Showing posts with label Đảng phái. Show all posts
Showing posts with label Đảng phái. Show all posts

Friday, March 21, 2014

Chú Sam: Mối đe dọa hàng đầu đối với trái đất và hòa bình trên trái đất

Xin được giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài báo "Uncle Sam: Top Menace To Peace on/and Earth" của nhà báo, nhà sử học, nhà bình luận chính trị nổi tiếng người Mỹ Paul L. Street. Bài báo cung cấp cái nhìn khái quát về mối nguy hiểm mà siêu cường Mỹ đang tạo ra trên toàn cầu, nhân dịp kết quả khảo sát của WINMR và Gallup International về các đe dọa đối với hòa bình và trái đất được công bố cuối năm 2013. 

Theo kết quả cuộc khảo sát quy mô toàn cầu với sự tham gia của 66.000 người trên 68 quốc gia của Mạng lưới độc lập toàn cầu về Nghiên cứu thị trường và Gallup International cuối năm 2013, cư dân trái đất coi Mỹ là mối đe dọa lớn nhất đối với hòa bình trên hành tinh. Mỹ nhận được nhiều phiếu bầu nhất với khoảng cách khá xa so với các nước khác, 24% tổng số phiếu bầu. Pakistan chiếm vị trí thứ hai ở khá xa với 8%, tiếp theo là Trung Quốc (6%). Afghanistan, Iran, Israel và Bắc Triều Tiên cùng chiếm vị trí thứ tư với 4%. Công chúng tại các nước đồng minh của Mỹ như Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ (mỗi nước 45%), Pakistan (44%) và Mexico (khoảng 37%) tin rằng Mỹ là mối đe dọa lớn nhất đối với hòa bình.
Hệ thống truyền thông chính thống của Mỹ đã lảng tránh bảng xếp hạng nêu trên. Các tờ báo lớn như New York Times, Wall Street Journal, Chicago Tribune hay Los Angeles Times hoàn toàn không nhắc tới. Các hãng truyền hình như NBC, CBS, ABC hay PBS cũng không đưa tin trong các bản tin buổi tối. Bảng xếp hạng chỉ được lướt qua và bị đối xử hết sức phân biệt so với các tin tức và bình luận nghiêm túc. Kiểu phân biệt đặc trưng như tít của tờ International Business Times, đặt ra dấu hỏi về giá trị và/hay sự hợp lý của kết quả. “Trong bảng xếp hạng của Gallup”, tít báo viết, “Mối đe dọa hàng đầu đối với hòa bình thế giới là… Mỹ?”. Bài báo của IBT cho thấy chủ ý rất rõ ràng, ý kiến của thế giới là phi lý (IBT, tháng 1, 2014).
Các biên tập viên cánh tả của New York Post phản hồi một cách mỉa mai rằng quan điểm thế giới chỉ là những người “không thích Mỹ” thậm chí ngay cả sau khi Barack Obama trở thành tổng thống. Cần nhắc lại kết quả bảng xếp hạng năm 2006 của Gallup, công chúng thế giới đã đánh giá “Washington là mối đe dọa đối với hòa bình thế giới lớn hơn Teheran” (bằng chứng cho sự tự tin nực cười của tờ Post), các biên tập viên bình luận rằng, “Vào năm 2008, tổng thống Obama đã chống lại những chính sách làm tổn hại vị trí của Mỹ trên thế giới của Bush, với kỳ vọng rằng thế giới Hồi giáo sẽ được thay đổi một cách đơn giản khi ông ấy được bầu)”. “Mọi việc đã không suôn sẻ, như những con số của Gallup cho thấy. Có lẽ tốt nhất là chúng ta chấp nhận thông điệp thực của những điều tra toàn cầu kiểu này: Rất nhiều người trên thế giới không thích nước Mỹ và coi chúng ta là mối đe dọa bất kể ai là tổng thống” (New York Post, January 5, 2014).
Bất cứ người quan sát nghiêm túc và trung thực nào đã theo dõi chính sách đối ngoại và hoạt động quốc tế của Mỹ ngày nay cũng như nhiều thập kỷ trước đây, sẽ thấy việc nước Mỹ là mối đe dọa hàng đầu thường xuyên và lâu dài đối với hòa bình thế giới không có gì đáng ngạc nhiên. Nước Mỹ, trên hết, tạo ra một nửa chi tiêu quân sự của thế giới. Họ duy trì hơn 1000 căn cứ quân sứ trải rộng trên 100 quốc gia “có chủ quyền” trên khắp các lục địa. Chính quyền Obama đã triển khai lực lượng đặc nhiệm tại 75 tới 100 nước (tăng lên so với 60 nước vào cuối thời tổng thống George W. Bush) và tiến hành thường xuyên các vụ tấn công bằng máy bay không người lái vào các mục tiêu được xác định một cách chính thống là khủng bố (tất nhiên một phần lớn là các thường dân vô tội) tại Trung Đông, Tây Nam Á và châu Phi. Họ duy trì một chương trình giám sát toàn cầu nhằm chống lại quyền riêng tư trên trái đất-chương trình đó thậm chí đã do thám cả điện thoại di động của các lãnh đạo châu Âu, trong số đó có thủ tướng Đức Angela Merkel. Tờ báo hàng đầu của Đức Der Spiegel đã ghi nhận vào năm 1997: “Trong lịch sử hiện đại chưa từng có quốc gia nào thống trị thế giới một cách tuyệt đối như Mỹ ngày nay…Nước Mỹ là Schwarzengger của chính trị quốc tế: phô diễn cơ bắp, gây rối, đáng sợ…Người Mỹ không chấp nhận bất cứ giới hạn nào của ai hay cái gì, họ hành động như thể đang sở hữu một tấm séc khống”.
Vụ “nghẽn giao thông đường không” phía trên một vụ “thảm sát một phía” (Iraq, 1991)
Có lẽ các biên tập viên của Der Spiegel nghĩ tới những gì Mỹ đã làm ở Iraq khi họ viết những dòng trên. Họ có thể nhắc tới “xa lộ chết chóc”, khi quân đội Mỹ tàn sát hàng chục ngàn lính Iraq thua trận đang tháo chạy khỏi Kuwait vào ngày 26, 27 tháng 2 năm 1991. Nhà báo Mỹ gốc Lebanon Joyce Chediac khai rằng: “Máy bay Mỹ chặn một đoàn xe bằng cách đánh hỏng những chiếc xe đi đầu và cuối, sau đó ném bom vào đám xe nằm hỗn độn đó suốt nhiều giờ.’Giống như là bắn cá trong thùng’, một phi công Mỹ nói. Trên suốt 60 dặm đường xa lộ dọc bờ biển, các đơn vị lính Iraq chịu trận giữa những chiếc khung xe và xương người bị cháy, đen nhẻm và kinh hoàng dưới ánh nắng mặt trời…suốt 60 dặm đường mọi chiếc xe đều bị phá hủy hay bị ném bom, tất cả các kính chắn gió bị vỡ nát, tất cả các bình xăng bốc cháy, tất cả các xe tải bị xé làm nhiều mảnh. Không thấy có ai sống sót…’ Ngay cả ở Việt Nam tôi cũng chưa từng thấy bất cứ điều gì giống như vậy. Đó là thảm sát’, đại tá tình báo quân đội Bob Nugent nói…Các phi công Mỹ mang bất cứ loại bom nào thấy ở sân bay, từ bom chùm cho đến bom 500 bảng…quân đội Mỹ tiếp tục ném bom vào đoàn xe ngay cả khi tất cả mọi người đã chết. Quá nhiều máy bay bay trên đường bay nội địa khiến cho giao thông trên không bị tắc nghẽn, những nhân viên kiểm soát không lưu của không quân đã lo ngại các máy bay sẽ va chạm với nhau…Các nạn nhân hoàn toàn không chống cự được…đó là vụ thảm sát từ một phía đối với hàng chục nghìn người không có khả năng chống trả hay tự vệ” (Ramsey Clark et al., War Crimes: A Report on United States War Crimes Against Iraq to the Commission of Inquiry for the International War Crimes Tribunal, testimony of Joyce Chediac).
Gần một năm sau khi quân đội gây ra vụ thảm sát không thể tưởng tượng nổi ấy, tổng thống Mỹ George H. W. Bush tuyên bố “Thế giới bị chia làm hai phe vũ trang giờ chỉ còn một cực và đó là sức mạnh ưu việt, nước Mỹ. Và họ không có gì phải sợ hãi. Thế giới có lý khi tin tưởng ở sức mạnh của chúng ta. Họ tin tưởng chúng ta sẽ công bằng và đúng mực. Họ tin tưởng chúng ta sẽ ở phía thích hợp. Họ tin tưởng chúng ta sẽ làm những điều đúng đắn” (Blum, Rogue State)
Không có giới hạn cho sự tàn bạo 
Vụ thảm sát kiểu “bắn gà tây” do quân đội của “phía thích hợp” gây ra năm 1991 chỉ là một phần chuỗi kỷ lục bạo lực man rợ kéo dài của nước Mỹ. Lịch sử trải dài từ hủy diệt đẫm máu những cư dân gốc của quốc gia (diệt chủng người dân bản địa năm 1607-1890) tới giết hại phân biệt chủng tộc hàng chục ngàn người Philippine giữa năm 1899 và năm 1902 (các binh sĩ tham gia vào vụ giết chóc đã viết thư gửi về nhà cho bạn bè và người thân kể rằng được ra lệnh tấn công “cho tới khi tất cả bọn mọi bị giết sạch giống như người da đỏ”), vụ ném bom nguyên tử đầy tội lỗi và không cần thiết xuống Nhật Bản, “cuộc thánh chiến ở Đông Nam Á” của Mỹ (Noam Chomsky cho rằng chính sách của Mỹ đã giết hại hơn 4 triệu người Đông Dương-thường được gọi bằng “mọi” hay các tên có tính phân biệt chủng tộc khác-giữa năm 1962 và năm 1975).
Có lẽ các biên tập viên của Der Spiegel có thể nhắc tới cấm vận kinh tế và bộ trưởng ngoại giao Mỹ Madeline Albright. Năm năm sau “xa lộ chết chóc”, Albright nói với phóng viên đài CBS News Leslie Stahl rằng cái chết của nửa triệu trẻ em Iraq do Mỹ cấm vận về kinh tế là “cái giá…đáng để trả” cho việc thúc đẩy các mục tiêu cao quý của nước Mỹ. Ba năm sau, ngoại trưởng Albright giải thích: “Nước Mỹ là tốt. Chúng tôi luôn cố gắng ở mọi nơi”. Chuyện này cũng không có gì là mới. Noam Chomsky đã viết năm 1992, sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, Mỹ đã tìm mọi cách bắt người Việt Nam phải chịu đau khổ tối đa bằng cách cấm vận kinh tế và hỗ trợ nhân đạo cho Việt Nam, mặc dù họ đã tàn phá đất nước ấy: “Không có giới hạn nào cho sự tàn bạo của những những kẻ dã man ở Washington. Tầng lớp có học đủ hiểu biết để ngoảnh mặt làm ngơ” (Noam Chomsky, What Uncle Sam Really Wants, 1992)
Các con trai và con gái
Chủ nghĩa đế quốc tàn bạo vẫn tiếp diễn cho đến thiên niên kỷ tiếp theo. Gã “Schwarzenegger” của thế giới từ ngày 11 tháng 9 năm 2001 đã tiếp tục phá hủy, tàn sát, gây thương tật, xua đuổi hàng triệu người trong thế giới Hồi giáo như là một phần của cuộc chiến chống/của khủng bố toàn cầu (GWOT).Trong phát biểu về chính sách đối ngoại vào đêm trước khi tuyên bố ra tranh cử tổng thống Mỹ mùa thu năm 2006, thượng nghị sĩ Barack Obama đã giải thích tuyên bố của ông ta rằng công dân Mỹ hậu thuẫn cho “thắng lợi” ở Iraq bằng lập luận sau: “Người Mỹ đã giải quyết tình trạng hỗn loạn. Chúng ta đã thấy các con trai và con gái của chúng ta bị thương hay bị giết hại trên các đường phố ở Fallujah” (Barack Obama, “Away Forward in Iraq”, Chicago Council on Global Affairs, November 20, 2006).
Sự tàn bạo của Chú Sam trong thế kỷ 21 có thể thấy rõ ràng nhất chính là ở Fallujah, Iraq vào năm 2004. Thành phố xấu số là nơi diễn ra các tội ác chiến tranh khủng khiếp của Mỹ, giết hại bừa bãi hàng nghìn thường dân, bắn phá các trạm cấp cứu và bệnh viện, và quân đội Mỹ gần như san phẳng thành phố vào tháng 4 và tháng 11. Một nhân chứng nói: “Quân đội Mỹ tiến hành hai cuộc tấn công dữ dội và thành phố vào tháng 4 và tháng 11… sử dụng hỏa lực từ khoảng cách mà quân Mỹ chỉ bị thiệt hại tối thiểu. Vào tháng 4, các chỉ huy quân đội Mỹ báo cáo là đã nhắm vào…lực lượng nổi loạn, nhưng bệnh viện địa phương lại báo cáo rằng rất nhiều hay đa số thiệt hại là thường dân, thường là phụ nữ, trẻ em và người già…[cho thấy] có chủ đích giết hại thường dân…Vào tháng 11…cuộc tấn công bằng không quân của Mỹ đã phá hủy bệnh viện trong khu vực của phe nổi loạn để chắc chắn rằng lần này sẽ không ai có thể báo cáo về thiệt hại thường dân. Sau đó quân đội Mỹ tiến vào phá hủy hoàn toàn thành phố. Fallujah trông giống như thành phố Grozny của Chechnya sau khi bị quân đội của Putin san phẳng (Michael Mann, Incoherent Empire New York, 2005).
Mỹ đã sử dụng các vũ khí có chứa chất phóng xạ (uranium nghèo) ở Fallujah, tạo ra một đại dịch chết và dị dạng ở trẻ sơ sinh, cũng như các bệnh bạch cầu và bệnh ung thư. Nhưng Fallujah chỉ là một trong số hàng loạt các tội ác dẫn đến cái chết của ít nhất một triệu người Iraq và biến Iraq thành “khu vực hoang tàn trong một thảm họa quy mô chưa từng được biết đến” (Tom Engelhardt, Tom Dispatch.com, January 17,2008). Theo nhà báo đáng kính Nir Rosen vào tháng 12 năm 2007, “Iraq đã bị hủy diệt…Cuộc xâm lược của người Mỹ tàn phá khủng khiếp hơn cả những gì người Mông Cổ đã làm ở Bagdad vào thế kỷ 13” (Current History, December 2007).
“Tống họ vào Guantanamo”
Lawrence Wilkerson là cựu sĩ quan quân đội và từng là tham mưu trưởng của ngoại trưởng Colin Powell dưới thời tổng thống Bush. Trả lời nhà báo điều tra Jeremy Scahill, ông mô tả phương pháp hành động của lực lượng đặc nhiệm trong cuộc xâm lược Iraq như sau: “Bạn đi vào và thu thập thông tin…và bạn nói “Ồ, đây thực sự là những thông tin tốt. Đây là ‘Chiến dịch Sấm Sét Xanh. Hãy thực hiện’. Và họ giết 27, 30, 40 người, hay một số nào đó, họ bắt được bảy hay tám người. Sau đó, bạn thấy là thông tin tồi và bạn đã giết nhiều người vô tội cũng như có nhiều người vô tội trong tay, thế là bạn tống họ vào Guantanamo. Không ai biết gì về chuyện đã xảy ra…bạn nói, ‘đánh dấu một trải nghiệm’, và bạn tiếp tục chiến dịch khác” (J. Scahill, Dirty Wars: The World is a Battlefield).
Bất cứ ai nghĩ rằng sự tàn bạo của đế quốc Mỹ có điểm dừng khi Obama bước vào Nhà Trắng thì đều đang nằm mơ. Obama có thể giảm quy mô cuộc chiến trên bộ mà Washington thất bại ở Iraq và Afghanistan, nhưng lại mở rộng một cách quyết liệt quy mô, cường độ cũng như phạm vi hoạt động của các máy bay không người lái cũng như lực lượng đặc nhiệm đang hiện diện trên khắp thế giới. Obama, như nhà báo dũng cảm Allan Nairn sớm nhận ra, đã giữ cho cỗ máy khổng lồ giết chóc của đế quốc Mỹ tiếp tục hoạt động (Democracy Now!, Januray1, 2010).
Câu chuyện đã được sắp đặt ngay từ đầu, khi Obama tuyên bố ngừng sử dụng chiến đấu cơ không người lái ở Pakistan trong ngày làm việc thứ tư tại nhiệm sở. Chiếc thứ nhất đã “giết chết khoảng 7 đến 15 người, hầu như tất cả là thường dân”. Chiếc thứ hai “tấn công ‘nhầm căn nhà’ và giết chết từ 5 đến 8 thường dân”, trong đó có hai trẻ em. Chưa đầy nửa năm sau, một cuộc tấn công của chiến đấu cơ không người lái được Obama “cho phép” đã nhắm vào một đám tang và giết chết “rất nhiều thường dân-ước tính khoảng từ 18 đến 55 người”. Vào tháng 10 năm 2009, báo cáo của Scahill cho biết, “trong tám tháng Obama đã cho phép số lượng các vụ tấn công của máy bay không người lái nhiều bằng tám năm tại nhiệm của tổng thống Bush”. Một nguồn tin quân sự cho Scahill biết về các chiến dịch giết chóc tiêu chuẩn của lực lượng đặc nhiệm dưới thời Obama: “Nếu có một người bị theo dõi và 34 người khác trong tòa nhà thì sẽ có 35 người chết”.
Sự kiện tâm điểm trong cuộc chiến chống/của khủng bố của Mỹ xảy ra trong tuần đầu tiên tháng 5 năm 2009. Cuộc tấn công của không quân Mỹ đã giết chết 140 thường dân ở Bola Boluk, một ngôi làng ở phía tây tỉnh Farah của Afghanistan. 93 xác chết bị xé làm nhiều mảnh là trẻ em. Có 22 người là đàn ông 18 tuổi và lớn hơn. Tờ New York Times tường thuật: “Trong cuộc trao đổi bằng điện thoại qua loa ngoài vào thứ tư…với Quốc hội Afghanistan, tỉnh trưởng Farah, Rohul Amin, nói 130 thường dân đã bị giết, theo nghị sĩ Mohammad Naim Farahi…Tỉnh trưởng nói dân làng đã mang hai đầu máy kéo theo rơ móc chất đầy mảnh xác chết đến văn phòng của ông ấy để làm bằng chứng thiệt hại của vụ tấn công…Tất cả mọi người khóc than…chứng kiến cảnh khủng khiếp ấy’. Ngài Farahi nói tỉnh trưởng đã nói với vài người quen biết là ai phải chịu trách nhiệm về 113 xác chết cần được chôn, trong đó có… nhiều phụ nữ và trẻ em” (NYT, 6 tháng 5, 2009).
Phản ứng đầu tiên của Lầu Năm Góc đối với sự kiện kinh hoàng này-một trong số nhiều vụ không lực Mỹ giết hại thường dân Afghanistan từ đầu mùa thu 2001-là chối cãi rằng các nạn nhân chết do “lựu đạn của Taliban”. Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton bày tỏ “sự thương tiếc” đối với những người vô tội thiệt mạng, nhưng chính quyền từ chối đưa ra lời xin lỗi hay nhận trách nhiệm. Trái lại, Obama đã xin lỗi và sa thải một quan chức Nhà Trắng vì đã dọa người dân New York với bức ảnh chụp chiếc Air Force One bay phía trên cầu Manhattan gợi nhớ đến sự kiện 11.9 (New York Daily News, April 28, 2009; Los Angeles Times, 9 tháng 5, 2009). Sự thiên vị rất rõ ràng: đe dọa người dân New York thì tổng thống phải xin lỗi và sa thải nhân viên của Nhà Trắng. Giết hơn 100 thường dân Afghanistan thì không cần phải xin lỗi. Không ai bị sa thải. Lầu Năm Góc được phép đưa ra những giải thích phi lý về việc thường dân bị giết hại-những giải thích đó được truyền thông chính thống đưa tin một cách nghiêm túc. Tiếp đó Mỹ cho “điều tra” một cách đáng ngờ vụ thảm sát Bola Boluk, đếm các mảnh xác chết và cáo buộc Taliban đã đẩy thường dân vào nơi Mỹ ném bom.
“Giải thưởng hòa bình? Ông ta là kẻ giết người”. Một người Pashtun trẻ tuổi nói với phóng viên bản tiếng Anh của Al Jazeera vào ngày 10 tháng 12 năm 2009-ngày mà Obama nhận được giải Nobel Hòa Bình. “Người đàn ông nói từ làng Armal, nơi một đám đông lớn tụ tập quanh xác 12 người của một gia đình sống trong một căn nhà đơn, tất cả bị giết trong cuộc đột kích của đặc nhiệm Mỹ đêm qua”.
Mối đe dọa lớn nhất đối với hệ sinh thái
Nước Mỹ không chỉ là mối đe dọa lớn nhất đối với hòa bình trên trái đất, mà còn là mối đe dọa hàng đầu đối quyền riêng tư cá nhân (như đã được làm rõ qua các tiết lộ của Snowden), đối với dân chủ (Mỹ tài trợ và trang bị cho các chính quyền độc tài trên khắp thế giới) và đối với bản thân trái đất-môi trường sống tự nhiên toàn cầu.Washington hào hứng đổ lỗi cho Trung Quốc về vấn đề biến đổi khí hậu, mối nguy hiểm đang đe dọa sự tồn tại của nhân loại. Mỹ cho rằng Trung Quốc là tác nhân chính dẫn đến sự biến đổi khí hậu toàn cầu, kể từ khi lượng khí thải carbon của Trung Quốc tăng gấp đôi so với năm 2001 và Trung Quốc đang thải nhiều khí carbon vào khí quyển hơn bất kỳ quốc gia nào. Đó là bức màn khói được tạo ra để che đậy cho vai trò chủ yếu của Mỹ trong việc tàn sát hệ sinh thái bằng chủ nghĩa tư bản dầu mỏ sai trái-nước Mỹ đã lảng tránh các tội lỗi trước đó, tránh phơi bày toàn bộ quá trình hủy diệt mà nó đã tạo ra. Mỹ là nước có lượng khí thải carbon tính trên đầu người lớn nhất thế giới. Mỗi công dân Mỹ tạo ra bình quân 20 tấn khí thải carbon mỗi năm, gần gấp 4 lần so với công dân Trung Quốc. Không có bất cứ quốc gia nào thải vào khí quyển trái đất lượng khí thải carbon tích lũy lớn hơn Mỹ trong kỷ nguyên công nghiệp-thực tế lịch sử cho thấy trung Quốc hay Ấn Độ còn lâu mới có thể bắt kịp. Không có quốc gia nào đầu tư nhiều và mạnh mẽ để khuyến khích về mặt chính trị, tư tưởng và quân sự cũng như bảo vệ cho hệ thống lợi nhuận phụ thuộc vào tăng trưởng và thải khí carbon như Mỹ. Nước Mỹ là sở chỉ huy trong cuộc chiến lobby và tuyên truyền của các tổ hợp công nghiệp thải khí carbon khổng lồ nhằm chống lại các khám phá ngày càng nhiều của khoa học hiện đại về khí hậu-bao gồm cả NASA. Không có chính phủ quốc gia nào thành công trong việc chặn đứng sáu nỗ lực quốc tế nhằm giảm khí thải carbon toàn cầu như Mỹ-kỷ lục được tiếp tục với sự báo thù trong nhiệm kỳ “xanh” của Obama.
Tầng lớp nhà đầu tư Mỹ đang thống trị thế giới trong đầu tư toàn cầu vào công nghiệp năng lượng hóa thạch. Trong khi đa số các nhà máy than mới của thế giới được xây dựng ở Trung Quốc và Ấn Độ, thì phần lớn tài chính tới từ phố Wall. Từ năm 2006, ví dụ, J. P. Morgan Chase đã đầu tư 17 tỷ USD vào xây dựng nhà máy than mới ở nước ngoài. Citibank đầu tư 14 tỷ USD trong cùng kỳ (P. Gaspar, International Socialist Review, tháng 1 năm 2013). Sadie Robinson viết trên tờ báo Anh Socialist Worker, “Chỉ đơn giản xem xét lượng khí thải của Trung Quốc là cách che dấu vai trò của các quốc gia phương Tây trong việc tạo ra chúng. Trung Quốc gia tăng lượng khí thải là do sự mở rộng nhanh chóng của các nhà máy nhiệt điện. Điều này cho thấy sự thật là nhiều công ty phương Tây đã chuyển thành công việc phát khí thải sang Trung Quốc. Họ nhanh chóng mở các nhà máy chế tạo công nghiệp nặng ở Trung Quốc để khai thác lợi thế của chi phí vận hành thấp…Và các nhà máy này được cung cấp phần lớn năng lượng bằng than…Phương Tây đã thúc đẩy sự gia tăng của khí thải ở Trung Quốc bằng cách sử dụng chúng như nguồn hàng hóa giá rẻ” (Socialist Worker UK, November 24, 2009). Báo cáo mới đây của tờ Rolling Stone có tiêu đề “Cách Mỹ xuất khẩu sự nóng lên của toàn cầu”, theo phóng viên của RS Tim Dickinson, “cho dù là quốc gia của chúng ta có chuyển hướng sang các dạng năng lượng thân thiện hơn của tương lai,  thì các tập đoàn dầu và than của nước Mỹ vẫn đang chạy đua đưa quốc gia vào vị trí kẻ buôn bán năng lượng bẩn toàn cầu-cung cấp cho thế giới đang phát triển loại năng lượng giá rẻ, lắm chất thải, phá hủy khí hậu. Cũng giống như các công ty thuốc lá đã làm trong những năm 1990-khi chính sách thuế mới, các luật lệ và nhận thức gia tăng của người tiêu dùng làm giảm nhu cầu nội địa-Các hãng thải Carbon lớn chuyển sang các thị trường mới tại các nền kinh tế đang bùng nổ của châu Á, nơi mà các luật lệ thất bại. Điều tồi tệ là Nhà Trắng đã dễ dàng giành chức quán quân trong việc buôn bán năng lượng bẩn” (RS, February 3, 2014, http://www.rollingstone.com). 
Những điều đó phù hợp với phát hiện trong khảo sát của Pew Global Attitude năm 2007. Tại 34 trong số 37 nước có công chúng được hỏi “nước nào làm tổn hại đến môi trường nhiều nhất?”, đa số hay số nhiều trả lời là Mỹ. Ý kiến đó tất nhiên là không kém phổ biến-và không kém chính xác-dưới thời Obama hơn là dưới thời Bush-Cheney. Chính quyền Obama đã thành công trong việc không ngừng chôn vùi các nỗ lực hợp tác toàn cầu nhằm cắt giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính. “Chính quyền Obama muốn được coi là lãnh đạo về khí hậu, nhưng không có nguồn năng lượng hóa thạch nào mà không chuẩn bị được khai thác,” giám đốc nghiên cứu về Oil Change Intenational, Lorne Stockman nói. “Than đá, khí gas, các sản phẩm tinh chế-dầu thô là loại cuối cùng trong số chúng. Bạn cần không? Chúng tôi sẽ xuất khẩu”.
Thảm sát sinh thái không phải là tội nhẹ đối với cư dân toàn cầu. Các vấn đề về “xả thải và môi trường” được đa số công chúng các nước bao gồm Canada, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Ukraina, Trung Quốc và Ấn Độ nhận định trong bảng xếp hạng năm 2007 của Pew là “nguy cơ lớn nhất của thế giới” (được xếp trên cả chạy đua vũ khí hạt nhân, AIDS và các đại dịch truyền nhiễm khác, tôn giáo và phân biệt chủng tộc và bất bình đẳng thu nhập) (2007 Pew Global Attitude Survey).
“Những người nghĩ rằng họ vô tội luôn tự cho mình là đúng đắn”
Các khảo sát như bảng xếp hạng của WINMR-Gallup năm 2013, Gallup năm 2006 và khảo sát của Pew Global Attitudes năm 2007 có thúc đẩy một phong trào hòa bình mới ở Mỹ? Phần lớn thường dân Mỹ đều không mong muốn nước Mỹ bị coi là kẻ đầu gấu và mối đe dọa toàn cầu, hay mối đe dọa thảm sát hàng loạt đối với an ninh, tự do và tồn tại toàn cầu. Họ không phải là những người ủng hộ chiến tranh, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa toàn trị hay thảm sát sinh thái.
Nhưng trong thực tế, ý kiến toàn cầu cho thấy lo ngại phổ biến, dài hạn, hợp lý và thường xuyên là Mỹ đã can thiệp và điều khiển ý kiến của công chúng Mỹ, có hai cản trở cần được vượt qua. Thứ nhất là các nhà quản lý và chủ sở hữu truyền thông chính thống từ chối các báo cáo nghiêm túc trên quan điểm của những người bên ngoài biên giới nước Mỹ-phản ánh sự thống nhất lâu dài của các chính khách Mỹ đối với ý kiến của những người đang thực thi quyền lực bên ngoài nước Mỹ (Không có nghĩa là các chính khách quan tâm nhiều tới ý kiến công chúng trong phạm vi nước Mỹ, see Paul Street, “No Functioning Democracy,” Z Magazine, September 2013).
Rào cản thứ hai là học thuyết có tính vị kỷ quốc gia về bản chất cao quý và cao thượng của nước Mỹ đã ngăn cản nhiều công dân Mỹ sẵn sàng chấp nhận việc Mỹ là mối đe dọa ở bất kỳ dạng nào đối với hòa bình thế giới, mối đe dọa hàng đầu lại càng khó chấp nhận. Theo như phản ánh của cựu phóng viên quốc tế của tờ New York Times Stephen Kinzer về việc Mỹ thôn tính Hawaii và Philippine, chiếm đóng Puerto Rico, lật đổ chính phủ dân cử ở Nicaragua và Honduras suốt những năm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20: “Tại sao người Mỹ lại ủng hộ các chính sách đem đến đau khổ cho người dân ở các quốc gia khác? Có hai lý do, chúng hàm chứa lẫn nhau. Nguyên nhân bản chất là kiểm soát các miền đất xa lạ được coi là yếu tố sống còn đối với sự thịnh vượng của nước Mỹ. Giải thích này, mặc dù vậy, được bao hàm bên trong một điều khác: Niềm tin trong sâu thẳm của đa số người Mỹ rằng nước Mỹ là quyền lực của cái tốt trên thế giới. Do vậy, nói rộng ra thì ngay cả các nhiệm vụ phá hủy mà nước Mỹ lao vào để thể hiện quyền lực cũng có thể dung thứ”.
“Các thế hệ lãnh đạo chính trị và kinh doanh của nước Mỹ đã trao cho sức mạnh của lý tưởng cao quý một sự ngoại lệ. Khi họ can thiệp quốc tế vì các lý do ích kỷ và không cao quý, họ luôn nhấn mạnh rằng cuối cùng hành động của họ không chỉ đem lại lợi ích cho nước Mỹ mà cả cả công dân tại các quốc gia bị can thiệp, nói rộng ra là tạo dựng hòa bình và công lý trên thế giới” (Kinzer, Overthrow: America’s Century of Regime Change From Hawaii to Iraq, New York, 2006).
Vấn đề của “ngoại lệ Mỹ”-niềm tin có tính tôn giáo rằng các mục tiêu và hành động của nước Mỹ là đạo đức, có ý định tốt, và tốt cho thế giới-đã được duy trì trong thế kỷ tiếp theo. Đó là nguyên nhân chính, cùng với quy mô và hoạt động của đế quốc Mỹ, khiến cho công chúng thế giới nhận định chính xác nước Mỹ là mối đe dọa hàng đầu đối với hòa bình trên trái đất. Không có gì nguy hiểm hơn quyền lực quân sự siêu việt tự đặt bản thân ra ngoài đạo đức, khi các tổng thống và các ứng cử viên tổng thống nói theo kiểu: “Chúng ta lãnh đạo thế giới trong cuộc chiến chống lại các ác trước mắt và thúc đẩy điều tốt đẹp tối đa…Nước Mỹ là hy vọng cuối cùng, tốt nhất của trái đất…Mục tiêu lớn hơn của nước Mỹ trên khắp thế giới là thúc đẩy mở rộng tự do. Thời cơ của nước Mỹ chưa qua đi…chúng ta sẽ nắm bắt thời cơ này, và bắt đầu một thế giới mới (U.S. presidential candidate Barack Obama, April 23, 2007). “Sự an toàn của chúng ta bắt nguồn từ sự đúng đắn trong lý do của chúng ta; sức mạnh hình mẫu của chúng ta; phẩm chất được tôi luyện của sự khiêm nhường và thận trọng” (U.S. President Barack Obama, Inaugural Address, January 20, 2009).
Khi đọc những tuyên bố kiểu này (tiêu chuẩn dài hạn trong một bộ phận chính khách Mỹ), tôi nhớ đến quan sát của nhà tâm lý học trị liệu M. Scott Peck là “Ác quỷ của thế giới này được bổ sung bởi sự tự cho là đúng đắn của những người nghĩ rằng họ vô tội vì họ không sẵn sàng chịu đựng sự khó khăn của việc tự phán xét bản thân một cách thích hợp…tội lỗi cơ bản nhất của họ là sự kiêu ngạo-bởi vì mọi tội lỗi đều có thể sửa chữa trừ tội tin rằng mình vô tội. Họ là nhũng con người của sự dối trá” (M. Scott Peck, People of the Lie: The Hope for Healing Human Evil, New York, 1983). Đó là điều hợp lý, nước Mỹ tiếp tục là quốc gia nguy hiểm nhất đối với thế giới sau khi thay đổi từ gã đế quốc công khai và vụng về Bush sang tên đế quốc giấu mặt, được coi là hướng tới hòa bình nhiều hơn Obama. Thế giới rõ ràng là không còn bị lừa bịp khi Obama thay đổi cái thương hiệu “Schwarzenegger của chính trị thế giới”. Họ đã hiểu vấn đề-tổng thống Bush được bầu với cái tên “hy vọng” và “thay đổi" (watchwords of the 1992 Bill Clinton campaign) chỉ đơn giản hóa bộ tranh phục mới mà cũ nhất của đế quốc.
Chi phí nội địa và lợi ích của đế quốc
Đâu là cơ sở của lực lượng chống đế quốc và học thuyết hiểm độc của lời dối trá ngoại lệ Mỹ trong nước Mỹ ngày nay? Các nhà hoạt động và tư tưởng hòa bình Mỹ nên đặc biệt chú ý tới các giai cấp tự nhiên trong đế quốc Mỹ và trả lời câu hỏi ai có lợi nhất và ai phải trả nhiều nhất trong cấu trúc quyền lực nội địa của nước Mỹ bất bình đẳng và tàn bạo. Stephen Kinzer đã quên bổ sung thêm rằng “sự thịnh vượng của nước Mỹ” nói chung chỉ là cách nói trại đi của “lợi nhuận của giai cấp thống trị kinh tế Mỹ”.
Như Chomsky ghi nhận năm 1969, “Chắc chắn là chi phí của đế quốc không đem lại lợi ích cho ai cả: 50.000 người Mỹ chết hoặc bị thương để kinh tế Mỹ mạnh hơn các đối thủ công nghiệp. Chi phí của đế quốc đối với toàn bộ xã hội có thể là đáng kể. Những chi phí ấy, tuy vậy, là chi phí xã hội, ngược lại lợi nhuận từ đầu tư nước ngoài được đảm bảo bằng các thành công quân sự tập trung hoàn toàn vào các nhóm đặc biệt trong xã hội. Chi phí của đế quốc được phân bổ cho toàn bộ xã hội, trong khi lợi nhuận chỉ chảy túi vào một số ít trong đó. (Chomsky, For Reasons of State, Pantheon, 1972).
Điều mà Chomsky vạch ra giờ đã là sự thực khi sự nghèo khổ tràn lan khắp nước Mỹ mặc dù các nhà đầu tư quân sự hàng đầu đang tận hưởng sự giàu có không thể tưởng tượng trong “Thời đại Bọc Vàng mới”, cái thời đại mà 400 người giàu nhất nước Mỹ chiếm hữu nhiều của cải hơn một nửa dân số Mỹ-150 triệu công dân Mỹ-và 1% giàu có nhất chiếm hữu số của cải bằng 90% còn lại.
Mặc dù vậy, không ai, cho dù là người giàu, có thể thoát khỏi hậu quả khủng khiếp của cái trật tự xã hội thảm sát sinh thái, tăng trưởng, lãng phí và phụ thuộc vào dầu mỏ mà nước Mỹ thề sẽ bảo vệ: chủ nghĩa tư bản quốc tế. Đây là khẩu hiệu của các nhà hoạt động môi trường bên ngoài hội nghị khí hậu toàn cầu vừa qua, nơi Obama buộc phải giả vờ cắt giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính toàn cầu: “Không có kinh tế trên hành tinh chết” và “Không có hành tinh B”.

Saturday, March 8, 2014

Khủng hoảng kinh tế ở Ukraina: Quá khứ, hiện tại và tương lai

Đây là bản dịch bài viết "The Ukraine Economic Crisis: Past, Present and Future" của tiến sĩ kinh tế chính trị học Jack Ramus, hiện đang giảng dạy kinh tế và chính trị tại St. Mary's College California. Bản dịch này nhằm giới thiệu với bạn đọc blog một cái nhìn toàn cảnh và có chiều sâu hơn nữa về cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị hiện nay của Ukraina.

Nền kinh tế Ukraina đã suy sụp từ lâu-đó là một trong những nền kinh tế yếu kém nhất thế giới. Sự thật đó đã diễn ra trước khi có sự kiện ngày 20 tháng hai năm 2014 cũng như sự sụp đổ của chính quyền Yanukovich. Sự thật này càng trở nên rõ nét khi nền kinh tế tiếp tục xấu đi nhanh hơn trong những tuần tiếp theo. 

Những khuynh hướng của cuộc khủng hoảng kinh tế hiện tại ở Ukraina là gì? Đâu là nguồn gốc của nó trong những thập kỷ trước đây?

Từ năm 2000 cho đến "Cách mạng Cam" năm 2004, GDP bình quân đầu người của Ukraina thực sự đã tăng so với các nước láng giềng thuộc khối cộng đồng các quốc gia độc lập thuộc Liên Xô cũ (CIS), từ 61% lên 68%. Tuy vậy, từ năm 2004 trở lại đây GDP trên đầu người lại giảm chóng mặt từ 68% xuống 57% vào năm 2013. Nền kinh tế Ukraina rơi vào suy thoái năm 2013. Suy thoái kinh tế đã tăng tốc trong năm 2014, một số báo cáo đã dự đoán suy thoái sẽ làm GDP của Ukraina giảm 5-10% trong năm tiếp theo. Đó không còn là suy thoái mà là một cuộc khủng hoảng kiểu Hy Lạp. 

Cuộc khủng hoảng hiện thời không chỉ liên quan đến suy giảm của GDP thực và thu nhập bình quân. Thể hiện rõ nhất của cuộc khủng hoảng là sự phá giá nhanh chóng của đồng nội tệ và hơn nữa là sự thâm hụt dự trữ ngoại tệ đã gia tăng đáng kể, dự trữ ngoại tệ rất quan trọng đối với thương mại, để trả các khoản nợ quốc tế, và giúp ngân hàng trung ương can thiệp ngăn chặn sự phá giá của đồng nội tệ. Nếu đồng nội tệ phá giá và dự trữ ngoại tệ hạn chế thì cuộc khủng hoảng sẽ nhanh chóng lan rộng. Ukraina đã đến rất gần điểm đó.

Từ đầu năm đến nay, giá trị đồng nội tệ của Ukraina đã giảm tới 20% so với đồng USD. Điều đó có nghĩa là lạm phát đối với mọi mặt hàng nhập khẩu. Người Ukraina chi tiêu ít hơn, doanh nghiệp đầu tư ít hơn, và hệ quả là tăng trưởng kinh tế chậm. 

Sự phá giá của đồng nội tệ sẽ khiến ngân hàng trung ương phải tăng lãi suất trong nước, điều đó sẽ cản trở các động lực kinh tế khác, như tiêu dùng và đầu tư trong nước sẽ tiếp tục giảm sâu. Lãi suất tăng cũng làm chậm dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào Ukraina. 

Sự phá giá của đồng nội tệ càng trở nên trầm trọng dưới tác động của thâm hụt dự trữ ngoại tệ nhanh chóng. Ngoại hối là cần thiết để thanh toán các trái phiếu đến hạn cho nhà đầu tư nước ngoài. Không thanh toán có nghĩa là phá sản. Phá sản có nghĩa là không có các khoản vay tiếp theo, sản xuất bị cắt giảm, thất nghiệp gia tăng. Tổn thất dự trữ ngoại hối có nghĩa là không có tiền cho nhập khẩu các nguyên vật liệu sản xuất quan trọng và các hàng hóa tiêu dùng thiết yếu. Ngoại hối đang biến mất nhanh chóng ở Ukraina. Đầu tiên là vốn bị rút ra khỏi Ukraina khi người tiêu dùng, nhà đầu tư, doanh nghiệp chuyển đồng nội tệ thành ngoại tệ và gửi chúng ra nước ngoài để đảm bảo an toàn. Thứ hai là do ngân hàng trung ương Ukraina sử dụng để chống đỡ cho đồng nội tệ khỏi tiếp tục mất giá. 

Dự trữ ngoại hối của Ukraina được ước tính khoảng 20 tỷ USD dự trữ vào đầu năm 2014. Đến ngày 1 tháng 3 phương tây ước tính con số khoảng 12 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tiếp tục suy giảm có nghĩa là đồng nội tệ tiếp tục lao dốc, vốn tiếp tục chảy mạnh ra khỏi Ukraina và phần lớn nền kinh tế có thể rơi vào trạng thái ngưng trệ. 

Ước tính gần đây nhất cho thấy dự trữ ngoại tệ đã sụt mất 4 tỷ USD trong một tuần. Kịch bản xấu nhất xảy ra là các khoản nợ của những người nắm trái phiếu và cho vay phương Tây (chủ yếu là các ngân hàng của Áo và Italia) không được thanh toán sau đó lan sang các ngân hàng ở Ukraina và rủi ro lan sang châu Âu thông qua các ngân hàng Áo và Italia ngày càng rõ nét. 

Hiện đã có nhiều thảo luận về quy mô của gói "giải cứu" mà Ukraina cần từ phương Tây, tức là châu Âu, IMF và Mỹ. Bộ trưởng tài chính mới và ngân hàng trung ương Ukraina đề xuất một khoản 35 tỷ USD cho hai năm tới. Tuy vậy, đó là sự đánh giá thấp thực tế. Đồng nội tệ tiếp tục phá giá, các sự kiện chính trị hiện nay đang cho thấy điều đó, đồng nội tệ phá giá khiến cho giá trị khoản nợ phải thanh toán tăng lên. Phương Tây cần phải đưa ra gói cứu trợ 20 tỷ USD trước ngày 1 tháng 5 thay vì vào cuối năm. 

Tổng số nợ hiện nay của Ukraina được ước tính vào khoảng 80 tỷ USD. Nó sẽ nhanh chóng biến thành 100 tỷ USD vào mùa hè, và hơn nữa vào năm sau. 

Liệu các nhà tư bản châu Âu có quan tâm, và các nhà tư bản Mỹ bảo vệ châu Âu về mặt tài chính, cung cấp ngay lập tức cứu trợ ngắn hạn (20 tỷ USD) cũng như sẵn sàng mở tiếp hầu bao để cứu trợ cho khoản nợ 100 tỷ USD? Rất khó xảy ra.

Bước đầu IMF cho thấy sẽ cung cấp 27 tỷ USD, nhưng giải ngân trong 7 năm. Theo đúng kiểu các thỏa thuận với IMF thì phần lớn khoản tiền 27 tỷ USD sẽ được dùng để trả nợ các ngân hàng phương Tây trước tiên, để chắc chắn rằng họ được bảo vệ và bảo hiểm. Một phần nhỏ còn lại sẽ được dùng để kích thích kinh tế Ucraina, hoặc làm yên lòng các hộ gia đình bình thường. Mặt khác, các điều kiện của IMF (như các thỏa thuận của IMF đã thể hiện) sẽ rất tai hại đối với nền kinh tế. IMF đã tuyên bố chính thức là gói giải cứu chỉ sẵn sàng khi chính phủ Ukraina chấp nhận cắt giảm chi tiêu của chính phủ cũng như việc làm, trợ cấp hưu trí, đặc biệt là các khoản trợ cấp lớn đang cung cấp cho các hộ gia đình để bù đắp cho chi phí dầu và gas cao.

Ngoài IMF, Liên minh châu Âu (EU) không nói gì về hỗ trợ tài chính. Dường như Ba Lan và Hoa Kỳ đang tính toán điều gì đó. Nhưng Hoa Kỳ cũng bày tỏ sẵn sàng cho vay khẩn cấp 1 tỷ USD, mặc dù Bộ trưởng Bộ Ngoại giao John Kerry và thượng nghị sĩ phe diều hâu John McCain (người đích thân đến Maidan để làm náo động đường phố) đang co lại trong hậu trường để bàn các kế sách khác. Khó có thể tưởng tượng Obama và nước Mỹ sẽ cung cấp một điều gì đáng kể trong khi nước Mỹ đang sửa soạn cho cuộc bầu cử vào tháng 11 năm nay.

Một chuyên gia nghiên cứu hàn lâm có liên hệ với các ngân hàng và think tanks phương Tây, và là cựu cố vấn của chính phủ Ukraina, Anders Aslund, tiết lộ trong một bài xã luận gần đây trên tờ British Financial Times, khoản tiền cần thiết để hỗ trợ Ukraina đã bị hạ thấp, nhưng lại bắt người Ukraina gánh chi phí cứu trợ trắng trợn hơn-có thể nói rằng, cứu trợ sẽ yêu cầu một chương trình "thắt lưng buộc bụng" kiểu phương Tây đối với thường dân Ukraina. Theo đó người Ukraina phải chấp nhận ít việc làm hơn, lạm phát, mất các khoản trợ cấp khí đốt hào phóng cho hộ gia đình. Ukraina với khoản cứu trợ của IMF chắc chắn sẽ lặp lại cuộc khủng hoảng thắt lưng buộc bụng vẫn đang tiếp diễn ở Hy Lạp.

Một chủ đề thường được lặp đi lặp lại trên truyền thông và báo chí phương Tây là nền kinh tế Ukraina sụp đổ hoàn toàn do tham nhũng và sự vô dụng của chính quyền Yanukovich. Quan điểm đó bỏ qua một bức tranh rộng lớn hơn, chỉ mang tính chính trị, thậm chí mang tính chất hệ tư tưởng, phân tích nền kinh tế Ukraina cần phải rộng hơn là phân tích kinh tế thuần túy.

Khuynh hướng kinh tế không diễn ra trong một đêm, một tuần hay một tháng. Trên thực tế, GDP đầu người của Ucraina đã tăng đều đặn cho đến cuộc "Cách mạng Cam" năm 2004, sau đó đã giảm khi so sánh với các nước láng giềng. Lý do là cho đến năm 2004 thì nền kinh tế Ukraina gắn bó chặt chẽ với Liên bang Nga. Những nỗ lực phá vỡ quan hệ ấy dẫn đến một giai đoạn điều chỉnh với tăng trưởng chậm hơn, mặc dù Ukraina đã cố gắng hướng tới châu Âu trong giao dịch xuất khẩu và tài chính. Nền kinh tế suy yếu là một phần của quá trình chuyển đổi cấp tốc kể từ sau năm 2004. 

Nguyên nhân thứ hai tác động tiêu cực tới Ukraina là giá năng lượng, cũng là một hệ quả của việc phá vỡ mối quan hệ với Liên bang Nga sau năm 2004. Với dự trữ gas và dầu mỏ ít ỏi, khi thị trường dầu mỏ thế giới và lạm phát tăng vào giai đoạn 2006-2008, chủ yếu do các cartel dầu mỏ phương Tây và nhà đầu cơ toàn cầu, GDP của Ukraina đã bị giáng một đòn kinh tế nặng. Tiếp theo đó là tác động thứ ba, vào cuối năm 2008-2010, cuộc suy thoái kinh tế và đình trệ thương mại toàn cầu đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới Ukraina, do tăng trưởng kinh tế của Ukraina dựa trên xuất khẩu. 

Trong năm 2010, Ukraina đã nỗ lực hướng xuất khẩu và thương mại vào Tây Âu, song châu Âu lại rơi vào "suy thoái kép" lần thứ hai từ cuối năm 2010 cho đến 2013. Ngân hàng, doanh nghiệp và các nền kinh tế Tây Âu không thể tăng nhu cầu đối với hàng nhập khẩu từ Ukraina cũng như đầu tư ở quy mô lớn vào Ukraina. Chính bản thân châu Âu đã sa lầy trong cuộc khủng hoảng thứ hai và bận rộn với việc giải cứu các chính phủ và ngân hàng trong hệ thống (Hy Lạp, Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ireland, các nước vùng Baltic, Hungary...). Đầu tư ròng trong nội bộ châu Âu đã yếu và các khoản cho vay của ngân hàng trong phạm vi châu Âu cũng giảm xuống. Cung cấp các khoản vay và đầu tư trực tiếp cho Ukraina không phải là vấn đề ưu tiên trong chương trình nghị sự của châu Âu. Đối với lợi ích của châu Âu điều đó bất khả thi cả về mặt kinh tế lẫn chính trị. 

Trái ngược với tuyên bố công khai của các chính phủ cũng như ngân hàng Tây Âu về việc hỗ trợ tài chính cho Ukraina, từ sau ngày 20 tháng hai, thực tế cho thấy châu Âu không có khả năng cung cấp hỗ trợ tài chính dù là trên lời hứa. Thậm chí ngay cả Mỹ cũng vậy, họ chỉ lặng lẽ thuyết phục các chính phủ Tây Âu phía sau hậu trường rằng sẽ khôi phục các khoản trợ giúp tài chính để châu Âu có thể đóng góp vào Ukraina. Obama sẽ không mạo hiểm với một gói cứu trợ cho Ukraina ở bất cứ quy mô nào trong năm bầu cử của Mỹ.

Cũng giống như những nỗ lực tái cấu trúc nền kinh tế Ukraina sau năm 2004, cũng như bong bóng đầu cơ dầu mỏ năm 2006-2008, cũng như cuộc khủng hoảng kinh tế kép của châu Âu năm 2008-2009 và 2011-2013, sự sụp đổ của các thị trường mới nổi và đồng nội tệ của họ bắt đầu từ cuối mùa hè năm 2013 đã tạo ra tác động tiêu cực thứ tư đối với nền kinh tế Ukraina.

Khủng hoảng đồng nội tệ của các thị trường mới nổi làm giảm tăng trưởng kinh tế của họ và tạo ra dòng vốn chảy ngược về phương Tây, nền kinh tế Ukraina cũng chịu ảnh hưởng tương tự. Nếu những nền kinh tế như Brazil, Nam Phi và các nước khác-đã từng bùng nổ nhưng giờ đang suy thoái hoặc trì trệ-đã bị tàn phá nặng nề trong năm ngoái bởi sự thay đổi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương Mỹ, châu Âu và Nhật Bản, điều đó giải thích tại sao nền kinh tế Ukraina phải chịu không ít những ảnh hưởng tiêu cực trong năm qua. Nếu sự đảo ngược chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương Mỹ, Cục Dự Trữ Liên Bang, và các ngân hàng trung ương khác có hiệu lực, tạo ra hàng loạt gián đoạn lớn trong nền kinh tế của các thị trường mới nổi thì không có gì phải nghi ngờ khi nền kinh tế Ukraina phải chịu đựng những điều giống như vậy, ví dụ như: đồng nội tệ mất giá, rút vốn, giảm tỷ giá hối đoái, tăng trưởng kinh tế chậm. Ukraina thậm chí còn tệ hơn các thị trường mới nổi, như các sự kiện chính trị gần đây đã làm trầm trọng thêm các tác động đó.

Thêm vào đó có thể ghi nhận rằng khác với Brazil và các nước khác, Ukraina không được hưởng lợi từ dòng thác thanh khoản mà các ngân hàng trung ương phương Tây bơm ra để cứu các ngân hàng và tổ chức tài chính của họ sau năm 2008. Dòng tiền giá rẻ đã thúc đẩy các thị trường mới nổi một thời gian, cho đến năm ngoái. Hiện giờ, tiền bị thu về phương Tây theo sự thay đổi của chính sách tiền tệ. Do đó, năm ngoái nền kinh tế Ukraina đã cảm nhận được tác động tiêu cực trong sự thay đổi chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương trên toàn cầu giống như các thị trường mới nổi, trong khi chưa bao giờ thu được bất cứ lợi ích nào từ dòng tiền giá rẻ tràn ngập các thị trường mới nổi suốt thời kỳ 2008-2013. Ukraina là nạn nhân bất hạnh của một số khuynh hướng kinh tế dài hạn được đặt ra trong các quyết định chính trị vào năm 2004, rất lâu trước khi Yanukovich nhậm chức tổng thống. Ukraina cũng giống như các nền kinh tế khác là nạn nhân của bong bóng giá dầu mỏ giai đoạn 2006-2008. Họ cũng chưa bao giờ nhận được hỗ trợ xuất khẩu và đầu tư trực tiếp của Tây Âu do sụp đổ kinh tế và thương mại toàn cầu và do đợt suy thoái kinh tế kép của châu Âu giai đoạn 2011-2013. Sau cùng, Ukraina đang chịu một đòn nặng nề từ khủng hoảng của các thị trường mới nổi do sự thay đổi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương Mỹ.

Điều đó có nghĩa là cuộc khủng hoảng kinh tế Ukraina không thể đặt hoàn toàn vào lỗi của Yanukovich. Tham nhũng và các chính sách vô dụng của chính quyền Yanukovich có thể là một trong vô số các nguyên nhân khác nhau của các vấn đề kinh tế Ukraina hiện nay, nhưng dù sao các nguyên nhân lịch sử kinh tế lớn hơn cũng tham dự vào đó. Việc nền kinh tế Ukraina bị đột ngột cắt đứt khỏi Nga và sự quản lý yếu kém của tư bản phương Tây trong những thập kỷ qua (cú sốc giá dầu, khủng hoảng tài chính 2008, sự bất lực của các nước phương Tây trong việc phục hồi nền kinh tế bền vững sau năm 2008, khủng hoảng của các thị trường mới nổi hiện nay) là những điểm quan trọng để thấu hiểu tình trạng kinh tế của người dân Ukraina bình thường.

Các phân tích đã đưa ra không phải là lời biện hộ cho chính quyền Yanukovich về mặt kinh tế. Thay vào đó là một nỗ lực nhìn vào phía sau động cơ ý thức hệ và chính trị của những người đang lập luận ở phía Tây rằng người ta biểu tình tại quảng trường Maidan là do tham nhũng của chính quyền; hay họ biểu tình là do Yanukovich vô dụng hoặc ăn cắp của công. Đó là phân tích chính trị được chống đỡ bằng hệ tư tưởng của một phân tích kinh tế tồi.

Rõ ràng là các vấn đề kinh tế của Ukraina nằm sâu và sâu xa hơn nhiều. Nếu vấn đề kinh tế hiện nay là hậu quả của khủng hoảng kinh tế dài hạn của phương Tây từ sau năm 2008 và những thay đổi chính sách tiếp đó, thì có lẽ cần cân nhắc hai lần đối với bất kỳ giải pháp dài hạn nào (ngắn hạn chỉ có một) cho cuộc khủng hoảng kinh tế của Ukraina bắt nguồn từ các nền kinh tế phương Tây.

Cuộc khủng hoảng kinh tế ở các nước phương Tây vẫn chưa chấm dứt. Kinh tế châu Âu vẫn trì trệ, kinh tế Đức tăng trưởng chậm nhưng thu nhập từ xuất khẩu sang các nước trong liên minh châu Âu và Trung Quốc đang tăng chậm lại. Nước Anh đang mời chào một cách tuyệt vọng các nhà đầu tư siêu giàu trên thế giới mua bất động sản tại London để tạo bong bóng, đồng thời tán tỉnh Trung Quốc mang vốn tới xây dựng các cơ sở hạ tầng đã đổ nát của mình. Cùng lúc ấy, Nhật Bản bắt tay vào thực hiện chính sách tiền tệ kiểu "Cục Dự Trữ Liên Bang" chỉ để kích thích giá cả của các tài sản tài chính mặc cho nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng chậm. Chưa phải là hết, kể từ giữa năm 2013 phương Tây cố gắng giữ các động cơ tăng trưởng kinh tế tiếp tục hoạt động bằng cách hy sinh các nền kinh tế mới nổi. Châu Âu và Mỹ không có bất cứ khả năng nào để cứu trợ Ukraina một khoản từ 30-50 tỷ USD cho đến năm tới cho dù điều đó là cần thiết. 

Nếu phỏng đoán thì lý do Yanukovich chọn 15 tỷ USD từ Nga mặc dù thấp hơn con số hứa hẹn của châu Âu là con số mà châu Âu đưa ra quá thấp và đi kèm nhiều điều kiện thắt lưng buộc bụng của IMF. Hơn nữa, khả năng nhận cứu trợ năng lượng từ Nga cũng tốt hơn là trở thành đối tác bị tước đoạt với giá năng lượng cao của châu Âu. Đây không phải là sự biện hộ cho Yanukovich, mặc dù ông ta là cái gai về mặt kinh tế trong mắt Nga cũng như châu Âu, ông ta luôn tìm cách dùng bên này chống lại bên kia. Ông ta là một chính trị gia tuyệt vọng, quá phụ thuộc vào tiền bạc và sự hỗ trợ của đám tài phiệt ở Ukraina. Từ năm 2010, ông ta cố gắng chơi trò đu dây nhưng giờ đã bị ngã. 

Đối với Mỹ, cũng giống như Nga, trong ngắn hạn có thể tính toán giải ngân một khoản hỗ trợ thực nhỏ ngoài những hứa hẹn, như châu Âu và IMF đã hứa hẹn, để tác động tới cuộc bầu cử tại Ukraina vào tháng 5 tới đây.

Cả Mỹ và châu Âu đều muốn có các chính trị gia đáng tin cậy (và dễ bảo) trong Quốc hội và chính phủ Ukraina. Điều đó có nghĩa là các chính trị gia tuân theo chính sách kinh tế phương Tây và hội nhập Ukraina vào quỹ đạo kinh tế phương Tây. Hay nói cách khác, các chính khách phản ứng đúng đắn khi tài khoản cá nhân của họ ở Thụy Sĩ và Luxembourg bị đe dọa phong tỏa, như trong trường hợp những ngày ngay trước 20 tháng hai.

Canh bạc của phương Tây là họ hy vọng có thể loại bỏ được các lực lượng cực đoan, quốc gia quá khích, phát xít, sau khi đã sử dụng các lực lượng ấy để lật đổ chính quyền Yanukovich; hoặc ít nhất cũng có thể làm giảm ảnh hưởng của những thế lực đó đối với chính quyền mới. Nhưng công việc đó không hề đơn giản, họ sẽ thấy điều đó. Những gì mà phương Tây muốn là "các nhà tư bản thân hữu" của Yanukovich trong Quốc hội và chính phủ trưởng thành lên, chấm dứt dựa vào chủ nghĩa thân hữu và học cách trở thành nhà tư bản đáng kính trọng đối với phương Tây trong vai trò đối tác mới. 

Lưu ý sau cùng về hoàn cảnh chính trị: Chính sách đối ngoại của chính quyền Obama về cơ bản giống với chính sách đối ngoại của chính quyền George. W. Bush. Đó là chính sách của phe tân bảo thủ ở Mỹ, phe này đã cố thủ trong chính quyền Mỹ suốt thời kỳ tại chức của Obama. Không phải là ngẫu nhiên mà đầu mối liên lạc của Mỹ tại Ukraina trong suốt các sự kiện gần đây là Virginia Nuland. Nuland luôn là người thuộc phe tân bảo thủ và đã có nhiều năm trực tiếp làm cố vấn cá nhân cho "Vua của tân bảo thủ" ở Mỹ, cựu phó tổng thống Dick Cheney, trong suốt nhiệm kỳ của Bush. 

Chính sách của Mỹ không cung cấp lượng tiền mặt lớn mà Ukraina cần để hồi phục kinh tế. Các tập đoàn đa quốc gia cũng không gia tăng vốn đầu tư trực tiếp của họ vào Ukraina trong tương lai gần. Những gì mà các nhà kinh doanh đa quốc gia muốn không phải là các sản phẩm nông nghiệp hay cơ sở công nghiệp nhỏ ở miền Tây Ukraina; họ muốn các cơ sở công nghiệp ở phía Đông Ukraina. Họ muốn mua lại, điều chỉnh quy mô, và đưa các cơ sở công nghiệp ở phía đông Ukraina vào kế hoạch của công ty toàn cầu, đáp ứng cơn khát tái đầu tư. Nhưng chừng nào mà cuộc khủng hoảng chính trị còn tiếp diễn, sẽ có rất it các công ty đa quốc gia đầu tư trực tiếp vào Ukraina. 

Về dài hạn, nếu Mỹ và châu Âu bằng cách nào đó áp đặt chính trị cho cuộc bầu cử sắp tới của Ukraina thì nền kinh tế Ukraina sẽ hỗn loạn khủng khiếp hơn hiện nay. Đồng nội tệ của Ukraina sẽ gần như vô giá trị. Lạm phát sẽ tràn lan. Các hộ gia đình sẽ bị cắt trợ cấp của chính phủ. Tình trạng kinh tế tồi tệ, thắt lưng buộc bụng kiểu Hy Lạp, sẽ được thiết lập. Nhưng các ngân hàng phương Tây và doanh nghiệp đa quốc gia sẽ có vụ thu hoạch, theo cách nói của họ, mua lại các doanh nghiệp và cơ sở công nghiệp ở phía đông với giá rẻ, tái cấu trúc chúng lại cho phù hợp với kế hoạch kinh tế toàn cầu của họ.

Dường như nhiều người Ukraina vẫn chưa hiểu được nền tảng kinh tế và động cơ chính trị trong cuộc chơi ở Ukraina. Một mặt, họ không muốn chính  quyền "chủ nghĩa tư bản thân hữu" của Yanukovich, vốn chỉ phục vụ cho bản thân và đem lại rất ít ích lợi cho họ. Nhưng các nhà tư bản thân hữu vẫn trụ lại ở Kiev, trong Quốc hội và chính phủ, mặc dù Yanukovich đã chuồn mất; các nhà tư bản ấy chỉ đổi phe để bảo vệ lợi ích cá nhân (tất nhiên là cả các tài khoản tại các ngân hàng phương Tây cũng như các khoản đầu tư của họ khi chúng bị đe dọa phong tỏa). Do vậy, người Ukraina chỉ đánh đổi một nhóm kền kền kinh tế này lấy một nhóm kền kền kinh tế khác ở Kiev. Gã tài phiệt cây nhà lá vườn giờ đang tự làm mới mình trong mối quan hệ gần gũi hơn với phương Tây.

Mặt khác, nhiều người dân thường Ukraina đã hiểu thực tế. Theo như trích dẫn lời một người dân trả lời phỏng vấn trên đường phố Kiev, "Chúng tôi muốn những người mới có thể nói không với đám tài phiệt, không phải là những gương mặt cũ kỹ, tức là những tỷ phú kiểm soát các khối phiếu bầu trong Quốc hội" (New York Times, February 25, 2014). Thật không may, người Ukraina bình thường không kiểm soát được tình hình hiện nay. Các đảng phái phát xít đường phố đang áp đảo và dẫn dắt chiến lược bên ngoài, trong khi đám tư bản thân hữu bên trong nghị viện giống như cây vĩ cầm đang được chơi bởi lợi ích của phương Tây. Châu Âu và Mỹ có thể đang trong quá trình thống nhất chiến lược nội bộ về cuộc bầu cử sắp tới, nhưng họ có thể thấy việc kiểm soát các thành phần cực đoan, cực tả, và xóa bỏ vai trò thực tế của những thành phần đó trong chính phủ, khó khăn hơn nhiều so với họ nghĩ. Lịch sử tương tự với suy nghĩ của nhà tư bản Weimar Đức đầu những năm 1930, đám phát xít đường phố có thể kiểm soát, dường như có vẻ không phù hợp lắm với tình hình hiện nay. Cũng không phải là thừa khi lo ngại rằng các thành phần trên đường phố có thể đẩy tới tình thế đối đầu bằng quân sự.

Thật vậy, có lẽ điều lo ngại lớn nhất lúc này là các thành phần cực đoan đường phố có thể tạo đủ ảnh hưởng để đẩy chính phủ mới của Ukraina vào đối đầu quân sự trực tiếp với Nga trước cuộc bầu cử vào tháng năm-và trước khi ảnh hưởng của họ bị Mỹ và châu Âu vô hiệu hóa.
  

Wednesday, March 5, 2014

Chuyện về hội anh em dân chủ

Một lần hội anh em dân chủ họp tại nhà riêng. Một đại ca trong nhóm sai đàn em đi tìm gái để vui vẻ qua đêm. Khi sai đi có dặn lúc về phải dùng ám hiệu, nếu tìm được thì nói "dân chủ" còn không tìm được thì nói "nhân quyền".

Một lúc sau, đại ca đang nâng cốc chúc mừng sự nghiệp thắng lợi với đồng bọn nhìn thấy đàn em trở về liền quay ra hỏi: "Dân chủ hay nhân quyền?". Gã đàn em quên béng mất ám hiệu, liền nói: "Dân chủ với nhân quyền cái gì. Ca ve đang nằm trong phòng ấy!".

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí)