Xin được giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài báo "Uncle Sam: Top Menace To Peace on/and Earth" của nhà báo, nhà sử học, nhà bình luận chính trị nổi tiếng người Mỹ Paul L. Street. Bài báo cung cấp cái nhìn khái quát về mối nguy hiểm mà siêu cường Mỹ đang tạo ra trên toàn cầu, nhân dịp kết quả khảo sát của WINMR và Gallup International về các đe dọa đối với hòa bình và trái đất được công bố cuối năm 2013.
Theo kết quả cuộc khảo sát quy mô toàn
cầu với sự tham gia của 66.000 người trên 68 quốc gia của Mạng lưới độc lập
toàn cầu về Nghiên cứu thị trường và Gallup International cuối năm 2013, cư dân
trái đất coi Mỹ là mối đe dọa lớn nhất đối với hòa bình trên hành tinh. Mỹ nhận
được nhiều phiếu bầu nhất với khoảng cách khá xa so với các nước khác, 24% tổng
số phiếu bầu. Pakistan chiếm vị trí thứ hai ở khá xa với 8%, tiếp theo là Trung
Quốc (6%). Afghanistan, Iran, Israel và Bắc Triều Tiên cùng chiếm vị trí thứ tư
với 4%. Công chúng tại các nước đồng minh của Mỹ như Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ (mỗi
nước 45%), Pakistan (44%) và Mexico (khoảng 37%) tin rằng Mỹ là mối đe dọa lớn
nhất đối với hòa bình.
Hệ thống truyền thông chính thống
của Mỹ đã lảng tránh bảng xếp hạng nêu trên. Các tờ báo lớn như New York
Times, Wall Street Journal, Chicago Tribune hay Los Angeles Times hoàn toàn
không nhắc tới. Các hãng truyền hình như NBC, CBS, ABC hay PBS cũng không đưa
tin trong các bản tin buổi tối. Bảng xếp hạng chỉ được lướt qua và bị đối xử
hết sức phân biệt so với các tin tức và bình luận nghiêm túc. Kiểu phân biệt
đặc trưng như tít của tờ International Business Times, đặt ra dấu hỏi về giá
trị và/hay sự hợp lý của kết quả. “Trong bảng xếp hạng của Gallup”, tít báo
viết, “Mối đe dọa hàng đầu đối với hòa bình thế giới là… Mỹ?”. Bài báo của IBT
cho thấy chủ ý rất rõ ràng, ý kiến của thế giới là phi lý (IBT, tháng 1, 2014).
Các biên tập viên cánh tả của New York Post phản hồi một cách
mỉa mai rằng quan điểm thế giới chỉ là những người “không thích Mỹ” thậm chí
ngay cả sau khi Barack Obama trở thành tổng thống. Cần nhắc lại kết quả bảng xếp
hạng năm 2006 của Gallup, công chúng thế giới đã đánh giá “Washington là mối đe
dọa đối với hòa bình thế giới lớn hơn Teheran” (bằng chứng cho sự tự tin nực cười của
tờ Post), các biên tập viên bình luận rằng, “Vào năm 2008, tổng thống Obama đã
chống lại những chính sách làm tổn hại vị trí của Mỹ trên thế giới của Bush,
với kỳ vọng rằng thế giới Hồi giáo sẽ được thay đổi một cách đơn giản khi ông
ấy được bầu)”. “Mọi việc đã không suôn sẻ, như những
con số của Gallup cho thấy. Có lẽ tốt nhất là chúng ta chấp nhận thông điệp
thực của những điều tra toàn cầu kiểu này: Rất nhiều người trên thế giới không
thích nước Mỹ và coi chúng ta là mối đe dọa bất kể ai là tổng thống” (New York
Post, January 5, 2014).
Bất cứ người quan sát nghiêm túc và
trung thực nào đã theo dõi chính sách đối ngoại và hoạt động quốc tế của Mỹ
ngày nay cũng như nhiều thập kỷ trước đây, sẽ thấy việc nước Mỹ là mối đe dọa
hàng đầu thường xuyên và lâu dài đối với hòa bình thế giới không có gì đáng
ngạc nhiên. Nước Mỹ, trên hết, tạo ra một nửa chi tiêu quân sự của thế giới. Họ
duy trì hơn 1000 căn cứ quân sứ trải rộng trên 100 quốc gia “có chủ quyền” trên
khắp các lục địa. Chính quyền Obama đã triển khai lực lượng đặc nhiệm
tại 75 tới 100 nước (tăng lên so với 60 nước vào cuối thời tổng thống George W.
Bush) và tiến hành thường xuyên các vụ tấn công bằng máy bay không người lái
vào các mục tiêu được xác định một cách chính thống là khủng bố (tất nhiên một
phần lớn là các thường dân vô tội) tại Trung Đông, Tây Nam Á và châu Phi. Họ
duy trì một chương trình giám sát toàn cầu nhằm chống lại quyền riêng tư trên
trái đất-chương trình đó thậm chí đã do thám cả điện thoại di động của các lãnh
đạo châu Âu, trong số đó có thủ tướng Đức Angela Merkel. Tờ báo hàng đầu của
Đức Der Spiegel đã ghi nhận vào năm 1997: “Trong lịch sử hiện đại chưa từng có
quốc gia nào thống trị thế giới một cách tuyệt đối như Mỹ ngày nay…Nước Mỹ là
Schwarzengger của chính trị quốc tế: phô diễn cơ bắp, gây rối, đáng sợ…Người Mỹ
không chấp nhận bất cứ giới hạn nào của ai hay cái gì, họ hành động như thể
đang sở hữu một tấm séc khống”.
Vụ “nghẽn giao thông đường không” phía trên một vụ “thảm sát một
phía” (Iraq, 1991)
Có lẽ các biên tập viên của Der Spiegel nghĩ tới những gì Mỹ
đã làm ở Iraq khi họ viết những dòng trên. Họ có thể nhắc tới “xa lộ chết chóc”,
khi quân đội Mỹ tàn sát hàng chục ngàn lính Iraq thua trận đang tháo chạy khỏi
Kuwait vào ngày 26, 27 tháng 2 năm 1991. Nhà báo Mỹ gốc Lebanon Joyce Chediac
khai rằng: “Máy bay Mỹ chặn một đoàn xe bằng cách đánh hỏng những chiếc xe đi
đầu và cuối, sau đó ném bom vào đám xe nằm hỗn độn đó suốt nhiều giờ.’Giống như
là bắn cá trong thùng’, một phi công Mỹ nói. Trên suốt 60 dặm đường xa lộ dọc
bờ biển, các đơn vị lính Iraq chịu trận giữa những chiếc khung xe và xương
người bị cháy, đen nhẻm và kinh hoàng dưới ánh nắng mặt trời…suốt 60 dặm đường
mọi chiếc xe đều bị phá hủy hay bị ném bom, tất cả các kính chắn gió bị vỡ nát,
tất cả các bình xăng bốc cháy, tất cả các xe tải bị xé làm nhiều mảnh. Không
thấy có ai sống sót…’ Ngay cả ở Việt Nam tôi cũng chưa từng thấy bất cứ điều gì
giống như vậy. Đó là thảm sát’, đại tá tình báo quân đội Bob Nugent nói…Các phi
công Mỹ mang bất cứ loại bom nào thấy ở sân bay, từ bom chùm cho đến bom 500
bảng…quân đội Mỹ tiếp tục ném bom vào đoàn xe ngay cả khi tất cả mọi người đã
chết. Quá nhiều máy bay bay trên đường bay nội địa khiến cho giao thông trên không
bị tắc nghẽn, những nhân viên kiểm soát không lưu của không quân đã lo ngại các
máy bay sẽ va chạm với nhau…Các nạn nhân hoàn toàn không chống cự được…đó là vụ thảm
sát từ một phía đối với hàng chục nghìn người không có khả năng chống trả hay
tự vệ” (Ramsey Clark et al., War Crimes: A Report on United States War Crimes Against Iraq to the
Commission of Inquiry for the International War Crimes Tribunal, testimony of
Joyce Chediac).
Gần một năm sau khi quân đội gây ra
vụ thảm sát không thể tưởng tượng nổi ấy, tổng thống Mỹ George H. W. Bush tuyên
bố “Thế giới bị chia làm hai phe vũ trang giờ chỉ còn một cực và đó là sức mạnh
ưu việt, nước Mỹ. Và họ không có gì phải sợ hãi. Thế giới có lý khi tin tưởng ở
sức mạnh của chúng ta. Họ tin tưởng chúng ta sẽ công bằng và đúng mực. Họ tin
tưởng chúng ta sẽ ở phía thích hợp. Họ tin tưởng chúng ta sẽ làm những điều
đúng đắn” (Blum, Rogue State)
Không có giới hạn cho sự tàn bạo
Vụ thảm sát kiểu “bắn gà tây” do
quân đội của “phía thích hợp” gây ra năm 1991 chỉ là một phần chuỗi kỷ
lục bạo lực man rợ kéo dài của nước Mỹ. Lịch sử trải dài từ hủy diệt đẫm máu
những cư dân gốc của quốc gia (diệt chủng người dân bản địa năm 1607-1890) tới
giết hại phân biệt chủng tộc hàng chục ngàn người Philippine giữa năm 1899 và
năm 1902 (các binh sĩ tham gia vào vụ giết chóc đã viết thư gửi về nhà cho bạn
bè và người thân kể rằng được ra lệnh tấn công “cho tới khi tất cả bọn mọi bị
giết sạch giống như người da đỏ”), vụ ném bom nguyên tử đầy tội lỗi và không
cần thiết xuống Nhật Bản, “cuộc thánh chiến ở Đông Nam Á” của Mỹ (Noam Chomsky
cho rằng chính sách của Mỹ đã giết hại hơn 4 triệu người Đông Dương-thường được
gọi bằng “mọi” hay các tên có tính phân biệt chủng tộc khác-giữa năm 1962 và
năm 1975).
Có lẽ các biên tập viên của Der
Spiegel có thể nhắc tới cấm vận kinh tế và bộ trưởng ngoại giao Mỹ Madeline
Albright. Năm năm sau “xa lộ chết chóc”, Albright nói với phóng viên đài CBS
News Leslie Stahl rằng cái chết của nửa triệu trẻ em Iraq do Mỹ cấm vận về kinh
tế là “cái giá…đáng để trả” cho việc thúc đẩy các mục tiêu cao quý của nước Mỹ.
Ba năm sau, ngoại trưởng Albright giải thích: “Nước Mỹ là tốt. Chúng tôi luôn
cố gắng ở mọi nơi”. Chuyện này cũng không có gì là mới. Noam Chomsky đã viết
năm 1992, sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, Mỹ đã tìm mọi cách bắt người
Việt Nam phải chịu đau khổ tối đa bằng cách cấm vận kinh tế và hỗ trợ nhân đạo
cho Việt Nam, mặc dù họ đã tàn phá đất nước ấy: “Không có giới hạn nào cho sự tàn bạo của
những những kẻ dã man ở Washington. Tầng lớp có học đủ hiểu biết để ngoảnh mặt
làm ngơ” (Noam Chomsky, What Uncle Sam Really Wants, 1992)
Các con trai và con gái
Chủ nghĩa đế quốc tàn bạo vẫn tiếp
diễn cho đến thiên niên kỷ tiếp theo. Gã “Schwarzenegger” của thế giới từ ngày
11 tháng 9 năm 2001 đã tiếp tục phá hủy, tàn sát, gây thương tật, xua đuổi hàng
triệu người trong thế giới Hồi giáo như là một phần của cuộc chiến chống/của
khủng bố toàn cầu (GWOT).Trong phát biểu về chính sách đối ngoại vào đêm trước
khi tuyên bố ra tranh cử tổng thống Mỹ mùa thu năm 2006, thượng nghị sĩ Barack
Obama đã giải thích tuyên bố của ông ta rằng công dân Mỹ hậu thuẫn cho “thắng
lợi” ở Iraq bằng lập luận sau: “Người Mỹ đã giải quyết tình trạng hỗn loạn.
Chúng ta đã thấy các con trai và con gái của chúng ta bị thương hay bị giết hại
trên các đường phố ở Fallujah” (Barack Obama, “Away Forward in Iraq”, Chicago
Council on Global Affairs, November 20, 2006).
Sự tàn bạo của Chú Sam trong thế kỷ
21 có thể thấy rõ ràng nhất chính là ở Fallujah, Iraq vào năm 2004. Thành phố
xấu số là nơi diễn ra các tội ác chiến tranh khủng khiếp của Mỹ, giết hại bừa
bãi hàng nghìn thường dân, bắn phá các trạm cấp cứu và bệnh viện, và quân đội
Mỹ gần như san phẳng thành phố vào tháng 4 và tháng 11. Một nhân chứng nói:
“Quân đội Mỹ tiến hành hai cuộc tấn công dữ dội và thành phố vào tháng 4 và
tháng 11… sử dụng hỏa lực từ khoảng cách mà quân Mỹ chỉ bị thiệt hại tối thiểu.
Vào tháng 4, các chỉ huy quân đội Mỹ báo cáo là đã nhắm vào…lực lượng nổi loạn,
nhưng bệnh viện địa phương lại báo cáo rằng rất nhiều hay đa số thiệt hại là
thường dân, thường là phụ nữ, trẻ em và người già…[cho thấy] có chủ đích giết
hại thường dân…Vào tháng 11…cuộc tấn công bằng không quân của Mỹ đã phá hủy
bệnh viện trong khu vực của phe nổi loạn để chắc chắn rằng lần này sẽ không ai
có thể báo cáo về thiệt hại thường dân. Sau đó quân đội Mỹ tiến vào phá hủy
hoàn toàn thành phố. Fallujah trông giống như thành phố Grozny của Chechnya sau
khi bị quân đội của Putin san phẳng (Michael
Mann, Incoherent Empire New York, 2005).
Mỹ đã sử dụng các vũ khí có chứa
chất phóng xạ (uranium nghèo) ở Fallujah, tạo ra một đại dịch chết và dị dạng ở
trẻ sơ sinh, cũng như các bệnh bạch cầu và bệnh ung thư. Nhưng Fallujah chỉ là
một trong số hàng loạt các tội ác dẫn đến cái chết của ít nhất một triệu người
Iraq và biến Iraq thành “khu vực hoang tàn trong một thảm họa quy mô chưa từng
được biết đến” (Tom Engelhardt, Tom Dispatch.com, January 17,2008). Theo nhà
báo đáng kính Nir Rosen vào tháng 12 năm 2007, “Iraq đã bị hủy diệt…Cuộc xâm
lược của người Mỹ tàn phá khủng khiếp hơn cả những gì người Mông Cổ đã làm ở
Bagdad vào thế kỷ 13” (Current History, December 2007).
“Tống họ vào Guantanamo”
Lawrence Wilkerson là cựu sĩ quan
quân đội và từng là tham mưu trưởng của ngoại trưởng Colin Powell dưới thời
tổng thống Bush. Trả lời nhà báo điều tra Jeremy Scahill, ông mô tả phương pháp
hành động của lực lượng đặc nhiệm trong cuộc xâm lược Iraq như sau: “Bạn đi vào
và thu thập thông tin…và bạn nói “Ồ, đây thực sự là những thông tin tốt. Đây là
‘Chiến dịch Sấm Sét Xanh. Hãy thực hiện’. Và họ giết 27, 30, 40 người, hay một
số nào đó, họ bắt được bảy hay tám người. Sau đó, bạn thấy là thông tin tồi và
bạn đã giết nhiều người vô tội cũng như có nhiều người vô tội trong tay, thế là
bạn tống họ vào Guantanamo. Không ai biết gì về chuyện đã xảy ra…bạn nói, ‘đánh
dấu một trải nghiệm’, và bạn tiếp tục chiến dịch khác” (J. Scahill, Dirty Wars:
The World is a Battlefield).
Bất cứ ai nghĩ rằng sự tàn bạo của đế quốc Mỹ có điểm dừng
khi Obama bước vào Nhà Trắng thì đều đang nằm mơ. Obama có thể giảm quy mô cuộc
chiến trên bộ mà Washington thất bại ở Iraq và Afghanistan, nhưng lại mở rộng
một cách quyết liệt quy mô, cường độ cũng như phạm vi hoạt động của các máy bay
không người lái cũng như lực lượng đặc nhiệm đang hiện diện trên khắp thế giới.
Obama, như nhà báo dũng cảm Allan Nairn sớm nhận ra, đã giữ cho cỗ máy khổng lồ
giết chóc của đế quốc Mỹ tiếp tục hoạt động (Democracy Now!, Januray1, 2010).
Câu chuyện đã được sắp đặt ngay từ
đầu, khi Obama tuyên bố ngừng sử dụng chiến đấu cơ không người lái ở Pakistan
trong ngày làm việc thứ tư tại nhiệm sở. Chiếc thứ nhất đã “giết chết khoảng 7
đến 15 người, hầu như tất cả là thường dân”. Chiếc thứ hai “tấn công ‘nhầm căn
nhà’ và giết chết từ 5 đến 8 thường dân”, trong đó có hai trẻ em. Chưa đầy nửa
năm sau, một cuộc tấn công của chiến đấu cơ không người lái được Obama “cho
phép” đã nhắm vào một đám tang và giết chết “rất nhiều thường dân-ước tính
khoảng từ 18 đến 55 người”. Vào tháng 10 năm 2009, báo cáo của Scahill cho
biết, “trong tám tháng Obama đã cho phép số lượng các vụ tấn công của máy bay
không người lái nhiều bằng tám năm tại nhiệm của tổng thống Bush”. Một nguồn tin
quân sự cho Scahill biết về các chiến dịch giết chóc tiêu chuẩn của lực lượng
đặc nhiệm dưới thời Obama: “Nếu có một người bị theo dõi và 34 người khác trong
tòa nhà thì sẽ có 35 người chết”.
Sự kiện tâm điểm trong cuộc chiến chống/của khủng bố của Mỹ
xảy ra trong tuần đầu tiên tháng 5 năm 2009. Cuộc tấn công của không quân Mỹ đã
giết chết 140 thường dân ở Bola Boluk, một ngôi làng ở phía tây tỉnh Farah của
Afghanistan. 93 xác chết bị xé làm nhiều mảnh là trẻ em. Có 22 người là đàn ông
18 tuổi và lớn hơn. Tờ New York Times tường thuật: “Trong cuộc trao đổi bằng
điện thoại qua loa ngoài vào thứ tư…với Quốc hội Afghanistan, tỉnh trưởng
Farah, Rohul Amin, nói 130 thường dân đã bị giết, theo nghị sĩ Mohammad Naim
Farahi…Tỉnh trưởng nói dân làng đã mang hai đầu máy kéo theo rơ móc chất đầy
mảnh xác chết đến văn phòng của ông ấy để làm bằng chứng thiệt hại của vụ tấn
công…Tất cả mọi người khóc than…chứng kiến cảnh khủng khiếp ấy’. Ngài Farahi
nói tỉnh trưởng đã nói với vài người quen biết là ai phải chịu trách nhiệm về
113 xác chết cần được chôn, trong đó có… nhiều phụ nữ và trẻ em” (NYT, 6 tháng
5, 2009).
Phản ứng đầu tiên của Lầu Năm Góc đối với sự kiện kinh hoàng
này-một trong số nhiều vụ không lực Mỹ giết hại thường dân Afghanistan từ đầu
mùa thu 2001-là chối cãi rằng các nạn nhân chết do “lựu đạn của Taliban”. Ngoại
trưởng Mỹ Hilary Clinton bày tỏ “sự thương tiếc” đối với những người vô tội
thiệt mạng, nhưng chính quyền từ chối đưa ra lời xin lỗi hay nhận trách nhiệm.
Trái lại, Obama đã xin lỗi và sa thải một quan chức Nhà Trắng vì đã dọa người
dân New York với bức ảnh chụp chiếc Air Force One bay phía trên cầu Manhattan
gợi nhớ đến sự kiện 11.9 (New York
Daily News, April 28, 2009; Los Angeles Times, 9 tháng 5, 2009). Sự thiên vị
rất rõ ràng: đe dọa người dân New York thì tổng thống phải xin lỗi và sa thải
nhân viên của Nhà Trắng. Giết hơn 100 thường dân Afghanistan thì không cần phải
xin lỗi. Không ai bị sa thải. Lầu Năm Góc được phép đưa ra những giải thích phi
lý về việc thường dân bị giết hại-những giải thích đó được truyền thông chính
thống đưa tin một cách nghiêm túc. Tiếp đó Mỹ cho “điều tra” một cách đáng ngờ
vụ thảm sát Bola Boluk, đếm các mảnh xác chết và cáo buộc Taliban đã đẩy thường
dân vào nơi Mỹ ném bom.
“Giải thưởng hòa bình? Ông ta là kẻ
giết người”. Một người Pashtun trẻ tuổi nói với phóng viên bản tiếng Anh của Al
Jazeera vào ngày 10 tháng 12 năm 2009-ngày mà Obama nhận được giải Nobel Hòa
Bình. “Người đàn ông nói từ làng Armal, nơi một đám đông lớn tụ tập quanh xác
12 người của một gia đình sống trong một căn nhà đơn, tất cả bị giết trong cuộc
đột kích của đặc nhiệm Mỹ đêm qua”.
Mối đe dọa lớn nhất đối với hệ sinh thái
Nước Mỹ không chỉ là mối đe dọa lớn
nhất đối với hòa bình trên trái đất, mà còn là mối đe dọa hàng đầu đối quyền
riêng tư cá nhân (như đã được làm rõ qua các tiết lộ của Snowden), đối với dân
chủ (Mỹ tài trợ và trang bị cho các chính quyền độc tài trên khắp thế giới) và
đối với bản thân trái đất-môi trường sống tự nhiên toàn cầu.Washington hào hứng
đổ lỗi cho Trung Quốc về vấn đề biến đổi khí hậu, mối nguy hiểm đang đe dọa sự
tồn tại của nhân loại. Mỹ cho rằng Trung Quốc là tác nhân chính dẫn đến sự biến
đổi khí hậu toàn cầu, kể từ khi lượng khí thải carbon của Trung Quốc tăng gấp
đôi so với năm 2001 và Trung Quốc đang thải nhiều khí carbon vào khí quyển hơn
bất kỳ quốc gia nào. Đó là bức màn khói được tạo ra để che đậy cho vai
trò chủ yếu của Mỹ trong việc tàn sát hệ sinh thái bằng chủ nghĩa tư bản dầu mỏ
sai trái-nước Mỹ đã lảng tránh các tội lỗi trước đó, tránh phơi bày toàn bộ quá
trình hủy diệt mà nó đã tạo ra. Mỹ là nước có lượng khí thải carbon tính trên
đầu người lớn nhất thế giới. Mỗi công dân Mỹ tạo ra bình quân 20 tấn khí thải
carbon mỗi năm, gần gấp 4 lần so với công dân Trung Quốc. Không có bất cứ quốc
gia nào thải vào khí quyển trái đất lượng khí thải carbon tích lũy lớn hơn Mỹ
trong kỷ nguyên công nghiệp-thực tế lịch sử cho thấy trung Quốc hay Ấn Độ còn
lâu mới có thể bắt kịp. Không có quốc gia nào đầu tư nhiều và mạnh mẽ để khuyến
khích về mặt chính trị, tư tưởng và quân sự cũng như bảo vệ cho hệ thống lợi
nhuận phụ thuộc vào tăng trưởng và thải khí carbon như Mỹ. Nước Mỹ là sở chỉ
huy trong cuộc chiến lobby và tuyên truyền của các tổ hợp công nghiệp thải khí
carbon khổng lồ nhằm chống lại các khám phá ngày càng nhiều của khoa học hiện
đại về khí hậu-bao gồm cả NASA. Không có chính phủ quốc gia nào thành công
trong việc chặn đứng sáu nỗ lực quốc tế nhằm giảm khí thải carbon toàn cầu như
Mỹ-kỷ lục được tiếp tục với sự báo thù trong nhiệm kỳ “xanh” của Obama.
Tầng lớp nhà đầu tư Mỹ đang thống
trị thế giới trong đầu tư toàn cầu vào công nghiệp năng lượng hóa thạch. Trong
khi đa số các nhà máy than mới của thế giới được xây dựng ở Trung Quốc và Ấn Độ,
thì phần lớn tài chính tới từ phố Wall. Từ năm 2006, ví dụ, J. P. Morgan Chase
đã đầu tư 17 tỷ USD vào xây dựng nhà máy than mới ở nước ngoài. Citibank đầu tư
14 tỷ USD trong cùng kỳ (P. Gaspar, International Socialist Review, tháng 1 năm
2013). Sadie Robinson viết trên tờ báo Anh Socialist Worker, “Chỉ đơn giản xem xét lượng khí thải của Trung Quốc là cách che
dấu vai trò của các quốc gia phương Tây trong việc tạo ra chúng. Trung Quốc gia
tăng lượng khí thải là do sự mở rộng nhanh chóng của các nhà máy nhiệt điện.
Điều này cho thấy sự thật là nhiều công ty phương Tây đã chuyển thành công việc
phát khí thải sang Trung Quốc. Họ nhanh chóng mở các nhà máy chế tạo công
nghiệp nặng ở Trung Quốc để khai thác lợi thế của chi phí vận hành thấp…Và các
nhà máy này được cung cấp phần lớn năng lượng bằng than…Phương Tây đã thúc đẩy
sự gia tăng của khí thải ở Trung Quốc bằng cách sử dụng chúng như nguồn hàng
hóa giá rẻ” (Socialist Worker UK, November 24, 2009). Báo cáo
mới đây của tờ Rolling Stone có tiêu đề “Cách Mỹ xuất khẩu sự nóng lên của toàn
cầu”, theo phóng viên của RS Tim Dickinson, “cho dù là quốc gia của chúng ta có
chuyển hướng sang các dạng năng lượng thân thiện hơn của tương lai, thì các tập đoàn dầu và than của nước Mỹ vẫn
đang chạy đua đưa quốc gia vào vị trí kẻ buôn bán năng lượng bẩn toàn cầu-cung
cấp cho thế giới đang phát triển loại năng lượng giá rẻ, lắm chất thải, phá hủy
khí hậu. Cũng giống như các công ty thuốc lá đã làm trong những năm 1990-khi
chính sách thuế mới, các luật lệ và nhận thức gia tăng của người tiêu dùng làm
giảm nhu cầu nội địa-Các hãng thải Carbon lớn chuyển sang các thị trường mới
tại các nền kinh tế đang bùng nổ của châu Á, nơi mà các luật lệ thất bại. Điều
tồi tệ là Nhà Trắng đã dễ dàng giành chức quán quân trong việc buôn bán năng
lượng bẩn” (RS, February 3,
2014, http://www.rollingstone.com).
Những điều đó phù hợp với phát hiện
trong khảo sát của Pew Global Attitude năm 2007. Tại 34 trong số 37 nước có
công chúng được hỏi “nước nào làm tổn hại đến môi trường nhiều nhất?”, đa số hay
số nhiều trả lời là Mỹ. Ý kiến đó tất nhiên là không kém phổ biến-và không kém
chính xác-dưới thời Obama hơn là dưới thời Bush-Cheney. Chính quyền Obama đã
thành công trong việc không ngừng chôn vùi các nỗ lực hợp tác toàn cầu nhằm cắt
giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính. “Chính quyền Obama muốn được coi là lãnh
đạo về khí hậu, nhưng không có nguồn năng lượng hóa thạch nào mà không chuẩn bị
được khai thác,” giám đốc nghiên cứu về Oil Change Intenational, Lorne Stockman
nói. “Than đá, khí gas, các sản phẩm tinh chế-dầu thô là loại cuối cùng trong
số chúng. Bạn cần không? Chúng tôi sẽ xuất khẩu”.
Thảm sát sinh thái không phải là tội nhẹ đối với cư dân toàn
cầu. Các vấn đề về “xả thải và môi trường” được đa số công chúng các nước bao
gồm Canada, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Ukraina, Trung Quốc và Ấn Độ nhận định
trong bảng xếp hạng năm 2007 của Pew là “nguy cơ lớn nhất của thế giới” (được
xếp trên cả chạy đua vũ khí hạt nhân, AIDS và các đại dịch truyền nhiễm khác,
tôn giáo và phân biệt chủng tộc và bất bình đẳng thu nhập) (2007 Pew Global
Attitude Survey).
“Những
người nghĩ rằng họ vô tội luôn tự cho mình là đúng đắn”
Các khảo sát như bảng xếp hạng của
WINMR-Gallup năm 2013, Gallup năm 2006 và khảo sát của Pew Global Attitudes năm
2007 có thúc đẩy một phong trào hòa bình mới ở Mỹ? Phần lớn thường dân Mỹ đều
không mong muốn nước Mỹ bị coi là kẻ đầu gấu và mối đe dọa toàn cầu, hay mối đe
dọa thảm sát hàng loạt đối với an ninh, tự do và tồn tại toàn cầu. Họ không
phải là những người ủng hộ chiến tranh, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa toàn trị
hay thảm sát sinh thái.
Nhưng trong thực tế, ý kiến toàn
cầu cho thấy lo ngại phổ biến, dài hạn, hợp lý và thường xuyên là Mỹ đã can
thiệp và điều khiển ý kiến của công chúng Mỹ, có hai cản trở cần được vượt qua.
Thứ nhất là các nhà quản lý và chủ sở hữu truyền thông chính thống từ chối các
báo cáo nghiêm túc trên quan điểm của những người bên ngoài biên giới nước
Mỹ-phản ánh sự thống nhất lâu dài của các chính khách Mỹ đối với ý kiến của
những người đang thực thi quyền lực bên ngoài nước Mỹ (Không có nghĩa là các
chính khách quan tâm nhiều tới ý kiến công chúng trong phạm vi nước Mỹ, see Paul Street, “No Functioning Democracy,” Z Magazine,
September 2013).
Rào cản thứ hai là học thuyết có
tính vị kỷ quốc gia về bản chất cao quý và cao thượng của nước Mỹ đã ngăn cản
nhiều công dân Mỹ sẵn sàng chấp nhận việc Mỹ là mối đe dọa ở bất kỳ dạng nào
đối với hòa bình thế giới, mối đe dọa hàng đầu lại càng khó chấp nhận. Theo như
phản ánh của cựu phóng viên quốc tế của tờ New York Times Stephen Kinzer về
việc Mỹ thôn tính Hawaii và Philippine, chiếm đóng Puerto Rico, lật đổ chính
phủ dân cử ở Nicaragua và Honduras suốt những năm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ
20: “Tại sao người Mỹ lại ủng hộ các chính sách đem đến đau khổ cho người dân ở
các quốc gia khác? Có hai lý do, chúng hàm chứa lẫn nhau. Nguyên nhân bản chất
là kiểm soát các miền đất xa lạ được coi là yếu tố sống còn đối với sự thịnh
vượng của nước Mỹ. Giải thích này, mặc dù vậy, được bao hàm bên trong một điều
khác: Niềm tin trong sâu thẳm của đa số người Mỹ rằng nước Mỹ là quyền lực của
cái tốt trên thế giới. Do vậy, nói rộng ra thì ngay cả các nhiệm vụ phá hủy mà
nước Mỹ lao vào để thể hiện quyền lực cũng có thể dung thứ”.
“Các thế hệ lãnh đạo chính trị và
kinh doanh của nước Mỹ đã trao cho sức mạnh của lý tưởng cao quý một sự ngoại
lệ. Khi họ can thiệp quốc tế vì các lý do ích kỷ và không cao quý, họ luôn nhấn
mạnh rằng cuối cùng hành động của họ không chỉ đem lại lợi ích cho nước Mỹ mà
cả cả công dân tại các quốc gia bị can thiệp, nói rộng ra là tạo dựng hòa bình
và công lý trên thế giới” (Kinzer, Overthrow: America’s Century of Regime
Change From Hawaii to Iraq, New York, 2006).
Vấn đề của “ngoại lệ Mỹ”-niềm tin
có tính tôn giáo rằng các mục tiêu và hành động của nước Mỹ là đạo đức, có ý
định tốt, và tốt cho thế giới-đã được duy trì trong thế kỷ tiếp theo. Đó là
nguyên nhân chính, cùng với quy mô và hoạt động của đế quốc Mỹ, khiến cho công
chúng thế giới nhận định chính xác nước Mỹ là mối đe dọa hàng đầu đối với hòa
bình trên trái đất. Không có gì nguy hiểm hơn quyền lực quân sự siêu việt tự
đặt bản thân ra ngoài đạo đức, khi các tổng thống và các ứng cử viên tổng thống
nói theo kiểu: “Chúng ta lãnh đạo thế giới trong cuộc chiến chống lại các ác
trước mắt và thúc đẩy điều tốt đẹp tối đa…Nước Mỹ là hy vọng cuối cùng, tốt
nhất của trái đất…Mục tiêu lớn hơn của nước Mỹ trên khắp thế giới là thúc đẩy
mở rộng tự do. Thời cơ của nước Mỹ chưa qua đi…chúng ta sẽ nắm bắt thời cơ này,
và bắt đầu một thế giới mới (U.S. presidential candidate Barack Obama, April
23, 2007). “Sự an toàn của chúng ta bắt nguồn từ sự đúng đắn trong lý do của
chúng ta; sức mạnh hình mẫu của chúng ta; phẩm chất được tôi luyện của sự khiêm
nhường và thận trọng” (U.S. President Barack Obama, Inaugural Address, January
20, 2009).
Khi đọc những tuyên bố kiểu này
(tiêu chuẩn dài hạn trong một bộ phận chính khách Mỹ), tôi nhớ đến quan sát của
nhà tâm lý học trị liệu M. Scott Peck là “Ác quỷ của thế giới này được bổ sung
bởi sự tự cho là đúng đắn của những người nghĩ rằng họ vô tội vì họ không sẵn
sàng chịu đựng sự khó khăn của việc tự phán xét bản thân một cách thích hợp…tội
lỗi cơ bản nhất của họ là sự kiêu ngạo-bởi vì mọi tội lỗi đều có thể sửa chữa trừ
tội tin rằng mình vô tội. Họ là nhũng con người của sự dối trá” (M. Scott Peck, People
of the Lie: The Hope for Healing Human Evil, New York,
1983). Đó là điều hợp lý, nước Mỹ tiếp tục là quốc gia nguy hiểm nhất đối với
thế giới sau khi thay đổi từ gã đế quốc công khai và vụng về Bush sang tên đế
quốc giấu mặt, được coi là hướng tới hòa bình nhiều hơn Obama. Thế giới rõ ràng
là không còn bị lừa bịp khi Obama thay đổi cái thương hiệu “Schwarzenegger của
chính trị thế giới”. Họ đã hiểu vấn đề-tổng thống Bush được bầu với cái tên “hy
vọng” và “thay đổi" (watchwords of the 1992 Bill Clinton campaign) chỉ đơn
giản hóa bộ tranh phục mới mà cũ nhất của đế quốc.
Chi
phí nội địa và lợi ích của đế quốc
Đâu là cơ sở của lực lượng chống đế
quốc và học thuyết hiểm độc của lời dối trá ngoại lệ Mỹ trong nước Mỹ ngày nay?
Các nhà hoạt động và tư tưởng hòa bình Mỹ nên đặc biệt chú ý tới các giai cấp
tự nhiên trong đế quốc Mỹ và trả lời câu hỏi ai có lợi nhất và ai phải trả
nhiều nhất trong cấu trúc quyền lực nội địa của nước Mỹ bất bình đẳng và tàn bạo.
Stephen Kinzer đã quên bổ sung thêm rằng “sự thịnh vượng của nước Mỹ” nói chung
chỉ là cách nói trại đi của “lợi nhuận của giai cấp thống trị kinh tế Mỹ”.
Như Chomsky ghi nhận năm 1969,
“Chắc chắn là chi phí của đế quốc không đem lại lợi ích cho ai cả: 50.000 người
Mỹ chết hoặc bị thương để kinh tế Mỹ mạnh hơn các đối thủ công nghiệp. Chi phí
của đế quốc đối với toàn bộ xã hội có thể là đáng kể. Những chi phí ấy, tuy
vậy, là chi phí xã hội, ngược lại lợi nhuận từ đầu tư nước ngoài được đảm bảo
bằng các thành công quân sự tập trung hoàn toàn vào các nhóm đặc biệt trong xã
hội. Chi phí của đế quốc được phân bổ cho toàn bộ xã hội, trong khi lợi nhuận
chỉ chảy túi vào một số ít trong đó. (Chomsky, For Reasons of State, Pantheon, 1972).
Điều mà Chomsky vạch ra giờ đã là
sự thực khi sự nghèo khổ tràn lan khắp nước Mỹ mặc dù các nhà đầu tư quân sự
hàng đầu đang tận hưởng sự giàu có không thể tưởng tượng trong “Thời đại Bọc Vàng
mới”, cái thời đại mà 400 người giàu nhất nước Mỹ chiếm hữu nhiều của cải hơn
một nửa dân số Mỹ-150 triệu công dân Mỹ-và 1% giàu có nhất chiếm hữu số của cải
bằng 90% còn lại.
Mặc dù vậy, không ai, cho dù là
người giàu, có thể thoát khỏi hậu quả khủng khiếp của cái trật tự xã hội thảm
sát sinh thái, tăng trưởng, lãng phí và phụ thuộc vào dầu mỏ mà nước Mỹ thề sẽ
bảo vệ: chủ nghĩa tư bản quốc tế. Đây là khẩu hiệu của các nhà hoạt động môi
trường bên ngoài hội nghị khí hậu toàn cầu vừa qua, nơi Obama buộc phải giả vờ cắt
giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính toàn cầu: “Không có kinh tế trên hành tinh
chết” và “Không có hành tinh B”.