Showing posts with label Thời Sự. Show all posts
Showing posts with label Thời Sự. Show all posts

Monday, January 25, 2016

Cách thức phương Tây tạo ra chủ nghĩa khủng bố

Bài viết "How the West Creates Terrorism" của Andre Vltchek nhắc nhở người đọc về chủ nghĩa khủng bố của phương Tây dưới dạng chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, hai bóng ma trong những vụ diệt chủng hàng trăm triệu người trên khắp thế giới, so với chúng đám khủng bố hiện nay chỉ là những kẻ học việc.

Cách thức phương Tây tạo ra chủ nghĩa khủng bố

Chủ nghĩa khủng bố có nhiều dạng và nhiều bộ mặt, nhưng khủng khiếp nhất là sự tàn bạo máu lạnh

Chúng ta được yêu cầu tin rằng những kẻ khủng bố là những tên điên bệnh hoạn, chạy quanh với bom, súng máy và thắt lưng chất nổ. Đó là cách chúng ta được yêu cầu hình dung về chúng

Nhiều kẻ để râu; hầu hết “trông giống người nước ngoài”, không phải da trắng, không phải phương Tây. Nói chung, chúng là kẻ đánh vợ, cưỡng hiếp trẻ em, kẻ phá hủy các bức tượng Hy Lạp và La Mã.

Thực tế là trong chiến tranh lạnh có một số “kẻ khủng bố” trông giống người da trắng – những kẻ cánh tả thuộc về một vài nhóm cách mạng, ở Italy và đâu đó của Đông Âu. Nhưng chỉ đến bây giờ chúng ta mới được biết rằng những hành động khủng bố được gán cho họ thực sự do Đế Quốc gây ra, bởi vài chính quyền cánh hữu Châu Âu và mật vụ. Bạn hãy nhớ, các quốc gia NATO đã làm nổ tung những con tàu trong đường hầm, hoặc đánh bom toàn bộ các nhà ga… 

Điều đó “cần phải thực hiện” để làm mất uy tín của cánh tả, chỉ để đảm bảo rằng người dân sẽ không trở nên thiếu trách nhiệm mà bỏ phiếu cho những người cộng sản hoặc xã hội chủ nghĩa chân chính.

Cũng có vài phần tử “khủng bố” Mỹ Latin – phong trào cách mạng chiến đấu vì tự do và chống lại áp bức, chủ yếu là chống lại chủ nghĩa thực dân phương Tây. Họ phải bị bao vây, tiêu diệt và nếu họ nắm quyền thì phải bị lật đổ.

Nhưng khủng bố thực sự trở nên phổ biến ở phương Tây chỉ sau khi Liên Bang Soviet và khối Cộng Sản bị phá hủy với hàng ngàn biện pháp kinh tế, quân sự và tuyên truyền, cũng như phương Tây đột nhiên phát hiện ra rằng chả có ai để đối đầu. Có lẽ là nó cảm thấy cần phải biện minh có những hành động áp bức tàn bạo của mình ở Châu Phi, Trung Đông, Mỹ Latin và Châu Á.

Nó cần một kẻ thù “tối thượng” mới, thực sự “tối thượng”, để biện minh cho ngân sách quân sự và tình báo khổng lồ. Việc đối mặt với vài trăm “quái vật” ở đâu đó trong rừng rậm xứ Colombia hay Bắc Ireland hoặc Corsia có lẽ là không đủ nữa, cần phải có thứ gì đó thật sự lớn, thứ gì đó so sánh được với “sự độc ác” của “mối đe dọa” từ Soviet.

Ôi mối đe dọa thân thuộc! Dĩ nhiên chỉ là mối đe dọa, không phải là nguy cơ của những lý tưởng bình đẳng và chủ nghĩa quốc tế…

Thế là phương Tây gắn chủ nghĩa khủng bố với Hồi giáo, một trong những nền văn hóa vĩ đại nhất trên trái đất, với 1,6 tỷ tín đồ. Hồi giáo đủ lớn và tối thượng để khiến các bà nội trợ trung lưu ở vùng ngoại ô phương Tây sợ vỡ mật! Trên tất cả những điều đó, nó cần phải bị kiềm chế, như thể là nó quá xã hội chủ nghĩa và quá ôn hòa.

Vào lúc đó trong lịch sử, tất cả các lãnh đạo thế tục và xã hội chủ nghĩa của các nước Hồi giáo, (như Iran, Indonesia và Ai Cập), đều đã bị phương Tây lật đổ, di sản của họ bị đập nát hoặc đơn giản là bị cấm đoán. 

Nhưng điều đó vẫn chưa đủ với phương Tây!

Để biến Hồi giáo thành một kẻ thù đáng giá, Đế Quốc trước hết đã cực đoan hóa và làm hư hỏng hàng sa số các phong trào và tổ chức Hồi giáo, sau đó tạo ra một loại mới, thường xuyên huấn luyện, vũ trang và tài trợ cho chúng, để chúng trông thực sự đủ đáng sợ. 

Dĩ nhiên đó là lý do quan trọng khiến “chủ nghĩa khủng bố”, đặc biệt là “chủ nghĩa khủng bố” Hồi giáo, là cần thiết cho sự sống sót của các học thuyết phương Tây, chủ nghĩa ngoại lệ và sự chuyên chế toàn cầu; nó biện minh cho sự siêu việt tuyệt đối về văn hóa và đạo đức của phương Tây

Đây là cách nó hoạt động

Trong nhiều thế kỷ, phương Tây đã hành động như một con quái vật khát máu. Bất chấp sự tuyên truyền tự họa được truyền thông phương Tây phổ biến khắp thế giới, người ta đều đã nhận thấy rằng Đế Quốc đang cưỡng hiếp, giết hại và cướp bóc ở mọi nơi trên thế giới. Chỉ sau vài thập kỷ sau, thế giới sẽ coi phương Tây là một thảm họa chết chóc và độc hại. Kịch bản đó cần phải được ngăn chặn bằng mọi giá!

Các nhà tư tưởng và tuyên truyền của Đế Quốc đã tạo ra một công thức sáng lạng mới: Hãy tạo ra điều gì đó có bề ngoài và hành xử tồi tệ hơn chúng ta và sau đó chúng ta có thể tự hào rằng chúng ta vẫn là nền văn hóa hợp lý và khoan dung nhất trên trái đất!

Hãy làm một cú xoay ngoạn mục: Hãy chống lại tạo vật của chúng ta – hãy chống lại với danh nghĩa của tự do và dân chủ!”

Đây là cách mà thế hệ “khủng bố” mới được sinh ra. Chúng đang sống! Chúng đang đống và sinh sôi! Chúng nhân lên như những con kỳ giông của Capek. 

***

Chủ nghĩa khủng bố phương Tây không thực sự được mổ xẻ, mặc dù những dạng cực đoan và bạo lực nhất của nó tàn phá thế giới không thương tiếc và đã có từ lâu, với hàng trăm triệu nạn nhân ở khắp nơi.

Ngay cả những binh đoàn lê dương và đấu sĩ của Đế Quốc, giống như Mujaheddin, Al-Qaida, hay ISIS đều không bao giờ có thể tàn bạo được như những gì mà người Anh, người Pháp, người Bỉ, người Đức hay ông chủ Hoa Kỳ của chúng đã luôn thể hiện trong lịch sử. Dĩ nhiên chúng rất cố gắng để theo kịp các bậc tôn sư và thân sinh nhưng chúng không đủ bạo lực và tàn nhẫn.

Cần phải có “văn hóa phương Tây” để hành quyết 10 triệu người chỉ ở một nơi duy nhất, hầu như chỉ một lần!

***

Đâu là khủng bố thật sự và làm sao ISIS và những kẻ khác có thể theo đuổi sự định hướng của chúng? Họ nói rằng ISIS chặt đầu các nạn nhân của chúng. Đủ tồi tệ. Nhưng ai là thầy của chúng? 

Trong nhiều thế kỷ, các đế quốc Châu Âu đã giết chóc, tra tấn, cưỡng hiếp và băm xác người dân khắp các lục địa của thế giới. Những nước không trực tiếp làm điều đó đã “đầu tư” cho những cuộc viễn chinh thuộc địa, hoặc cử người tới tham gia các binh đoàn diệt chủng. 

Vua Leopold II và đội quân của ông ta đã hành quyết khoảng 10 triệu người ở Tây và Trung Phi, ở nơi mà ngày nay được gọi là Congo. Ông ta đã săn đuổi người dân ở đó như săn thú hoang, cưỡng ép họ phải làm việc trong các đồn điền cao su. Nếu ông ta cho rằng họ đổ đầy két tiền của ông ta không đủ nhanh, ông ta không ngần ngại chặt tay họ, hoặc thiêu sống toàn bộ dân làng trong ngôi nhà của chính họ.

10 triệu nạn nhân đã chết. 10 triệu! Điều đó diễn ra chưa phải là quá lâu, không phải trong “thời đại tăm tối” mà là trong thế kỷ 20, dưới sự cai trị của chế độ quân chủ lập hiến và tự xưng là dân chủ. Làm sao có thể so sánh nó với chủ nghĩa khủng bố đang thống trị ở những khu vực mà ISIS chiếm đóng? 

Cộng Hòa Dân Chủ Congo kể từ năm 1995 đã một lần nữa mất đi 10 triệu mạng người trong một cơn điên loạn khủng bố, do những tay sai của phương Tây, Rwanda và Uganda gây ra (xem giới thiệu bộ phim “Rwanda Gambit” của tôi).

Người Đức đã thực hành diệt chủng ở Nam-Tây Phi, hiện nay là Namibia. Bộ tộc Herero đã bị hủy diệt, hay ít nhất là gần 90% bộ tộc. Đầu tiên, người dân bị đuổi khỏi đất đai và nhà của họ, được đưa đến sa mạc. Nếu họ sống sót, các cuộc viễn chinh thời tiền phát xít của người Đức sẽ tiếp tục, sử dụng đạn và các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt khác. Các thí nghiệm y khoa trên con người đã được thực hiện, để chứng minh sự siêu việt của dân tộc Đức và chủng tộc da trắng.

Đó chỉ là những thường dân vô tội; người dân chỉ có tội duy nhất đó là họ không có da trắng và ở trên vùng đất mà người Châu Âu xâm lược và đánh phá.

Taliban hay thậm chí ISIS chưa bao giờ tiến đến gần mức đó!

Hiện nay, chính quyền Namibia đang yêu cầu trả lại hàng sa số những cái đầu được chặt từ người dân của họ; những cái đầu bị chặt và gửi đến đại học Freiburg cũng như một số bệnh viện ở Berlin cho các thí nghiệm y khoa.

Hãy tưởng tưởng, ISIS chặt hàng ngàn cái đầu người Châu Âu để thực hiện các thí nghiệm y khoa nhằm mục đích chứng minh sự siêu việt của chủng tộc Arab. Thật hoàn toàn không thể tưởng tưởng được!

Người dân địa phương bị khủng bố ở hầu khắp các thuộc địa mà Châu Âu chiếm được, một số đã được tôi mô tả chi tiết trong cuốn sách dày 840 trang mới nhất của mình “Exposing Lies of the Empire”.

Người Anh và nạn đói mà họ đã dùng để kiểm soát dân số và hăm dọa ở Ấn Độ mới khủng khiếp làm sao! Chỉ riêng năm 1943 có ít nhất 5 triệu người ở Bengal, 5,5 triệu người vào năm 1876-78, 5 triệu người vào năm 1896-97, đó chỉ là một số ít hành động khủng bố của đế quốc Anh đối với dân chúng không có gì tự vệ và bị buộc phải sống dưới một chế độ khủng bố áp bức tàn bạo!

Những gì mà tôi viết phía trên chỉ là ba chương ngắn trong lịch sử lâu dài của chủ nghĩa khủng bố phương Tây. Một từ điển bách khoa toàn thư mới có thể truyền tải hết chủ đề này.

Nhưng tất cả những điều này nằm ngoài nhận thức của người dân phương Tây. Dân chúng châu Âu và Bắc Mỹ không muốn biết bất cứ thứ gì về quá khứ và hiện tại. Chừng nào mà họ còn cho rằng họ cai trị thế giới vì họ tự do, thông minh và chăm chỉ, không phải bởi vì trong nhiều thế kỷ đất nước của họ đã cướp bóc và giết chóc, cũng như trên hết là khủng bố để buộc thế giới phải quy phục.

Dĩ nhiên, tầng lớp thượng lưu biết mọi thứ. Họ càng biết nhiều thì họ càng sử dụng những kiến thức đó cho công việc.

Kinh nghiệm và sự trao đổi khủng bố được chuyển từ các ông chủ phương Tây sang cho lính mới Hồi giáo của họ.

The Mujahideen, Al-Qaida, ISIS – trong kỳ thi cận kề, chiến thuật đe dọa và khủng bố không phải đều là nguyên gốc. Chúng đều được xây dựng dựa trên kinh nghiệm đế quốc và thực dân của phương Tây. 

Tin tức về điều đó, hay thậm chí là về khủng bố trên hành tinh do phương Tây gây ra, hoàn toàn bị kiểm duyệt. Anh sẽ không bao giờ thấy chúng trên chương trình truyền hình của BBC hay đọc được chúng trên các tờ báo và tạp chí chính thống.

Mặt khác, bạo lực và sự tàn nhận của các tổ chức khủng bố tay sai thường xuyên được nhấn mạnh. Chúng được đưa tin đến từng chi tiết nhỏ nhất, lặp đi lặp lại và được “phân tích”.

Mọi người đều giận dữ, khủng khiếp! Liên Hiện Quốc “quan ngại sâu sắc”, các chính quyền phương Tây “phẫn nộ” và công chúng phương Tây “cảm thấy quá đủ - họ không muốn có những người tị nạn từ những đất nước khủng khiếp đã sinh ra chủ nghĩa khủng bố và bạo lực.”

Phương Tây “chỉ đơn giản là phải can thiệp”. Đây là lúc Chiến Tranh chống Khủng Bố.

Đó là cuộc chiến chống lại gã Frankenstein của chính phương Tây. Đó là cuộc chiến không bao giờ thắng. Bởi vì nếu như họ thắng, chúa cấm, sẽ có hòa bình và hòa bình có nghĩa là cắt giảm ngân sách quốc phòng và xử lý những vấn đề thực sự của hành tinh.

Hòa bình có nghĩa là phương Tây nhìn vào quá khứ của họ. Điều đó có nghĩa là suy nghĩ về công lý và sắp xếp lại toàn bộ cấu trúc quyền lực của hành tinh. Điều đó không bao giờ được phép.

Do vậy, phương Tây “đang chơi” trò chiến tranh; họ “chống lại” những lính đánh thuê của họ (hay ngăn cản việc chống lại chúng), trong khi đó thì những người vô tội phải chết.

Không đâu trên thế giới, ngoại trừ phương Tây, có thể tạo ra và phóng thích những thứ tàn bạo và dã man như ISIS hay Al-Nusra!

Xem xét kỹ hơn chiến lược của những nhóm cấy ghép này: chúng không bắt nguồn từ bất cứ văn hóa Hồi giáo nào. Chúng hoàn toàn lấy cảm hứng từ triết lý khủng bố thuộc địa của phương Tây: “Nếu anh không phục tùng hoàn toàn lý thuyết và tôn giáo của chúng tôi thì chúng tôi sẽ chặt đầu anh, cắt cổ họng anh, cưỡng hiếp cả gia đình anh hay đốt trụi làng mạc hoặc thành phố của anh. Chúng tôi sẽ phá hủy các di sản văn hóa vĩ đại của anh như chúng tôi đã làm ở Nam Mĩ 500 năm trước đây, cũng như ở nhiều nơi khác nữa.”

Mọi thứ tiếp tục như vậy! Cần phải thực sự tự lừa dối bản thân để không nhìn vào những mối liên hệ đó!

***

Vào năm 2006, tôi đến thăm một người bạn, cựu tổng thống Indonesia và là một lãnh đạo Hồi giáo tiến bộ vĩ đại, Abdurrahman Wahid (ở Indonesia được gọi là “Gus Dur”). Chúng tôi gặp nhau ở trụ sở của tổ chức quần chúng Hồi giáo Nahdlatul Ulama (NU) của ông. Vào lúc đó NU là tổ chức Hồi giáo lớn nhất thế giới.

Chúng tôi thảo luận về chủ nghĩa tư bản và cách nó phá hủy cũng như làm tha hóa Indonesia. Gus Dur là một “người xã hội chủ nghĩa bí mật” và đó là một trong những lý do chính khiến “giới thượng lưu” nô lệ phương Tây của Indonesia và quân đội lật đổ ông vào năm 2001.

Khi chúng tôi nói tới chủ đề “chủ nghĩa khủng bố”, ông đột nhiên tuyên bố bằng giọng nói nhẹ nhàng mà thâm trầm đặc trưng: “Tôi biết người đã đánh bom khách sạn Marriott ở Jakarta. Đó là do cơ quan tình báo của chúng tôi làm, để biện minh cho sự gia tăng ngân sách của họ, cũng như viện trợ mà họ nhận được từ nước ngoài.”

Dĩ nhiên, quân đội Indonesia, tình bào và cảnh sát đều thuộc về về một nhóm người đặc biệt. Trong vài thập kỷ, kể từ năm 1965, họ đã khủng bố tàn bạo người dân của họ, khi cuộc đảo chính thân phương Tây lật đổ tổng thống tiến bộ Sukarno và đưa phe quân phiệt phát xít lên nắm quyền, do nhóm kinh doanh Thiên Chúa giáo thống trị hậu thuẫn. Sự khủng bố này cướp đi 2-3 triệu sinh mạng ở Indonesia, cũng như ở Đông Timor và (cho đến nay) ở Papua bị chiếm đóng và cướp bóc.

3 cuộc diệt chủng chỉ trong 5 thập kỷ!

Cuộc đảo chính ở Indonesia là một trong những hành động khủng bố khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại. Các dòng sông tắc ngẽn vì xác chết và nước đổi màu sang đỏ.

Tại sao? Đó là cách chủ nghĩa tư bản sẽ sống sót và các công ty khai mỏ phương Tây có thể thu được chiến lợi phẩm, với gánh nặng chi phí là một đất nước Indonesia hoàn toàn bị phá hủy. Thế nên đảng Cộng Sản Indonesia (PKI) không thể thắng cử dân chủ.

Nhưng ở phương Tây, những cuộc thảm sát quy mô lớn do Đế Quốc sắp đặt vào năm 1965 không bao giờ được gọi là “chủ nghĩa khủng bố”. Cho nổ tung một khách sạn hay một quán rượu, nhất là khi chúng thường xuyên có khách hàng phương Tây, thì lại là khủng bố.

Hiện giờ Indonesia đã có những nhóm “khủng bố”. Chúng trở về từ Afghanistan, nơi mà chúng chiến đấu theo lệnh của phương Tây để chống lại Liên Bang Soviet. Chúng cũng vừa trở về từ Trung Đông. Những cuộc tấn công vừa qua ở Jakarta chỉ là màn dạo đầu, một sự khởi đầu được lập kế hoạch chu đáo cho thứ gì đó lớn hơn, có thể mở ra một “mặt trận” mới cho lính đánh thuê của Đế Quốc ở Đông Nam Á.

Về phía phương Tây và những nhà hoạch định của họ - Hỗn loạn hơn là tốt hơn.

Nếu như Abdurrahman Wahid vẫn còn được làm tổng thống Indonesia, có vẻ như sẽ không có chủ nghĩa khủng bố. Đất nước của ông sẽ trải qua một cuộc cải cách xã hội chủ nghĩa, thiết lập công bằng xã hội, phục hồi những người cộng sản và đi theo chủ nghĩa thế tục.

Trong những xã hội cân bằng về mặt xã hội, chủ nghĩa khủng bố không phát triển được.

Đó là điều không thể chấp được đối với Đế Quốc. Điều đó sẽ có nghĩa là – quay trở lại thời Sukarno! Quốc gia Hồi giáo đông dân nhất thế giới được phép đi theo con đường của họ, hướng tới chủ nghĩa xã hội và tiêu diệt các phần tử khủng bố.

Nó phải bị đe dọa. Nó phải bị sai khiến. Nó phải sợ hãi và đáng sợ! Nó phải như vậy

***

Những trò chơi của phương Tây là phức tạp và tinh vi. Chúng tối tăm và vô chính phủ. Chúng phá hoại và tàn bạo tới mức mà những nhà phân tích lạnh lùng nhất thường không tin vào mắt mình cũng phải tự hỏi: “Có thật sự là tất cả những điều đó xảy ra?” 

Câu trả lời ngắn gọn là: “Phải, nó có thể. Phải, nó có thể, trong nhiều thập kỷ và thế kỷ.”

Về mặt lịch sử, chủ nghĩa khủng bố là vũ khí bản địa của phương Tây. Nó được những người như Lloyd George, một thủ tướng của nước Anh, sử dụng tùy ý, ông ta đã từ chối ký vào hiệp ước cấm ném bom thường dân, với logic không thể lay chuyển của người Anh: “Chúng ta có quyền ném bom những tên mọi đó.” Hay Winston Churchill muốn đưa những “chủng tộc thấp kém”, như người Kurd và Arab, vào lò hơi ngạt.

Đó là lý do khiến toàn bộ phương Tây hoảng loạn khi một kẻ bên ngoài như nước Nga tham gia vào cuộc chiến chống lại các nhóm khủng bố. Nga đang làm hỏng toàn bộ trò chơi của họ! Nga đang phá hỏng sự cân bằng tân thực dân đẹp đẽ.

Hãy nhìn xem mọi thứ đáng yêu làm sao: sau khi giết chết hàng trăm triệu người khắp địa cầu, phương Tây giờ đang tự nhận là nhà vô địch về nhân quyền và tự do. Họ vẫn tiếp tục khủng bố và cướp bóc thế giới, kiểm soát nó hoàn toàn – nhưng họ phải được chấp nhận là lãnh đạo tối cao, cố vấn đạo đức và phần đáng tin cậy duy nhất của thế giới.

Hầu như không có ai cười

Bởi vì tất cả đều đang sợ hãi!

Những binh đoàn lê dương khát máu của họ ở Trung Đông và Châu Phi đang tàn phá nhiều quốc gia, nguồn gốc của chúng có thể dễ tìm thấy, nhưng hầu như không có ai liều lĩnh làm điều đó. Một số đã cố thử làm – và đã chết.

Những con quái vật khủng bố được sáng chế, chế tạo và cấy ghép càng đáng sợ thì phương Tây trông càng đẹp đẽ. Tất cả chỉ là mánh lới quảng cáo. Nó bắt nguồn từ quảng cáo và trong hàng trăm ngàn năm của cơ quan tuyên truyền.

Phương Tây giả vờ chống lại những lực lượng của bóng tối đó. Nó sử dụng thứ ngôn ngữ hùng mạnh và “đúng đắn” dựa trên học thuyết Thiên Chúa giáo chính thống.

Toàn bộ huyền thoại được giải phóng; giống như vở “Ring” của Wagner.

Kẻ khủng bố đại diện cho sự độc ác chứ không phải là khoản chi tiêu khổng lồ từ ngân sách của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, Liên Minh Châu Âu và NATO. Chúng đều độc ác hơn cả Quỷ Sứ!

Phương Tây, cưỡi trên con ngựa trắng, say khướt nhưng luôn luôn hài hước, đóng vai cả nạn nhân lẫn kẻ thù chính của những nhóm khủng bố độc ác đó.

Đó là một màn diễn khó tin. Một trò hề khủng khiếp. Hãy nhìn vào phía sau mặt nạ của kị sĩ: hãy nhìn vào những cái răng đang nhe ra; nụ cười chết chóc! Hãy nhìn vào đôi mắt đỏ của hắn, đầy tham lam, thú tính và hung ác.

Hãy đừng bao giờ quên: chủ nghĩa thực dân và đế quốc là hai dạng chết chóc nhất của chủ nghĩa khủng bố. Chúng vẫn là hai vũ khí chính của tên kị sĩ đang bóp nghẹt thế giới!


Andre Vltchek is a philosopher, novelist, filmmaker and investigative journalist. He covered wars and conflicts in dozens of countries. His latest books are: “Exposing Lies Of The Empire” and “Fighting Against Western Imperialism”.Discussion with Noam Chomsky: On Western Terrorism. Point of No Return is his critically acclaimed political novel. Oceania – a book on Western imperialism in the South Pacific. His provocative book about Indonesia: “Indonesia – The Archipelago of Fear”. Andre is making films for teleSUR and Press TV. After living for many years in Latin America and Oceania, Vltchek presently resides and works in East Asia and the Middle East. He can be reached through his website or his Twitter.

Wednesday, December 16, 2015

Chủ nghĩa Marx đối đầu với chủ nghĩa đạo đức về nạn mại dâm

Khi cuộc tranh luận về việc hợp pháp hóa mại dâm diễn ra ở Việt Nam mới đây, thật kỳ lạ là hoàn toàn không có ai sử dụng chủ nghĩa Marx để phân tích vấn đề đó. Dường như chủ nghĩa Marx đang bị hắt hủi trong thực tiễn ở Việt Nam (một nước công khai theo chủ nghĩa Marx-Lenin), có lẽ điều đó khiến cánh cực hữu và những kẻ thờ phụng chủ nghĩa đế quốc phương Tây vui mừng hơn nhiều so với sự bôi nhọ chủ nghĩa Marx một cách bỉ ổi hàng này của họ.

Việc sử dụng chủ nghĩa Marx để phân tích các vấn đề thực tế không phải là hiếm hoi trên thế giới ngược lại nó đang ngày càng trở thành vũ khí đấu tranh sắc bén hơn của người lao động trên khắp thế giới.

Cũng về vấn đề mại dâm, Helen Ward trong bài "Marxism versus Moralism on Prostitution", đăng trên Permanent Revolution Winter 2007, đã dựa trên luận điểm Marxist cho rằng mại dâm là mặt trái của chế độ hôn nhân một vợ một chồng (chỉ đối với phụ nữ), phân tích việc biến mại dâm thành hàng hóa trong xã hội tư bản và cấu trúc giai cấp của mại dâm. Mỗi bộ phận trong lĩnh vực mại dâm thuộc về một giai cấp khác nhau, tương ứng với cấu trúc giai cấp của xã hội tư sản, do vậy khi đấu tranh chống lại nạn mại dâm thì cũng cần có phương thức liên kết và đấu tranh thích hợp với cấu trúc giai cấp đó. 

Nếu như ở nước Anh mại dâm là hợp pháp thì công việc của người vô sản anh là đoàn kết với công nhân tình dục để chống lại sự áp bức của giai cấp tư sản thì ở Việt Nam, nơi mà mại dâm là bất hợp pháp, thì công việc của người vô sản không phải là đấu tranh để hợp pháp hóa nó mà ngược lại phải tìm cách xóa bỏ nó. Do ở những nước như Anh, khi mà mại dâm được hợp pháp hóa thì trong những điều kiện của chủ nghĩa tư bản điều đó có nghĩa là nạn mại dâm đã trở lên phổ biến và biến thành chế độ làm thuê phổ biến, cách thức đấu tranh hợp lý là đoàn kết với những người bị áp bức. Còn ở Việt Nam, nạn mại dâm vẫn chưa đạt đến quy mô công nghiệp, vẫn chỉ hạn chế chủ yếu ở giai cấp tiểu tư sản và tầng lớp vô sản lưu manh, thì điều tiên quyết là chống lại mọi mưu toan công nghiệp hóa nó, phát triển nó thành một dịch vụ phổ biến, bởi vì sự hủy hoại ấy trước hết sẽ nhằm vào những người lao động.

Chủ nghĩa Marx đối đầu với chủ nghĩa đạo đức về mại dâm

“Mại dâm chỉ là một biểu hiện cụ thể của nạn mại dâm phổ biến của người lao động.”[1] Câu trích dẫn này của Marx có thể cho thấy rằng đối với những người xã hội chủ nghĩa thì mại dâm là một vấn đề rất rõ ràng, nhưng thay vì được chứng minh trong các cuộc đấu tranh thực tế, cánh tả thường dao động giữa việc biện minh cho sự áp bức và xóa bỏ, hay hình sự hóa và công đoàn hóa.

Phần lớn các tranh luận mới đây tập trung xem xét về việc mại dâm có thể được coi là công việc hay là một dạng áp bức đối với phụ nữ.[2] Hai phe đối lập đã dẫn đến hai chiến lược đối lập hoàn toàn. Nếu như mại dâm là công việc thì đấu tranh cho việc tự tổ chức và các quyền là vấn đề chủ chốt của những người xã hội chủ nghĩa. Nhưng nếu như mại dâm là sự áp bức và nô lệ hóa thì những người tham gia là nạn nhân cần phải được giải thoát. Kathleen Barry, nhà tổ chức của hội nghị nữ quyền quốc tế về buôn bán phụ nữ vào năm 1983, đã theo đuổi quan điểm thứ hai khi bà từ chối tranh luận với nhà hoạt động của lao động tình dục Margo St. James, lập luận rằng “hội nghị là về nữ quyền và không ủng hộ thiết chế mại dâm…(sẽ là)…không thích hợp để thảo luận về nô lệ tình dục với phụ nữ bán dâm.”[3] Gần đây hơn, nhà văn Julie Bindell đã ủng hộ quan điểm này, viết về quyết định mở một chi nhánh cho lao động tình dục của GMB, bà lập luận, “làm sao một công đoàn có thể vừa chống lại việc áp bức phụ nữ lại vừa dung nạp điều đó? Thay vì để xã hội coi đó là một sự lựa chọn nghề nghiệp, mại dâm cần phải được thể hiện đúng bản chất – sự áp bức đối với phụ nữ. Công đoàn hóa không thể bảo vệ phụ nữ trong ngành công nghiệp đồi bại này.”[4] Mới đây nhất Đảng Xã Hội Chủ Nghĩa Scottland (SSP) đã gia nhập chiến tuyến và tuyên bố rằng mại dâm là sự áp bức đối với phụ nữ [xem trang 17].

Một quan điểm Marxist về mại dâm 

Mại dâm là trao đổi tình dục lấy tiền. Mặc dù vậy, khi mà có sự trao đổi này diễn ra trong những bối cảnh khác nhau – ví dụ như trong một số dạng hôn nhân – hầu hết các định nghĩa của từ điển đều rộng hơn một chút. Trong Từ Điển Tiếng Anh Oxford, một gái bán dâm là “một phụ nữ cho thuê cơ thể để phục vụ cho bất kỳ quan hệ tình dục nào.” 

Từ điển Encyclopaedia Britannica có định nghĩa rộng hơn, mại dâm là “sự tham gia vào hoạt động tình dục, thường xuyên là với các cá nhân khác không phải là vợ chồng hay bạn tình, để đổi lấy khoản thanh toán tức thời dưới dạng tiền hay các vật đáng giá khác.” Những định nghĩa này bổ sung thêm từ “bất kỳ” hay “không phải vợ chồng” để cố gắng tóm lược điều mà chúng ta đều ngầm hiểu – mại dâm là tình dục nằm bên ngoài những mối quan hệ mà trong đó tình dục thường được chấp nhận. 

Khái niệm mại dâm có lẽ hàm chứa nhiều người khác nhau cũng nhiều mối quan hệ khác nhau theo thời gian. Những nữ tu của Hy Lạp cổ đại, geisha của Nhật Bản, kỹ nữ của Châu Âu, gái đứng đường khu Soho và công nhân nhà thổ ở Mumbai, tất cả đều mang tên gái mại dâm. Vẻ bề ngoài tồn tại phi thời gian, nằm trong câu sáo ngữ về “nghề cổ xưa nhất”, che giấu nhiều quan hệ xã hội khác nhau. Những phụ nữ đó đều có một thứ chung đó là họ thực hành quan hệ tình dục bên ngoài khuôn khổ gia đình, tức là tình dục không gắn kết với sự tái sản xuất và duy trì một hộ gia đình.

Đây chính là thứ quan trọng để tiến đến cốt lõi của vấn đề - mại dâm chỉ có thể được khám phá trong mối quan hệ với chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Như Engels đã viết, “Chế độ một vợ một chồng và mại dâm thực sự mâu thuẫn nhau nhưng là sự mâu thuẫn không thể tách rời, là hai cực của cùng một trạng thái xã hội.”[5] Bebel, viết về phụ nữ và chủ nghĩa xã hội vào những năm 1880, đã giải thích, “Mại dâm trở thành một thiết chế xã hội cần thiết của xã hội tư sản, cũng giống như cảnh sát, quân đội thường trực, nhà thờ và giai cấp tư sản.”[6] Để hiểu được sự biện chứng này, tức là “sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập”, trước hết chúng ta cần phải xem xét bản chất của mại dâm trong chủ nghĩa tư bản, xem xét sự biến đổi của nó theo phương thức sản xuất và sau đó quay trở lại khám phá quan hệ giữa tình dục riêng tư và công cộng cũng như sự áp bức phụ nữ.

Mại dâm: hàng hóa 

Giống như hầu hết các giao dịch thương mại của chủ nghĩa tư bản, mại dâm dựa trên việc bán và mua một hàng hóa. Theo nhận thức thông thường, gái bán dâm bán “cơ thể của cô ta”. Nhưng đây là một sự hiểu lầm, do khi kết thúc giao dịch thì khách hàng không “sở hữu” cơ thể của gái mại dâm. Thứ mà khách hàng mua là là dịch vụ tình dục. Một số nhà nữ quyền và người xã hội chủ nghĩa phản đối ý tưởng cho rằng phụ nữ bán dịch vụ chứ không phải bán cơ thể, nhưng cũng thừa nhận rằng việc bán đó chỉ là tạm thời, mô tả việc bán là để sử dụng cơ thể gái bán dâm để đem lại sự thỏa mãn tình dục cho khách hàng.

Nhưng ngay cả trong trường hợp đó thì vẫn là sự nhầm lẫn. Nếu anh đến bất cứ nơi nào có mại dâm, bất kể là trên đường phố, trong một nhà thổ hay thông qua một kẻ môi giới, anh sẽ thấy có bảng giá cụ thể. Thông thường chúng không được liệt kê vì lý do pháp luật nhưng rõ ràng là có giá cả cho việc phục vụ bằng tay, giá sẽ cao hơn khi phục vụ bằng miệng, giao hợp bình thường và giao hợp đường hậu môn. Một dịch vụ hộ tống sẽ tính tiền theo giờ, nhưng cũng nói rõ rằng dịch vụ tình dục bao gồm những gì và không bao gồm những gì, tất nhiên là kèm theo mức phí đã được tính. Hàng hóa là tình dục – hay chính xác hơn là một dịch vụ tình dục cụ thể.

Việc tình dục bị biến thành hàng hóa được nhiều người coi là “tội” tổ tông của mại dâm. Mhairi McAlpine của SSP viết, “mại dâm là việc thương phẩm hóa quan hệ tình dục, tách ra khỏi phạm vi thỏa mãn lẫn nhau và đưa vào phạm vi của thị trường.”[7] Tôi cũng có những cuộc thảo luận tương tự về chủ đề này với nhiều đồng chí trong nhiều năm – liệu có chắc chắn là hành vi thân mật đó không bao giờ nên bị biến thành thứ xa lạ có thể bị đem mua bán? Quan điểm lãng mạn cho rằng tình dục là sự thỏa mãn lẫn nhau đã cho thấy sự trừu tượng hóa từ các mối quan hệ xã hội. Dưới chủ nghĩa tư bản và các xã hội phân chia giai cấp trước đó, tình dục được điều tiết chặt chẽ và có khuynh hướng kinh tế. Sự điều tiết dựa trên nhu cầu bảo vệ sở hữu tư nhân thông qua thừa kế.

Trong cuốn sách “Nguồn Gốc Gia Đình, Chế Độ Tư Hữu Và Nhà Nước”, Engel đã phác họa cách thức chế độ một vợ một chồng (đối với phụ nữ) phát triển cùng với sở hữu tư nhân. Gia đình một vợ một chồng “thoát ra từ gia đình đối ngẫu…Nó dựa trên sự thống trị của đàn ông, thể hiện mục đích tạo ra con cái mà không có sự tranh chấp về quan hệ cha con; quan hệ cha con này là cần thiết bởi vì con cái sau này sẽ trở thành người thừa kế tài sản tự nhiên của người cha.”[8]

Hình thức gia đình đã thay đổi qua các dạng xã hội phân chia giai cấp khác nhau nhưng không phải là tôn giáo và phong tục đã đảm bảo cho sự tập trung của chế độ một vợ một chồng đối với phụ nữ, khi chế độ đó giải thích về phạm vi và các luật lệ ổn định. Không phải mại dâm thực hành tình dục “bên ngoài phạm vi của sự thỏa mãn lẫn nhau” mà chính gia đình một vợ một chồng được dùng để bảo vệ sở hữu tư nhân. Những cô con gái trở thành tài sản để được mua cũng như đem bán cái khả năng tạo ra người thừa kế của họ nhằm đổi lấy đất đai, gia súc hay tiền bạc.[9]

Mại dâm cũng phát sinh từ quá trình đó, do không có bất cứ xã hội nào có thể áp đặt chế độ một vợ một chồng cho nam giới cũng như nữ giới. Demosthenes, một nhà hùng biện Hy Lạp, đã tóm tắt vị thế của phụ nữ trong xã hội chiếm hữu nô lệ của Athen, “Chúng ta thỏa mãn bằng kỹ nữ, có những nàng hầu đáp ứng nhu cầu hàng ngày và cưới nhiều vợ để sinh cho chúng ta những đứa con hợp pháp cũng như làm người bảo vệ đáng tin cậy cho sức khỏe của chúng ta.”[10] 

Liệu quan điểm này đã lỗi thời chưa? Liệu có chắc chắn là vào thế kỷ 21 thì tình dục chủ yếu là để thỏa mãn lẫn nhau thay vì tạo ra người thừa kế hay đổi lấy tiền mặt? Trước đây hơn bốn mươi năm đã có một sự giải phóng tình dục, do sự thay đổi trong địa vị xã hội của phụ nữ và sự phát triển của các biện pháp tránh thai hiệu quả, mại dâm không phải là dạng tình dục ngoài hôn nhân duy nhất. Mặc dù vậy, các cấu trúc xã hội vẫn tiếp tục ủng hộ quan hệ tình dục một vợ một chồng liên quan tới sở hữu, phụ nữ khắp thế giới vẫn bị coi là đĩ điếm khi họ công khai tìm kiếm quan hệ tình dục không mang tính chất một vợ một chồng.

Cấu trúc giai cấp của mại dâm 

Bề ngoài của mại dâm không phù hợp với các phân loại kinh tế tiêu chuẩn. Một nhà sử học đã viết: 

“…gái mại dâm không hành xử giống như bất kỳ hàng hóa nào khác; cô ta chiếm một vị trí độc nhất, tại trung tâm của một hệ thống kinh tế phi thường và đồi bại. Cô ta có thể đại diện cho mọi khái niệm trong phạm vi sản xuất tư bản chủ nghĩa; cô ta đồng thời là người lao động, đối tượng trao đổi và người bán. Cô ta đóng vai trò như công nhân, hàng hóa và nhà tư bản, cô ta xóa mờ các phân loại kinh tế tư sản theo cùng cách thức mà cô ta thách thức những ràng buộc của đạo đức tư sản…Do vậy, khi là hàng hóa, gái mại dâm vừa củng cố vừa xuyên tác mọi đặc trưng truyền thống của kinh tế học tư sản.”[11]

Không chỉ sai lầm về việc một gái mại dâm có thể đại diện cho mọi yếu tố của sản xuất tư bản chủ nghĩa mà nhà sử học cũng không chỉ ra được những vai trò khác nhau của gái mại dâm. Họ thực sự có thể xuất hiện như là công nhân, hàng hóa, người bán và thậm chí là nhà tư bản, nhưng những gái mại dâm khác nhau có thể có những quan hệ khác nhau với hàng hóa mà họ bán.

Hàng hóa có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng trong mại dâm là thỏa mãn sự ham muốn của khách hàng, cung cấp sự thỏa mãn tình dục. Giá trị trao đổi là lao động xã hội kết tinh trong hàng hóa, có nghĩa là lao động thể chất và tinh thần liên quan đến việc cung cấp dịch vụ tình dục. Giá trị này tương đương với thứ mà công nhân tình dục cần để tái sản xuất bản thân dưới các điều kiện xã hội trung bình đối của ngành này.

Giống như nhiều dịch vụ và một số lĩnh vực sản xuất khác của chủ nghĩa tư bản, mại dâm diễn ra theo nhiều cách khác nhau, gái mại dâm cũng có mối quan hệ khác đối với tư liệu sản xuất và mua bán mỗi loại tư liệu sản xuất. Nhiều gái mại dâm là lao động làm thuê: họ được một cá nhân, doanh nghiệp thuê và buộc phải làm việc trong một số giờ nhất định. Đây là tình cảnh của hàng triệu phụ nữ đang làm việc trong các nhà thổ, quán xông hơi và quán bar khắp thế giới. Họ được trả lương theo số giờ làm việc hoặc số khách hàng phải tiếp.

Trong trường hợp này họ không trực tiếp bán dịch vụ tình dục cho khách hàng – họ bán sức lao động cho chủ. Chủ của họ (tú ông, tú bà, chủ nhà thổ hoặc quán bar) nhận tiền từ khách hàng và chia một phần cho công nhân tình dục (hoặc đòi một phần phí mà công nhân tình dục nhận được). Theo nghĩa này thì công nhân tình dục cũng giống như các lao động làm thuê khác, có thể nói rằng họ “bán thân thể”, tức là họ bán khả năng lao động. Tuy vậy, như Marx đã giải thích trong Quyển I của bộ Tư Bản, đây không phải là bán thân: 

“…chủ sở hữu của sức lao động [công nhân – HW] chỉ bán nó trong một khoảng thời gian xác định, nếu như anh ta bán nó vĩnh viễn thì anh ta cũng bán luôn bản thân mình, biến anh ta từ một người tự do thành một nô lệ, từ chủ sở hữu một hàng hóa thành một hàng hóa.”[12]

Thực sự là hiện nay có những lao động tình dục sống trong các điều kiện nô lệ - khi mà bản thân họ bị bán và mua như hàng hóa và sau đó làm việc cho các chủ sở hữu nô lệ. Sự hồi sinh của chế độ nô lệ hiện đại, hầu hết được tường thuật trong hoạt động mua bán người, không phải là chỉ riêng đối với mại dâm mà còn diễn ra trong công việc nội trợ và hầu hạ. Thực tế về chế độ nô lệ tồn tại trong một số bộ phận của công nghiệp tình dục không bác bỏ thực tế là đa số hoạt động mại dâm diễn ra trong điều kiện thông thường của chế độ nô lệ làm thuê.

Hầu hết công nhân tình dục không phải là nô lệ hay công nhân làm thuê – phần lớn bởi vì sự cấm đoán của luật pháp nhằm hạn chế sự bành trướng của ngành công nghiệp “chính đáng” và đặt nó dưới bóng tối của thị trường bất hợp pháp và kinh tế tội phạm. Nhiều công nhân tình dục là người bán hàng trực tiếp; họ không làm việc cho ai mà trực tiếp giao dịch với khách hàng. Trong trường hợp này thì họ vẫn bán hàng hóa nhưng không phải là sức lao động mà là hàng hóa chứa đựng lao động kết tinh của họ, tức là dịch vụ tình dục, họ cũng bán dịch vụ này trực tiếp cho khách hàng. Trên thực tế, họ là người tự kinh doanh, mặc dù tại hầu hết các quốc gia họ không thể đăng ký một cách hợp pháp. Một số người có của cải và sở hữu hoặc thuê các tư liệu sản xuất – như nhà ở, điện thoại và các công cụ thương mại khác. Họ thuộc giai cấp tiểu tư sản.

Nhưng đa số các phụ nữ trong trường hợp đã nêu khó có thể mang hình ảnh của tầng lớp trung lưu, người tự kinh doanh. Hầu hết họ đều nghèo với một ít của cải và đối với một số người thì sự trao đổi có dạng rất sơ khai. Ví dụ khi dịch vụ tình dục được trực tiếp trao đổi lấy hiện vật, như thực phẩm và nơi ở, hay ma túy. Những người này chỉ tham gia một cách hời hợt vào nền kinh tế tư bản – họ là một phần của thứ mà Marx gọi là tầng lớp vô sản lưu manh.

Cũng có những gái mại dâm thuê người khác làm việc cho họ. Một số công nhân tình dục tự tổ chức công việc kinh doanh của họ, đóng vai trò như là tú bà và chủ nhà thổ. Khi làm chủ thì họ sở hữu các tư liệu sản xuất và bóc lột lao động của người khác, trong khi vẫn thường xuyên tiếp tục, mặc dù không liên tục, bán dâm. Như vậy, một số gái mại dâm là công nhân, một số là nô lệ, đa số là tiểu tư sản và một số ít là tư sản.[13]

Bóc lột hay áp bức?

Ở mức độ trừu tượng hóa rất cao – của hàng hóa, giá trị sử dụng và giá trị trao đổi – mà Marx coi là bản chất của sự bóc lột. Công nhân bị nhà tư bản bóc lột không phải bằng lừa dối hay gian lận mà dựa vào bản chất của chế độ làm thuê: công nhân đổi một hàng hóa lấy tiền lương. Hàng hóa không phải là sản phẩm của lao động của họ mà là năng lực lao động, tức là sức lao động của họ.

Sự bóc lột tồn tại trong sự khác biệt giữa giá trị của sức lao động và giá trị của hàng hóa mà họ sản xuất ra trong thời gian sức lao động của họ được nhà tư bản sử dụng. Sự bóc lột là kết quả của thực tế là công nhân không sở hữu sản phẩm của lao động của họ mà chỉ sở hữu năng lực lao động của họ. Ngay cả khi tiền lương được trả đúng bằng giá trị của sức lao động, một sự trao đổi công bằng theo khái niệm tư bản chủ nghĩa, người công nhân vẫn bị bóc lột.

Roberta Perkins, viết về công nghiệp tình dục ở Australia, cung cấp một định nghĩa hữu ích về cách thức điều này vận hành trong lĩnh vực kinh doanh tình dục:

“Nhà thổ, hay nhà chứa (bordellos, bagnios, stews, seraglios) cũng tương tự như các nhà xưởng cỡ nhỏ và vừa, một khách sạn hoặc một tòa nhà khác được sử dụng làm nơi làm việc, đòi hỏi một khoản tư bản ứng trước lớn, chi phí cao và một khoản lợi nhuận định kỳ lớn. “Chủ sở hữu tư liệu sản xuất” có thể là cá nhân, liên doanh hoặc một doanh nghiệp cổ phần, thuê mướn nhân công hỗ trợ như quản lý, lễ tân, người đứng quầy bar, hoặc người dọn vệ sinh và nhân viên bán hàng hoặc gái mại dâm. Gái mại dâm làm việc theo kiểu vô sản truyền thống, tức là lao động của họ được thuê và được trả tiền. Giá trị trao đổi của gái mại dâm thường là bằng nửa giá trị trao đổi của hàng hóa (tình dục) được khách mua (khách hàng hay người tiêu dùng). Tiền hoa hồng [hay tiền lương – HW] của cô ta theo thỏa thuận phân chia với chủ, người có sở hữu phần giá trị thặng dư, từ phần giá trị thặng dư đó chủ sẽ trả lương cho người lao động hỗ trợ, thanh toán tiền thuê nhà, tiền điện, tiền điện thoại, quảng cáo và các chi phí khác, cũng như tích lũy tư bản để tái đầu tư cho công việc kinh doanh (ví dụ, cải tiến hoặc mở rộng). Phần còn lại của giá trị thặng dư là lợi nhuận của chủ.”1[14]

Cũng như đối với các lao động làm thuê khác, sự bóc lột và lợi nhuận nằm trong sự chênh lệch giữa chi phí thuê công nhân tình dục và thu nhập mà cô ta có thể tạo ra bằng cách cung cấp hàng hóa. Đối với những người tiểu tư sản thì không có sự bóc lột theo nghĩa này và lợi nhuận được tạo ra bằng cách nâng giá bán cao hơn chi phí kinh doanh. 

Phân tích này bị các nhà nữ quyền phản đối, họ cho rằng khách hàng trực tiếp bóc lột công nhân tình dục. Dĩ nhiên trong mối quan hệ gái mại dâm-khách hàng thì khách hàng luôn có vị thế đặc quyền về kinh tế nhưng anh ta không bóc lột gái mại dâm. Vai trò của anh ta trong mối quan hệ này là người tiêu dùng. Có nhiều người khác bóc lột cô ta – chủ của cô ta có thể là tú ông, doanh nghiệp hay tú bà – nhưng theo nghĩa kinh tế thì chắc chắn không phải là khách hàng.[15] 

Sự liên hệ của Engel giữa mại dâm với chế độ một vợ một chồng là chính xác. Trong gia đình thì người chồng có nhiều lợi thế về quyền lực trong phạm vi gia đình đối với người vợ, thu nhập sẵn có và thoát khỏi nhiều công việc tầm thường. Nhưng nhìn chung anh ta không đạt được điều này bằng cách bóc lột kinh tế vợ của mình – anh ta “được thừa hưởng” điều đó từ địa vị chung của nam và nữ giới trong phạm vi chủ nghĩa tư bản.

Khi cho rằng gái mại dâm không bị khách hàng bóc lột thì không có nghĩa là họ không bị khách hàng áp bức. Nhiều công nhân tình dục bị khách hàng áp bức tàn bạo, họ thường làm nhục hoặc dùng bạo lực với gái mại dâm. Nhà nước cũng đối xử với công nhân tình dục theo cách đó, thường xuyên phủ nhận các quyền con người và pháp lý cơ bản của họ. Ví dụ, cho đến gần đây ở Anh, một phụ nữ có tiền án mời chào mua dâm vẫn được coi là “gái mại dâm công khai”. Một khi điều đó đã được ghi vào hồ sơ thì cô ta có ít quyền hơn bất cứ người nào khác. Các truy tố khác sẽ không cần đến hai nhân chứng mà chỉ cần sự khẳng định của một viên cảnh sát và tiền án của cô ta sẽ được trưng tại tòa án.

Ở nhiều nước, phụ nữ với tiền án mại dâm bị cấm đi lại, họ không được quyền nuôi con và hiện nay thì gái mại dâm đứng đường ở Anh sẽ bị kết án có hành vi phản xã hội, tức là có thể bị quản thúc về một tội thực sự không mang tính chất hình sự. Ví dụ khắc nghiệt nhất về sự áp bức đối với gái mại dâm là tỷ lệ sát nhân và tấn công bạo lực cao, cũng như cách thức hằn học mà truyền thông đưa tin về gái mại dâm. Phụ nữ “bị coi” là gái mại dâm có thể bị gia đình và bạn bè xa lánh, mất quyền nuôi con và không bao giờ kiếm được công việc “bình thường”. Họ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Những sự trừng phạt về pháp lý và xã hội không chỉ tác động đến phụ nữ đứng đường; chúng vươn sang cả những phụ nữ bị coi là “đĩ”. Nhưng rõ ràng những phụ nữ dễ tổn thương nhất – những người không có tiền bạc, ít học và ít được hỗ trợ về mặt xã hội – là những người phải gánh chịu đau khổ nhiều nhất. Họ bị xô đẩy từ mọi phía. Không có gì đáng ngạc nhiên khi nhiều người trong số họ nghiện ma túy hoặc rượu và có các vấn đề về tâm thần khác. Nhưng kiểu phụ nữ rập khuôn phổ biến như bị lạm dụng khi còn bé rồi trở thành gái mại dâm để “thỏa mãn” sự nghiện ngập không phải là tình huống phổ biến nhất.

Thông thường là sự kết hợp giữa các tình thế đưa đẩy phụ nữ đến với mại dâm và nguyên nhân phổ biến không phải là nghiện ma túy hay sự lạm dụng, mặc chúng là động cơ, mà là thiếu tiền. Sự thiếu tiền có thể là tuyệt đối hoặc tương đối – nhiều phụ nữ tìm thấy ở ngành công nghiệp tình dục một sự lựa chọn tốt hơn so với những công việc lương thấp và bị bóc lột dữ dội ở các lĩnh vực thông thường.

Tình hình này cũng phổ biến ở các quốc gia khác. Công nhân tình dục ở Ấn Độ đưa ra tuyên ngôn vào năm 1997, trong đó có giải thích về lý do phụ nữ bán dâm:

“Phụ nữ bán dâm vì lý do tương tự như khi họ lựa chọn bất cứ sinh kế có sẵn nào. Trường hợp của chúng tôi không khác biệt gì so với công nhân từ Bihar đến kéo xe tay ở Calcutta, hay công nhân từ Calcutta làm việc bán thời gian tại một nhà máy ở Bombay. Một số người trong chúng tôi bị bán vào ngành này. Sau khi bị ràng buộc với tú bà đã mua chúng tôi trong một số năm thì chúng tôi có được mức độ độc lập nhất định trong ngành công nghiệp tình dục. [Chúng tôi] đi đến bán dâm sau khi trải qua nhiều kinh nghiệm trong đời, thường là miễn cưỡng, không hoàn toàn hiểu biết về mọi tác động của việc trở thành gái mại dâm. Nhưng từ khi nào đa số phụ nữ chúng tôi có sự lựa chọn trong và ngoài phạm vi gia đình? Liệu chúng tôi có tình cờ tự nguyện trở thành lao động nội trợ? Liệu chúng tôi có thể lựa chọn người mình muốn kết hôn và khi nào kết hôn? “Sự lựa chọn” hiếm khi là hiện thực đối với hầu hết phụ nữ, nhất là phụ nữ nghèo.”[17]

Công và tư 

Phân tích mang tính Marxist này thể hiện rằng mại dâm xuất hiện như là mặt trái của chế độ một vợ một chồng, một chế độ sinh ra để bảo vệ sở hữu tư nhân và quan hệ tình dục không thể hoàn toàn tách khỏi quan hệ kinh tế trong xã hội phân chia giai cấp. Sự áp bức đối với phụ nữ bắt nguồn từ sự tác biệt công việc nội trợ và tái sản xuất tư nhân khỏi sản xuất xã hội và đời sống xã hội.

Mại dâm tạo thành sự đe dọa đối với xã hội bởi vì nó đe dọa xóa mờ sự phân chia rõ ràng – tách tình dục ra khỏi gia đình và ném vào thị trường. Sau đó nó cho thấy rằng dưới chủ nghĩa tư bản thì gái mại dâm không phải là một tầng lớp đơn lẻ. Chương trình của chúng ta về mại dâm phải phản ánh sự hiểu biết này và không nên dựa trên ý tưởng lãng mạn về tình dục cũng như sự kinh hoàng của chúng ta về sự bóc lột thậm tệ nhất đối với công nhân tình dục.

Công nhân tình dục tự tổ chức 

Trong những năm gần đây có một sự phát triển lớn lao trong các tổ chức của công nhân tình dục. Ở Bắc Mỹ và Châu Âu có nhiều tổ chức đã phát triển từ các nhóm phụ nữ và các phong trào xã hội khác, nhưng phải đoạn tuyệt với lập trường nữ quyền về công việc tình dục để bảo vệ quyền của họ. Nhiều nhà nữ quyền muốn xóa bỏ mại dâm, coi đó chỉ đơn giản là sự áp bức đối với phụ nữ. Họ cho rằng điều đó phải được xóa bỏ bằng cách trừng phạt những người quản lý và khách hàng cũng như tiến hành cách cuộc giải cứu gái mại dâm. Nhiều tổ chức sẽ không nói về gái mại dâm, hay nói về công nhân tình dục, mà sử dụng khái niệm “phụ nữ bán thân”. Thứ ngôn ngữ kẻ cả của họ đã cho thấy thái độ của họ - họ coi công nhân tình dục là người bị lừa bịp và theo họ thì không có vai trò gì trong việc giải phóng bản thân khỏi sự áp bức hay sự bóc lột đang phải chịu đựng.

Sự xung đột giữa những cứu tinh nữ quyền và các nhóm đấu tranh cho quyền của lao động tình dục rất sâu sắc nên hiếm khi họ có chung một cương lĩnh. Thư Viện Phụ Nữ ở London gần đây đã tổ chức trưng bày về mại dâm và không cho phép bất cứ sự xuất hiện nào của các tổ chức công nhân tình dục, dẫn tới biểu tình của Công Đoàn Công Nhân Tình Dục Quốc Tế (IUSW) ở bên ngoài.18 Lập trường cực đoan nhất là của nhà văn Julie Burchill, người đã viết, “Mại dâm là chiến thắng tối thượng của chủ nghĩa tư bản. Khi cuộc chiến tranh tình dục kết thúc, gái mại dâm sẽ bị xử tử vì sự phản bội khủng khiếp của họ đối với tất cả phụ nữ, vì đám hắc ín và lông gà đạo đức mà họ đã mang đến cho phụ nữ bản địa, những người kém may mắn phải sống trong cái mớ hỗn độn mà họ đã tạo ra.”[19] 

Các tổ chức của công nhân tình dục bị phê phán về việc lãng mạn hóa mại dâm và chỉ đại diện “nghề nghiệp” của tầng lớp trung lưu. Nhưng ở Ấn Độ có một tổ chức quần chúng của công nhân tình dục tồn tại và mang quan điểm tương tự. Ủy Ban Durbar Mahila Samanwaya (hay “Durbar”, theo tiếng Bengali có nghĩa là không lùi bước hoặc không thể khuất phục) được thiết lập ở Tây Begal, Ấn Độ và phát triển từ sáng kiến Sonagachi nhằm ngăn chặn bệnh AIDS. Durbar có 65.000 thành viên, làm việc tại những khu vực nghèo khổ nhất của quốc gia: 

“Durbar bày tỏ rõ ràng mục tiêu chính trị, đấu tranh đòi công nhận lao động tình dục là một công việc và công nhân tình dục được coi là công nhân, cũng như đảm bảo an sinh xã hội cho công nhân tình dục và con cái của họ. Durbar yêu cầu phi hình sự hóa dịch vụ tình dục và vận động thay đổi các luật hạn chế nhân quyền của công nhân tình dục, vốn có khuynh hướng hình sự hóa và hạn chế các quyền công dân của họ.”[20] 

Tuyên ngôn năm 1997 của họ, đã được trích dẫn trước đây, thể hiện một sự hiểu biết về áp bức tình dục có thể khiến nhiều người xã hội chủ nghĩa phải xấu hổ: 

“Sở hữu tài sản tư nhân và duy trì chế độ gia trưởng đòi hỏi phải có sự kiểm soát đối với sự tái sản xuất của phụ nữ. Từ khi tài sản được duy trì bằng những người thừa kế hợp pháp và chỉ có quan hệ tình dục giữa đàn ông và đàn bà là tạo ra sự sinh sôi, những sự trừng phạt của chế độ gia trưởng tư sản chỉ áp dụng cho sự kết nối này. Tình dục được coi là phương tiện căn bản và hầu như là duy nhất để tái sản xuất, phủ nhận mọi phương diện khoái lạc và khát khao bản năng đối với nó…Những thanh niên tìm kiếm sự gần gũi thể xác, những người đàn ông đã kết hôn tìm kiếm sự tương tác với phụ nữ “khác”, những công nhân nhập cư bị tách ra khỏi vợ, đang cố tìm kiếm sự ấm áp và sự chiều chuộng ở khu phố đèn đỏ, đều không thể bị coi là đáng nguyền rủa hay hư hỏng, để làm điều đó thì sẽ phải xóa bỏ toàn bộ lịch sử tìm kiếm khoái lạc, sự âu yếm và nhu cầu của loài người.” 

Các tổ chức của công nhân tình dục là chìa khóa để chống lại sự bóc lột cũng như áp bức. Khi có sự phân chia giai cấp trong mại dâm, những tổ chức này cần được công nhân tình dục vận hành để phục vụ cho công nhân tình dục, những người được thuê mướn hoặc tự kinh doanh, cũng như tạo ra khuôn khổ tuyển dụng cho những người muốn thuê mướn và bóc lột người khác. Công đoàn và các tổ chức cộng đồng của công nhân tình dục cần phải có mối liên hệ mạnh mẽ với các tổ chức công nhân khác – khi là một phần của phong trào công nhân thống nhất và hùng mạnh, họ sẽ có thể chiến đấu tốt hơn chống lại các định kiến phổ biến.

Trong suốt thập kỷ qua, một số công đoàn đã đồng ý tổ chức và đại diện cho công nhân tình dục. Ở Anh, IUSW đã thuyết phục tổng liên đoàn GMB thành lập chi nhánh công nghiệp tình dục ở Soho và họ đã công đoàn hóa thành công một nhà thổ cũng như đàm phán được thỏa thuận công nhận ở các câu lạc bộ thoát y vũ. Công nhân tình dục cũng được gộp chung vào tổng liên đoàn ở Đức (Verdi) và Hà Lan (FNV).[21]

Mại dâm và chủ nghĩa xã hội 

Cuộc sống của công nhân tình dục thường khó khăn và nguy hiểm, ít nhất là bởi vì những công nhân tình dục tố cáo sự lạm dụng của tú bà và khách hàng bị truy tố và đàn áp. Nhiều công nhân tình dục không hạnh phúc với công việc của họ và sẽ rời bỏ nếu như có một cơ hội thực tế nào khác. Nhưng đó cũng sẽ là một dạng lao động bị tha hóa như mọi loại lao động khác trong chủ nghĩa tư bản.

Mại dâm dưới dạng này sẽ không tồn tại trong một xã hội xã hội chủ nghĩa, cũng như cả gia đình và công việc dưới dạng hiện thời của chúng. Những chuyên gia hoặc diễn viên tình dục chuyên biệt có thể tồn tại, nhưng được giải phóng khỏi mối quan hệ với sở hữu tư nhân và tình trạng một vợ một chồng được thần thánh hóa hay áp đặt, quan hệ tình dục sẽ tiến hóa theo những cách thức mà chúng ta chỉ có thể dự báo. Vấn đề chủ chốt là sự tách biệt giữa công và tư, theo nghĩa là công việc xã hội công cộng và tái sản xuất tư nhân, sẽ bị xóa bỏ và trong quá trình đó phụ nữ sẽ thực sự được giải phóng.

Về tác giả 

Helen Ward, là một người ủng hộ PRN, một bác sĩ sức khỏe cộng đồng và nhà nghiên cứu đã làm việc với nhiều công nhân tình dục ở London và Châu Âu trong hơn 20 năm. Cùng với nhà nhân học Sophie Day, bà đã nghiên cứu HIV và các bệnh khác, sự biến đổi mang tính nghề nghiệp và vòng đời trong công việc tình dục, thiết lập một trong những dự án lớn nhất cho công nhân tình dục ở Anh. Bà là người ủng hộ Công Đoàn Công Nhân Tình Dục Quốc Tế.

Chú thích của tác giả

1. Marx K. Bản thảo kinh tế triết học, 1844. Đoạn trích này và các đoạn trích kinh điển khác có đăng tại : www.marxists.org

2. Trong bài báo này, tôi sử dụng khái niệm mại dâm và công việc tình dục. Một cuộc tranh luận nghiêm túc về vấn đề này rất được hoan nghênh, công việc tình dục nói chung được các nhà hoạt động sử dụng và đề cập tới một nhóm lớn người rộng hơn tham gia vào công nghiệp tình dục. Mặc dù vậy, các cuộc tranh luận trong lịch sử và gần đây về vai trò của tình dục thương mại trong xã hội có khuynh hướng đề cập tới mại dâm (ví dụ trao đổi tình dục hơn là khiêu dâm) và do vậy tôi cho rằng cần phải tiếp tục sử dụng nó. Tôi cũng chỉ đề cập tới công nhân tình dục nữ và khách hàng nam khi trình bày về những đặc tính chung của mại dâm, bởi vì đây là dạng thống trị và có liên hệ gần gũi nhất với sự áp bức tình dục nói chung. Mặc dù vậy, điều này không có nghĩa là phủ nhận một số lượng lớn nam giới cũng bán dâm. Chính phủ Anh ước tính hiện nay có khoảng 70.000 công nhân tình dục ở Anh. 

3. R. S. Rajan, “Những câu hỏi về mại dâm. Nhân viên (nữ), tình dục và công việc" trong Buôn bán, công việc tình dục, mại dâm , Tái bản 2, 1999

4. J. Bindell, The Guardian, 7 July 2003

5. F. Engels, Nguồn gốc gia đình chế độ tư hữu và nhà nước Chương II phần 4, Lawrence and Wishart, 1972

6. A. Bebel, Phụ nữ dưới chủ nghĩa xã hội, Schocken Books, 1971

7. Mạng Lưới Phụ Nữ Đảng Xã Hội Chủ Nghĩa Scottland (SSPWN) “Mại dâm: một đóng góp tranh luận”, 2006, tại www.scottishsocialistparty.org/pages/prostitution.html

8. F. Engels, op cit

9. Phong Trào Cộng Sản Cách Mạng Quốc Tế 1986, “Nguồn gốc và bản chất sự thay đổi sự áp bức đối với phụ nữ”, Trong Luận Đề về Sự Áp Bức đối với Phụ Nữ, tại www.permanentrevolution.net/?view=entry&entry=375

10. J. A. Symonds, “Một vấn đề trong đạo đức Hy Lạp”, 1901, tại: www.sacredtexts.com/lgbt/pge/pge00.htm

11. S. Bell S., Đọc, viết và viết lại về phụ nữ mại dâm, Indiana University Press, 1994

12. K Marx, Capital, Volume 1, Penguin, 1976 (emphasis added).

13. Tính không đồng nhất giai cấp này không phải độc nhất đối với mại dâm. Điều này có thể liên hệ với nông dân, bao gồm từ nông nô bị gắn chặt vào đất đai, tiểu nông chỉ dựa vào sức lao động của bản thân (cộng với gia đình) để bán các sản phẩm, hay các nông dân giàu có thuê người khác làm việc. 

14. R. Perkins, Lao động nữ: gái mại dâm, cuộc sống và sự kiểm soát xã hội, Australian Institute of Criminology, 1991

15. Dĩ nhiên khách hàng có thể và thường áp bức gái mại dâm bằng cách không trả tiền cho dịch vụ tình dục mà họ nhận được nhưng đây là trộm cắp chứ không phải là bóc lột.

16. Trường hợp ngoại lệ là khi gia đình đóng vai trò của một đơn vị sản xuất, rất phổ biến trong các xã hội nông nghiệp và tiền công nghiệp, người chồng vừa là chủ của gia đình vừa là chủ của công việc kinh doanh, làm việc cùng với vợ và con cái. 

17. Dự án Sonagachi, Tuyên ngôn của công nhân tình dục, Calcutta, 1997, at www.bayswan.org/manifest.html

18. Chi tiết hơn về cuộc triển lãm này, được kéo dài tới cuối tháng 3 năm 2006, xem tại: 

19. http://en.wikiquote.org/wiki/Julie_Burchill

20. Durbar Mahila Samanwaya Committee www.durbar.org

21. G Gall, Tổ chức công đoàn của công nhân tình dục, Palgrave Macmillan, 2006

Friday, December 11, 2015

Du học sinh nên về hay ở lại?

Học xong về hay ở?

Câu hỏi này hầu như du học sinh nào cũng phải đối mặt. Có nhiều người bi quan lấy cớ rằng xã hội Việt Nam kém phát triển, hay chính quyền thối nát không trọng dụng nhân tài nên dù có làm cu li ở nước ngoài cũng không về, tất nhiên là họ làm cu li ở mấy nước giàu có chứ không làm cu li ở mấy nước nghèo hơn Việt Nam. 

Tôi cũng từng học nước ngoài nhiều năm. Thời còn nông nổi cũng có cái suy nghĩ là nước Việt Nam nghèo rồi chính quyền kém cỏi, không trọng dụng người tài, về rồi cũng chả có chỗ đứng. 

Vào mùa hè, tôi thường đi làm ở các nhà máy để kiếm tiền học. Ở những nhà máy ấy tôi quen nhiều người vùng Đông Âu, mỗi năm họ chỉ được phép đến đó làm việc vài ba tháng. Họ thường là nông dân ở các vùng hẻo lánh và rất nghèo, cố gắng làm vài ba tháng để kiếm thêm một khoản tiền chăm lo cho gia đình. Tôi hỏi nhiều người rằng họ có muốn ở lại đây để sống cuộc đời sung sướng hơn không. Nhưng hầu như không có ai muốn ở lại, họ đều muốn trở về căn nhà trong rừng mà họ đã tự tay xây lên, họ muốn được cùng với trẻ con vào rừng hái dâu làm mứt, họ muốn chăm sóc cho người thân hay được vui vẻ bên những bạn bè từ thời thơ ấu, họ muốn uống thứ rượu vang chua loét tự nấu và khi say thì cùng nhau hát những bài dân ca bằng thứ thổ ngữ lạ lẫm nhưng êm dịu của họ. Dường như thiếu những thứ ấy thì họ không còn là con người nữa mà chỉ là những cỗ máy làm việc vô hồn.

Thế rồi cùng với thời gian câu hỏi về hay ở tự nhiên biến mất lúc nào không hay, trong lòng tôi chỉ còn khao khát sự trở về. 

Viết đến đây tôi bỗng nhớ đến cuốn sách Sinuhe-Anh chàng Ai Cập của Mika Waltari, một nhà văn nổi tiếng Phần Lan, tôi thường đọc cuốn sách này bằng tiếng Đức vì không có bản tiếng Anh, trong cuốn sách ấy có đoạn Sinuhe tâm sự từ chốn lưu đày như thế này:
Wer einmal das Wasser des Nils getrunken, der sehnt sich zurück zum Nil. Kein anderes Wasser auf Erden kann seinen Durst mehr löschen.
Wer einst in Theben geboren wurde, der sehnt sich nach Theben zurück, denn auf Erden gibt es keine zweite Stadt gleich Theben. Wer an der Gasse geboren wurde, der sehnt sich zurück zur Gasse. Aus dem Zedernholzpalast sehnt er sich zurück in die Lehmhütte. Von den Düften der Myrrhe und der edlen Salben sehnt er sich zurück zu dem Rauchgeruch der Mistfeuer und der in Öl gebratenen Fische.
Meinen goldenen Becher würde ich gegen den Lehmkrug eines Armen tauschen, wenn mein Fuß noch einmal die weiche Erde des Landes Kêmet betreten dürfte. Meine Leinengewänder würde ich gegen die sonnverbrannte Haut eines Sklaven vertauschen, wenn ich nochmals das Rauschen des Schilfrohrs im Frühlingswind hören dürfte.
(Ai đã từng một lần uống nước sông Nil thì người đó sẽ khát khao được về với sông Nil. Không có con sông nào trên trái đất còn có thể làm anh ta hết khát.

Ai sinh ra ở Theben thì người đó sẽ khát khao được trở về Theben, bởi vì trên trái đất này không có bất cứ thành phố nào giống Theben. Ai sinh ra trong hẻm thì sẽ khát khao được trở về hẻm. Có sống trong lâu đài bằng gỗ quý thì anh ta cũng khát khao được quay lại túp lều đắp bằng đất. Mùi thơm của nước hoa và sáp thơm chỉ khiến anh ta khát khao được ngửi thấy mùi khói của ngọn lửa đốt bằng phân gia súc khô và mùi cá rán bằng dầu ăn.

Tôi sẽ đổi chiếc cốc bằng vàng của mình lấy chiếc cốc sành của người nghèo khổ nếu như tôi được một lần nữa đặt chân lên đất Kêmet. Tôi sẽ đổi tấm áo choàng lụa của mình lấy làn da cháy nắng của người nô lệ, nếu như tôi một lần nữa được nghe tiếng lau sậy rì rào trong gió xuân.

Quãng đời xa xứ cuối cùng cũng dạy cho tôi hiểu rằng tiếng gọi của trái tim sẽ giúp ta vượt qua mọi định kiến và suy nghĩ nông nổi.

Sunday, December 6, 2015

Hoa Kỳ biện minh cho chủ nghĩa quân phiệt bằng cách kỷ niệm chiến tranh xâm lược Việt Nam

Hoa Kỳ đang tiếp tục triển khai chương trình kỷ niệm 50 năm chiến tranh xâm lược Việt Nam, chính quyền Hoa Kỳ đang tìm cách sửa chữa các thông tin về chiến tranh xâm lược Việt Nam để biện minh cho chủ nghĩa quân phiệt, nhưng không phải người Mỹ nào cũng khờ khạo đến mức tin vào họ. Robert Fantina trong bài "Whitewashing Militarism, Vietnam-War Edition" đã phân tích từng mục tiêu của chương trình kỷ niệm và chỉ ra những khía cạnh bị che dấu.

Biện minh cho chủ nghĩa quân phiệt, xã luận về chiến tranh Việt Nam
Hình minh họa: Bôi xóa sự thật về chiến tranh xâm lược Việt Nam
Nguồn: Internet
Năm nay đánh dấu 40 năm sự kiện người Việt Nam chiến thắng Hoa Kỳ, trong cuộc chiến tranh đã tàn phá Việt Nam và gây ra những tổn thương và chia rẽ không thể kể hết ở Hoa Kỳ. Có thể thấy rằng sau khi người dân Việt Nam có thể chống lại cỗ máy quân sự hùng mạnh nhất thế giới, Hoa Kỳ cần phải suy nghĩ lại về việc gây chiến tranh và xâm lược quân sự, cũng như chuyển sang ngoại giao trước khi dùng đến bom đạn. Bài học về Việt Nam cần phải được ghi nhớ. 

Không có nhà sử học nào nhận ra rằng những bài học của cuộc chiến tranh thảm họa ấy đều đã nhanh chóng bị quên lãng. Điều đó không chỉ được khẳng định bằng hầu hết sự gây chiến thường xuyên của Hoa Kỳ kể từ khi họ bại trận ở Việt Nam, mà hiện giờ chính quyền cũng “kỷ niệm” thảm họa đế quốc chết chóc ấy. Để kết thúc, họ đã tổ chức một chương trình kỷ niệm trong 13 năm cho mốc 50 năm chiến tranh ở Việt Nam. Chương trình được bắt đầu vào năm 2012 và cả đất nước sẽ phải theo dõi nó, dưới hình thức này hay hình hay hình thức khác, cho đến năm 2025.

Trên trang web của chương trình kỷ niệm có đăng 5 mục tiêu được đặt ra. Mỗi mục tiêu là đều rối rắm hơn mục tiêu trước đó. Chúng ta sẽ xem xét chi tiết từng mục tiêu. 

“Để cảm ơn và vinh danh cựu chiến binh Chiến Tranh Việt Nam, bao gồm cả những người bị bắt làm tù binh chiến tranh (POW), hoặc bị coi là mất tích trong khi hành động (MIA), vì sự phục vụ và hi sinh của họ theo mệnh lệnh của Hoa Kỳ cũng như cảm ơn và vinh danh gia đình của những cựu chiến binh đó.”

Hoa Kỳ có một cách cảm ơn các cựu chiến binh thật kỳ quặc, nếu như họ tin rằng sự phô trương mang tính chất tình thế ấy sẽ lừa gạt được người khác. Cựu chiến binh, trong đó có một số lượng lớn những người đã “phục vụ” (sẽ nói chi tiết hơn về khái niệm nực cười này sau) ở Việt Nam, có tỷ lệ trầm cảm, tự tử, vô gia cư, nghiện ma túy và bạo lực gia đình cao hơn mức trung bình. Nạn nhân của chất độc màu da cam, chất diệt cỏ được sử dụng phổ biến ở Việt Nam, gây ra những vấn đề không thể kể hết về thể chất cho cựu chiến binh và con cái của họ, đã đấu tranh trong nhiều năm để buộc chính quyền thừa nhận bệnh tật của họ là do những hóa chất đó gây ra. Các bệnh viện của cựu chiến binh đã đưa ra những danh sách chờ đợi dài dặc và những tình trạng tệ hại. 

“Để nhấn mạnh sự cống hiến của lực lượng vũ trang trong chiến tranh Việt Nam và sự đóng góp của các cơ quan liên bang và các tổ chức chính phủ cũng như phi chính phủ đã phục vụ cùng với, hoặc hỗ trợ, lực lượng vũ trang.”

Người ta sẽ thấy ngạc nhiên khi có ai đó muốn nhấn mạnh hoạt động của những tổ chức đã giúp cho việc giết hại những người đàn ông, đàn bà và trẻ em vô tội dễ dàng cũng như hiệu quả hơn.

“Để bày tỏ sự tôn kính đối với những đóng góp tại mặt trận quê nhà của những người dân Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam.”

Có lẽ bất cứ ai có kiến thức sơ đẳng về cuộc sống ở Hoa Kỳ trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam đều biết rằng quốc gia phải bày tỏ sự tôn kính đối với đóng góp của những người đã phản đối chiến tranh. Hàng chục ngàn thanh niên đã bỏ trốn để không trở thành nạn nhân của việc buôn nô lệ của Hoa Kỳ với cái được gọi là nhập ngũ bắt buộc. Hàng sa số những người khác đến Việt Nam rồi trở về quê nhà và tích cực chống chiến tranh. Hàng sa số những người khác đã bị bỏ tù khi những hoạt động phản đối có lương tâm của họ bị từ chối, hay khi họ công khai đốt bỏ thẻ quân dịch. Thậm chí ngay cả truyền thông thuộc sở hữu của doanh nghiệp cũng như nhiều chính khách cũng coi những hành động đó là chính đáng và vinh danh chúng. Nhưng trong chương trình kỷ niệm bất tận này, tất cả những điều đó bị lảng tránh.

“Để nhấn mạnh sự tiến bộ trong công nghệ, khoa học và y tế của các nghiên cứu quân sự được thực hiện trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam”.

Dĩ nhiên là giờ thì chúng ta thấy cốt lõi của vấn đề. “Sự tiến bộ” đó chủ yếu phục vụ cho một nhóm nhỏ tài phiệt làm giàu từ chiến tranh. Mọi con bê vàng đều luôn được tôn sùng ở Hoa Kỳ. Nếu như có nhiều tiến bộ về công nghệ, khoa học và y tế bắt nguồn từ chiến tranh Việt Nam thì tại sao các cuộc chiến khác lại không tạo ra chúng và tại sao lại không nhìn nhận những tiến bộ bổ sung đã được tạo ra?

“Để ghi nhận những đóng góp và hy sinh của các đồng minh của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam.”

Thật phi lý khi cho rằng những đồng minh này sẽ sớm quên tất cả mọi chuyện. Tất cả các lưu ý về sự can dự rồ dại của Hoa Kỳ ở Việt Nam đều được so sánh với những sai lầm của Hoa Kỳ khi xâm lược Iraq với biện minh tương tự (hãy hiểu là: không tương tự). Thế nên vụ tưởng niệm vui vẻ này có thể không phải là thứ mà các đồng minh sẽ chào đón.

Giờ thì chúng ta sẽ xem xét khái niệm “phục vụ quân sự”, một phép nghịch hợp ngay cả khi chỉ có một. Chủ nghĩa quân phiệt, như đã được Hoa Kỳ phô bày thừa thãi trong hơn hai thế kỷ qua, đem đến chết chóc, nghèo đói, áp bức, phủ nhận nhân quyền, cũng như hàng sa số tổn thương khác cho những người đàn ông, đàn bà và trẻ em vô tội. Đây là sự thật kể từ chiến tranh 1812 cho đến tận ngày nay, khi Hoa Kỳ và đồng minh của họ ném bom Syria, cũng như phát tán sự thương vong ở đó, đồng thời gia tăng sự thù ghét đối với Hoa Kỳ. Việc giết hại người vô tội có thể được gọi là “thiệt hại liên đới”, nhưng người vô tội đã bị thương và chết nhiều hơn “những kẻ thù” mà Hoa Kỳ đã tự đặt ra.

Liệu những điều này có liên quan gì đến sự phục vụ? Từ đó, trừ khi bị xuyên tạc bằng cách gắn vào với từ “quân đội”, hàm ý về một sự hỗ trợ mang tính vị tha, hoạt động giúp đỡ những người bị thương, hoặc bất hạnh hơn những người đang phục vụ. Những tình nguyện viên tại nhà tạm cho người vô gia cư, tại ngân hàng thực phẩm, chương trình trường học cũng như tại những cơ sở khác mà người dân nhận được sự trợ giúp, có thể được gọi là phục vụ. Những giáo viên cống hiến cả cuộc đời để dạy học, bất chấp đồng lương thấp, cũng là phục vụ. Nhưng binh lính xâm lược một quốc gia độc lập và giết hại thường dân của quốc gia đó thì không phải là phục vụ; đó là từ ngữ để chỉ việc giết người và không phải là “phục vụ”. 

Nhưng ngày nay và cũng như trong nhiều năm tới, dường như tổng thống và nhiều chính khách khác sẽ ca tụng sự vĩ đại của nguyên nhân dẫn đến chiến tranh Việt Nam, với cặp kính mắt màu hồng 40 năm tuổi và ca ngợi điều đó như là một ví dụ về sự vĩ đại của Hoa Kỳ. Không ai đề cập đến sự nổi giận của các trường đại học, thường xuyên dẫn đến việc cảnh sát đàn áp sinh viên cực kỳ dã man. Thanh niên bỏ trốn khỏi đất nước để tránh bị cưỡng bách tham gia một cuộc chiến tranh vô đạo đức cũng bị lảng tránh. Những công dân khờ khạo cũng sẽ quên cảnh người Mỹ bỏ chạy một cách tuyệt vọng khỏi Sài Gòn khi Việt Cộng tiến quân vào, sẽ đặt tay lên ngực, thề trung thành với lá cờ và ngồi xuống khi Hoa Kỳ tiếp tục vận hành cỗ máy giết chóc ghớm ghiếc nhất hành tinh.

Robert Fantina’s latest book is Empire, Racism and Genocide: a History of US Foreign Policy (Red Pill Press).

Friday, December 4, 2015

Sự hào phóng giả hiệu của chủ sở hữu Facebook

Tác giả Ted Rall trong bài viết "Phony Generosity: the Self-Serving Charity of Mark Zuckerberg" phơi bày sự thật về việc làm từ thiện của các tỷ phú. Họ chỉ giả vờ làm từ thiện, nhưng thực tế là kinh doanh hoặc hỗ trợ kinh doanh. Mặt khác, hoạt động từ thiện của họ lại phá hủy công ăn việc làm của những người khác và gia tăng sự đói nghèo.

Sự hào phóng giả hiệu: Mark Zuckerberg tự từ thiện cho bản thân

Giám đốc điều hành Mark Zuckerberg hứa tặng 99% số cổ phần Facebook của anh ta cho từ thiện – mới đây. 

Chính xác là: cổ phiếu, hiện tại trị giá 45 tỷ dollar, sẽ được quyên góp “trong cuộc đời [của anh ta và vợ]”. Anh ta 31 tuổi và vợ 30 tuổi, theo điều kiện sống hiện tại của họ, sẽ là vào khoảng năm 2065.

Nếu như Facebook hay Internet hoặc trái đất vẫn còn tồn tại.

Whoop de doo.

Tôi sẽ ấn tượng hơn nếu như Facbook chi thêm tiền cho nền kinh tế Mỹ. Bằng cách nào? Bằng cách thuê thêm nhân công – thêm thật nhiều nhân công. Quy mô thị trường của Facbook là 300 tỷ dollar – lớn gần gấp mười lần so với GM. GM có 216,000 nhân công. Tôi không chắc là Facebook có thể tìm ra công việc cho 2 triệu nhân viên – nhưng 12,000 nhân viên thì chả mấy thỏa đáng. Họ có thể bắt đầu bằng cách thuê vài ngàn nhân viên cho dịch vụ phản hồi khách hàng 24/7 để họ có thể nhanh chóng trả lời khách hàng khi có một vài gã bẩn thỉu đăng hình khỏa thân của ai đó.

Vấn đề trong câu chuyện nịnh nọt về hành động từ thiện giả hiệu của Zuck đã khiến tôi thực sự bực mình là từ “từ thiện”.

Tiết lộ: Tôi không cho rằng từ thiện là tất cả. Nếu như có điều gì đủ quan trọng để phải tài trợ - giúp các nạn nhân bão lụt, gửi bác sĩ đến vùng chiến sự, nghệ thuật – thì chúng cần phải được trả bằng tiền của toàn bộ xã hội, bằng tiền thuế của chúng ta. Trên hết, chúng ta không nên cho phép các tỷ phú tích lũy đủ của cải để thành tỷ phú, bởi vì điều đó là không công bằng. Không ai có thể làm việc đủ chăm chỉ để kiếm được một tỷ dollar. Cũng như điều này sẽ đem lại quá nhiều quyền kiểm soát cho một số cá nhân trong khi 99,99% những người khác chịu thiệt thòi. 

Không may mắn là chúng ta đang chờ đợi cách mạng. Chúng ta vẫn có các tỷ phú chạy quanh giả vờ tốt bụng (chứ không phải ở nơi dành cho họ, bị treo trên một cây cột đèn nào đó).

Mặc dù vậy, ngay cả với những tiêu chuẩn nghèo nàn của chúng ta hiện nay, Zuck hoàn toàn là rác rưởi.

Điểm thứ nhất: Sáng kiến Chan Zuckerberg không phải là từ thiện. Đó là một công ty trách nhiệm hữu hạn (LLC), giống như mọi công ty khác, có thể quyên góp cho hoạt động từ thiện nhưng cũng có thể đầu tư vào các doanh nghiệp vì lợi nhuận.

Điểm thứ hai: Tất cả là vì vấn đề kiểm soát

Một khoản quyên góp cho một từ hội từ thiện độc lập, truyền thống theo điều 501(c) có thể kèm theo các ràng buộc – tiền chỉ được chi cho nhóm trẻ em ở bệnh viện, không cho người trưởng thành – mặc dù cuối cùng thì tiền cũng được chi tiêu theo quyết định của lãnh đạo tổ chức từ thiện. Với cấu trúc LLC, Zuckerberg sẽ duy trì sự kiểm soát toàn diện đối với những quỹ mà anh ta “quyên góp” cho “từ thiện”. 

Đó là sự khác biệt giữa việc bạn chi 100 dollar cho United Way với rút 100 dollar ở ví ra và bỏ vào hộp đựng café trong bếp. Tiền trong hộp đựng café có thể được tặng cho người nghèo và cũng có thể không. Bạn không thể coi đó là tặng tiền cho từ thiện. 

Nếu Zuck muốn danh hiệu “tặng 99% cổ phiếu của anh ta cho quỹ từ thiện” thì anh ta sẽ có nó – bằng cách tặng cổ phiếu của anh ta cho các hội từ thiện đang tồn tại. Các hội từ thiện sẽ không mang tên của anh ta. Các hội từ thiện mà anh ta không kiểm soát được.

“Zuckerberg Có Thể Làm Nhiều Thứ Mà Anh Ta Tưởng Là Tốt Với Tài Sản Của Mình” sẽ là danh hiệu chính xác hơn.

Sự mập mờ trong thông báo của Zuckerberg đã nhấn mạnh ấn tượng nghèo nàn của nó.

“Các sáng kiến của chúng tôi sẽ tập trung vào cá nhân hóa học tập, chữa trị bệnh tật, kết nối con người và xây dựng những cộng đồng mạnh”, họ nói.

Nghe có quen không?

Quỹ Bill và Melinda Gates được thành lập vào năm 2000 với hàng tỷ dollar mà Microsoft đã cướp bóc được từ người tiêu dùng Hoa Kỳ bằng cách làm giá và các chiến thuật độc quyền theo phong cách gangster để nuôi dưỡng một công ty hầu như đã sụp đổ. Tổ chức từ thiện này (đăng ký theo điều 501(c)) cũng tương tự như Sáng Kiến Chan Zuckerberg: “Quỹ của chúng tôi kết hợp với các đối tác khắp thế giới để đối đầu với những thách thức khó khăn nhất: sự nghèo đói khủng khiếp và sức khỏe tồi tệ ở các nước đang phát triển cũng như sự thất bại của hệ thống giáo dục Hoa Kỳ”.

Điều đó có nghĩa là tặng máy tính cá nhân cho các trường học để ít trẻ em khi lớn lên sẽ dùng máy tính Macs.

Nếu bạn là người bảo thủ, cho rằng chính quyền không thể làm điều gì đúng, hãy để tôi cho bạn thấy một tổ chức từ thiện còn tồi tệ hơn thế. Quỹ Gates tìm cách phá hủy các công đoàn của giáo viên để tước bỏ phúc lợi và giảm lương của giáo viên - việc đó khó có thể là cách hấp dẫn các sinh viên tốt nghiệp xuất sắc nhất cho nghề nghiệp này. Nó chi hàng triệu dollar cho thảm họa Common Core, thứ đã tạo ra văn hóa “luyện thi” hiện nay ở các trường công. Như khoản đầu tư vào các trường công trước đây của Zuckerberg, một khoản thua lỗ 100 triệu dollar ở Newark, New Jersey, đã tuyên chiến với giáo viên, sùng bái việc kiểm tra chuẩn hóa và dẫn đến việc nhiều trường công bị đóng cửa, khiến trẻ em phải đi bộ nhiều dặm đường xuyên qua lãnh địa của các băng đảng để đến trường học mới được lựa chọn cho chúng một cách máy móc – không hề quá đáng nói rằng Chan Zuckerberg cũng sẽ giống như Bill và Melinda Gates. 

Tôi cũng sẽ không kỳ vọng nhiều – nhiều điều tốt, hay bất cứ thứ gì tốt – từ Zuckerberg trong lĩnh vực nghèo đói. Trên hết, Facebook đang gia tăng sự nghèo đói cho lao động STEM của Hoa Kỳ bằng cách thúc ép Quốc Hội cấp thêm thị thực H1C cho lao động nước ngoài mà các doanh nghiệp công nghệ cao thuê để thay thế người Mỹ được trả lương cao. Điều kỳ quặc ở đây là cách tiếp cận của Sáng Kiến Chan Zuckerberg cũng tương tự như nhà Gates.

Quá trẻ và quá giàu để sành đời – và những người duy nhất mà họ biết là những con lợn doanh nghiệp có quá nhiều đặc quyền đặc lợi. Bạn nghĩ điều này sẽ đi đến đâu?

Ví dụ, vào năm 2010, Bill và Melinda bị chỉ trích về việc trợ cấp cho các dự án Châu Phi của các tập đoàn nông nghiệp khổng lồ Cargill và Monsanto, cả hai đều đang tấn công các hộ nông dân nhỏ dữ dội, với tổng số là 23 triệu dollar. Họ đang tìm cách phổ biến thực phẩm biến đổi gien. Họ gia tăng hỗ trợ các chế độ toàn trị và độc tài bằng cách tập trung vào các dự án “giải quyết nhanh” ngắn hạn mang tính chất kỹ thuật mà không xác định những nguyên nhân phía sau của sự nghèo đói (psst – chủ nghĩa tư bản). Có thể nói một cách tương đối chắc chắn là công việc chống đói nghèo của Zuck sẽ làm cho nhiều người nghèo hơn. 

Zuckerberg có hàng tỷ dollar. Anh ta có thể làm điều gì anh ta muốn với tiền của mình. Nhưng đừng ai nhầm lẫn mà coi anh ta là nhà từ thiện hay một gã tốt bụng.

Ted Rall, syndicated writer and the cartoonist for ANewDomain.net, is the author of the book “Snowden,” the biography of the NSA whistleblower.

Thursday, December 3, 2015

Dầu của ISIS

Dầu của ISIS đã được buôn lậu qua Thổ Nhĩ Kỳ như thế nào? Chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ đã dính líu đến việc này ra sao? Tác giả Vijay Prashad đã xem xét các góc độ của vấn đề trong bài viết "ISIS Oil"

Dầu của ISIS

Vào ngày 2 tháng 12, thứ trưởng Bộ Quốc Phòng Anatoly Antonov đã đưa ra tuyên bố về việc Thổ Nhĩ Kỳ đồng lõa với ISIS. Bản cáo buộc dài và chi tiết, đề cập tới nhiều góc độ, nhưng điều nổi bật nhất là cáo buộc về “dầu của ISIS”.

ISIS kiểm soát các giếng dầu của Iraq ở gần Mosul. Chúng đã kiếm được hàng triệu dollar mỗi ngày bằng cách bán dầu thu được từ các giếng dầu đó. ISIS đã đưa dầu từ các giếng dầu gần Mosul ra thị trường bằng cách nào?

ISIS đã sử dụng mạng lưới buôn lậu dầu cũ từ chính quyền khu vực của người Kurd mà không cần quan tâm tới chủ quyền của Baghdad đối với số dầu đó. Đây là điểm bất đồng đã kéo dài nhiều thập kỷ, kể từ khi khu vực của người Kurd có quyền kiểm soát đối ở miền bắc. Dầu của người Kurd được bán cho những kẻ buôn lậu, sau đó những kẻ buôn lậu sẽ chở bằng xe chở dầu vượt qua biên giới sang Thổ Nhĩ Kỳ. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, các xe tải chở dầu sẽ tiếp tục chạy dọc theo đất nước đến cảng Ceyhan của Địa Trung Hải. Từ Ceyhan, một cảng của chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ, dầu sẽ được các nhà buôn có tàu chở dầu mua lại và chở đến Malta, tại đó dầu sẽ được chuyển sang các tàu đi đến các nơi tiêu thụ như Ashdod (Israel). Điều này từ lâu đã là sự bất đồng gay gắt giữa chính quyền Iraq với chính quyền khu vực của người Kurd và chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ. Chuyện này đã được Tolga Tanış tường thuật cặn kẽ trong cuốn sách Potus ve Beyefendi (2015). Tanis cáo buộc Berat Albayrak, con rể của tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdoğan, có can dự vào hệ thống buôn lậu này. ISIS đã thay thế chính quyền khu vực của người Kurd trong áp phe mới.

ISIS đã làm điều này ra sao? ISIS bán dầu cho những kẻ buôn lậu, những kẻ này chở dầu tới Ceyhan. Nhưng giờ câu chuyện trở nên thú vị. Ai bên phía Thổ Nhĩ Kỳ tham gia buôn bán dầu? Người Nga cáo buộc tập đoàn BMZ đóng vai trò chủ chốt trong việc vận chuyển dầu. Một trong các chủ sở hữu của BMZ là Bilal Erdoğan, con trai của tổng thống. Tập đoàn BMZ đã mua – theo tờ Financial Times – hai tàu chở dầu mới vào tháng trước. Sản lượng dầu của họ đã gia tăng. Đó có phải là dầu của ISIS? Cáo buộc của Nga cần phải được điều tra tiếp. Tại Quốc Hội Anh, lãnh đạo của đảng Lao Động Jeremy Corbyn nói, “Chúng ta cần biết những ngân hàng nào và quốc gia nào liên quan đến việc buôn lậu dầu của ISIS”. Đây là câu hỏi quan trọng nhất nhưng đã bị lảng tránh. 

Việc này được biết rõ ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhiều nhà báo dũng cảm đã viết về vai trò của chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ trong những lổ hổng biên giới Thổ Nhĩ Kỳ-Syria. Đó là lý do khiến chính quyền Erdoğan đàn áp truyền thông tàn nhẫn. Việc bắt giữ biên tập viên Can Dündar và trưởng tòa soạn chi nhánh Ankara của tờ Cumhuriyet Erdem Gül chỉ là một phần của sự đàn áp. Dündar và Gül đã công bố các bức ảnh cho thấy Thổ Nhĩ Kỳ hỗ trợ những kẻ cực đoan ở Syria. Erdoğan đã săn đuổi Ceylan Yeginsu của tờ New York Time sau khi cô đưa tin về trung tâm tuyển mộ của ISIS ở Thổ Nhĩ Kỳ. Ở Thổ Nhĩ Kỳ không có khoan dung cho tự do báo chí về những chủ đề đó. Nếu ai đó nhắc đến một trong nhưng cái tên – Bilal Erdoğan, Berat Albayrak, Ahmet Çalık – thì anh ta sẽ có nguy cơ bị truy tố. Çalık nắm giữ những chìa khóa của vương quốc tại nhà máy lọc dầu Ceyhan – thông qua đó, theo như cáo buộc, dầu của ISIS được vận chuyển. Liệu việc này có được điều tra kỹ lưỡng không? Có như vẻ là không, có quá nhiều thiệt hại. Erdoğan đã tuyên bố rằng ông ta sẽ từ chức nếu có bất cứ mối liên hệ nào được chứng minh. Có lẽ là sẽ không có mối liên hệ nào được chứng minh.

Việc người Nga đưa ra những cáo buộc này chỉ gia tăng sự căng thẳng giữa Ankara và Moscow. Vào ngày 3 tháng 3, tổng thống Nga Vladimir Putin đề xuất sự trả đũa cho chiếc máy bay bị bắn hạ. Mức độ nguy hiểm đã gia tăng. 

Cảng Ceyhan chỉ cách căn cứ không quân Incirlik vài giờ chạy xe, từ Incirlik máy bay chiến đấu của Hoa Kỳ tấn công các mục tiêu ở Syria. Như vậy, dầu của ISIS đã được vận chuyển ngay trước mũi của máy bay Hoa Kỳ. Trong 14 tháng Hoa Kỳ tấn công ISIS, họ đã tránh tấn công vào các xe chở dầu. Quan chức Hoa Kỳ tuyên bố rằng họ không tấn công xe chở dầu của ISIS vì e ngại “thiệt hại liên đới”. Trên thực tế, khi Hoa Kỳ tấn công xe chơ dầu vào tháng trước, họ cũng làm điều đó sau khi cảnh báo các lái xe bằng tờ rơi. Đây là một cử chỉ rất cao thượng nhưng vô nghĩa. Nói chung Hoa Kỳ không cảnh báo các mục tiêu. Họ chỉ tấn công các xe chở dầu sau khi máy bay Nga đã bắn cháy chúng. Liệu Hoa Kỳ tấn công xe chở dầu có phải chỉ là để thể hiện với Nga? Khi tôi đưa ra câu hỏi này cho quan chức Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, bà ta đã bối rối. Bà ta nói rằng Hoa Kỳ đã thu thập các thông tin tình báo về tuyến đường của xe chở dầu và giờ chuẩn bị để tấn công đoàn xe. Điều này diễn ra sau khi Nga đã không kích đoàn xe chở dầu chỉ là sự trùng hợp, bà ta nói.

Phương Tây ném bom Syria hiện đang trở nên dữ dội hơn. Pháp đã tham gia cùng với Hoa Kỳ. Anh cũng bắt đầu ném bom, trong khi Đức thì hỗ trợ Pháp. Lịch sử của không kích cho thấy các đội quân du kích không dễ dàng bị khuất phục bằng không quân. Hoa Kỳ đã thống trị bầu trời ở Việt Nam nhưng vẫn thua trận. Khi Anh tham chiến Thế Chiến II, việc Đức ném bom chỉ củng cố thêm ý chí kháng chiến của người Anh. Họ đều đã quên bài học này.

Châu Âu muốn giải quyết cuộc khủng hoảng người tị nạn. Họ vẫn tin rằng không kích sẽ giúp họ đạt được mục đích. Dường như điều đó làm gia tăng dòng người di cư ở Syria. Việc chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ yêu cầu “khu vực đệm” là lợi ích của Châu Âu. Họ tin rằng đó là khu vực cho người tị nạn. Nhưng điều đó cũng có thể bảo vệ cho các xe chở đầu khỏi bị Nga không kích. Đó chính là điều khiến yêu cầu của Corby quan trọng – tổ chức một cuộc điều tra về đường vận chuyển dầu của ISIS. Cuộc điều tra này phải hỏi những câu hỏi như sau:

1. Ai đang vận chuyển dầu từ Mosul tới biên giới Thổ Nhĩ Kỳ? Ai sở hữu những xe chở dầu?

2. Ai đang vận chuyển dầu từ biên giới Thổ Nhĩ Kỳ tới Ceyhan? Ai sở hữu những xe chở dầu?

3. Dầu của ISIS đi qua Ceyhan, một cảng thuộc sở hữu của chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ, bằng cách nào?

4. Ai sở hữu những tàu đã chở dầu của ISIS ra khỏi Thổ Nhĩ Kỳ và đi tới các cảng nhận hàng?

5. Những ngân hàng nào xử lý các giao dịch giữa ISIS và người mua dầu ngoại quốc? Họ có dính líu vào việc buôn lậu dầu của ISIS không?

Một cuộc điều tra theo những câu hỏi này sẽ rất lâu, không đủ để chấp nhận hay bác bỏ những cáo buộc của Nga. Những điều này phải khai thác để làm rõ nguồn tài chính của ISIS. Ném bom các giếng dầu tại Omar ở Syria – như Anh đã làm hôm nay – có thể không hiệu quả. Điều này có thể là hỏa mù che dấu bằng chứng về sự liên quan lớn hơn tới dầu của ISIS.

[A shorter version of this will appear this Sunday in BirGün]

Vijay Prashad, director of International Studies at Trinity College, is the editor of “Letters to Palestine” (Verso). He lives in Northampton.