Thursday, May 22, 2014

Phương Tây khuếch trương cuộc bầu cử trước mũi súng ở Ukraina

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "West promotes election held at gunpoint in Ukraine" của Bill Van Auken, bình luận những tin tức mới nhất về cuộc khủng hoảng ở Ukraina.

Chỉ vài ngày trước cuộc bầu cử tổng thống và lãnh đạo thành phố được chính quyền cánh hữu “lâm thời” do phương Tây hậu thuẫn tổ chức ở Ukraina, bộ quốc phòng thông báo vào ngày thứ tư rằng cái được gọi là “các chiến dịch chống khủng bố” nhằm vào những dân cư bất đồng chính kiến ở miền đông và nam đất nước sẽ được triển khai với toàn bộ sức mạnh.

“Pha chủ động trong các chiến dịch chống khủng bố đang được tiếp tục,” người phát ngôn bộ quốc phòng Vladislav Seleznyov nói vào thứ tư. “Cư dân ở khu vực miền đông Ukraina có thể chứng kiến điều đó. Hiện nay, quân lính và lực lượng tham gia vào chiến dịch chống khủng bố đang được luân chuyển theo kế hoạch” 

Washington và đồng minh châu Âu đang khuếch trương cuộc bầu cử vào chủ nhật, coi đó là biện pháp hợp pháp hóa cuộc đảo chính lật đổ chính quyền dân cử của phát xít mới được phương Tây hậu thuẫn, cũng như thiết lập một chính quyền bất hợp pháp có các lãnh đạo được quan chức Hoa Kỳ lựa chọn.

Ý tưởng về một cuộc bầu cử hợp pháp có thể được tổ chức, trong khi quân đội đưa xe tăng, pháo binh và trực thăng chiến đấu tới đàn áp phe đối lập chính trị trên phần lớn lãnh thổ đất nước, là lố bịch. Sự lừa dối đang được dàn xếp, với sự hỗ trợ vô điều kiện của Hoa Kỳ, chỉ hai tuần sau cuộc trưng cầu dân ý ngày 11 tháng 5 về sự tự trị ở khu vực Donetsk và Luhansk mà bộ ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố là bất hợp pháp. Cuộc khủng hoảng Ukraina cung cấp một cửa sổ độc đáo cho thấy sự yếm thế và đạo đức giả trong chính sách đối ngoại của đế quốc Hoa Kỳ.

Washington đã gia tăng sự can thiệp, gửi tàu tuần tiễu có mang tên lửa hành trình của hải quân Hoa Kỳ Vella Gulf tới Biển Đen để tham gia bầu cử. Trong khi đó, phó tổng thống Joe Biden bày tỏ một sự đe dọa khác đối với Nga, long trọng tuyên bố trong chuyến viếng thăm Romania rằng nếu Moscow “phá hoại ngầm” cuộc bầu cử vào chủ nhật, Hoa Kỳ sẽ áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế cứng rắn hơn và gia tăng sự mở rộng về phía đông của NATO.

Kể từ khi chính phủ Ukraina khởi sự các chiến dịch “chống khủng bố”, đưa quân đội và các đơn vị vệ binh quốc gia kết hợp với quân phát xít mới Right Sector tới chống lại miền đông và miền nam Ukraina, ít nhất 127 người đã bị giết hại, theo ước lượng của Liên Hiệp Quốc.

Một trong những dấu hiệu rõ ràng của bầu không khí mà các cuộc bầu cử được tổ chức vào cuối tháng tới là khi ứng cử viên tổng thống Oleg Tsarev, cựu phó chủ tịch đảng Các khu vực của tổng thống bị lật đổ Yanukovych và là một người ủng hộ liên bang hóa, bị đám đông cực hữu tấn công trong một buổi truyền hình ở Kiev. Do bị đánh đập đến mức phải vào viện trong tình trạng nguy kịch, ông ta đã rút ứng cử và kêu gọi tẩy chay cuộc bầu cử.

Sự tàn bạo tương tự và thậm chí tồi tệ hơn do các thành phần phát xít gây ra trở thành cột trụ cho chính phủ chống lại tất cả các nhóm có khuynh hướng tả, bao gồm cả nhóm “Borotba” (“Đấu tranh”) và Đảng cộng sản Ukraina (KPU), có các thành viên bị giết hại, đánh đập, bắt giữ và phải đối mặt với các âm mưu ám sát.

Lần đầu tiên kể từ khi Liên bang Soviet tan rã năm 1991, cuộc bầu cử được tổ chức trong các điều kiện không có ứng cử viên nào đại diện cho các khu vực đa số nói tiếng Nga ở miền đông và miền nam Ukraina tham gia. 

Trong khi đó, chính phủ Kiev liên tục đàn áp truyền thông Nga ở Ukraina, bắt giữ, bỏ tù, thẩm vấn và trục xuất tất các các phóng viên bị tình nghi là không phục tùng ranh giới tuyền truyền do Washington đặt ra. (Xem: Chính phủ Ukraina bỏ tù các nhà báo làm việc cho truyền thông Nga).

Tiếp theo sự đàn áp đó, chính phủ Kiev, với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ và Đức, thông qua đề xuất đàm phán “bàn tròn” nhằm xoa dịu sự căng thẳng giữa chính phủ và các khu vực miền đông và miền nam. Trong các cuộc đối thoại này, các chính khách tham gia có quan hệ với những nhà tư bản tài phiệt đang thống trị đất nước, đã loại bỏ một cách có hệ thống các đại diện cho dân chúng đang biểu tình và bị tấn công.

Nghị viện Ukraina, Verkhovna Rada, với phiếu đa số phiếu chấp thuận vào ngày thứ tư thông qua một “bản ghi nhớ về hòa bình và hòa giải”, thứ chỉ là sản phẩm của một hoạt động “bàn tròn”. Giải pháp kêu gọi triệu hồi quân đội Ukraina đang bao vây các khu vực miền đông và miền nam về doanh trại và kết thúc bạo lực của mọi phe phái. Việc Ukraina tham gia các liên minh quốc tế như Liên minh châu Âu hay NATO cũng bị quy định là phải được chấp thuận bằng một cuộc trưng cầu dân ý.

Một điều khoản ân xá cho những người chiếm đóng các tòa nhà công sở ở miền đông và nam Ukraina đã bị loại khỏi phiên bản chính thức của bản ghi nhớ.

Giải pháp rõ ràng là muốn đánh lạc hướng khỏi các điều kiện thực tế trên thực địa mà bộ quốc phòng đã giải thích thẳng thừng và do đó không đem lại cho cuộc bầu cử một chút đáng tin cậy nào. Chúng dường như muốn xoa dịu chính quyền của tổng thống Vladimir Putin ở Moscow, những người đặt ra dấu hỏi cho sự hợp pháp của cuộc bầu cử.

Cũng có những dấu hiệu cho thấy mức độ mà chính phủ Nga sẽ hành động, sự ra hiệu đã có một số hiệu quả. Thứ trưởng bộ ngoại giao Nga Grigory Karasin nói vào thứ tư rằng bản ghi nhớ đã tạo thành “sự hiện thực hóa bước đầu công khai và rõ ràng, mặc dù muộn, một bước tiến của Thỏa ước Geneva 2014”.

Những thỏa ước này, được thiết lập giữa đại diện Hoa Kỳ, Nga, Liên minh châu Âu và chính phủ Kiev, kêu gọi tất cả các bên “giảm căng thẳng” bằng cách kết thúc bạo lực, tước vũ khí “các nhóm vũ trang bất hợp pháp”, chấm dứt chiếm đóng các tòa nhà công sở và mở rộng ân xá cho người biểu tình. Chính quyền Kiev, được Washington hậu thuẫn, giải thích hiệp định này hoàn toàn theo kiểu một phía, bỏ qua các nhóm vũ trang bất hợp pháp như phát xít Right Sectos, một trong những kẻ hỗ trợ chủ chốt của họ, cũng như sự chiếm đóng ở Kiev và miền Tây Ukraina, trong khi từ chối ân xá cho những người biểu tình ở miền đông.

Chính quyền Putin coi bản ghi nhớ là đáng tin cậy – trái ngược với mâu thuẫn rõ ràng giữa bản ghi nhớ và hoạt động của chính phủ Kiev trên thực địa – đã đồng thuận với một thông báo từ Moscow rằng tất cả quân đội Nga đã được rút khỏi khu vực gần biên giới Ukraina. Các quan chức Ukraina xác nhận vào thứ tư là không có quân đội Nga trong phạm vi 10 cây số quanh biên giới.

Hoạt động của chính quyền Nga gắn chặt với lợi ích của nhóm tư bản tài phiệt bán tội phạm, đóng vai trò là các khối cử tri chủ chốt của chính phủ Putin. Mặt khác, sự khát khao xoa dịu căng thẳng về Ukraina gắn liền với quan ngại của tầng lớp thống trị rằng xung đột với phương Tây – nơi các ngân hàng đang giữ tài sản của phần lớn trong số họ – và các biện trừng phạt gia tăng đe dọa tới lợi ích của họ. 

Sự quan ngại này được thể hiện trong tuần này ở diễn đàn kinh tế St. Peterburg, nơi 32 nhà tỷ phú Nga xuất hiện, nhưng các giám đốc tài chính và doanh nghiệp Hoa Kỳ tránh xa dưới sức ép của chính quyền Obama.

Moscow cũng mong muốn xoa dịu lo ngại của phía Bắc Kinh về sự sáp nhập Crimea và khả năng vẽ lại đường biên giới cũng như tác động của chúng đối với vấn đề của họ trong xung đột về Tân Cương và Tây Tạng.

Putin cùng với chủ tịch Tập Cận Bình quan sát việc ký kết hợp đồng khí đốt trong 30 năm trị giá 400 tỷ dollar vào thứ tư. Trong khi hợp đồng đã được đàm phán trong thập kỷ trước, sự đối đầu hiện nay với phương Tây về Ukraina dường như tạo ra sự thúc đẩy cho việc đạt được thỏa thuận mặc dù giá cả là khá viển vông.

Khi cuộc bầu cử ở Ukraina đang tới gần, chính quyền Putin vẫn tin rằng nó sẽ trao quyền lực cho những tư bản tài phiệt tha hóa, những người mà Moscow có thể hợp tác. 

Người dẫn đầu trong tất cả các khảo sát ở Ukraina là Petro Poroshenko, người Ukraina được gọi là “vua sô cô la”, người tích lũy được khối tài sản cá nhân khoảng 1,3 tỷ dolla bằng cách cướp đoạt các nhà máy thuộc sở hữu nhà nước sau khi Liên bang Soviet tan rã và khôi phục chủ nghĩa tư bản. Khảo sát mới nhất cho thấy ông ta được 53,2% số người tham gia ủng hộ, so với khoảng 10% của đối thủ cạnh tranh chính, cựu thủ tướng Yulia V. Tymoshenko, người được gọi là “nữ hoàng khí đốt”, người đã bị bỏ tù vì tội tham nhũng và chỉ được thả sau cuộc đảo chính do Hoa Kỳ hậu thuẫn ở Kiev 

Poroshenko, người giàu có thứ bảy ở Ukraina, có quan hệ mật thiết với toàn bộ giới tư bản tài phiệt, một trong những cộng sự gần gũi của ông ta là Dmytro Firtash, người khổng lồ khí đốt Ukraina, có quan hệ với các bố già tội phạm Nga và hiện đang ở Áo chờ dẫn độ sang Hoa Kỳ về tội gian lận và hối lộ. 

Trong khi được chào đón như một tư bản tài phiệt đã hậu thuẫn cho biểu tình bạo lực ở Maidan dẫn đến cuộc đảo chính tháng hai, Poroshenko không chỉ là bộ trưởng ngoại giao trong chính phủ thân phương Tây của tổng thống Viktor Yushchenko mà còn là bộ trưởng bộ phát triển kinh tế và thương mại dưới chính quyền của tổng thống bị lật đổ Yanukovych.

Wednesday, May 21, 2014

Chiến tranh và hòa bình ở Triều Tiên và Việt Nam

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "War and Peace in Korea and Vietnam" của nhà hoạt động hòa bình Hoa Kỳ David Hartsough, bài viết cung cấp nhiều cảm nhận chân thực của một người Mỹ về Việt Nam sau những ấn tượng kinh hoàng của chiến tranh.

Tôi mới quay trở lại sau 3 tuần ở Triều Tiên và Việt Nam, những đất nước trong quá khứ đã phải chịu đựng và đang tiếp tục phải chịu đựng sự tàn phá của chiến tranh.

Hàn Quốc

Bắc và Nam đang bị giam hãm trong trạng thái bi kịch của chiến tranh lạnh với đất nước bị chia rẽ mà Hoa Kỳ áp đặt (và không có Liên Bang Soviet phản đối) từ năm 1945 và được củng cố vào năm 1948. Mười triệu gia đình bị chia rẽ bởi sự chia cắt của miền Bắc và miền Nam. Người dân ở Nam Triều Tiên không thể gọi điện, viết thư hay thăm viếng người thân hay bạn bè ở Bắc Triều Tiên và ngược lại. Một giáo sĩ Catholic từ Nam Triều Tiên mà tôi gặp đã trải qua ba năm rưỡi ngồi tù ở Nam Triều Tiên vì thăm viếng Bắc Triều Tiên trong một sứ mạng hòa bình. Biên giới giữa Bắc và Nam Triều Tiên là khu vực chiến tranh, nơi mà chiến tranh súng đạn có thể nổ ra bất cứ khi nào. Quân đội Hoa Kỳ và Nam Triều Tiên thường xuyên tập trận bắn đạn thật với 300,000 lính đóng vai phòng thủ và tấn công với các chiến đấu cơ ở biên giới Bắc Triều Tiên. Bắc Triều Tiên cũng thường xuyên đe dọa chiến tranh. Liên Bang Soviet không còn tồn tại và đây là lúc Hoa Kỳ cầu khẩn sự tha thứ của người dân Nam và Bắc Triều Tiên vì đã áp đặt trạng thái chiến tranh lên hai đất nước, ký kết một thỏa thuận hòa bình với Bắc Triều Tiên để chính thức chấm dứt chiến tranh Triều Tiên, công nhận chính quyền của Bắc Triều Tiên và đồng ý đàm phán về mọi xung đột trên bàn hội thảo, không phải trên chiến trường.

Tôi dành phần lớn thời gian ở Triều Tiên trên đảo Jeju, một hòn đảo xinh đẹp ở cách đất liền phía nam của Nam Triều Tiên 50 dặm, nơi đó đó có khoảng từ 30,000 đến 80,000 ngượi bị sát hại kể từ năm 1948 theo mệnh lệnh của chỉ huy quân đội Hoa Kỳ. Người dân đảo Jeju đã phản kháng mạnh mẽ sự chiếm đóng của Nhật Bản trong thế chiến thứ hai và cùng với phần lớn người dân ở Triều Tiên, trông mong một quốc gia tự do và độc lập. Mặc dù vậy, thay vì một quốc gia thống nhất, Hoa Kỳ đã áp đặt một chính quyền chống cộng sản cực đoan ở Nam Triều Tiên và đặc biệt là ở đảo Jeju. Tất cả những người phản kháng một Nam Triều Tiên chống cộng sản và quân sự hóa đều bị sát hại (hơn một phần ba dân số thời đó). Bởi vì chế độ độc tài chống cộng sản kéo dài nhiều thập kỷ sau năm 1948, nên người dân đảo Jeju thậm chí không được phép nói về quá khứ hoặc họ sẽ bị tình nghi là thân cộng sản và bị trừng phạt. Chỉ đến năm 2003, tổng thống Roh Moo-huyn mới xin lỗi theo lệnh của chính quyền Hàn Quốc về việc thảm sát người dân đảo Jeju vào năm 1948. Đảo Jeju hiện nay được công bố là “Đảo Hòa Bình” và cũng được coi là “Vùng Di sản Thế giới” do có những dải san hô ngầm và vẻ đẹp tự nhiên.

Nhưng hiện nay chính quyền Hoa Kỳ quyết định “xoay trục sang châu Á” và lập kế hoạch chuyển tâm điểm của các chiến dịch quân sự sang châu Á – có lẽ là để bao vây Trung Quốc với các căn cứ quân sự và chuẩn bị cho cuộc chiến tiếp theo. Làng Gangjeong được lựa chọn làm cảng cho một căn cứ quân sự quy mô lớn, ở đó hiện nay chính thức là một căn cứ quân sự Hàn Quốc, nhưng thực tế được coi là nơi để các tàu chiến Hoa Kỳ giúp “bao vây” Trung Quốc. Do vậy, đảo Jeju có nguy cơ lại trở thành tâm điểm trong một cuộc chiến mới - thậm chí là cuộc chiến tranh hạt nhân giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Kể từ khi kế hoạch về căn cứ được thông báo lần đầu tiền bẩy năm trước đây, người dân Gangjeong đã phản đối việc xây dựng căn cứ và trong bốn năm qua đã ngăn chặn phi bạo lực các máy ủi và các xe tải xi măng đi vào căn cứ. Các nhà hoạt động Nam Triều Tiên (nhiều người thuộc các nhà thờ Catholic) đã tham gia phong trào phản kháng phi bạo lực. Hàng ngày có một đám đông tín đồ Catholic trong đó các thầy tu và nữ tu chặn đường chính vào căn cứ và mỗi ngày bị cảnh sát giải tán khi nhiều xe tải chở xi măng xếp hàng để đi vào căn cứ. Khi cảnh sát rút lui sau khi những xe tải tiến vào căn cứ, các thầy tu và nữ tu lại mang ghế ngồi ra tiếp tục chặn lối vào căn cứ - họ cầu nguyện suốt. Tôi tham gia với họ trong hai ngày cuối cùng trên đảo Jeju. Sau khi đám đông duy trì mỗi ngày khoảng hai giờ, các nhà hoạt động tới và khiêu vũ để chặn cửa chính khoảng một giờ. Một số người hành động theo lương tâm bằng cách chặn lối vào đã phải ngồi tù hơn một năm. Những người khác bị áp đặt các án phạt tiền nặng nề vì những hành động xuất phát từ lương tâm. Nhưng phong trào phản kháng phi bạo lực vẫn tiếp tục.

Một số người Triều Tiên làm việc chăm chỉ cho hòa giải và hòa bình giữa Bắc và Nam Triều Tiên. Nhưng các chính quyền Hoa Kỳ, Nam Triều Tiên và Bắc Triều Tiên vẫn tiếp tục đối đầu quân sự và hiện nay nếu căn cứ được xây dựng, sẽ là một căn cứ rất lớn khác ở Nam Triều Tiên. Những người Mỹ quan ngại cần phải hỗ trợ phong trào phi bạo lực của người dân đảo Jeju để chấm dứt xây dựng căn cứ quân sự ở đó.

Tôi tin rằng người dân Mỹ cần phải yêu cầu chính quyền của chúng ta chấm dứt lối hòa bình theo kiểu Mỹ đối với phần còn lại của thế giới. Chúng ta cần xử lý xung đột với Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và tất các các quốc gia bằng đàm phán trên bàn họp, chứ không phải triển khai quân đội hay đe dọa và xây dựng nhiều căn cứ quân sự hơn.

Và giờ tới Việt Nam.

Việt Nam

Vào tháng tư tôi đã dành ra hai tuần ở Việt Nam với tư cách là một thành viên trong đoàn đại biểu Cựu chiến binh vì Hòa bình do một nhóm cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam của Hoa Kỳ sống ở Việt Nam tổ chức. Tâm điểm trong chuyến viếng thăm của chúng tôi là tìm hiểu xem người dân Việt Nam tiếp tục phải chịu đựng đau khổ của cuộc chiến tranh đã kết thúc cách đây 39 năm ra sao.

Một số ấn tượng/điểm nhấn trong chuyến viếng thăm Việt Nam của tôi như sau:

*Sự thân thiện của người dân Việt Nam, những người chào đón chúng tôi, mời chúng tôi tới nhà họ và tha thứ cho chúng tôi mọi đau khổ, thương tích và chết chóc mà đất nước của chúng ta đã bắt họ phải gánh chịu trong cuộc chiến của Hoa Kỳ ở Việt Nam, với hy vọng rằng họ và chúng ta có thể sống trong hòa bình với nhau. 

*Sự đau khổ, thương tích và chết chóc khủng khiếp do cuộc chiến ở Việt Nam gây ra. Nếu Hoa Kỳ tôn trọng hiệp định Geneva, theo đó kết thúc cuộc chiến tranh với Pháp-Việt Nam vào năm 1954 và cho phép bầu cử tự do trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào năm 1956, ba triệu người Việt Nam (trong đó có hai triệu thường dân) đã không phải chết trong chiến tranh của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Quân đội Hoa Kỳ đã ném hơn tám triệu tấn bom (nhiều hơn tất cả các bên trong thế chiến thứ hai cộng lại) giết hại, gây thương tật và buộc người dân phải bỏ nhà cửa chạy trốn và nhiều người trong số họ phải sống dưới hầm. Ở tỉnh Quảng Trị, bốn tấn bom được ném xuống mỗi đầu người trong tỉnh (tương đương với tám quả bom nguyên tử được ném xuống Hiroshima).

*Người dân Việt Nam vẫn tiếp tục đau khổ và chết bởi bom chưa nổ và chất độc màu da cam được Hoa Kỳ ném xuống Việt Nam trong cuộc chiến. Mười phần trăm số bom ném xuống Việt Nam chưa nổ ngay và vẫn tiếp tục nổ trên sân vườn của người dân, trên cánh đồng và trong làng của họ, dẫn đến người dân ở mọi độ tuổi, có cả trẻ em bị mất chi, bị mù hay bị chết hoặc bị các thương tật khác. Tám trăm ngàn tấn bom chưa nổ vẫn nằm trên mặt đất Việt Nam. Kể từ khi kết thúc cuộc chiến, ít nhất có 42,000 người chết và 62,000 người khác bị thương hay tàn phế vĩnh viễn do bom chưa nổ. Chúng tôi đã chứng kiến một quả bom bướm chưa nổ được cho nổ an toàn sau khi được tìm thấy cách mười feet ở phía sau một căn nhà trong ngôi làng khi họ phát quang cỏ dại một ngày trước khi chúng tôi tới đó.

*Hơn 20 triệu gallon thuốc diệt cỏ đã được phun xuống con người và đất nước Việt Nam, trong đó có 15 triệu gallon chất độc màu da cam hủy diệt cây cối và mùa màng. Có ba triệu người Việt Nam là nạn nhân của chất độc màu da cam với cơ thể và trí óc dị dạng, ba thế hệ tiếp theo vẫn chịu đựng đau khổ do chất hóa học cực độc này gây ra, nó làm biến đổi gen và di truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác nên trẻ em vẫn tiếp tục bị dị dạng bẩm sinh trong trí óc và cơ thể. Chúng tôi thăm viếng một trại trẻ mồ côi bị ảnh hưởng bởi chất độc màu da cam, những đứa trẻ không bao giờ có khả năng sống một cuộc đời bình thường. Chúng tôi tới thăm một gia đình nơi những đứa trẻ nằm trên giường hay sàn nhà không có khả năng điều khiển cơ thể hay thậm chí nhận ra những người xung quanh. Một người mẹ hay người bà dành 24 giờ một ngày để chăm sóc chúng. Điều đó vượt quá sức chịu đựng của trái tim chúng ta.

*Tổ chức Cựu chiến binh (Hoa Kỳ) vì Hòa Bình Hiến Chương 160 ở Việt Nam đang trợ giúp các dự án giống như dự án Renew, trong đó người Việt Nam được hướng dẫn cách vô hiệu hóa hay cho nổ an toàn những quả bom chưa nổ mà họ tìm thấy ở cộng đồng. Họ cũng hỗ trợ các trại trẻ mồ côi và gia đình mà có một hay nhiều thành viên không thể lao động bằng cách mua cho gia đình ấy một con bò hay lợp mái nhà và hỗ trợ gia đình ấy. Đoàn của chúng tôi đóng góp 21,000 dollar cho trại trẻ mồ côi và hỗ trợ các gia đình bị nhiễm chất độc màu da cam và bị ảnh hưởng của bom chưa nổ - một giọt nhỏ so với nhu cầu, nhưng cũng rất đáng giá.

*Chính quyền Hoa Kỳ nên gánh trách nhiệm giải phóng sự đau khổ và thương tích mà cuộc chiến của chúng ta vẫn đang gây ra cho người dân Việt Nam và đóng góp hàng trăm triệu dollar cần thiết để làm sạch cả chất độc màu da cam lẫn bom chưa nổ và hỗ trợ các gia đình cũng như nạn nhân đang phải chịu đau khổ của chiến tranh. Người Việt Nam đã sẵn sàng làm việc, nhưng cần sự trợ giúp tài chính. Người Mỹ chúng ta đã gây ra thảm kịch này. Chúng ta có trách nhiệm -đạo đức phải dọn sạch nó.

*Ấn tượng rất mạnh mẽ với các cựu chiến binh Hoa Kỳ, những người đã tham gia giết chóc và phá hủy Việt Nam và giờ đang tìm thấy sự hồi phục những chấn thương trong chiến tranh cách đây 40 năm hoặc nhiều hơn, qua việc tiếp xúc với những người Việt Nam vẫn đang phải chịu đựng đau khổ của chiến tranh. Một cựu chiến binh Hoa Kỳ kể với tôi là sau chiến tranh ông ấy đã không thể sống với bản thân hay với bất cứ ai khác và sống xa cách mọi người đến chừng nào ông ấy có thể - khoảng hàng trăm dặm về phía bắc Anchorage, Alaska, làm việc với đường ống dẫn dầu ngày qua ngày, uống nhiều rượu hoặc sử dụng chất gây nghiện trong phần thời gian còn lại để trốn tránh khỏi những ấn tượng đau thương về chiến tranh. Ông ấy nói có hàng trăm cựu chiến binh khác cũng như vậy trong các cánh rừng ở Alaska. Chỉ sau ba mươi năm trong địa ngục, ông ấy cuối cùng cũng quyết định quay trở lại Việt Nam để hiểu người Việt Nam và tìm thấy cách chữa lành vết thương chiến tranh – bằng cách cố gắng chữa lành vết thương cho những người Việt Nam cũng như bản thân. Ông ấy nói rằng quyết định tồi tệ nhất trong cuộc đời là đến Việt Nam như một người lính và quyết định tốt nhất là trở lại Việt Nam như một người bạn của người dân Việt Nam.

*Có một đạo luật được quốc hội thông qua phân bổ 66 triệu dollar để kỷ niệm chiến tranh Việt Nam vào năm 2015, lễ kỷ niệm 40 năm kết thúc chiến tranh. Nhiều người ở Washington muốn làm đẹp hình ảnh của cuộc chiến ở Việt Nam – coi đó là một “cuộc chiến tốt” và thứ gì đó mà người Mỹ nên tự hào. Sau chuyến viếng thăm mới đây tới Việt Nam, tôi cảm thấy rằng chúng ta phải không cho phép chính phủ làm đẹp hình ảnh chiến tranh Việt Nam. Chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến khủng khiếp như mọi cuộc chiến. Chúng ta có thể học được từ lịch sử cũng như từ bài giảng tôn giáo của chúng ta rằng chiến tranh không phải là câu trả lời, rằng chiến tranh không giải quyết xung đột mà gieo mầm cho các cuộc chiến tương lai. Chiến tranh là thảm họa đọa đức đối với mọi người nhất là đối với những người tham gia giết chóc. (Có một số lượng lớn các vụ tự tử do các binh lính đang làm nghĩa vụ và cựu binh thực hiện, và linh hồn của tất cả những người còn lại trong số chúng ta cũng bị tổn thương).

*Hoa Kỳ có thể là quốc gia được yêu mến nhất trên thế giới nếu chúng ta chuyển từ hòa bình kiểu Mỹ trong quan hệ với thế giới sang một tầm nhìn thế giới về gia đình nhân loại toàn cầu. Chúng ta cần làm việc vì “an ninh được chia sẻ” cho mọi người dân trên trái đất và hành động theo niềm tin đó bằng cách hiến hàng trăm tỷ dollar mà chúng ta đang chi cho các cuộc chiến và chuẩn bị chiến tranh cho nhu cầu nhân đạo và môi trường ở Hoa Kỳ cũng như khắp thế giới. Chúng ta có thể giúp kết thúc nạn đói thế giới, xây dựng trường học cũng như bệnh xã trong các cộng đồng quanh thế giới – tạo dựng một cuộc đời tử tế cho tất cả mọi người trên hành tinh. Điều đó sẽ là biện pháp chiến đấu chống khủng bố hiệu quả hơn những nỗ lực hiện nay để duy trì an ninh bằng nhiều vũ trang hơn, nhiều bom nguyên tử hơn hay nhiều doanh trại quân đội bao quanh hành tinh hơn.

Tuesday, May 20, 2014

Tướng có quan hệ với CIA tiến hành đảo chính ở Lybia

Ba năm sau cuộc đảo chính và giết hại đại tá Gaddafi của liên quân Hoa Kỳ-NATO, Lybia lại đối mặt với một cuộc đảo chính quân sự khác, do một vị tướng từng là chiến hữu của Gaddafi cầm đầu. Xin mời bạn đọc xem bản dịch bài viết "CIA-linked general launches Libya coup bid" của tác giả Bill Van Auken để cập nhật những tin tức mới về sự kiện này ở Lybia.

Các lính du kích được trang bị tối tân trung thành với vị tướng nghỉ hưu có quan hệ sâu sắc với Cục tình báo trung ương Hoa Kỳ đã tấn công toàn nhà quốc hội Lybia vào chủ nhật với xe bọc thép và vũ khí hạng nặng, bắt giữ người phát ngôn và lãnh đạo quân đội Nouri Abushamain cùng với khoảng 20 sĩ quan và bắn vào tòa nhà.

Cuộc tấn công được chủ tịch quốc hội mô tả là một cuộc đảo chính, diễn ra chỉ một ngày sau khi Lầu Năm Góc yêu cầu triển khai 200 lính thủy Hoa Kỳ tới căn cứ ở Sicily để đảm nhiệm vai trò lực lượng “phản ứng khủng hoảng” ở Lybia. “Chúng tôi làm điều này một cách ngẫu nhiên bởi vì chúng tôi tin rằng tình trạng an ninh ở Bắc Phi đang trở nên xấu đến mức có thể nguy hiểm,” một người phát ngôn của Lầu Năm Góc nói. Quan chức quân đội Hoa Kỳ nói không có thẩm quyền làm rõ rằng tiêu điểm của nhiệm vụ là Lybia, nơi mà Washington có vẻ biết rằng bạo lực chủ yếu sắp diễn ra.

Hoàng gia Saudi sơ tán các thành viên khỏi Lybia vào chủ nhật, tiếp theo là hoạt động tương tự của Algeria và UAE. Tất cả đều cho thấy nguy cơ bạo lực. Ba năm sau cuộc chiến của Hoa Kỳ-NATO kết thúc bằng việc lật đổ và giết hại cựu lãnh đạo Muammar Gaddafi, Lybia, một chiến trường cho những du kích Hồi giáo và các lực lượng đối đầu khác, là mô hình của cái được gọi là quốc gia thất bại.

Lãnh đạo của cuộc nổi dậy vũ trang mới nhất là cựu tướng quân đội Lybia Khalifa Hafta. Một người ủng hộ cuộc nổi dậy vũ trang năm 1969 của đại tá Gaddafi, cuộc nổi dậy đã lật đổ triều đình của vua Idris được Hoa Kỳ và Anh hậu thuẫn, Haftar bị bắt vào những năm 1980 khi Lybia can thiệp vào Chad và sau đó được thả theo yêu cầu của Washington, trở thành một “tài sản” của CIA. Tiếp đó CIA chuyển ông ta tới Virginia, gần trụ sở của cục ở Langley, và giúp ông ta thiết lập các trại huấn luyện cho “Quân đội Quốc gia Lybia” – cái tên đó cũng được ông ta đặt cho tập hợp các đơn vị quân đội và du kích hiện đang chiến đấu để lật đổ chính phủ ở Tripoli.

Khi Hoa Kỳ và NATO tiến hành cuộc chiến thay đổi chính quyền ở Lybia ba năm trước đây, Haftar đã bay trở lại Benghazi để nhận quyền chỉ huy quân đội tay sai trên mặt đất trong khi Hoa Kỳ và NATO ném bom đất nước. Mặc dù vậy, ông ta bị cựu bộ trưởng bộ nội vụ Abdel Fatah Younis của Gaddafi hất cẳng, người này sau đó đã bị ám sát. Ông ta bị những du kích Hồi giáo thống trị lực lượng được NATO hậu thuẫn làm lu mờ.

Haftar đã thực hiện một cuộc đảo chính chết yểu vào tháng hai vừa qua, đăng tải một đoạn phim về bản thân trong đồng phục quân đội kêu gọi đình chỉ quốc hội cũng như chính phủ và thiết lập một hội đồng để “giải cứu” Lybia khỏi sự hỗn loạn. Không có đảo chính vũ trang, mặc dù vậy, chính quyền cũng phớt lờ hành động đó.

Cuộc tấn công mới nhất của Haftar, được gán cái tên “Chiến dịch khôi phục giá trị Libya”, được khởi sự vào thứ sáu với tấn công toàn diện vào quân du kích Hồi giáo đang thống trị ở phía đông thành phố Benghazi. Cuộc chiến dẫn đến cái chết của ít nhất 80 người và khiến một bộ phận lớn dân chúng phải bỏ trốn tới nơi an toàn. Các chiến đấu cơ và trực thăng đã ném bom các căn cứ quân sự của du kích Hồi giáo, bao gồm cả Ansar al-Sharia, một nhóm đã tấn công vào lãnh sự Hoa Kỳ và CIA “sáp nhập” khiến đại sứ Hoa Kỳ và ba người Mỹ khác thiệt mạng.

Chính phủ ở Tripoli phản ứng bằng các tuyên bố một “vùng cấm bay” trên bầu trời Benghazi – nực cười là biện pháp đó hệt như biện pháp mà Hoa Kỳ và NATO đã khởi động cuộc chiến kiểu thuộc địa mới của họ cách đây ba năm. Mặc dù vậy, dường như là mệnh lệnh được dùng để chống lại chính không quân của Lybia và không có tác dụng. Tham gia vào chiến dịch còn có các thành phần của đặc nhiệm Lybia, mặc dù các chỉ huy của lực lượng này tuyên bố họ trung lập.

“Chúng tôi sẽ không ngừng lại cho đến khi đạt mục đích,” Haftar nói với phóng viên vào thứ bảy. “Chiến dịch này có một mục tiêu cao cả là diệt trừ khủng bố.”

Có vẻ như cuộc tấn công quân sự cũng nhận được ít nhất là một số sự ủng hộ dân sự và thu hút sự chú ý của một số du kích quân bộ lạc, nhưng người đang tìm cách trả thù những cuộc giết chóc của người Hồi giáo. Benghazi đã thấy máu tiếp tục đổ trong những tháng gần đây, với các cuộc ám sát, đánh bom xe hơi và các cuộc giết chóc khác, phần nhiều trong số chúng do các du kích Hồi giáo mà chính quyền ở Tripoli công nhận là một phần của lực lượng an ninh gây ra. Một trong số các hoạt động mới nhất là vụ ám sát giám đốc tình báo địa phương.

Theo nhân chứng ở Tripoli, cuộc tấn công ngày chủ nhật vào tòa nhà quốc hội do lực lượng được gọi là du kích Zintan thực hiện, lực lượng xuất xứ từ thành phố mang tên Zintan cách Tripoli 80 dặm về phía tây nam, họ là quyền lực được thừa nhận ở thủ đô kể từ khi Gaddafi bị lật đổ, bao gồm cả sân bay thành phố, thể hiện sự thù địch với người Hồi giáo và tổ chức cuộc tấn công vội vàng vào nghị viện.

Sau cuộc tấn công, mặc dù vậy, giám đốc cảnh sát quân sự, đại tá Mukhtar Fernan, đưa ra thông cáo qua điện tín với danh nghĩa “Quân đội Quốc gia Libya” của Haftar tuyên bố sự tan rã của Quốc hội và khẳng định rằng Lybia sẽ không trở thành một “nơi trú ngụ cho khủng bố.”

Về phần mình, chính quyền kêu gọi các du kích Hồi giáo phản ứng lại cuộc đảo chính và đối đầu với “âm mưu giành quyền lực” ở Tripoli.

Phần lớn dân chúng coi Quốc hội và chính quyền Lybia là bất hợp pháp. Quốc hội được tập hợp từ các lực lượng Hồi giáo, các thành phần cựu Gaddafi và các băng đảng tội phạm, đơn phương gia hạn ủy quyền cho tới cuối năm – mặc dù phải được kết thúc vào tháng hai. Đất nước đã trải qua ba đời thủ tướng kể từ đó. Các phần tử Hồi giáo đã dàn xếp để trục xuất Ali Zeidan, một chính khách lưu vong thế tục và là ngoại giao kỳ cựu vào tháng ba vừa qua. Họ đang tìm kiếm sự thống nhất với chính phủ mới dưới thời Ahmed Meeiteg, sau một cuộc bỏ phiếu bị các đối thủ tuyên bố là gian lận. Cuộc tấn công vào nghị viện diễn ra cùng ngày với việc nội các mới được lựa chọn.

Đáng chú ý, các thông điệp từ Washington và liên minh của họ đã không bày tỏ sự ủng hộ đối với chính phủ ở Tripoli hay lên án cuộc đảo chính. Trái lại, người phát ngôn Bộ ngoại giao Jen Psaki trả lời phóng viên vào thứ hai, “Chúng tôi lặp lại lời kêu gọi tất cả các bên kiềm chế bạo lực và tìm kiếm giải pháp thông qua các biện pháp hòa bình.” Bà ta bổ sung thêm rằng Washington ủng hộ “một biện pháp dân chủ và hòa bình để đem tới sự ổn định ở Lybia, nhưng đó là một thỏa thuận lớn đối với nền tảng lỏng lẻo.”

Tương tự, EU tuyên bố rằng họ “quan ngại sâu sắc” đối với các sự kiện ở Libya, trong khi kêu gọi “tất cả các bên xây dựng sự đồng thuận để đảm bảo sự chuyển tiếp tới một nền dân chủ ổn định.” Và thư ký NATO tường Anders Fogh Rasmussen nói trong cuộc họp báo ở Brussels “tất cả các bên” nên “kiềm chế bạo lực và tham gia vào một cuộc đối thoại chính trị quốc gia có tính chất xây dựng.”

Các tuyên bố cho thấy, ít nhất là ai đang dẫn dắt tình hình, nếu không nói là ủng hộ cuộc đảo chính của Haftar.

Ba năm sau cuộc chiến thay đổi chính quyền của NATO, Lybia ở trong trạng thái tan rã. Tháng trước, sản lượng dầu mỏ, nguồn của 95% thu nhập của chính quyền, đã giảm xuống mức kỷ lục 215,000 thùng một ngày, chỉ bằng 13% so với năng lực hiện có. Tỷ lệ thất nghiệp khoảng 30%, và khoảng 1 triệu người bỏ chạy. Du kích vũ trang tạo ra bạo lực tràn lan, đồng thời kiểm soát một mạng lưới nhà tù bí mật và các trung tâm tra tấn trong đó có hàng ngàn người đang héo mòn. 

Như đã thấy lịch sử của Haftar có liên quan đến CIA, có nguyên nhân rõ ràng để cho rằng Washington đứng sau cuộc đảo chính. Cùng lúc, mặc dù vậy, chính sách Hoa Kỳ tại khu vực đặc trưng bởi sự phân biệt nội bộ với việc tận dụng các phần tử Hồi giáo mà Haftar tấn công để đáp ứng lợi ích của đế quốc Hoa Kỳ.

Những người Hồi giáo, bao gồm các cựu quân nhân Al Qaeda từng bị giam giữ ở Guantanamo, đóng vai trò nổi bật trong việc tổ chức lực lượng bộ binh được không lực Hoa Kỳ-NATO hỗ trợ để lật đổ Gaddafi. Sau cái được gọi là “cách mạng”, cũng lực lượng đó đóng vai trò đáng kể, trong hợp tác với CIA, để chuyển tải vũ khí từ các kho hàng của chính phủ Lybia và các chiến binh ngoại quốc vào cuộc nội chiến đẫm máu ở Syria, nơi mà Washington ủng hộ du kích Hồi giáo lật đổ chế độ Bashar al-Assad.

Những sự dàn xếp làm mất mặt chính quyền Obama với cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2012,  giết chết đại sứ J. Christoppher Stevens và 3 trợ lý. Khi những người cộng hòa ở Quốc hội triệu tập cấp tốc vì một vụ scandal mà chính phủ che dấu, không ai trong số họ thể hiện bất cứ xu hướng nào điều tra nguồn gốc thực tế của cuộc tấn công, đó là sự đổ vỡ trong liên minh giữa CIA và đồng minh Hồi giáo.

Bất kể Washinhton có quyết định hay không, ba năm sau khi lật đổ và giết hại Gaddafi, việc thanh toán với những thành phần đó và sử dụng tướng Haftar, một trong những đồng chí cũ của Gaddafi, làm người lãnh đạo mới của quân đội phục vụ Hoa Kỳ sẽ trở nên rõ ràng trong những ngày tới đây.

Sunday, May 18, 2014

Hoàng Anh Gia Lai bị cáo buộc phá hủy nghĩa trang, tấn công tình dục và làm chết gia súc ở Campuchia

Sau bản cáo buộc của Global Witness vào năm ngoái, công ty Hoàng Anh Gia Lai tiếp tục gặp rắc rối mới với các dự án ở Campuchia. Xin mời bạn đọc xem thông tin chi tiết qua bản dịch từ bài báo "Sexual abuse among claims against HAGL" đăng trên báo Phnompenh Post.

Tấn công tình dục và phá hủy các nghĩa địa linh thiêng là hai trong số nhiều các cáo buộc của dân các làng ở tỉnh Ratanakkiri đối với người khổng lồ cao su Việt Nam Hoàng Anh Gia Lai (HAGL), theo một báo cáo tiết lộ về ngành đầu tư của Ngân Hàng Thế Giới (WB).

Vào tháng hai, 17 cộng đồng bản địa cáo buộc HAGL về việc chiếm đoạt đất đai đã nộp một bản kháng nghị cho Công ty Tài chính Quốc tế của Ngân hàng Thế Giới (IFC) – tổ chức này đầu tư vào nhà sản xuất cao su thông qua một quỹ trung gian được gọi là Dragon Capital Group. Việc đệ trình đã khởi động quá trình điều tra của bộ phận giám sát nội bộ IFC, Cố vấn Thanh Tra Tuân thủ (CAO).

Trong một đánh giá ban đầu vào ngày 12 tháng 5 và được công bố trên website, CAO văn bản hóa cáo buộc của dân làng đối với HAGL về việc làm giảm trữ lượng cá trên sông, xâm lấn và hủy hoại đất linh thiêng, làm chết hàng trăm gia súc và một trong những cáo buộc gây sốc hơn là bị các công nhân của công ty lạm dụng tình dục.

“Các cộng đồng cũng chia sẻ với CAO rằng có hai ví dụ về việc các công nhân của công ty tấn công tình dục, không chỉ là cưỡng ép đối với cá nhân, mà còn khiến phụ nữ trong làng khi làm các công việc hàng ngày phải tìm cách tránh các vụ làm hại có thể xảy ra”, báo cáo của CAO cho biết.

Hôm qua HAGL đã từ chối trả lời, nhưng theo quan điểm của công ty xuất hiện trong đánh giá của CAO vào ngày 12 tháng năm, người khổng lồ nông nghiệp khẳng định rằng họ tuân thủ theo luật pháp Campuchia, đồng thời thừa nhận rằng họ có lẽ đã có thể làm nhiều hơn cho những dân làng bị lấy đất để mở đường cho sự phát triển. 

“Công ty khẳng định rằng họ đã không chú trọng nhiều hơn và sớm hơn vào cơ hội phát triển cho các cộng đồng địa phương trong việc phát triển các hoạt động của họ,” bản báo cáo viết.

Các làng bị ảnh hưởng được tiếp xúc hôm qua không liên quan đến các trường hợp bị tấn công nhưng cáo buộc công nhân của HAGL tiếp tục lạm dụng, như việc dân làng bị ăn trộm nông cụ. 

“Chúng tôi nghĩ rằng họ làm điều đó bởi vì họ không muốn chúng tôi có bất cứ canh tác nào trên đất đai mà họ giải tỏa,” Romam Tham, một nông dân ở làng Kak, nói vào ngày hôm qua.

Theo thông tin của tờ Post vào cuối tuần trước, HAGL đã đình hoãn ba trong số các dự án của họ ở Ratanakkiri từ ngày 1 tháng 5 đến ngày 30 tháng 11. Một bản ghi nhớ của công ty vào ngày 28 tháng 4 về sự đình hoãn không đưa ra các lý do chi tiết cho việc tạm ngưng, nhưng có ghi lại các phản hồi theo cuộc họp với thanh tra viên của IFC vào ngày 2 tháng 4.

CAO ở Washington lặp lại các thông điệp qua thư điện tử là báo cáo cho biết cả dân làng và HAGL đều chấp thuận một quá trình giải quyết tranh chấp mà thanh tra viên của IFC sẽ tạo điều kiện.

HAGL thường xuyên là tâm điểm của cuộc tranh luận về đầu tư nông nghiệp ở Campuchia. Năm ngoái, tổ chức phi chính phủ ở Anh Global Witness đã công bố một báo cáo cáo buộc công ty về việc xâm nhập bất hợp pháp ra ngoài khu vực được nhượng quyền và chiếm hữu ít nhất 47,000 ha đất kinh tế được nhượng quyền – gần gấp năm lần giới hạn hợp pháp.

Hôm qua, Eang Vuthy, giám đốc của tổ chức phi chính phủ Equitable Combodia, đang hợp tác với các gia đình bị ảnh hưởng, nói rằng có một cuộc đối thoại công khai là một bước quan trọng, nhưng vẫn cần phải tiếp tục làm việc cho tới khi đạt được một giải pháp thích hợp.

“Điều quan trọng là cố gắng để tất cả các bên gặp mặt và thảo luận”, ông nói. “Nếu chúng ta có thể xác định vấn để thì chúng ta có thể cân nhắc bước tiếp theo.”

Đôi lời về Cù Huy Hà Vũ

Thấy anh họ Cù được lên hẳn tờ Washington Post chém gió, tưởng hay ho thế nào, sau một hồi than vãn dăm ba chuyện nhân quyền với dân chủ bịa đặt vớ vẩn và cũ rích thì anh họ Cù chốt hạ rằng: 

"I respectfully urge the U.S. government to use all relevant bilateral and multilateral venues, including negotiations on trade and security as well as loans from international financial institutions, to seek the immediate repeal of Articles 79, 88 and 258, and the unconditional release of all prisoners of conscience charged under these articles."

[Bà con không biết tiếng Anh thì có thể hiểu như sau: Tôi trân trọng hối thúc chính phủ Hoa Kỳ sử dụng tất cả các thiết chế song phương và đa phương thích hợp, bao gồm các đàm phán về thương mại và anh ninh cũng như các khoản vay từ các tổ chức tài chính quốc tế, tìm các bãi bỏ tức khắc các điều luật 79, 88 cũng như 258, và phóng thích vô điều kiện các tù nhân lương tâm bị kết án theo những điều luật đó."

Thứ nhất, Việt Nam là một nước độc lập và có chủ quyền. Luật pháp của Việt Nam phải do người Việt Nam xây dựng và chỉnh sửa theo nhu cầu của người Việt Nam, không có bất cứ quốc gia nào khác được phép can thiệp. Sự can thiệp của bất cứ quốc gia nước ngoài nào vào luật lệ của Việt Nam đều có thể coi là một sự xâm lược.

Thứ hai, kêu gọi một quốc gia khác gây áp lực để buộc Việt Nam phải sửa chữa pháp luật tức là kêu gọi quốc gia ấy xâm lược Việt Nam. Với bài báo trên, anh họ Cù đã tự biến mình thành kẻ phản bội Tổ quốc. Bất cứ người Việt Nam yêu nước nào cũng khó có thể tha thứ cho anh họ Cù về chuyện này.

Thứ ba, phản bội Tổ quốc chưa đủ, anh họ Cù còn kêu gọi Mỹ dùng các biện pháp kinh tế và an ninh để gây sức ép với Việt Nam, điều đó không chỉ cản trở sự phát triển của Việt Nam mà còn sẽ gây ra tổn thất kinh tế đối với hàng chục triệu gia đình người lao động Việt Nam, nhiều người có thể mất việc làm hay phá sản, bị đói, thậm chí chết, nhiều trẻ em có thể bị dị tật, suy dinh dưỡng hay thất học. Ngoại trưởng Hoa Kỳ M. Albright có thể trả lời ráo hoảnh rằng cái chết của nửa triệu trẻ em Iraq do Hoa Kỳ cấm vận Iraq là cái giá đáng để đổi lấy nhân quyền. Liệu anh họ Cù có hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ phải nói một câu tương tự?

Saturday, May 17, 2014

Những vị chúa doanh nghiệp của Hoa Kỳ

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết ngắn "The Corporate Gods of America" của Robert Fatina. Bài viết bày tỏ những ưu tư về một xã hội đặt lợi nhuận của doanh nghiệp lên trên hết.

Có ai hoài nghi rằng Hoa Kỳ được cai trị vì lợi ích của doanh nghiệp? Công thức cao quý “vì nhân dân” đã biến mất trong đám bụi thần diệu tưởng tượng nhiều thế hệ trước đây.

Trong thiên niên kỷ mới, bất cứ yêu sách nào phục vụ nhân dân, hơn là doanh nghiệp, bị loại bỏ ngay; dường như, những người được lựa chọn, hay còn được gọi là đại diện, và các doanh nghiệp sở hữu họ, được thuyết phục rằng 99% đã hoàn toàn bị ru ngủ bởi niềm tin gà gật kiểu như Hoa Kỳ là quốc gia vĩ đại nhất thế giới, và điều gì tốt cho kinh doanh thì cũng tốt cho họ. Những người còn mang niềm tin kỳ quái ấy xin hãy xem qua những sự thật rất cơ bản và sơ đẳng:

* Luật an toàn. Bị doanh nghiệp chống lại, các luật an toàn lỏng lẻo hay không-tồn tại đem lại lợi ích cho những doanh nghiệp nhỏ với chi phí do các cá nhân gánh chịu. Nhồi nhét nhiều công nhân hơn vào một nhà máy có thể gây ra nhiều nguy hiểm cho sức khỏe của họ, nhưng nhiều công nhân hơn thì sản xuất nhiều hàng hóa hơn, và điều đó tốt cho doanh nghiệp

* Các tiêu chuẩn về xả thải. Các tiêu chuẩn đó cho phép hàng triệu người được sống trong một bầu không khí ít nhất là chấp nhận được, cũng như có nguồn nước uống dễ chịu. Nhưng việc doanh nghiệp buộc phải phải giảm lượng chất thải mà họ xả vào không khí và/hay nguồn nước lại tốn tiền, mà không đem lại bất cứ khoản thu nào. Khi không có doanh thu cho khoản đầu tư, doanh nghiệp chống lại các tiêu chuẩn đó. 

* Lương tối thiểu. Duy trì lương tối thiểu thấp làm gia tăng lợi nhuận doanh nghiệp trong khi buộc hàng sa số cá nhân và gia đình phải sống trong sự nghèo đói, một sự cộng thêm cho doanh nghiệp. Điều đó cho phép các giám đốc doanh nghiệp nhận được hàng triệu dollar tiền lương và thưởng, trong khi công nhân của họ chỉ đủ tiền mua thực phẩm, những người giàu có ấy dành riêng các hàng hóa xa xỉ như giáo dục cấp cao hơn cho bản thân hay cho con cái họ. Thêm vào chi phí cắt cổ của giáo dục cấp cao hơn là các khoản cho vay sinh viên với lãi suất cao đến nản lòng, và một lực lượng lao động thiếu giáo dục, tuyệt vọng sẽ hài lòng vớ lấy bất kỳ công việc nào với lương tối thiểu, và sẽ lưỡng lựu khi yêu cầu bất cứ thứ gì tốt hơn.

* Nước ngoài. Rất nhiều, nếu không phải là phần lớn, các doanh nghiệp lớn chuyển việc làm tới các quốc gia có mức lương gần như lương của nô lệ, không có tiêu chuẩn an toàn, giúp ích cho những kẻ tìm kiếm lợi nhuận, trong khi lấy đi của công dân Mỹ hàng triệu việc làm. Sự hủy hoại đối với sức khỏe và hạnh phúc của công nhân ngoại quốc không phải là mối bận tâm của các doanh nghiệp đang thuê họ làm việc.

* Phá hủy hay làm suy yếu các công đoàn. Trong nhiều thế hệ, các công nhân liên hiệp có thể tăng phần của mình thông qua đàm phán tập thể. Hiện nay, mặc dù vậy, các doanh nghiệp, cùng với quan chức chính phủ được họ mua và trả tiền, đang cố gắng làm suy yếu hay phá hủy các công đoàn. Ví dụ, ở Wincosin trong cuộc bỏ phiếu tín nhiệm năm 2012, có khoảng 66% nguồn tài trợ của thống đốc chống công đoàn Scott Walker đến từ bên ngoài bang, nhiều trong số đó là từ các nhóm kinh doanh bảo thủ, bao gồm anh em nhà Koch và Sheldon Anderson. Tổng cộng khoản đóng góp của ông Walker là 30,5 triệu dollar. Đối thủ của ông ta, Tom Barrett, nhận được khoảng 26% trong số 4 triệu dollar từ các nhóm bên ngoài.

* Doanh nghiệp kiểm soát truyền thông. Vào năm 1983, khoảng 15 công ty sở hữu 90% truyền thông Hoa Kỳ. Ngày nay, chỉ có sáu công ty sở hữu 90% truyền thông. Điều đó có nghĩa là 232 giám đốc truyền thông kiểm soát cái mà 277 triệu công dân Hoa Kỳ xem. Tại sao họ lại không muốn công dân chỉ xem những “tin tức” và “thông tin” sẽ nâng cao giá trị của các cổ đông, và cùng với điều đó là lương của họ? 

Tòa án tối cao đồng lõa với tất cả những điều đó. Một pháo đài cuối cùng của việc giải thích hiến pháp, công lý ngày nay, đôi khi dường như đã bị đốn hạ, sùng bái bàn thờ doanh nghiệp mà tòa án ủng hộ. Vào năm 2010, trong vụ Liên minh Công dân kiện Ủy ban bầu cử Liên bang, tòa án đã phán quyết rằng Tu chính án thứ nhất cấm các biện pháp giới hạn của chính phủ đối với quyên góp của “doanh nghiệp, hiệp hội hay công đoàn”. Điều đó mở ra cánh cổng tài chính cho phép những doanh nghiệp giàu có quyên góp không giới hạn cho các ứng cử viên sẽ phục vụ họ, trong khi chỉ mang lại lợi ích ít ỏi cho những người lao động bình thường.

Tất cả những điều đó không phải là hạt nhân chính của chủ nghĩa phát xít? Các mục tiêu của doanh nghiệp không phải là vị chúa tối cao, cùng với mối ưu tư cuồng tín về an ninh quốc gia, trong những cột trụ của nhà nước phát xít?

Mặc dù gần như tất cả các chính khách, tả, hữu và trung, quấn mình trong lá cờ Hoa Kỳ và tuyên bố về sự vĩ đại của điều tồi tệ Hoa Kỳ, dường như có nhiều công dân – động vật gặm nhấm, khi họ nhìn lá cờ, mở to đôi mắt ứa lệ và ủng hộ các chính sách cũng như chương trình phục vụ cho lợi ích của doanh nghiệp mà nhu cầu cơ bản của họ phải gánh chịu chi phí.

Phong trào “Chiếm đóng” tạo ra một bước chống lại thói quen tự hủy hoại đó, nhưng bất cứ phong trào nào cũng phụ thuộc vào việc phát hành, và truyền thông do doanh nghiệp sở hữu sẽ không chú ý tới những vấn đề không phục vụ cho lợi ích của bản thân. Truyền thông xã hội có thể là công cụ cuối cùng có thể, nhưng doanh nghiệp không quay lưng với giá trị đồng dollar của họ, hay các tác động tiềm tàng có thể nếu “nhân dân chúng ta” được phép kiểm soát. Mạng internet trung lập, nguyên tắc mà theo đó mọi website, dịch vụ và ứng dụng được nhà cung cấp dịch vụ Internet đối xử bình đẳng, đã thu hút sự chú ý của những người tìm kiếm sự giàu có cho bản thân, những cái két tiền đã phồng to. Với đề xuất mới của chính phủ Hoa Kỳ, các website sẽ nhận được dịch vụ tương ứng với khoản tiền mà họ sẵn sàng chi trả. Một lần nữa, những doanh nhân nhỏ, độc lập dựa vào sự nhân từ của những kẻ cạnh tranh lớn, và trong phần lớn các trường hợp không có cơ hội thành công.

Đó là cuộc sống ngày nay ở “xứ sở của cơ hội” được ca tụng nhiều nhất. Nếu ai đó đã giàu có sẵn, cơ hội có thừa. Mặc dù vậy, đối với 99% không có cơ hội, ồn ào tạo ra cơ hội cuối cùng có thể là điều tốt nhất.

Friday, May 16, 2014

Bất chấp đàm phán bàn tròn, chính phủ Ukraina mở rộng sự đàn áp

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Despite round table talks, Ukrainian regime escalates crackdown" của Johannes Stern, cập nhật những diễn biến mới nhất về cuộc khủng hoảng tại Ukraina.

Hoa Kỳ và Châu Âu đã cho thấy sự ủng hộ của họ đối với các chiến dịch “chống khủng bố” của chính phủ Kiev nhằm dồn ép người biểu tình thân Nga ở miền đông Ukraina, thậm chí ngay cả khi Kremlin đã tuyên bố ủng hộ cái được gọi là đàm phán “bàn tròn” vào thứ tư ở Kiev và giữ khoảng cách với người biểu tình.

Vào thứ năm, tổng thống tạm quyền Oleksandr Turchynov khoe khoang rằng quân đội Ukraina đã phá hủy doanh trại của các chiến binh thân Nga trong các chiến dịch qua đem. Ông ta khẳng định quân đội của chính phủ đã tấn công một căn cứ cở thành phố miền đông Slavyansk và một căn cứ khác gần Kramatorsk – thành phố công nghiệp ở phía bắc tỉnh Donetsk, nơi mà cái được gọi là “chiến dịch chống khủng bố” của Kiev đã bắt đầu một tháng trước đây. Bộ trưởng quốc phòng ở Kiev thông báo rằng quân đội đã bắt giữ ba tù binh, khẳng định không có thương vong.

Chính phủ Kiev ngày càng dựa nhiều hơn vào lực lượng phát xít, đóng vai trò mũi nhọn trong cuộc đảo chính ngày 22 tháng hai chống lại tổng thống dân cử Victor Yanukovych, để tiếp tục các chiến dịch quân sự ở miền đông.

Vào thứ năm, tờ Guardian của Anh xuất bản một bài báo dài với tiêu đề “Sự lo ngại về nội chiến ở Ukraina gia tăng khi các đơn vị tình nguyện cầm vũ khí”, tường thuật về “các đơn vị phi chính quy xuất hiện trong những nỗ lực của Kiev giành lại quyền kiểm soát khu vực Donetsk và Luhansk từ tay các chiến binh thân Nga. Họ được các nhà cầm quyền Ukraina công nhận là bán hợp pháp, hoan nghênh mọi sự trợ giúp đối với cuộc chiến của họ ở miền đông”.

Nguy cơ của một cuộc nội chiến toàn diện ở Ukraina không phải là kết quả của “âm mưu Nga”, như truyền thông và các chính phủ phương Tây khẳng định. Các quyền lực đế quốc và những gã ngốc ở Kiev đã có chính sách dối trá kích động sắc tộc và căng thẳng văn hóa để gây bất ổn Ukraina và tạo lợi thế về lợi ích địa chiến lược chống lại Nga.

Một bức điện tín ngoại giao cách đây sáu năm được người sau này là đại sứ Hoa Kỳ tại Nga William Burns viết và được Wikileaks công bố mới đây, giống như một bản thiết kế cho sự kiện hiện tại.

“Sự mở rộng của NATO, đặc biệt là tới Ukraina, được coi là vấn đề ‘nhạy cảm và đau đầu’ đối với Nga, nhưng những sự cân nhắc chính sách chiến lược cũng làm nền tảng cho sự đối đầu dữ dội với việc Georgia và Ukraina gia nhập NATO. Ở Ukraina, điều đó bao gồm sự lo ngại rằng vấn đề đó có thể chia quốc gia làm hai phần, dẫn đến bạo lực, hay thậm chí như một số khẳng định là cả nội chiến, khiến quân đội Nga phải quyết định can thiệp hoặc không,” Burns viết.

Như bức điện tín đã cho thấy rõ, Hoa Kỳ và đồng minh NATO, bao gồm cả Đức, đã biết rằng thiết lập một chính phủ thân châu Âu và NATO ở Kiev sẽ kích động sự đối đầu ở trong cả nội bộ Ukraina lẫn từ phía Nga. Phản ứng này – diễn ra dưới dạng những người ly khai nổi loạn ở miền đông, và sự sáp nhập của Crimea vào Liên bang Nga – giờ đây được sử dụng làm cái cớ để biện minh cho sự tấn công của chủ nghĩa đế quốc vào Nga.

Khi đàm phán “bàn tròn” đang diễn ra, trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ Victoria Nuland, trong phát biểu tại hội nghị an ninh ở Bratislava, đe dọa rằng “nếu cuộc bầu cử ngày 25 tháng năm không diễn ra, nếu Nga tiếp tục gây bất ổn… sẽ có sự trừng phạt kinh tế tiếp theo, nghiêm trọng hơn đối với Nga ... Và chúng ta tin tưởng rằng những gì chúng ta đã làm đang bắt đầu gây nhức nhối.”

Chủ tịch Hội đồng châu Âu Herman Van Rompuy thông báo tại một cuộc họp báo chung với thủ tướng Georgia Irakly Garibashvili rằng Georgia và Moldova sẽ ký thoản thuận gia nhập Liên minh châu Âu vào ngày 27 tháng sáu. Châu Âu liên minh trực tiếp với hai quốc gia thuộc liên bang Soviet cũ có biên giới chung với Nga – một trong số đó, Georgia, đã tấn công quân đội Nga năm 2008, dẫn đến một cuộc chiến tranh ngắn với Nga – làm nổi bật tính chất thiếu thận trọng trong các hoạt động gây hấn của chủ nghĩa đế quốc nhằm bao vây và cô lập hoàn toàn Nga.

Vào thứ năm, Washington thông báo rằng NATO có kế hoạch thiết lập căn cứ quân sự lâu dài ở Ba Lan. “Hoa Kỳ nhận biết mong muốn của Ba Lan về việc triển khai căn cứ quân sự tại quốc gia, và tôi nghĩ rằng rất đáng để cân nhắc về sáng kiến này,” đại sứ Hoa Kỳ ở Ba Lan Stephen Mull nói.

“Không chỉ Hoa Kỳ, mà toàn bộ liên minh. Đây là một chủ đề quan trọng cần được thảo luận, điều đó sẽ diễn ra ở nước Anh vào tháng mười hai. Nếu Nga thay đổi một cách cực đoan môi trường an ninh ở khu vực này của châu Âu, thì sẽ cần phải có những trả đũa cụ thể từ NATO,” ông ta đe dọa.

Mull cũng tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ duy trì lực lượng bổ sung được gửi tới Ba Lan những tuần qua ít nhất là cho tới hết năm 2014. Suốt những tuần qua, Hoa Kỳ triển khai 12 chiến đấu cơ phản lực F-16 và khoảng 450 lính tới Ba Lan, một phần trong sự gia tăng quy mô của quân đội NATO ở Đông Âu.

Các biện pháp đó đã phơi bày sự gian trá của cái được gọi là đàm phán “bàn tròn” dưới sự đỡ đầu của Tổ chức Anh ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE). Họ đã khởi xướng việc ngăn chặn sự nổi loạn ở miền đông và thúc đẩy cuộc bầu cử tổng thống vào ngày 25 tháng năm, thứ được coi là chìa khóa đem lại cái mã dân chủ hợp hiến cho chính quyền bất hợp pháp tay sai của phương Tây ở Kiev.

Mặc dù vậy, vòng đầu tiên kéo dài chỉ ba giờ đồng hồ. Tham dự đàm phán có các nhà lãnh đạo của chính phủ đảo chính, các tư bản tài phiệt, cựu tổng thống Ukraina Leonid Kravchuk và Leonid Kuchma, các lãnh đạo địa phương, thủ lĩnh tôn giáo, các nhân vật đứng đầu OSCE, đại sứ Hoa Kỳ và Đức tại Ukraina.

Cuộc đàm phán bao gồm cả việc lặp lại sự đe dọa đối với Nga và người biểu tình chống chính phủ ở miền đông. Mặc dù vậy, họ cũng bị nỗi sợ hãi dẫn dắt, sự đối đầu với chính phủ Kiev có thể vượt ra ngoài tầm kiểm soát và trở thành một cuộc nội chiến toàn diện hoặc khuấy động một sự bùng nổ xã hội trên toàn quốc gia.

Các quan chức miền đông Ukraina được tham dự đàm phán đã cảnh báo rằng có sự đối đầu quy mô lớn đối với chính phủ Kiev ở miền đông. Sergei Taruta, một nhà tư bản tài phiệt tỷ phú được chính quyền Kiev bổ nhiệm chức thị trưởng Donetsk nói: “Đa số dân chúng ở Donbass [miền đất có Donetsk] đứng về phía Ukraina thống nhất, nhưng đồng thời cũng chống lại chính quyền hiện nay ở Kiev.”

Phó thủ tướng Ukraina Volodymyr Groysman kêu gọi tất cả các bên tham gia “đối mặt với thách thức mà chúng ta có hôm nay,” cảnh báo rằng “không ai cho chúng ta cơ hội thứ hai. Chúng ta sẽ phải giành lấy niềm tin của dân chúng ở miền đông cũng như miền tây, nếu không chúng ta sẽ gánh chịu một số phận bi thảm.”

Những mối lo ngại đó được chính quyền Putin chia sẻ, chính phủ ấy cũng đại diện cho tầng lớp tinh hoa của tư bản tài phiệt - ở Nga cũng như ở Ukraina – là những kẻ đã tích lũy được một lượng của cải khổng lồ nhờ việc cướp bóc tài sản quốc gia, sau khi chế độ quan liêu Stalin làm tan rã Liên bang Soviet và tái thiết lập chủ nghĩa tư bản. 

Trong khi các quyền lực phương Tây và chính phủ Kiev sử dụng lá chắn “đàm phán bàn tròn” để chuẩn bị cho các biện pháp cứng rắn hơn thì Moscow lại đang tìm kiếm một thỏa thuận với các quyền lực đế quốc và chính phủ Kiev.

“Nếu có ai nổi lên như là người lãnh đạo với sự ủng hộ của đa số người Ukraina, tất nhiên đối thoại với người đó sẽ dễ dàng hơn những người tự phong,” ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov tuyên bố. Cảnh báo rằng Ukraina “đang ở gần một cuộc nội chiến”, ông ta khẳng định Nga sẽ ủng hộ cuộc bầu cử đã được lên kế hoạch và mở rộng vòng tay với ứng cử viên tổng thống được phương Tây ủng hộ cũng như nhà tư bản tài phiệt tỷ phú Petro Poroshenko, ông tuyên bố: “Chúng tôi có thể làm việc với bất cứ ai.”

Bất chấp sự liều lĩnh của Moscow nhằm đạt được một thỏa thuận, sức ép quân sự tiếp tục được gia tăng giữa các quyền lực chủ chốt của thế giới. Hạm đội Thái Bình Dương của Nga khởi hành từ Vladivostok vào thứ tư, tới Thượng Hải để hội quân với một hạm đội nhỏ gồm sáu tàu chiến Trung Quốc trong cuộc tập trận chung Nga - Trung lần thứ ba trên biển Nam Trung Hoa – đã trở thành tiêu điểm trong sự đối đầu căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.