Showing posts with label Ukraina. Show all posts
Showing posts with label Ukraina. Show all posts

Thursday, October 30, 2014

Cuộc khủng hoảng Ukraina tiếp tục trầm trọng

Xin giới thiệu với bạn đọc bog bản dịch bài viết "Ukraine’s recession continues to deepen" của tác giả David Levine. Bài viết cập nhật những thông tin mới nhất về tình hình kinh tế trên bờ vực phá sản của Ukraina.

Cuộc khủng hoảng Ukraina tiếp tục trầm trọng

Cuộc bẩu cử quốc gia được tổ chức ở Ukraina vào chủ nhật đóng vai trò là điều kiện xã hội tại đất nước đang tiếp tục bị tàn phá bởi chính sách thắt lưng buộc bụng tân tự do được hàng loạt các chính quyền hậu Soviet áp đặt, và mới đây được tăng tốc theo các thỏa thuận với Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) và các nhà tài trợ khác của nhà nước gần phá sản. Cuộc khủng hoảng đã bị làm trầm trọng thêm bởi cuộc chiến giữa chính quyền và lực lượng nổi dậy ở miền đông đất nước.

Sản lượng công nghiệp ở Ukraina vào tháng 8 đã giảm 21,4% so với tháng 8 năm 2013, và 16,6% vào tháng 9 so với tháng 9 năm 2013. Tại tỉnh Donetsk, sự sụt giảm khi so sánh giữa tháng 9 năm 2013 và tháng 9 năm 2014 lên đến 59,5%, ở tỉnh Luhansk là 85%.

Nhập khẩu giảm 23,5% trong 9 tháng đầu tiên của năm 2014 khi so sánh với cùng kỳ năm trước, còn xuất khẩu thì giảm 6,8% - bất chấp các điều khoản thương mại cởi mở tạm thời mà Liên Minh Châu Âu (EU) đang áp dụng cho Ukraina. 

Sản xuất than ở Ukraina giảm 60% giữa tháng 8 năm 2013 và tháng 8 năm 2014. Hơn nửa số mỏ than của quốc gia nằm trong khu vực do những người nổi dậy kiểm soát tại tỉnh Donetsk và Luhansk. Nhiều trong số chúng bị ngập nước và cần nhiều tháng để khôi phục.

Các quan chức Ukraina, Nga và EU đang tham gia vào cuộc đàm phán ba bên ở Brussels để giải quyết cuộc khủng hoảng cung cấp khí đốt. Nga đã ngưng cung cấp khí đốt cho Ukraine vào tháng 6 vì khoản nợ quá hạn trị giá 5,3 tỷ USD cho lượng khí đốt đã được công ty năng lượng Nga Gazprom cung cấp. Chủ tịch Hội Đồng Châu Âu José Manuel Barroso tuyên bố vào thứ năm tuần trước rằng Hội Đồng Châu Âu sẽ cung cấp tới 1 tỷ USD cho Ukraina để mua khí đốt của Nga, nhưng không hơn. 

Khoảng 70% nguồn điện của Ukraina được sản xuất từ than và khí đốt. Do đó, đất nước này cũng phải đối mặt với cuộc khủng hoảng cung cấp điện. Rất nhiều thành phố Ukraina, trong đó có cả thủ đo Kiev, đã bị cắt điện ít nhất hai tiếng mỗi ngày.

Đối với sưởi ấm, nhiệt kế tại các tòa nhà dân cư ở Kiev được đặt ở 16-17° C (61-63° F) trong mùa đông năm nay do thiếu hụt. Cung cấp nước nóng ở Kiev đã bị ngừng trong phần lớn mùa hè, và được mở lại chỉ trong vài tuần gần đây. Vào ngày 24 tháng 10, 3% cư dân của Kiev vẫn chưa có nước nóng. Tình hình ở phần còn lại của đất nước thậm chí tồi tệ hơn.

Ngân Hàng Thế Giới trước đó đã dự báo rằng kinh tế Ukraina sẽ suy giảm 5% năm nay, hiện giờ điều chỉnh lên mức 8%. Ngân Hàng Tái Thiết và Phát Triển Châu Âu đã dự doán suy giảm ở mức 9%. Vitaly Vavrishchuk, chuyên gia trưởng về phân tích của trung tâm tư vấn đầu tư SP Ukraina viết trên liga.net rằng công ty của ông ta dự báo mức suy giảm 9,5% vào năm 2014 và tiếp theo là mức suy giảm 4,3% vào năm 2015. Ông ta cũng dự đoán mức suy giảm 30-35 đầu tư ở Ukraina vào năm 2014.

Từ tháng một năm nay, nợ lương của chủ doanh nghiệp đối với người lao động đã tăng lên 53%, lên mức 1,4 tỷ hryvnia (110 triệu USD). Con số này có vẻ bị ước lượng thấp bởi vì theo trung tâm Dịch Vụ Tài Khóa của nhà nước thì 70-80% chủ doanh nghiệp Ukraina trả lương cho người lao động không theo luật. Khoảng một nửa lực lượng lao động Ukraina đang làm việc bất hợp pháp, theo thông tin của Yury Ruban, lãnh đạo Cục Quản Lý Chính Sách Nhân Đạo của Tổng Thống.

Theo các cơ quan thống kê nhà nước của Ukraina, tỷ lệ người thất nghiệp có đăng ký hiện chỉ là 1,6%. Mặc dù vậy, theo Serhiy Marchenko, giám đốc phát triển của trang web môi giới việc làm nổi tiếng work.ua, thị trường lao động đã giảm xuống 20-25% trong năm qua. Số lượng việc làm được đăng lên trang web đã giảm xuống từ đầu năm 2013, trong khi số lượng lý lịch được đăng lên tăng khoảng 20-30% mỗi tháng. Số lượng công việc ở các tỉnh Donetsk và Luhansk được đăng đã giảm khoảng 90 và 96% trong năm qua. 

Theo nhà kinh tế học Ukraina Oleh Bohomolov, số lượng người thất nghiệp không được báo cáo ít nhất gấp mười lần con số chính thức. Bohomolov cũng ghi nhận rằng người thất nghiệp ở Ukraina thường được gọi tham gia vào chương trình lao động với mức lương 1000 hryvia (77 USD) mỗi tháng. Ông ta nói: “Với chừng đó tiền thì ở nhà còn hơn.”

Lương thực tế bình quân trong 8 tháng của năm 2014 là 3399 hryvnia, giảm 3,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Con số có vẻ không đúng, bởi lý do đã nêu ở trên và tỷ lệ lạm phát chính thức không phản ánh chính xác mức độ gia tăng thực tế của chi phí cho đời sống.

Theo Cục Thống Kê Quốc Gia Ukraina, lạm phát giữa tháng 9 năm 2013 và tháng 9 năm 2014 lên đến 17,5%, trong khi IMF và World Bank dự đoán tổng lạm phát của năm 2012 sẽ là 19%.

Để đáp ứng các điều kiện của IMF, chính quyền đã tăng giá các dịch vụ thiết yếu. Vào năm mùa đông năm 2013-2014, khí đốt cho sưởi ấm được bán ở giá 2,91-3,1hryvnia mỗi mét khối, trong khi vào mùa đông năm 2014-2015 mức giá sẽ là 10-11hryvnia mỗi mét khối. Volodymyr Demchyshyn, lãnh đạo của cơ quan nhà nước về dịch vụ thiết yếu cho nhà ở, đã ghi nhận rằng chi phí một căn hộ trung bình hai phòng sẽ lên đến 500 hyvnia mỗi tháng – gần một phần ba của khoản chi phí thuê nhà trung bình hàng tháng 1670 hryvnia. Khoản tăng giá lên tới 40% đã được lập kế hoạch cho năm 2015.

Chỉ số lạm phát tiền thuê nhà đã bị đóng băng vào năm ngoái. Trái ngược với mức tăng danh nghĩa mới nhất, tiền thuê nhà do đó đã co loại. Trong khi đó giá thuốc men đã tăng hai tới ba lần.

Giá xăng dầu bán lẻ đã tăng khoảng 35% so với đầu năm ngoái – trái ngược với việc giá dầu giảm khoảng 20%. Sự tăng giá phần lớn là do sự mất giá của đồng nội tệ hryvnia. Đồng dollar đã tăng 85% so với đồng hryvnia trong năm qua, từ 8,17 lên 12,95 hryvnia ăn một dollar. 

Chính quyền đang cân nhắc xóa bỏ kiểm soát giá cả đối với những hàng hóa “có ý nghĩa xã hội” như thịt, cá, sữa, đường, và các hàng tạp phẩm cơ bản khác.

Theo phó thủ tương Ukraina Volodymyr Hroysman, cần khoảng 11,8 tỷ hryvnia (911 triệu USD) để xây dựng lại các cơ sở hạ tầng bị tàn phá bởi chiến trận ở các tỉnh miền đông.

Trong cuộc họp báo được hãng thông tấn Nga RIA Novosty tổ chức, Oleg Ustenko của think tank cánh hữu Quỹ Bleyzey ghi nhận rằng thâm hụt ngân sách của Ukraina được dự đoán là khoảng 11,5%, không xa so với mức 13% mà Hy Lạp đã trải qua ngay trước khi chính quyền phá sản. “Một quốc gia với thâm hụt ngân sách 11% mà vẫn đảm nhận các chiến dịch quân sự thì không thể hoạt động. Điều này được hiểu rất rõ ở Washington”, ông ta nói.

Bổ sung cho Ustenko, các nhà bình luận khác từ cả hai phía trong cuộc xung đột ở Ukraina đã khẳng định rằng khả năng thanh toán của Ukraina hiện nay phụ thuộc vào viện trợ của IMF. Theo tính toán của IMF thì Ukraina cần 35 tỷ USD viện trợ nước ngoài vào tháng 5, nhưng điều chỉnh lại thành 55 tỷ USD vào tháng 9. Theo như Dennis Lachtman của Viện Doanh Nghiệp Hoa Kỳ đưa ra trong một bình luận cho tờ The Hill, “nếu như dựa theo tiền lệ về nhu cầu tài chính của IMF-EU trong chương trình cứu trợ Hy Lạp trước đây thì không ai ngạc nhiên khi tổng chi phí chính thức giải cứu Ukraina có thể lên đến 100 tỷ dollar, thay vì 55 tỷ dollar như IMF dự đoán hiện nay”.

Tổ chức xếp hạng Moody đã dự đoán vào cuối năm nay Nga sẽ yêu cầu thanh toán khoản nợ 3 tỷ dollar của năm ngoái (khoảng nợ này tách riêng và bổ sung vào khoản nợ khí đốt của Ukraina với Gazprom đã được đề cập phía trên). Moody tuyên bố: “Theo quan điểm của chúng tôi, gia tốc cho khoản thanh toán này bằng trái phiếu Châu Âu có thể châm ngòi cho sự vỡ nợ chéo đối với tất cả các trái phiếu Châu Âu khác”. Hay nói cách khác, nếu Ukraina thất bại trong việc trả nợ Nga, họ sẽ tạo ra phản ứng dây chuyền, các chủ nợ sẽ đòi Ukraina thanh toán nợ, dẫn đến phá sản. 

Những cân nhắc này soi tỏ sự thật là trái với khuynh hướng bài Nga của chính phủ Ukraina hiện nay, Moscow, một chủ nợ chính và là nguồn cung cấp khí đốt, vẫn tiếp tục nắm giữ các ảnh hưởng chính trị lớn tiềm tàng. Khi ác mộng tài chính của Kiev gia tăng, họ sẽ phụ thuộc vào tất cả các chủ nợ, trong đó có Nga. Dựa án bài Nga khởi đầu vào tháng 11 năm ngoái ở Ukraina với sự xúi giục của các chính quyền phương tây đã được thực hiện dựa trên giải định rằng IMF, EU và các thiết chế phương tây khác có thể giảm bớt sự phụ thuộc vào Nga của Ukraina. Giả định đó sẽ được chứng minh là sai khi Ukraina vỡ nợ.

Tác động của một vụ phá sản không chỉ làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng kinh tế của Ukraina. Khi chính quyền tay sai của tổng thống Petro Poroshenko bị ném vào cuộc khủng hoảng, họ sẽ thúc đẩy một cuộc leo thang xung đột giữa Nga và các quyền lực phương Tây dưới sự dẫn dắt của Hoa Kỳ và Đức.

Tuesday, October 28, 2014

Đế quốc tán thưởng màn kịch bầu cử của chính phủ cực hữu ở Ukraina

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "US, EU hail election staged by ultra-right regime in Ukraine" của tác giả Niles Williamson, cập nhật các thông tin mới về tình hình cuộc khủng hoảng ở Ukraina. Tiêu đề do người dịch đặt.

Hoa Kỳ và Châu Âu tán thưởng màn kịch bầu cử của chính quyền cực hữu ở Ukraina

Vào thứ hai, Hoa Kỳ và Liên Minh Châu Âu hoan nghênh các cuộc bầu cử nghị viện của Ukraina, được tổ chức vào chủ nhật, như là “thắng lợi” của dân chủ. Người phát ngôn cho chính quyền Washington và Châu Âu đã lảng tránh cuộc tấn công đẫm máu của chính quyền Kiev vào các thành phố và thị trấn thân Nga ở miền đông Ukraina cũng như không khí khiêu khích và sự đàn áp chống lại các phê phán chính quyền và đồng minh phát xí của họ ở phần còn lại của đất nước.

Số cử tri đi bỏ phiếu khoảng 52%, thấp hơn so với 58% vào năm 2012 và dưới 60% của cuộc bầu cử tổng thống vừa qua.

Với 125 ghế, khối Petro Poroshenko, được dẫn dắt bởi Vitali Klitschko, lãnh đạo của đảng cánh hữu quốc gia UDAR và đương kim thị trưởng Kiev, sẽ tạo thành khối nghị sĩ lớn nhất trong Quốc Hội (Rada). Mặt Trận Nhân Dân của Đương kim thủ tướng Arseniy Yatsenyuk sẽ là khối lớn thứ hai với 82 ghế.

Ủy Ban Bầu Cử Trung Ương Ukraina không nỗ lực tổ chức bỏ phiếu tại các khu vực đang nằm dưới sự kiểm soát của người ly khai thân Nga hay Crimea, nơi được sáp nhập vào Nga hồi tháng ba. Do đó, 27 trong số 450 ghế tại Rada vẫn bỏ trống.

Khối Poroschenko, được đặt tên theo nhà tài phiệt tỷ phú và đang là tổng thống Ukraina, đã có cuộc thảo luận khởi đầu với Mặt Trận Nhân Dân về thành lập chính phủ liên hiệp. Nếu hai khối này đạt được thỏa thuận, họ vẫn phải duy trì hợp tác ít nhất với một đảng khác ở Rada để giành được đa số ở nghị viện.

Các cuộc bầu cử diễn ra 8 tháng sau cuộc đảo chính cánh hữu, được dẫn dắt bởi lực lượng phát xít của Right Sector và đảng Svoboda, dựa trên sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ và Đức, lật đổ tổng thống được bầu cử dân chủ Victor Yanukovych. Washington và Berlin dàn xếp cuộc đảo chính sau khi Yanukovych quyết định từ chối ký vào Thỏa Thuận Gia Nhập với Liên Minh Châu Âu, ràng buộc với kế hoạch kinh tế của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế mà đặc trưng là các biện pháp thắt lưng buộc bụng khắc khổ và “cải cách” thân thiện với thị trường, thay vào đó lựa chọn hướng sang Nga.

Cuộc bầu cử nghị viện vào chủ nhật diễn ra giữa các cuộc tấn công tiếp diễn của quân đội chính phủ và đồng minh tân phát xít vào người ly khai thân nga ở miền đông, họ là những người phản đối cuộc đảo chính. Cuộc tấn công kéo dài nhiều tháng của chính phủ đã khiến hơn một triệu người phải rời bỏ nhà cửa và khoảng 3.700 người chết.

Trong một tuyên bố chung công bố vào thứ hai, chủ tịch Hội Đồng Châu Âu Herman Van Rompuy và chủ tịch Ủy Ban Châu Âu Jose Manuel Barroso đã hoan nghênh kết quả của cuộc bầu cử như là “một thắng lợi của nhân dân Ukraina và của dân chủ”. Rompuy và Barroso kêu gọi chính phủ sắp tới tăng tốc “cách cải cách chính trị và kinh tế cấp thiết”.

Đại sứ Hoa Kỳ tại Ukraina Geoffrey Pyatt ca ngợi cuộc bầu cử là “một bước tiến khác trong hành trình dân chủ của Ukraina”. Đó là những từ ngữ thật đáng tởm của Pyatt. Đại sứ Hoa Kỳ đã đóng vài trò chủ chốt, cùng với trợ lý ngoại trưởng Victoria Nuland, trong việc giám sát cuộc đảo chính lật đổ Yanukovych và thiết lập chế độ tay sai hiện nay.

Hai tuần trước cuộc đảo chính ngày 22 tháng 3 lật đổ Yanukovych, một cuộc đối thoại bị lộ giữa hai người đó bàn về việc đưa các nhà lãnh đạo đối lập được Hoa Kỳ hậu thuẫn lên nắm quyền đã được tung lên mạng Internet. Sựa lựa chọn của họ, Arseniy Yatsenyuk, xuất hiện hai tuần sau đó trong vai trò người đứng đầu mới của chính phủ.

Tổng thống Obama công khai một tuyên bố rằng Hoa Kỳ “sẵn sàng ủng hộ sự lựa chọn của người dân Ukraina và chính phủ Ukraina mới trong việc ban hành và triển khai các cải tiến cần thiết để thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của dân chủ, củng cố luật lệ, và tăng cường ổn định kinh tế và tăng trưởng ở Ukraina”.

Những tuyên bố của quan chức Hoa Kỳ và EU hoàn toàn đạo đức giả và thiếu trung thực. Một báo cáo được công bố vào tuần trước của tổ chức Theo Dõi Nhân Quyền ở New York đã cho thấy chính quyền Ukraina đã sử dụng các đầu đạn chùm bị cấm để tấn công thường dân ở miền đông. Cũng chính cái chính quyền bị tổ chức Theo Dõi Nhân Quyền tuyên bố là tội phạm chiến tranh chống lại nhân dân của họ, đã được Washington và EU chào đón như là một hình mẫu của dân chủ.

Ukraina tiếp tục bị thống trị bởi các tài phiệt triệu và tỷ phú tha hóa, trong đó có Poroshenko. Chính phủ mới là sản phẩm của việc lật đổ chế độ do Washington và Berlin tạo ra với hai mục đích: thứ nhất, kích động một cuộc xung đột với Nga cũng như tạo cớ để gửi quân đội NATO và Hoa Kỳ tới Ukraina và Đông Âu, biến khu vực này thành bàn đạp cho các cuộc tấn công kinh tế, ngoại giao, và quân sự nhằm đưa Nga trở về tình trạng bán thuộc địa; và thứ hai, thiết lập một chính phủ sẽ đàn áp dã man giai cấp lao động Ukraina đồng thời xóa bỏ mọi hạn chế đối với sự bóc lột tài nguyên quốc gia của đế quốc.

Cuộc bầu cử vào chủ nhật là công cụ để cung cấp một lá bài dân chủ giả hiệu cho sự tăng tốc các chính sách phản động. Trong khi đó các lữ đoàn phát xít được chính quyền Kiev hậu thuẫn, như tiểu đoàn Azov, tiếp tục hoạt động ở khu vực Donbass, khủng bố và giết hại những người nói tiếng Nga đối đầu với chính quyền.

Phát biểu của Obama về việc ủng hộ “sự lựa chọn của nhân dân Ukraina” là cực kỳ ghê tởm. Poroshenko và băng đảng hoàn toàn dựa trên sự tài trợ của chính quyền Hoa Kỳ cũng như tuân theo những chỉ đạo của họ. Các điệp viên CIA cùng với Lực Lượng Đặc Nhiệm Hoa Kỳ đang ở Kiev chỉ đạo cuộc tấn công miền đông Ukraina. Lính đánh thuê của các hãng Academi Hoa Kỳ, trước đây được biết đến dưới tên Blackwater, đang có mặt trên chiến trường miền đông, can dự vào các tội ác chiến tranh ở đó.

Các đảng phái thân Nga đã bị loại khỏi Rada. Đảng Các Khu Vực của Tổng thống bị lật đổ Yanukovych đã hoàn toàn bị giải tán. Vitaly Zhuravsky, một cựu thành viên của Đảng Các Khu Vực, đã bị tấn công ngay bên ngoài Quốc Hội Ukraina và tháng 9 bởi một đám đông, họ ném ông ta vào thùng rác và đánh ông ta với lốp xe.

Các thành viên của Đảng Cộng Sản Ukraina (KPU) được đưa tin là bị tấn công và khiêu khích bởi các côn đồ bóng đá và những người mang mặt nạ mặc quân phục khi họ định cắm trại ở miền đông Ukraina. Poroshenko đã ban hành một đạo luật vào ngày 9 tháng 10 để trục xuất các thành viên của Đảng Các Khu Vực và KPU khỏi các vị trí trong bộ máy hành chính và dịch vụ công ích. Chính quyền Ukraina đang chuẩn bị chính thức đặt KPU ra ngoài vòng pháp luật.

Phản ứng có thể tiên lượng của Washington và EU đối với trò hề dân chủ một lần nữa nhấn mạnh bản chất lừa dối của các nước đế quốc trong việc theo đuổi dân chủ và nhân quyền ở Ukraina và các nước khác. Các chính quyền chuyên chế và áp bức là đồng minh của Hoa Kỳ, như Arabia và Ai Cập, nằm trong cái được gọi là “trại dân chủ”, trong khi các chính phủ có vẻ như gây trở ngại cho khát vọng đế quốc toàn cầu của Hoa Kỳ, như Iran và Nga, bị lên án vi phạm dân chủ và nhân quyền.

Monday, October 27, 2014

Ukraina và Phát xít mới

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Ukraine and Neo-Nazis" của tác giả nổi tiếng William Blum, bài viết được đăng trên tạp chí ColdType số 87 tháng 10 năm 2014.

Ukraina và Phát xít mới

Kể từ khi cuộc biểu tình nghiêm trọng nổ ra ở Ukraina vào tháng hai, truyền thông chính thống phương tây, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, đã che dấu sự thật về nghi phạm thường trực – chế độ tam hùng Hoa Kỳ /Liên Minh Châu Âu /NATO – đứng cùng phe với Phát xít mới. Ở Hoa Kỳ điều đó hoàn toàn không được đề cập. Tôi chắc chắn rằng một cuộc khảo sát được thực hiện ở Hoa Kỳ về chủ đề này sẽ cho thấy sự lảng tránh phổ biến đối với hàng loạt các hoạt động của Phát xít mới, bao gồm công khai kêu gọi giết “Người Nga, Cộng Sản và Do Thái”. Nhưng những bí mật nhỏ bẩn thỉu đôi khi ló đầu ra khỏi bức màn che một chút.

Vào ngày 9 tháng 9, trang NBCnews.com đưa tin “Truyền hình Đức cho thấy các biểu tượng phát xít trên mũ sắt của binh lính Ukraina”. Truyền hình Đức đã đăng các hình ảnh của một người lính mang mũ sắt chiến đấu với “dấu hiệu SS” của đơn vị cảnh sát tinh nhuệ mặc đồng phục đen dưới thời Hitler. (Dấu hiệu là một ký tự của người Đức cổ). Một người lính khác mang hình chữ thập ngoặc trên mũ sắt.

Vào ngày 13, tờ Washington Post đăng tải các bức ảnh của một tiểu đội đang ngủ, thuộc tiểu đoàn Azov, một trong các đơn vị bán quân sự Ukraina đang tấn công những người ly khai thân Nga. Trên bức tường phía trên giường ngủ là một biểu tượng chữ thập ngoặc lớn. Không ngại ngần, tờ Post trích dẫn lời của trung đội trưởng cho rằng binh lính mang biểu tượng của chủ nghĩa cực đoan chỉ là một kiểu ý tưởng “lãng mạn”.

Mặc dù vậy, tổng thống Nga Vladimir Putin bị tất cả mọi người từ Hoàng tử Charles cho tới Công chúa Hillary so sánh với Adolf Hitler bởi vì đã sáp nhập Crimea vào Nga. Putin đã trả lời câu hỏi đó: 

Nhà cầm quyền Crimea đã dựa trên tiền lệ quen thuộc Kosovo, một tiền lệ mà các đối tác phương Tây đã tự tạo ra, với bàn tay của họ, có thể nói như vậy. Trong một tình huống hoàn toàn tương tự với Crimea, họ tách lãnh thổ Kosovo ra khỏi Serbia một cách hợp pháp, tuyên bố ở khắp nơi rằng không cần đến sự cho phép của chính quyền trung ương để đơn phương tuyên bố độc lập. Tòa án quốc tế của Liên Hiệp Quốc, dựa trên đoạn 2 của điều 1 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc đồng ý với điều đó, và trong quyết định vào ngày 22 tháng 7 năm 2010 đã ghi nhận điều sau đây, tôi trích dẫn nguyên văn: Không sự ngăn cấm nói chung nào có thể suy luận từ thực tiễn của Hội Đồng Bảo An liên quan đến tuyên bố độc lập đơn phương”.

Putin giống như Hitler được bao trùm bởi những câu chuyện về kẻ xâm lược Putin (Vlad Kẻ Xuyên Thủng). Trong bốn tháng truyền thông phương Tây đã giong trống về việc Nga xâm lược Ukraina. Tôi đề nghị đọc: “Sao Bạn Có Thể Nói Rằng Nga Xâm Lược Ukraina?” của Dmitry Orlov. Và hãy nhớ rằng NATO đang bao vây Nga. Hãy tưởng tượng Nga thiết lập các căn cứ quân sự ở Canada và Mexico, từ Đại Tây Dương tới Thái Bình Dương. Hãy nhớ lại xem căn cứ Soviet ở Cuba đã gây ra điều gì.

Hoa Kỳ có từng tạo ra các ví dụ xấu không? 

Kể từ ngày định mệnh 11 tháng 9 năm 2001, mục tiêu quan hệ công chúng hàng đầu của Hoa Kỳ là vô hiệu hóa ý tưởng kiểu như Hoa Kỳ nhận được điều đó là do hàng loạt các hoạt động xâm lược chính trị và quân sự của bản thân. Đây người hùng ưa thích của công chúng, George W. Bush, phát biểu một tháng sau ngày 11 tháng 9: 

“Tôi có thể trả lời thế nào khi tôi thấy ở một số nước Hồi giáo có lòng căm thù sâu sắc đối với Hoa Kỳ? Tôi sẽ nói với bạn điều mà tôi sẽ trả lời: Tôi ngạc nhiên. Tôi ngạc nhiên về sự hiểu lầm, cho rằng người ta ghét chúng ta bởi vì nước ta đáng như vậy. Tôi – giống như hầu hết người Mỹ, tôi không thể tin điều đó bởi vì tôi biết chúng ta tốt ra sao.” 

Cảm ơn George. Giờ hãy uống thuốc đi!

Tôi và những sử gia khác về chính sách đối ngoại Hoa Kỳ đã lưu trữ rất nhiều các tuyên bố của những kẻ khủng bố chống Mỹ, những người đã làm rõ rằng hành động của họ là để trả thù cho hàng thập kỷ can thiệp quốc tế kinh tởm của Hoa Kỳ. Nhưng quan chức Hoa Kỳ và truyền thông thường lảng tránh bằng chứng đó và trung thành với ý tưởng rằng những kẻ khủng bố chỉ đơn giản là độc ác và điên khùng vì tôn giáo; nhiều trong số chúng quả thực như vậy, nhưng không làm thay đổi sự thật chính trị và lịch sử.

Suy nghĩ của người Mỹ dường như sống động và lành mạnh. Ít nhất bốn con tin bị quân ISIL bắt ở Syria, trong đó có nhà báo Hoa Kỳ James Foley, đã bị nhấn nước trong khi bị giam cầm. Tờ Washington Post trích dẫn một quan chức Hoa Kỳ: “ISIL là một nhóm thường đóng đinh và chặt đầu người. Phỏng đoán rằng có bất cứ sự liên quan nào giữa sự tàn bạo của ISIL và hành động trong quá khứ của Hoa Kỳ thì thật nực cười và bổ sung cho sự tuyên truyền xuyên tạc của họ”.

Mặc dù vậy, tờ Post có thể đã suy luận một chút, thêm vào rằng “Quân ISIL … dường như mô phỏng theo các kỹ thuật nhấn nước mà CIA sử dụng để thẩm vấn các nghi phạm khủng bố kể từ sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001.”

Bài nói chuyện của William Blum ở một hội thảo về Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, Đại học Hoa Kỳ, Washington, DC, ngày 6 tháng 9 năm 2014

Tôi chắc chắn rằng mỗi người trong số các bạn đã gặp nhiều người ủng hộ chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, với họ bạn phải tranh cãi và tranh cãi. Bạn chỉ ra rằng hết những điều kinh hoàng này đến những điều kinh hoàng khác, từ Việt Nam tới Iraq. Từ những vụ ném bom như cơn thịnh nộ của chúa cùng với xâm lược cho tới vi phạm luật pháp quốc tế và tra tấn. Nhưng chẳng có tác dụng gì. Không gì thay đổi được những người đó.

Tại sao lại vậy? Có phải những người đó thực sự ngớ ngẩn? Tôi nghĩ một câu trả lời tốt hơn là họ có định kiến nhất định. Dù chủ ý hay vô ý, họ có một niềm tin cơ bản về Hoa Kỳ và chính sách đối ngoại, và nếu bạn không xử lý được niềm tin căn bản đó, thì sẽ giống như bạn lao đầu vào tường đá.

Nền tảng căn bản nhất của niềm tin đó, tôi cho rằng, là một sự vững tin trong sâu thẳm rằng bất kể Hoa Kỳ làm gì ở nước ngoài, bất kể nó tồi tệ ra sao, bất kể hậu quả khủng khiếp ra sao, chính quyền Hoa Kỳ vẫn có ý định tốt. Lãnh đạo Hoa Kỳ có thể sai lầm, họ có thể vấp váp, họ có thể nói dối, họ thậm chí có thể trong một dịp vớ vẩn gây ra nhiều thiệt hại hơn là điều tốt, nhưng họ làm điều tốt. Ý đinh của họ luôn đáng tự hào, thậm chí là cao quý. Đa số người Mỹ nghĩ như vậy.

Frances FitzGerald, trong nghiên cứu nổi tiếng của bà về sách giáo khoa Hoa Kỳ, tổng kết các thông điệp của chúng: “Hoa Kỳ là một kiểu Đạo Quân Cứu Thế đối với phần còn lại của thế giới: trong lịch sử họ đã phục vụ cho lợi ích của các quốc gia nghèo đói, bị ruồng bỏ và bị thảm họa. Hoa Kỳ luôn hành động theo kiểu vô tư, luôn từ động cơ cao nhất; họ cho đi, không bao giờ nhận lại”.

Và người Mỹ thuần khiết ngạc nhiên tại sao phần còn lại của thế giới không thấy đạo đức và sự vị tha của người Mỹ. Thậm chí nhiều người tham gia vào phong trào phản chiến đã có một thời gian vất vả để lay chuyển một phần của tư tưởng đó; họ diễu hành để khích lệ nước Mỹ – nước Mỹ mà họ yêu, tôn kính và tin tưởng – họ diễu hành để khích lệ nước Mỹ cao quý quay trở lại con đường tốt đẹp.

Nhiều công dân tin vào tuyên truyền của chính quyền để biện minh cho hoạt động quân sự của họ rất thường xuyên và ngây thơ như Charlie Brow tin vào môn bóng đá của Lucy.

Người Mỹ giống đám trẻ con của một bố già Mafia, chúng chẳng biết gì về công việc kiếm sống của ông bố, và cũng không muốn biết, nhưng chúng ngạc nhiên tại sao một số người lại ném bom cháy qua cửa sổ phòng khách. Niềm tin căn bản trong ý định tốt đẹp của Mỹ thường được gắn với “chủ nghĩa ngoại lệ Hoa Kỳ”. Hãy cùng nhìn xem chính sách đối ngoại ngoại lệ Hoa Kỳ ra sao. Kể từ khi kết thúc thế chiến thứ II, Hòa Kỳ đã:

1. Nỗ lực lật đổ hơn 50 chính quyền nước ngoài, đa số được bầu cử dân chủ. 

2. Ném bom người dân tại hơn 30 quốc gia. 

3. Nỗ lực ám sát hơn 50 lãnh đạo ngoại quốc.

4. Nỗ lực đàn áp các phong trào dân túy hay quốc gia tại 20 quốc gia. 

5. Can thiệp thô bỉ vào các cuộc bầu cử dân chủ tại ít nhất 30 nước. 

6. Dẫn đầu thế giới về tra tấn; không chỉ người Mỹ trực tiếp tra tấn người nước ngoài, mà còn cung cấp dụng cụ tra tấn, hướng dẫn tra tấn, danh sách những người phải tra tấn, huấn luyện viên Hoa Kỳ trực tiếp hướng dẫn, đặc biệt là ở châu Mỹ Latin.

Đây thực sự là ngoại lệ. Không có quốc gia nào khác trong lịch sử có thể cạnh tranh với kỷ lục này.

Thế nên lần tới khi bạn lao đầu vào tường đá … hãy hỏi người đó rằng Hoa Kỳ phải làm gì với chính sách đối ngoại để không được ủng hộ nữa. Điều gì đối với người đó cuối cùng là quá đủ. Nếu người đó đề cập tới điều gì đó thật sự tồi tệ, thì có thể đó là điều mà Hoa Kỳ đã thực hiện, hoặc có thể lặp lại.

Cần phải ghi nhớ rằng tổ quốc quý giá của chúng ta, trên hết cả, tìm cách thống trị thế giới. Vì lý do kinh tế, lý do quốc gia, hệ tư tưởng, Thiên Chúa Giáo, và vì những lý do khác, thống trị thế giới từ lâu đã là đường cơ sở của Hoa Kỳ. Không nên quên rằng quan chức hành pháp đầy quyền lực có lương, thưởng, ngân sách hoạt động và công việc được trả lương hậu hĩnh trong tương lai ở khu vực tư nhân, phụ thuộc vào cuộc chiến tranh liên miên. Những lãnh đạo này không đắn đo về hậu quả cuộc chiến của họ đối với thế giới. Họ không thật sự là người xấu; nhưng họ phi đạo đức, giống như một lối mòn xã hội.

Hãy xem Trung Đông và Nam Á. Người dân ở khu vực đó phải gánh chịu sự khủng khiếp vì chủ nghĩa Hồi Giáo bảo thủ. Điều mà họ thực sự cần là một chính quyền thế tục, tôn trọng các tôn giáo khác nhau. Và chính quyền đó đã từng được thiết lập trong quá khứ gần đây. Nhưng số phận của những chính phủ đó ra sao?

Vào những năm 1970 cho đến những năm 1980, Afghanistan đã có một chính quyền thế tục tương đối tiến bộ, với quyền bầu cử hoàn chỉnh cho phụ nữ, điều khó tin phải không? Thậm chí ngay cả một báo cáo của Lầu Năm Góc về thời gian đó đã xác thực quyền thực tế của phụ nữ ở Afghanistan. Và điều gì xảy ra với chính quyền đó? Hoa Kỳ lật đổ nó, cho phép Taliban nắm quyền lực. Hãy nhớ điều đó khi bạn nghe một quan chức Hoa Kỳ nói rằng chúng ta ở Afghanistan là để bảo vệ quyền của phụ nữ.

Sau Afghanistan là tới Iraq, một xã hội thế tục khác, dưới thời Saddam Hussein. Và Hoa Kỳ cũng lật đổ chính quyền đó, giờ đây đất nước đó bị giày xéo bởi đám thánh chiến cũng như bảo thủ đủ loại, điên khùng và khát máu; phụ nữ không che mặt sẽ gặp nguy hiểm.

Tiếp theo là Libya; một lần nữa, một quốc gia thế tục, dưới thời Moammar Gaddafi, giống như Saddam Hussein, là bạo chúa nhưng theo những cách đặc biệt có thể là đạo đức và làm được những điều kỳ diệu cho Libya và Châu Phi. Có thể nhắc tới một ví dụ, Libya có thứ hạng cao trong Chỉ Số Phát Triển Con Người của Liên Hiệp Quốc. Dĩ nhiên là Hoa Kỳ cũng lật đổ chính quyền đó. Vào năm 2011, với sự trợ giúp của NATO, chúng ta ném bom người dân Libya hầu như mỗi ngày trong suốt sáu tháng. Và một lần nữa, điều đó dẫn đến việc các chiến binh thánh chiến xuất hiện. Tại sao tất cả những chuyện đó xảy ra với người dân Libya, chỉ có Chúa mới biết được, hoặc có thể là Allah.

Ba năm trước đây, Hoa Kỳ đã làm mọi cách để lật đổ chính quyền thế tục ở Syria. Hãy đoán xem? Syria giờ là sân chơi và chiến trường của mọi thể loại quân đội cực hữu, trong đó có món ưa thích mới của mọi người, IS, nhà nước Hồi giáo. Sự trỗi dậy của IS dựa vào phần lớn những thứ mà Hoa Kỳ đã làm ở Iraq, Lybia và Syria trong những năm gần đây.

Chúng ta có thể bổ sung vào danh sách những điều kỳ diệu này cựu Liên Bang Nam Tư, một chính quyền thế tục đã bị Hoa Kỳ lật đổ, cùng với NATO vào năm 1999, thúc đẩy sự hình thành của nhà nước Hồi giáo ở Kosovo, được điều khiển bởi Quân Đội Giải Phóng Kosovo (KLA). KLA bị Hoa Kỳ, Anh và Pháp coi là tổ chức khủng bố trong nhiều năm, với hàng sa số các báo cáo về việc KLA được vũ trang, huấn luyện bởi al-Qaeda, tại trại của al-Qaeda ở Pakistan, và thậm chí có các thành viên của al-Qaeda tham gia hàng ngũ KLA trong cuộc chiến chống lại người Serb ở Nam Tư. Mối lo ngại chủ yếu của Washington là hạ gục Serbia, vốn được biết đến như là “chính quyền cộng sản cuối cùng ở Châu Âu”.

KLA trở nên nổi tiếng với tra tấn, buôn bán phụ nữ, heroin, và nội tạng người; một khách hàng hấp dẫn khác của đế quốc.

Ai đó nhìn xuống những chuyện này từ bên ngoài không gian có thể nghĩ rằng Hoa Kỳ là thế lực Hồi giáo đang nỗ lực xâm chiếm thế giới – Allah Akbar!

Nhưng bạn có thể ngạc nhiên hỏi các chính quyền bị lật đổ có gì chung để trở thành mục tiêu của Washington? Câu trả lời là họ không để cho đế quốc kiểm soát dễ dàng; họ từ chối trở thành quốc gia tay sai; họ theo chủ nghĩa quốc gia; nói cách khác, họ độc lập; một tội các nghiêm trọng đối với đế quốc.

Hãy đề cập tới tất cả những điều đó với người ủng hộ giả định đối của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ và nhìn xem anh ta có tiếp tục tin rằng Hoa Kỳ có ý định tốt nữa không. Nếu anh ta ngạc nhiên cách này diễn ra bao lâu thì hãy chỉ cho anh ta thấy rằng khó có thể kể ra một chế độ độc tài tàn bạo nào trong nửa sau thế kỷ 20 mà không được Hoa Kỳ ủng hộ; không chỉ ủng hộ, mà còn thường xuyên đưa họ lên nắm quyền và bảo vệ quyền lực của họ bất chấp ước muốn của dân chúng. Trong những năm gần đây, Washington đã ủng hộ các chính quyền rất hà khắc như Arab Saudi, Honduras, Indonesia, Ai Cập, Colombia, Qatar và Israel.

Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ nghĩ gì về kỷ lục của bản thân? Cựu ngoại trưởng Condoleezza Rice đã nói tại một câu lạc bộ tư nhân về lãnh đạo chính sách đối ngoại khi bà ấy viết vào năm 2000 rằng để đáp ứng an ninh quốc gia thì Hoa Kỳ không cần được dẫn dắt bởi “các khái niệm của quy tắc và luật pháp quốc tế” hay “các thiết chế như Liên Hiệp Quốc” bởi vì Hoa Kỳ đứng bên phía đúng đắn của lịch sử”.

Hãy để tôi nhắc lại với các bạn kết luận của Daniel Ellsberg về Hoa Kỳ ở Việt Nam: “Không phải là chúng ta ở phía sai trái; chúng ta là sự sai trái”.

Cách rất xa phía đúng đắn của lịch sử, chúng ta thấy trong thực tế - Tôi muốn đề cập tới sự can dự vào chiến tranh – cùng phía với al-Qaeda và các con đẻ của họ trong một số dịp, bắt đầu là với Afghanistan vào những năm 1980 và 1990s để hỗ trợ Moujahedeen Hồi giáo, hay còn gọi là Chiến Binh Thần Thánh.

Hoa Kỳ đã viện trợ quân sự, hỗ trợ ném bom, Bosnia và Kosovo, cả hai đều được al-Qaeda ủng hộ trong cuộc xung đột ở Nam Tư vào đầu những năm 1990.

Ở Libya vào năm 2011, Washington và Jihadist có cùng kẻ thù chung, Gaddafi, như đã được đề cập, Hoa Kỳ ném bom người dân Libya trong hơn sáu tháng, cho phép jihadist chiếm lấy nhiều phần đất nước; và họ đang chiến đấu với phần còn lại. Trong thời kỳ chiến tranh, đồng minh thể hiện sự biết ơn của họ đối với Washington bằng cách ám sát đại sứ Mỹ và ba người Mỹ khác, có vẻ là CIA, ở thành phố Benghazi.

Vào giữa và cuối những năm 2000, Hoa Kỳ ủng hộ quân đội Hồi giáo ở khu vực Caucasus của Nga, một khu vực được chú ý nhiều hơn sau khi có các hoạt động khủng bố tôn giáo ở Chechnyan vào những năm 1990.

Cuối cùng, ở Syria, trong nỗ lực lật đổ chính quyền Assad, Hoa Kỳ đã đứng về cùng phía với một số dạng quân đội Hồi giáo. Có sáu lần Hoa Kỳ trở thành đồng minh của lực lượng jihadist trong thời chiến.

Tôi khẳng định rằng tôi phải cung cấp cho bạn rất nhiều điều tiêu cực mà Hoa Kỳ đã làm với thế giới, và có thể đó là một thứ khó nuốt trôi đối với bạn. Nhưng mục đích của tôi là cố gắng gạt bỏ chỗ dựa trong trí tuệ và cảm xúc mà bạn đã trưởng thành dựa trên đó – hoặc giúp bạn hỗ trợ người khác gạt bỏ chúng – chỗ dựa đó đảm bảo rằng Hoa Kỳ thân yêu của bạn muốn điều tốt.

Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ không có ý nghĩa gì đối với bạn chừng nào bạn còn tin rằng ý định của nó là cao quý; cũng như bạn phớt lờ kịch bản thường xuyên tìm cách thống trị thế giới, được phổ cập quốc gia từ rất lâu, được biết đến dưới cái tên như Tuyên Ngôn Định Mệnh, Thế Kỷ Hoa Kỳ, chủ nghĩa ngoại lệ Hoa Kỳ, toàn cầu hóa, hay, như Madaleine Albright đưa ra, “quốc gia không thể thiếu” … trong khi những người ít lịch sự hơn thì dùng từ “đế quốc”.

Trong bối cảnh nay tôi không thể không đưa ra ví dụ về Bill Clinton. Khi là tổng thống vào năm 1995, ông ta đã nói: “Bất kể điều gì mà chúng ta có thể nghĩ về các quyết định chính trị trong thời kỳ Việt Nam, người Mỹ can đảm, những người đã chiến đấu và chết ở đó, có những động cơ cao quý. Chiến đấu cho tự do và độc lập của người Việt Nam”. Vâng, đó là cách thực tế mà các lãnh đạo của chúng ta nói. Nhưng ai biết họ thực sự tin vào điều gì? 

Hy vọng của tôi là nhiều người trong số các bạn, những người chưa phải là các nhà hoạt động chống đế quốc và chiến tranh, sẽ tham gia vào phong trào phản chiến giống như tôi đã làm năm 1965 để chống lại chiến tranh ở Việt Nam. Đó là điều đã khiến tôi và nhiều người khác cực đoan.

Khi tôi nghe người dân ở độ tuổi nhất định nói về thứ khởi đầu cho quá trình mất niềm tin của họ, niềm tin vào ý định tốt đẹp của Hoa Kỳ, đó là Việt Nam cách rất xa nhưng là nguyên nhân chính.

Tôi nghĩ, nếu các quyền lực Hoa Kỳ biết trước rằng “cuộc chiến đáng yêu” của họ sẽ thất bại thì họ có thể sẽ không tạo ra sai lầm lịch sử khổng lồ đó. Cuộc xâm lược Iraq vào năm 2003 cho thấy rằng bài học Việt Nam vẫn chưa được học vào lúc đó, nhưng các cuộc biểu tình tiếp tục chống chiến tranh và đe dọa chiến tranh ở Afghanistan, Iran, Syria, và những nơi khác có thể - có thể! – cuối cùng tạo ra một vết sứt mẻ trong tinh thần chiến tranh uy nghiêm. Tôi mời các bạn tham gia vào phong trào của chúng tôi.

Tuesday, September 23, 2014

Những vụ bắn hạ máy bay trong hệ thống tuyên truyền

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Plane Shootdowns in the Propaganda System" của giáo sư người Mỹ chuyên nghiên cứu về kinh tế và chính trị quốc tế Edward S. Herman, để có một cái nhìn so sánh về cách thức truyền thông chính thống đưa tin các vụ bắn hạ máy bay dân sự.

Cách thức truyền thông Hoa Kỳ đổ lỗi vụ bắn hạ máy bay dân sự số hiệu 17 của hãng hàng không Malaysia cho “những người ly khai” miền đông Ukraina và đặc biệt là Putin và Nga, tuân thủ theo một kịch bản đã có từ lâu về việc chấp nhận nhanh chóng và đầy phẫn nộ các cáo buộc chính thống phục vụ cho chính trị, bất chấp các kỷ lục lừa dối đã có về vấn đề này. Nếu chúng ta tập trung vào hành xử của truyền thông trong các trường hợp Hoa Kỳ hay Israel bắn hạ máy bay dân sự, sự tương phản và tiêu chuẩn kép sẽ đầy bi kịch và thậm chí là lố bịch.

Khi Họ làm điều đó

KAL-007. Trường hợp yêu thích của tôi là vụ Soviet bắn hạ máy bay KAL-007 của hãng hàng không Hàn Quốc vào ngày 31 tháng 8 năm 1983. Đó là thời kỳ mà chính quyền Reagan đang trong thời kỳ chạy đua vũ trang và liên minh tấn công “đế chế ma quỷ”. Như âm mưu ám sát Giáo hoàng vào năm 1981, sự kiện đó đã được chào đón như một cơ hội tuyên truyền tuyệt vời, chính quyền lên án Liên Bang Soviet nhanh chóng và đầy phẫn nộ. Chiếc máy bay đã rời quá xa đường bay và bay trên bầu trời Soviet cũng như phía trên căn cứ hải quân của Soviet, nó cũng không phản hồi lại điện đàm của máy bay chiến đấu Soviet. Một trường hợp tốt nhất có thể tạo ra là chiếc máy bay thực hiện nhiệm vụ quân sự đồng thời chuyên chở hành khách dân sự (P.Q. Mann, “Reassessing the Sakhalin Incident,” Defense Attache, June 1994; David Pearson, “K.A.L. 007,” the Nation, August 25, 1984). Cáo buộc của chính quyền Reagan là Soviet đã cố ý bắn hạ máy bay dân sự – được biên tập cho truyền thông để phục vụ cho lời tuyên truyền dối trá – mặc dù các trao đổi thông điệp điện đàm đã cho thấy là Soviet không xác định được chiếc máy bay đó là dân sự. 

Truyền thông tham gia chiến dịch tuyên truyền này rất hăng hái, lên án Soviet là “man rợ” và can dự vào vụ “sát hại máu lạnh”. Tờ New York Times đã đăng 147 tin tức về vụ bắn hạ chỉ riêng trong tháng 9 năm 1983, tổng số cột báo dài tới gần 71 m, và trong 10 ngày liên tục họ xuất bản các bản đặc biệt của tạp chí về sự kiện này. “Hành động dã man” của Liên Bang Soviet theo như James Reston mô tả là “tự gánh lấy sự căm hờn của thế giới văn minh” (NYT, September 4, 1983). Bài xã luận của tờ Times vào ngày 2 tháng 9 đề cập rằng “Không thể có lời xin lỗi chính đáng đối với bất kỳ quốc gia nào bắn hạ máy bay dân sự vô hại”.

Chiến dịch tuyên truyền là một thành công lớn của Hoa Kỳ, khi Liên Bang Soviet bị tổn hại danh tiếng và phải chịu sự tẩy chay tạm thời ở khắp các sân bay trên thế giới. Như phóng viên Bernard Gwertzman ghi nhận một năm sau thảm kịch, các quan chức Hoa Kỳ “xác nhận sự chỉ trích toàn cầu đối với hành xử của Soviet trong cuộc khủng hoảng đã gia tăng sức mạnh cho Hoa Kỳ trong các tác động với Moscow” (NYT, August 31, 1984). Khi các bằng chứng cho thấy KAL-007 thực hiện nhiệm vụ do thám, và khi chính quyền Reagan lặng lẽ thừa nhận rằng phi công Soviet không biết đó là máy bay dân sự, bằng chứng mới đó đã bị tảng lờ, hoàn toàn không được chú ý tới hay bị coi như chưa được chứng minh hoặc tuyên truyền của Soviet. Nó hoàn toàn không gây trở ngại cho chiến thắng của truyền thông. Gwertzman không cần phải dè dặt khi tuyên bố về một chiến thắng mãn nguyện của chiến dịch truyền thông chính thống trước sự dã man.

Vào ngày 18 tháng 1 năm 1988, tờ New York Times xuất bản bài xã luận có tiêu đề “Lời nói dối rằng đó không phải là bắn hạ”. Trong đó các biên tập viên thừa nhận rằng chính quyền Reagan đã biết trong vòng vài giờ sau vụ bắn hạ là Soviet không coi máy bay 007 là máy bay dân sự và chính quyền đã “đánh lừa người dân Mỹ cũng như thế giới”. Nhưng bản thân tờ báo cũng là một phần của chương trình nói dối, khi nó nhảy bổ vào các lên án phẫn nộ và đưa tin ồ ạt mà không có chút hoài nghi hay bất cứ nỗ lực điều tra nào. Cần biết rằng năm năm sau đó tờ báo đã thừa nhận rằng họ là một thành viên có lỗi của truyên truyền và đã không thực hiện bất cứ điều tra nào để đưa ra kết luận. Sau năm năm, tờ báo đã bỏ qua hay lảng tránh đưa thông tin về các nỗ lực điều tra nhằm tìm kiếm sự thật về vụ việc, các biên tập viên ưu tiên bỏ qua việc lời nói dối mà họ đã hung hăng và cấp tốc gieo rắc khắp nơi được làm rõ bởi những người khác.

Pan Am-103. Tờ Times và các đồng sự chính thống của họ làm báo rất tệ nhưng tuyên truyền rất tốt trong vụ đánh bom và rơi máy bay Pan Am-103 vào tháng 12 năm 1988 tại Lockerbie, Scotland , khiến 270 người thiệt mạng. Ngay lập tức Iran bị nghi ngờ là đứng sau vụ đánh bom, và vụ việc nhanh chóng trở thành lời cáo buộc Tổng Chỉ Huy Mặt Trận Nhân Dân Giải Phóng Palestine (PFLP-GC) hành động theo lệnh của Iran. Vụ việc được tin rằng là để trả đũa việc Hoa Kỳ bắn hạ máy bay số 655 của hãng hàng không Iran, một máy bay dân sự với 299 người thiệt mạng, vào tháng 7 năm 1988, chỉ 5 tháng rưỡi trước vụ Lockerbie. Việc PFLP-GC có liên hệ với Iran được truyền thông chấp nhận và phát tán đúng lúc. Nhưng chỉ một năm sau, sự thay đổi của địa chính trị do Hoa Kỳ và Anh quốc muốn xoa dịu Syria, nơi trú ẩn của PFLP, và Iran, có ảnh hưởng ở Lebanon, để giúp họ đối đầu với Iraq và giải cứu con tin ở Lebanon. Chỉ trong thời gian ngắn, cáo buộc đối với PFLP (và gián tiếp là Iran) bị đặt sang một bên, những gã quê mùa của Muammar Qaddafi và Lybia bị coi là kẻ đánh bom.

Sự lạc quan chính trị trong vụ này đã thất bại trong việc báo động truyền thông chính thống, họ đưa tin theo mục tiêu mới mặc dù họ vẫn giữ mục tiêu cũ (khi mà mọi thứ đã được chuẩn bị tốt hơn). Lybia bị cưỡng bách phải bắt giữ hai công dân của họ, những người bị cáo buộc là thực hiện vụ tấn công và khi họ từ chối thực hiện thì “cộng đồng quốc tế” áp đặt các trừng phạt đắt giá đối với Lybia, cho tới khi họ đầu hàng và đồng ý chịu xét xử theo luật Scotland bởi quan tòa Scotland tại Camp Zeist ở Hà Lan. Các quan tòa đã phán quyết một trong số hai người Libya có tội mặc dù họ thừa nhận rằng mọi bằng chứng là “suy diễn”.

Có rất nhiều dấu hiệu cho thấy sự can thiệp ngay từ ban đầu khi CIA và FBI có mặt tại hiện trường vụ Lockerbie chỉ hai giờ sau khi máy bay rơi và dường như được nhà cầm quyền Scotland trao quyền (for a good account, see John Ashton and Ian Ferguson, Cover-Up of Convenience: The Hidden Scandal of Lockerbie). Quyết định là một cú sốc đối với các chuyên gia như giáo sư luật Scotland Robert Black và nhà quan sát Hoa Kỳ Hans Kochler, cả hai người cảm thấy “không thể hiểu nổi” và là “thất bại mất mặt nhất trong lịch sử tư pháp Scotland hàng trăm năm nay” (Black, in Scotsman, November 1, 2005). Lời kêu gọi và quyết định vào tháng 6 năm 2007 của Ủy Ban Thẩm Tra Các Vụ Án Hình Sự Scotland giải thích sáu cơ sở riêng biệt của quyết định năm 2001 có thể là sai lầm. Nhưng trước khi phiên tòa mới được mở, tù nhân Ali Al-Megrahi đã được thả vì lý do sức khỏe và trở về Lybia. 

Truyền thông chính thống thất bại trong việc ghi nhận sự kỳ quặc về việc chỉ một trong số những người cáo buộc bị buộc tội, khi mà các quan tòa Scotland, dưới sức ép chính trị nặng nề và định kiến của truyền thông, đã quyết định rằng họ phải quăng ít nhất một khúc xương cho những con chó như là biện pháp chính trị cần thiết. Truyền thông, trong khi thừa nhận với các quan tòa về sự suy diễn của vụ án, đã không kêu gọi sự chú ý đối với hàng loạt các vi phạm đáng chú ý trong quản lý bằng chứng và thủ tục tố tụng, điều mà Black, Kochler và dường như là Ủy Ban Thẩm Tra của Scotland. Trong số 15 bài xã luận của tờ Times về vụ hạ máy bay Pan Am 103 và liên hệ với Libya, không có bất cứ bài nào biểu lộ sự e dè dù là nhỏ nhất về quy trình hay sự xác thực của cáo buộc chống lại những người Lybia. Truyền thông tỏ ra phẫn nộ với việc phóng thích về lý do sức khỏe của Al-Megrahi, nhưng khi họ lảng tránh các quyết định và phân tích căn bản của Hội Đồng Thẩm Tra, thì họ cũng bỏ qua khả năng trong đó công bố là biện pháp tốt nhất để tránh các hệ quả của đánh giá đó. Hai người Libya bị xét xử - đặc biệt là Al-Megrahi, và Libya trong suốt nhiều năm bị trừng phạt và Kaddafi cũng như Lybia bị tô vẽ như kẻ khủng bố - đã nhận những đòn nặng nề. Đồng thời Phương Tây tô điểm cho hình ảnh của họ là chiến sĩ đấu tranh cho công lý, luật pháp và trật tự toàn cầu, trái với sự thật trong vụ việc này, các lãnh đạo của họ đã lạm dụng nghiêm trọng các nguyên tắc danh nghĩa về tư pháp dựa trên cơ sở mà họ đưa ra một cách giả định cho vụ việc.

Khi Chúng Ta làm điều đó 

Iran Air Flight 655. Chiếc máy bay dân sự của hãng hàng không Iran bị bắn hạ vào tháng 7 năm 1988 theo lệnh của chỉ huy tàu chiến USS Vincennes, khi thi hành nhiệm vụ tại Vịnh Ba Tư trong chiến dịch hỗ trợ cuộc chiến xâm lược Iran của Saddam Hussein. Không giống như chiếc máy bay 007, chiếc 655 không rời khỏi đường bay và cũng không tạo ra mối đe dọa đối với binh lính Hoa Kỳ. Tờ New York Times, đã có một xã luận mang tiêu đề “Sát hại” liên hệ với vụ hạ máy bay 007 và nhắc lại năm 1983 rằng, “Không thể có lời xin lỗi chính đáng đối với bất kỳ quốc gia nào bắn hạ máy bay dân sự vô hại,” dường như là một dự đoán cho trường hợp chiếc 655: “sự cố vẫn không được coi như là một tội ác [chỉ riêng “sát hại”] mà chỉ là một sai lầm và là một bi kịch.” Cả Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ lẫn Tổ Chức Hàng Không Dân Dụng đều không lên án Hoa Kỳ về hành động đó, mặc dù cả hai đã làm điều đó với Soviet trong vụ KAL-007. Tất nhiên, Hội Đồng An Ninh đã tiến hành một hoạt động trả đũa Lybia trong vụ Pan Am 103. Không có bất cứ trừng phạt nào đối với thuyền trưởng Will Rogers (được biết tới với biệt danh Rambo), người được “chào đón như người hùng” khi trở về San Diego năm tháng sau vụ bắn hạ (Robert Reinhold, “Crew of Cruiser That Downed Iranian Airliner Gets a Warm Homecoming,” NYT, October 25, 1988), và tiếp đó được trao tặng phần thưởng Legion of Merit cho “hành xử phi thường xứng đáng được khen ngợi trong khi thi hành nhiệm vụ nổi bật.”

Người Iran đã giận dự với sự đón tiếp và cách đối xử với người đàn ông phải chịu trách nhiệm về sinh mạng của 290 thường dân Iran và cảm thấy phẫn uất về hoạt động của hệ thống tư pháp quốc tế cũng như tác động của nó đối với họ. Các khảo sát cho thấy sự đón tiếp nồng nhiệt Rogers nhận được ở San Diego là một sự lầm lạc – công chúng hài lòng với những gì ông ta đã hoàn thành. 

Điều này phản ánh sự thật là truyền thông đưa tin về vụ bắn hạ 655 đã tập trung vào các cáo buộc chính thống về nguyên nhân của hành động chết chóc, chứ không phải hoàn cảnh của các nạn nhân và nỗi đau khổ của gia đình họ - những thứ được tập trung mạnh mẽ và liên tục trong cả vụ chiếc 007 lẫn Pan Am 103. Sự đau khổ của thuyền trưởng Rogers nhận được nhiều sự chú ý hơn sự đau khổ của 290 nạn nhân và gia đình của họ. Chúng ta quay trở lại sự tương phản giữa nạn nhân “đáng giá” và “không đáng giá” và “mục đích hữu ích” của sự tập trung chú ý, như chính quyền và truyền thông Hoa Kỳ thấy.

Israel bắn hạ máy bay Libya 

Vào ngày 21 tháng 2 năm 1973, chiếc máy bay dân sự số 114 của hãng hàng không Libya, đi lệch đường bay trong một trận bão cát, lấn vào vùng trời bán đảo Sinai, và đã bị chiến đấu cơ Israel bắn hạ, 108 người thiệt mạng. Israel bị Tổ Chức Hàng Không Dân Dụng Quốc Tế lên án và bị Hoa Kỳ chỉ trích, mặc dù là họ biết rằng đã bắn hạ máy bay dân sự, nhưng không có bất cứ sự trừng phạt nào, không có tố cáo nào đối với Israel. Họ không bị buộc tội sát nhân, tấn công, tàn ác hay man rợ - những từ ngữ được áp dụng cho Soviet năm 1983. Lãnh đạo Israel Golda Meier được chào đón tới Washington trong vòng một tuần sau sự cố mà không có bất cứ câu hỏi gây ngạc nhiên nào của truyền thông hay chính giới. 

Tờ New York Times đã có 25 bài báo về vụ bắn hạ (so với 147 trong vụ chiếc 007), và không có số tạp chí đặc biệt nào cho vụ việc. Đáng chú ý nhất là các xã luận của họ về sự cố, khẳng định rằng “Không có mục đích hữu ích nào trong tranh luận về các chi tiết của cáo buộc đối với vụ hạ máy bay của hãng hàng không Libya tại bán đảo Sinai tuần qua” (Ngày 1 tháng 3 năm 1973).

Nhưng cũng như truyền tải cấp tốc và tranh luận cho mục đích hữu ích trong vụ chiếc 007, giúp biến “đế chế ma quỷ” thành ác quỷ, thì truyền tải tối thiểu và lảng tránh tranh luận phục vụ cho lợi ích của đồng minh Israel. Chúng ta thấy sự thừa nhận công khai về tiêu chuẩn kép và chính trị hóa báo chí.

Nga và đối tác Ukraina có thể đã bắn hạ máy bay 

Vụ bắn hạ máy bay số 17 của hãng hàng không Malaysia vào ngày 17 tháng 7 là một của trời cho về tuyên truyền đối với phe cánh hiếu chiến Hoa Kỳ và đối tác Ukraina của họ, cũng như tiếp tục nuôi dưỡng việc biến Putin và nước Nga hung hăng thành ác quỷ, có thể biện minh cho các chính sách khắc nghiệt đối với Nga, tăng thêm viện trợ quân sự cho chính quyền Kiev và ủng hộ cuộc chiến bình định của họ. Sự tương đồng với vụ 007 là rất rõ ràng, khi việc sử dụng vụ bắn hạ năm 2014 để giành lợi thế cho phe hiếu chiến tương tự như chính quyền Reagan đối đầu với “đế chế ma quỷ” vào năm 1983.

Sự khác biệt quan trọng trong hai trường hợp là vào năm 1983 xác định phe bắn hạ máy bay là rõ ràng, mặc dù chính quyền Reagan lựa chọn sự dối trá về động cơ của Soviet để đạt được mục đích, trong khi vụ chiếc 17 thì ai bắn hạ vẫn chưa được xác định tại thời điểm này (ngày 2 tháng 8). Obama và Kerry nhanh chóng cáo buộc “những người ly khai” miền đông Ukraina, cùng với Nga, đã cung cấp cho họ tên lửa. Nga cũng bị cáo buộc là đã không ngăn chặn những người ly khai và che chở cho cuộc kháng chiến.

Obama và Kerry nhanh chóng khẳng định rằng những người ly khai-người Nga có lỗi trong vụ bắn hạ, khẳng định về các bằng chứng vững chắc, mà họ không cung cấp để kiểm tra công khai. Nga đã phủ nhận trách nhiệm của họ và người ly khai, đồng thời cung cấp bằng chứng cho Liên Hiệp Quốc và công chúng thấy rằng chiếc 17 đã rời khỏi đường bay và bị hai chiến đấu cơ phản lực của Không Quân Ukraina bám đuổi, thậm chí chỉ cách chiếc máy bay của Malaysia khoảng từ 3 đến 5 km (see letter dated July 22 from the Permanent Representative of the Russian Federation to the United Nations addressed to the Secretary-General. One can actually watch this on a 29-minute video at the RT website). Trung tướng Nga A. V. Kartapolov hỏi: “Tại sao máy bay quân sự lại bay vào đường bay dân sự hầu như cùng lúc và cùng trạng thái với máy bay dân sự? Chúng tôi muốn câu hỏi này được trả lời.” Nga đã liên tục kêu gọi một cuộc điều tra quốc tế để tìm ra chân tướng vụ việc, đồng thời thúc giục Hoa Kỳ cung cấp các bằng chứng cho việc điều tra.

Điều chưa rõ ràng là ai đã bắn hạ máy bay, nhưng điều rõ ràng là người ly khai và Nga không có lợi ích gì khi làm điều đó, nên nếu họ có trách nhiệm thì đó sẽ là một sai lầm tệ hại và đắt giá về mặt chính trị đối với họ. Chính quyền Kiev, trái lại, có lợi ích khi làm điều đó nếu nó có thể gán cho người ly khai và Nga, và nó đã được gán ngay cả khi các bằng chứng chưa rõ ràng. Như vụ 007 và Lockerbie, sức mạnh tuyên truyền Hoa Kỳ có thể tạo ra dối trá về chuyến bay (007) và kẻ hung đồ có thể được chọn cũng như thay đổi để phục vụ cho lợi ích chính trị (Lockerbie, từ Iran sang Libya), cùng với các đòn tuyên truyền khổng lồ về vụ chiếc 17 thì mục tiêu đã đạt được trước khi sự thật được phơi bày. Chiến thắng tuyên truyền dựa trên hãng truyền thông, chiến dịch tuyên truyền của truyền thông trong vụ này cũng tương tự như vụ 007 và Lockerbie. Điểm chủ chốt của chiến dịch tuyên truyền là chấp nhận một cách phổ biến khẳng định của Obama-Kerry về trách nhiệm của người ly khai-Nga trong vụ bắn hạ. Cũng như vụ chiếc 007, không có câu hỏi nào được đưa ra và sự chân thực trong khẳng định của Kerry về bằng chứng được chấp nhận mà không cần phải thấy bằng chứng, bất chấp kỷ lục về các tuyên bố sai lệch của Kerry (On these false statements, and more, see Veteran Intelligence Professionals for Sanity Steering Committee, “Obama Should Release Ukraine Evidence,” ConsortiumNews.com, July 29, 2014.) Một đặc trưng khác của truyền thông là sự chấp nhận giả định của Obama/Kerry về trách nhiệm tối cao của tất cả những gì khó chịu đang diễn ra ở miền đông Ukraina thuộc về Putin và chính sách của ông ta – sự ủng hộ của ông ta đối với “những người ly khai” và thất bại của ông ta trong việc ngăn chặn họ cũng như chấp nhận hay thậm chí là ủng hộ nỗ lực bình định của Kiev.

Xã luận của tờ Times, “Vladimir Putin có thể ngăn chặn cuộc chiến này” (ngày 18 tháng 7) là mẫu mực về sự thiên lệch. Hoa Ky có thể ngăn chặn cuộc chiến dễ dàng hơn nhiều băng cách thuyết phục chính quyền tay sai Kiev ngừng cuộc tấn công của họ ở miền đông và đàm phán một giải pháp với “những người ly khai”. Điều đó không được bàn luận ở tờ Times và truyền thông chính thống một cách rộng rãi hơn.

Đối với truyền thông, Hoa Kỳ có quyền hỗ trợ tích cực chính quyền Kiev, ở rất xa biên giới Hoa Kỳ; nhưng Nga thì không có quyền hỗ trợ những người ly khai láng giềng trong một cuộc nội chiến kết hợp với chiến tranh tay sai của Hoa Kỳ nhắm chống lại Nga. Trong khi cáo buộc Nga đã giật dây các hoạt động ly khai ở miền đông (Sabrina Tavernise, “Orchestrated Conflict,” NYT, June 15, 2014) thì Hoa Kỳ không bao giờ “giật dây” các xung đột, chỉ là sự giúp đỡ từ bên ngoài đối với chính quyền Ukraina hợp pháp trong việc ổn định và chống trả xâm lược nước ngoài. Đó là những sự thật được thể chế hóa trong hệ thống tuyên truyền hoạt động đẹp đẽ, đôi khi là sống sượng.

Wednesday, August 20, 2014

Tại sao truyền thông và chính quyền Obama lại im lặng về vụ máy bay MH17?

Vụ máy bay chở khách số hiệu MH17 của hãng hàng không Malaysia bị bắn hạ trên bầu trời Ukraina một tháng trước đây đã gây ra sự ồn ào trên truyền thông khắp thế giới. Hoa Kỳ và Phương Tây đã liên tục cáo buộc Nga mà không đưa ra bất cứ bằng chứng nào, nhưng rồi đột nhiên họ im lặng. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Why have the media and Obama administration gone silent on MH17?" của tác giả Niels Williamson để biết thêm chi tiết.

Sự im lặng ồn ào của truyền thông và chính quyền Hoa Kỳ về việc điều tra vụ rơi máy bay MH17 của hãng hàng không Malaysia một tháng trước đây đang bốc mùi khỏi cái vung che đậy.

Hàng ngày hàng giờ ngay sau khi máy bay rơi, mặc dù không có bất cứ mảnh nhỏ bằng chứng nào, quan chức Hoa Kỳ cáo buộc máy bay chở khách bị bắn hạ bằng tên lửa đất đối không SA-11 từ khu vực do những người ly khai thân Nga kiểm soát ở miền đông Ukraina. Họ đã tiến hành một chiến dịch chính trị để đạt được các biện pháp trừng phạt kinh tế khắc nghiệt đối với Nga và củng cố vị thế quân sự của NATO ở Đông Âu.

Đánh hơi được vụ việc, những con chó dữ của CIA trong truyền thông Hoa Kỳ và Châu Âu cáo buộc tổng thống Nga Vladimir Putin về vụ máy bay rơi. Trang bìa ấn bản ngày 28 tháng 7 của tạp chí Đức Der Spiegel đăng bức ảnh các nạn nhân trong vụ MH17 ở xung quanh dòng chữ tô đậm mầu đỏ “Chặn Putin ngay!”. Bài xã luận ngày 26 tháng 7 của tờ Economist tuyên bố Putin là tác giả của vụ phá hủy MH17, trong khi tạp chí đăng một cách ghê tởm khuôn mặt của Putin với mạng nhện lên trang bìa, để thể hiện “mạng lưới dối trá” của Putin.

Bất cứ ai so sánh sự bôi nhọ Putin của truyền thông với hành xử của truyền thông trong trường hợp Saddam Hussein hay Muammar Gaddafi thì đều có thể kết luận là Washington đang tiến hành một chiến dịch thay đổi chính quyền ở Nga giống như những gì đã diễn ra ở Lybia và Iraq – lần này đã thúc đẩy một cách khinh suất Hoa Kỳ vào cuộc chiến với một quốc gia có vũ khí hạt nhân, đó là Nga.

Mặc dù định biến vụ máy bay rơi thành một biến cố gây chiến đối với Nga nhưng truyền thông Hoa Kỳ đột ngột bỏ rơi hoàn toàn sự kiện. Tờ New York Times đã không đăng một từ nào về vụ MH17 kể từ ngày 7 tháng 8.

Không có bất cứ giải thích đơn giản nào về sự biến mất đột ngột của MH17 khỏi truyền thông và tiêu điểm chính trị. Hộp đen của máy bay do Anh giữ để điều tra trong nhiều tuần, các vệ tinh do thám của Hoa Kỳ và Nga cũng như radar quân sự đã quét cấp tốc khu vực miền đông Ukraina vào thời điểm máy bay rơi. Tuyên bố rằng Washington không có thông tin về tình hình vụ máy bay rơi và các lực lượng có can dự là không đáng tin.

Nếu bằng chứng trong tay Washington chỉ chứng minh tội lỗi của Nga và lực lượng thân Nga, nó sẽ được công bố để đáp ứng sự điên cuồng chống Nga của truyền thông. Nếu như nó không được công bố thì bởi vì bằng chứng cho thấy sự can dự của chính quyền Ukraina ở Kiev và những người ủng hộ họ ở Washington và các thủ đô của châu Âu.

Ngay từ đầu, chính quyền Obama đã không đưa ra được bất cứ bằng chứng nào chứng minh cho lời buộc tội đầy kích động rằng Putin phải chịu trách nhiệm về vụ rơi máy bay MH17. Trong buổi họp báo ngắn vào ngày 18 tháng 7 sau khi máy bay rơi, tổng thống Obama tuyên bố rằng vẫn còn “quá sớm đối với chúng ta để có thể phỏng đoán về ý đồ của những người đã bắn tên lửa đất đối không”. 

Trong khi nhẫn tâm khai thác vụ máy bay rơi để gia tăng sức ép và đe dọa Nga, Obama cảnh báo rằng “dường như có sự thông tin lệch lạc” trong việc tường thuật về vụ máy bay rơi. Thừa nhận một cách nửa đùa nửa thật rằng ông ta không có bằng chứng chứng minh cho cáo buộc của mình, ông ta nói: “Theo nghĩa xác định xem cá nhân hay nhóm cá nhân hay nhân vật nào đã ra lệnh tấn công, cũng như điều đó đã diễn ra như thế nào, theo tôi nghĩ sẽ là đối tượng cho những thông tin bổ sung mà chúng ta sẽ thu thập”.

Trong sự kiện, thông tin lệch lạc về vụ MH17 xuất phát từ chính bản thân chính quyền Obama. Ngoại trưởng John Kerry phát biểu trước truyền thông vào ngày 20 tháng 7, lập luận rằng những người ly khai thân Nga và chính quyền Nga phải chịu trách nhiệm về vụ bắn hạ.

Bằng chứng duy nhất mà ông ta trình bày là một ít không rõ nguồn gốc các “dữ liệu truyền thông xã hội” được đưa lên mạng Internet. Ông ta trưng ra một đoạn ghi âm không rõ nguồn gốc cho thấy những người ly khai đang nói về máy bay rơi, được cơ quan tình báo Ukaraina (SBU) vốn hợp tác chặt chẽ với CIA biên tập và công bố; một đoạn video YouTube cho thấy một chiếc xe tải chở một thiết bị quân sự không rõ danh tính suốt một đoạn đường; và một tuyên bố trên mạng xã hội đã bị rút lại rằng trách nhiệm về vụ bắn hạ máy bay thuộc về thủ lĩnh của phe ly khai Igor Strelkov.

Rất nhanh chóng, câu chuyện của chính quyền Hoa Kỳ về vụ MH17 sụp đổ. Tại buổi họp báo vào ngày 21 tháng 7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao và cựu chuyên gia phân tích CIA ở Trung Đông Marie Harf tuyên bố rằng kết luận của chính quyền Obama về vụ máy bay rơi “dựa trên các thông tin công khai mà hoàn toàn là theo nhận thức thông thường”. Khi được các phóng viên yêu cầu đưa ra bằng chứng, bà ta thừa nhận là không thể: “Tôi biết điều đó gây nản lòng. Hãy tin tôi, chúng tôi cố gắng làm hết mức có thể. Và vì một số lý do, đôi khi chúng tôi không thể”. 

Sau một tháng, Washington đã thất bại trong việc cung cấp các bằng chứng cho lời cáo buộc đối với Putin, rõ ràng là cuộc tấn công chính trị của các chính quyền NATO và sự điên cuồng của truyền thông chống Putin dựa trên sự dối trá.

Nếu những người ly khai thân Nga đã bắn tên lửa đất đối không, như chính quyền Hoa Kỳ tuyên bố, năng lực của Không Quân sẽ bị hoài nghi. Các vệ tinh trong Chương Trình Hỗ Trợ Phòng Không của Hoa Kỳ với cảm biến hồng ngoại để phát hiện tên lửa bắn đi từ bất cứ đâu trên hành tinh, và radar của Hoa Kỳ đặt tại châu Âu sẽ theo dõi tên lửa khi nó được phóng lên bầu trời. Dữ liệu vệ tinh và radar đã không được công bố, bởi vì mọi điều mà chúng cho thấy đều không phù hợp với câu chuyện do chính quyền Hoa Kỳ và truyền thông dựng lên. 

Trái lại tiếng vọng của bằng chứng cho thấy vai trò của chính quyền được Hoa Kỳ hậu thuẫn ở Kiev trong vụ bắn hạ máy bay MH17. Ngay sau khi Kerry đưa ra cáo buộc, quân đội Nga công bố dữ liệu radar và vệ tinh cho thấy một máy bay chiến đấu SU-25 của Ukraina ở rất gần và tiến tới MH17 khi nó bị bắn hạ. Khẳng định này không được làm rõ, chỉ đơn giản là bị chính quyền Hoa Kỳ bác bỏ.

Người tiết lộ bí mật của NSA William Binney và các điệp viên tình báo đã nghỉ hưu của Hoa Kỳ phát hành một tuyên bố và cuối tháng 7 đề cập sự hoài nghi về bằng dữ liệu truyền thông xã hội của John Kerry, và yêu cầu công bố các bức ảnh vệ tinh về vụ phóng tên lửa. Họ bổ sung thêm, “Chúng tôi được biết một cách không trực tiếp từ một số các bạn đồng cấp cũ là những gì Kerry đưa ra không phù hợp với tình báo thực tế”.

Vào ngày 9 tháng 8, tờ New Straits Times của Malaysia đăng một bài báo buộc tội chính quyền Kiev đã bắn hạ MH17. Bài báo tuyên bố rằng bằng chứng từ hiện trường cho thấy máy bay bị bắn hạ bởi chiến đấu cơ phản lực của Ukraina bằng tên lửa và tiếp theo là súng máy hạng nặng.

Trong khi còn quá sớm để kết luận MH17 đã bị bắn hạ ra sao, ưu thế về bằng chứng cho thấy trách nhiệm của chính quyền Ukraina, và sau họ là chính quyền Hoa Kỳ cũng như châu Âu. Họ tạo ra các điều kiện cho vụ phá hủy MH17, ủng hộ cuộc đảo chính do phát xít cầm đầu ở Kiev vào tháng hai, cuộc đảo chính đã đưa chính quyền thân phương Tây hiện nay lên nắm quyền. Truyền thông phương Tây ủng hộ cuộc chiến của chính quyền Kiev để đàn áp phe đối lập ở miền đông, biến khu vực thành vùng chiến sự và tại đó máy bay MH17 bị bắn hạ.

Sau vụ sát hại 298 hành khách trên máy bay MH17, trong đó họ đóng một vai trò quan trọng nếu không phải là một vai trò vẫn chưa được giải thích, chính quyền phương Tây và các điệp viên tình báo đã sử dụng thảm kịch cho một âm mưu khinh suất và hung hãn mở rộng đe dọa chiến tranh chống chính quyền Putin. Im lặng là đồng lõa, và sự im lặng của truyền thông phương Tây trước sự can dự của chính quyền Kiev trong vụ MH17 chứng minh rằng tội lỗi không chỉ thuộc về người điều hành chính sách đối ngoại mà còn cả sự quỵ lụy của truyền thông và toàn bộ giai cấp thống trị.

Thursday, July 24, 2014

Vụ rơi máy bay MH17 và bộ mặt chính trị của phương Tây

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "What are the politics of the crash of Malaysian Airlines flight MH17?" của Alex Lantier bình luận về những tin tức mới nhất trong sự kiện máy bay MH17 của hãng hàng không Malaysia rơi tại miền đông Ukraina. Tiêu đề do người dịch đặt lại.

Một cuộc họp báo ngắn trong ngày thứ hai của Bộ Ngoại Giao với người phát ngôn Marie Harf về vụ rơi máy bay MH17 ở miền đông Ukraina đã phơi bày sự thực là chính quyền Hoa Kỳ không có bằng chứng đáng tin cậy cho các cáo buộc của họ về việc Nga can dự vào thảm kịch kinh hoàng đó. Trong khi không ngừng chống đỡ các công kích của phóng viên Matt Lee thuộc hãng thông tấn AP, Harf đã không thể đưa ra bất cứ thông tin chính xác nào.

Đầu tiên, Lee trích dẫn báo cáo của quân đội Nga về dữ liệu radar và các hình ảnh vệ tinh cho thấy chiến đấu cơ của chính quyền Kiev và dàn phóng tên tửa đã theo dõi máy bay MH17 ngay trước khi chiếc máy bay bị rơi. Sau đó, ông ta hỏi bà Harf về phản ứng đối với việc Moscow yêu cầu Washington công bố các tài liệu chứng minh cho sự kiện, như dữ liệu vệ tinh do thám của Hoa Kỳ mà Moscow quan sát thấy có mặt tại khu vực vào thời điểm xảy ra vụ rơi máy bay.

Câu trả lời của Harf hoàn toàn ngớ ngẩn. Bà ta nói, “Chúng tôi biết, chúng tôi đã thấy trên truyền thông xã hội sau đó, chúng tôi đã xem các video, chúng tôi đã xem các bức ảnh mà những người ly khai thân Nga khoe khoang về việc bắn hạ một máy bay và họ sau đó họ…xin lỗi, đã rút xuống khi nhận ra rằng đó có thể là máy bay dân sự”.

Lee hỏi Harf rằng Washington có đưa ra các bằng chứng xác đáng như dữ liệu mà quân đội Nga đã cũng cấp không. Harf đã từ chối bình luận về việc đó, chỉ đơn giản khẳng định rằng bà ta không lấy làm phiền phải theo dõi trình bày của quân đội Nga. “Tôi chưa hề thấy bất cứ thứ gì của sự trình bày đó”, bà ta nói. 

Lee dồn ép Harf về chuyện Washington trên thực tế biết gì về việc tên lửa được bắn đi từ khu vực do lực lượng thân Nga kiểm soát. Harf trả lời, “Trước hết chúng tôi biết rằng những người ly khai thân Nga có một hệ thống SA-11 [tên lửa đất đối không] vào ngày thứ hai, 14 tháng 7. Điều này thu được từ việc chặn bắt trao đổi thông tin của những người ly khai mà chính quyền Ukraina đã đưa lên mạng YouTube.

Lee cắt ngang Harf bằng câu hỏi Washington có thể đưa ra bất cứ bằng chứng nào cho những khẳng định của họ ngoài những thứ được đăng trên truyền thông xã hội không. Câu trả lời của Harf cho thấy rõ ràng là không thể: “Nếu có thêm thông tin liên quan mà chúng tôi có thể chia sẻ, chúng tôi sẵn lòng làm điều đó. Chúng tôi đang tiếp tục tìm kiếm thông tin về sự kiện. Nhưng hãy chú ý, đây là những gì chúng chúng tôi đang nắm được. Dựa trên các thông tin công khai theo lẽ thông thường, đúng vậy, chúng tôi biết về nơi tên lửa đã được bắn đi, chúng tôi biết ai có vũ khí đó”. Bà ta bổ sung thêm, “Tôi biết là nó gây bực dọc. Hãy tin tôi, chúng tôi cố gắng thu thập thông tin trong chừng mực có thể. Và vì một số lý do, đôi khi chúng tôi không thể”.

Thật kinh ngạc là chính quyền Hoa Kỳ có thể mong đợi mọi người chấp nhận những thứ vô nghĩa là bằng chứng cho tất cả. Các điệp viên tình báo Hoa Kỳ đã tiêu tốn hàng tỷ dollar mỗi năm vào các chiến dịch giám sát quy mô lớn; họ dường như đã theo dõi khu vực có máy bay rơi qua vệ tinh. Mặc dù vậy, bằng chứng duy nhất mà Harf trích dẫn là một đoạn thu âm cuộc đối thoại giữa hai người không rõ danh tính được cơ quan an ninh Ukraina, vốn nằm dưới sự kiểm soát của CIA, đưa lên mạng YouTube.

Nội dung của đoạn thu âm đó chẳng chứng được minh điều gì. Quân đội Ukraina cũng có hệ thống tên lửa SA-11 và có thể bắn vào máy bay MH17. Dàn phóng tên lửa, số hiệu 312, mà truyền thông mới cáo buộc đã bắn tên lửa vào máy bay MH17 đã được chứng minh là thuộc về kho vũ khí của quân đội Ukraina.

Đây là cách làm việc mà chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ đã sử dụng nhiều năm: dựa trên các cáo buộc chưa được xác minh về công cụ khủng bố như vũ khí hủy diệt hàng loạt hay rơi máy bay để dẫn dắt nhân dân Hoa Kỳ tới chiến tranh, với những hậu quả khủng khiếp. Thuyết trình năm 2003 của Bộ trưởng Ngoại giao Colin Powell tại Liên Hiệp Quốc, tuyên bố rằng Iraq sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt, đã được chứng minh là dối trá. Cáo buộc vào năm ngoái về việc Syria sử dụng vũ khí hóa học, nhằm thúc đẩy một cuộc chiến tranh, đã bị nhà báo Seymour Hersh phơi bày là chuyện bịa đặt của Thổ Nhĩ Kỳ, Al Qaeda và các cơ quan chức năng nhà nước Hoa Kỳ 

Đáng chú ý, tổng thống Obama và ngoại trưởng John Kerry đã dấy lên câu hỏi về cuộc khủng hoảng hiện tại với Nga, với cảnh báo của Obama về “thông tin sai lệch” trên truyền thông và Kerry bày tỏ rằng ông ta không muốn nhận xét về việc Nga “có tội” trong thảm họa này. 

Ít nhất, chiến dịch chống Nga của truyền thông phương Tây vẫn không suy yếu. Viết trên tờ New York Times vào thứ tư, Bernard-Henri Lévy điên cuồng lên án Putin, đổ lỗi cho ông ta về vụ rơi máy bay. Lévy viết: “Ông ta đã thu nạp đám côn đồ, trộm cắp, hiếp dâm, tù tội, phá hoại và biến chúng thành lực lượng bán quân sự… Với bộ sưu tập tạp nham đó, ngài Putin, tổng thống Nga, đã tạo ra một vũ khí khủng khiếp mà những người lính nghiệp dư không thể so sánh và với những gì chúng đã làm, giống như những đứa trẻ với pháo hoa.”

Những lời lên án cay độc đối với Putin và Nga đang kêu gọi sự can thiệp của NATO vào Ukraina là nguy cơ trực tiếp thúc đẩy cuộc nội chiến, được tạo ra sau cuộc đảo chính được NATO hậu thuẫn và phát xít đóng vai trò xung kích trong tháng hai vừa qua, trở thành chiến tranh hạt nhân toàn cầu. Trong bài báo bẩn thỉu trên tờ New York Times, nhà báo Roger Cohen kêu gọi bỏ qua kết quả điều tra vụ rơi máy bay MH17 và thay vào đó là xâm lược Ukraina cũng như lao vào chiến tranh thế giới.

Bài báo của ông ta có tiêu đề “Mặt trời tháng tám”, ông ta viết: “Một thế kỷ trôi qua kể từ thế chiến thứ nhất, không ai muốn khẩu súng của tháng tám. Mặc dù vậy cần phải hỏi rằng liệu những năm tháng chờ đợi cho kết luận lẩn tránh của một cuộc điều tra chính thức về số phận của chiếc máy bay số 17 có tốt hơn hành động ngay lập tức về thứ mà chúng ta đã biết rõ không… Nga sẽ phủ quyết bất cứ nghị quyết nào của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc cho phép thực hiện một nhiệm vụ giới hạn để bảo vệ thi hài và bằng chứng. Nhưng Ukraina, trên lãnh thổ của họ có những mảnh vụn và thi hài đang nằm, sẽ ủng hộ điều đó. Các chính quyền Mỹ, Anh, Hà Lan và Australia sẽ đưa ra tối hậu thư dựa trên sự đe dọa nghiêm túc về việc buộc phải thực hiện yêu cầu tiếp cận không giới hạn với địa điểm máy bay bị rơi.

Những cảnh báo khẩn cấp nhất đối với giai cấp lao động quốc tế là cần thiết. Những nhà báo như Cohen và các nhân viên tình báo, qua những gì mà họ thể hiện, có nguy cơ gây ra một cuộc chiến tranh với tổn thất ít nhất có thể lên đến hàng trăm triệu mạng người. Trong bài phát biểu tuần này, tổng thống Nga Putin tuyên bố rằng ông ta sẽ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Nga và có các vũ khí để làm điều đó. Kho vũ khí của quân đội Nga, giống như Hoa Kỳ, có đủ vũ khí hạt nhân để phá hủy hành tinh này vài lần.

Trong khi bằng chứng thực sự vẫn chưa cho phép các nhân viên điều tra xác định nguyên nhân vụ rơi máy bay, bằng chứng chính trị tích lũy mỗi ngày cho thấy truyền thông phương Tây, phát ngôn cho một số bộ phận giai cấp thống trị Hoa Kỳ và Châu Âu, có ý định gây chiến. Cái gì khiến người ta sẵn sàng chấp nhận sự hiếu chiến đó đối với sinh mạng của 298 người trên máy bay MH17 của hãng hàng không Malaysia?


Sunday, July 20, 2014

Vụ máy bay MH17 của hãng hàng không Malaysia rơi ở Ukraina

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "The crash of Malaysian Airlines flight MH17 in Ukraine" của Alex Lantier. Vụ máy bay MH17 của hãng hàng không Malaysia bị bắn rơi trên bầu trời miền đông Ukraina có thể làm thay đổi cục diện cuộc nội chiến ở Ukraina. Cho đến nay, phương Tây vẫn không đưa ra được bất cứ bằng chứng nào cho thấy Nga can dự hay viện trợ cho phe ly khai ở miền đông Ukraina, nhưng ngay khi chiếc máy bay MH17 bị bắn rơi thì truyền thông phương Tây đã lập tức lên án Nga, và theo đúng kịch bản quen thuộc "Anh bị coi là có tội cho đến khi anh chứng minh được rằng mình vô tội".

Những lời bình luận của tổng thống Obama về thảm kịch rơi máy bay MH17 của hãng hàng không Malaysia ở miền đông Ukraina làm dấy lên nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời. 

Obama tiếp tục củng cố chiến lũy tuyên truyền của quan chức và truyền thông Hoa Kỳ, lên án Nga và lực lượng ly khai thân Nga ở miền đông Ukraina về việc bắn hạ chiếc máy bay cũng như yêu cầu những người ly khai đầu hàng chính phủ được phương Tây hậu thuẫn ở Kiev. Mặc dù vậy, những lời bình luận của ông ta tự nó đã nhấn mạnh rằng chiến dịch tuyên truyền đó chẳng dựa trên một cơ sở thực tế nào và đang đẩy Washington tới sự đối đầu dữ dội với Nga. 

Obama nói: “Theo như những gì chúng ta biết. Bằng chứng cho thấy chiếc máy bay bị bắn hạ bởi hệ thống tên lửa đất đối không được phóng đi từ khu vực bị những người ly khai thân Nga kiểm soát trong phạm vi lãnh thổ Ukraina. Chúng ta cũng biết rằng đây không phải là lần đầu tiên một máy bay bị bắn rơi ở miền đông Ukraina. Trong những tuần vừa qua, những kẻ ly khai thân Nga đã bắn hạ một máy bay vận tải và một máy bay trực thăng của Ukraina, và họ đã nhận trách nhiệm về việc bắn hạ một chiến đấu cơ phản lực của Ukraina. Hơn nữa, chúng ta biết rằng những kẻ ly khai này đã nhận được sự hỗ trợ đều đặn từ Nga”. 

Nếu đọc lại những lời bình luận của Obama một cách cẩn thận, bạn sẽ thấy không có bất cứ điều gì ông ta nói chứng minh rằng lực lượng thân Nga bắn tên lửa vào máy bay MH17. Những người nổi dậy đã bắn rơi những máy bay quân sự của Ukraina khi chúng bay ở tầm thấp với tên lửa vác vai, nhưng điều đó không có nghĩa là họ dự định hay có khả năng phá hủy một máy bay dân dụng bay ở độ cao hơn 10.000 m – một hành động mà họ biết rằng sẽ mang tới cho Washington vũ khí tuyên truyền tối thượng. 

Khi Obama khẳng định rằng những người ly khai kiểm soát khu vực mà từ đó tên lửa được phóng đi thì ông ta cũng không đưa ra bất cứ bằng chứng nào, điều đó chả có nghĩa lý gì trong hoàn cảnh hỗn loạn ở miền đông Ukraina. Ở thành phố Donetsk, pháo đài của những người ly khai chống lại chính quyền Kiev, lực lượng trung thành với chính quyền Kiev vẫn kiểm soát sân bay, từ đó họ thường xuyên nã pháo vào thành phố. Thực tế là ngay trước khi chiếc máy bay MH17 được coi là bị bắn hạ bởi tên lửa BUK ở gần Donetsk, chính quyền Kiev đã tăng viện các khẩu đội pháo phòng không cho khu vực. 

Đáng chú ý là Obama cho thấy chính quyền của ông ta không biết ai và tại sao đã bắn hạ chiếc máy bay MH17. Ông ta nói, “Tôi nghĩ là còn quá sớm để chúng ta có thể phỏng đoán về mục đích của người phóng tên lửa đất đối không… Theo nghĩa là xác định được cá nhân hay nhóm cá nhân nào, các bạn biết đấy, cá nhân ra lệnh bắn tên lửa, điều đó diễn ra như thế nào – tôi cho rằng sẽ cần phải thu thập thêm thông tin”. 

Một lần nữa, đọc cẩn thận lại tuyên bố của Obama, có thể thấy ngoài những tuyên bố tình trạng và những lời rào đón, ông ta không nói gì về người bắn tên lửa. Bình luận của Obama trực tiếp mâu thuẫn với phát ngôn của đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc, Samantha Power, người vừa tuyên bố rằng có “bằng chứng đáng tin cậy” cho thấy Nga phải chịu trách nhiệm về vụ rơi máy bay, thêm vào đó, “Nga có thể kết thúc cuộc chiến này. Nga phải kết thúc cuộc chiến này”. 

Obama tiếp tục đưa ra một dấu hỏi về toàn cảnh sự kiện máy bay MH17 bị rơi: “Tôi muốn lưu ý về sự nhiễu loạn thông tin. Tôi nghĩ rằng điều quan trọng đối với dân chúng là phân biệt được đâu là sự thật và đâu là suy đoán”. 

Bức tranh về hoàn cảnh được đưa ra trong phát biểu của Obama là đáng chú ý. Qua sự thừa nhận của ông ta, Hoa Kỳ và đồng minh của họ đang lao vào một cuộc đối đầu quân sự với Nga, ngay cả khi Nhà Trắng không biết ai phải chịu trách nhiệm về vụ chiếc máy bay MH17 rơi và các lực lượng chính trị đầy uy quyền được tin cậy đang cung cấp các thông tin sai lệch cho truyền thông. 

Ngay cả khi khẳng định rằng CIA đã không báo cáo ông ta trước khi theo dõi quan chức Đức, Obama dường như cố gắng phác thảo những gì mà chính quyền của ông ta sẽ làm – mọi thứ trong khi đổ tội cho Nga 

Có thể khẳng định rằng mọi sự giải thích có lý về vụ bắn tên lửa vào máy bay MH17 đều cho thấy câu hỏi nghiêm trọng nhất về nguy cơ một cuộc đụng độ trực tiếp giữa các quyền lực phương Tây và Nga. 

Trong khi đó thì truyền thông Hoa Kỳ lại làm thinh về khả năng lực lượng trung thành với Kiev có thể đã bắn hạ chiếc máy bay MH17 với tên lửa BUK. Chiến dịch truyền thông của Hoa Kỳ đã cho thấy động cơ phía sau hành động đó: lên án Nga, thúc đẩy chiến dịch can thiệp vào Ukraina của NATO, và tìm cách tập hợp các đồng minh của châu Âu của Washington, những người đang lẩn tránh áp đặt trừng phạt đối với Nga. 

Khả năng lớn nhất là các lực lượng ủng hộ Kiev đã bắn hạ chiếc máy bay, có thể kể tới các lực lượng có quan hệ mật thiết với các hoạt động của CIA, lính đánh thuê của công ty Hoa Kỳ Blackwater, điệp viên tình báo châu Âu, và quân du kích phát xít đóng vai trò mũi nhọn trong lực lượng vũ trang Ukraina. Điều đó dẫn tới khả năng về việc đồng lõa trực tiếp của một bộ phận trong nhà nước Hoa Kỳ với vụ giết hại các hành khách và phi hành đoàn trên máy bay MH17. 

Đáng chú ý là truyền thông Nga đưa tin máy bay MH17 bay sớm hơn qua đường bay của máy bay chở tổng thống Nga Vladimir Putin trở về từ World Cup và hội nghị quốc tế tại Brazil, và cơ quan ở Moscow tin rằng tên lửa bắn hạ chiếc MH17 có thể là nhằm vào Putin. Không thể xác minh được bản tin đó có chính xác hay không. Mặc dù vậy, nếu cơ quan nhà nước Nga tin rằng tình báo Hoa Kỳ và châu Âu âm mưu ám sát người đứng đầu nhà nước Nga, thì sự dính líu thật không thể tin được. 

Mặt khác, nếu theo như chiến dịch tuyên truyền của Hoa Kỳ khẳng định, chiếc máy bay MH17 bị lực lượng liên minh với Nga hay được Nga viện trợ trực tiếp bắn hạ, thì thông điệp mà Nga muốn đưa ra là gì khi họ sẵn sàng giết hại gần 300 người. Điều đó có thể cho thấy Moscow muốn đưa cuộc khủng hoảng Ukraina đi xa hơn mức mà Washington có thể kiểm soát, và tình hình sẽ cực kỳ nguy hiểm. 

Truyền thông và chính khách Hoa Kỳ, trong khi cấp tốc lên án Nga, dường như hoàn toàn không quan tâm tới câu hỏi đó. Đây là thái độ vừa khinh suất vừa bộp chộp. Thảm họa MH17 đã tiết lộ cuộc khủng hoảng sâu sắc của chủ nghĩa đế quốc phương Tây và nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới.

Monday, July 7, 2014

Kinh doanh chiến tranh: Từ Việt Nam đến Ukraina

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "War is our business and business looks good" của giáo sư kinh tế Edward S. Herman, một tác giả có uy tín lâu năm về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ và quan hệ quốc tế. Bên cạnh những phân tích sâu sắc về cuộc khủng hoảng Ukraina, bài viết cũng đã so sánh sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Ukraina hiện nay với sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam trước kia. Tiêu đề bài viết do người dịch đặt lại.

Thật thú vị khi được chứng kiến chính quyền Hoa Kỳ, được dẫn dắt bởi chủ nhân giải Nobel [Hòa Bình], đã hiếu chiến như thế nào trong việc xử lý cuộc khủng hoảng Ukraina. Cuộc khủng hoảng được cho là bắt đầu khi chính phủ Yanukovich từ chối chương trình cứu trợ của EU để tiếp nhận chương trình của Nga. Truyền thông chính thống (MSM) dường như đã không chỉ bỏ qua sự thật là đề xuất của EU kém hào phóng hơn Nga, mà còn ở chỗ kế hoạch của Nga không ngăn chặn các thỏa thuận tiếp theo với EU, trong khi kế hoạch của EU đòi hỏi phải ngừng các thỏa thuận tiếp theo với Nga. Cũng như thỏa thuận với Nga không có ràng buộc quân sự, trong khi EU yêu cầu Ukraina phải liên kết với NATO. Khi MSM tường thuật về các gói cứu trợ, họ không chỉ bỏ qua sự ngăn cản và tính chất quân sự trong đề xuất của EU, họ có khuynh hướng coi các thỏa thuận của Nga là thủ đoạn kinh tế kém đứng đắn, như “cái dùi cui”, còn đề xuất của EU là “xây dựng và có lý” (Xã luận, NYT, 20.11.2014). Tiêu chuẩn kép dường như đã được nội tại hóa hoàn toàn trong phạm vi hoạt động của Hoa Kỳ. Những người biểu tình xuất hiện chắc chắn là do sự bất bình thật sự đối với chính quyền tha hóa, nhưng họ bị các nhóm cánh hữu cũng như sự cổ vũ của Hoa Kỳ và đồng minh đẩy đi xa, và ủng hộ việc bài Nga cũng như nhanh chóng thay đổi chính quyền. Họ đã gia tăng mức độ bạo lực. Xạ thủ giết hại cảnh sát và người biểu tình ở Maidan vào ngày 21 tháng 2 năm 2014, đã đẩy cuộc khủng hoảng tới thái cực mới. Bạo lực bùng phát đã phá hủy giải pháp được đàm phán dưới sự trung gian của các thành viên EU với hy vọng chấm dứt bạo lực, thiết lập chính phủ lâm thời và tiến hành bầu cử vào tháng 12. Bạo lực gia tăng đã chấm dứt kế hoạch chuyển tiếp, sau đó là một cuộc đảo chính cùng với sự trốn chạy của Victor Yanukovich.

Có bằng chứng đáng tin cậy về việc xạ thủ bắn vào cả người biểu tình lẫn cảnh sát là một chiến dịch đổ vạ xuất phát một bộ phận người biểu tình, chiến dịch đã rất hiệu quả, bạo lực của “chính quyền” là một trong những lý do Yanukovich bị lật đổ. Đáng chú ý nhất là thông điệp điện thoại bị tiết lộ giữa ngoại trưởng Estonia Urmas Paet và giám đốc đối chính sách đối ngoại EU Catherine Upton, trong đó Paet tường thuật một cách rõ ràng về bằng chứng cho thấy các phát đạn giết chết cả cảnh sát lẫn người biểu tình được bắn đi từ khu vực của người biểu tình. Sự kiện này hoàn toàn bị MSM bỏ qua. Ví dụ, tờ New York Times không bao giờ đề cập tới điều đó trong suốt hai tháng tiếp theo. Rất đáng ngạc nhiên là những người biểu tình ở Maidan không bao giờ bị MSM gọi là “chiến binh”, mặc dù đa số và bộ phận tích cực nhất được vũ trang và hung tợn – trong khi khái niệm đó lại được dùng để chỉ những người biểu tình ở miền đông Ukraina, những người được coi là “thân Nga” cũng như chiến binh (xin xem chi tiết hơn trong bảng tại Herman and Peterson, “The Ukraine Crisis and the Propaganda System in Overdrive,” in Stephen Lendman, ed,, Flashpoint in Ukraine). Có mọi lý do để tin rằng cuộc đảo chính và hoạt động của cánh hữu cũng như chính phủ bài Nga được quan chức Hoa Kỳ khích lệ và ủng hộ tích cực. 

Câu nói “Đ.m. EU” bị tiết lộ của Victoria Nuland cho thấy sự thù địch của bà ta đối với cái nhóm mặc dù quy phục và quỵ lụy nhưng đã đi lạc hướng khỏi kế hoạch tân bảo thủ với một chính phủ thích hợp ở Kiev dưới sự lãnh đạo của những người như “Yats”. Mặc dù vậy bà ta đã được hài lòng khi kế hoạch chuyển tiếp do EU hậu thuẫn bị kết liễu bằng bạo lực và đảo chính. Sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với chính phủ đảo chính là rất nhiệt tình và không hạn chế. Trong khi Kerry và cộng sự trì hoãn công nhận chính quyền dân cử của Maduro ở Venezuela và mạnh mẽ thúc giục ông ấy đối thoại cũng như đàm phán với những người biểu tình Venezuela – trên thực tế là đe dọa nếu ông ấy không làm – Kerry và cộng sự đã không làm điều tương tự ở Ukraina khi quân đội của chính phủ Kiev từng bước mở rộng quy mô tấn công vào miền đông Ukraina, không phải vào “người biểu tình”, mà là vào “các chiến binh”. 

Quân đội của chính quyền Kiev hiện đang sử dụng các chiến đấu cơ phản lực và máy bay trực thăng ném bom miền đông, sử dụng pháo hạng nặng và súng cối trong các chiến dịch bộ binh. Mục tiêu của họ bao gồm cả bệnh viện và trường học. Vào ngày 8 tháng 6, thiệt hại thường dân đã lên đến hàng trăm. Một vụ thảm sát 40 hoặc hơn những người biểu tình thân Nga ở Odessa vào ngày 2 tháng 5 được tổ chức hoàn hảo bởi những cán binh tân phát xít, cũng có thể là các nhân viên của chính quyền Kiev, là đỉnh điểm của chiến dịch bình định. Chính quyền Kiev cũng như “cộng đồng quốc tế” đã không có cuộc điều tra về vụ tấn công, và sự ủng hộ của phương Tây đối với chính quyền Kiev cũng không bị ảnh hưởng chút nào. Đồng thời MSM cũng rất ít quan tâm tới tin tức đó (Tờ New York Times chôn vùi sự kiện đó trên trang sau với sự tiếp tục câu chuyện về “Đụng độ chết chóc xảy ra ở Ukraina”, ngày 5 tháng 5, che dấu xác thực về những kẻ sát nhân). Kerry đã im lặng, mặc dù chúng ta có thể tưởng tượng ra sự phẫn nộ của ông ta nếu các nhân viên của Maduro thực hiện hành động tương tự ở Venezuela. Điều này gợi nhớ đến “vụ thảm sát Racak”, có 40 người chết được khẳng định là nạn nhân của quân đội Serb đã tạo ra sự phẫn nộ quốc tế. Nhưng đó là trong trường hợp Hoa Kỳ cần một cái cớ cho chiến tranh, còn trường hợp Odessa thì chỉ là một cuộc chiến bình định được tay sai của Hoa Kỳ tiến hành, thế nên MSM cần phải im lặng theo mệnh lệnh.

Một trong những đặc trưng thú vị trong việc đưa tin của truyền thông về cuộc khủng hoảng ở Ukraina là sự tập trung thường xuyên vào cáo buộc hay khả năng Nga tham gia viện trợ, kiểm soát và can dự vào các hoạt động của người biểu tình/chiến binh/người nổi loạn ở miền đông Ukraina. Đây là bằng chứng về sự chấp nhận có tính lừa dối của tờ Times trong việc khẳng định rằng những bức ảnh về người nổi loạn có một người Nga được chụp ở Nga, sau đó được thừa nhận là có vấn đề (Andrew Higgins, Michael Gordon, and Andrew Kramer, “Photos Link Masked Men in East Ukraine to Russia,” NYT, 20.4.2014) cũng như bài báo hàng đầu khác, hoàn toàn chỉ là sự suy đoán (Sabrina Tavernise, “In Ukraine Kremlin Leaves No Fingerprints,” NYT, 1.6.2014). Nhưng điều thú vị là việc đưa tin bừa bãi về vấn đề Ukraina, với sự cố ý làm sai lệch, lại không tiếp tục với các bằng chứng về viện trợ và sự kiểm soát của Hoa Kỳ và NATO. Chuyến viếng thăm của Biden, Cain, Nuland và các nhân vật tình báo cũng như Lầu Năm Góc được đề cập đôi lần, nhưng với phạm vi và tính chất như hỗ trợ và cố vấn, “dấu vết” của Hoa Kỳ không được thảo luận và dường như không đáng quan tâm. Trong thực tế là được bình thường hóa như kế hoạch cứu trợ mà đề xuất của Nga là “dùi cui” còn kế hoạch của Hoa Kỳ và EU là “xây dựng và có lý”, tiêu chuẩn kép đã có tác dụng rõ ràng.

Có nguy cơ là Nga sẽ tham chiến để bảo vệ đa số thân Nga ở miền đông Ukraina đang bị tấn công? Có khả năng, nhưng không hoàn toàn như vậy, khi Putin nhận ra rằng đám đông tổ hợp công nghiệp-quân sự-tân bảo thủ-Obama sẽ chào mừng điều đó và sẽ sử dụng nó, ở mức độ tối thiểu, là công cụ để tiếp tục chia rẽ Nga với các chính quyền Châu Âu, tiếp tục quân sự hóa các tay sai và đồng minh của Hoa Kỳ, củng cố sự chỉ huy của MIC [tổ hợp công nghiệp quân sự] đối với ngân sách quốc gia Hoa Kỳ. Tất nhiên lực lượng quan trọng tại quốc gia này mong muốn được chứng kiến một cuộc chiến tranh với Nga và đáng chú ý là sự phổ biến của những bình luận, phê phán và phủ nhận chính trị về sự phản ứng yếu đuối của Obama đối với “sự xâm lược” của Nga (e.g., David Sanger, “Obama Policy Is put to Test: Global Crises Challenge a Strategy of Caution,” NYT, 17.3.2014). Nhưng rõ ràng là Putin vẫn chưa cắn câu.

Đáp lại sức ép từ các thể chế đầy quyền lực hiếu chiến và gây chiến Hoa Kỳ, Obama đã mạo hiểm lên án Nga và nhanh chóng loại Nga ra khỏi nhóm G-8, áp đặt trừng phạt đối với quốc gia bất lương, gia tăng quân đội và thúc đẩy viện trợ quân sự cho các quốc gia gần với Nga dựa trên cáo buộc về sự đe dọa của Nga, triển khai huấn luyện và tập trận quân sự với các đồng minh và tay sai đó, đảm bảo với họ về tính thiêng liêng trong những đóng góp của chúng ta đối với với an ninh của họ, thúc đẩy các quốc gia và các đồng minh chủ yếu gia tăng ngân sách quân sự. Có một điều mà ông ta vẫn chưa làm là kiềm chế các tay sai ở Kiev trong việc xử lý những người nổi dậy ở miền đông. Một điều khác là lôi kéo Putin vào việc tạo dựng một giải pháp. Putin đã nhấn mạnh tầm quan trọng của trật tự hợp hiến của một liên bang Ukraina mà trong đó Ukraina chấp nhận sự tự trị của các tỉnh miền đông. Đã có hội nghị Geneva và tuyên bố chung vào ngày 17 tháng 4, trong đó tất cả các bên cam kết giảm xung đột, tước vũ khí những lực lượng phi chính quy và cải cách hiến pháp, nhưng điều đó là chưa đủ mạnh, không có cơ chế áp thực thi và không có hiệu lực. Điều kiện quan trọng nhất trong việc giảm xung đột là chấm dứt chương trình bình định của Kiev ở miền đông Ukraina. Điều đó đã không diễn ra, bởi vì Obama không muốn nó diễn ra. Trên thực tế, ông ta cho rằng tình hình phụ thuộc vào việc Nga kiềm chế những người ly khai ở miền đông Ukraina và ông ta đã buộc các con rối G-7 phải đồng ý đặt ra thời hạn một tháng để Nga làm điều đó hoặc phải đối mặt với nhiều sự trừng phạt hơn. 

Tình huống này gợi nhớ đến phân tích của Gareth Porter về “những hiểm họa của địa vị thống trị”, trong đó ông ấy lập luận rằng cuộc chiến Việt Nam đã nổ ra và trở nên rất lớn bởi vì các quan chức Hoa Kỳ nghĩ rằng ưu thế vượt trội về quân đội của họ sẽ buộc Bắc Việt Nam cùng với đồng minh ở miền nam phải đầu hàng và chấp nhận các điều kiện của Hoa Kỳ - quan trọng nhất là miền nam Việt Nam do Hoa Kỳ kiểm soát – khi quân sự leo thang và người Việt Nam phải chịu đựng thiệt hại gia tăng (Perils of Dominance: Imbalance of Power and the Road to War in Vietnam). Điều đó đã không có tác dụng. Trong bối cảnh Ukraina, Hoa Kỳ lại một lần nữa có ưu thế vượt trội về quân sự. Bằng lực lượng của bản thân và qua cánh tay NATO, họ đã bao vây Nga với các vệ tinh được tạo dựng bằng cách vi phạm lời hứa của James Baker và Hans-Dietrich Genscher đối với Mikhail Gorbachev rằng sẽ không tiến về phía đông “một inch” nào nữa, họ đã đặt hệ thống phòng thủ tên lửa ngay cạnh biên giới Nga. Giờ đây họ lại dàn xếp cuộc đảo chính ở Ukraina để dựng lên một chính quyền công khai thù địch với Nga, đe dọa cả người Ukraina nói tiếng Nga cũng như sự kiểm soát căn cứ hải quân chủ chốt của Nga ở Crimea. Hành động sáp nhập Crimea trở lại Nga của Putin là không thể tránh khỏi để tự vệ trước những nguy cơ nghiêm trọng đối với an ninh của Nga. Điều đó có thể làm chính quyền Obama bất ngờ, cũng như người Việt Nam từ chối đầu hàng đã làm chính quyền Johnson bất ngờ. Tiếp tục áp bức Việt Nam bằng leo thang quân sự đã không có tác dụng, mặc dù việc đó đã giết hại và làm bị thương hàng triệu người và chặn đứng con đường phát triển của người Việt Nam. Tiếp tục và mở rộng các hoạt động chống Nga trong năm 2014 có thể có những nguy cơ nghiêm trọng đối với những kẻ xâm lược thực sự và thế giới, nhưng lại có lợi ích rõ ràng đối với Lockheed và các thành viên khác của MIC.

Bổ sung ngày 25.08.2014:

Nếu ai đó xem lại các công trình nghiên cứu của Edward S. Herman thì sẽ phát hiện ra tiêu đề "War is our business and business looks good" muốn ám chỉ điều gì. Trong một nghiên cứu có tiêu đề "Counter-Revolution Violence Bloodbaths in Fact and Propaganda" đã được xuất bản năm 1973, tại phần phân tích về chiến dịch Speedy Express của quân đội Mỹ ở Việt Nam vào nửa cuối năm 1968, Edward S. Herman có mô tả một chiếc trực thăng tham gia chiến dịch được sơn lên mình khẩu hiệu "Death is our business and business is good". Rõ ràng là giáo sư Herman muốn nhại lại cái khẩu hiệu chết chóc kia để phơi bày bộ mặt đẫm máu của đế quốc Hoa Kỳ.