặt với các vấn đề tài chính. Đề xuất đó bị coi là thách thức các lợi ích của Hoa Kỳ.

Mặc dù vậy, sự đối đầu của Hoa Kỳ đối với ngân hàng mới được Trung Quốc hậu thuẫn đã được châm ngòi từ nhiều quý. Trong bài viết trên AFR vào ngày 22 tháng 9, Peter Drysdale, nhà bình luận lâu năm về chủ đề kinh tế ở Australia và hiện đang là giáo sư kinh tế học ở Trường Crawford về Chính Sách Công tại Đại Học Quốc Gia Australia, đã chỉ ra rằng Trung Quốc có thể thực hiện tài trợ cơ sơ sở hạ tầng đơn phương nhưng đã chọn cách “đề xuất quan hệ đối tác đa phương trong sáng kiến này”.

Ông ta đánh giá tuyên bố ngân hàng mới sẽ hạ thấp các tiêu chuẩn quốc tế là vô nghĩa và nói: “Không cần hơn một chớp mắt để kết luận rằng các quốc gia như Australia, Hàn Quốc, Nhật Bản và Hoa Kỳ sẽ tham gia phi vụ này” 

Quan điểm tương tự được thể hiện trong bài xã luận được xuất bản trên tờ Guardian hôm nay.

“Có thể là phóng đại khi nói về tác động cải cách tại Ngân Hàng Thế Giới và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, đối với họ điều này hầu như là không, cái được gọi là “các thiết chế Washington”, cùng với Ngân Khố Hoa Kỳ, đã cùng nhau duy trì và chế ngự kinh tế thế giới từ năm 1945. Phản ánh sự thay đổi cán cân quyền lực kinh tế đã được tranh luận không ngớt nhưng hiếm khi được áp dụng”.

Bài xã luận ghi nhận rằng “về mặt chiến lược” thì Hoa Kỳ không thể tiếp tục chống đỡ một trật tự kinh tế đã lỗi thời ở Châu Á. Không giống như một số triển vọng khác trong chính sách của Trung Quốc, đề xuất AIIB được nhìn nhận trong bối cảnh “sự trỗi dậy hòa bình” Trung Quốc. “Đây là trường hợp thỏa hiệp, không phải đối đầu”, bài báo kết luận. 

Mặc dù vậy, những quan điểm đó, vốn dựa trên khái niệm về lý trí kinh tế, đã lảnh tránh sự cân nhắc địa chiến lược. Hoa Kỳ, với chiến lực chống Trung Quốc “chuyển trục tới Châu Á”, coi bất cứ đề xuất nào có thể dẫn tới sự mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc là thù địch với mục tiêu của họ, mục tiêu tập trung vào việc duy trì sự thống trị tại khu vực.

Bênh anh Thắm vài câu

Ở đời, tôi ghét nhất thể loại thấy người sa cơ lỡ vận thì nhảy vào đánh hôi để kiếm số. Anh Thắm chủ tịch Ocean Group mới bị truy tố, tội của anh ấy có tòa án xét xử. Bằng cấp của anh ấy đã công khai từ lâu khắp trên mặt báo, anh Thắm cũng chả phải vô danh tiểu tốt gì ở Việt Nam, cũng nhiều người biết đó là bằng vớ vẩn. Anh Thắm vốn là người làm kinh doanh, không kiếm tiền hay thăng quan tiến chức nhờ bằng cấp như đám giáo sư tiến sĩ chuyên nghề chửi đổng nói phét, nên chả ai buồn nói gì về bằng cấp của anh ấy. Đám giáo sư tiến sĩ chuyên ăn tục nói phét kia mà mở mồm chê bai đảm bảo bị anh Thắm dán giấy bạc vào miệng ngay. Giờ anh ấy sa cơ lỡ vận mới có đứa lôi bằng cấp của anh ấy ra ì xèo chê bôi, tất nhiên anh Thắm chả làm gì được. Song đó là loại hèn nhát, chỉ dám cắn trộm người thất thế. 

Tôi chưa làm ăn gì với anh Thắm hay quen biết, hoặc từng gặp anh Thắm, chỉ đến chỗ Ocean Group và ngồi họp với quân anh Thắm vài lần. Chả biết mấy cái bằng đểu của anh Thắm có tác dụng đến đâu, nhưng cũng có vài thứ ấn tượng với anh Thắm.

Thứ nhất là chỗ anh Thắm được tổ chức rất tốt. Tôi đến đấy có nhân viên của Ocean Group ra đón rồi dùng thẻ đưa vào qua lối đi riêng của nhân viên. Ngay lập tức có một chú bảo vệ xông ra chặn lại, yêu cầu phải đi bằng lối của khách. Bằng đểu mà tổ chức được như vậy thì cũng chuyên nghiệp chả kém gì tây. Tôi từng đi nhiều văn phòng các công ty lớn ở Việt Nam, thậm chí cả công sở của chính quyền. Nhưng đa số không có kỷ luật tốt như chỗ anh Thắm, bảo vệ thường xuê xoa, có nhân viên ra đón là cho qua hết, chả thèm ngó nghiêng gì.

Thứ hai là chuyện bài trí và vệ sinh văn phòng. Điều kinh hoàng nhất của các công ty Việt Nam là bài trí và vệ sinh văn phòng. Kinh nghiệm dạy tôi rằng chỉ cần quan sát bài trí và vệ sinh văn phòng là biết ngay chủ của cái doanh nghiệp đó ra sao. Chỗ anh Thắm so với văn phòng của tây thì bài trí chưa được đẹp bằng nhưng sạch sẽ và thơm tho, tốt hơn so với các văn phòng của nhiều công ty Việt Nam có cùng quy mô. Bằng đểu mà làm được như anh Thắm thì tôi cũng mong các sếp ở Việt Nam cũng có bằng đểu, chứ để văn phòng bụi bặm hôi hám là dễ mất khách hàng nhất.

Thứ ba là quân của anh Thắm. Một điều ngạc nhiên là quân anh Thắm có trình độ rất cao, nhiều người học nước ngoài về (tất nhiên là bằng xịn) và có kinh nghiệm lâu năm. Họ rất làm việc rất nhanh chóng và thẳng thắn. Một người còn góp ý thẳng với tôi là nên thuyết trình nhanh hơn, nếu không hiểu gì người nghe sẽ hỏi lại. Ai phải đi thuyết trình nhiều thì sẽ biết đó là phong cách rất chuyên nghiệp, nhưng ở Việt Nam thì đối với đa số các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp lớn đều phải nói chậm và kỹ, nếu không sẽ chẳng ai nghe và chẳng ai hỏi lại vì họ ngại. Chắc chắn một điều là anh Thắm không dùng mấy cái bằng đểu mà quản lý được đám quân có chất lượng như vậy.

Chả biết vụ anh Thắm sẽ đến đâu, nhưng giờ cứ tạm bênh anh ấy mấy câu như vậy đã. 

Monday, October 27, 2014

Ukraina và Phát xít mới

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Ukraine and Neo-Nazis" của tác giả nổi tiếng William Blum, bài viết được đăng trên tạp chí ColdType số 87 tháng 10 năm 2014.

Ukraina và Phát xít mới

Kể từ khi cuộc biểu tình nghiêm trọng nổ ra ở Ukraina vào tháng hai, truyền thông chính thống phương tây, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, đã che dấu sự thật về nghi phạm thường trực – chế độ tam hùng Hoa Kỳ /Liên Minh Châu Âu /NATO – đứng cùng phe với Phát xít mới. Ở Hoa Kỳ điều đó hoàn toàn không được đề cập. Tôi chắc chắn rằng một cuộc khảo sát được thực hiện ở Hoa Kỳ về chủ đề này sẽ cho thấy sự lảng tránh phổ biến đối với hàng loạt các hoạt động của Phát xít mới, bao gồm công khai kêu gọi giết “Người Nga, Cộng Sản và Do Thái”. Nhưng những bí mật nhỏ bẩn thỉu đôi khi ló đầu ra khỏi bức màn che một chút.

Vào ngày 9 tháng 9, trang NBCnews.com đưa tin “Truyền hình Đức cho thấy các biểu tượng phát xít trên mũ sắt của binh lính Ukraina”. Truyền hình Đức đã đăng các hình ảnh của một người lính mang mũ sắt chiến đấu với “dấu hiệu SS” của đơn vị cảnh sát tinh nhuệ mặc đồng phục đen dưới thời Hitler. (Dấu hiệu là một ký tự của người Đức cổ). Một người lính khác mang hình chữ thập ngoặc trên mũ sắt.

Vào ngày 13, tờ Washington Post đăng tải các bức ảnh của một tiểu đội đang ngủ, thuộc tiểu đoàn Azov, một trong các đơn vị bán quân sự Ukraina đang tấn công những người ly khai thân Nga. Trên bức tường phía trên giường ngủ là một biểu tượng chữ thập ngoặc lớn. Không ngại ngần, tờ Post trích dẫn lời của trung đội trưởng cho rằng binh lính mang biểu tượng của chủ nghĩa cực đoan chỉ là một kiểu ý tưởng “lãng mạn”.

Mặc dù vậy, tổng thống Nga Vladimir Putin bị tất cả mọi người từ Hoàng tử Charles cho tới Công chúa Hillary so sánh với Adolf Hitler bởi vì đã sáp nhập Crimea vào Nga. Putin đã trả lời câu hỏi đó: 

Nhà cầm quyền Crimea đã dựa trên tiền lệ quen thuộc Kosovo, một tiền lệ mà các đối tác phương Tây đã tự tạo ra, với bàn tay của họ, có thể nói như vậy. Trong một tình huống hoàn toàn tương tự với Crimea, họ tách lãnh thổ Kosovo ra khỏi Serbia một cách hợp pháp, tuyên bố ở khắp nơi rằng không cần đến sự cho phép của chính quyền trung ương để đơn phương tuyên bố độc lập. Tòa án quốc tế của Liên Hiệp Quốc, dựa trên đoạn 2 của điều 1 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc đồng ý với điều đó, và trong quyết định vào ngày 22 tháng 7 năm 2010 đã ghi nhận điều sau đây, tôi trích dẫn nguyên văn: Không sự ngăn cấm nói chung nào có thể suy luận từ thực tiễn của Hội Đồng Bảo An liên quan đến tuyên bố độc lập đơn phương”.

Putin giống như Hitler được bao trùm bởi những câu chuyện về kẻ xâm lược Putin (Vlad Kẻ Xuyên Thủng). Trong bốn tháng truyền thông phương Tây đã giong trống về việc Nga xâm lược Ukraina. Tôi đề nghị đọc: “Sao Bạn Có Thể Nói Rằng Nga Xâm Lược Ukraina?” của Dmitry Orlov. Và hãy nhớ rằng NATO đang bao vây Nga. Hãy tưởng tượng Nga thiết lập các căn cứ quân sự ở Canada và Mexico, từ Đại Tây Dương tới Thái Bình Dương. Hãy nhớ lại xem căn cứ Soviet ở Cuba đã gây ra điều gì.

Hoa Kỳ có từng tạo ra các ví dụ xấu không? 

Kể từ ngày định mệnh 11 tháng 9 năm 2001, mục tiêu quan hệ công chúng hàng đầu của Hoa Kỳ là vô hiệu hóa ý tưởng kiểu như Hoa Kỳ nhận được điều đó là do hàng loạt các hoạt động xâm lược chính trị và quân sự của bản thân. Đây người hùng ưa thích của công chúng, George W. Bush, phát biểu một tháng sau ngày 11 tháng 9: 

“Tôi có thể trả lời thế nào khi tôi thấy ở một số nước Hồi giáo có lòng căm thù sâu sắc đối với Hoa Kỳ? Tôi sẽ nói với bạn điều mà tôi sẽ trả lời: Tôi ngạc nhiên. Tôi ngạc nhiên về sự hiểu lầm, cho rằng người ta ghét chúng ta bởi vì nước ta đáng như vậy. Tôi – giống như hầu hết người Mỹ, tôi không thể tin điều đó bởi vì tôi biết chúng ta tốt ra sao.” 

Cảm ơn George. Giờ hãy uống thuốc đi!

Tôi và những sử gia khác về chính sách đối ngoại Hoa Kỳ đã lưu trữ rất nhiều các tuyên bố của những kẻ khủng bố chống Mỹ, những người đã làm rõ rằng hành động của họ là để trả thù cho hàng thập kỷ can thiệp quốc tế kinh tởm của Hoa Kỳ. Nhưng quan chức Hoa Kỳ và truyền thông thường lảng tránh bằng chứng đó và trung thành với ý tưởng rằng những kẻ khủng bố chỉ đơn giản là độc ác và điên khùng vì tôn giáo; nhiều trong số chúng quả thực như vậy, nhưng không làm thay đổi sự thật chính trị và lịch sử.

Suy nghĩ của người Mỹ dường như sống động và lành mạnh. Ít nhất bốn con tin bị quân ISIL bắt ở Syria, trong đó có nhà báo Hoa Kỳ James Foley, đã bị nhấn nước trong khi bị giam cầm. Tờ Washington Post trích dẫn một quan chức Hoa Kỳ: “ISIL là một nhóm thường đóng đinh và chặt đầu người. Phỏng đoán rằng có bất cứ sự liên quan nào giữa sự tàn bạo của ISIL và hành động trong quá khứ của Hoa Kỳ thì thật nực cười và bổ sung cho sự tuyên truyền xuyên tạc của họ”.

Mặc dù vậy, tờ Post có thể đã suy luận một chút, thêm vào rằng “Quân ISIL … dường như mô phỏng theo các kỹ thuật nhấn nước mà CIA sử dụng để thẩm vấn các nghi phạm khủng bố kể từ sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001.”

Bài nói chuyện của William Blum ở một hội thảo về Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, Đại học Hoa Kỳ, Washington, DC, ngày 6 tháng 9 năm 2014

Tôi chắc chắn rằng mỗi người trong số các bạn đã gặp nhiều người ủng hộ chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, với họ bạn phải tranh cãi và tranh cãi. Bạn chỉ ra rằng hết những điều kinh hoàng này đến những điều kinh hoàng khác, từ Việt Nam tới Iraq. Từ những vụ ném bom như cơn thịnh nộ của chúa cùng với xâm lược cho tới vi phạm luật pháp quốc tế và tra tấn. Nhưng chẳng có tác dụng gì. Không gì thay đổi được những người đó.

Tại sao lại vậy? Có phải những người đó thực sự ngớ ngẩn? Tôi nghĩ một câu trả lời tốt hơn là họ có định kiến nhất định. Dù chủ ý hay vô ý, họ có một niềm tin cơ bản về Hoa Kỳ và chính sách đối ngoại, và nếu bạn không xử lý được niềm tin căn bản đó, thì sẽ giống như bạn lao đầu vào tường đá.

Nền tảng căn bản nhất của niềm tin đó, tôi cho rằng, là một sự vững tin trong sâu thẳm rằng bất kể Hoa Kỳ làm gì ở nước ngoài, bất kể nó tồi tệ ra sao, bất kể hậu quả khủng khiếp ra sao, chính quyền Hoa Kỳ vẫn có ý định tốt. Lãnh đạo Hoa Kỳ có thể sai lầm, họ có thể vấp váp, họ có thể nói dối, họ thậm chí có thể trong một dịp vớ vẩn gây ra nhiều thiệt hại hơn là điều tốt, nhưng họ làm điều tốt. Ý đinh của họ luôn đáng tự hào, thậm chí là cao quý. Đa số người Mỹ nghĩ như vậy.

Frances FitzGerald, trong nghiên cứu nổi tiếng của bà về sách giáo khoa Hoa Kỳ, tổng kết các thông điệp của chúng: “Hoa Kỳ là một kiểu Đạo Quân Cứu Thế đối với phần còn lại của thế giới: trong lịch sử họ đã phục vụ cho lợi ích của các quốc gia nghèo đói, bị ruồng bỏ và bị thảm họa. Hoa Kỳ luôn hành động theo kiểu vô tư, luôn từ động cơ cao nhất; họ cho đi, không bao giờ nhận lại”.

Và người Mỹ thuần khiết ngạc nhiên tại sao phần còn lại của thế giới không thấy đạo đức và sự vị tha của người Mỹ. Thậm chí nhiều người tham gia vào phong trào phản chiến đã có một thời gian vất vả để lay chuyển một phần của tư tưởng đó; họ diễu hành để khích lệ nước Mỹ – nước Mỹ mà họ yêu, tôn kính và tin tưởng – họ diễu hành để khích lệ nước Mỹ cao quý quay trở lại con đường tốt đẹp.

Nhiều công dân tin vào tuyên truyền của chính quyền để biện minh cho hoạt động quân sự của họ rất thường xuyên và ngây thơ như Charlie Brow tin vào môn bóng đá của Lucy.

Người Mỹ giống đám trẻ con của một bố già Mafia, chúng chẳng biết gì về công việc kiếm sống của ông bố, và cũng không muốn biết, nhưng chúng ngạc nhiên tại sao một số người lại ném bom cháy qua cửa sổ phòng khách. Niềm tin căn bản trong ý định tốt đẹp của Mỹ thường được gắn với “chủ nghĩa ngoại lệ Hoa Kỳ”. Hãy cùng nhìn xem chính sách đối ngoại ngoại lệ Hoa Kỳ ra sao. Kể từ khi kết thúc thế chiến thứ II, Hòa Kỳ đã:

1. Nỗ lực lật đổ hơn 50 chính quyền nước ngoài, đa số được bầu cử dân chủ. 

2. Ném bom người dân tại hơn 30 quốc gia. 

3. Nỗ lực ám sát hơn 50 lãnh đạo ngoại quốc.

4. Nỗ lực đàn áp các phong trào dân túy hay quốc gia tại 20 quốc gia. 

5. Can thiệp thô bỉ vào các cuộc bầu cử dân chủ tại ít nhất 30 nước. 

6. Dẫn đầu thế giới về tra tấn; không chỉ người Mỹ trực tiếp tra tấn người nước ngoài, mà còn cung cấp dụng cụ tra tấn, hướng dẫn tra tấn, danh sách những người phải tra tấn, huấn luyện viên Hoa Kỳ trực tiếp hướng dẫn, đặc biệt là ở châu Mỹ Latin.

Đây thực sự là ngoại lệ. Không có quốc gia nào khác trong lịch sử có thể cạnh tranh với kỷ lục này.

Thế nên lần tới khi bạn lao đầu vào tường đá … hãy hỏi người đó rằng Hoa Kỳ phải làm gì với chính sách đối ngoại để không được ủng hộ nữa. Điều gì đối với người đó cuối cùng là quá đủ. Nếu người đó đề cập tới điều gì đó thật sự tồi tệ, thì có thể đó là điều mà Hoa Kỳ đã thực hiện, hoặc có thể lặp lại.

Cần phải ghi nhớ rằng tổ quốc quý giá của chúng ta, trên hết cả, tìm cách thống trị thế giới. Vì lý do kinh tế, lý do quốc gia, hệ tư tưởng, Thiên Chúa Giáo, và vì những lý do khác, thống trị thế giới từ lâu đã là đường cơ sở của Hoa Kỳ. Không nên quên rằng quan chức hành pháp đầy quyền lực có lương, thưởng, ngân sách hoạt động và công việc được trả lương hậu hĩnh trong tương lai ở khu vực tư nhân, phụ thuộc vào cuộc chiến tranh liên miên. Những lãnh đạo này không đắn đo về hậu quả cuộc chiến của họ đối với thế giới. Họ không thật sự là người xấu; nhưng họ phi đạo đức, giống như một lối mòn xã hội.

Hãy xem Trung Đông và Nam Á. Người dân ở khu vực đó phải gánh chịu sự khủng khiếp vì chủ nghĩa Hồi Giáo bảo thủ. Điều mà họ thực sự cần là một chính quyền thế tục, tôn trọng các tôn giáo khác nhau. Và chính quyền đó đã từng được thiết lập trong quá khứ gần đây. Nhưng số phận của những chính phủ đó ra sao?

Vào những năm 1970 cho đến những năm 1980, Afghanistan đã có một chính quyền thế tục tương đối tiến bộ, với quyền bầu cử hoàn chỉnh cho phụ nữ, điều khó tin phải không? Thậm chí ngay cả một báo cáo của Lầu Năm Góc về thời gian đó đã xác thực quyền thực tế của phụ nữ ở Afghanistan. Và điều gì xảy ra với chính quyền đó? Hoa Kỳ lật đổ nó, cho phép Taliban nắm quyền lực. Hãy nhớ điều đó khi bạn nghe một quan chức Hoa Kỳ nói rằng chúng ta ở Afghanistan là để bảo vệ quyền của phụ nữ.

Sau Afghanistan là tới Iraq, một xã hội thế tục khác, dưới thời Saddam Hussein. Và Hoa Kỳ cũng lật đổ chính quyền đó, giờ đây đất nước đó bị giày xéo bởi đám thánh chiến cũng như bảo thủ đủ loại, điên khùng và khát máu; phụ nữ không che mặt sẽ gặp nguy hiểm.

Tiếp theo là Libya; một lần nữa, một quốc gia thế tục, dưới thời Moammar Gaddafi, giống như Saddam Hussein, là bạo chúa nhưng theo những cách đặc biệt có thể là đạo đức và làm được những điều kỳ diệu cho Libya và Châu Phi. Có thể nhắc tới một ví dụ, Libya có thứ hạng cao trong Chỉ Số Phát Triển Con Người của Liên Hiệp Quốc. Dĩ nhiên là Hoa Kỳ cũng lật đổ chính quyền đó. Vào năm 2011, với sự trợ giúp của NATO, chúng ta ném bom người dân Libya hầu như mỗi ngày trong suốt sáu tháng. Và một lần nữa, điều đó dẫn đến việc các chiến binh thánh chiến xuất hiện. Tại sao tất cả những chuyện đó xảy ra với người dân Libya, chỉ có Chúa mới biết được, hoặc có thể là Allah.

Ba năm trước đây, Hoa Kỳ đã làm mọi cách để lật đổ chính quyền thế tục ở Syria. Hãy đoán xem? Syria giờ là sân chơi và chiến trường của mọi thể loại quân đội cực hữu, trong đó có món ưa thích mới của mọi người, IS, nhà nước Hồi giáo. Sự trỗi dậy của IS dựa vào phần lớn những thứ mà Hoa Kỳ đã làm ở Iraq, Lybia và Syria trong những năm gần đây.

Chúng ta có thể bổ sung vào danh sách những điều kỳ diệu này cựu Liên Bang Nam Tư, một chính quyền thế tục đã bị Hoa Kỳ lật đổ, cùng với NATO vào năm 1999, thúc đẩy sự hình thành của nhà nước Hồi giáo ở Kosovo, được điều khiển bởi Quân Đội Giải Phóng Kosovo (KLA). KLA bị Hoa Kỳ, Anh và Pháp coi là tổ chức khủng bố trong nhiều năm, với hàng sa số các báo cáo về việc KLA được vũ trang, huấn luyện bởi al-Qaeda, tại trại của al-Qaeda ở Pakistan, và thậm chí có các thành viên của al-Qaeda tham gia hàng ngũ KLA trong cuộc chiến chống lại người Serb ở Nam Tư. Mối lo ngại chủ yếu của Washington là hạ gục Serbia, vốn được biết đến như là “chính quyền cộng sản cuối cùng ở Châu Âu”.

KLA trở nên nổi tiếng với tra tấn, buôn bán phụ nữ, heroin, và nội tạng người; một khách hàng hấp dẫn khác của đế quốc.

Ai đó nhìn xuống những chuyện này từ bên ngoài không gian có thể nghĩ rằng Hoa Kỳ là thế lực Hồi giáo đang nỗ lực xâm chiếm thế giới – Allah Akbar!

Nhưng bạn có thể ngạc nhiên hỏi các chính quyền bị lật đổ có gì chung để trở thành mục tiêu của Washington? Câu trả lời là họ không để cho đế quốc kiểm soát dễ dàng; họ từ chối trở thành quốc gia tay sai; họ theo chủ nghĩa quốc gia; nói cách khác, họ độc lập; một tội các nghiêm trọng đối với đế quốc.

Hãy đề cập tới tất cả những điều đó với người ủng hộ giả định đối của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ và nhìn xem anh ta có tiếp tục tin rằng Hoa Kỳ có ý định tốt nữa không. Nếu anh ta ngạc nhiên cách này diễn ra bao lâu thì hãy chỉ cho anh ta thấy rằng khó có thể kể ra một chế độ độc tài tàn bạo nào trong nửa sau thế kỷ 20 mà không được Hoa Kỳ ủng hộ; không chỉ ủng hộ, mà còn thường xuyên đưa họ lên nắm quyền và bảo vệ quyền lực của họ bất chấp ước muốn của dân chúng. Trong những năm gần đây, Washington đã ủng hộ các chính quyền rất hà khắc như Arab Saudi, Honduras, Indonesia, Ai Cập, Colombia, Qatar và Israel.

Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ nghĩ gì về kỷ lục của bản thân? Cựu ngoại trưởng Condoleezza Rice đã nói tại một câu lạc bộ tư nhân về lãnh đạo chính sách đối ngoại khi bà ấy viết vào năm 2000 rằng để đáp ứng an ninh quốc gia thì Hoa Kỳ không cần được dẫn dắt bởi “các khái niệm của quy tắc và luật pháp quốc tế” hay “các thiết chế như Liên Hiệp Quốc” bởi vì Hoa Kỳ đứng bên phía đúng đắn của lịch sử”.

Hãy để tôi nhắc lại với các bạn kết luận của Daniel Ellsberg về Hoa Kỳ ở Việt Nam: “Không phải là chúng ta ở phía sai trái; chúng ta là sự sai trái”.

Cách rất xa phía đúng đắn của lịch sử, chúng ta thấy trong thực tế - Tôi muốn đề cập tới sự can dự vào chiến tranh – cùng phía với al-Qaeda và các con đẻ của họ trong một số dịp, bắt đầu là với Afghanistan vào những năm 1980 và 1990s để hỗ trợ Moujahedeen Hồi giáo, hay còn gọi là Chiến Binh Thần Thánh.

Hoa Kỳ đã viện trợ quân sự, hỗ trợ ném bom, Bosnia và Kosovo, cả hai đều được al-Qaeda ủng hộ trong cuộc xung đột ở Nam Tư vào đầu những năm 1990.

Ở Libya vào năm 2011, Washington và Jihadist có cùng kẻ thù chung, Gaddafi, như đã được đề cập, Hoa Kỳ ném bom người dân Libya trong hơn sáu tháng, cho phép jihadist chiếm lấy nhiều phần đất nước; và họ đang chiến đấu với phần còn lại. Trong thời kỳ chiến tranh, đồng minh thể hiện sự biết ơn của họ đối với Washington bằng cách ám sát đại sứ Mỹ và ba người Mỹ khác, có vẻ là CIA, ở thành phố Benghazi.

Vào giữa và cuối những năm 2000, Hoa Kỳ ủng hộ quân đội Hồi giáo ở khu vực Caucasus của Nga, một khu vực được chú ý nhiều hơn sau khi có các hoạt động khủng bố tôn giáo ở Chechnyan vào những năm 1990.

Cuối cùng, ở Syria, trong nỗ lực lật đổ chính quyền Assad, Hoa Kỳ đã đứng về cùng phía với một số dạng quân đội Hồi giáo. Có sáu lần Hoa Kỳ trở thành đồng minh của lực lượng jihadist trong thời chiến.

Tôi khẳng định rằng tôi phải cung cấp cho bạn rất nhiều điều tiêu cực mà Hoa Kỳ đã làm với thế giới, và có thể đó là một thứ khó nuốt trôi đối với bạn. Nhưng mục đích của tôi là cố gắng gạt bỏ chỗ dựa trong trí tuệ và cảm xúc mà bạn đã trưởng thành dựa trên đó – hoặc giúp bạn hỗ trợ người khác gạt bỏ chúng – chỗ dựa đó đảm bảo rằng Hoa Kỳ thân yêu của bạn muốn điều tốt.

Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ không có ý nghĩa gì đối với bạn chừng nào bạn còn tin rằng ý định của nó là cao quý; cũng như bạn phớt lờ kịch bản thường xuyên tìm cách thống trị thế giới, được phổ cập quốc gia từ rất lâu, được biết đến dưới cái tên như Tuyên Ngôn Định Mệnh, Thế Kỷ Hoa Kỳ, chủ nghĩa ngoại lệ Hoa Kỳ, toàn cầu hóa, hay, như Madaleine Albright đưa ra, “quốc gia không thể thiếu” … trong khi những người ít lịch sự hơn thì dùng từ “đế quốc”.

Trong bối cảnh nay tôi không thể không đưa ra ví dụ về Bill Clinton. Khi là tổng thống vào năm 1995, ông ta đã nói: “Bất kể điều gì mà chúng ta có thể nghĩ về các quyết định chính trị trong thời kỳ Việt Nam, người Mỹ can đảm, những người đã chiến đấu và chết ở đó, có những động cơ cao quý. Chiến đấu cho tự do và độc lập của người Việt Nam”. Vâng, đó là cách thực tế mà các lãnh đạo của chúng ta nói. Nhưng ai biết họ thực sự tin vào điều gì? 

Hy vọng của tôi là nhiều người trong số các bạn, những người chưa phải là các nhà hoạt động chống đế quốc và chiến tranh, sẽ tham gia vào phong trào phản chiến giống như tôi đã làm năm 1965 để chống lại chiến tranh ở Việt Nam. Đó là điều đã khiến tôi và nhiều người khác cực đoan.

Khi tôi nghe người dân ở độ tuổi nhất định nói về thứ khởi đầu cho quá trình mất niềm tin của họ, niềm tin vào ý định tốt đẹp của Hoa Kỳ, đó là Việt Nam cách rất xa nhưng là nguyên nhân chính.

Tôi nghĩ, nếu các quyền lực Hoa Kỳ biết trước rằng “cuộc chiến đáng yêu” của họ sẽ thất bại thì họ có thể sẽ không tạo ra sai lầm lịch sử khổng lồ đó. Cuộc xâm lược Iraq vào năm 2003 cho thấy rằng bài học Việt Nam vẫn chưa được học vào lúc đó, nhưng các cuộc biểu tình tiếp tục chống chiến tranh và đe dọa chiến tranh ở Afghanistan, Iran, Syria, và những nơi khác có thể - có thể! – cuối cùng tạo ra một vết sứt mẻ trong tinh thần chiến tranh uy nghiêm. Tôi mời các bạn tham gia vào phong trào của chúng tôi.

Sunday, October 26, 2014

Liều thuốc độc Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "The ‘Medicine’ of the Trans-Pacific Partnership" của tác giả Pete Dolack, bình luận các chi tiết mới được tiết lộ của dự thảo Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương. Tiêu đề do người dịch đặt.

“Liều thuốc” của Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương

Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) nguy hiểm hơn bao giờ hết. Ngăn cản tiếp cận thuộc men, gia tăng giám sát sử dụng Internet và bản quyền bắt buộc theo chỉ thị của các tập đoàn đa quốc gia là những món quà doanh nghiệp được gài vào chương quyền sở hữu trí tuệ của TPP, điều đó được Wikileaks tiết lộ ngay trong tháng này. Báo chí có thể bị hình sự hóa.

Chúng ta càng biết nhiều hơn về TPP, thì nó càng tệ hơn, điều đó cho thấy lý do 12 quốc gia tham gia, dưới sự dẫn dắt của chính quyền Obama, tiếp tục đàm phán bí mật. Bản dự thảo mới nhất về chương quyền sở hữu trí tuệ trong TPP cho thấy có rất ít thay đổi so với bản dự thảo trước đó, cũng được Wikileaks công bố. Trong lời dẫn bạch hóa tài liệu tháng này, WikiLeaks cho biết:

“Có sự bổ sung đặc quyền công nghiệp rõ ràng đối với các lĩnh vực thuốc men và bản quyền. Những bổ sung đó dường như tác động đến sự tiếp cận đối với những thuốc men quan trọng như thuốc chữa ung thư và sẽ làm giảm nhẹ các điều kiện đối với việc cấp bản quyền gen trong cây trồng, điều này sẽ có tác tộng tới nông dân có quy mô sản xuất nhỏ và gia tăng sự thống trị của các tập đoàn nông nghiệp như Monsanto”.

Một phân tích của Public Citizen giải thích:

“Một quy định [sẽ] yêu cầu cấp bản quyền cây trồng liên quan đến sáng chế, như gen được đưa vào cây trồng biến đổi gen, đặt nông dân ở các quốc gia đang phát triển vào tay của công nghiệp nông nghiệp, bao gồm các nhà sản xuất hạt giống như Monsanto, và mối đe dọa đối với an ninh lương thực ở những quốc gia đó sẽ phổ biến hơn”.

Monsanto, đang nỗ lực giành lấy sự kiểm soát đối với nguồn cung cấp lương thực khắp thế giới, khó có thể mong đợi một sự ưu ái nào hơn thế. Hạt giống độc quyền và sinh vật biến đổi gen là lộ trình của Monsanto nhằm kiểm soát những thứ mà bạn ăn và những gì nông dân canh tác. Một khi đã ký hợp đồng, nông dân bị buộc phải mua hạt giống biến đổi gen của công ty hàng năm và thuốc diệt cỏ Monsanto cho các hạt giống biến đổi gen để kháng thuốc diệt cỏ. 

Lén lút dùng quy trình “theo dõi nhanh” để đưa TPP lách qua Quốc Hội

Kèm theo sự bí mật bao phủ TPP là sự lén lút để có thể thông qua hiệp định “tự do thương mại”. Chính quyền Obama đang tìm cách để được Quốc Hội ủy quyền “theo dõi nhanh”. Theo quy trình theo dõi nhanh, Quốc Hội từ bỏ quyền thay đổi các điều khoản, giới hạn thời gian tranh luận, và thực hiện bỏ phiếu chấp nhận hay phủ quyết (không được phép bổ sung) trong một thời gian ngắn. Một số các thỏa thuận “tự do thương mại” tồi tệ nhất đã được chấp thuận theo cách này, và tầm quan trọng của theo dõi nhanh đã thể hiện trong hiệp ước thương mại mới nhất của Hoa Kỳ với Hàn Quốc, được chấp thuận vào năm 2007 – hầu như chỉ 1 phút trước khi ủy quyền theo dõi nhanh hết hạn.

Một đạo luật theo dõi nhanh, được mang tên hai người bảo trợ là Camp-Baucus, đã thất bại khi bỏ phiếu sớm vào năm nay do sự phản đối trong Quốc Hội, đa số là các nghị sĩ Dân Chủ song cũng có một số Cộng Hòa. Điều này xảy ra bởi các nhà hoạt động có tổ chức đã phối hợp trên toàn nước Mỹ. Nhưng thượng nghị sĩ Dân Chủ Ron Wyden, vào tháng tư vừa qua, cho thấy ý định đề xuất một dự luật theo dõi nhanh mới, mà ông ta gọi là “theo dõi thông minh.” Các nhà hoạt động Hoa Kỳ dự đoán rằng cả sự khác biệt nhỏ trong “theo dõi thông minh” của thượng nghị sĩ Wyden lẫn dự luật theo dõi nhanh cởi mở hơn, tất nhiên đều sẽ được dự thảo bởi các hạ nghị sĩ Cộng Hòa, sẽ được đưa ra Quốc Hội sau cuộc bầu cử tháng 11 với ý đồ gây sức ép cho kỳ họp kết thúc nhiệm kỳ. 

Các nhà hoạt động Hoa Kỳ trong năm ngoái và nửa đầu năm nay đã tập trung vào ngăn chặn theo dõi nhanh ở Quốc Hội vì nó sẽ vô hiệu hóa việc thông qua TPP theo cách khác. Các quốc gia khác cho thấy sự đồng ý miễn cưỡng với dự thảo chung cuộc của TPP ngoại trừ Quốc Hội cấp quyền theo dõi nhanh cho chính quyền Obama. Không có ủy quyền đó, Quốc Hội sẽ giữ quyền thay đổi hiệp định đã được thống nhất, dường như phá vỡ bất cứ thỏa thuận nào. Chính quyền Canada, trong tháng 9 vừa qua, đã thể hiện sự miễn cưỡng rõ ràng. 

Tờ Washington Trade Daily mới đưa tin về đại sứ Canada tại Hoa Kỳ Gary Doer, ông này nói Canada và các quốc gia tham gia đàm phán khác sẽ không kết thúc đàm phán cho đến khi chính quyền Obama có “sức mạnh chính trị” của ủy quyền thúc đẩy-thương mại (tên chính thức của theo dõi nhanh). Do vậy, các nhà hoạt động không giảm nhẹ sự đề phòng đối với các mưu đồ triển khai lập pháp theo dõi nhanh. Tuần Hành Động Phản Đối Theo Dõi Nhanh đã được tổ chức từ ngày 8 đến 14 tháng 11 ở Hoa Kỳ. Ở Australia một loạt các cuộc mít-ting phản đối TPP đã diễn ra trong tuần ở Sydney và Canberra. 

Những nỗ lực chống lại việc tái thúc đẩy một thỏa thuận hoàn chỉnh; các bên đàm phán họp tuần này, ngay lập tức theo sau là cuộc họp cấp bộ trưởng vào ngày 25 tháng 10 ở Sydney.

Hình sự hóa quyền được biết của bạn 

Có nhiều mâu thuẫn trong TPP. Một điều khoản bí mật-thương mại trong chương quyền sở hữu trí tuệ đã bị tiết lộ được viết theo cách làm cho việc tường thuật nội dung của thỏa thuận thương mại tương lai có thể bị truy tố. Điều khoản đáng ngờ nêu rõ:

“Nhằm đảm bảo sự bảo vệ cần thiết chống lại sự cạnh tranh không lành mạnh … mỗi bên phải đảm bảo rằng các chủ thể cá nhân cũng như chủ thể pháp lý có các công cụ pháp lý cần thiết ngăn chặn bí mật thương mại hợp pháp trong sự kiểm soát của họ khỏi bị tiết lộ, tước đoạt, hay sử dụng bởi người khác (bao gồm cả các doanh nghiệp thương mại nhà nước) mà không có sự đồng thuận của họ theo cách trái với thực tiễn thương mại trung thực”.

Truy tố hình sự sẽ là bắt buộc đối với: 

“tiếp cận cố ý, không được ủy quyền đối với các bí mật thương mại được lưu giữ trong hệ thống máy tính; cố ý chiếm đoạt bí mật thương mại, bao gồm bằng phương tiện như hệ thống máy tính; hay lừa dối (hay không được ủy quyền) tiết lộ các bí mật thương mại, bao gồm bằng phương tiện như hệ thống máy tính”.

Công bố của WikiLeaks về tài liệu này sẽ là tội hình sự theo điều khoản đó. Điều khoản đó bắt buộc các chính quyền tham gia ký kết phải ban hành các luật lệ nghiêm khắc bảo vệ “bí mật thương mại” không xác định. Văn bản của TPP được xếp loại bí mật! Các nhà lập pháp và công chúng không được phép xem chúng. Ở Hoa Kỳ, những người duy nhất ngoài các thành viên đoàn đàm phán được tiếp cận các tài liệu là 605 “cố vấn”, hầu hết là những người điều hành các tập đoàn đa quốc gia hoặc các nhà vận động hành lang của doanh nghiệp. 

Tạp chí The Age của Melbourne tổng kết mối đe dọa đối với báo chí như sau:

“Văn bản hiệp định bị tiết lộ cho thấy trong nỗ lực xử lý “cạnh tranh không lành mạnh”, phần lớn từ gián điệp công nghiệp Trung Quốc, Hoa Kỳ đã xông lên phía trước với đề xuất hình sự họa việc tiết lộ bí mật thương mại trên khắp bờ Thái Bình Dương. Bản dự thảo cho thấy các quốc gia TPP sẽ áp dụng truy tố hình sự đối với việc tiếp cận, chiếm đoạt hay tiết lộ các bí mật thương mại một cách bất hợp pháp, được định nghĩa là thông tin có giá trị thương mại bởi sự bí mật của nó, bởi bất cứ ai sử dụng một hệ thống máy tính …

Không ngoại lệ về lợi ích của công chúng hay tự do ngôn luận. Hình sự hóa việc tiết lộ sẽ được áp dụng đối với các nhà báo làm việc cho các tổ chức truyền thông thương mại hay bất cứ sự tiết lộ nào được coi là tổn hại đối với “lợi ích kinh tế” của nước tham gia TPP”. 

Rào cản đối với các dược phẩm phổ biến rẻ hơn

Một quy định khác trong văn bản về quyền sở hữu trí tuệ của TPP sẽ dựng lên rào cản đối dược phẩm phổ biến và bắt buộc rằng các điều khoản của bản quyền có thể được gia hạn theo yêu cầu của người giữ bản quyền. Hoa Kỳ và Nhật Bản thậm chí còn yêu cầu bằng lời rằng việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ phải được đặt cao hơn mọi chiếu cố pháp lý khác! Hoa Kỳ cũng đang tìm cách hình sự hóa sự xâm phạm đối với quyền sao chép, ngay cả trong những trường hợp không có ý định thu lợi nhuận, như người hâm mộ đăng tải một tác phẩm, và cũng sẽ bắt buộc nhà cung cấp dịch vụ Internet phải gỡ bỏ các nội dung theo yêu cầu của doanh nghiệp để tránh các trừng phạt pháp lý. 

Chốt sắt để thực thi các quy định hà khắc đó – điều tồi tệ nhất được đưa ra bởi Hoa Kỳ và Nhật Bản thường tiếp nối sau – là “cơ chế tranh chấp nhà đầu tư-nhà nước”. Đó là quy định chính phủ phải đệ trình việc hòa giải liên quan tại tòa hòa giải bí mật khi “nhà đầu tư” muốn thay đổi luật lệ; các quan tòa trong tòa này là các luật sư doanh nghiệp. 

Cơ chế tranh chấp không được trực tiếp đề cập trong chương quyền sở hữu trí tuệ, nhưng một điều khoản có mục đích giữ gìn chủ quyền quốc gia lại mâu thuẫn với các điều khoản khác, trong đó đảm bảo cho các công ty đa quốc gia có quyền tương tự như doanh nghiệp quốc gia. Các điều khoản đó, tiêu chuẩn trong hiệp định “thương mại tự do”, là mũi nhọn được các tòa hòa giải bí mật sử dụng để vô hiệu hóa các luật bảo vệ môi trường, các tiêu chuẩn về an toàn, sức khỏe hay lao động. Những quy định đó sẽ lần lượt trở thành các tiền lệ được sử dụng để truyền lại cho hậu thế các quyết định khắc nghiệt. 

TPP, mặc dù vậy, không chỉ nguy hiểm đối với người lao động. Hiện có các hiệp định khác như Hiệp Định Đối Tác và Đầu Tư Xuyên Đại Tây Dương giữ Hòa Kỳ và EU; Hiệp Ước Dịch Vụ Thương Mại sẽ phá hủy khả năng điều tiết của các chính quyền đối với ngành dịch vụ tài chính (50 quốc gia đã tham gia); và Hiệp Định Toàn Diện về Kinh Tế và Thương Mại giữa Canada và EU. Tất cả các hiệp định đều được thiết kể để nâng doanh nghiệp lên ngang tầm một quốc gia, mặc dù trong thực tiễn, do các án lệ, chúng sẽ đưa các doanh nghiệp lên cao hơn chính quyền quốc gia. 

Các hiệp định “tự do thương mại” liên quan rất ít đến thương mại, và liên quan nhiều đến việc áp đặt sự thống trị của tư bản trong phạm vi cuộc sống đến chừng nào có thể. Chúng là thất bại hàng loạt đối với người lao động ở tất cả các nước. Chúng mang lại và có thể mang lại, không gì ngoài cuộc đua xuống đáy. Cố gắng cải tạo cuộc đua xuống đáy là một việc vặt vãnh ngớ ngẩn. TPP và những anh em họ ghê tởm của nó phải bị đánh bại, và phải được thay thế bằng một định nghĩa mới về thương mại cũng như những người hưởng lợi từ thương mại. Điều đó đòi hỏi phải đấu tranh trực diện với hệ thống kinh tế thịnh hành, không thì chúng ta sẽ chỉ như dã tràng xe cát.

Saturday, October 25, 2014

Tại sao Bức Tường Berlin sụp đổ?

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch blog bài viết "Humpty-Dumpty and the fall of Berlin’s wall" của tác giả Victor Grossman, một nhà văn nhà báo người Mỹ sống ở Đức lâu năm, viết về Bức Tường Berlin. Tiêu đề do người dịch đặt.

Humpty-Dumpty và sự sụp đổ của bức tường Berlin

“Humpty-Dumpty sat on a wall, Humpty-Dumpty had a great fall.”

Dịch nghĩa: Humpty-Dumpty ngồi trên tường, Humpty-Dumpty ngã đau.
[Chú thích của người dịch: Humpty-Dumpty là hai anh em sinh đôi hình quả trứng trong truyện "Alice ở xứ sở kỳ diệu"] 

Câu đồng dao của trẻ em với từ cùng vần “wall” [tường] và “fall” [ngã] gợi nhắc đến lễ kỷ niệm sự sụp đổ của Bức Tường Berlin – mới được bắt đầu. Có phải là sự ám chỉ phù phiếm? Có thể. Đối với hàng triệu người thì sự kiện 25 năm trước đây được ghi nhớ với sự phởn phơ thực sự và có thể hiểu được. Nhưng sự quảng cáo rùm beng bất tận của truyền thông Đức, từ tuần này qua tuần khác ngay trước lễ kỷ niệm, và kế hoạch cho 8.000 bóng đèn heli được thắp sáng bởi 60.000 cục pin trên 10 dặm dọc theo dấu vết bức tường, hiện ra trong buổi tối cùng với tiếng kèn chiến thắng, tiếng chuông nhà thờ hân hoan hay những thứ tương tự trong khi Angela Merkel, Lech Valesa, Mikhail Gorbachov, cựu thị trưởng của Berlin và các ngôi sao giải trí khác hướng mắt lên bầu trời, có thể chứng minh cho cách tiếp cận khác của tôi.

Sau khi Bức Tường bị phá vỡ vào ngày 9 tháng 11 năm 1989, thứ nhanh chóng sụp đổ trong những tháng sau đó làm hiện ra những quả trứng kỳ dị được nhắc đến trong cuộc phiêu lưu của Alice. Đó là một thể chế hơn bốn mươi năm tuổi tự xưng là Cộng Hòa Dân Chủ Đức (GDR). Để tiếp tục mượn ám chỉ về dạng trứng, một thứ cần được giải thích: Nó sụp đổ bởi vì nó hoàn toàn sai lầm? Nó bị đẩy từ phía bên ngoài hay từ cả hai phía? Và sự sụp đổ đơn giản phản ánh cuộc cách mạng thắng lợi của một dân tộc trong việc đòi tự do – hay là vấn đề phức tạp hơn? Điều này vẫn còn phù hợp đối với những cuộc nổi dậy tương tự đã và đang diễn ra.

Tại sao GDR sụp đổ? Trái với hàng sa số những hình ảnh tồi tệ mà nó khởi đầu sau năm 1945, nó được tạo nên từ hy vọng và mơ ước của một nhóm nhỏ những người sống sót dưới thời phát xít Hitler, một số ở nơi lưu vong trên khắp các lục địa, một số khác trong trại tập trung và nhà tù của phát xít. Những người đàn ông và đàn bà đó đã quyết định tạo ra một nước Đức mới – hay ít nhất là một phần của nước Đức – từ chối chủ nghĩa phát xít và những thế lực đằng sau nó: Bayer và BASF (của I.G. Farben), những doanh nghiệp đã giúp phát xít xây dựng và điều hành Auschwitz, Siemens, Krupp và Flick, những doanh nghiệp đã lạm dụng hàng trăm ngàn lao động đói khát trong các trại tập trung cũng như cưỡng bức người lao động từ khắp các nước Châu Âu – và Ngân Hàng Đức, kẻ đã cung cấp tài chính cho hành trình đẫm máu ấy. Bất chấp việc họ bại trận, một lần nữa, những thế lực ấy không bao giờ ngừng kế hoạch phục hồi, tiếp tục bành trướng và đã tái tạo lại bản thân. Nhưng không phải ở Đông Đức, nơi những kế hoạch đó bị cản trở và nhà máy của họ bị quốc hữu hóa. Đó là hành động cực kỳ quan trọng của GDR, hành động không bao giờ được tha thứ, cho đến ngày nay. 

Những nhà hoạt động đầu tiên, đối mặt với hàng triệu người góa bụa, mồ côi, bực bội, bị đầu độc lý tưởng hay vẫn nhiễm tư tưởng phát xít, đã mời gọi những nhà văn, nghệ sĩ, giáo sư, nhà biên kịch, chuyên gia về điện ảnh chống phát xít lỗi lạc nhất giúp họ thay đổi tâm trạng và định kiến, ít nhất là ở Đông Đức. Trong số những người hưởng ứng có Bertolt Brecht, Hanns Eisler, Anna Seghers, Ernst Buch, Arnold Zweig, Heinrich Mann (người chết trước khi kịp trở về). Những người khác, như Hans Fallada, đã tiếp tục ở lại Đức nhưng đối đầu với chủ nghĩa phát xít. Những người này và các học trò của họ, đã tạo ra các vở kịch, bản nhạc, phim, tác phẩm văn chương tiến bộ để đưa đến người xem trên khắp thế giới. Ở đây cũng vậy, hoàn toàn trái ngược với tình hình ở phần nước Đức bên kia sông Elbe, chủ nghĩa phát xít bị đuổi ra khỏi lớp học, phòng văn chương, đồn cảnh sát và ghế của quan tòa.

Mặc dù khởi đầu với một đống hoang tàn đổ nát, một nền công nghiệp tan hoang phải gánh 95% chi phí tái thiết nước Đức và luôn bị thị trường thế giới phân biệt đối xử, GDR đã vất vả xây dựng một nền kinh tế mới đáng nể - một nền kinh tế phi lợi nhuận. Hoàn toàn thiếu hụt các tài nguyên tự nhiên nhưng ngành công nghiệp sắt thép đã được xây dựng, các nhà máy đóng tàu, nông trang thương mại, đường ống dẫn nước và máy công cụ, đã xuất hiện ở những khu vực như Mecklenburg, sau hàng thế kỷ chìm trong bóng tối trung cổ. Tất cả những điều đó không cần đến Kế Hoạch Marshall cũng như không có các kỹ sư và quản lý phát xít do họ đã bỏ trốn. 

Dần dần, đặc biệt là sau khi dòng chất xám ngừng chảy một cách liên tục và có tổ chức sang phương Tây nhờ Bức Tường Berlin, hàng tiêu dùng đã được đầu tư nhiều hơn. Mức sống cao ngang tầm thế giới đã đạt được, gần như mọi hộ gia đình có tủ lạnh, ti vi màu, máy giặt. Hơn một nửa hộ gia đình sở hữu ít nhất một chiếc ô tô nhỏ, mặc dù giao thông công cộng giá rẻ được mở rộng. 

Trong 40 năm, trái ngược với câu chuyện nực cười về sự xấu xa, nước Đức nhỏ đã giải quyết được nhiều vấn đề mà hiện giờ vẫn khiến nhiều quốc gia phải điên đầu. Với một khoản thuế nhỏ đáp ứng được mọi loại bảo hiểm y tế, kế hoạch hóa gia đình với phá thai, chăm sóc trẻ em, trại nghỉ hè, hoạt động văn hóa thể thao cho thanh niên và người già. Giáo dục hoàn toàn miễn phí, học bổng đáp ứng được chi phí sinh hoạt cơ bản nên không ai cần vay nợ, việc làm được đảm bảo sau khi tốt nghiệp. Phụ nữ có thể làm việc - với mức lương bình đẳng; hơn 90% làm việc. Điều tuyệt vời nhất là không có thất nghiệp, tịch biên tài sản bị cấm ngặt, không có ai phải lo sợ về ngày mai – hay năm tới. Vẫn còn nhiều thứ phải hoàn thiện, nhiều sai lầm xuất hiện, thường xuyên thiếu một vài hàng hóa tiêu dùng dẫn đến những câu chuyện cười đùa bất tận – rất nhiều giận dữ. Mặc dù vậy, sự nghèo khổ hoàn toàn đã bị xóa sổ. Ở đâu trên thế giới này đã làm được điều đó? 

GDR phải cạnh tranh với một trong những nền kinh tế phồn vinh nhất thế giới, Tây Đức. Nó không bao giờ có thể đáp ứng bước thay đổi nhanh chóng của những doanh nghiệp cạnh tranh không ngừng thăng trầm gây mất việc làm và phá hủy các kế hoạch, nhưng tạo ra đều đặn những sản phẩm hiện đại, hợp thời trang - trên hết là toàn các xe hơi tốt. Giống như người dân ở bất cứ đâu, công dân GDR cũng rung động với những quảng cáo hấp dẫn. Nhưng đó là truyền hình của Tây Đức – truyền hình Đông Đức là phi thương mại. Sự ghanh tị lan rộng. Điều đó bị làm tồi tệ thêm bởi khẩu vị thời trang lạc hậu của những người cai trị - và họ cai trị hầu như cho đến khi kết thúc.

Tôi cho rằng hầu hết những người chống phát xít bị lão hóa vẫn tiếp tục hy vọng ban đầu của họ, lý tưởng về chủ nghĩa xã hội. Nhưng khi họ già hơn, được đặt vào trung tâm quyền lực và thường xuyên được bợ đỡ bởi những kẻ xu nịnh, những kẻ luôn bu quanh những nơi quyền lực và đặc quyền xuất hiện, họ đánh mất sự liên hệ với đại đa số quần chúng. Nhiều quyền tự do bị cắt xén, tệ nhất là truyền thông về chính trị thường ngớ ngẩn, cứng nhắc, một chiều và tự ca ngợi bản thân. Như quyền tự do ngôn luận, sau những năm đầu tiên, sự sợ hãi và lo lắng trong nhiều phim Stasi đã hầu như biến mất, ít nhất là về sự kiện tư nhân hay đời thường. Người dân thường nói về điều họ nghĩ - ngoại trừ các cuộc họp công cộng (hay lớp học), họ thường sợ đánh mất cơ hội được khen thưởng hay một chuyến đi sang bên kia Bức Tường nếu họ tỏ ra “thân phương tây”.

GDR có các rạp, nhà hát, rạp ballet tuyệt vời; có nhiều nhóm tốt cho các khẩu vị khác. Hầu hết các phim hay nhất của Hollywood và phương tây được chiếu. Mặc dù cuộc sống đối với nhiều người dường như buồn tẻ, thiếu độc đáo, kìm hãm. Người dân cảm thấy bị giam hãm, thậm chí sau khi số lượng người có thể sang thăm Tây Đức tăng lên, đạt tới vài triệu vào năm 1988. Những người già đã có thể đi sang phía tây một tháng mỗi năm.

Mặc dù hệ thống không bao giờ thuận tiện cho phần lớn lý tưởng về dân chủ, không bao giờ là tuyệt đối. Nhu cầu của người dân thường xuyên được đáp ứng, từ ước muốn và nhu cầu của hai triệu thành viên đảng lãnh đạo, cho tới các báo cáo thường xuyên của cơ quan an ninh quốc gia hay Stasi (một trong số các cơ quan chức năng tích cực) và các túi đầy thư chứa đơn khiếu nại cũng như yêu cầu cá nhân.

Mặc dù vậy, ngày càng có nhiều thanh niên giành được ưu thế, đặc biệt là ổn định kinh tế, hầu như là vậy. Nhiều người yêu thích Vịt Donald, thán phục chàng cao bồi đẹp trai Malboro hay các ngôi sao Hollywood đáng yêu và mơ ước đi trên Cầu Vàng hay đi dưới Cổng Vàng, mà không hề quan tâm tới tình trạng của những người đang phục vụ Những Lời Nói Dối trơ trẽn.

Sự bất mãn tăng lên trong những năm 1980 khi nền kinh tế suy yếu, bị hạ gục bởi tham vọng xây dựng công nghiệp điện tử mà không cần trợ giúp từ bên ngoài, cũng như chương trình nhà ở khổng lồ và đầu tư lớn vào công nghiệp quốc phòng để chạy đua với phía Tây. Những người lãnh đạo trưởng thành chính trị từ thời Stalin không bao giờ học được các đối phó với sự đố kị hay sự bất mãn và sợ cải tổ theo kiểu Gorbachov, nhắc lại rằng Hitler đã nắm quyền nhờ vào bầu cử tự do và nhận thức một cách thiếu chính xác rằng phương Tây đang nhanh chóng sử dụng mở cửa để thúc đẩy “thay đổi chế độ”. Vào năm 1989, khi điều đó thành công ở Hungary và Ba Lan, nhanh chóng “phương tây hóa”, sự bất mãn bùng nổ, và người dân biểu tình ở Berlin, Leipzig, Dresden và những nơi khác.

Đầu tiên, khi Bức Tường được mở, người dân yêu cầu cải tiến GDR, với tự do mới. Nhưng khi Kohl, Brandt và những người khác tham gia, vung lên các sản phẩm được đóng gói tốt, những lời hứa hẹn hợp thời và trên hết là đồng Mark Tây Đức được in đẹp, GDR đã sụp đổ.

Vai trò trong sự thúc đẩy của Vermon Walter, người được George W. Bush gửi tới làm đại sứ ở Tây Đức với nhiệm vụ “làm cho mọi thứ tới nơi tới chốn”, là gì? Buổi sáng sau khi Bức Tường được mở, ông ta tổ chức chuyến bay thị sát Berlin bằng trực thăng cho thủ tướng Kohl, tiếp đó hạ mình “tham gia hành động”. Sau đó, phát biểu một cách tự hào về sự sụp đổ của GDR, ông ta nói “Chúng tôi tới đây bởi vì chúng tôi mạnh. Chúng tôi tới đây bởi vì chúng tôi được quyết định, và chúng tôi tới đây bởi vì chúng tôi bảo vệ quyền tự do lựa chọn số mệnh của người dân”. Walters, người đóng vai trò chủ chốt cùng với Reagan và giáo hoàng John Paul trong việc thay đổi chế độ ở Ba Lan, đã “trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào việc lật đổ nhiều chính quyền khác hơn bất cứ quan chức nào của chính quyền Hoa Kỳ”, trong số đó có vụ lật đổ ở Iran năm 1953, Brazil năm 1964, Chi Lê năm 1973, ngay cả Fiji năm 1987. Đối với sự lựa chọn tự do của người dân, theo quan điểm của ông ta Việt Nam là “một trong cuộc chiến cao quý và vị tha nhất” trong lịch sử Hoa Kỳ.

Không có gì thay đổi ở Đông Đức trong 25 năm. Đó là sự pha trộn. Du lịch và hàng tiêu dùng không tạo ra các vấn đề khác ngoại trừ giá của chúng. Quảng cáo hoành tráng và chương trình truyền hình thương mại hoành tráng, đường phố, quán cafe mới, ngay bên sườn xe bus và xe công cộng. Công nghiệp của GDR đã sớm bị phá hủy, cả những nhà máy cũ cũng như những nhà máy mới hiện đại nhất đều bị đem cầm cố và đóng cửa. Hàng triệu người di cư đến phía tây, nhưng với nước Đức giờ là nền kinh tế mạnh nhất châu Âu thì chỉ có một phần hồi phục; dĩ nhiên là một phần ba người Đông Đức ở trong tình trạng tốt hơn trước, khoảng một phần ba giữ nguyên hiện trạng. Phần còn lại thì kém may mắn. Chăm sóc y tế, mặc dù tốt hơn ở Hoa Kỳ, nhưng bị lung lay dữ dội bởi cú sốc giá, giống như phí dịch vụ và tiền thuê nhà. Trường học tư nhân nở rộ ở khắp nơi cho những người có đủ tiền. Giáo dục cấp cao ngày càng làm ăn khấm khá. Hãng Daimlers và Ngân Hàng Đức cất cánh.

GDR không thay đổi nhiều người quá lớn. Ích kỷ, ghen ghét, thậm chí tham lam khó có thể bị phá hủy hoàn toàn. Nhưng khoảng cách nhỏ giữa người thành công nhiều và thành công ít, trong khi không ai có thể trở thành giàu có bằng cách bóc lột người khác, cơ hội theo đuổi việc làm và chuyên môn của phụ nữ cho phép giảm sự phụ thuộc vào chồng hay ông chủ, sự thật là không có nhóm nào loại bỏ nào nhóm nào dựa trên sự khác biệt về tuổi tác hay nền tảng cũng như cảm giác an toàn về kinh kế có ý nghĩa, như những khảo sát đã chỉ ra, rằng công dân phía đông tính trên mức độ trung bình thân thiện hơn và gần gũi với gia đình cũng như đồng nghiệp hơn.

Tự do đạt được hiện giờ đang được đánh giá đúng. Nhưng các đảng lãnh đạo thiếu trách nhiệm đối những người làm việc bán thời gian, tạm thời cũng như những công việc không ổn định khác, hoặc chả có trách nhiệm gì, thường xuyên dẫn đến sự giễu cợt mới. Hãy nhìn những dạng Tweedle Dee-Tweedle của dân chủ (gợi nhắc đến Alice), nhiều người ngồi ở nhà thay vì đi bầu cử; trong cuộc bầu cử mới đây chỉ có nửa số công dân đi bỏ phiếu. Những người khác đã bỏ phiếu để loại bỏ “người ngoại quốc” – một khuynh hướng nguy hiểm. Khoảng 10%, phần lớn là ở Đông Đức, chống lại mọi cấm kị truyền thông để lựa chọn điều mà họ hy vọng là tốt hơn, đảng Cánh tả.

Nhưng trước viễn cảnh hiện tại về tình trạng đình đốn kinh tế ở châu Âu và nguy cơ của tương lai khó khăn, thắt lưng buộc bụng, một số người Đông Đức ngạc nhiên nếu tin vào mọi lời hứa và từ chối mọi thứ GDR đề xuất, họ đã tạo ra sai lầm đặc biệt 25 năm trước, thêm một lần nữa với Alice, của những con hàu nhỏ khờ khạo ngã gục trước lời mời thân thiện đi dạo với Hải Mã và Người Thợ Mộc đói khát: “Nếu giờ bạn đã sẵn sàng, bạn hàu thân mến, chúng tôi có thể nhồi thức ăn” – “Nhưng không phải cho chúng ta!” con hàu gào lên, chuyển sang màu xanh da trời. “Sau sự tử tế có một điều buồn thảm phải làm!”

Tất cả vấn đề đang diễn ra? Con mèo béo Cheshire đang cười nhe răng khi họ vơ vét nhiều hơn kho báu của thế gian, phá hủy hành tinh theo cách không thể cứu vãn và giành lấy quyền kiểm soát mọi cuộc gọi điện thoại, thư điện tử hay chuyến đi nghỉ ngày chủ nhật ở đồng quê với các sĩ quan Stasi đầy năng lực sẽ được thèm muốn. Khi mối đe dọa của chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản dường như đã bị loại bỏ, họ tìm cách ngăn chặn bất cứ sự đánh giá lại nào đối với năng lực của họ, trong khi đè bẹp mọi dấu hiệu độc lập bằng mưu đồ hay bởi vũ lực, tiến bộ hay không, ở mọi quốc gia.

Điều đó cũng có thể đúng ở Đức, rất nhiều công ty và bạn bè chính trị của họ tiếp tục nhắc nhở với sự run rẩy về một thời đại mà những rào cản phía đông chất đống lên những tài sản khổng lồ và thỏa mãn không giới hạn những khát vọng kinh tế cũng như chiến lược. Chúng ta thấy chúng trong các chương trình học đường, các kênh truyền hình bất tận, các buổi triển lãm, lễ kỷ niệm thường xuyên và các kế hoạch cho tượng đài mới.

Không có kỵ binh và lính hoàng gia nào có thể đặt Humpty-Dumpty hình trứng – hay GDR – lại cùng với nhau. Nhưng ở đó có nỗi sợ hãi hầu như là yếu bóng vía rằng tàn dư, tái hợp của thành quả trong quá khứ, có thể một ngày nào đó sẽ thổi lên hồi còi mới – không phải là khẩu vị của họ. Điều này, tôi tin chắc, là lý do chính cho những bóng đèn trắng lạ lùng và sự rùm beng bất tận.