Showing posts with label Hoa Kỳ. Show all posts
Showing posts with label Hoa Kỳ. Show all posts

Monday, April 11, 2016

Lý Quang Diệu đã bình luận gì về Việt Nam ở Harvard vào năm 1967?

Toàn bộ các thông tin dưới đây được dịch từ trang The Crimson về các phát biểu của Lý Quang Diệu tại Harvard, Hoa Kỳ vào năm 1967.

Bối cảnh lúc đó là Singapore vừa mới tách ra khỏi liên bang với Malaysia sau một thời gian gian ngắn thành lập. Lý Quang Diệu đi công du ở Hòa Kỳ và đề nghị được nói chuyện với sinh viên trường Hành Chính Công, sau này đổi tên thành trường Kennedy. Singapore lúc đó đã là thành phố cảng lớn thứ 5 thế giới, có mức thu nhập bình quân đầu người 500 dollar/năm và có mức sống cao nhất khu vực Đông Nam Á. Ông ta thúc giục Hoa Kỳ tiếp tục cuộc chiến xâm lược Việt Nam để dựng lên một lá chắn bảo vệ các nước Đông Nam Á.

Huyền thoại Lý Quang Diệu mơ Singapore được như Sài Gòn đều nhắc đến quãng thời gian năm 1965-1967. Có nhiều dị bản về huyền thoại này, có cái thì viết rằng họ Lý nói điều đó năm 1965 khi Singapore tách ra khỏi liên bang với Malaysia, có cái lại viết họ Lý nói điều đó tại một khách sạn ở Sài Gòn vào năm 1967.

Những bài báo của Mỹ vào năm 1967 cho thấy Lý so sánh Singapore và Sài Gòn vào năm 1954 để nhấn mạnh sự thất bại của ngụy quyền Sài Gòn về mặt chính trị. Vào năm 1954, Singapore không nhận được sự hậu thuẫn lớn của Anh như chính quyền Sài Gòn đã nhận được từ Mỹ. Mặc dù người Mỹ cho rằng đây chỉ là chuyện xuyên tạc nhằm mục đích đề cao cá nhân Lý. 


Khuyết danh, 20/10/1967

0

Ngài Lý Quang Diệu, thủ tướng nước cộng hòa Singapore, sẽ viếng thăm Diễn Đàn Dunster vào lúc 14h15 ngày hôm nay tại nhà ăn của Dunster.



Khuyết danh, 21/10/1967

8

Hoa Kỳ đã bỏ lỡ các cơ hội rút lui khỏi Việt Nam và hiện giờ phải tiếp tục ở lại và chiến đấu, Lý Quang Diệu, thủ tướng của nước cộng hòa Singapore, đã phát biểu tại Harvard chiều ngày hôm qua.

“Chuyến xe đã dừng vài lần và anh phải xuống xe,” Lý nói với một trong số 125 khán giả tại diễn đàn Dunster. Ông ta nhắc tới năm 1954, 1956 và 1961 như là những lúc mà Hoa Kỳ có thể từ chối tham chiến ở Việt Nam. Lý cho rằng vụ sát hại Diệm là cơ hội cuối cùng để Mỹ rút lui, theo quan điểm của ông ta là chính sách “tốt hơn nhiều” vào lúc đó.

Sự rút lui chung cuộc

Vị thủ tướng nói rằng ông ta muốn người Mỹ cuối cùng cũng rời khỏi Việt Nam. Song ông ta nhấn mạnh, nhưng hiện giờ Hoa Kỳ phải thể hiện sự đáp trả bằng quân sự mạnh mẽ. Giải pháp cứng rắn của Hoa Kỳ sẽ buộc Bắc Việt Nam phải đàm phán, Lý nói.

Để thúc giục Hoa Kỳ tiếp tục can thiệp ở Việt Nam, Lý nói về lợi ích rộng lớn của Hoa Kỳ với một chính quyền phi cộng sản ổn định.

Ông ta nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ phải cố gắng tìm ra một nhóm người miền Nam Việt Nam có thể nắm quyền lãnh đạo. Ông ta lên án việc Anh và Mỹ đã phá hủy “có hệ thống” mọi sự thay thế cho lãnh đạo của Diệm vào năm 1954.

Lý nói rằng, thực tiễn ở Singapore là ví dụ cho thấy một giải pháp tốt hơn cho vấn đề như Việt Nam. Vị thủ tướng giải thích là khi người Anh thấy rằng không thể đồng thời chống lại cả cộng sản và quốc gia, họ đã cho phép chuyển giao quyền lực cho “người có năng lực tốt nhất trong những nhóm phi cộng sản.” Ông ta nhấn mạnh rằng trong các cuộc bầu cử tự do hiện nay thì cộng sản sẽ không nhận được nhiều hơn 13% số phiếu bầu. 

Mong muốn đối thoại 

Kế hoạch ban đầu của Lý chỉ là viếng thăm Trung Tâm Đối Ngoại khi lưu lại ở Havard. Tuy vậy, trong cuộc đối gặp mặt tổng thống Johnson vào thứ tư, Lý bày tỏ mong muốn được gặp các sinh viên Hoa Kỳ.

Yêu cầu của ông ta được chuyển đến cho Alwin M. Pappenheimer ’29, chủ nhân của Diễn Đàn Dunster, người sắp xếp cho Lý phát biểu. Giữa tiếng hoan hô và vỗ tay, Lý giải thích, “Tôi đến đây để thu thập ý kiến” và “tìm ra những kế hoạch tiếp theo mà tôi phải thực hiện.”


Thursday, March 17, 2016

Những huyền thoại an ủi: Canada và chiến tranh Việt Nam

Trong bài viết "Những huyền thoại an ủi: Canada và Chiến Tranh Việt Nam", tác giả Yves Engler đã phơi bày sự thật về huyền thoại một cựu thủ tướng Canada chống chiến tranh Việt Nam, mà thực ra ông ta ủng hộ nó. Điều này làm chúng ta liên tưởng đến huyền thoại Ngô Đình Diệm là người theo chủ nghĩa dân tộc và chống lại Hoa Kỳ. Tất nhiên đó là sự dối trá.

Những huyền thoại an ủi: Canada và chiến tranh Việt Nam

Trong khi việc đưa tin về chuyến viếng thăm Washington mới đây của Justin Trudeau vô vị một cách đáng ngạc nhiên trong sự nhấn mạnh vào “sự thân thiết” giữa Obama và thủ tướng Canada, ít nhất nó cũng chính xác (theo nghĩa giới hạn mà truyền thông chính thống đặt ra), ngoại trừ việc chương trình 60 Phút đã nhầm lẫn một cách nực cười bức ảnh ngôi sao Kim Cattral của phim Sex and the City với Margaret Trudeau. Tuy vậy, một nội dung khác đã không bị truyền thông chống lại như là lời nói dối và huyền thoại quốc gia nguy hiểm.

Một số hãng truyền thông đã thảo luận về việc Lester Pearson viếng thăm Lyndon Johnson sau khi ông ta được cho là “có một bài phát biểu lên án sự can dự của Hoa Kỳ ở Việt Nam.” Báo chí Canada đã tường thuật bài phát biểu của cự thủ tướng và cuộc gặp mặt với tổng thống Hoa Kỳ như sau: “’Pearson không bao giờ viếng thăm nữa, sau xung đột nổi tiếng năm 1965. Ông ấy phản đối chiến tranh Việt Nam và Johnson đã tóm lấy ve áo của ông ta rồi nói gằn giọng: “Đừng đến phòng ngủ của tao và đái ra chăn của tao.’”

Phát biểu của Pearson tại đại học Temple ở Philadelphia vào đêm trước khi ông ta gặp Johnson dường như là ví dụ được trích dẫn nhiều nhất về việc lãnh đạo Canada (được cho là) phản đối chủ nghĩa quân phiệt Hoa Kỳ. Ngay cả các tác giả nói chung là quan trọng như Linda McQuaig cũng nhắc đến nó như là “sự đóng góp vào nỗ lực chấm dứt của chiến tranh Hoa Kỳ ở Việt Nam.”

Nhưng đây là điều mà Pearson đã thực sự nói ở Philadelphia: “Chính quyền và đại đa số người dân ở đất nước tôi hoàn toàn ủng hộ chính sách giữ gìn hòa bình và tạo dựng hòa bình của Hoa Kỳ ở Việt Nam.” 

Trong Sự đồng phạm lặng lẽ: Sự can dự của Canada trong Chiến Tranh Việt Nam, Victor Levant đặt phát biểu của Pearson vào bối cảnh chính xác: 

“Trong bài diễn văn ở Temple, thủ tướng không chấp nhận tất cả những điều kiện và hầu hết các kết luận của chính sách Hoa Kỳ. Theo quan điểm của Pearson, nguyên nhân chính gây ra sự gia tăng chiến tranh ở Việt Nam là sự xâm lược của Bắc Việt. Ông ta nói, ‘tình hình này không thể cải thiện được cho đến khi Bắc Việt hiểu rằng sự xâm lược, dưới bất cứ vỏ bọc nào, vì bất kỳ lý do gì, đều không được chấp nhận và sẽ không thể thành công.’ Điều này có tác động rộng lớn, do ‘không có quốc gia nào… có thể cảm thấy an toàn nếu như sự đầu hàng ở Việt Nam dẫn đến sự biện hộ cho xâm lược thông qua lật đổ và chiến tranh giải phóng quốc gia giả tạo.’ Nếu như hòa bình có thể đạt được, điều kiện đầu tiên là ngừng bắn và điều này chỉ diễn ra nếu như Hà Nội thừa nhận những sai lầm trong đường lối của họ: ‘hành động xâm lược của Bắc Việt để mang sự giải phóng cộng sản (có nghĩa là sự cai trị của cộng sản) đến Nam Việt Nam phải chấm dứt, chỉ khi đó thì đàm phán mới có thể diễn ra.’ Hành động quân sự của Hoa Kỳ nhằm mục đích chống lại sự xâm lược của Hà Nội, các biện pháp có đi quá xa, trong đó có việc ném bom miền Bắc, song hoàn toàn chính đáng: ‘các cuộc tấn công trả đũa đối với các mục tiêu quân sự của Bắc Việt, vốn là một sự khiêu khích lớn, nhằm mục đích cho thấy rõ rằng việc duy trì chính sách xâm lược đối với miền nam sẽ trở thành một gánh nặng lớn đối với chế độ miền Bắc. Sau khoảng hai tháng không kích, thông điệp đã được đưa ra rõ ràng và sáng tỏ.’”

Levant viết tiếp:

“Mặt khác, Pearson khẳng định rằng việc tiếp tục ném bom, thay vì làm suy yếu ý chí kháng cự của Hà Nội, có thể dẫn đến tình thế không khoan nhượng. Do đó, ông ta đề xuất một động thái chiến thuật là Hoa Kỳ nên cân nhắc “tạm ngừng” ném bom: ‘có nhiều yếu tố mà tôi không ở vị thế để cân nhắc. Nhưng ở đây ít nhất là việc tạm ngừng không kích Bắc Việt, vào đúng thời điểm, có thể cho nhà cầm quyền Hà Nội một cơ hội. Nếu họ muốn đón nhận cơ hội đó, để tạo ra một số sự linh hoạt cho chính sách của họ mà không có vẻ như là phải làm điều đó dưới sức ép quân sự. Nếu như sự tạm ngừng diễn ra trong một thời gian giới hạn, tỷ lệ đụng độ ở Nam Việt Nam có thể cho thấy cách đo lường chính xác sự hữu dụng và mong muốn tiếp tục. Dĩ nhiên, tôi không đề xuất bất cứ sự nhượng bộ nào về nguyên tắc, hay bất cứ cắt giảm sức kháng cự xâm lược nào ở Nam Việt Nam. Sự kháng cự có thể đòi hỏi gia tăng sức mạnh quân sự được dùng để chống lại và tấn công cộng sản có vũ trang. Tôi chỉ muốn đề xuất rằng một sự tạm ngừng có tính toán và được thông báo trên chiến trường vào đúng lúc có thể tạo điều kiện thuật lợi cho sự phát triển các giải pháp ngoại giao vốn không dễ dàng áp dụng cho vấn đề trong tình thế hiện tại. Ít nhất, điều đó cũng có thể cho thấy sự không khoan nhượng của chính quyền Bắc Việt.’” 

Hãy tiếp tục phân tích lập trường “chống chiến tranh” của Pearson. Khoảng 3 triệu người Việt Nam đã chết trong chiến tranh của Hoa Kỳ ở Đông Dương, với khoảng 100.000 người chết khi Hoa Kỳ ném bom miền Bắc. Đánh giá phát biểu của Pearson ở Temple theo các khái niệm hời hợt nhất, sự phản đối ném bom miền Bắc là lời kêu gọi chấm dứt 3,3% số người chết.

Khi Pearson gặp Johnson vào ngày kế tiếp, tổng thống đang phát khùng vì các quan chức lập chính sách đối ngoại cao cấp đã tranh luận về việc tạm ngừng ném bom Bắc Việt (điều sẽ diễn ra một tháng sau đó và khi Washington tái khởi động chiến dịch ném bom thì Pearson lại công khai bảo vệ nó). Bằng phát biểu của mình, Pearson đã đứng về phía các đối thủ của Johnson trong chính quyền Hoa Kỳ sau khi Johnson ra lệnh ném bom. Theo các tài liệu nội bộ của chính quyền được tiết lộ trong Hồ Sơ Lầu Năm Góc, vào tháng 5 năm 1964, Pearson đã đồng ý với yêu cầu của Johnson về việc có các thanh sát viên Canada trong Ủy Ban Kiểm Soát Quốc Tế, vốn được coi là để giám sát việc triển khai Hiệp Định Geneva và thống nhất hòa bình Việt Nam, để chuyển thông điệp đe dọa ném bom của Hoa Kỳ cho các lãnh đạo Bắc Việt. Khi làm điều đó, chủ nhân giải Nobel Hòa Bình của Canada đã tiếp tay cho tội ác chiến tranh nghiêm trọng. 

Câu chuyện về việc Johnson phản đối Pearson vào ngày kế tiếp chỉ được phơi bày một thập kỷ sau đó, khi hành động của Hoa Kỳ ở Việt Nam đã hoàn toàn tai tiếng. Vào năm 1974, cựu đại sứ Canada ở Washington Charles Ritchie viết, “tổng thống bước về phía ông ta và nắm lấy ve áo khoác của ông ta, đồng thời đưa tay kia lên trời.” Ritchie tường thuật Johnson đã nói: “Mày đừng có đến đây và đái ra chăn của tao.”

Trong khi mô tả của vị đại sứ hầu như là một sự cường điệu, các nhà bình luận sau đó đã tô vẽ cho lời kể của Ritchie. Một người nói Johnson “tóm lấy ve áo khoác của Pearson và lắc ông ta rất mạnh.”

Dĩ nhiên là một câu chuyện giải trí nhưng không phải là sự thật, cũng như việc nói rằng Lester Pearson phản đối chiến tranh là sự dối trá.

Trong khi đối với những người tạo ra huyền thoại quốc gia logic và sự kiện không cần phù hợp thì điều quan trọng là chúng ta hiểu thực tế của quá khứ nếu như chúng ta muốn xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn.

Yves Engler là tác giả của cuốn sách The Ugly Canadian: Stephen Harper’s Foreign Policy

Thursday, March 10, 2016

Bóc mẽ các huyền thoại chống phúc lợi xã hội

Bài A Citizen’s Guide to Combating Election Propaganda: Debunking Anti-Welfare Myths của Anthony DiMaggio có hai khía cạnh đáng chú ý, thứ nhất là ngay cả khi nhận trợ cấp xã hội thì người nghèo vẫn cứ nghèo, thứ hai là người nghèo thực sự không lười biếng và nghiện ngập như truyền thông vẫn rêu rao. Điểm sau có thể liên hệ với Việt Nam, khi mà phong trào bôi nhọ người nghèo là lười biếng, ngu dốt, nghiện ngập đang ngày càng trở nên phổ biến, thậm chí còn trở thành mốt để câu view trên mạng xã hội của một số người. 

Một hướng dẫn chống lại tuyên truyền bầu cử cho công dân: Bóc mẽ các huyền thoại chống phúc lợi xã hội 

Sự thành công của giới thượng lưu kinh tế và chính trị trong việc tạo ra sự ngu dốt phổ biến trở thành thứ cản trở lớn nhất đối với sự trao quyền dân chủ hiện nay. Xúi giục sự sợ hãi và khinh bỉ đối với “người khác” – bao gồm cả người thiểu số và người nghèo, là chiến thuật phổ biến được áp dụng trong bầu cử để thu được sự ủng hộ của cử tri. Đó là mục đích của việc xúi giục sự ngạo mạn – như được thấy trong việc bôi nhọ người nghèo và trong sự tán dương những người ‘làm việc’ trái ngược với những người (được cho là) “không làm việc”. Không may thay, hàng sa số người Mỹ trở thành nạn nhân của kỹ thuật chia rẽ và chinh phục mà giới thượng lưu sử dụng. Mục đích trước mắt phải là tạo ra các công dân có tư duy phê phán, để quần chúng không dễ dàng “chấp nhận những gì họ nghe thấy” mỗi bốn năm từ những bộ mặt xinh đẹp đang tranh cử. Những điều viết dưới đây là một chỉ dẫn cho độc giả để giúp họ đối thoại với bạn bè, hàng xóm, người quen và gia đình, để chống sự tuyên truyền phát xít, phân biệt thường xuyên được áp dụng chống lại các nhóm bất lợi ở Hoa Kỳ.

Ở đây, tôi tập trung vào các mẫu rập khuôn chống phúc lợi được các ứng cử viên chủ chốt của năm nay sử dụng. Donald Trump và Tech Cruz, bên cạnh đó là Hillary Clinton, dựa vào các mẫu rập khuôn cũ kỹ, bôi nhọ người nghèo nhằm cắt giảm chi tiêu phúc lợi xã hội. Hình mẫu của Clinton bắt nguồn từ những năm 1990, khi bà ta và chồng thành công với Luật Điều Hòa Trách Nhiệm Cá Nhân và Cơ Hội Nghề Nghiệp (PRWORA), xóa bỏ chương trình trợ cấp của chính quyền quốc gia cho các gia đình có trẻ em phụ thuộc (một sáng kiến chống nghèo khổ thành công bắt nguồn từ Đại Khủng Hoảng). Sự ủng hộ của Clinton đối với PRWORA được biện minh bằng giả định là người nghèo tìm cách hưởng lợi miễn phí từ hệ thống phúc lợi và từ chối làm việc, so với hầu hết người Mỹ đang kiếm sống bằng cách làm việc chăm chỉ và hy sinh.

Cruz và Trump tiếp tục sự đả kích của Clinton đối với người nghèo. Cruz đả kích chương trình phiếu thực phẩm (Chương Trình Hỗ Trợ Dinh Dưỡng Bổ Sung,hay SNAP) cho “hàng triệu người mắc kẹt trong sự phụ thuộc dài hạn”, đồng thời Trump lên án các chương trình phúc lợi tạo ra “phần thưởng” cho bộ phận người nghèo “không làm việc”. Trump nhắc lại phát biểu cũ của Romney trong cuộc tranh cử tổng thống năm 2012, cho rằng “chúng ta có một xã hội ăn không ngồi rồi. 50% không thể cáng đáng, và thật bất công đối với họ, nhưng không thể cáng đáng cả 50% còn lại.”

Từ lâu tôi đã thất vọng về “kiến thức phổ thông” liên quan tới các chương trình phúc lợi của Hoa Kỳ. Nhiều người bảo thủ mà tôi biết chấp nhận “kiến thức” này chỉ bởi vì họ nghe được từ bố mẹ, bạn bè và giới thượng lưu chính trị, mà không hề xem xét các bằng chứng thực tế. Sự rối loạn nhận thức là vấn đề chủ chốt, công dân ngày càng bám chặt lấy niềm tin của họ khi đối mặt với các bằng chứng hiển nhiên phủ nhận những định kiến có sẵn của họ. 

Về mặt lịch sử thì Hoa Kỳ là nước ít giảm thuế và chi tiêu cho tất cả các loại chương trình xã hội nhất trong số các quốc gia giàu có, mặc dù người ta sẽ khó có thể biết được điều này khi xem truyền thông đại chúng và bình luận chính trị. Thế còn bao nhiêu khẳng định chống phúc lợi được đưa ra trong các bài diễn văn ở Hoa Kỳ thì sao? Tôi sẽ liệt kê chúng ở dưới, giúp các bạn thấy rằng hầu hết những gì mà giới thượng lưu chính trị nói với bạn về người hưởng phúc lợi đều sai.

Huyền thoại “người hưởng phúc lợi lái xe Cadillac và ăn tôm hùm” 

Những khẳng định này phổ biến từ thời Reagan. Chúng ta được nghe rằng, những người hưởng phúc lợi đã khéo léo thao túng hệ thống và có nhiều tiền tới mức họ có thể đi xe Cadillac Escalades cũng như mua bít tết và tôm hùm, trong khi người lao động Mỹ bình thường phải nỗ lực và tránh những chi tiêu xa hoa. 

Trên thực tế, hầu hết người nghèo Mỹ đều nỗ lực để được ăn tốt hơn và có được phương tiện đi lại cơ bản. Liên quan đến tiêu thụ thực phẩm, mối liên hệ mạnh giữa nghèo khổ và béo phì ở Hoa Kỳ đã được biết rõ, người nghèo Mỹ không đủ khả năng mua các thức phẩm lành mạnh như trái cây và rau cỏ. Để so sánh, thực phẩm chế biến sẵn, thường xuyên là các sản phẩm làm từ ngô được trợ cấp của chính quyền, rất rẻ và được người nghèo tiêu thụ nhiều. Theo dữ liệu gần đây của American Journal of Clinical Nutrition, 1 dollar có thể mua 1.200 calorie của khoai tây chiên hoặc 875 calorie của soda, nhưng chỉ mua được 250 calorie của rau cỏ hoặc 170 calorie của hoa quả tươi. Cũng cần phải thấy là những bang nghèo nhất của Hoa Kỳ là những bang có nhiều người béo phì nhất. Theo bản tin của CNN, “5 bang nghèo nhất cũng nằm trong số 10 bang có nhiều người béo nhất, 8 trong số 10 bang nghèo nhất cũng nằm trong số 10 bang có tuổi thọ thấp nhất.” Ở Hoa Kỳ, số người trung bình trong một gia đình thuộc nhóm 20% nghèo nhất theo phân phối thu nhập chỉ nhận được 3,33 dollar một ngày từ chương trình SNAP để chi trả cho thực phẩm. Sự trợ cấp nghèo nàn này có nghĩa là người nghèo Mỹ bị buộc phải “co kéo chi tiêu”, thường xuyên sử dụng thực phẩm giá rẻ, nhiều muối và chất béo.

Về phương tiện đi lại, người hưởng phúc lợi hiếm khi phù hợp với định nghĩa giàu có của giới thượng lưu đi xe Cadillac. Người ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy người hưởng phúc lợi xã hội vẫn tiếp tục lái chiếc xe trông có vẻ đắt đỏ còn lại từ trước khi họ mất việc. Nhiều người Mỹ đã rớt nhanh từ sự giàu có xuống thất nghiệp sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008. Nhìn chung, người hưởng phúc lợi ít sở hữu xe hơi hơn những người không hưởng phúc lợi. Trong khi chỉ có 3% số hộ gia đình không hưởng phúc lợi không có xe hơi thì số lượng những người hưởng phúc lợi không có xe hơi chiếm gần một phần tư. Hộ gia đình trung bình hưởng phúc lợi xã hội có một xe hơi trong khi hộ gia đình trung bình không hưởng phúc lợi xã hội sở hữu hai chiếc. 

Các nghiên cứu trước đây cho biết đi lại là vấn đề của người hưởng phúc lợi xã hội. Ví dụ, một nghiên cứu của Minnesota cho biết 85% số người hưởng phúc lợi xã hội của bang coi đi lại là “vấn đề lớn” hoặc “một dạng vấn đề” khi muốn giữ việc làm. Các nghiên cứu ở Illinois và New Jersey cho biết khoảng ¼ số cư dân của bang nói vấn đề đi lại cản trở khả năng làm việc của họ. Số lượng còn cao hơn trong các nghiên cứu của Missouri và Utah, 57% và 55% số người nói rằng đi là “rào cản đối với việc làm”. Thực trạng của việc làm ở Hoa Kỳ là chúng ta có nền văn hóa lấy xe hơi làm trung tâm. Để nắm lấy một cơ hội việc làm, người ta cần có tiền cho việc đi lại. Nhiều người nghèo Mỹ đã cảm thấy sự khó khăn trong nền văn hóa xe hơi này, hoặc là không thể mua một chiếc xe hơi, hoặc là khó giữ được một chiếc xe hơi cũ kỹ. 

Huyền thoại “họ không muốn làm việc và chưa bao giờ có việc làm” 

Nhiều bạn bè, gia đình và sinh viên nói chuyện với tôi đã mặc định trong nhiều năm là phúc lợi xã hội hào phóng tới mức những người hưởng chúng không cần phải làm việc. Sự mặc định đó có thể phủ nhận bằng nhiều lý do. Thứ nhất, nếu người ta xem xét những người hưởng phúc lợi từ chương trình phúc lợi chính của nhà nước ở Hoa Kỳ - Hỗ Trợ Tạm Thời Cho Các Gia Đình Khẩn Cấp (TANF) – điều kiện về việc làm là ít nhất 30 giờ mỗi tuần cho mỗi người, hoặc 50 giờ làm việc mỗi tuần cho cả đôi, để được nhận phúc lợi. Hơn nữa, những phúc lợi này chỉ giới hạn trong 5 năm (ít hơn ở một số bang). Nói tóm lại, những người hưởng TANF không có cách nào tránh làm việc bởi tính chất cực kỳ ngắn hạn của chương trình này, cùng với các điều kiện về việc làm gắn liền trong đó. Người hưởng TANF trung bình của gia đình 3 người trong số 20% nghèo nhất Hoa Kỳ nhận được phúc lợi trung bình 42 dollar/tháng, khó có thể đủ để không phải làm việc. Sự cáo buộc rằng người nghèo được hưởng phúc lợi dồi dào tới mức họ không cần làm việc là luận điệu tuyên truyền ngớ ngẩn, ngây thơ và không có bằng chứng. Hai phần ba số người hưởng TANF tham gia chương trình ít hơn 1 năm và thời gian trung bình tham gia chương trình của người nhận phiếu thực phẩm và Mediaid là từ 1 đến 3 năm.

Huyền thoại “phúc lợi khiến người nghèo trở nên lười biếng” 

Các thống kê mới đây về người hưởng phúc lợi xã hội cho thấy đại đa số người được chia theo các nhóm nhân khẩu học cần sự trợ giúp của liên bang hay bang vì nhiều lý do rõ ràng. Đại đa số người hưởng phúc lợi không phải là những người có thể từ chối làm việc. Hơn 90% số người hưởng phúc lợi xã hội nằm trong ba nhóm sau đây. Họ là A. đang làm việc và thu nhập thấp đến mức được xếp vào nhóm “người nghèo có việc làm” và đủ điều kiện nhận trợ cấp xã hội; B. tàn phế và không có khả năng thực hiện các hoạt động nghề nghiệp như những người khỏe mạnh; hoặc C. người già và có thu nhập cố định từ lương hưu dựa trên phúc lợi 401K, An Sinh Xã Hội và các phúc lợi khác. Đại đa số những người thuộc nhóm thứ ba đã làm việc suốt thời trẻ, thế nên khẳng định về sự lười biếng là không đúng. 

Huyền thoại “họ muốn có nhiều con cái để hưởng thêm phúc lợi” 

Một trong những huyền thoại thô tục nhất chống lại những người hưởng phúc lợi xã hội là họ có nhiều con cái, để gia tăng phúc lợi và không phải làm việc. Tôi biết rất nhiều người hưởng phúc lợi (và bản thân cũng từng hưởng phúc lợi), tôi chưa từng gặp bất kỳ ai trong suốt cuộc đời mình giống như định nghĩa đó. Tuy vậy, những người phản đối phúc lợi xã hội mà tôi biết gần như là thường xuyên lặp đi lặp lại khẳng định này. Khi xem xét kỹ lưỡng về quy mô gia đình theo thu nhập, người ta có thể thấy là có ít bằng chứng về việc người nghèo Mỹ có gia đình lớn hơn. Quy mô hộ gia đình trung vị ở Hoa Kỳ là 2,54 người. 

Dữ liệu cho thấy quy mô hộ gia đình lớn hơn phổ biến nhất trong nhóm gia đình có thu nhập cao hơn, ba nhóm với tỷ lệ lớn nhất của gia đình có nhiều hơn ba người thuộc về phần có thu nhập cao nhất. Những người kiếm được ít hơn 10.000 dollar/năm là nhóm lớn thứ tư có gia đình nhiều hơn ba người, nhưng ba nhóm có số gia đình nhiều hơn ba người nhỏ nhất nằm dưới gia đình có thu nhập trung vị quốc gia 50.000 dollar. Nói tóm lại, bằng chứng ở đây cho thấy hầu hết các cá nhân với thu nhập thấp thực sự có gia đình nhỏ hơn những người có thu nhập cao và các gia đình hưởng phúc lợi xã hội không lớn hơn gia đình không hưởng phúc lợi xã hội trung bình.

Huyền thoại “phúc lợi xã hội hào phóng nên người nghèo đã trở nên giàu có” 

Huyền thoại này quá ngớ ngẩn để thảo luận, hãy xem xét khoảng cách giữa hình tượng nữ hoàng hưởng phúc lợi lái xe Cadillac và hiện thực của người hưởng phúc lợi xã hội đang sống trong nghèo khổ. Tuy vậy, những người ủng hộ các giá trị chính trị phản động rất hay lặp lại điều này. Để điều chỉnh lại sự lệch lạc này, cần phải xem xét các thống kê sau đây. 1. Đại đa số gia đình hưởng phúc lợi – 75% - là người thuê nhà, không phải là chủ nhà. Trái lại, hơn 75% số gia đình không hưởng phúc lợi sở hữu nhà. 2. Thu nhập trung bình của những người thuộc nhóm 20% dưới cùng theo thu nhập – những người hầu như phải nhận phúc lợi – là khá thấp. Thu nhập của họ một phần thuộc về người nghèo có việc làm chỉ là 11.490 dollar/năm vào năm 2012, theo Cục Thống Kê Hoa Kỳ. Thu nhập ít ỏi của họ được bổ sung bằng phúc lợi xã hội, mặc dù những phúc lợi này cũng ít ỏi. Theo Cục Thống Kê, gia đình ba người trong nhóm 20% nghèo nhất theo thu nhập, hưởng phúc lợi từ 10 chương trình phúc lợi lớn nhất, bao gồm Medicaid, Phụ Nữ và Trẻ Em Sơ Sinh, trợ cấp nhà ở công cộng, phiếu thực phẩm, TANF, bảo hiểm y tế trẻ em nhà nước, tín dụng Thuế Thu Nhập Nhận Được, tín dụng thuế trẻ em, trợ cấp bảo hiểm y tế “Obamacare” và khấu trừ thuế phụ thuộc, trung bình chỉ là 9.000 dollar/năm, hay 3.000 dollar mỗi người. Đối với hộ gia đình ba người trong nhóm 20% thu nhập thấp nhất, tổng cộng thu nhập và phúc lợi tạo ra thu nhập bình quân chỉ là 20.490 dollar/năm. Đây là một thắng lợi vang dội của tuyền truyền về việc hộ gia đình ba người với thu nhập thấp nhờ vào phúc lợi xã hội có thể trở thành một phần của giới thượng lưu Hoa Kỳ.

Huyền thoại “người hưởng phúc lợi nghiện ngập hơn là làm việc” 

Huyền thoại này cần phải bác bỏ vĩnh viễn dựa trên dữ liệu hiện thời về việc sử dụng chất gây nghiện của người hưởng phúc lợi. Khi Tennessee bắt buộc người hưởng phúc lợi xã hội phải kiểm tra chất gây nghiện, nhiều người cho rằng điều đó là một bước tiến lớn trong trách nhiệm của chính quyền. Trái lại, việc kiểm tra cho thấy sự sử dụng chất gây nghiện của người hưởng phúc lợi xã hội là không tồn tại, theo số liệu thống kê. Chỉ có 800 người hưởng phúc lợi xã hội có kết quả dương tính đối với chất gây nghiện, hoặc 1% tổng số người hưởng phúc lợi. Các bang khác, trong đó có Arizona, Kansas, Missouri, Mississippi, Oklahoma, và Utah cũng áp dụng việc kiểm tra chất gây nghiện. Việc kiểm tra ở các bang này cho biết tỷ lệ dương tính đối với chất gây nghiện trung bình là từ 2 đến 8,4% số người hưởng phúc lợi xã hội, trái ngược với các khảo sát cho thấy tỷ lệ sử dụng chất gây nghiện của quốc gia là 9,4%. Các quan chức bảo thủ khẳng định rằng kiểm tra chất gây nghiện sẽ tiết kiệm cho quốc gia hàng đống tiền nhờ tống cổ hàng sa số những kẻ nghiện ngập ra khỏi chương trình phúc lợi. Nhưng việc bôi nhọ người hưởng phúc lợi xã hội như là những kẻ nghiện ngập là hoàn toàn dối trá.

Nhiều người Mỹ sẽ từ chối xem xét lại sự thù ghét người nghèo bắt nguồn từ sự tiếp nhận thông tin sai lệch của họ. Điều đó đã ăn quá sâu vào tâm lý và cá tính của họ để có thể loại bỏ. Nhưng với tư cách những người tiến bộ, chúng ta có trách nhiệm lật tẩy những điều đó trong kỳ bầu cử này bất cứ khi nào chúng ta có thể, bất kể là từ nguồn nào. Đối với những người dựa vào trợ cấp của chính quyền bị giới thượng lưu chính trị bôi nhọ để theo đuổi nghị trình giai cấp thượng lưu hẹp hòi, sự rủi ro là rất lớn.

Đối với các độc giả quan tâm, dữ liệu trong bài báo này được trích dẫn từ các nguồn sau

Arloc Sherman, Robert Greenstein, and Kathy Ruffing, “Contrary to ‘Entitlement Society’ Rhetoric, Over Nine-Tenths of Entitlement Benefits Go to Elderly, Disabled, or Working Households,” Center on Budget and Policy Priorities, February 11, 2012, 

Bryce Covert, “Your Assumptions About Welfare Recipients are Wrong,” Think Progress, December 18, 2013, http://thinkprogress.org/economy/2013/12/18/3081791/welfare-recipient-spending/

Tax Policy Center, “Household Income Quintiles, 2000-2012,” June 25, 2014,

LZ Granderson, “Poor and Fat: The Real Class War,” com, June 8, 2012,

Glenn Kessler, “A Misleading Chart on Welfare Spending,”Washington Post, February 21, 2013,

Pew Research Center, “January 2014 Political Survey,” January 15, 2014, 

Bryce Covert and Josh Israel, “What 7 States Discovered After Spending More Than $1 Million Drug Testing Welfare Recipients,”Think Progress, February 26, 2015,

Heidi Goldberg, “State and County Supported Car Ownership Programs Can Help Low-Income Families Secure and Keep Jobs,”Center on Budget and Policy Priorities, November 28, 2001, http://www.cbpp.org/archives/11-8-01wel.htm

Darlena Cunha, “Why Drug Testing Welfare Recipients is a Waste of Taxpayer Money,” Time Magazine, August 15, 2014,

Arthur Delaney, “How Long Do People Stay on Public Benefits?” Huffington Post, May 29, 2015,

Anthony DiMaggio là tiến sĩ khoa học chính trị của trường đại học Illinois, Chicago. Ông giảng dạy ở nhiều trường cao đẳng và đại học, cũng như viết nhiều sách, trong đó có các cuốn Mass Media, Mass Propaganda (2009), When Media Goes to War (2010), Crashing the Tea Party (2011), và The Rise of the Tea Party (2011). Có thể liên hệ với ông qua thư điện tử: anthonydimaggio612@gmail.com

Tuesday, March 8, 2016

Cách người giàu lấy tiền của người nghèo ở Hoa Kỳ

Qua bài 'Reverse Robin Hood: Six Billion Dollar Businesses Preying on Poor People' của Bill Quigley, chúng ta có thể thấy cách mà chế độ tư bản bóp nặn từng đồng xu nhỏ của người nghèo mà không cần đến bạo lực, chỉ cần quan hệ mua bán bình thường. 

Robin Hood đảo ngược: Sáu hoạt động kinh doanh trị giá hàng tỷ dollar kiếm tiền trên lưng người nghèo.

Nhiều người thấy những gia đình nghèo khổ và tìm cách giúp đỡ. Những người thấy những gia đình nghèo khổ và thấy cơ hội kiếm lợi.

Đây là sáu ví dụ về cách ngành công nghiệp tỷ dollar được xây dựng trên lưng những người nghèo đơn độc, nhất là người da màu, từ tiền của họ, một dạng Robin Hood đảo ngược.

Dịch vụ đổi séc ra tiền mặt 

Dịch vụ đổi séc ra tiền mặt. Đổi tờ séc 100 dollar? Ở Walmart sẽ có giá là 3 dollar. Tại ngân hàng TD, một người không phải là khách hàng sẽ phải trả 5 dollar để đổi séc ra tiền mặt. 

Gần 10 triệu hộ gia đình với 25 triệu người dân không có bất kỳ tài khoản ngân hàng nào theo thống kê của FDIC. Hầu hết là bởi vì họ không có đủ tiền để duy trì số dư tối thiểu trong tài khoản. Dịch vụ đổi séc ra tiền mặt là một phần của ngành công nghiệp trị giá 100 tỷ dollar với hơn 6.500 cơ sở đổi séc ra tiền mặt ở Hoa Kỳ, nhiều trong số đó cũng cung cấp dịch vụ chuyển tiền, thanh toán hóa đơn dịch vụ công cộng và tương tự, theo lời khai trước Quốc Hội của ngành này. 

Các cửa hàng cầm đồ 

Hơn 30 triệu người sử dụng dịch vụ cho vay của các cửa hàng cầm đồ cho khoản vay trung bình 150 dollar. Một doanh nghiệp, Cash America, có 84 trung tâm đổi séc ra tiền mặt và 859 điểm cho vay ở Hoa Kỳ, hơn 260 chỉ riêng ở Texas, kiểm soát hơn 1 tỷ dollar nợ cầm đồ. Trong báo cáo thường niên năm 2014, họ cho biết có 30% số người không bao giờ quay lại để chuộc đồ đã cầm cố và việc bán những đồ vật đó mang lại hơn một nửa doanh thu của công ty. Công ty trả hàng triệu dollar tiền phạt trong năm 2013 vì tính phí quá cao đối với nhân viên quân sự và kiện vô lý hàng ngàn vụ án. Giám đốc điều hành của công ty nhận được 6 triệu dollar vào năm 2014.

Phí vượt hạn mức 

Phí vượt hạn mức, khi không có đủ tiền trong tài khoản giao dịch hoặc thẻ tín dụng để thanh toán, là ngành công nghiệp trị giá 11 tỷ dollar đối với ngân hàng, theo thống kê của Cục Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Tài Chính. Một bài báo của tờ New York Times giải thích cách ngân hàng tính phí vượt hạn mức ngay cả khi khách hàng có đủ tiền để thanh toán và bị buộc phải trả hơn một tỷ dollar cho việc thao túng cách lệnh mua hàng để tối đa hóa cơ hội tính phí phụ trội cho khách hàng. 

Vay nóng 

Vay nóng được người dân sử dụng hơn 15 triệu lần mỗi năm và có thể dẫn đến sự nợ nần chồng chất cũng như lãi suất khủng khiếp lên đến 391% theo Cục Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Tài Chính. Pew Charitable Trusts cho biết vay nóng là ngành công nghiệp đem lại 7 tỷ dollar mỗi năm. Ủy Ban Thương Mại Liên Bang đã thắng một vụ kiện trị giá 300 triệu dollar chống lại hai công ty cho vay nóng đã lừa dối người vay tiền, ví dụ vay 300 dollar và nghĩ rằng sẽ trả lại 390 dollar nhưng thực tế là phải trả 975 dollar cho khoản vay 300 dollar. Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ cáo buộc cựu vận động viên đua xe Scott Tucker về tội hình sự trong việc điều hành một đường dây cho vay nóng quốc gia trị giá 2 tỷ dollar thường xuyên tính lãi suất từ 400 đến 700% mỗi năm đối với hơn 4,5 triệu người. Công ty cho vay nóng lớn nhất quốc gia, Advanced America, đã tính lãi suất hơn 450% đối với gần 140.000 người ở Bắc Carolina cho đến khi nhà nước ngăn họ lại.

Vay cầm cố xe hơi 

Hơn hai triệu người sử dụng vay cầm cố xe mỗi năm, trả khoảng 3 tỷ dollar tiền phí mỗi năm, với lãi suất hàng năm lên đến 300%, theo Pew Charitable Trusts. Trung Tâm Vay Nợ Có Trách Nhiệm ước lượng có hơn 7000 doanh nghiệp cho vay thế chấp bằng xe hơi, thường tính lãi suất thường niên lên đến 300%, mặc dù họ quảng cáo chỉ 25% mỗi tháng. Người vay trung bình vay 951 dollar và thanh toán 3.093 dollar.

Thu nợ 

Thu nợ là ngành công nghiệp đem lại 13 tỷ dollar mỗi năm, thu dụng hơn 140.000 nhân công với 6.000 công ty, theo Cục Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Tài Chính.

Những người thu nợ tạo ra hơn 1 tỷ (phải một tỷ) liên lạc với khách hàng mỗi năm, theo tờ tin tức của ngành. 12 triệu người (5,3% số người tiêu dùng) ít nhất đã quá hạn thanh toán 30 ngày, theo to Viện Đô Thị. 35% số người trưởng thành với hồ sơ tín dụng, 77 triệu người, có nợ phải thu được ghi trong hồ sơ của họ. Tờ Pro Publica đánh giá 5 năm các bản án của tòa án và cho biết tỷ lệ kết án cao gấp hai lần ở các khu hầu hết là người da màu so với khu hầu hết là người da trắng. 

Cục Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Tài Chính có hơn 74.000 khiếu nại về việc thu nợ không hợp lý, loại khiếu nại hàng đầu của họ, theo báo cáo mới đây của Liên Minh Vì Xã Hội Công Bằng

Không chỉ có các doanh nghiệp nhỏ mà những tên tuổi lớn như Citigroup, Capital One, JPMorgan Chase, Bank of America và Wells Fargo cũng dính líu, trên thực tế Liên Minh Vì Xã Hội Công Bằng đưa tin các doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực thu nợ đã đóng góp gần 100 triệu dollar cho các ứng cử viên liên bang và đảng phái kể từ năm 2001 và chi 208 triệu dollar cho các nhà vận động chính sách liên bang.

Citibank bị CFPB kiện lần thứ hai vì làm sai lệch hồ sơ và cung cấp thông tin không chính xác trong việc thu nợ và đồng ý dàn xếp vụ án. 

Người thu nợ với the số lượng khiếu nại lớn nhất, Encore Capital Group chuyên mua nợ từ các chủ nợ khác sau đó tiến hành hàng trăm ngàn vụ kiện đã bị buộc phải hủy bỏ hơn 4.500 bản án chống lại người vay ở New York sau khi công ty bị cáo buộc đưa ra các vụ kiện giả mạo. 

JPMorgan Chase phải trả hơn 130 triệu dollar để dàn xếp một vụ án mà công ty bị tổng chưởng lý của 47 bang đưa ra tòa vì thu nợ bất hợp lý với cái được gọi là ký tắt, các văn bản pháp lý được chấp nhận và đệ trình mà không xem xét cẩn trọng. JPMorgan đã sớm trả 389 tiền phạt và hoàn tiền cho các chủ thẻ tín dụng vì vấn đề thu nợ.

Kết luận


Đây là một số tin tức mới. phe Dân Chủ đã soạn thảo và thông qua luật Cục Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Tài Chính, đang bắt đầu thu hút được một số sự chú ý trong việc theo dõi và điều tiết các hoạt động săn đuổi lợi nhuận này. Tin tức xấu là phe Cộng Hòa như Ted Cruz đang cố gắng hủy bỏ cục và một số người thuộc phe Dân Chủ cũng cố gắng làm cục vô dụng. Cũng có một số nhóm tốt như Trung Tâm Vay Nợ Có Trách nhiệm, họ cung cấp thông tin tuyệt vời về sự lạm dụng. Nhưng vào lúc này, việc kiếm tiền từ người nghèo vẫn là ngành kinh doanh thịnh vượng.

Bill Quigley dạy luật tại đại học Loyola, New Orleans và có thể liên lạc với ông qua quigley77@gmail.com.

Thursday, March 3, 2016

Bảo vệ Philippine: Hãy học Việt Nam!

Trước khi sự kiện Trung Quốc xâm lấn đảo mà Philippine đang chiếm giữ trên quần đảo Trường Sa diễn ra khoảng hơn 1 tháng, tờ Thời Báo Manila đã có đăng bài viết của nhà báo Ricardo Saludo cảnh báo sự phụ thuộc của Philippine vào Mỹ trong vấn đề quốc phòng. Ông cho rằng chiến lược quốc phòng của Philippine cần phải làm ngược lại chiến lược hiện nay, tức là giảm sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ ở Philippine để không khiêu khích Trung Quốc, nhất là sự có mặt của vũ khí hạt nhân, đồng thời gia tăng chi tiêu cho các loại vũ khí phòng thủ mang tính răn đe cao để làm nản lòng Trung Quốc, giống như Việt Nam đã làm. Sự xâm lấn không ngừng của Trung Quốc tại các đảo mà Philippine chiếm giữ, trong đó có nhiều đảo Philippine đã chiếm của Việt Nam từ trước năm 1975, mà Hoa Kỳ hoàn toàn không có động thái can thiệp đã cho thấy sự phá sản của chiến lược trông cậy vào đồng minh lớn. Một lần nữa người Philippine lại nhìn sang bài học độc lập, tự chủ, tự cường của Việt Nam. 

Phần bình luận của độc giả cũng được dịch để bạn đọc có thể biết thêm về dư luận công chúng ở Philippine, điều thú vị là dư luận công chúng ở nước họ cũng có nhiều điểm tương đồng một cách kỳ lạ với dư luận ở Việt Nam.


Ngày 21/1/2016 12:03 chiều 


Philippines có thể có sự bảo vệ bên ngoài mạnh mà không cần có Hiệp Định Hợp Tác Quốc Phòng Nâng Cao (EDCA) gia tăng sự triển khai của quân đội Hoa Kỳ cũng như sự tiếp cận của họ đối với các căn cứ của Philippine? 

Có vài sai lầm trong câu hỏi đó. Ngay cả khi có nhiều thêm quân đội Hoa Kỳ ở Philippine theo hiệp định, họ cũng sẽ không chiến đấu để bảo vệ sự đòi hỏi lãnh thổ của chúng ta, vậy thì tại sao phải viện dẫn đến EDCA? 

Hoa Kỳ đã không bao giờ can thiệp khi Trung Quốc chiếm đá Vành Khăn vào năm 1995 và bãi cạn Cỏ Mây vào năm 2012, tổng tư lệnh Obama đã không có bất cứ phản ứng nào khi sự tranh chấp hàng hải giữa Trung Quốc và Philippine trở nên bạo lực, như các phóng viên của Palace đã hai lần đưa ra câu hỏi vào năm 2014. Ngay cả sự đòi hỏi quy mô lớn của Trung Quốc cũng như việc xây dựng các cơ sở của họ ở Trường Sa, Hoa Kỳ cũng chỉ phản đối bằng miệng và hành động duy nhất đáng để bàn luận là việc tuần tra chung với hải quân Philippine. 

Do đó, EDCA không phải là yếu tố giải quyết vấn đề an ninh bên ngoài tối thượng của quốc gia hiện nay: tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. 

Đối với bản thân quần đảo, không có nguy hiểm tức thời hay trong tương lai gần, ít nhất là trước khi EDCA cho phép thêm các vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ tiến vào quần đảo. Ngay cả khi không có hiệp định mới, theo Hiệp Ước Phòng Thủ Tương Hỗ (MDT) Hoa Kỳ cũng đã cam kết sẽ hành động nếu như lãnh thổ chính hay quân đội của chúng ta bị tấn công.

Nhắc lại: MDT bao quát sự phòng thủ của Hoa Kỳ đối với lãnh thổ chính của Philippine, vốn không đối mặt với nguy cơ xâm lược. Nhưng cả MDT và EDCA đều không cam kết là quân đội Hoa Kỳ sẽ chống lại sự xâm lấn của Trung Quốc tại các đảo đá và bãi cạn mà Philippine đang chiếm giữ.

Làm dịu các nguy cơ

Tốt thôi, chúng ta làm cách nào để gia tăng an ninh quốc gia, có hoặc không có EDCA?

Thứ nhất, giảm nhẹ các nguy cơ. Điều này sẽ gia tăng an ninh quốc gia trước khi gia tăng quốc phòng.

Mối đe dọa an ninh hàng đầu hiện nay và sắp tới, đặc biệt là khi có thêm các lực lượng hạt nhân của Hoa Kỳ được triển khai ở quần đảo, là nguy cơ Trung Quốc sẽ tấn công vào lực lượng Hoa Kỳ có khả năng dùng vũ khí hạt nhân chống lại họ, cùng với các căn cứ và cơ sở hỗ trợ Hoa Kỳ.

Đừng tin bất cứ ai nói rằng Trung Quốc, đối mặt với sự tấn công hạt nhân từ các căn cứ của Hoa Kỳ ở Philippine, sẽ không vô hiệu hóa các lực lượng này, ngay cả khi phải gây thiệt hại liên đới lớn đối với nước ta, ngay cả khi điều đó châm ngòi cho cuộc chiến tranh nhiệt hạch. 

Hồi năm 1962, khi Nga cố đưa các tên lửa vào Cuba sau khi các đầu đạn của Hoa Kỳ được đặt ở Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ đã sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh tổng lực, tên lửa đạn đạo và máy bay ném bom đều sẵn sàng chiến đấu. May mắn là cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba đã kết thúc sau khi cả Moscow và Washington đều rút tên lửa về. 

Đừng hoài nghi về điều này: Trung Quốc cũng sẽ tham chiến nếu bị đe dọa bằng vũ khí hạt nhân.

Do vậy, bước quan trọng nhất để nâng cao an ninh của Philippine là đảm bảo rằng không có vũ khí hạt nhân được đưa vào lãnh thổ của chúng ta, như hiến pháp đã cấm và phán quyết của tòa án tối cao về EDCA đã lặp lại.

Điều này có nghĩa là thúc ép chính quyền yêu cầu Hoa Kỳ đảm bảo rằng không có tàu chiến hay máy bay nào mang vũ khí hạt nhân tiến vào quần đảo, như bài báo hôm thứ ba đã thúc giục (xem http://www.manilatimes.net/how-to-stop-the-edca/240157/ ).

Nguy cơ đe dọa an ninh số 2, một phần là bị kích động bởi EDCA, là Bắc Kinh gia tăng xây dựng các cơ sơ năng lực quân sự không quân và hải quân trên các đảo tranh chấp ở Trường Sa. Để chống lại nguy cơ này, chúng ta cần thuyết phục Trung Quốc dùng các cơ sở này chủ yếu cho mục đích dân sự và ngừng xây thêm.

Đúng vậy, nhiều người sẽ cười khúc khích. Trên thực tế, đây là điều mà Bắc Kinh muốn và họ có thể sẵn sàng phi quân sự hóa đá Chữ Thập. Để đổi lấy sự cắt giảm triển khai quân đội Hoa Kỳ ở Philippine, người Trung Quốc có thể đồng ý kiềm chế sự gia tăng quân sự của họ trên biển Nam Trung Hoa.

Quân sự hóa phần lớn là để bảo vệ tuyến đường hàng hải sống còn, nơi có 4/5 lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc đi qua. Nếu như sự gia tăng quân sự của Hoa Kỳ ở Philppine được kiềm chế, Trung Quốc sẽ ít có lý do gia tăng triển khai lực lượng của họ ở gần quần đảo.

Bắc Kinh có sẵn sàng cắt giảm hoạt động quân sự ở đá Chữ Thập để đổi lấy sự cắt giảm quân đội Hoa Kỳ ở nước ta?

Tại sao không? Sự lựa chọn của Trung Quốc là việc gia tăng quân sự biển sâu đầy đắt đỏ và bị quốc tế phản đối, có thể kéo dài nhiều năm và tiêu tốn hàng chục tỷ nhân dân tệ để bắt kịp hạm đội 7, với sự hậu thuẫn của 8 căn cứ ở Philippine.

Không có gì là phức tạp đối với Bắc Kinh: biến đá Chữ Thập thành cơ sơ du lịch và hàng hải quốc tế, cắt giảm mạnh quân đội của Hoa Kỳ ở Philippine là tạo điều kiện cho điều đó. 

Thực hiện quyền phòng vệ

Dĩ nhiên, vấn đề của những nỗ lực làm dịu nguy cơ là Trung Quốc có thể tiếp tục xâm lấn và thậm chí coi những sáng kiến hòa giải là dấu hiệu của sự yếu đuối cần khai thác.

Do vậy, bên cạng việc làm dịu nguy cơ, Philippine cần phải tiếp tục gia tăng quốc phòng – nhưng không phải theo cách Hoa Kỳ và các đồng minh khác đang giúp chúng ta thực hiện.

Đất nước này đã chi hơn 30 tỷ pesos vào máy bay huấn luyện của Hàn Quốc, máy bay trực thăng tân trang của Hoa Kỳ và các trang bị khác. Chúng ta cũng nhận được hai tàu cảnh sát biển Hoa Kỳ, tàu tuần tra Nhật Bản và trang bị của Australia.

Tuy vậy, tất cả các trang thiết bị đó sẽ không làm nản lòng Trung Quốc. Trái lại, như các chuyên gia quân sự Hoa Kỳ đã nói, chúng ta cần các vũ khí chống xâm nhập, phong tỏa khu vực (A2AD), làm nản lòng mọi đối thủ tại nơi hệ thống vũ khí A2AD được triển khai. 

Hãy học hỏi Việt Nam: họ mua tàu ngầm và tên lửa diệt hạm. Tàu ngầm đe dọa một khu vực rộng lớn vượt xa vị trí thực tế của chúng, do chúng khó bị phát hiện và có thể ở bất cứ đâu trong phạm vi hoạt động.

Trong khi đó, tên lửa diệt hạm siêu thanh có thể đánh chìm mọi thứ trong tầm bắn. Tầm bắn 300 km của đầu đạn Ấn-Nga BrahMos – đủ để bao quát hầu hết khu vực đặc quyền kinh tế của đất nước. Việt Nam đã có lợi thế khi mua chúng.

Cựu cố vấn an ninh quốc gia và tốt nghiệp học viện hải quân Hoa Kỳ Rolio Golez đã thúc giục triển khai 200 BrahMos, có thể lắp 3 đầu đạn trên một xe tải và di chuyển tới bất cứ đâu, khiến chúng khó bị phát hiện.

Chỉ riêng 200 tên lửa cũng tạo ra một sự răn đe đáng kể, chỉ với khoảng 35 tỷ pesos, bao gồm cả cơ sở hạ tầng hỗ trợ và huấn luyện vận hành. Quốc hội có thể phân bổ một phần tiền thuê mỏ khí đốt Malampaya, hiện giờ khoảng 150 tỷ pesos, cho các tên lửa – một dự án liên quan có đến năng lượng để bảo vệ các nguồn khí đốt và dầu ngoài khơi.

Thay vì EDCA, công thức cho sự phòng thủ bên ngoài của Philippine nên là RT-A2AD. Giảm thiểu các nguy cơ (RT) và triển khai hệ thống vũ khí chống xâm nhập, phong tỏa khu vực (A2AD). Cộng thêm NN: Không vũ khí hạt nhân.

11 Hồi đáp cho bài báo Bảo Vệ Philppine

1. fgood nói: 

Tôi cho rằng tổng thống tiền nhiệm của Philippine đều biển thủ tiền. Các binh lính khốn khổ của Philippine đều bị lừa bịp và khó mà nhận ra rằng không quân chỉ là máy bay huấn luyện, luôn luôn huấn luyện. Hải quân chỉ có một chiếc tàu cũ nát và quân đội của chúng ta chỉ có trang thiết bị lỗi thời. AFP tốt trong cuộc chiến tranh 1945 nhưng hiện nay họ chỉ là những con vịt què, mọi thứ đều là công nghệ cao. Tôi cảm thấy thật tồi tệ khi họ có trái tim của chiến binh nhưng ông chủ của họ lại lừa dối họ.

2. Mariano Patalinjug nói: 

Yonkers, New York
22 January 2016
Nhà báo Ricardo Saludo đã bỏ thời gian và nỗ lực để cân đo tác động chiến lược của EDCA – và quan điểm của ông đáng được các thiết chế quốc phòng và chính trị của quốc gia nghiên cứu một cách nghiêm túc.

Tuy vậy, chiến lược bao trùm và sự thật địa chính trị là Trung Quốc và Hoa Kỳ đang bắt tay nhau trong một nỗ lực thống trị vùng biển quốc tế ở biển Nam Trung Hoa (SCS), tại đó có khoảng 5 nghìn tỷ thương mại hàng hải đi qua hàng năm, trong đó phần nhiều là dầu từ Trung Đông – cũng là khu vực mà Trung Quốc đã 1] tự ý áp đặt một đường được gọi là “Chín Đoạn, bao phủ hầu như toàn bộ SCS và tiến xa về phía Nam sát với Indonesia và 2] đào xới bất hợp pháp các cấu trúc hàng hải ở biển Tây Philippine mà Philippine khẳng định một cách đúng đắn là một phần lãnh thổ của mình theo Luật Quốc Tế [UNCLOS].

Điều đã xảy ra là Hoa Kỳ, hết lần này tới lần khác trong thời gian gần đây, đã tuyên bố cho toàn thế giới là HỌ CÓ LỢI ÍCH QUỐC GIA TRONG VIỆC GIỮ TUYẾN ĐƯỜNG BIỂN ĐANG BỊ TRANH CHẤP, VỐN LÀ VÙNG BIỂN QUỐC TẾ, Ở BIỂN NAM TRUNG HOA, HOÀN TOÀN MỞ CỬA.

Do vậy, vấn đề địa chính trị giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ hiện nay là vấn đề chung. Đó là bối cảnh địa chính trị của EDCA: EDCA, trong chừng mực mà Philippine và Hoa Kỳ quan tâm, chỉ là sự triển khai logic của MDT và VFA.

Hoa Kỳ, rõ ràng là đang thực hiện mọi chuẩn bị cần thiết cho việc ngả bài với Trung Quốc về biển Nam Trung Hoa, đã sẵn sàng đóng quân và mọi loại trang thiết bị quân sự và hải quân ở các căn cứ của Philippine, cận kề tối đa với mặt trận tiềm tàng – một lợi thế rất lớn nếu không nói là quyết định đối với Hoa Kỳ. 

Điều đó giải thích lý khiến ngay sau ngày tòa án tối cao phán quyết EDCA HỢP HIẾN, Trung Quốc đã lên án chính quyền bằng những khái niệm không chắc chắn. 

MARIANO PATALINJUG

3. Val Ofreneo nói: 

Hãy thông minh. Về vấn đề kiểm soát tài nguyên như dầu mỏ và vùng đáng bắt cá ư? Trung Quốc đã khởi động căn cứ của họ tại khu vực tranh chấp và họ tuần tra vùng biển cũng như bầu trời và cảnh báo những ai tới gần. Không có lực lượng nào ngăn cản được họ ngoại trừ, có thể là, Nhật Bản. Philippine chúng ta đứng ở đâu? Chúng ta không có năng lực. 

4. Bob Uga says: 

Chúng ta có ít trang thiết bị quốc phòng, bao gồm của RTA2AD và BrahMos. EDCA bao quanh và giúp đơ bởi vì Hoa Kỳ có lợi ích chung với chúng ta – đảm bảo tự do hàng hải trên biển Trung Hoa. Hoa Kỳ sẽ không bao giờ can thiệp vào vấn đề Trường Sa của chúng ta và đó VẤN ĐỀ RIÊNG của Philippine chúng ta.

Sự phòng thủ tốt nhất của chúng ta là THỐNG NHẤT TẤT CẢ NGƯỜI PHILIPPINE để bảo vệ chủ quyền và di sản quốc gia. Chúng ta nên học từ người Việt Nam. RẮC RỐI là người Philippine chúng ta CHIA Rẽ, do vậy, Trung Quốc lợi dụng, trong khi NGƯỜI PHILIPPINE CHÚNG TA đang bận rộn CÃI LỘN LẪN NHAU. Kawawang Pilipinas Kong Mahal và chúng ta phải THỐNG NHẤT ngay hoặc không bao giờ.

5. Andres Soriano says: 

Tôi không đồng ý với tác giả. Trong hiện thực ngày nay, sự sống còn của một quốc gia là nhờ vào các liên minh kinh tế và quân sự. Hãy nhìn Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, NZ, Việt Nam và hầu hết các nước ASEAN, họ xây dựng hoặc củng cố liên minh với Hoa Kỳ. Trung Quốc bị cô lập giữa những nước láng giềng.


Tôi hoàn toàn đồng ý với bình luận của bạn.

6. JRT nói: 

Đề xuất về tên lửa dường như hợp lý nhưng hoàn toàn không đáng tin cậy. Nó rất dễ bị tấn công bởi bất cứ quân đội nào đã có mặt trên đất của chúng ta. Nó cũng có thể bị phát hiện bằng vệ tinh và máy bay do thám. Lựa chọn duy nhất mà tôi thấy có thể răn đe Trung Quốc là việc Bắc Triều Tiên đang làm với kho vũ khí của họ…vũ khí hạt nhân. Phải vũ khí hạt nhân sẽ làm nản lòng mọi quốc gia muốn tấn công một quốc gia có vũ khí hạt nhân. Để làm điều này…chúng ta phải khôi phục chương trình vũ khí hạt nhân, phát triển và đào tạo các nhà khoa học hạt nhân, có chương trình trao đổi với những quốc gia có năng lực về vũ khí hạt nhân. 

7. Thai Anton nói: 

Hai chiến đấu cơ F50 của không quân Indonesia đã rơi, chính là những máy bay mà Philippine mua của Hàn Quốc!!

8. Ed DeCastro nói: 

Đó là vấn đề đối với người Philippine chúng ta. Chúng ta luôn làm ra vẻ rất thông minh với các vấn đề quốc tế và chính trị. Nhưng thực tế, mahilig lang tayong pumuna ng mga ibang tao. Anong kakayahan ng Pilipinas na ilaban sa China. Wala!!! Kinuha na nga ng mga Inksekto ang ibang isla ay ngawa pa rin tayo ngawa na wala naman tayong ginagawa. Chúng ta kiếm đâu ra tiền để mua tàu ngầm, tên lửa diệt hạm và các loại tên lửa khác? Nếu các viên chức chính quyền từ cấp barangays tới quốc gia không trộm cắp tiền ngân sách hay tham nhũng để làm giàu cho bản thân thì chúng ta có đủ khả năng mua chúng. Việt Nam có kỷ luật hơn Philippine. Philippine là đất nước tham nhũng và lên án điều này đối với các chính khách hiện tại cũng như quá khứ như Binay, Enrile, Estrada, Revilla.

Trả lời

OO nga pop. Ano ngayon ang gagawin. Tumahimik na tanggapin ang ating pagkabusabos sa kamay ngt mga Tsino? (Ayaw p nami8n ang bastos na salitang “Intsik”).
O magpakamatayt na lang ba tayong lahat?

9. Virgilio garcias nói:

Tôi cho rằng bài xã luận này là thiên kiến. Nó chỉ đề cập đến năng lực của Trung Quốc trong việc tấn công quân đội Hoa Kỳ trên lãnh thổ của chúng ta.

Thế còn việc tấn công ngăn chặn mà Hoa Kỳ có thể thực hiện đối với quân đội Trung Quốc? Xin ngài tác giả hãy nhớ rằng quân đội và vũ khí Hoa Kỳ hiện đại và tinh vi nhất thế giới.

Trả lời

Đây không phải là xã luận của Manila Times. Đây là bài báo, thưa ngài, của một cây bút cá nhân – không phải đại diện của ban biên tập và điều hành tờ Manila Times. Nhưng ông ấy là người được cả tờ Times cũng như công chúng đánh giá cao.

o Lemuel Dimagiba nói:

Điều gì khiến anh nghĩ rằng Hoa Kỳ sẽ đánh phủ đầu Trung Quốc cho Philippine? Lol. Đừng ngây thơ thế.

Monday, January 25, 2016

Cách thức phương Tây tạo ra chủ nghĩa khủng bố

Bài viết "How the West Creates Terrorism" của Andre Vltchek nhắc nhở người đọc về chủ nghĩa khủng bố của phương Tây dưới dạng chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, hai bóng ma trong những vụ diệt chủng hàng trăm triệu người trên khắp thế giới, so với chúng đám khủng bố hiện nay chỉ là những kẻ học việc.

Cách thức phương Tây tạo ra chủ nghĩa khủng bố

Chủ nghĩa khủng bố có nhiều dạng và nhiều bộ mặt, nhưng khủng khiếp nhất là sự tàn bạo máu lạnh

Chúng ta được yêu cầu tin rằng những kẻ khủng bố là những tên điên bệnh hoạn, chạy quanh với bom, súng máy và thắt lưng chất nổ. Đó là cách chúng ta được yêu cầu hình dung về chúng

Nhiều kẻ để râu; hầu hết “trông giống người nước ngoài”, không phải da trắng, không phải phương Tây. Nói chung, chúng là kẻ đánh vợ, cưỡng hiếp trẻ em, kẻ phá hủy các bức tượng Hy Lạp và La Mã.

Thực tế là trong chiến tranh lạnh có một số “kẻ khủng bố” trông giống người da trắng – những kẻ cánh tả thuộc về một vài nhóm cách mạng, ở Italy và đâu đó của Đông Âu. Nhưng chỉ đến bây giờ chúng ta mới được biết rằng những hành động khủng bố được gán cho họ thực sự do Đế Quốc gây ra, bởi vài chính quyền cánh hữu Châu Âu và mật vụ. Bạn hãy nhớ, các quốc gia NATO đã làm nổ tung những con tàu trong đường hầm, hoặc đánh bom toàn bộ các nhà ga… 

Điều đó “cần phải thực hiện” để làm mất uy tín của cánh tả, chỉ để đảm bảo rằng người dân sẽ không trở nên thiếu trách nhiệm mà bỏ phiếu cho những người cộng sản hoặc xã hội chủ nghĩa chân chính.

Cũng có vài phần tử “khủng bố” Mỹ Latin – phong trào cách mạng chiến đấu vì tự do và chống lại áp bức, chủ yếu là chống lại chủ nghĩa thực dân phương Tây. Họ phải bị bao vây, tiêu diệt và nếu họ nắm quyền thì phải bị lật đổ.

Nhưng khủng bố thực sự trở nên phổ biến ở phương Tây chỉ sau khi Liên Bang Soviet và khối Cộng Sản bị phá hủy với hàng ngàn biện pháp kinh tế, quân sự và tuyên truyền, cũng như phương Tây đột nhiên phát hiện ra rằng chả có ai để đối đầu. Có lẽ là nó cảm thấy cần phải biện minh có những hành động áp bức tàn bạo của mình ở Châu Phi, Trung Đông, Mỹ Latin và Châu Á.

Nó cần một kẻ thù “tối thượng” mới, thực sự “tối thượng”, để biện minh cho ngân sách quân sự và tình báo khổng lồ. Việc đối mặt với vài trăm “quái vật” ở đâu đó trong rừng rậm xứ Colombia hay Bắc Ireland hoặc Corsia có lẽ là không đủ nữa, cần phải có thứ gì đó thật sự lớn, thứ gì đó so sánh được với “sự độc ác” của “mối đe dọa” từ Soviet.

Ôi mối đe dọa thân thuộc! Dĩ nhiên chỉ là mối đe dọa, không phải là nguy cơ của những lý tưởng bình đẳng và chủ nghĩa quốc tế…

Thế là phương Tây gắn chủ nghĩa khủng bố với Hồi giáo, một trong những nền văn hóa vĩ đại nhất trên trái đất, với 1,6 tỷ tín đồ. Hồi giáo đủ lớn và tối thượng để khiến các bà nội trợ trung lưu ở vùng ngoại ô phương Tây sợ vỡ mật! Trên tất cả những điều đó, nó cần phải bị kiềm chế, như thể là nó quá xã hội chủ nghĩa và quá ôn hòa.

Vào lúc đó trong lịch sử, tất cả các lãnh đạo thế tục và xã hội chủ nghĩa của các nước Hồi giáo, (như Iran, Indonesia và Ai Cập), đều đã bị phương Tây lật đổ, di sản của họ bị đập nát hoặc đơn giản là bị cấm đoán. 

Nhưng điều đó vẫn chưa đủ với phương Tây!

Để biến Hồi giáo thành một kẻ thù đáng giá, Đế Quốc trước hết đã cực đoan hóa và làm hư hỏng hàng sa số các phong trào và tổ chức Hồi giáo, sau đó tạo ra một loại mới, thường xuyên huấn luyện, vũ trang và tài trợ cho chúng, để chúng trông thực sự đủ đáng sợ. 

Dĩ nhiên đó là lý do quan trọng khiến “chủ nghĩa khủng bố”, đặc biệt là “chủ nghĩa khủng bố” Hồi giáo, là cần thiết cho sự sống sót của các học thuyết phương Tây, chủ nghĩa ngoại lệ và sự chuyên chế toàn cầu; nó biện minh cho sự siêu việt tuyệt đối về văn hóa và đạo đức của phương Tây

Đây là cách nó hoạt động

Trong nhiều thế kỷ, phương Tây đã hành động như một con quái vật khát máu. Bất chấp sự tuyên truyền tự họa được truyền thông phương Tây phổ biến khắp thế giới, người ta đều đã nhận thấy rằng Đế Quốc đang cưỡng hiếp, giết hại và cướp bóc ở mọi nơi trên thế giới. Chỉ sau vài thập kỷ sau, thế giới sẽ coi phương Tây là một thảm họa chết chóc và độc hại. Kịch bản đó cần phải được ngăn chặn bằng mọi giá!

Các nhà tư tưởng và tuyên truyền của Đế Quốc đã tạo ra một công thức sáng lạng mới: Hãy tạo ra điều gì đó có bề ngoài và hành xử tồi tệ hơn chúng ta và sau đó chúng ta có thể tự hào rằng chúng ta vẫn là nền văn hóa hợp lý và khoan dung nhất trên trái đất!

Hãy làm một cú xoay ngoạn mục: Hãy chống lại tạo vật của chúng ta – hãy chống lại với danh nghĩa của tự do và dân chủ!”

Đây là cách mà thế hệ “khủng bố” mới được sinh ra. Chúng đang sống! Chúng đang đống và sinh sôi! Chúng nhân lên như những con kỳ giông của Capek. 

***

Chủ nghĩa khủng bố phương Tây không thực sự được mổ xẻ, mặc dù những dạng cực đoan và bạo lực nhất của nó tàn phá thế giới không thương tiếc và đã có từ lâu, với hàng trăm triệu nạn nhân ở khắp nơi.

Ngay cả những binh đoàn lê dương và đấu sĩ của Đế Quốc, giống như Mujaheddin, Al-Qaida, hay ISIS đều không bao giờ có thể tàn bạo được như những gì mà người Anh, người Pháp, người Bỉ, người Đức hay ông chủ Hoa Kỳ của chúng đã luôn thể hiện trong lịch sử. Dĩ nhiên chúng rất cố gắng để theo kịp các bậc tôn sư và thân sinh nhưng chúng không đủ bạo lực và tàn nhẫn.

Cần phải có “văn hóa phương Tây” để hành quyết 10 triệu người chỉ ở một nơi duy nhất, hầu như chỉ một lần!

***

Đâu là khủng bố thật sự và làm sao ISIS và những kẻ khác có thể theo đuổi sự định hướng của chúng? Họ nói rằng ISIS chặt đầu các nạn nhân của chúng. Đủ tồi tệ. Nhưng ai là thầy của chúng? 

Trong nhiều thế kỷ, các đế quốc Châu Âu đã giết chóc, tra tấn, cưỡng hiếp và băm xác người dân khắp các lục địa của thế giới. Những nước không trực tiếp làm điều đó đã “đầu tư” cho những cuộc viễn chinh thuộc địa, hoặc cử người tới tham gia các binh đoàn diệt chủng. 

Vua Leopold II và đội quân của ông ta đã hành quyết khoảng 10 triệu người ở Tây và Trung Phi, ở nơi mà ngày nay được gọi là Congo. Ông ta đã săn đuổi người dân ở đó như săn thú hoang, cưỡng ép họ phải làm việc trong các đồn điền cao su. Nếu ông ta cho rằng họ đổ đầy két tiền của ông ta không đủ nhanh, ông ta không ngần ngại chặt tay họ, hoặc thiêu sống toàn bộ dân làng trong ngôi nhà của chính họ.

10 triệu nạn nhân đã chết. 10 triệu! Điều đó diễn ra chưa phải là quá lâu, không phải trong “thời đại tăm tối” mà là trong thế kỷ 20, dưới sự cai trị của chế độ quân chủ lập hiến và tự xưng là dân chủ. Làm sao có thể so sánh nó với chủ nghĩa khủng bố đang thống trị ở những khu vực mà ISIS chiếm đóng? 

Cộng Hòa Dân Chủ Congo kể từ năm 1995 đã một lần nữa mất đi 10 triệu mạng người trong một cơn điên loạn khủng bố, do những tay sai của phương Tây, Rwanda và Uganda gây ra (xem giới thiệu bộ phim “Rwanda Gambit” của tôi).

Người Đức đã thực hành diệt chủng ở Nam-Tây Phi, hiện nay là Namibia. Bộ tộc Herero đã bị hủy diệt, hay ít nhất là gần 90% bộ tộc. Đầu tiên, người dân bị đuổi khỏi đất đai và nhà của họ, được đưa đến sa mạc. Nếu họ sống sót, các cuộc viễn chinh thời tiền phát xít của người Đức sẽ tiếp tục, sử dụng đạn và các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt khác. Các thí nghiệm y khoa trên con người đã được thực hiện, để chứng minh sự siêu việt của dân tộc Đức và chủng tộc da trắng.

Đó chỉ là những thường dân vô tội; người dân chỉ có tội duy nhất đó là họ không có da trắng và ở trên vùng đất mà người Châu Âu xâm lược và đánh phá.

Taliban hay thậm chí ISIS chưa bao giờ tiến đến gần mức đó!

Hiện nay, chính quyền Namibia đang yêu cầu trả lại hàng sa số những cái đầu được chặt từ người dân của họ; những cái đầu bị chặt và gửi đến đại học Freiburg cũng như một số bệnh viện ở Berlin cho các thí nghiệm y khoa.

Hãy tưởng tưởng, ISIS chặt hàng ngàn cái đầu người Châu Âu để thực hiện các thí nghiệm y khoa nhằm mục đích chứng minh sự siêu việt của chủng tộc Arab. Thật hoàn toàn không thể tưởng tưởng được!

Người dân địa phương bị khủng bố ở hầu khắp các thuộc địa mà Châu Âu chiếm được, một số đã được tôi mô tả chi tiết trong cuốn sách dày 840 trang mới nhất của mình “Exposing Lies of the Empire”.

Người Anh và nạn đói mà họ đã dùng để kiểm soát dân số và hăm dọa ở Ấn Độ mới khủng khiếp làm sao! Chỉ riêng năm 1943 có ít nhất 5 triệu người ở Bengal, 5,5 triệu người vào năm 1876-78, 5 triệu người vào năm 1896-97, đó chỉ là một số ít hành động khủng bố của đế quốc Anh đối với dân chúng không có gì tự vệ và bị buộc phải sống dưới một chế độ khủng bố áp bức tàn bạo!

Những gì mà tôi viết phía trên chỉ là ba chương ngắn trong lịch sử lâu dài của chủ nghĩa khủng bố phương Tây. Một từ điển bách khoa toàn thư mới có thể truyền tải hết chủ đề này.

Nhưng tất cả những điều này nằm ngoài nhận thức của người dân phương Tây. Dân chúng châu Âu và Bắc Mỹ không muốn biết bất cứ thứ gì về quá khứ và hiện tại. Chừng nào mà họ còn cho rằng họ cai trị thế giới vì họ tự do, thông minh và chăm chỉ, không phải bởi vì trong nhiều thế kỷ đất nước của họ đã cướp bóc và giết chóc, cũng như trên hết là khủng bố để buộc thế giới phải quy phục.

Dĩ nhiên, tầng lớp thượng lưu biết mọi thứ. Họ càng biết nhiều thì họ càng sử dụng những kiến thức đó cho công việc.

Kinh nghiệm và sự trao đổi khủng bố được chuyển từ các ông chủ phương Tây sang cho lính mới Hồi giáo của họ.

The Mujahideen, Al-Qaida, ISIS – trong kỳ thi cận kề, chiến thuật đe dọa và khủng bố không phải đều là nguyên gốc. Chúng đều được xây dựng dựa trên kinh nghiệm đế quốc và thực dân của phương Tây. 

Tin tức về điều đó, hay thậm chí là về khủng bố trên hành tinh do phương Tây gây ra, hoàn toàn bị kiểm duyệt. Anh sẽ không bao giờ thấy chúng trên chương trình truyền hình của BBC hay đọc được chúng trên các tờ báo và tạp chí chính thống.

Mặt khác, bạo lực và sự tàn nhận của các tổ chức khủng bố tay sai thường xuyên được nhấn mạnh. Chúng được đưa tin đến từng chi tiết nhỏ nhất, lặp đi lặp lại và được “phân tích”.

Mọi người đều giận dữ, khủng khiếp! Liên Hiện Quốc “quan ngại sâu sắc”, các chính quyền phương Tây “phẫn nộ” và công chúng phương Tây “cảm thấy quá đủ - họ không muốn có những người tị nạn từ những đất nước khủng khiếp đã sinh ra chủ nghĩa khủng bố và bạo lực.”

Phương Tây “chỉ đơn giản là phải can thiệp”. Đây là lúc Chiến Tranh chống Khủng Bố.

Đó là cuộc chiến chống lại gã Frankenstein của chính phương Tây. Đó là cuộc chiến không bao giờ thắng. Bởi vì nếu như họ thắng, chúa cấm, sẽ có hòa bình và hòa bình có nghĩa là cắt giảm ngân sách quốc phòng và xử lý những vấn đề thực sự của hành tinh.

Hòa bình có nghĩa là phương Tây nhìn vào quá khứ của họ. Điều đó có nghĩa là suy nghĩ về công lý và sắp xếp lại toàn bộ cấu trúc quyền lực của hành tinh. Điều đó không bao giờ được phép.

Do vậy, phương Tây “đang chơi” trò chiến tranh; họ “chống lại” những lính đánh thuê của họ (hay ngăn cản việc chống lại chúng), trong khi đó thì những người vô tội phải chết.

Không đâu trên thế giới, ngoại trừ phương Tây, có thể tạo ra và phóng thích những thứ tàn bạo và dã man như ISIS hay Al-Nusra!

Xem xét kỹ hơn chiến lược của những nhóm cấy ghép này: chúng không bắt nguồn từ bất cứ văn hóa Hồi giáo nào. Chúng hoàn toàn lấy cảm hứng từ triết lý khủng bố thuộc địa của phương Tây: “Nếu anh không phục tùng hoàn toàn lý thuyết và tôn giáo của chúng tôi thì chúng tôi sẽ chặt đầu anh, cắt cổ họng anh, cưỡng hiếp cả gia đình anh hay đốt trụi làng mạc hoặc thành phố của anh. Chúng tôi sẽ phá hủy các di sản văn hóa vĩ đại của anh như chúng tôi đã làm ở Nam Mĩ 500 năm trước đây, cũng như ở nhiều nơi khác nữa.”

Mọi thứ tiếp tục như vậy! Cần phải thực sự tự lừa dối bản thân để không nhìn vào những mối liên hệ đó!

***

Vào năm 2006, tôi đến thăm một người bạn, cựu tổng thống Indonesia và là một lãnh đạo Hồi giáo tiến bộ vĩ đại, Abdurrahman Wahid (ở Indonesia được gọi là “Gus Dur”). Chúng tôi gặp nhau ở trụ sở của tổ chức quần chúng Hồi giáo Nahdlatul Ulama (NU) của ông. Vào lúc đó NU là tổ chức Hồi giáo lớn nhất thế giới.

Chúng tôi thảo luận về chủ nghĩa tư bản và cách nó phá hủy cũng như làm tha hóa Indonesia. Gus Dur là một “người xã hội chủ nghĩa bí mật” và đó là một trong những lý do chính khiến “giới thượng lưu” nô lệ phương Tây của Indonesia và quân đội lật đổ ông vào năm 2001.

Khi chúng tôi nói tới chủ đề “chủ nghĩa khủng bố”, ông đột nhiên tuyên bố bằng giọng nói nhẹ nhàng mà thâm trầm đặc trưng: “Tôi biết người đã đánh bom khách sạn Marriott ở Jakarta. Đó là do cơ quan tình báo của chúng tôi làm, để biện minh cho sự gia tăng ngân sách của họ, cũng như viện trợ mà họ nhận được từ nước ngoài.”

Dĩ nhiên, quân đội Indonesia, tình bào và cảnh sát đều thuộc về về một nhóm người đặc biệt. Trong vài thập kỷ, kể từ năm 1965, họ đã khủng bố tàn bạo người dân của họ, khi cuộc đảo chính thân phương Tây lật đổ tổng thống tiến bộ Sukarno và đưa phe quân phiệt phát xít lên nắm quyền, do nhóm kinh doanh Thiên Chúa giáo thống trị hậu thuẫn. Sự khủng bố này cướp đi 2-3 triệu sinh mạng ở Indonesia, cũng như ở Đông Timor và (cho đến nay) ở Papua bị chiếm đóng và cướp bóc.

3 cuộc diệt chủng chỉ trong 5 thập kỷ!

Cuộc đảo chính ở Indonesia là một trong những hành động khủng bố khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại. Các dòng sông tắc ngẽn vì xác chết và nước đổi màu sang đỏ.

Tại sao? Đó là cách chủ nghĩa tư bản sẽ sống sót và các công ty khai mỏ phương Tây có thể thu được chiến lợi phẩm, với gánh nặng chi phí là một đất nước Indonesia hoàn toàn bị phá hủy. Thế nên đảng Cộng Sản Indonesia (PKI) không thể thắng cử dân chủ.

Nhưng ở phương Tây, những cuộc thảm sát quy mô lớn do Đế Quốc sắp đặt vào năm 1965 không bao giờ được gọi là “chủ nghĩa khủng bố”. Cho nổ tung một khách sạn hay một quán rượu, nhất là khi chúng thường xuyên có khách hàng phương Tây, thì lại là khủng bố.

Hiện giờ Indonesia đã có những nhóm “khủng bố”. Chúng trở về từ Afghanistan, nơi mà chúng chiến đấu theo lệnh của phương Tây để chống lại Liên Bang Soviet. Chúng cũng vừa trở về từ Trung Đông. Những cuộc tấn công vừa qua ở Jakarta chỉ là màn dạo đầu, một sự khởi đầu được lập kế hoạch chu đáo cho thứ gì đó lớn hơn, có thể mở ra một “mặt trận” mới cho lính đánh thuê của Đế Quốc ở Đông Nam Á.

Về phía phương Tây và những nhà hoạch định của họ - Hỗn loạn hơn là tốt hơn.

Nếu như Abdurrahman Wahid vẫn còn được làm tổng thống Indonesia, có vẻ như sẽ không có chủ nghĩa khủng bố. Đất nước của ông sẽ trải qua một cuộc cải cách xã hội chủ nghĩa, thiết lập công bằng xã hội, phục hồi những người cộng sản và đi theo chủ nghĩa thế tục.

Trong những xã hội cân bằng về mặt xã hội, chủ nghĩa khủng bố không phát triển được.

Đó là điều không thể chấp được đối với Đế Quốc. Điều đó sẽ có nghĩa là – quay trở lại thời Sukarno! Quốc gia Hồi giáo đông dân nhất thế giới được phép đi theo con đường của họ, hướng tới chủ nghĩa xã hội và tiêu diệt các phần tử khủng bố.

Nó phải bị đe dọa. Nó phải bị sai khiến. Nó phải sợ hãi và đáng sợ! Nó phải như vậy

***

Những trò chơi của phương Tây là phức tạp và tinh vi. Chúng tối tăm và vô chính phủ. Chúng phá hoại và tàn bạo tới mức mà những nhà phân tích lạnh lùng nhất thường không tin vào mắt mình cũng phải tự hỏi: “Có thật sự là tất cả những điều đó xảy ra?” 

Câu trả lời ngắn gọn là: “Phải, nó có thể. Phải, nó có thể, trong nhiều thập kỷ và thế kỷ.”

Về mặt lịch sử, chủ nghĩa khủng bố là vũ khí bản địa của phương Tây. Nó được những người như Lloyd George, một thủ tướng của nước Anh, sử dụng tùy ý, ông ta đã từ chối ký vào hiệp ước cấm ném bom thường dân, với logic không thể lay chuyển của người Anh: “Chúng ta có quyền ném bom những tên mọi đó.” Hay Winston Churchill muốn đưa những “chủng tộc thấp kém”, như người Kurd và Arab, vào lò hơi ngạt.

Đó là lý do khiến toàn bộ phương Tây hoảng loạn khi một kẻ bên ngoài như nước Nga tham gia vào cuộc chiến chống lại các nhóm khủng bố. Nga đang làm hỏng toàn bộ trò chơi của họ! Nga đang phá hỏng sự cân bằng tân thực dân đẹp đẽ.

Hãy nhìn xem mọi thứ đáng yêu làm sao: sau khi giết chết hàng trăm triệu người khắp địa cầu, phương Tây giờ đang tự nhận là nhà vô địch về nhân quyền và tự do. Họ vẫn tiếp tục khủng bố và cướp bóc thế giới, kiểm soát nó hoàn toàn – nhưng họ phải được chấp nhận là lãnh đạo tối cao, cố vấn đạo đức và phần đáng tin cậy duy nhất của thế giới.

Hầu như không có ai cười

Bởi vì tất cả đều đang sợ hãi!

Những binh đoàn lê dương khát máu của họ ở Trung Đông và Châu Phi đang tàn phá nhiều quốc gia, nguồn gốc của chúng có thể dễ tìm thấy, nhưng hầu như không có ai liều lĩnh làm điều đó. Một số đã cố thử làm – và đã chết.

Những con quái vật khủng bố được sáng chế, chế tạo và cấy ghép càng đáng sợ thì phương Tây trông càng đẹp đẽ. Tất cả chỉ là mánh lới quảng cáo. Nó bắt nguồn từ quảng cáo và trong hàng trăm ngàn năm của cơ quan tuyên truyền.

Phương Tây giả vờ chống lại những lực lượng của bóng tối đó. Nó sử dụng thứ ngôn ngữ hùng mạnh và “đúng đắn” dựa trên học thuyết Thiên Chúa giáo chính thống.

Toàn bộ huyền thoại được giải phóng; giống như vở “Ring” của Wagner.

Kẻ khủng bố đại diện cho sự độc ác chứ không phải là khoản chi tiêu khổng lồ từ ngân sách của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, Liên Minh Châu Âu và NATO. Chúng đều độc ác hơn cả Quỷ Sứ!

Phương Tây, cưỡi trên con ngựa trắng, say khướt nhưng luôn luôn hài hước, đóng vai cả nạn nhân lẫn kẻ thù chính của những nhóm khủng bố độc ác đó.

Đó là một màn diễn khó tin. Một trò hề khủng khiếp. Hãy nhìn vào phía sau mặt nạ của kị sĩ: hãy nhìn vào những cái răng đang nhe ra; nụ cười chết chóc! Hãy nhìn vào đôi mắt đỏ của hắn, đầy tham lam, thú tính và hung ác.

Hãy đừng bao giờ quên: chủ nghĩa thực dân và đế quốc là hai dạng chết chóc nhất của chủ nghĩa khủng bố. Chúng vẫn là hai vũ khí chính của tên kị sĩ đang bóp nghẹt thế giới!


Andre Vltchek is a philosopher, novelist, filmmaker and investigative journalist. He covered wars and conflicts in dozens of countries. His latest books are: “Exposing Lies Of The Empire” and “Fighting Against Western Imperialism”.Discussion with Noam Chomsky: On Western Terrorism. Point of No Return is his critically acclaimed political novel. Oceania – a book on Western imperialism in the South Pacific. His provocative book about Indonesia: “Indonesia – The Archipelago of Fear”. Andre is making films for teleSUR and Press TV. After living for many years in Latin America and Oceania, Vltchek presently resides and works in East Asia and the Middle East. He can be reached through his website or his Twitter.